Saturday, November 14, 2020

SÁNG CHẾ RA TRUNG QUỐC (Ch. 1: Tên TQ)

 Chương 1

SÁNG CHẾ RA TÊN TRUNG QUỐC

Zhongguo - Trung Quốc


 

Tám bước may mắn đã đưa Tập Cận Bình (TCB) lên sân khấu ở Đại lễ đường Nhân dân; ba lính kèn thổi hồi kèn báo trước việc ông bước lên đài quyền lực khu vực. Từ trên cao, với vẻ tẻ nhạt quen thuộc, TCB có thể nhìn xuống 66 vị đứng đầu chính phủ, một số người đứng đầu các tổ chức quốc tế cùng với một ít người hôn phối của họ đang chờ đợi ở bàn trên cùng. Phía sau họ, 126 chiếc bàn nhỏ hơn kéo dài tới các góc xa của căn phòng, xung quanh có hơn 1 000 thành viên các phái đoàn nước ngoài. TCB đứng một mình ở điểm đỉnh của sự bố trí. Hầu như không cần phải nhấn mạnh hơn nữa tính trung tâm của Trung Quốc nhưng dù sao các nhà thiết kế đã làm như vậy. Sân khấu được bao bọc bởi một cặp cảnh dựng lại khổng lồ: tổng hợp các điểm mốc và các tượng đài từ Con đường Tơ lụa xa xưa, cảnh quan khô cằn của chúng tương phản với cách trưng bày bông hoa công phu ở bàn trên cùng. Giữa các thực khách, những con thiên nga dạo chơi trên ao hoa súng, những con công sải bước qua những khu vườn nhỏ nhắn và những chú chim bồ câu cất cánh từ những khu rừng thanh tú.


Đó là ngày 26 tháng 4 năm 2019, bữa tiệc khai mạc của Diễn đàn Vành đai và Con đường lần thứ hai tại Bắc Kinh. Cùng với việc đưa ra những từ ngữ đẹp đẽ về hợp tác khu vực, TCB muốn nói về lịch sử. Trong hàng thiên niên kỉ, Con đường Tơ lụa đã chứng kiến ​​cách các nước tạo ra sự phát triển và thịnh vượng thông qua thương mại và làm giàu nền văn hóa của họ thông qua trao đổi, ông nói với các phái đoàn. 'Đối mặt với vô số thách thức hiện nay, chúng ta có thể rút ra sự khôn ngoan từ lịch sử của Con đường Tơ lụa, tìm thấy sức mạnh trong hợp tác cùng được lợi trong thời đại ngày nay và xây dựng quan hệ đối tác trên toàn cầu để cùng nhau mở ra một tương lai tươi sáng hơn, trong đó tất cả đều cùng chia sẻ sự phát triển.’

1. Nghi lễ triều cống thời hiện đại. Tổng Bí thư Tập Cận Bình nâng cốc chúc mừng các nhà lãnh đạo thế giới tại bữa tiệc chào mừng Diễn đàn Vành đai và Con đường ở Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 26 tháng 4 năm 2019.

bản cụ thể của lịch sử, làm cơ sở cho các sự kiện như thế này. Qua dàn dựng và hô hào, Tập Cận Bình thể hiện Trung Quốc như nước lãnh đạo tự nhiên của khu vực Đông Á và có lẽ vượt ra khỏi đó. Cách ví von về Con đường Tơ lụa được triển khai như một công cụ ngoại giao: cuối cùng, mọi con đường của nó đều dẫn đến Bắc Kinh. Trớ trêu thay, công cụ này lại là một sáng chế của châu Âu. Cái tên 'Con đường tơ lụa' có lẽ được đặt ra lần đầu tiên bởi nhà địa lí học người Đức thời kì đầu, Carl Ritter, vào năm 1838, được một nhà địa lí khác, Ferdinand von Richthofen, áp dụng vào năm 1877 và được một nhà thám hiểm người Thụy Điển, Sven Hedin, phổ biến vào những năm 1930. Dường như chẳng điều nào trong số đó khiến TCB bận tâm. Trong phiên bản lịch sử chính thức của Bắc Kinh, Con đường Tơ lụa là bằng chứng về vị trí trung tâm vưng chãi của Trung Quốc. Vị trí chính đáng của nó luôn là đỉnh cao của chính trị khu vực. Đây là trật tự lịch sử tự nhiên và đó là cách mọi thứ sẽ diễn ra trong tương lai.
1. Nghi lễ triều cống thời hiện đại. Tổng Bí thư Tập Cận Bình nâng cốc chúc mừng các nhà lãnh đạo thế giới tại bữa tiệc chào mừng Diễn đàn Vành đai và Con đường ở Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 26 tháng 4 năm 2019.


Lịch sử, hay đúng hơn là một phiên bản cụ thể của lịch sử, làm cơ sở cho các sự kiện như thế này. Qua dàn dựng và hô hào, Tập Cận Bình thể hiện Trung Quốc như nước lãnh đạo tự nhiên của khu vực Đông Á và có thể vượt khỏi đó. Cách ví von về Con đường Tơ lụa được triển khai như một công cụ ngoại giao: cuối cùng, mọi con đường của nó đều dẫn đến Bắc Kinh. Trớ trêu thay, công cụ này lại là một sáng chế của châu Âu. Cái tên 'Con đường tơ lụa' có lẽ được đặt ra lần đầu tiên bởi nhà địa lí người Đức thời kì đầu, Carl Ritter, vào năm 1838, được một nhà địa lí khác, Ferdinand von Richthofen, dùng vào năm 1877 và được một nhà thám hiểm người Thụy Điển, Sven Hedin, phổ biến vào những năm 1930. Dường như chẳng điều nào trong số đó khiến TCB bận tâm. Trong phiên bản lịch sử chính thức của Bắc Kinh, Con đường Tơ lụa là bằng chứng về vị trí trung tâm vững chãi của Trung Quốc. Vị trí chính đáng của nó luôn là đỉnh cao của chính trị khu vực. Đây là trật tự lịch sử tự nhiên và đó là cách mọi thứ sẽ diễn ra trong tương lai.

Nhưng cái nhìn về Trung Quốc mà TCB tung ra ​​tại các sự kiện như thế này là một sự pha trộn chính trị. Trong chương I này tôi sẽ cố gắng cho thấy rằng nó cũng nhờ vả vào các hình ảnh châu Âu nhiều như các ý tưởng của Trung Quốc về chính mình. Giống như cụm từ 'Con đường tơ lụa' khởi đầu là cụm từ của người châu Âu, khi áp đặt một trật tự tưởng tượng lên một lịch sử phức tạp và hỗn loạn hơn nhiều, ngay cái tên 'China' cũng đã được người phương Tây chọn lấy và cho những ý nghĩa mới, sau đó được truyền ngược trở lại Đông Á. Qua nhiều thế kỉ, người châu Âu đã phát triển cách nhìn về một nơi mà họ gọi là 'China' dựa trên những thông tin vụn vặt do các nhà thám hiểm và linh mục gửi về quê hương và sau đó được những người kể chuyện và các nhà phương Đông học khuếch đại. Trong đầu óc người châu Âu, ‘China’ trở thành một quốc gia cổ, độc lập, liên tục chiếm một phần xác định của Đông Á lục địa.


Trên thực tế, không có nước nào được gọi là 'China' trong thời kì này. Thật ra, từ năm 1644 đến năm 1912, 'China' là thuộc địa của một đế chế Nội Á: Đại quốc Thanh. Nhà Thanh đã tạo ra một vương quốc đa chủng tộc, mà 'Trung Quốc thuần túy’ - tức là 15 tỉnh của nhà Minh bại trận - chỉ là một phần của nó. Nhà Minh trước đó tồn tại gần 300 năm nhưng nó cũng không sử dụng cái tên Trung Quốc. Trước nhà Minh, những lãnh thổ đó là một phần của Đại quốc Mông Cổ trải dài đến tận Địa Trung Hải: Đông Á chỉ là một phần lãnh thổ của nó. Trước người Mông Cổ, chúng bị các nước đối địch Tống, Hạ và Liêu kiểm soát. Những nước này choán nhiều phần lãnh thổ mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Quốc và đến lượt chúng, chúng lại khác biệt với các nước manh mún tồn tại trước đó.


Mỗi nước khác nhau về phạm vi lãnh thổ và thành phần dân tộc nhưng mỗi nước cần thể hiện chính mình là nước kế thừa hợp pháp cho nước trước nó. Do đó, để giữ được lòng trung thành của quan lại, và dân chúng lớn hơn, mỗi tầng lớp lãnh đạo mới cần phải tiếp tục với truyền thống. Để nhận được 'thiên mệnh' cần thiết, họ phải nói theo những cách nhất định và thực hiện các nghi lễ được mong đợi của một giai cấp thống trị. Trong một số thời đại nhất định, điều này có thể là niềm tin đích thực, trong những thời đại khác, nó trở thành sân khấu chính trị nhưng trong một số thời đại, nó lại trở thành sự lừa dối hoàn toàn. Người Mông Cổ và giới tinh hoa nhà Thanh với bên trong vẫn giữ văn hóa Nội Á của họ trong khi với bên ngoài thể hiện chính họ - ít nhất là đối với một bộ phận tôi thần của họ - như là những người thừa kế truyền thống cai trị  Sinitic ([kiểu] Trung Hoa). Vậy thì 'China' ở đâu? Nói vắn tắt, nó chỉ tồn tại như một quốc gia thống nhất và xác định trong trí tưởng tượng của người nước ngoài. Cho đến cuối thế kỉ 19, những người cai trị ở Bắc Kinh thậm chí còn không công nhận cái tên 'China'. Đáng nói hơn, họ sẽ không hiểu được ý nghĩa được thể hiện qua cách sử dụng từ này của người nước ngoài.


Các nhà tư tưởng phương Tây đã ưu ái cho 'China' của họ nhiều hơn các hình thái chính trị khác trong khu vực và quảng bá nó, về mặt khái niệm, hơn vùng nội địa của nó. Trong óc họ, ‘China’ là đầu tàu năng động của khu vực trong khi Nội Á chỉ quan trọng khi đám người trên lưng ngựa của vùng này tràn vào Trung Quốc cưỡng hiếp và cướp bóc. Trong mắt người châu Âu, 'China' hiện diện thường xuyên trên sàn diễn  lịch sử trong khi người Nội Á bị thu nhỏ vào việc giữ những phần 'cưỡi ngựa' lặp đi lặp lại trước khi rút vào thùng rác của lịch sử. Do đó, ‘Con đường tơ lụa’ cũng vậy. Trung Quốc được coi là đầu tàu thương mại còn các nước Nội Á chỉ đơn thuần là hành lang mà nó đi qua. Vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, ý tưởng về một ‘China’ ưu việt này đã du hành từ châu Âu sang Đông và Đông Nam Á và tìm thấy một chỗ ở mới trong các cuộc thảo luận riêng và trong các tạp chí công khai của giới trí thức nhà Thanh. Đó chủ yếu là những người đã đi ra nước ngoài và có thể ngoái nhìn về quê hương từ xa. Từ nơi lưu vong hay tạm trú, họ cũng bắt đầu hình dung ra một nơi được gọi là 'China', giống như người phương Tây. Vào lúc họ trở về quê hương và truyền bá cách nhìn mới này về một quốc gia - một mảnh lãnh thổ xác định với một lịch sử liên tục - trong một dân số háo hức tìm những ý tưởng mới để giải quyết một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Chìa khóa cho sự tiến triển trong lối  suy nghĩ này là một cuộc tranh luận về cái tên của đất nước.


Ngày nay, TCB và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc sử dụng hai cái tên cho đất nước họ trong phát biểu chung: Trung QuốcTrung Hoa. Zhongguo (Trung Quốc) và Zhonghua (Trung Hoa).Trong từ nguyên của chúng, cả hai cái tên đều khẳng định về quyền tối cao trong khu vực. Cả hai đều được dịch sang tiếng Anh là 'China' nhưng chúng mang những ý nghĩa đặc thù trong tiếng Trung. Trung Quốc theo nghĩa đen là 'nước trung tâm' của một hệ thống thứ bậc về chính trị được lý tưởng hóa. Trung Hoa theo nghĩa đen là ’sự nở hoa ở trung tâm', nhưng nghĩa bóng bẩy hơn của nó là ‘trung tâm của nền văn minh', một sự khẳng định về ưu thế văn hóa so với những người man di ở nội địa. Hai từ này có nguồn gốc lịch sử sâu xa nhưng chỉ đến cuối thế kỉ 19 chúng mới được sử dụng làm tên gọi chính thức cho nước này. Chúng chỉ trở thành tên của nó do sự chuyển đổi ý tưởng về đất nước, dưới ảnh hưởng của các ý tưởng phương Tây về dân tộc (nation) và quốc gia (state). Trong quá trình này, ý nghĩa của hai cái tên đó đã thay đổi sâu sắc. Sau đây là câu chuyện về hai cái tên đó.


Dọc theo bờ biển Quảng Đông và Phúc Kiến, các thương nhân và trí thức địa phương đã chào đón Galeote Pereira. Ông bán cho họ gỗ đàn hương và gia vị của Indies với giá rẻ và sau đó trả gấp đôi giá thị trường cho lương thực và hàng hóa mà ông mang lên tàu. Một người lính lịch lãm xuất thân từ một gia đình quý tộc, có quan hệ với các tầng lớp cao nhất của xã hội Bồ Đào Nha, Pereira là một người tốt để giao dịch làm ăn. Ông ltiêu biểu cho làn sóng đầu tiên người châu Âu thám hiểm Đông Á: kết hợp lợi ích đế quốc với tự tiến thân và một chút truyền đạo Công giáo. Trong thập kỉ kể từ khi rời quê hương, Pereira đã là một thương gia ở Ấn Độ, một lính đánh thuê ở Xiêm La và đến năm 1548 thì đi lại giữa Malacca và các điểm về phía đông buôn bán các mặt hàng xa xỉ của Đông và Đông Nam Á.


Tổng đốc các tỉnh và triều đình nhà Minh ở Bắc Kinh xa xôi rất ghét Galeote Pereira. Đối với họ, ông là một tay buôn lậu nước ngoài, nhập hàng lậu bất chấp lệnh cấm dành riêng cho người fo-lang-ji (佛郎机; phật-lang-cơ)- 'Frankish' (một từ vay mượn các thương gia Ả Rập) người châu Âu - không được buôn bán. Hai thập kỉ trước, sự thiếu hiểu biết của người Bồ Đào Nha về nghi thức ngoại giao của nhà Minh, và sự kiêu ngạo của họ khi đối mặt với chính quyền, đã khiến họ bị cấm trên cả nước. Giờ đây Pereira và những người khác đang chơi trò chơi mèo vờn chuột: buôn bán với các thương nhân địa phương trong khi trốn lánh chính quyền trung ương giữa hàng ngàn hòn đảo bao quanh bờ biển giữa các thành phố mà họ gọi là Amoy và Liampo (Hạ Môn và Ninh Ba ngày nay ).


Ngày 19 tháng 3 năm 1549, mèo đã bắt được chuột. Tổng đốc Phúc Kiến và Chiết Giang, một người có vẻ trung thực tên là Zhu Wan (朱紈: Chu Hoàn), đã ra lệnh cho lực lượng tuần duyên tỉnh mình triệt phá buôn lậu. Họ bắt được Pereira, và hai tàu dưới sự chỉ huy của ông ta, đang ẩn náu trong khu neo đậu yên tĩnh của Zoumaxi (走馬溪: Tẩu Mã khê)- 'lạch Tẩu Mã', ở đâu đó gần Hạ Môn. Họ chở hết nhân viên trên tàu đến nhà tù ở tỉnh lị Phúc Châu. Tại đó, theo lệnh của Chu Hoàn, 96 người trong số họ, chủ yếu là những kẻ lang thang địa phương, đã bị hành quyết.


Nhưng sự tận tụy thực thi luật pháp của Chu Hoàn đã khiến tất cả những người có địa vị ở địa phương - 'tầng lớp áo mão' - những người được hưởng thành quả của việc buôn lậu, xa lánh. Để bảo đảm nguồn cung cấp hàng lậu của mình, họ đã âm mưu với những người có quan hệ tại triều đình để luận tội Chu Hoàn vì đã vượt quá quyền hạn của mình: các vụ hành quyết đáng lẽ không nên được thực hiện nếu không có sự chấp thuận chính thức của Bắc Kinh. Kết quả là, các cáo buộc chống lại người Bồ Đào Nha đã được bãi bỏ và Chu Hoàn bị kết tội tham ô. Pereira và những bạn cùng tàu còn sống sót đã được tuyên các bản án nhẹ trong khi Chu Hoàn tự tử.


Pereira có lẽ đã trải qua hai hoặc ba năm dưới nhiều hình thức giam giữ nhưng trong điều kiện ngày càng trở nên thoải mái và dễ chịu hơn. Rốt cuộc là ông ta đã có thể mua chuộc theo cách của mình để được tự do. Chúng ta biết rằng ông đã được tự do vào ngày 27 tháng 2 năm 1553 do ông có tham dự lễ cải táng của Francis Xavier - một trong những người sáng lập Hiệp hội Chúa Giê-su - trên đảo Thượng Xuyên, ngay dưới  bờ biển Hong Kong ngày nay. Đây là một khu định cư nhỏ của người Bồ Đào Nha - chỗ đặt chân cho cả việc truyền đạo và buôn lậu - mà giới thượng lưu địa phương đã dung túng và cố giữ bí mật với triều đình ở Bắc Kinh. Xavier tin rằng có tiềm năng to lớn cho nhóm truyền giáo Dòng Tên của mình ở phương Đông vì dường như ông không có chút e ngại nào khi làm việc với những người có động cơ tài chính hơn là tinh thần vì cả hai cánh của chủ nghĩa đế quốc Bồ Đào Nha đều cố gắng tăng thị phần của họ.


Khi Pereira trở về với đồng hương của mình, ông đã viết điều trở thành một trong những câu chuyện đầu tiên về cuộc sống dưới triều Minh vươn tới công chúng châu Âu. Các mô tả của ông, không ngạc nhiên, tập trung vào nhà tù và hình phạt, đồng thời bao gồm những lời chỉ trích về việc thờ ngẫu tượng và thói hủ lậu ('lỗi lớn nhất mà chúng tôi thấy trong số đó'). Tuy nhiên, ông đã rất khen ngợi về chất lượng cầu đường mà ông có đi qua, về những chiếc đũa hợp vệ sinh và về những khu nhà lớn và xa hoa của những người giàu có. Tuy nhiên, ông đã làm rối tắm về một chi tiết có vẻ gây tò mò cho những người châu Âu từng đi thuyền tìm kiếm đất nước bí ẩn mà họ gọi là 'China'.


Chúng ta quen gọi đất nước này là China, và những người dân là Chin; nhưng chừng nào còn trong tù không nghe họ nói với nhau cái tên đó bất cứ lúc nào, tôi quyết tâm tìm hiểu xem họ được gọi như thế nào... Tôi đã trả lời cho họ rằng tất cả cư dân Ấn Độ đều gọi họ là người Chin... Sau đó tôi hỏi họ cả đất nước này mang tên là gì... Tôi được cho biết rằng vào thời cổ xưa trên đất nước này có nhiều vị vua, và mặc dù hiện nay tất cả đều dưới quyền một [vua], tuy nhiên mỗi vương quốc vẫn thích cái tên nó có lần đầu tiên: những vương quốc là các tỉnh... Kết luận, họ nói rằng cả đất nước được gọi là Tamen (Đại Minh) và cư dân là Tamenjin (Đại Minh nhân) vì vậy ở đất nước đó cái tên China hoặc Chin không được nghe nói đến.3


Nói cách khác, người Trung Quốc không tự gọi mình là Chinese (người Trung Quốc), cũng không gọi đất nước của họ là 'China'. Thay vì vậy, họ gọi là Tamen - hoặc, như chúng ta có thể viết ngày nay, Da Ming, dịch là 'Đại Minh'. Họ tự gọi mình là Tamenjin - hay Da Ming Ren (Đại Minh nhân), ‘người Đại Minh'. Những người mà Pereira gặp có vẻ không xác định mình thuộc một nhóm chủng tộc hay một lãnh thổ nào mà chỉ là thần dân của một triều đại cai trị. Địa danh duy nhất mà họ đề cập đến là thị trấn và tỉnh mà họ sống, không phải tên cái đất nước mà Pereira cho rằng tất cả họ đều thuộc về.


Trong vòng vài thập kỉ, vào cuối thế kỉ 16, các thương nhân và giáo sĩ Bồ Đào Nha đã biết thích ứng tốt hơn Pereira. Họ đã đổi trấn Thượng Xuyên lấy một trấn lớn hơn một chút ở Macao và phái đoàn truyền giáo Francis Xavier hi vọng đạt kết cục tốt. Các tu sĩ Dòng Tên bây giờ được chào đón ở triều đình. Thay vì bị giam cầm, nhà khoa học linh mục Matteo Ricci đã trở thành người châu Âu đầu tiên bước vào Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Các quan chức bị cuốn hút bởi khả năng dự đoán nhật thực và chuyển động của các hành tinh, mặc dù hoàng đế không chấp nhận gặp ông, Ricci được coi như một vị khách danh dự, được ban cấp đất để xây nhà thờ và trở thành một cố vấn không chính thức cho triều đình.


Ricci ban đầu cũng bị hấp dẫn bởi vấn đề tương tự như Pereira - việc thiếu tên nước, nhưng sau vài năm sống ở đất nước này, ông đã lưu ý trong nhật kí rằng, 'Không có gì lạ đối với chúng tôi rằng người Trung Quốc sẽ chẳng bao giờ có nghe nói về nhiều loại tên gọi mà người ngoài đặt cho đất nước của họ và họ hoàn toàn không biết về sự tồn tại của chúng.... Chính một thói quen từ xa xưa ở đất nước này mà quyền cai trị thường được truyền từ một dòng họ này sang dòng họ khác, đất nước phải được đặt một cái tên mới theo vị vua sắp bắt đầu cai trị.' So với châu Âu của chính họ gồm các quốc gia-dân tộc mới xuất hiện, Pereira và Ricci đã khám phá ra một cách rất khác để mô tả về lòng trung thành chính trị. Dân Đại Minh’ là thần dân của một triều vua. Không có ý thức về việc sống ở 'China' hay là một phần của dân tộc ‘Chinese’.


Nhưng Ricci cũng lưu ý rằng 'trong chính người Trung Quốc... ngoài cái tên sẽ được gọi khi có vua mới, đất nước này còn có một danh hiệu đã có từ lâu đời và đôi khi có  những tên khác được ghép vào danh hiệu này. Ngày nay chúng ta thường gọi đất nước này là Ciumquo  hoặc Ciumhoa, từ đầu tiên có nghĩa là vương quốc, và từ thứ hai nghĩa là khu vườn. Khi ghép lại với nhau, hai từ này được dịch là "Ở trung tâm". 'Trong thời hiện đại, chúng ta phiên âm Ciumquozhong guo (trung quốc) và Ciumhoazhong hua (trung hoa). Nhưng Ricci hiểu rằng trung quốc không thật sự là tên của đất nước mà là một tuyên bố về thứ bậc chính trị. ‘Người Trung Quốc... tưởng tượng rằng thế giới là phẳng và Trung Quốc nằm ở giữa.... Một số vương quốc tiếp giáp với nước của họ … hầu như không đáng được xét tới, theo đánh giá của họ.’4 Những từ này vẫn còn với chúng ta. Trung QuốcTrung Hoa là hầu như có thể thay thế cho nhau theo cùng cách như các từ 'United Kingdom' (Vương quốc Anh) và 'Britain' (Anh) hoặc 'United States’ (Hoa Kì) và 'America' (Mĩ) là những cách chính thức và không chính thức nói về cùng một chỗ.


Cụm từ 'trung quốc' (中國: nước ở giữa) có nguồn gốc lâu đời: nó được tìm thấy khắc trên 'xương thần' được phát hiện ở tỉnh Hà Nam ngày nay và có từ thời nhà Thương (1600-1000 TCN). Một vài thế kỉ sau đó, trong giai đoạn được gọi là 'thời Đông Chu' - khoảng 2 500 năm trước (770-221 TCN) - trung quốc được dùng để chỉ các nước phong kiến ở 'trung nguyên’, vùng đồng bằng trung tâm ở lưu vực sông Hoàng Hà, phía tây và phía nam của Bắc Kinh. Gộp chung, chúng là ‘các nước trung tâm' - trung quốc. Nhưng Richard J. Smith, một trong những chuyên gia hàng đầu về ngành vẽ bản đồ Trung Quốc, lưu ý rằng trong thời kì đó, cụm từ này thực ra có ba nghĩa liên kết với nhau: như một địa điểm, như một nền văn hóa và như một hệ thống chính trị.5 Cuốn sách thế kỉ thứ 5 TCN ‘Sách lược của các nước đánh nhau’ (Chiến quốc sách) ghi nhận rằng:


Trung quốc là nơi mà những người thông minh và sáng suốt trú ngụ, nơi mà vô số sinh vật và dụng cụ hữu ích tụ họp, nơi mà các nhà hiền triết và thánh hiền chỉ dạy, nơi mà lòng nhân từ và cách cư xử đúng đắn được thể hiện ra, nơi mà các sách Thi, Sử, Lễ và Nhạc được sử dụng, nơi mà những ý tưởng và nhiều kĩ thuật khác nhau được thử nghiệm, nơi mà những người ở xa đến quan sát, và nơi mà ngay cả bọn Man Di (không phải người Trung Quốc) cũng thể hiện cách ứng xử thích đáng.


Nói cách khác, trung quốc là một nơi có nền văn hóa đặc biệt mà ngày nay chúng ta có thể gọi là '[có tính] Trung Quốc’ hay chính xác hơn là ‘Sinitic'.


17 thế kỉ sau, các tác giả thế kỉ 12 dưới triều nhà Tống đã sử dụng từ trung quốc để khẳng định bản sắc khi đối mặt với những mối đe dọa từ những kẻ xâm lược Nội Á. Nó vừa là một địa điểm hiện thực, một trung tâm cũ, vừa là một kí ức văn hóa. Nhà Tống tự coi mình là người trấn giữ trung quốc ngay cả sau khi họ đã mất quyền kiểm soát lãnh thổ thực tế của trung nguyên vào tay người Mông Cổ. Tuy nhiên, điều quan trọng là họ không gọi nước của họ là Trung Quốc. Họ gọi nó là Đại Tống Quốc - nước Đại Tống - theo chính triều đại họ. Hai thế kỉ sau, khi Chu Nguyên Chương, sáng lập ra nhà Minh, tự xưng là vua đã đánh bại quân Mông Cổ, ông tuyên bố: 'Trẩm hiện là vua của trung quốc và cả thiên hạ đều được thái bình.’ Nhưng ông cũng không gọi đất nước của mình là ‘Trung Quốc'. Cũng vậy, ông gọi nó theo triều đại của mình: 'Đại Minh Quốc' - nước Đại Minh.


Sự kiện cụm từ 'trung quốc' đã được sử dụng trong quá khứ xa xôi và là cái tên cho Trung Quốc ngày nay đã khiến các nhà sử học theo chủ nghĩa dân tộc khẳng định rằng ‘Trung Quốc' đã là một quốc gia liên tục trong suốt 3, thậm chí 5 thiên niên kỉ. Một cái nhìn khôn ngoan hơn về các bằng chứng cho thấy không đúng như vậy. Những từ này đã trải qua những chuyến du hành dài trong không gian và qua thời gian trước khi có nghĩa như chúng có ngày nay. Peter Bol, giáo sư tiếng Trung tại Đại học Harvard, lập luận rằng yếu tố nhất quán thông qua việc sử dụng ngắt quãng của từ này trải dài hơn 3 000 năm không phải để gọi tên cho một nước cụ thể mà là để duy trì ý thức khác biệt về văn hóa giữa những người bên trong trung quốc và những bên ngoài nó: người Man Di.6 Trung Quốc không có ý định được dùng để làm tên của một quốc gia mà là một khẳng định  về tính chính đáng. Một số tác giả đã dịch cụm từ này là 'vương quốc ở giữa' nhưng điều đó khiến nó nghe giống như cho người sống trong hang. Cách dịch tốt hơn nhiều là 'nước trung tâm ' hoặc thậm chí 'trung tâm thế giới' vì nó thực sự là một mô tả về hệ thống thứ bậc chính trị giữa 'chúng ta' ở bên trong và 'bọn chúng’' ở bên ngoài.


Như chúng ta sẽ thấy, các từ  'trung quốc' và ‘trung hoa' đã được những người theo chủ nghĩa dân tộc hiện đại hồi sinh và cho nó ý nghĩa mới vào cuối thế kỉ 19. Những nhà tư tưởng này đã xây dựng một cách nhìn mới về quá khứ liên kết các giai đoạn khác hẳn nhau lại với nhau để xây dựng một lịch sử trong đó Trung Quốc dường như có một sự hiện diện thường trực. Câu chuyện phức tạp và thú vị hơn thế và nó tiết lộ nhiều điều về lí do tại sao Trung Quốc lại theo cách như nó là ngày nay.


Thế thì cái tên tiếng Anh ‘China" bắt nguồn từ đâu? Cách giải thích phổ biến nhất cho cái tên ‘China’ là nó có nguồn gốc từ triều Qin (Tần) cổ xưa (phát âm là 'chin') vốn được hình thành như một thái ấp nhỏ ở nơi hiện nay là tỉnh Cam Túc, ở phía tây bắc của Trung Quốc hiện đại. Nhà Tần ban đầu lấy tên mình từ một vùng đất nhỏ được ban cho vào năm 987 TCN.7 Trong 6 thế kỉ, nhà Tần cai quản một trong số các 'chiến quốc' nằm trên các vùng đất dọc theo sông Hoàng Hà và các phụ lưu của nó. Vương triều dần dần mở rộng khu vực dưới sự cai trị của mình nhưng chưa bao giờ ở vị thế thống trị cho đến khi vua Zheng (Chính) cuối cùng đã chinh phục được đối thủ cuối cùng vào năm 221 TCN.


Là một kiểu người cai trị mới, với lãnh thổ chiếm trọn (dù trong thời gian ngắn) vùng trung nguyên và vùng hạ lưu của cả hai sông Hoàng Hà và Dương Tử, Vua Chính đã chọn một tên hiệu mới: Thủy Hoàng Đế, hay 'hoàng đế khởi đầu'. Muốn được bất tử, ông đã xây một lăng mộ gần nơi mà ngày nay là thành phố Tây An và bao quanh là một đội quân các chiến binh đất nung. Nhưng nhà Tần tồn tại lâu hơn bản thân vua Chính một chút. Trong vòng 4 năm sau khi ông qua đời, những người kế vị của ông đã bị Lưu Bang, một quan cũ của nhà Tần trở thành thủ lĩnh nổi dậy, lật đổ, ông này đã chiếm lấy ngai vàng, tạo ra triều đại của riêng mình và gọi nó là nhà Hán. Khi nhìn lại, nhà Tần đã được coi là triều đại cai trị đầu tiên thống nhất lãnh thổ cốt lõi của Trung Quốc hiện đại. Nhưng mặc dù nghe có vẻ như một bước nhảy dễ dàng từ ‘Qin’ sang 'China', không có bằng chứng nào cho thấy cái tên triều đại Tần đã từng thực sự được sử dụng làm tên của lãnh thổ. Trên thực tế, có bằng chứng đáng kể cho điều ngược lại.


Giáo sư người Ấn Độ về Trung Quốc học Haraprasad Ray đã lập luận rằng trong các bản viết tay tiếng Phạn có từ trước thời nhà Tần có một số chỗ đề cập đến một nơi gọi là 'Cina'. Sách Vayupurana, được cho là đã được viết vào thế kỉ 5 đến thế kỉ 4 TCB, có nói tới những người từ ‘Cina' đến. Sách Matsyapurana, được soạn từ thế kỉ 4 TCN, chẳng hạn, khẳng định rằng những người 'Cina’ này không phù hợp để thực hiện các nghi lễ liên quan đến cái chết và chôn cất. 'Cina' cũng xuất hiện trong hai bộ sử thi lớn của người Hindu, Mahabharata Ramayana, được viết lần lượt vvào thế kỉ 4 và sau 3 TCN. Một chuyên luận chính trị thế kỉ 4 TCN, Arthasastra, có nêu ‘Cina' và Susruta, một hướng dẫn y tế thế kỉ 4 TCN, mô tả ‘vải Trung Quốc' - Cinapatta - là có ích cho việc băng bó. Do đó, trong sách vở tiếng Phạn, 'Cina ', dùng để chỉ một nơi trong hoặc ngay bên ngoài dãy Himalaya, dường như có trước thời nhà Tần.


Ray đã theo dõi công trình nghiên cứu của học giả Trung Quốc Su Zhongxiang (蘇仲翔: Tô Trọng Tường), ông này đã thu thập một lượng lớn bằng chứng để lập luận cho cùng luận điểm này. Tường lập luận rằng, có vẻ lạ lùng đối với những người nói tiếng Anh, nguồn gốc chính xác của cái tên 'Cina' là nước ‘Jing' (Kinh) xưa hơn nhiều, còn được gọi là Chu (Sở) trong sách vở tiếng Trung. Cách phát âm đã thay đổi qua nhiều thế kỉ và mối liên hệ ngữ âm giữa ‘Jing' và 'Cina' bây giờ có vẻ hơi xa cách dù đã từng gần gũi hơn nhiều. Vùng đất trung tâm Kinh/Sở nằm ở nơi ngày nay là tỉnh Hồ Bắc và có liên hệ với người Miêu, một tộc người mà các nhà sử học thời Hậu Hán mô tả là bọn phiên 'man rợ' bên ngoài (Di).8


Học giả người Úc Geoff Wade đã lập luận rằng khi du di chút ít về ngôn ngữ có thể chuyển nguồn gốc của từ 'Cina' qua một nhóm chủng tộc khác. Một tộc người miền núi ở tỉnh Vân Nam, Tây Nam Trung Quốc ngày nay được biết đến với cái tên 'Yelang’ (Dạ Lang). Tuy nhiên, họ lại có một bộ sưu tập các bài sử thi có từ thế kỉ 5 TCN, trong đó họ tự miêu tả mình là ‘Zhina'. Wade lưu ý rằng đây là một từ ăn khớp gần như hoàn hảo về ngữ âm với  từ 'Cina' trong tiếng Phạn. Khu vực truyền thống của nhóm này ở nơi mà ngày nay là tỉnh Vân Nam cho họ nắm quyền  kiểm soát các tuyến đường thương mại trên bộ giữa những nơi mà bây giờ Trung Quốc và Ấn Độ. Hàng hóa từ những vùng núi phía đông đi xuyên qua khu vực này đến Ấn Độ sẽ được mô tả một cách tự nhiên là từ ‘Cina' đến.


Có bằng chứng cho cả hai thuyết này nhưng vẫn chưa đi tới kết luận chắc chắn. Nếu một trong hai thuyết này là đúng thì điều trớ trêu là cái từ mà hầu hết người phương Tây hiện nay sử dụng để chỉ Trung Quốc cuối cùng lại có nguồn gốc từ những địa điểm nằm bên ngoài nơi thường được coi là vùng đất trung tâm truyền thống của Trung Quốc - bên ngoài 'trung quốc'. Tiến thêm một bước nữa, các nền văn hóa của tộc đa số ở những nơi này vào thời điểm đó không mang ‘tính Trung Quốc’ về mặt chủng tộc như từ này được định nghĩa hiện nay. Nước Kinh/Sở liên kết với tộc Miêu thiểu số và nước Yelang/Zhina thì với người Li (Lê). 'Cina' thậm chí có thể hoàn toàn không nằm bên trong 'trung quốc' chút nào! Nhưng dù chúng ta thích cách giải thích nào hơn, điều rõ ràng là không có nước 'Trung Quốc’ (‘Chinese’ state) nào sử dụng từ ‘China’ để mô tả lãnh thổ của mình trước thế kỉ 20. Lúc nào nó cũng chỉ là một cái tên do người bên ngoài sử dụng.


Nhưng, tuy nhiên nó đã nổi lên, cái tên 'China' đã đi xa: vào thế kỉ 2 CN, nhà địa lí Hi-La Ptolemy đã nói tới Sinae và Thinae trong các tác phẩm của mình, ngay cả khi ông không chắc về vị trí chính xác của chúng. Thật ra, trong cái vốn là cách ví von cho toàn bộ cuốn sách này, cái tên Trung Quốc thu được ở bên ngoài một ý nghĩa mà nó chưa từng có bên trong TQ. Ở châu Âu, nó trở thành tên của một địa điểm thần thoại: một nguồn cung cấp tơ lụa và điều kì diệu. Người châu Âu tưởng tượng ra một nơi được gọi là 'China' mà chưa từng biết nó là gì. Họ cũng nghe nói về một nơi khác ở phía đông - Cathay, cũng là một nguồn cung cấp tơ lụa và điều kì diệu nhưng dường như xa hơn về phía bắc. 'Cathay' có nguồn gốc từ cái tên 'Khitan' (Khiết Đan), người Nội Á thành lập nước Liêu từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 12 ở nơi mà ngày nay là miền bắc Trung Quốc, Mông Cổ và miền đông nước Nga. 'Cathay’ có thể tới được bằng đường bộ, trong khi “China' tới được bằng đường biển, nhưng trên thực tế, cả hai lại những cái tên cạnh tranh nhau cho cùng 'vùng đất trung tâm của Đông Á'.


Từ những năm 1500 trở đi, China/Cathay trở thành mục tiêu của các đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, sau đó là Hà Lan và Anh đến phương Đông. Nhưng khi những nhà thám hiểm như Galeote Pereira tới được đích đến của mình, họ phát hiện ra rằng 'China' không tồn tại trong dạng mà họ tưởng tượng. Tuy nhiên, 3 thế kỉ sau, ý tưởng của họ về một đất nước, một quốc gia liên tục có nguồn gốc bắt nguồn từ thời cổ xưa, đã được một bộ phận nhỏ tầng lớp ưu tú của xã hội Trung Quốc thừa nhận. Nhóm này đã chọn trở thành Trung Quốc.


Vào mùa hè năm 1689, một sứ thần của hai sa hoàng Nga, Peter I và Ivan V, đã ngồi họp với đại diện của Hoàng đế Khang Hi, vua thứ tư của nhà Thanh, bên cạnh sông Nercha ở Siberia. Người Nga ngồi trên ghế trong khi đại diện nhà Thanh thích ngồi trên gối hơn. Trong căn lều đặc biệt, cách Mátxcơva 5 000 km về phía đông và cách Bắc Kinh 1 300 km về phía bắc, họ tranh cãi xem ai có quyền khai thác các vùng đất biên cương trải dài xung quanh họ. Sự kiện này đôi khi được sử dụng để biện minh cho khẳng định rằng, ngay từ đầu thế kỉ 17, nhà Thanh đã chính thức tự xưng là 'Trung Quốc'. Tuy nhiên, khi xem xét kĩ càng hơn thì những gì đã xảy ra chứng tỏ rằng điều này sai. Thay vào đó, có nhiều bằng chứng hơn cho việc người nước ngoài sáng chế ra Trung Quốc.


Trong vài thập kỉ, những người tiên phong Nga đã khám phá và định cư ngày càng xa hơn dọc theo sông Amur và các nhánh của nó, tiếp cận những khu vực mà giới thượng lưu nhà Thanh coi là những khu vực đúng lẽ là của họ. Nhà Thanh đã chống lại và kết quả là trong suốt những năm 1890, một loạt các cuộc xung đột xảy ra. Vào cuối thập kỉ đó, quân Thanh đã dừng các cuộc xâm lấn và cả hai đế quốc đã sẵn sàng đàm phán hòa bình. Sau khi trao đổi thông điệp của hai chính phủ, một cuộc họp đã được thỏa thuận bên ngoài khu định cư Nerchinsk của Nga mới được thành lập.


Dân tộc nào là dân tộc thành lập nước Thanh ? Họ là một dân tộc gốc ở vùng đông bắc Trung Quốc ngày nay và họ nói một ngôn ngữ vùng Siberia: tiếng Mãn. Vào năm 1644, họ đã đi khỏi quê hương lạnh giá của họ và chiếm lấy nước Đại Minh. Họ là những người từ bên ngoài trung quốc nhưng họ nhanh chóng nhận ra rằng nếu họ muốn cai trị lãnh địa cũ của nhà Minh thành công họ phải áp dụng một số kĩ thuật của các triều đại trước đó. Tuy nhiên, ngay cả khi họ đã làm như vậy, họ vẫn là người Mãn. Họ tiếp tục cai trị theo kiểu Nội Á, mà sử gia người Mỹ Pamela Crossley gọi là cai trị đồng thời (simultaneous ruling).9 Mỗi phần của đại quốc được cai trị một cách khác nhau, theo cách được cho là phù hợp về mặt văn hóa. Tuy nhiên, ở trung tâm của nó, tiếng nói và chữ viết Mãn vẫn là tiếng nói và chữ viết chính thức của quốc gia và giới thượng lưu mới tìm cách bảo tồn các truyền thống của họ: cưỡi ngựa, bắn cung và săn bắn; nghi lễ, cầu nguyện và cúng tế tổ tiên. Quan trọng hơn, họ duy trì các đội quân Mãn Châu - được gọi là các Bát Kì (八旗,) - để kiểm soát xã hội mà họ đã chinh phục. Trên thực tế, từ giữa thế kỉ 17, trung quốc trở thành một tỉnh của 'đại quốc' Mãn Châu.


Hoàng đế Khang Hi sai hai người thân, Songgotu (索額圖: Sách Ngạch Đồ) và Tong Guogang (童國剛: Đồng Quốc Cương) lãnh đạo các cuộc đàm phán ở  Nerchinsk. Hai ông này không nói được tiếng Nga. Sa hoàng Nga cử Bá tước Feodor Alekseyevich Golovin làm đại diện nhưng ông này không biết nói tiếng Mãn. Thực tế là cuộc đàm phán thậm chí đã diễn ra và đã thành công, phần lớn là do vai trò của hai giáo sĩ Dòng Tên châu Âu. Họ gồm một người Pháp, Jean-François Gerbillon, và một người Bồ Đào Nha, một ông Pereira khác: Thomas Pereira. Đặc quyền ra vào triều đình của các tu sĩ Dòng Tên được tiếp tục sau khi nơi này bị người Mãn Châu nắm lấy. Đến năm 1689, Thomas Pereira đã gắn bó với triều đình nhà Thanh 16 năm. Chúng ta biết ông nói giỏi tiếng Mãn vì ông cũng đã viết sách giáo khoa bằng tiếng này giảng giải toán học phương Tây.10


Thomas Pereira là một người đáng chú ý. Là con trai thứ hai của một gia đình quý tộc, ông không thể kế thừa tước vị của cha mình và thay vào đó ông đã hiến mình cho Giáo hội. Ông gia nhập Dòng Tên lúc 17 tuổi và  sau đó học tại Đại học Coimbra, ở đó ông xuất sắc về cả toán lẫn âm nhạc. Trong số các bạn học cùng khóa có tu sĩ Dòng Tên gốc Macao đầu tiên, Zheng Weixin (鄭維信: Trịnh Duy Tín). Có thể được gợi hứng từ Tín, Pereira lên đường tới phương Đông ở tuổi 20, trẻ nhất trong đoàn những người truyền giáo đến châu Á. Sau khi học thêm ở Goa và Macao, ông được triệu đến Bắc Kinh, đến vào đầu năm 1673 ở tuổi 26. Ông dành phần còn lại của cuộc đời mình ở đó.11


Các tu sĩ Dòng Tên cần phải tạo ấn tượng tốt với vị hoàng đế trẻ và Pereira bắt đầu làm công việc chế tạo đồng hồ, dụng cụ khoa học và đàn ống. Một trong những sáng tạo xa xỉ nhất của ông là một con chim trong lồng và một bộ 10 chiếc chuông. Bất cứ khi nào con chim uống nước hoặc mở hộp thức ăn, nó sẽ phát ra một giai điệu. Sự hấp dẫn có lẽ sẽ giảm sau một thời gian. Tuy nhiên, thông qua kĩ năng khoa học của mình, Pereira dường như đã biết rất rõ về Khang Hi. Năm 1680, ông viết thư cho cấp trên của mình rằng ông đã có những cuộc trò chuyện dài với hoàng đế trong phòng riêng của ngài. Năm 1688, ông đã nói với họ, '(Nếu tôi muốn) không có gì có thể dấu được với tôi tại Triều đình.'12  Chính sự tự tin này, cùng với sự  kính trọng đối vớì kiến thức về thế giới rộng lớn hơn của các tu sĩ Dòng Tên, đã khiến cho Khang Hi phái Pereira và Galeote đi gặp người Nga tại Nerchinsk.


Khi các đại biểu của nhà Thanh muốn nói điều gì đó trong đàm phán thì họ nói với các tu sĩ Dòng Tên bằng tiếng Mãn, các tu sĩ Dòng Tên dịch từ tiếng Mãn sang tiếng Latin cho một người thông dịch Ba Lan, Andrei Belobotski. Belobotski sau đó dịch từ tiếng Latin sang tiếng Nga cho Golovin. Cả hai linh mục đều để lại những tường thuật chi tiết về cách cuộc đàm phán diễn ra và rõ ràng là họ thông dịch nhiều thứ hơn là chỉ ngôn ngữ. Họ cũng chịu trách nhiệm dịch các khái niệm về luật pháp, chính quyền và bản chất của quyền lực chính trị giữa thế giới Tây Âu và thế giới Đông Á.


Trong cuốn hồi kí của mình, Thomas Pereira mô tả ông phải làm cách nào để thuyết phục nhà Thanh rằng người Nga không phải là những kẻ man rợ mà là những người văn minh mà họ có thể thực hiện thỏa thuận với. Nhưng ông bày tỏ sự bực tức với nhận thức của nhà Thanh về địa vị của họ: 'Từ buổi ban đầu của thế giới, Trung Quốc chưa bao giờ tiếp đón người nước ngoài vào trong đế chế của mình ngoại trừ những người đến dâng cống,' ông viết trong nhật kí. 'Trong sự hoàn toàn dốt nát về thế giới người Tatar  [Thát Đát tức là nhà Thanh], với niềm cao ngạo giống như người Trung Quốc, coi các quốc gia khác là những kẻ chăn cừu giống như các nước láng giềng của họ. Họ nghĩ rằng mọi thứ đều là một bộ phận của Trung Quốc mà họ tự hào gọi là Thiên Hạ - tức là "mọi thứ dưới vòm trời" như thể không có gì khác tồn tại.'13 Bằng lời kể của chính mình, Pereira đã giới thiệu cho nhà Thanh cái mà người châu Âu bắt đầu gọi là 'Luật về quốc gia' ('Law of Nations')- quan điểm coi quốc gia là thực thể lãnh thổ có ranh giới và chủ quyền mà các quốc gia khác có nghĩa vụ phải chấp nhận. Đây là một quan điểm tương đối mới lạ về xã hội quốc tế, một quan điểm đã được thể hiện trong Hiệp ước Westphalia, kết thúc Chiến tranh Ba mươi năm vào năm 1648, chỉ bốn thập kỉ trước cuộc đàm phán bên bờ sông Nercha.


Giới lãnh đạo Nga đã có một hiểu biết tương đối tốt quan điểm ‘Westphalia' này về thế giới. Đó là quan điểm mà các tu sĩ Dòng Tên thông hiểu (ngay cả khi Giáo hoàng không đồng ý) và tùy theo mình họ phải thuyết phục nhà Thanh chấp nhận đủ về nó để kí một thỏa thuận ranh giới chính thức với các đại biểu của sa hoàng. Các cuộc thảo luận, bao gồm việc thông dịch ba giai đoạn theo mỗi hướng, đã kéo dài và gần như bị gãy đổ ở một số thời điểm. Nhưng cuối cùng, vào ngày 6 tháng 9 năm 1689, cuộc đàm phán đã hoàn tất và một hiệp định, Hiệp ước Nerchinsk, đã được kí kết. Đáng chú ý là nó không được viết bằng tiếng Trung. Hai tu sĩ Dòng Tên và Belobotski đã thỏa thuận văn bản cuối cùng viết bằng tiếng Latinh và sau đó mỗi bên tự dịch sang tiếng Nga và tiếng Mãn - ngôn ngữ của triều đình nhà Thanh. Không có bản dịch tiếng Trung nào được thực hiện cho đến sau này; quả thật, có vẻ như văn bản hiệp ước trên thực tế đã được giữ bí mật với công chúng đọc tiếng Trung.


Văn bản tiếng Latinh của hiệp ước sử dụng tên 'Imperii Sinici ' để chỉ vương quốc nhà Thanh. Văn bản tiếng Mãn sử dụng thuật ngữ 'Dulimbai Gurun', có thể được dịch là  'nước trung tâm', có vẻ là tiếng Mãn tương đương với trung quốc. Nhưng điều quan trọng cần nhớ rằng đây là những diễn giải của Dòng Tên châu Âu về thế giới quan của nhà Thanh. Bản thân Pereira nói rằng triều đình đã sử dụng một thuật ngữ khác, Thiên Hạ, nhưng ông biết rằng ý tưởng về một  nước Đại Thanh khẳng định cai trị 'mọi thứ dưới vòm trời' sẽ không phù hợp với một nước Nga tuyên bố tuân theo 'Luật Quốc gia'. Đây gần như chắc chắn là lí do tại sao văn bản hiệp ước được giữ bí mật với công chúng Trung Quốc. Nếu như họ phát hiện ra rằng hoàng đế đã kí một thỏa thuận ranh giới, họ có thể kết luận rằng rốt cuộc ông không phải là người cai trị 'mọi thứ dưới vòm trời' - thiên hạ. Hàm ý cho triết lí chính trị đằng sau từ trung quốc có thể là thảm họa.


Hiệp ước Nerchinsk sau đó đã trở nên nổi tiếng như là văn kiện đầu tiên mà Trung Quốc tự xưng là 'Trung Quốc' trước một cường quốc nước ngoài. Tuy nhiên, phiên bản này về sự kiện lại hiểu sai những gì đã diễn ra. Lời kể của những người có mặt tại cuộc đàm phán cho thấy rõ rằng tiếng Trung không được sử dụng trong các cuộc đàm phán chính thức. Không có thư kí Trung Quốc nào tham gia đoàn đàm phán (vì vậy không có ghi chép nào bằng tiếng Trung được thực hiện) và Pereira nói rõ rằng các sứ giả nhà Thanh nói tiếng Mãn hay tiếng Mông Cổ. Do đó, thay vì coi Hiệp ước Nerchinsk là một văn kiện vào ‘thời điểm bước vào trưởng thành’ cho một ‘Trung Quốc’ non trẻ thì sẽ chính xác hơn khi coi đó là nỗ lực của các tu sĩ Dòng Tên nhằm thể hiện  một quốc gia châu Á theo cách mà người châu Âu có thể hiểu được. Theo nghĩa này, Gerbillon và Pereira không chỉ làm việc thông dịch giữa các ngôn ngữ, họ còn diễn giải các quan niệm hoàn toàn khác nhau về trật tự chính trị và bản chất của các quốc gia. Ở một mức độ nào đó, họ đã diễn giải sai lệch bản chất của nước Đại Thanh để làm cho nó phù hợp với trật tự ngoại giao châu Âu vì lợi ích của hòa bình rộng lớn hơn giữa hai bên. Hiệp ước Nerchinsk không phải là thời điểm đầu tiên mà một nước 'Trung Quốc' sử dụng Trung Quốc làm tên của mình, bất kể các sử gia dân tộc chủ nghĩa sau này đã viết gì. Đó là thời điểm mà các tu sĩ Dòng Tên đã sử dụng kiến ​​thức của họ về phương Đông và phương Tây để làm một trật tự khu vực khá khác biệt, trong đó các quốc gia không được xác định theo lãnh thổ của chúng mà qua lòng trung thành với một người cai trị, thích nghi với 'Luật Quốc gia’.


Mặc dù Hoàng đế Khang Hi có thể biết ơn vì có hòa bình ở biên giới phía bắc, nhưng ông không nhiệt tình tới mức cho triều đình ngầm chấp thuận Luật Quốc gia để công bố Hiệp ước Nerchinsk trong lãnh thổ của mình. Joseph Sebes, bản thân là một tu sĩ Dòng Tên và một nhà Hán học thế kỉ 20 tại Đại học Georgetown, lưu ý rằng không có dấu vết văn bản của hiệp ước trong bất kì nguồn nào của Trung Quốc vào thời điểm đó. Tuy nhiên, Peter C. Perdue, giáo sư lịch sử Trung Quốc tại Đại học Yale, đã tìm thấy một bản sao trong Khang Hi Thực lục, một tập hợp các tài liệu về các hoạt động hàng ngày của hoàng đế được xuất bản vào cuối triều đại của ông. Nó dường như chỉ được công bố sau khoảng 200 năm sau khi Hiệp ước Nerchinsk ban đầu được kí kết. Đây là thời điểm vào cuối thế kỉ 19, khi nước Đại Thanh một lần nữa bị buộc phải đối phó với Nga bằng súng đạn và họ muốn tận dụng hiệp ước ban đầu.


Các tu sĩ Dòng Tên có một sự hiện diện không nhiều nhưng có ảnh hưởng lớn tại triều đình nhà Thanh trong thế kỉ 17 và 18. Các linh mục đôi khi đã sống nhiều thập kỉ ở Bắc Kinh (Thomas Pereira đã sống 32 năm ở thành phố này) nói chuyện trực tiếp với quan lại và thậm chí với chính hoàng đế. Họ đã gửi lại các báo cáo chi tiết cho các giáo sĩ Dòng Tên và hệ giáo phẩm Công giáo và thông qua họ, châu Âu đã biết thêm về vùng đất bí ẩn phương đông. Về cơ bản, chính họ đã đặt cho vùng đất này cái tên 'China' và giới thiệu nó với công chúng châu Âu thông qua bản đồ và sách. Sau Galeote và Thomas, người ta có thể nói rằng ‘China’ thực sự bắt đầu với các bài viết của cặp Pereiras.


Khi các tu sĩ Dòng Tên chọn cái tên‘Trung Quốc’ để thể hiện cho nước Đại Thanh trong các giao dịch với Nga, họ đã làm nhiều hơn là dịch một cái tên. Họ bắt đầu một quá trình mà qua đó quốc gia này bắt đầu bộc lộ chính mình và sau đó suy nghĩ về chính mình theo một cách mới. Mặc dù cụm từ này đã được sử dụng trong nhiều thiên niên kỉ, chỉ đến thời cuối nhà Thanh, Trung Quốc mới được sử dụng phổ biến trong các quan hệ quốc tế. Nghiên cứu của nhà sử học Nhật Kawashima Shin phát hiện ra rằng vào nửa đầu thế kỉ 19, chỉ có 28 tài liệu ngoại giao sử dụng từ Thanh và Trung Quốc trong cùng một văn bản. Nhưng Trung Quốc trở nên phổ biến hơn vào nửa sau thế kỉ này, xuất hiện chẳng hạn trong các hiệp ước với Nga năm 1861 và Hoa Kì năm 1880. Tuy nhiên, lời văn của Hiệp định Thương mại Trung Quốc-Peru năm 1861 chỉ đề cập đến Đại Thanh quốc (nước Đại Thanh). Arif Dirlik phỏng đoán rằng chỗ nào mà một thỏa thuận đề cập đến các hành động của chính phủ, các nhà ngoại giao nhà Thanh sử dụng cụm từ 'Đại Thanh Quốc' nhưng chỗ nào mà nó dùng để chỉ một phần lãnh thổ thì họ sử dụng ‘Trung Quốc'.24


Tuy nhiên, nhà địa lí người Mĩ Richard Smith lưu ý rằng, về mặt lịch sử, Trung Quốc không phải là một cái tên được sử dụng nhất quán. Đó chỉ là một trong nhiều từ được sử dụng trong các văn bản cổ để mô tả mảnh lãnh thổ vô định hình này. Ông liệt kê nhiều tên khác, gồm có: Trung Hoa - ‘Nở hoa trung tâm'; Thần Châu - ‘Châu thần'; Cửu Châu - 'Chín châu’; Trung thổ - 'Đất Trung tâm'; và Thiên Hạ - ‘Mọi thứ dưới vòm trời'. Ông lập luận rằng mối quan hệ giữa những từ này, và sự khác nhau giữa ý nghĩa chính xác của chúng trong các tài liệu cổ là không rõ ràng. Nhà sử học Trung Quốc thế kỉ 20, Chen Liankai (陈连开: Trần Liên Khai) cho rằng trung hoa lần đầu tiên được sử dụng vào thế kỉ 3 hoặc 4 và kết hợp trung quốc với hoa hạ - hai cách mô tả các vùng 'văn minh' dưới sự cai trị của nhà Tấn. Khai lập luận rằng cả trung quốc và  trung hoa đều được sử dụng thay thế cho nhau kể từ đó. Lydia H. Liu, giáo sư tiếng Trung tại Đại học Columbia, lưu ý rằng cả hai từ hoa hạ đều được sử dụng để phân biệt giữa những người ‘nổi trội’ hoặc ‘văn minh’ bên trong ‘trung quốc', và những người man rợ sống bên ngoài nước này: người di hoặc di địch. Lydia nói rằng những từ hoahạ bao hàm cốt tủy của một bản sắc nhưng đồng ý rằng ý nghĩa và nội hàm của chúng đã thay đổi qua hàng thiên niên kỉ.15


Khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh tự nhận thức của Trung Quốc hiện đại được trưng bày tại các sự kiện như Diễn đàn Vành đai và Con đường, chúng ta sẽ thấy kết quả của những ý tưởng đã được các trí thức và nhà hoạt động vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 hình dung, tranh luận và áp đặt một cách có ý thức. Như chúng ta sẽ thấy, chính những cuộc thảo luận giữa các nhà tư tưởng ở các thành phố thuộc địa như Thượng Hải, và những người khác sống lưu vong ở nước ngoài đã tạo ra một ý tưởng về một quốc gia-dân tộc (nation-state) có vẻ có tính bản địa nhưng thật ra được xây dựng theo hình ảnh của quan niệm phương Tây về ‘China'. Những cuộc thảo luận này không thể tách rời khỏi hai cuộc tranh luận khác: về việc liệu nước mới này sẽ là một nước quân chủ cải cách hay một nước cộng hòa cách mạng và về việc liệu nó có cần phải đồng nhất về mặt chủng tộc hay không.


Zhang Deyi (張德彜: Trương Đức Di) là một cậu bé hậu sinh của nước Đại Thanh vào nửa sau thế kỉ XIX. Ông được biết đến nhiều như một trong những tôi thần nhà Thanh đầu tiên đi đến và sống ở Châu Âu và Châu Mĩ. Ông lớn lên đúng lúc để tham gia vào giai đoạn hợp tác đầu tiên giữa những người cải cách trong triều đình Mãn Thanh và các sứ thần mới đến bị các thế lực nước ngoài thúc ép họ sau Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ hai. Năm 1862, cậu bé Di 15 tuổi được chọn là một trong 10 học sinh đầu tiên được nhận vào Tongwen Guan (Đồng Văn quán)- trường Cao đẳng Phiên dịch - ở Bắc Kinh. Trường cao đẳng được những người cải cách sáng lập và được 'Sở Thuế quan Hàng hải Hoàng gia’ mới tài trợ, sở này vốn được chính triều đình và các cường quốc nước ngoài cùng điều hành.


Sở Thuế quan là một hệ quả khác của cuộc Chiến tranh Thuốc phiện. Sở này nổi lên, như một tổ chức hỗn hợp lạ lùng, từ sự hỗn độn của cuộc nổi loạn Thái Bình thiên quốc vô cùng đẫm máu, các cuộc tấn công đồng thời của các cường quốc châu Âu và từ các cuộc đảo chính nội bộ cung đình. Nhà sử học Cambridge, Hans van de Ven, truy ra nguồn gốc của nó là một thỏa thuận không chính thức đạt được vào năm 1854 giữa các quan chức Anh và nhà Thanh trong việc tô nhượng quốc tế Thượng Hải. Năm 1861, ngay sau khi quân Anh và Pháp đã phá hủy Cung Mùa hè của hoàng đế bên ngoài Bắc Kinh, sở này đã trở thành một cơ quan được thành lập chính thức. Trong khi trên danh nghĩa, nó phải báo cáo cho hoàng đế, còn trên thực tế lại được điều hành bởi các quan chức Anh.16 Nó cần người phiên dịch cho công việc của mình, do đó Trường Cao đẳng Phiên dịch được thành lập. Tuy nhiên, trường này  sẽ làm nhiều thứ hơn là chỉ dịch tài liệu. Nó trở thành một cánh cổng quan trọng để các ý tưởng phương Tây xâm nhập vào xã hội tinh hoa nhà Thanh.


Di đã dành ba năm học tiếng Anh và tiếng Pháp tại Trường Cao đẳng Phiên dịch và vào năm 1866, ông là một ứng viên hiển nhiên để tham gia phái đoàn tìm hiểu sự thật chính thức đầu tiên của triều đình nhà Thanh đi đến châu Âu. Sau đó, vào năm 1868, ông tham gia một đoàn sứ dài hơn đến Hoa Kì và Châu Âu và vào năm 1871 đến Pháp ngay sau Chiến tranh Pháp-Phổ. Ông lưu giữ nhật kí về những chuyến du hành của mình - giống như Galeote và Thomas Pereira trước đó 300 năm - ông ghi lại trong đó ấn tượng của mình về những dự đoán khác nhau về phong thái và khẩu vị của những người ông gặp. Dù ấn tượng với hầu hết nhưng người ông gặp, ông lbị những người Âu và Mĩ làm thất vọng do họ khăng khăng gọi đất nước của ông sai tên. ‘Sau nhiều thập kỉ tương tác thương mại và ngoại giao Đông Tây, [họ] biết rất rõ rằng đất nước của tôi được gọi là Đại Thanh quốc [nước Đại Thanh] hay Trung Hoa [Nở hoa trung tâm] nhưng vẫn khăng khăng gọi nó là "China", Zhaina, Qina, Shiyin, Zhina, Qita, v.v.,’ ông than phiền. 'Trung Quốc đã không bề bị gọi bằng cái tên như vậy trong hơn 4000 năm lịch sử. Tôi không biết người phương Tây gọi nó bằng những cái tên này dựa trên cơ sở nào! '18 Đối với Di, cách thích hợp để nói đến đất nước của ông là viện tới triều đại cai trị của nó, chứ không phải mô tả một mảnh lãnh thổ.


Di viết bài này vào tháng 5 năm 1871 nhưng ông không thuyết phục được những người đối thoại phương Tây vấn đề của mình. Thay vào đó, trong vài thập kỉ sau đó, ý kiến, ngay cả trong các đồng nghiệp của ông, sẽ thay đổi theo hướng ngược lại. Đến năm 1887, một nhà ngoại giao khác của nhà Thanh, Huang Zunxian (黃遵憲: Hoàng Tuân Hiến), đã than phiền rằng đất nước của ông ta thiếu một 'tên riêng'. Ông Hiến đã được cử đến Nhật Bản vào năm 1877 với tư cách là trợ lí cho đại sứ nhà Thanh mới được bổ nhiệm ở đó và dành 5 năm để quan sát đất nước này mở cửa với thế giới bên ngoài và bắt đầu hiện đại hóa.19. Ông rất ấn tượng trước sự cải thiện nhanh chóng trong mức sống của người Nhật và đã viết một bài tường thuật dài về những gì ông đã thấy để giáo huấn các nhà ngoại giao đồng nghiệp ở quê nhà. Họ không chút quan tâm. Bản thảo của Hiến đã bị bỏ lơ cho đến khi Nhật Bản đánh bại Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894/5. Chỉ sau đó, nó mới trở thành nguồn thông tin tiếng Trung quan trọng nhất về Nhật Bản.


Hiến không bắt đầu cuốn sách của mình bằng lời khen ngợi về sự hiện đại hóa của Nhật Bản. mà chọn lấy những lời chỉ trích về quê hương mình và ưu tiên của ông là giải quyết vấn đề đặt tên, ông viết:


Nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, chẳng hạn như Anh hoặc Pháp, đều tự hào tên nước của riêng mình, ngoại lệ duy nhất là Trung Quốc.... Nhưng ‘China’, như được phiên âm theo nhiều ngôn ngữ khác nhau, không phải là cái tên mà chính chúng ta đã và đang sử dụng. Gần đây, khi xưng hô với người nước ngoài, chúng ta đã sử dụng từ Trung Hoa (Sự rạng rỡ trung tâm). Nhưng các nước láng giềng của chúng ta đã phản đối chúng ta vì điều này, khi chỉ ra rằng mọi quốc gia trên trái đất đều coi mình như nằm ở trung tâm, và hơn nữa, việc coi mình là 'rạng rỡ' và những người khác là man rợ chẳng khác gì tự tôn vinh mình để hạ thấp người khác.20


Năm 1897, từng là nhà ngoại giao ở Nhật Bản, San Francisco, London và Singapore, Hiến được bổ nhiệm làm 'ủy viên giám sát' (按察使: án sát sứ) của tỉnh Hồ Nam. Ông sử dụng chức vụ của mình - có mục đích giám sát chính thức quan lại địa phương - để vận động cải tổ nhà Thanh. Ông tạo ra một trường học mới, 'Hall of Current Affairs', ở tỉnh lị Trường Sa và mời một trong những nhà cải cách nổi tiếng nhất thời kì này, Lương Khải Siêu (LKS), làm giảng viên chính. Năm trước đó, cả hai đã đồng sáng lập (cùng với một nhà cải cách khác, Tan Sitong [譚嗣同: Đàm Tự Đồng]) một tạp chí, Cường học báo 強學寶 - 'Tạp chí Sức mạnh thông qua Giáo dục’ - sẽ trở nên đặc biệt ảnh hưởng đến những gì sẽ xảy ra sau đó.21


Trong khi Hoàng Tuân Hiến và LKS đồng ý về sự cần thiết cphải cải cách thể chế và sự cần thiết để đất nước có một cái tên 'riêng', họ không đồng ý về cái tên đó phải là gì. Hiến không thích Trung, với nghĩa là 'trung tâm’. Trong bài luận thuyết năm 1887, ông đã thuyết phục thay bằng Hoa Hạ hùng vĩ hơn, một cái tên được dịch theo nghĩa đen là 'sự vĩ đại nở hoa' nhưng cũng kết hợp 'Hoa' và 'Hạ': hai tên cổ của các dân tộc mà ông coi là tinh hoa của đất nước mình. Tuy nhiên, những người khác lập luận rằng Hoa Hạ đúng là tên của một dân tộc hơn là một quốc gia. Ý tưởng của Hiến nói chung đã không được chú ý tới.


Từ vị trí mới của mình, hai ông này tiếp tục thúc đẩy hiện đại hóa. Cùng với học giả cấp tiến Khang Hữu Vi (KHV), cố vấn của Lương Khải Siêu,họ kiến ​​nghị và sau đó gặp vị vua trẻ, Hoàng đế Quang Tự, để tranh luận về việc cải cách thể chế. Năm 1898, kết quả của cuộc vận động hành lang này, hoàng đế đã công bố 40 sắc lệnh báo trước những thay đổi khiêm tốn trong giáo dục, quân đội và dịch vụ dân sự. Những thay đổi đó không kịch tính nhưng đã khiến những người bảo thủ ở triều đình lo lắng đến nỗi, 103 ngày sau, dì của hoàng đế, thái hậu Từ Hi (người thực quyền đứng sau ngai vàng) đã tổ chức một cuộc đảo chính và buộc cháu trai của bà phải bỏ hết nhưng thay đổi đó. Quang Tự tiếp tục ngồi trên ngai vàng trong một thập kỉ nữa nhưng đã bị tước bỏ quyền lực thực sự và trên thực tế,Từ Hi đã cai trị thông qua ông. Sáu người ủng hộ cuộc Cải cách Trăm ngày đã bị xử tử trong khi những người khác, bao gồm KHV, LKS và HTH, bỏ trốn. Hiến tìm thấy nơi trú ẩn ở quê mình ở phía nam và nghỉ hưu để làm thơ. KHV và LKS phải đối mặt với án tử hình và chạy trốn sang Nhật Bản, họ tiếp tục kích động ở đó.


Ngày nay khu phố Tàu ở Yokohama là một nam châm thu hút du lịch được thắp sáng bằng đèn neon nhưng vào đầu thế kỉ 20, nó là một vạc dầu của sự lật đổ. Từ cơ sở của mình ở đó, LKS đã viết các bài luận và xuất bản báo chí để truyền bá những ý tưởng mà ông nghĩ sẽ thúc đẩy quê hương của mình đi trên con đường mà Nhật Bản đã đi: tiến vào hiện đại. Nhưng việc tạo ra một quốc gia-dân tộc hiện đại đòi hỏi phải có một quốc gia có tên. Trong bài luận được đọc nhiều vào năm 1900 'Về nguồn gốc của sự yếu kém của Trung Quốc', LKS đã nhắc lại lời Trương Đức Di 30 năm trước, qua việc nói với độc giả của mình, 'Người nước ngoài gọi đất nước của chúng ta là ‘C“Cina” hoặc “China”nhưng đó không phải là cách chúng ta nhìn về bản thân mình. 'Tuy nhiên, không giống như Di, LKS đặc biệt không hài lòng với cách truyền thống nói tới một nước theo vương triều cai trị có: 'Đại Minh quốc' hoặc 'Đại Thanh quốc'. Ông e sợ rằng điều này hàm ý rằng không có qđất nướcTrung Quốc nào cả. Theo nhà Hán học người Úc John Fitzgerald, đối với LKS, việc thiếu một cái tên là bằng chứng cho sự non kém về văn hóa và trí tuệ của người Trung Quốc : LKS gọi đó là một lỗi ký iệm 'nằm trong não của mỗi người'.22


Cái tên mà LKS chọn, thật ra là cái từ mà ông  đã sử dụng cho ‘China’ trong tựa đề bài luận của mình, là Trung Quốc. Ông lấy ý tưởng trong lịch sử về trung quốc như là 'nước trung tâm', với ý nghĩa ngụ ý là 'trung tâm của thế giới trong vũ trụ có thứ bậc cũ, và đặt cho nó một mục đích mới. Trung Quốc sẽ không còn đại diện cho một hệ thống chính trị khu vực và trở thành đơn thuần là một cái tên nhưng là một 'cái tên' mà ông có thể lí giải là đã được sử dụng trong nhiều thế kỉ. Trung Quốc khái niệm sẽ được thay thế bởi Trung Quốc như một từ tương đương trực tiếp với từ 'China' của người nước ngoài. Quá trình giữ lại một từ trong khi thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của nó là chìa khóa cho toàn bộ quá trình xây dựng - sáng chế - ra Trung Quốc hiện đại. Lương Khải Siêu  chọn tên Trung Quốc vì những lí do hoàn toàn thực dụng: nó là một cái tên đã được nhà Thanh bắt đầu sử dụng trong quan hệ với các nước khác. Nhưng như chúng ta đã thấy, ngay cả quá trình này cũng không đơn giản như nó có vẻ như vậy. Với việc chọn Trung Quốc để thể hiện cho quê hương của dân tộc Trung Quốc, Lương Khải Siêu đã vô tình thừa nhận một thứ mà ban đầu vốn là một ý tưởng ngoại lai.


Zhongguo (Trung Quốc) hiện là cái tên thường được dùng như là từ tiếng Trung cho từ 'China', nhưng trong thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 20, nó chỉ là một trong số những ứng viên cho vinh dự đó. Đặc biệt, nó đã bị thách thức bởi những nhà cách mạng không quan tâm đến việc cải cách nhà Thanh mà chỉ muốn phá bỏ nó. Một trong số họ là một thanh niên tên là Zhang Binglin (章炳麟: Chương Bỉnh Lân). Lân đã bắt đầu việc đào tạo khi trưởng thành để trở thành một quan chức học giả cổ điển. Tuy nhiên, sau khi Nhà Thanh bi thua trong Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894/5, ông đã từ chức và tham gia phong trào cải cách của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu ở chi nhánh Thượng Hải. Ông bắt đầu viết bài cho các tờ báo cải cách và năm 1896 trở thành biên tập viên của tờ Shi Wu Bao (時務報: Thời Vụ Báo) của Lương Khải Siêu - ‘báo về các vấn đề hiện tại'. Là một nhân vật khó tính, Lân nhiều lần bất đồng với chủ, biên tập viên và nhân viên, rồi  vào cuối năm 1898, để thoát khỏi sự đàn áp các nhà cải cách 'Trăm ngày’, ông trốn sang Đài Loan (vốn đã bị Nhật Bản chiếm đóng kể từ khi  kết thúc chiến tranh năm 1895). Từ đó, ông viết bài cho tờ báo tiếp theo của Lương Khải Siêu, Thanh Nghị Báo - ‘báo Ý kiến trong sáng'. Tờ báo là cơ quan ngôn luận của Hội Bảo Hoàng (保皇會: Bảo Hoàng Hội) - do Khang Hữu Vi  và Lương Khải Siêu tạo ra để thúc đẩy cải cách và đặc biệt là khôi phục quyền lực của hoàng đế Quang Tự. Năm 1899, đối mặt với nhiều rắc rối hơn, Lân chuyển đến Nhật Bản theo lời mời của Lương Khải Siêu và sống ở đó vài tháng. Tuy nhiên, đến cuối năm đó, ông chuyển đến Khu định cư quốc tế ở Thượng Hải, để viết cho một tờ báo có thái độ cấp tiến hơn, tờ Su Bao (蘇報: Tô Báo).


Thượng Hải là trung tâm trí tuệ của vương quốc nhà Thanh: một bong bóng văn hóa và chủ nghĩa tư bản phương Tây áp đặt vào một đế chế đang suy tàn. Khu định cư quốc tế, chín dặm vuông lãnh thổ thuộc địa, là nơi có một quyền tự do ngôn luận cơ bản nào đó . Được kết nối với thế giới bằng các tuyến đường vận chuyển biển và với phần còn lại của đất nước qua mạng lưới xuất bản sách báo, đây là một thành phố mà ở đó các ý tưởng có thể được trao đổi và sự nổi loạn có thể sống sót.


Lân đã sống ở đó khi cuộc nổi dậy chống người nước ngoài được phương Tây gọi là 'Boxer Rebellion’ (loạn Quyền phỉ)  nổ ra. Người nước ngoài đã bị bao vây ở Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1900 và liên quân 8 nước đã được điều động để giải cứu họ. Một mùa hè khốc liệt cho cả hai bên kết thúc với phe Quyền phỉ bị đánh bại và triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Dù vẫn ở cách xa nơi loạn lạc nhưng quan điểm của Lân về nhà Thanh đã trải qua sự thay đổi căn bản. Khi liên quân nước ngoài bước chân đến Bắc Kinh, ông từ bỏ niềm tin trước đây của mình vào cải cách và thay vào đó bắt đầu lí giải về sự sụp đổ của nhà Thanh.23 Ông trở thành một nhà cách mạng và cuối cùng tách khỏi Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi.


Một phần quan trọng của sự thay đổi trong quan điểm của Lân là niềm tin ngày càng tăng của ông vào thuyết chủng tộc. Sau khi chứng kiến ​​sự thất bại của cuộc Cải cách Trăm ngày và phản ứng của Loạn quyền phỉ, ông đã đi đến việc thấy những người cai trị nhà Thanh không những tham nhũng và bất tài mà còn như những bọn ngoại lai. Họ là người Mãn, những người ngoại tộc từ phía đông bắc, đã chiếm được vương quốc của nhà Minh vào năm 1644 và do đó không có quyền cai trị. Vào tháng 8 năm 1901, ông đã tranh luận, trên tạp chí sinh viên cách mạng đầu tiên của đất nước Guominbao (國民報: Quốc Dân Báo), rằng lập luận của Lương Khải Siêu  về đoàn kết dân tộc là sai vì người Mãn khác biệt về cơ bản khi chỉ ra rằng ‘người Mãn có hệ thống chữ viết riêng’, ngủ trên thảm nỉ và ăn các món làm từ sữa. 24


Khi Chương Bỉnh Lân nổi giận, liên quân nước ngoài vẫn chiếm đóng ở Bắc Kinh. Họ chỉ rời đi vào năm 1901 sau khi triều đình nhà Thanh kí một hiệp định hòa bình, 'Hiệp ước Tân Sửu” (Boxer Protocol), đồng ý bồi thường cho các thế lực đế quốc. Lân cảm thấy tởm lợm trước sự đầu hàng của những người mà ông tôn như là nhà cải cách và trở nên quyết tâm hơn về sự cần thiết phải làm cách mạng để loại bỏ người Mãn, những kẻ đã thất bại rõ ràng, khỏi đất nước của mình. Để tỏ rõ sự tách biệt ông đã thay đổi tên từ Chương Bỉnh Lân thành Chương Thái Viêm (章太炎: Zhang Taiyan). Đó là một cam kết công khai đối với niềm tin phản Thanh mới của ông. Tên ‘Thái Viêm’ tôn vinh hai học giả đã chống lại sự xâm chiếm của nhà Thanh 250 năm trước: ‘Thái’ từ tên Thái Xung (太衝), bút danh của Hoàng Tông Hi (黄宗羲), và ‘Viêm’ từ Cố Viêm Vũ (顧炎武).25  Chương xem hai ‘tôi trung của nhà Minh’ này như những người bảo vệ tinh thần thực sự của đất nước: những anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ Nội Á. Đến năm 1903, ông sẵn sàng chỉ trích hoàng đế một cách công khai và trực tiếp - cũng như những người vẫn nghĩ rằng chế độ Mãn Thanh có thể cải cách được. Điều này sẽ dẫn ông đến những suy nghĩ mới về tương lai của đất nước và cái tên xứng hợp hợp của nó.

Trong khung cảnh nóng bỏng này một chàng trai bước vào nhập bọn, Liu Shipei (劉師培: Lưu Sư Bồi). Vào đầu năm 1903, Bồi cố để trở thành một quan chức của nhà Thanh nhưng đến cuối năm đó, ông lại cố tìm cách lật đổ nó. Chất xúc tác cho sự thay đổi quan điểm của Bồi là cuộc gặp gỡ với Chương Thái Viêm mới vừa đổi tên. Xuất thân từ một gia đình học giả cổ điển một mặt và từ quan chức chính phủ mặt khác, Bồi được kì vọng sẽ trở thành tầng lớp ưu tú của nhà Thanh. Năm 1903, ở tuổi 19, gia đình gửi ông đến Bắc Kinh để tham gia kì thi tiến sĩ (jinshi) ở triều đình. Ông đã trượt. Có lẽ không muốn phải đối mặt với sự thất vọng của cha mẹ, Lưu Sư Bồi không trở về quê hương ở  Dương Châu mà đi xa hơn 200 km về phía hạ lưu sông Dương Tử để đến Thượng Hải. Tại đó, ông gặp Chương Thái Viêm (CTV), 33 tuổi, đã là một cựu binh trong cuộc đấu tranh đòi cải cách chính trị và thất vọng vì thất bại của nó. CTV  đã đoạn tuyệt với nhà Thanh và sẵn sàng đi theo con đường cách mạng. CTV nhận Bồi theo cùng. Gần như chỉ sau một đêm, Bồi đã thay đổi từ một tôi thần tiềm năng của nhà Thanh thành một kẻ kích động tìm cách hủy diệt chế độ này.26

Vào giữa năm 1903, CTV đã sử dụng quyền tự do tương đối trong Khu định cư quốc tế để trực tiếp thách thức nhà Thanh. Trong một bài báo trên tờ Su Bao (蘇報:Tô Báo) có tựa đề 'Phản bác các bài viết của Khang Hữu Vi về cách mạng', ông đã cáo buộc hoàng đế là 'kẻ lừa đảo mờ ám' cùng với những điều khác.27 Do đó, triều đình nhà Thanh đã ra lệnh bắt ông và vào ngày 30 tháng 6 năm 1903 CTV tự để cho cảnh sát  Khu định cư quốc tế bắt - một phần để thể hiện sự hết lòng của mình với sự nghiệp cách mạng,28 nhưng một phần là để tránh bị nhà Thanh bắt và có thể bị kết án tử hình. Thay vì vậy, ông bị kết tội xúi giục bạo loạn và bị kết án ba năm trong một nhà tù do Anh điều hành, nơi mà trớ trêu thay, điều kiện khắc nghiệt đến mức ông định tự tử. Ông tìm thấy sự cứu rỗi ở Phật giáo và ỏ tình cảm phản Thanh ngày càng tăng của ông.

Trong khi đó, người bạn trẻ Lưu Sư Bồi (LSB) của ông chuẩn bị dấn thân vào sự nghiệp viết bài phản Thanh của riêng mình. Năm 1904, khi mới 20 tuổi, Bồi công bố công trình đầu tiên của mình, Rangshu - '攘書: Nhương thư'. Như nhà Hán học người Đức Julia Schneider đã chỉ ra, cụm từ “Rang Yi’ (攘夷: nhương Di) - 'loại bỏ bọn Di' - hẳn là rất quen thuộc đối với những người cùng thời với Lưu Sư Bồi. Các nhà cai trị đã nói điều đó trong nhiều câu chuyện lịch sử được lưu truyền qua nhiều thiên niên kỉ trước. Cuốn sách của LSB có ý muốn ‘loại bỏ bọn man di  khỏi lịch sử Trung Quốc, như là khúc dạo đầu để loại bỏ họ ra khỏi đất nước. Điều này khiến ông phải cân nhắc xem cái tên thích hợp nhất cho đất nước được giải phóng của mình sẽ là gì.


Trong Nhương thư, LSB đã liệt kê một số khả năng dựa trên các tài liệu lưu truyền. Chúng bao gồm: Hạ, Đại Hạ, Chư Hạ (nhiều Hạ), Chư Hoa (nhiều Hoa ) và từ kết hợp: Hoa Hạ. Trong cuốn sách đó, Lưu nói rằng ông muốn một cái tên có thể đưa ra đường biên giới cho quốc gia của mình: một cái tên thể hiện rõ sự khác biệt giữa người ở bên trong và người xa lạ ở bên ngoài. Ông muốn có một cái tên đích thực thật sự, có từ thời trước nhà Tần vốn bị ông coi là triều đại soán đoạt. Ông đã chọn một cái tên từ Sơn hải kinh, một sách cổ điển của thời kì này. Ông lập luận: “Nếu [chúng ta muốn] phân biệt mình với bọn Di (man rợ) ở bốn (phía ), thì chúng ta chỉ có thể sử dụng Đại Hạ làm tên đất nước.” 29 LSB cảm thấy rằng Đại Hạ chỉ một nền văn minh xưa, một dân tộc thuần khiết không bị kẻ ngoại lai cai tri - một cái tên phù hợp cho một đất nước tương lai không có nhà Thanh.


 Vào ngày 24 tháng 11 năm 1894, hai tháng sau khi quân Nhật tiêu diệt hải quân nhà Thanh, ba ngày sau khi họ chiếm được bán đảo Liêu Đông và hai tuần sau sinh nhật thứ 28 của chính ông, Tôn Văn, cùng anh của ông và một vài người bạn của họ đã gặp nhau trên một hòn đảo ở Thái Bình Dương để tuyên thệ làm cách mạng. Họ cam kết sẽ đánh đuổi người Thát Đát (Tartars), phục hưng Trung Quốc và thành lập một chính phủ thống nhất. Đây là tuyên ngôn đã được đồng ý tại cuộc họp đầu tiên của Xing Zhong Hui (興中會: Hưng Trung hội) - nghĩa đen là 'Hội phục hưng trung tâm', một nhóm sẽ phát triển từ những khởi đầu bé nhỏ này thành tổ chức mà 17 năm sau, lật đổ Đại Thanh quốc. Lúc đó Tôn Văn sẽ được biết đến nhiều hơn với cái tên Tôn Trung Sơn hoặc Tôn Dật Tiên.


Gia đình của Tôn Văn đã gửi ông đến Hawaii khi ông 13 tuổi, sau đó ông học ở Hong Kong. Hầu hết tất cả các giáo viên của ông đều là người Anh hoặc người Mĩ 30 và, giống như các thành viên khác trong cuộc họp Hưng Trung hội ngày hôm đó ở Hawaii, ông nói tiếng Anh và rất quen với việc mọi người hỏi ông gốc gác từ nước nào. Khi trả lời câu hỏi bằng tiếng Anh, ông đã có cách trả lời - ‘China'. Điều đó hẳn cho ông lí do để nghĩ về câu trả lời mà ông sẽ đưa ra bằng tiếng Trung.


Khi còn là sinh viên y khoa ở Hồng Kông, Tôn Văn đã nảy sinh một thái độ thù địch gay gắt với chính quyền nhà Thanh. Ông đã nhìn thấy ​​họ bị thua trong tranh chấp 1884/5 với Pháp về địa vị của Việt Nam trong khi đồng thời bị ấn tượng bởi các công nhân nhà máy đóng tàu ở Kowloon (Cửu Long), từ chối làm việc trên một tàu chiến của Pháp đã bị hư hại khi đánh trận. Tôn Văn chắc chắn sẽ không gọi đất nước của mình là Đại Thanh Quốc. Nhưng cái tên mà ông và các đồng chí cách mạng chọn cho đất nước họ không phải là Zhongguo (Trung Quốc) mà là Zhonghua (Trung Hoa). Trong tên đó, ông đưa ra một quy chiếu trực tiếp đến lịch sử - và một quy chiếu có ý nghĩa chủng tộc rõ ràng đối với những ai hiểu nó.


Lời thề mà Hưng Trung hội đã tuyên thệ được mượn từ Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra nhà Minh. Trong cuộc đấu tranh chống Mông Cổ vào thế kỉ 14, Chu Nguyên Chương đã sử dụng khẩu hiệu 'Đánh đuổi bọn Thát Đát và phục hưng Trung Hoa'.31 Qua việc chọn lấy lời thề này, Tôn Văn và các đồng đội cách mạng khẳng định rằng vua quan nhà Thanh, có gốc gác từ vùng Đông Bắc nói tiếng Mãn, cũng là ‘người Thát Đát’. Trong mắt họ, người Mãn cũng giống như người Mông Cổ: những kẻ bên ngoài từ Nội Á đến không có quyền cai trị trung quốc.


Nhà sử học Peter Zarrow lưu ý rằng Trung Hoa - với nguồn gốc ngôn ngữ ở Hoa Hạ - có ý nghĩa về chủng tộc hơn từ Trung Quốc. Như Lydia Liu đã nhận xét, nó dường như mô tả một vùng đất dành cho người Hoa - và do đó ngầm loại người ‘Thát Đát’ ra. Điều này sẽ hấp dẫn các nhà cách mạng coi nhà Thanh 'ngoại lai' như là nguyên nhân gây ra những rắc rối hiện đại của Trung Hoa. Các nhà cách mạng này cũng có thể trở nên  có thành kiến ​​với cái tên Trung Quốc bởi sự kiện đơn giản là chính nhà Thanh đã bắt đầu sử dụng nó trong các giao dịch ngoại giao của họ.


Trong thập kỉ sau đó, Hưng Trung hội đã nhiều lần cố gắng lật đổ nhà Thanh bằng vũ lực và thất bại. Sau thất bại của các cuộc nổi dậy, vào năm 1905 hội này đã hợp nhất với các nhóm cách mạng khác để lập ra Đồng MInh hội - 'Hội Đồng minh'. Việc hình thành thực tế diễn ra ở Tokyo và ban lãnh đạo hợp nhất đã quyết định giữ nguyên hai yêu cầu ban đầu của Hưng Trung hội và bổ sung thêm hai yêu cầu khác. Khẩu hiệu của nó đã trở thành, 'Đánh đuổi bọn Thát Đát, phục hưng Trung Hoa, thiết lập một nền Cộng hòa, và phân phối đất đai đồng đều cho dân chúng'.


Đồng MInh hội đi theo lập trường trên trong suốt những năm mà Chương Thái Viêm bị cầm tù ở Thượng Hải. Họ nhận ra rằng CTV sẽ là một người ủng hộ mạnh mẽ cho nhóm của họ và đã cử một phái đoàn các nhà hoạt động đến chào đón ông khi ông được thả vào cuối tháng 6 năm 1906. Họ cho ông làm tổng biên tập Dân Báo 32 - của Đồng minh hội và ngay lập tức đưa ông đến bến tàu Thượng Hải và sau đó đến Nhật Bản, mà ở đó ông được chào đón như một anh hùng. Vào ngày 15 tháng 7 năm 1906, khoảng 2 000 người, chủ yếu là sinh viên Trung Quốc, đã đổ về Tokyo để tham dự một cuộc họp tôn vinh ông.33 Gần đúng một năm sau, ông công bố đề xuất của riêng mình cho cái tên tương lai của đất nước và đề xuất của ông sẽ là cái tên bị nghẹn lại. CTV đã lấp đầy các trang của Dân Báo với thành quả của suy nghĩ lúc ở trong tù: lí giải vì sao phải làm cách mạng phản Thanh. Trong một bài luận dài xuất bản năm 1907, ông đã đề cập đến câu hỏi đất nước nên được gọi là gì một khi cách mạng thành công. Vì nhà Thanh phải bị lật đổ và đánh đuổi nên rõ ràng là đất nước không thể được gọi là Đại Thanh Quốc. CTV cũng không ủng hộ cái tên Trung Quốc của Lương Khải Siêu. ‘Trung Quốc chỉ có ý nghĩa trong chừng mực nó chỉ đến bốn ranh giới bên ngoài,' ông viết, và ông lập luận rằng vì người Ấn Độ và Nhật Bản cũng sử dụng các từ ngữ tương tự như 'nước trung tâm’ cho nước của họ nên ‘tên đó không phải là duy nhất cho đất của người Hán'.34 (Xem Chương 3 để biết thêm về sự phát triển của từ 'Hán'.)


Vào lúc đó, Lưu Sư Bồi cũng đã đến Nhật. Ở đó, ông tuyên bố mình là một người theo chủ nghĩa vô chính phủ và cũng đóng góp cho các trang của Dân Báo. Nhưng ông đã thất bại trong việc thuyết phục phong trào lấy Đại Hạ làm tên cho đất nước chưa được thành lập. Chương đã biện giải cho một cái tên dựa trên chủng tộc, giống như LSB, nhưng ông lại muốn phân biệt tên quốc gia với tên chủng tộc sinh sống trong quốc gia đó. CTV cảm thấy Hạ là từ chính xác cho cuộc đua, dựa trên nguồn gốc của nó dọc theo sông Hạ. Nhưng trong bài báo năm 1907 đó, ông viết rằng nó 'ban đầu là tên của một bộ lạc, không phải một nước, đó là lí do tại sao, không đồng ý với cả LSB lẫn Hoàng Tuân Hiến, ông không muốn Hạ là tên cho đất nước hiện đại.


Thay vì vậy, Chương Thái Viêm lập luận rằng Hoa - nghĩa đen là ‘sự nở hoa’ nhưng mang hàm ý 'văn minh' - là lựa chọn tốt hơn. Theo Julia Schneider, nó có một ý nghĩa dân tộc tiềm ẩn trong những người cách mạng lưu vong trong thời kì nguy hiểm này, vì họ cho rằng người Mãn không thể là một phần của người Hoa. CTV sau đó đưa ra một lời giải thích mang tính giả lịch sử cho sự lựa chọn của mình: ‘Cái tên Hoa xuất phát từ nơi mà dân ta cư trú đầu tiên.... Núi Hoa (Hoa Sơn ở tỉnh Thiểm Tây) đã tạo thành ranh giới, cho đất nước chúng ta cái tên là Hoa.... Hoa ban đầu là tên của một đất nước chứ không phải là tên của một chủng tộc nhưng ngày nay nó đã trở thành một tên chung cho cả hai.’35 Theo Schneider, CTV thích từ Hoa hơn vì nó đề cập đến thứ mà ông coi là hạt nhân của quốc gia mới đồng thời cũng đủ linh hoạt. 'Nó có thể được căng rộng ra khắp trên lãnh thổ của tất cả dân Trung Quốc, bao gồm cả những người mà CTV cho rằng đã bị đồng hóa’ ở các tỉnh Úng ( ) và Lương (涼州) phía tây bắc cũng như các bộ phận của Triều Tiên và Việt Nam ngày nay - những nơi mà theo cách nói của Chương là 'người Hoa đã cấy cày' vào thời nhà Hán, 2 000 năm trước đó.


CTV sau đó thêm từ Trung vào tên này, gọi nó là Trung Hoa, hoặc 'Hoa trung tâm'. Ông tuyên bố, điều này nhằm ‘phân biệt văn hóa Hoa cao cả với văn hóa Di [man rợ] thấp kém.'36 Cần có một phần cuối cùng trong tên để thỏa mãn một phần trong khẩu hiệu của Đồng minh hội về 'thiết lập một nền cộng hòa' nên từ Dân Quốc được đặt ra - nghĩa đen là ‘nước của nhân dân’. Ở phần cuối của bài viết, đất nước thời hậu Thanh có một cái tên - Trung Hoa Dân Quốc, nghĩa đen là ‘nước Nhân dân Hoa nở trung tâm '.


Như Peter Zarrow đã nhận xét, CTV, từng chịu cảnh tù đày, có uy tín to lớn trong giới cách mạng và những lập luận của ông có sức nặng đặc biệt. Sau bài báo năm 1907 của ông, cuộc tranh luận về cái tên tương lai của đất nước tương lai đã kết thúc, chắc chắn là trong phe cách mạng. Trong khi Lương Khải Siêu có thể bám chặt vào chương trình cải cách của mình và vào từ Trung Quốc, Đồng minh hội đã chọn Trung Hoa Dân Quốc, với nguồn gốc từ tuyên bố của nhà Minh chống Mông Cổ, của Chu Nguyên Chương 500 năm trước đó. Lương Khải Siêu tiếp tục coi Tôn Văn và những nhà cách mạng là những người mới nổi được giáo dục ở phương Tây không hiểu lịch sử hay văn hóa, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề. Họ sẽ nắm quyền - còn ông thì không.


Trong khi đó, Lưu Sư Bồi từ bỏ những kì vọng vô chính phủ của mình, trở về quê hương và cam kết trung thành với nhà Thanh. Năm 1908, ông bắt đầu làm thư kí riêng cho tổng đốc tỉnh Chiết Giang và An Huy, nơi mà theo một số lời kể, ông đã tiết lộ thông tin về các đồng chí cũ của mình trong phong trào cách mạng. Trong khi Chương Bỉnh Lân / Thái Viêm cuối cùng đã thay đổi quan điểm của mình về chủng tộc, quyết định rằng các tộc không-Hạ cần phải được bao gồm trong Trung Hoa Dân Quốc, Bồi thì vẫn kiên định. Ông tiếp tục tin rằng việc bao gồm cả những người không-Hạ sẽ dây bẩn người Hạ. Nhưng ông không tham gia thêm vào cuộc tranh luận đặt tên.


Đó là những tranh luận diễn ra trong một nhóm nhỏ những người sống lưu vong ở Nhật Bản, cách đất nước bên kia biển mà họ đang thảo luận bằng những lời lẽ gay gắt như vậy. Nhưng trong vòng 5 năm Trung Quốc đã có một cuộc cách mạng và vào ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Dật Tiên được tuyên bố là tổng thống lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc - Zhonghua Minguo. Lựa chọn của Lương Khải Siêu - Trung Quốc - có thể không trở thành tên của quốc gia mới, nhưng nó đã giành một vinh dự tốt hơn. Đó có thể không phải là tên chính thức của đất nước, nhưng lại là tên mà tất cả người Trung Quốc sử dụng một cách không chính thức để nói tới nó. Nhưng một lần nữa, có lẽ vinh dự đó thật ra lại thuộc về các tu sĩ Dòng Tên.


Tối thứ Sáu hôm đó tại Bắc Kinh, khi những người đứng đầu chính phủ tu tập nâng li chúc mừng phiên bản lịch sử của Tập Cận Bình, họ đã vô tình thực hiện một hành động đi vòng trở lại. Họ ở đó để chứng thực hình ảnh Trung Quốc như là nước lãnh đạo tự nhiên của Đông Á, một hình ảnh được xây dựng bởi người nước ngoài ngay từ đầu, được những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc chấp nhận muộn màng và bây giờ, qua sự hiện diện của họ, được ban lãnh đạo Đảng Cộng sản tung trở lại thế giới. Ý tưởng về Bắc Kinh là thành phố trung tâm của trật tự khu vực không phải là mới. Tuy nhiên, hầu hết các trật tự đó là của các quốc gia lớn Nội Á sử dụng Bắc Kinh làm trung tâm hành chính. Ý tưởng về một trật tự khu vực do một quốc gia được gọi là 'China' hoặc Trung Quốc hoặc Trung Hoa đứng đầu tồn tại trên một lãnh thổ Đông Á xác định là một sáng chế hiện đại rõ rệt.


Có lẽ lần đầu tiên người phương Tây nghe đến Trung Quốc qua các cách dịch của các dân tộc sống dọc biên giới với Ấn Độ, và về Cathay qua các tương tác của họ với Nội Á. 'China' trở thành tên tắt của một vương quốc Đông Á ít được biết đến. Khi những thương nhân đầu tiên tới được đất nước bí ẩn này, họ bị kinh ngạc bởi quan điểm chính trị khác biệt của nó. Như Galeote Pereira và Matteo Ricci đã phát hiện ra, không có khái niệm ‘China’ trong phạm vi đất nước này vào giữa thế kỉ 16, và cụm từ ‘trung quốc’ là một sự khẳng định của giới tinh hoa về ưu thế chính trị so với những người cai trị triều cống xung quanh, hơn là tên gọi của một quốc gia. Cư dân cho rằng quốc gia họ cai trị 'mọi thứ dưới bầu trời' - thiên hạ.


Ý tưởng về 'trung hoa' tiếp tục thúc đẩy các chính sách đối nội của Trung Quốc. Nó bao hàm khái niệm về một quê hương có thể mở rộng khi nền văn hóa của nó gặp gỡ những dân tộc mới, và biến đổi và đồng hóa họ. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, cái mà Arif Dirlik gọi là 'nhận thức làm chủ' - ý thức về quyền sở hữu - vẫn thúc đẩy các chính sách của Bắc Kinh đối với các vùng thiểu số dưới sự kiểm soát của họ.37 Kết quả là các vùng trước đây của người Miêu, người Mãn và người Mông Cổ bây giờ được coi là vùng đất của người Hoa. Mặt khác, các cuộc đấu tranh văn hóa vẫn tiếp tục ở Tây Tạng và Tân Cương. Những rắc rối với Đài Loan và Hong Kong cũng có thể được truy từ một ý thức về ranh giới văn hóa ‘tự nhiên’ của trung hoa.’


Phải đến cuối thế kỉ 19, cách nhìn Châu Âu về TQ mới được cấy vào đầu của tầng lớp ưu tú nhà Thanh. Những người sống lưu vong - dù ở Nhật Bản, phương Tây hay Đông Nam Á - đóng một vai trò quan trọng khi ngoái nhìn về quê hương với những nhạy cảm có được bên ngoài. Họ là những người đã dịch những ý tưởng quốc tế về một nơi được gọi là 'China' thành một nơi gọi là Trung Quốc. Họ đi đến việc thấy quốc gia của họ như những người bên ngoài thấy nó - như một quốc gia có giới hạn với một lãnh thổ xác định. Để làm được như vậy, họ phải tuân theo các quan niệm của phương Tây về quốc gia, lịch sử, địa lí và trên hết là chủ quyền - mà chúng ta sẽ chuyển sang đó ở chương kế tiếp.

_______________________

1. Xi Jinping, Toast at the Welcoming Banquet of The Second Belt and Road Forum for International Cooperation, Beijing, 26 April 2019, https://www.chinadaily.com.cn/a/201904/27/WS5d9d3688a310cf3e3556f508.html

2. Matthias Mertens, “Did Richthofen really coin “The Silk Road”?', The Silk Road, vol. 17 (2019); Tamara Chin, “The Invention of the Silk Road, 1877', Critical Inquiry, 40/1 (2013), pp. 194-219, doi:10.1086/673232.

 3. C. R. Boxer (ed.), South China in the Sixteenth Century: Being the Narratives of Galeote Pereira, Fr. Gaspar de Cruz, O.P., Fr. Martin de Rada, O.E.S.A., London: The Hakluyt Society, second series, 106, 1953. 

4. Matteo Ricci, China in the Sixteenth Century: The Journals of Matthew Ricci, 1583-1610, compiled by Nicholas Trigault, translated from the Latin by Louis Gallagher, New York: Random House, 1953, pp. 6–7. 

5. Richard J. Smith, Mapping China and Managing the World: Culture, Cartography and Cosmology in Late Imperial Times, New York: Routledge, 2013. 

6. Peter K. Bol, ‘Middle-period Discourse on the Zhong Guo: The Central Country', in Hanxue Yanjiu (Chinese Studies), Taipei: Center for Chinese Studies, 2009, pp. 61– 106. 

7. Denis Twitchett, John King Fairbank and Michael Loewe, The Cambridge History of China: Volume 1, The Ch’in and Han Empires, 221 BC-AD 220, Cambridge: Cambridge University Press, 1987, p. 31. 

8. Constance A. Cook and John S. Major, Defining Chu: Image and Reality in Ancient China, Honolulu: University of Hawaii Press,1999, p. 4. 

9. Pamela Kyle Crossley, 'The Rulerships of China: A Review Article', American Historical Review, 97/5 (1992), pp. 1471-2. 

10. Junsei Watanabe, ‘Manchu Manuscripts in the Toyo Bunko', in Luís Saraiva (ed.), Europe and China: Science and Arts in the 17th and 18th Centuries, Singapore; Hackensack, NJ: World Scientific, 2013, p. 187. 

11. Cristina Costa Gomes and Isabel Murta Pina, “Making Clocks and Musical Instruments: Tomás Pereira as an Artisan at the Court of Kangxi (1673–1708)', Revisita de Cultura (International Edition), 51 (2016). 

12. Ibid., p. 9. 

13. Joseph Sebes, “The Jesuits and the SinoRussian Treaty of Nerchinsk (1689) The Diary of Thomas Pereira, S. J.', Bibliotheca Instituti Historici, vol. XVIII (1962), pp. 114 and 207. 

14. Arif Dirlik, 'Born in Translation: “China” in the Making of “Zhongguo”, Boundary (2015). 

15._Lydia Liu, The Clash of Empires: The Invention of China in Modern World Making, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004, p. 76. 

16. Hans van de Ven, Breaking with the Past: The Maritime Customs Service and the Global Origins of Modernity in China, New York: Columbia University Press, 2014 

17. Zhang Deyi (trans. Simon Johnstone), Diary of a Chinese Diplomat, Beijing: Chinese Literature Press, 1992, p. 11. 

18. Zhang Deyi, Sui Shi Fa Guo ji (“Random Notes on France'), Hunan: Renmin chuban she, 1982, p. 182; Liu, Clash of Empires, p. 80.

19. Luke S. K. Kwong, What's In A Name: Zhongguo (Or “Middle Kingdom”) Reconsidered, Historical Journal, 58/3 (2015), p. 799; Elisabeth Kaske, The Politics of Language in Chinese Education: 1895– 1919, Leiden: Brill, 2008, p. 80. 

20. Nicolas Tackett, The Origins of the Chinese Nation: Song China and the Forging of an East Asian World Order, Cambridge: Cambridge University Press, 2017, p. 3; Liu, Clash of Empires, p. 76, quoting Zhang, Riben Guo Zhi

21. Julia C. Schneider, Nation and Ethnicity: Chinese Discourses on History, Historiography, and Nationalism (1900s-1920s), Leiden: Brill, 2017, pp. 69–70. 

22._John Fitzgerald, Awakening China: Politics, Culture, and Class in the Nationalist Revolution, Stanford, CA: Stanford University Press,1996, p. 117. 

23. Viren Murthy, The Political Philosophy of Zhang Taiyan: The Resistance of Consciousness, Leiden: Brill, 2011, p. 67. 24. Ibid., p. 76.

25. Schneider, Nation and Ethnicity, p. 145. 

26. Ibid., chapter 3. 

27. Yunzhi Geng, An Introductory Study on China's Cultural Transformation in Recent Times, Berlin: Springer, 2015, p. 146. 

28. Frank Dikötter (ed.), The Construction of Racial Identities in China and Japan, Hong Kong: Hong Kong University Press, 1997, p. 45. 

29. Schneider, Nation and Ethnicity, pp. 222-3. 

30. Harold Schiffrin, Sun Yat-Sen and the Origins of the Chinese Revolution, Berkeley, CA: University of California Press, 1968, chapter 2. 

31. 驱逐鞑虏 [Qūzhú dá ru : khu trục Thát lỗ], 恢复中华 [Huīfù zhonghuá: khôi phục Trung Hoa] - with the Xingzhonghui's anti-Manchu oath rendered similarly with only a slight change to: 驱逐鞑虏  [Qüchú dá ru], 恢复中华 [Huīfù zhonghuá]. 

32. Tze-ki Hon, Revolution as Restoration: Guocui Xuebao and China's Path to Modernity, 1905-1911, Leiden: Brill, 2013, p. 3. 

33. Kenji Shimada, Pioneer of the Chinese Revolution: Zhang Binglin and Confucianism, Stanford, CA: Stanford University Press, 1990, p. 20; Murthy, Political Philosophy of Zhang Taiyan, p. 110. 

34. Liu, Clash of Empires, p. 77. 35. Schneider, Nation and Ethnicity, p. 154. 

36. Ibid., p. 158.

37. Arif Dirlik, 'Born in Translation: “China” in the Making of “Zhongguo”, paper presented at Institute for Social Sciences of the University of California Davis, co-hosted by Kreddha, 22–24 September 2016.

____________

Xem bản song ngữ: Chapter 1: The Invention of China

Lời mở đầu                  Chương 5                

Chương 2                     Chương 6               

 Chương 1                    Chương 7                  

 Chương 3                    Chương 8                              

 Chương 4                   Kêt luận.  

                    


No comments: