Wednesday, November 21, 2012

Phát biểu của Tổng thống Obama tại Đại học YANGON

Phát biểu của Tổng thống Obama
tại Đại học YANGON

TỔNG THỐNG OBAMA: Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay) Myanmar Naingan, Mingalaba! [Xin chào đất nước Myanmar](Tiếng cười và vỗ tay) Tôi rất vinh hạnh có mặt ở đây tại trường đại học này và là Tổng thống đầu tiên của Hoa Kì đến thăm đất nước của các bạn.

Tôi đến đây vì tầm quan trọng của quốc gia các bạn. Các bạn sống ở ngã tư đường của Đông và Nam Á. Các bạn tiếp giáp với hai quốc gia đông dân nhất hành tinh. Các bạn có một lịch sử lâu dài hàng ngàn năm, và có khả năng giúp xác định vận mệnh của khu vực phát triển nhanh nhất này trên thế giới.

Tôi đến đây vì vẻ đẹp và sự đa dạng của đất nước các bạn. Tôi đã thấy chỉ mới ngày hôm nay bảo tháp vàng Shwedagon, và đã xúc động bởi ý tưởng vượt thời gian của lòng từ bi (metta) - niềm tin rằng thời gian của chúng ta sống trên trái đất này có thể được xác định bằng sự khoan dung và tình yêu. Và tôi biết vùng đất này vươn từ các khu dân cư đông đúc của thành phố cổ này cho đến bản quán của hơn 60 000 làng quê, từ các đỉnh núi của dãy Himalaya, các khu rừng của bang Karen vươn cho tới hai bờ sông Irrawady.

Tôi đến đây vì lòng ngưỡng mộ của tôi đối với trường đại học này. Chính ở nơi đây tại ngôi trường này cuộc phản đối chế độ thực dân đầu tiên đã được tổ chức. Chính ở nơi đây Aung San đã biên soạn một tạp chí trước khi lãnh đạo phong trào độc lập. Chính ở nơi đây U Thant đã học được những con đường của thế giới trước khi dẫn dắt thế giới tại Liên Hiệp Quốc. Ở đây, việc học tập nghiên cứu đã phát triển mạnh trong thế kỉ qua và sinh viên đứng lên đòi các quyền cơ bản của con người. Bây giờ, cuối cùng Quốc hội của các bạn đã thông qua một nghị quyết đem lại sức sống mới cho trường đại học này và nó phải giành lại sự vĩ đại của mình, bởi vì tương lai của đất nước này sẽ được xác định bằng việc giáo dục thế hệ trẻ.

Tôi đến đây vì lịch sử giữa hai nước chúng ta. Một thế kỉ trước, các nhà buôn và các nhà truyền giáo Mĩ đã đến đây tạo dựng những mối quan hệ về của niềm tin và thương mại và tình hữu nghị. Và từ bên trong các biên giới này trong chiến tranh thế giới thứ II, các phi công của chúng tôi đã bay tới Trung Quốc và nhiều binh lính của chúng tôi đã hi sinh mạng sống của họ. Cả hai nước chúng ta đều từ Đế quốc Anh thoát ra, và Mĩ là một trong những nước đầu tiên công nhận Liên minh độc lập Miến Điện. Chúng tôi tự hào đặt một Trung tâm Mĩ tại Rangoon và xây dựng các trao đổi qua lại với các trường học như thế này. Và qua nhiều thập kỉ của sự khác biệt, người Mĩ đã thống nhất trong tình cảm của mình đối với đất nước này và nhân dân của nó.

Trên hết, tôi đến đây vì niềm tin vào phẩm giá con người của Mĩ. Trong nhiều thập kỉ qua, hai nước chúng ta đã trở thành người xa lạ. Nhưng hôm nay, tôi có thể nói với bạn rằng chúng tôi luôn luôn vẫn hi vọng về người dân của đất nước này, về các bạn. Các bạn đã cho chúng tôi hi vọng và chúng tôi làm chứng cho lòng can đảm của các bạn.

Chúng tôi thấy các nhà hoạt động mặc đồ trắng tới thăm gia đình các tù nhân chính trị vào ngày chủ nhật và các nhà sư mặc áo vàng (saffron) biểu tình một cách hòa bình trên các đường phố. Chúng tôi được biết những người dân bình thường đã tổ chức các đội cứu trợ để ứng phó với một cơn bão, và được nghe tiếng nói của các sinh viên và nhịp đập của các nghệ sĩ hip-hop thể hiện tiếng nói của tự do. Chúng tôi cũng biết những người lưu vong và người tị nạn không bao giờ mất liên lạc với gia đình của họ hoặc quê quán của họ. Và chúng tôi được gợi cảm hứng từ phẩm giá kiên cường của Daw Aung San Suu Kyi, khi bà chứng minh rằng không có con người nào thực sự có thể bị bỏ tù nếu hi vọng cháy bỏng trong trái tim họ.

Khi tôi nhậm chức tổng thống, tôi đã gửi một thông điệp tới các chính quyền cai trị bằng sự sợ hãi. Tôi đã nói, trong bài phát biểu mở đầu, "Chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu bạn sẵn sàng thả lỏng nắm tay của bạn". Và hơn một năm rưởi qua, một sự chuyển đổi nhanh chóng đã bắt đầu, khi một chế độ độc tài trong năm thập kỉ qua đã nới lỏng sự kìm kẹp của mình. Dưới quyền Tổng thống Thein Sein, mong muốn thay đổi đã được đáp ứng bởi một chương trình cải cách. Hiện nay Chính phủ có một lãnh đạo dân sự đứng đầu, và Quốc hội đang khẳng định chính mình. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vốn từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật đã đứng lên trong cuộc bầu cử, và bà Aung San Suu Kyi là một đại biểu Quốc hội. Hàng trăm tù nhân lương tâm đã được trả tự do, và lao động cưỡng bức đã bị cấm. Các thoả thuận ngừng bắn bước đầu đã đạt được với quân đội các nhóm sắc tộc, và các luật mới tạo điều kiện cho một nền kinh tế cởi mở hơn.

Vì thế, hôm nay, tôi đến để giữ lời hứa của mình và mở rộng bàn tay thân hữu. Bây giờ nước Mĩ đã có Đại sứ tại Rangoon, cấm vận đã được nới lỏng, và chúng tôi sẽ giúp xây dựng lại một nền kinh tế có thể tạo ra cơ hội cho người dân, và có tác dụng như là một động cơ tăng trưởng cho thế giới. Nhưng cuộc hành trình đáng chú ý này chỉ mới bắt đầu, và có nhiều điều phải đi xa hơn nữa. Cải cách được đưa ra từ phía trên cùng của xã hội phải đáp ứng nguyện vọng của những công dân hợp thành nền tảng của nó. Những đóm lửa lung linh của sự tiến bộ mà chúng ta đã thấy không phải bị tắt đi - chúng phải được làm sáng thêm, chúng phải trở thành một sao Bắc đẩu soi sáng cho mọi người dân của đất nước này.

Và thành công của các bạn trong nỗ lực đó là quan trọng đối với Hoa Kì, cũng như đối với tôi. Mặc dù chúng ta ở những nơi khác nhau, chúng ta cùng có những giấc mơ chung: được chọn lưa các lãnh đạo của chúng ta, được sống hòa bình với nhau, được hưởng một nền giáo dục và có một cuộc sống tốt, yêu thương gia đình và cộng đồng của chúng ta. Đó là lí do tại sao tự do không phải là một ý tưởng trừu tượng, tự do chính là điều làm cho tiến bộ loài người có thể xảy ra- không chỉ tại các thùng phiếu, nhưng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Franklin Delano Roosevelt, một trong những Tổng thống vĩ đại nhất của Mĩ, đã hiểu rõ sự thật này. Ông xác định cứu cánh của Mĩ là điều gì đó nhiều hơn chỉ quyền bỏ phiếu. Ông hiểu dân chủ không chỉ là việc đi bầu. Ông kêu gọi thế giới nắm lấy bốn quyền tự do cơ bản: tự do ngôn luận, tự do thờ phượng, (tự do) thoát khỏi sự bức bách của nhu cầu vật chất, và (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi. Bốn quyền tự do này củng cố lẫn nhau, và bạn không thể hoàn toàn thực hiện một mà không thực hiện tất cả chúng.

Vì vậy, đó là tương lai mà chúng ta tìm kiếm cho chính mình, và cho tất cả mọi người. Và đó là những gì tôi muốn nói chuyện với bạn ngày hôm nay.

Trước tiên, chúng tôi tin vào quyền tự do bày tỏ để tiếng nói của những người dân bình thường, có thể được nghe thấy, và các chính phủ phản ánh ý chí của họ - ý chí của nhân dân.

Tại Hoa Kì, hơn hai thế kỉ, chúng tôi đã làm hết sức mình để giữ lời hứa này cho tất cả các công dân của chúng tôi - giành được tự do cho những người bị bắt làm nô lệ, mở rộng quyền bầu cử cho phụ nữ và người Mĩ gốc châu Phi, bảo vệ các quyền của người lao động được có tổ chức.

Và chúng tôi nhận ra rằng không có hai quốc gia nào đạt được những quyền đó theo đúng cùng một cách, nhưng việc đất nước của bạn sẽ mạnh hơn nếu biết dựa trên sức mạnh của toàn dân là không có gì nghi vấn. Đó là cái cho phép các quốc gia thành công. Đó là cái mà cải cách đã bắt đầu làm.

Thay vì bị đàn áp, quyền của người dânđược tu tập với nhau bây giờ phải được tôn trọng đầy đủ. Thay vì bị kiềm chế, bức màn kiểm duyệt các phương tiện truyền thông phải tiếp tục được tháo dỡ. Và khi các bạn thực hiện các bước này, các bạn có thể dẫn tới sự tiến bộ. Thay vì bị lờ đi, các công dân phản đối việc xây dựng đập Myitsone đã được lắng nghe. Thay vì bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, các đảng phái chính trị đã được phép tham gia. Các bạn có thể thấy tiến bộ đã được thực hiện. Như một cử tri đã nói trong các cuộc bầu cử quốc hội ở đây, "Cha mẹ và ông bà của chúng tôi chờ đợi điều này, nhưng không bao giờ thấy nó tới". Và bây giờ bạn có thể nhìn thấy nó. Bạn có thể nếm mùi vị của tự do.

Và để bảo vệ tự do của tất cả các cử tri, những người nắm quyền phải chấp nhận những ràng buộc. Đó là những gì thể chế của Mĩ được thiết kế để làm. Hiện giờ, Mĩ có thể có quân đội mạnh nhất thế giới, nhưng nó phải chịu sự kiểm soát dân sự. Trên cương vị Tổng thống Hoa Kì, tôi đưa ra quyết định để quân đội thực hiện, không phải điều ngược lại. Là Tổng thống và Tổng tư lệnh, tôi có trách nhiệm đó bởi vì tôi chịu trách nhiệm đối với nhân dân.

Bây giờ, ngược lại, với tư cách Tổng thống, tôi không thể chỉ việc áp đặt ý chí của tôi lên Quốc hội - Quốc hội Hoa Kì - mặc dù đôi khi tôi ước mình có thể làm điều đó. Ngành lập pháp có quyền hạn riêng và đặc quyền riêng của nó, và do đó, họ kiểm soát quyền lực của tôi và cân bằng quyền lực của tôi. Tôi bổ nhiệm một số quan toà, nhưng tôi không thể bảo cho họ phán quyết như thế nào, bởi vì tất cả mọi người ở Mĩ từ một đứa bé đang sống trong nghèo đói cho tới tôi, Tổng thống Hoa Kì - đều bình đẳng trước pháp luật. Và một quan toà có thể đưa ra quyết định về việc liệu tôi có tôn trọng luật pháp hay vi phạm pháp luật. Và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước luật đó.

Và tôi mô tả hệ thống của chúng tôi tại Hoa Kì bởi vì đó là cách các bạn phải vươn tới cho tương lai mà bạn xứng đáng được hưởng - một tương lai trong đó dù chỉ một tù nhân lương tâm cũng là quá nhiều. Bạn cần phải vươn tới một tương lai ở đó pháp luật là mạnh hơn so với bất kỳ nhà lãnh đạo đơn lẻ nào, bởi vì nó chịu trách nhiệm đối với nhân dân. Các bạn cần phải vươn tới một tương lai mà không có trẻ em nào bị biến thành một người lính và không có phụ nữ nào bị bốc lột, và trong đó luật pháp bảo vệ họ ngay cả khi họ đang dễ bị nguy khốn, ngay cả khi họ yếu đuối, một tương lai trong đó an ninh quốc gia được củng cố bởi một quân đội phục vụ dưới quyền chỉ huy dân sự và Hiến pháp đảm bảo rằng chỉ có những người do dân bầu mới có thể cai trị.

Trên hành trình đó, Mĩ sẽ nâng đỡ các bạn từng bước trên đường- bằng cách sử dụng sự trợ giúp của chúng tôi để làm xã hội dân sự mạnh lên, bằng cách lôi kéo quân đội của các bạn nâng cao tính chuyên nghiệp và quyền con người, và bằng cách hợp tác với các bạn khi các bạn nối kết sự tiến bộ của các bạn hướng tới dân chủ với phát triển kinh tế. Vì vậy, thúc đẩy cuộc hành trình đó sẽ giúp bạn theo đuổi quyền tự do thứ hai - niềm tin rằng tất cả mọi người cần được (tự do) thoát khỏi sự thúc bách bởi các nhu cầu vật chất.

Đánh đổi ngục tù của sự không quyền lực bằng nỗi đau của một dạ dày trống rỗng là chưa tương xứng. Nhưng lịch sử cho thấy rằng các chính phủ của dân, do dân và vì dân là mạnh hơn rất nhiều trong việc tạo ra sự thịnh vượng. Và đó là quan hệ đối tác mà chúng tôi tìm kiếm với các bạn.

Khi những người bình thường có tiếng nói về tương lai của họ, thì đất của bạn không dễ bị tướt đoạt. Và đó là lí do tại sao cải cách phải đảm bảo rằng người dân của quốc gia này có thể có hầu hết những quyền sở hữu cơ bản đó - quyền sở hữu mảnh đất mà các bạn sống trên đó và làm việc trên đó.

Khi tài năng các bạn được cỡi trói, thì cơ hội sẽ được tạo ra cho tất cả mọi người. Mĩ đang bãi bỏ lệnh cấm các công ty kinh doanh tới làm ăn ở đây, và Chính phủ các bạn đã bãi bỏ các hạn chế về đầu tư và đã thực hiện các bước mở cửa nền kinh tế. Và bây giờ, khi nhiều của cải hơn đổ vào bên trong biên giới của các bạn, chúng tôi hi vọng và mong rằng nó sẽ nâng nhiều người lên hơn. Nó không thể chỉ giúp cho những người tầng lớp trên. Nó phải giúp cho tất cả mọi người. Và kiểu tăng trưởng kinh tế đó, tất cả mọi người trong đó đều có cơ hội - nếu bạn làm việc chăm chỉ, bạn có thể thành công - đó là cái làm một nước chuyển dịch nhanh chóng khi nó đi tớiphát triển.

Tuy nhiên, kiểu tăng trưởng đó chỉ có thể được tạo ra nếu tham nhũng bị bỏ lại phía sau. Để đầu tư dẫn đến cơ hội, cải cách phải thúc đẩy ngân sách minh bạch và công nghiệp do tư nhân làm chủ.

Lãnh đạo bằng nêu gương, Mĩ khẳng định rằng các công ty của chúng tôi đáp ứng các tiêu chuẩn cao về sự cởi mở và minh bạch nếu họ làm ăn ở đây. Và chúng tôi sẽ làm việc với các tổ chức như Ngân hàng Thế giới để trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và thúc đẩy một nền kinh tế cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân nhỏ phát triển mạnh và cho phép người lao động giữ lấy những gì họ kiếm được. Và tôi rất hoan nghênh quyết định mới đây của chính phủ các bạn tham gia vào tổ chức mà chúng tôi gọi là Quan hệ đối tác Chính phủ mở rộng của chúng tôi, để công dân có thể kì vọng tính chịu trách nhiệm và biết được chính xác các khoản tiền được chi tiêu như thế nào và hệ thống chính phủ vận hành ra sao.

Trên hết, khi tiếng nói của các bạn được chính phủ nghe thấy, có nhiều khả năng là các nhu cầu cơ bản của các bạn sẽ được đáp ứng. Và đó là lí do tại sao cải cách phải vươn tới cuộc sống hàng ngày của những người đang đói và những người đang bệnh, và những người sống không có điện, nước. Và ở đây, nước Mĩ cũng sẽ thực hiện phần của mình trong việc hợp tác với cácbạn.

Hôm nay, tôi tự hào thành lập lại phái bộ USAID của chúng tôi ở đất nước này, đó là cơ quan hướng dẫn phát triển của chúng tôi. Và Hoa Kì muốn làm một đối tác trong việc giúp đất nước này vốn từng là vựa lúa của châu Á, tái lập năng lực nuôi sống người dân, chăm sóc người bệnh, giáo dục trẻ em, và xây dựng thể chế dân chủ khi các bạn tiếp tục con đường cải cách.

Đất nước này nổi tiếng với nguồn tài nguyên thiên nhiên, và chúng phải được bảo vệ chống lại khai thác bừa bãi. Và chúng ta hãy nhớ rằng trong một nền kinh tế toàn cầu, nguồn tài nguyên lớn nhất của một nước là người dân. Vì vậy, qua việc đầu tư vào các bạn, quốc gia này có thể mở cánh cửa cho sự thịnh vượng hơn thêm nhiều - bởi vì mở khóa tiềm năng của một quốc gia phụ thuộc vào việc trang bị năng lực cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Đúng như giáo dục là chìa khóa cho tương lai của nước Mĩ, nó cũng sẽ là chìa khóa cho tương lai của các bạn. Và vì vậy chúng tôi mong muốn hợp tác với các bạn, như chúng tôi đã và đang làm với nhiều nước láng giềng của các bạn, để mở rộng cơ hội và đào sâu thêm các trao đổi qua lại giữa các sinh viên của chúng ta. Chúng tôi muốn sinh viên từ đất nước này đi đến Hoa Kì học hỏi chúng tôi, và chúng tôi muốn sinh viên Mĩ đến đây học hỏi các bạn.

Và sự thật này dẫn tôi đến quyền tự do thứ ba mà tôi muốn thảo luận: sự tự do thờ thờ phượng - tự do thờ phượng như các bạn muốn, và quyền của các bạn đối vớii phẩm giá con người cơ bản.

Đất nước này, giống như đất nước của tôi, được thiên nhiên phú cho sự đa dạng. Không phải ai cũng trông giống nhau. Không phải tất cả mọi người đến từ cùng một khu vực. Không phải tất cả mọi người thờ phượng theo cùng một cách. Tại các thành phố và thị trấn của các bạn, có đền, chùa, nhà thờ [đạo Ki tô] và nhà thờ đạo Hồi đứng cạnh nhau. Hơn một trăm nhóm sắc tộc đã là một phần của câu chuyện của các bạn. Tuy nhiên, trong các biên giới này, chúng tôi đã nhìn thấy một số trong các cuộc nổi dậy kéo dài nhất thế giới, chúng đã làm mất vô số mạng sống và xé rời nhiều gia đình và cộng đồng , và đứng chắn trên con đường phát triển.

Không có quá trình cải cách nào thành công mà không có hòa giải dân tộc. (Vỗ tay) Bây giờ các bạn có một thời khắc cơ hội đáng kể để chuyển các cuộc ngừng bắn thành một giải pháp lâu dài, và theo đuổi hòa bình ở nơi mà các mâu thuẫn vẫn còn nán lại, kể cả ở bang Kachin. Những nỗ lực này phải dẫn đến một nền hòa bình công chính và lâu dài hơn, bao gồm cả việc trợ giúp nhân đạo cho những người có nhu cầu, và một cơ hội cho những người di tản trở về quê.

Hôm nay, chúng ta nhìn vào vụ bạo động gần đây tại bang Rakhine vốn đã gây ra quá nhiều đau khổ, và chúng ta thấy sự nguy hiểm của tình trạng căng thẳng tiếp tục ở đó. Đã quá lâu, người dân của bang này, kể cả sắc dân Rakhine, phải đối mặt với cái nghèo và sự khủng bố nghiền nát. Nhưng không có lí do cho bạo lực đối với người dân vô tội. Và người Rohingya giữ cho chính họ mình – giữ bằng chính họ cùng một phẩm giá như các bạn, và tôi giữ.

Hòa giải dân tộc sẽ cần thời gian, nhưng vì lợi ích của nhân loại chung của chúng ta, và vì tương lai của đất nước này, cần phải ngăn chặn sự kích động và ngăn chặn bạo lực. Và tôi hoan nghênh việc chính phủ cam kết sẽ giải quyết các vấn đề về sự bất công và tinh thần trách nhiệm, và tiếp cận trợ giúp nhân đạo và quyền công dân. Đó là một tầm nhìn thế giới sẽ ủng hộ khi các bạn tiến về phía trước.

Mọi quốc gia đều vật vã trong xác định quyền công dân. Mĩ đã có cuộc tranh luận lớn về những vấn đề này, và những cuộc tranh luận đó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, bởi vì chúng tôi là một quốc gia của những người nhập cư - những người đến từ mọi nơi của thế giới. Nhưng những gì chúng tôi đã học được ở Mĩ là có một số nguyên tắc mang tính phổ quát, áp dụng cho tất cả mọi người dù bạn trông ra sao,dù bạn đến từ đâu, dù bạn đang theo tôn giáo nào. Quyền của người được sống mà không có các mối đe dọa rằng gia đình của họ có thể bị tổn hại hoặc nhà ở của họ có thể bị đốt cháy chỉ vì họ là một ai đó hoặc đến từ một nơi nào đó.

Chỉ có người dân của đất nước này cuối cùng có thể định nghĩa sự hợp nhất của các bạn, có thể định nghĩa một công dân của đất nước này có nghĩa là gì. Nhưng tôi có niềm tin rằng khi các bạn làm điều đó các bạn có thể nhận được sự đa dạng này như là một điểm mạnh chứ không phải là một điểm yếu. Đất nước của bạn sẽ mạnh hơn vì có nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng các bạn phải nắm bắt cơ hội đó. Các bạn phải nhận ra thế mạnh đó.

Tôi nói điều này bởi vì đất nước của tôi và cuộc sống của riêng tôi đã dạy cho tôi về sức mạnh của sự đa dạng. Hoa Kì là một quốc gia của những người theo đạo Kitô, người Do Thái, người đạo Hồi, đạo Phật, đạo Ấn và người không có đạo. Câu chuyện của chúng tôi được định hình bằng mọi ngôn ngữ, làm giàu bằng mọi nền văn hóa. Chúng tôi có những người có gốc gác từ mọi miền trên thế giới. Chúng tôi đã nếm trải vị cay đắng của cuộc nội chiến và sự phân biệt, nhưng lịch sử của chúng tôi cho chúng tôi thấy rằng sự thù hận trong lòng con người có thể vơi đi, các lằn ranh giữa các chủng tộc và các bộ tộc sẽ phai dần. Và những gì còn lại là một sự thật đơn giản: e pluribus unum [từ nhiều thành một]- đó là những gì chúng tôi nói ở Mĩ. Từ số nhiều đó, chúng tôi làm thành một quốc gia và chúng tôi làm thành một dân tộc. Và sự thật đó, lặp đi lặp lại, làm cho sự hợp nhất của chúng tôi mạnh mẽ hơn. Nó đã làm cho đất nước chúng tôi mạnh mẽ hơn. Nó là một phần trong những cái đã làm nước Mĩ vĩ đại.

Chúng tôi đã sửa đổi Hiến pháp để mở rộng các nguyên tắc dân chủ mà chúng tôi trân quý. Và tôi đứng trước các bạn hôm nay với cương vị Tổng thống của quốc gia mạnh nhất trên trái đất, nhưng thừa nhận rằng màu da của tôi đã từng bị từ khước quyền bầu cử. Và như thế điều đó sẽ cho bạn một ý thức nào đó rằng nếu đất nước của chúng tôi có thể vượt qua sự khác biệt thì các bạn cũng có thể làm được như thế. Mỗi một con người bên trong các biên giới này là một phần của câu chuyện của các bạn, và các bạn nên nắm giữ điều đó. Đó không phải là một nguồn làm yếu kém, đó là một nguồn sức mạnh - nếu bạn nhận ra nó.

Và điều đó dẫn tôi đến quyền tự do cuối cùng mà tôi sẽ thảo luận ngày hôm nay, và đó là quyền của tất cả mọi người được sống (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi.
Trong nhiều cách, sợ hãi là thế lực chặn giữa con người và những ước mơ của họ. Sợ xung đột và các loại vũ khí chiến tranh. Sợ một tương lai khác lạ với quá khứ. Sợ những thay đổi sắp xếp lại trật tự xã hội và nền kinh tế của chúng ta. Sợ những người trông có vẻ khác ta, hoặc đến từ một nơi khác lạ, hoặc thờ phượng theo một cách khác. Trong một vài giai đoạn đen tối nhất, lúc Aung San Suu Kyi bị cầm tù, bà đã viết một khái luận về (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi. Bà ấy nói sợ mất mát làm hư hỏng những người nắm lấy nó - "Sợ mất quyền lực làm hủ bại những người sử dụng nó, và sợ bị trừng phạt quyền lực làm đồi bại những ai phụ thuộc quyền lực"

Đó là nỗi sợ hãi mà bạn có thể để lại đằng sau. Chúng ta thấy rằng cơ hội ở các nhà lãnh đạo đang bắt đầu hiểu rằng quyền lực đến từ việc thoả mãn những hi vọng của dân, chứ không phải những sợ hãi của dân. Chúng tôi nhìn thấy điều đó ở những công dân khẳng định rằng lần này phải khác, rằng lần này thay đổi sẽ đến và sẽ tiếp diễn. Như bà Aung San Suu Kyi đã viết: "Sợ không phải là trạng thái tự nhiên của con người văn minh." Tôi tin điều đó. Và hôm nay, các bạn đang cho thế giới thấy rằng sự sợ hãi không phải là trạng thái tự nhiên của cuộc sống ở đất nước này.

Đó là lí do tại sao tôi ở đây. Đó là lí do tại sao tôi đến Rangoon. Và đó là lí do tại sao những gì xảy ra ở đây là rất quan trọng - không những đối với khu vực này mà còn đối với cả thế giới. Bởi vì bạn đang bước vào một cuộc hành trình có khả năng truyền cảm hứng cho rất nhiều người. Đây là một thử nghiệm liệu một quốc gia có thể chuyển tới một vị thế tốt đẹp hơn.

Hoa Kì là một quốc gia Thái Bình Dương, và chúng tôi thấy tương lai của chúng tôi cũng ràng buộc với những quốc gia và các dân tộc này ở phía Tây của chúng tôi. Và khi nền kinh tế của chúng tôi hồi phục, chính đây là nơi mà chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ tìm thấy sự tăng trưởng to lớn. Khi chúng tôi kết thúc các cuộc chiến tranh đã chi phối chính sách đối ngoại của chúng tôi trong một thập kỉ, khu vực này sẽ là một trọng tâm cho những nỗ lực của chúng tôi để xây dựng một nền hòa bình thịnh vượng.

Ở đây trong khu vực Đông Nam Á, chúng tôi nhìn thấy tiềm năng cho sự hội nhập giữa các quốc gia và người dân. Và với cương vị Tổng thống, tôi đã nắm lấy ASEAN vì lí do vượt ngoài thực tế là tôi đã sống một khoảng thời thơ ấu của tôi tại khu vực này, ở Indonesia. Bởi vì với ASEAN, chúng tôi thấy các nước đang trên đà chuyển tới- các nước đang lớn mạnh, và các nền dân chủ đang nổi lên; các chính phủ đang hợp tác nhau; tiến bộ đang xây dựng trên sự đa dạng chạy khắp các đại dương, các đảo, các cánh rừng và các thành phố, các dân tộc thuộc mọi chủng tộc và mọi tôn giáo. Đây là những gì thế kỉ 21 nên giống như thế nếu chúng ta có can đảm bỏ qua một bên sự khác biệt của chúng ta và bước tới trước với một ý thức quan tâm lẫn nhau và tôn trọng lẫn nhau.

Và ở đây tại Rangoon, tôi muốn gửi một thông điệp cho khắp châu Á: Chúng ta không cần phải được xác định bởi các ngục tù của quá khứ. Chúng ta cần phải nhìn về tương lai. Đối với lãnh đạo của Bắc Triều Tiên, tôi đã đưa cho một sự chọn lựa: hãy dẹp bỏ vũ khí hạt nhân và chọn con đường hòa bình và tiến bộ. Nếu quý vị làm như thế thì quý vị sẽ thấy có một bàn tay mở rộng từ Hoa Kì.

Vào năm 2012, chúng ta không cần phải bám vào sự phân chia Đông, Tây, Nam, Bắc. Chúng tôi hoan nghênh sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc, láng giềng phía Bắc của các bạn, và Ấn Độ, láng giềng phía Tây của các bạn. Liên Hiệp Quốc - Hoa Kì sẽ làm việc với bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, muốn đóng góp cho một thế giới hòa bình hơn và thịnh vượng hơn, và công chính hơn và tự do hơn. Và Hoa Kì sẽ là một người bạn với bất kỳ quốc gia nào tôn trọng các quyền của công dân mình và có trách nhiệm về luật pháp quốc tế.

Đó là đất nước, đó là thế giới mà bạn có thể bắt đầu xây dựng ở đây tại thành phố lịch sử này. Quốc gia này vốn bị quá cô lập có thể cho thế giới thấy sức mạnh của một khởi đầu mới, và chứng minh một lần nữa rằng cuộc hành trình tới dân chủ đi đôi với phát triển. Tôi nói điều này trong khi biết rằng vẫn còn có vô số người ở đất nước này, những người không được hưởng những cơ hội mà nhiều bạn ngồi đây được hưởng. Có hàng chục triệu người sống không có điện. Có những người tù lương tâm vẫn đang chờ đợi được thả ra. Có những người tị nạn và di tản trong các trại mà ở đó hi vọng vẫn còn là cái gì đó nằm ở chân trời xa xôi.

Hôm nay, tôi nói với các bạn, và tôi nói với tất cả mọi người có thể nghe thấy tiếng nói của tôi - rằng Hoa Kì ở với các bạn, kể cả những người đã bị lãng quên, những người bị tước đoạt, những người đang bị tẩy chay, những người nghèo khổ. Chúng tôi mang câu chuyện của các bạn trong đầu của chúng tôi và hi vọng của các bạn trong tim của chúng tôi, bởi vì trong thế kỉ 21 với sự lan toả của công nghệ và việc phá vỡ các rào cản, tuyến đầu của tự do nằm bên trong phạm vi các quốc gia và các cá nhân, không chỉ nằm giữa chúng.

Như một cựu tù nhân đã nêu ra trong nói chuyện với đồng bào của ông, "Chính trị là công việc của các bạn. Nó không chỉ dành cho [các] nhà chính trị". Và chúng tôi có một thành ngữ ở Hoa Kì rằng văn phòng quan trọng nhất trong một nền dân chủ là văn phòng công dân - không phải Tổng thống, Chủ tịch, mà là công dân. (Vỗ tay)

Vì vậy, cuộc hành trình này có thể có vẻ bất thường và khó khăn và đầy thử thách và đôi khi bực bội nhưng cuối cùng, các bạn, các công dân của đất nước này, là những người phải xác định tự do có nghĩa là gì. Các bạn là những người sẽ phải nắm bắt tự do, bởi vì một cuộc cách mạng thực sự về tinh thần bắt đầu trong mỗi trái tim của chúng ta. Nó đòi hỏi các loại can đảm mà rất nhiều các nhà lãnh đạo của bạn đã thể hiện.

Con đường phía trước sẽ được đánh dấu bởi những thách thức rất lớn, và sẽ có những người chống lại sức mạnh của sự thay đổi. Nhưng tôi đứng đây với lòng tự tin rằng những gì đang xảy ra ở đất nước này là không thể đảo ngược, và ý chí của người dân có thể nâng đất nước này lên và tạo nên một ví dụ tuyệt vời cho thế giới. Và các bạn sẽ có Hoa Kì là một đối tác với các bạn trên cuộc hành trình dài đó. Vậy, cezu tin bad de.[Xin cám ơn các bạn] (Vỗ tay)
Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay)

Thursday, November 15, 2012

Về quan hệ Việt - Mĩ

Chậm xích lại gần nhau
Sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đang đưa Việt Nam và Mĩ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài bao lâu?

Nayan Chanda

Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng bay lên khỏi bãi đáp trực thăng của toà Đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những kẻ chiến thắng bận rộn kéo lá cờ vàng sao Mặt trận Giải phóng Dân tộc lên trên cột cờ các cơ quan đại diện nước ngoài. Chỉ riêng toà Đại sứ như pháo đài của Mĩ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lí do của ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội đến quả quyết với tôi với một nụ cười: "Người Mĩ sẽ quay lại ngay mà." Như ông ta giải thích, "Người Mĩ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại việc tiến về phía Nam của Bắc Kinh."
Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Leon Panetta đã được bố trí một chuyến thăm trêu ngươi Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn có hình ảnh rõ rệt trong trí tưởng tượng chiến lược của Mĩ. Điều này không phải gợi rarằng Mĩ và Việt Nam đang sắp gần tới việc hợp tác chiến lược như người đối thoại Việt Nam của tôi mơ ước hồi năm 1975, nhưng cuộc hành trình ngoằn ngoèo của việc hoà giải và xích lại gần nhau giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện thú vị. Câu chuyện này cũng cho ra các bài học có giá trị về sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, tinh thần dân tộc, và ý thức hệ - đã định hình các biến đổi nhiều màu sắc đó. Lịch sử 2000 năm quan hệ yêu-ghét của Việt Nam với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, hoài bão dân tộc, và quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền đối với việc duy trì chế độ có thể giải thích con đường chông gai của việc bình thường hoá.
Vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh hồi năm 1975 bên Việt Nam đã hào hứng với chiến thắng lịch sử, mong muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ các cân nhắc địa chính trị to lớn, lạc quan về việc phục hồi nhanh chóng quan hệ với Washington có thể là cách nghĩ logic nhưng nó được dựa trên một sự hiểu lầm hoàn toàn động lực chính sách của Mĩ. Mặc dù Tổng thống Jimmy Carter mong muốn khôi phục lại mối quan hệ với tất cả các kẻ thù xưa ở châu Á, kể cả Trung Quốc, nhưng việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã tỏ ra là khó có thể xảy ra. Carter đã không chia sẻ quan điểm tầm xa của Việt Nam, và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh sâu đậm về tâm lí của Mĩ. Dù muốn có quan hệ với Washington để cân bằng quyền lực của Trung Quốc, Việt Nam lại là kẻ chiến thắng quá đỗi tự hào đến nỗi từ bỏ cả chiến lợi phẩm – món viện trợ tái thiết Mĩ đã hứa trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán bình thường hoá bị đổ vở vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự chuyển đổi kịch tính bất lợi cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỉ.
Bốn năm sau khi cuộc chiến tranh dài kết thúc, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên mặt trận phía bắc và phía tây. Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ tấn công vào biên giới phía tây [nam] vào các năm 1977-78 đã dẫn đến việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt ở phía Bắc Việt Nam vào năm 1979. Điều này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài một thập kỉ trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế trong nước và bị cô lập ở nước ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mĩ và Trung Quốc và sự ủng hộ liên minh do Khmer Đỏ lãnh đạo chồng chất thêm bởi việc mất sự ủng hộ từ Liên Xô đang diễn ra perestroika (đổi mới). Các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mĩ đã bị sa lầy bởi những yêu cầu không dứt Mĩ về kết toán tù binh chiến tranh và người mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, vốn không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì sỉ nhục quốc gia Mĩ, đã tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước qua việc đưa hài cốt các lính trận bỏ mình về nước và duy trì một lệnh cấm vận thương mại gây tê liệt áp đặt từ năm 1975. Để vượt lên các bất ổn kinh tế và cô lập ngoại giao, Việt Nam đã tiến hành đổi mới và bắt đầu rút quân khỏi Campuchia, và việc này hoàn thành vào năm 1989.
Vào lúc Việt Nam gần rút quân, theo yêu cầu của Mĩ và ASEAN, và tham dự cuộc đàm phán với họ về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị lại thay đổi một lần nữa. Việc Trung-Xô xích lại gần nhau và việc Bắc Kinh bị quốc tế cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn không những làm thay đổi môi trường bên ngoài mà còn cũng dấy lên những lo ngại về an toàn của chế độ này. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại quảng trường Thiên An Môn, và sự sụp đổ như các con cờ domino của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đến ngay sau đó vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Dù Việt Nam vô cùng cần viện trợ và buôn bán với phương Tây, nhưng họ lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa dưới danh nghĩa trợ giúp. Cái gọi là lộ trình cho việc bình thường của chính quyền George HW Bush đã được nhìn với sự nghi ngờ sâu đậm. Nhà Ngoại giao hàng đầu của Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thất bại trong việc đạt tới bình thường hoá, mặc dù đã có nhiều nhượng bộ về MIA và rút khỏi Campuchia, dẫn Hà Nội đến việc thay đổi đường hướng chống Trung Quốc. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 04 và 05 tháng 9 năm 1990. Việc xuống thang dần dần cho cuộc xung đột Trung Quốc với Việt Nam và thỏa thuận thành lập chính phủ liên hiệp tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc đã được đặt nền móng.
Với bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc đang diễn tiến, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn rất thủ thế chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính phủ Dân chủ thời Bill Clinton đã tỏ ra khó khăn đối với Việt Nam hơn là chính phủ Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã tăng áp lực về MIA và vi phạm quyền con người. Dù vậy giới kinh doanh đã nhìn thấy nhiều cơ hội ở Việt Nam và việc vận động hành lang phối hợp của họ đã buộc Washington cuối cùng đồng ý làm dịu lập trường của mình. Tháng 2 năm 1995, Mĩ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam, và thông báo quan hệ ngoại giao sẽ được khôi phục đến vào tháng 7 có . Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng 8 năm 1995 (hơn 30 năm tròn sau khi chiến tranh kết thúc), Bộ trưởng Ngoại giao Warren Christopher giương cờ sao sọc của Mĩ trong Toà Đại sứ Mĩ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã chuyển đi. Việt Nam không còn quan tâm đến một liên minh chiến lược theo nhiều cách như trước để mở cửa nền kinh tế với thế giới và, cụ thể là giành được tình trạng nước tối huệ trong thương mại.
Sự dè dặt của Việt Nam sợ bị xem như là một đồng minh của Mĩ chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng vào tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã kiếm cách riêng để thông báo rằng không có bàn chuyện gì về quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, chỉ thị bí mật của Ủy ban Trung ương yêu cầu các đảng viên phải tỏ vẻ ‘lạnh nhạt’ với Clinton. Khoảng cách giữa Đảng Cộng sản và nhân dân đã không thể lộ rõ hơn. Tôi đã thấy hàng ngàn thanh niên Sài Gòn vượt qua các rào cản của cảnh sát nhào tới chiếc xe limo của tổng thống la to "Bill, Bill!" Đối với Đảng, chính nước Mĩ hạ mình và công nhận Việt Nam chứ không phải Việt Nam tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mĩ vì nhắm vào hướng bắc. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã giảng cho tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống xâm lược của Việt Nam, mà không thảo luận về quan hệ hiện tại hay tương lai với Hoa Kì. Vì thế, Việt Nam đã phải chờ thêm ba năm nữa khi có sự thay đổi trong môi trường bên ngoài.
Chính quyền Tổng thống Bush nhiệm kì hai dường như chuyển ra khỏi thái độ có vẻ bợ đỡ của Mĩ đối với Trung Quốc khi sự cố máy bay EP-3 gián điệp rộ lên. Thậm chí trước khi có căng thẳng về máy bay do thám này, nhiều tiếng nói quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương cơ bắp của Trung Quốc. Một trong những tác giả bài báo cáo của tập đoàn RAND là Zalmay Khalilzad, người sẽ trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kì nên tăng cường sự hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực đang tăng của Trung Quốc. Báo cáo này chỉ ra rằng "có một logic cơ bản đối với việc hợp tác giữa Hoa Kì và Việt Nam để ngăn chặn Trung Quốc tranh ngôi bá quyền khu vực." Khi Washington bắt đầu chú trọng vào việc thay đổi thế cân bằng trong khu vực Đông Á, sự quan tâm đối với Việt Nam mang ý nghĩa chiến lược.
Việt Nam cũng thế, lo lắng về việc Trung Quốc tiếp tục lấn tới ở biển Đông và ở các nước dọc theo ngoại biên của Việt Nam. Trong tháng 6 năm 2003 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đảng ước đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng thuận lợi và Việt Nam phải có những nỗ lực để phát triển các quan hệ với Mĩ. Như Việt Nam đã nói với các quan chức Mĩ, "Thế cân bằng tam giác đã mất." Quan hệ của Mĩ với Việt Nam rất yếu, trong khi mối quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực cũng đã tăng lên. Nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là lần ghé cảng thành phố Hồ Chí Minh đầu tiên của tàu của Hải quân tàu USS Vandergrift.
Điểm cao trong quan hệ nồng ấm đến vào tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết họ "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và họ đồng ý hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này." Việc đưa vào cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo chung là điều gợi ý công khai duy nhất rằng các mối quan hệ đã vượt qua khỏi các quan tâm song phương hoặc thậm chí quan tâm cả khu vực - Đông Nam Á. Ông Khải đã ký một hiệp ước về tình báo với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia trong việc chia sẻ thông tin tình báo với Washington.
Trong bối cảnh sức mạnh ngày càng tăng và sự quyết đoán của Trung Quốc ở biển Đông quan hệ Mĩ-Việt Nam đã trở nên sâu đậm thêm. Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton thăm Hà Nội trong cuộc họp cấp Bộ trưởng của ASEAN năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan ngại của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kì và Việt Nam đi vào thảo luận nâng cao quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ quân sự đã tăng lên. Trong chuyến thăm Washington của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003, hai bên đã quyết định rằng các chuyến thăm cùng cấp qua lại sẽ diễn ra ba năm một lần. Kể từ đó Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ đã thăm viếng qua lại nhau 4 lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút sự chú ý nhiều hơn mức thông thường trong bối cảnh quan hệ Mĩ-Trung đang xấu đi. Panetta đã được sắp xếp một chuyến viếng thăm Vịnh của Cam Ranh, nơi đã từng là căn cứ cho các máy bay ném bom tầm xa và trang thiết bị của hải quân Liên Xô.
Dù quan hệ đã phát triển nhảy vọt trong thập kỉ qua, sự tương tác của ba yếu tố đã nêu tiếp tục điều chỉnh các mối quan hệ. Một Trung Quốc mạnh mẽ về quân sự đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đói với chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ gần đây. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt và Đảng Cộng sản Trung Quốc có chung mối quan ngại về sự đe dọa phương Tây đối với thể chế của họ, đồng thời lại tìm kiếm hợp tác kinh tế với phương Tây để xây dựng một đất nước cường thịnh.

Năm 1978, nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Đoàn Huynh, giải thích logic đằng sau việc Việt Nam vun đắp quan hệ với Moskva: "Trong toàn bộ lịch sử, chúng tôi an toàn đối với Trung Quốc chỉ trong hai điều kiện. Một điều kiện là khi Trung Quốc bị yếu và nội bộ chia rẽ. Điều kiện khác là khi TQ bị người rợ phía bắc đe doạ. Trong thời đại hiện nay, Nga là người rợ của chúng tôi" Cùng logic đó có thể áp dụng cho nhu cầu của Việt Nam vun bồi quan hệ với Mĩ hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc không trở nên quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường lưu ý người nước ngoài, một nước có thể chọn bạn nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên dù có thể hấp dẫn, Việt Nam sẽ tránh liên minh quân sự với Washington vì có thể kích động sự thù địch của người láng giềng khổng lồ của họ hoặc làm cho chính phủ Việt Nam dễ bị Mĩ áp lực về dân chủ và quyền con người. Việc hai nước xích gần nhau là có thật nhưng các giới hạn cũng là có thật

Sunday, November 11, 2012

Con đường trước mặt ở biển Đông

Đây là bài viết của David Brown, một nhà ngoại giao Mĩ đã nghỉ hưu. Trong bài tác giả hướng ASEAN theo con đường có thể có lối ra cho tranh chấp biển Đông nhưng khá 'sốc' và cũng thật 'phũ phàng' đối với các nước nhỏ như VN ta . Xin dịch lại giới thiệu với mọi người cùng tham khảo.
---------------------------------------------------------------------------------------------------

Con đường trước mặt ở biển Đông
(Asia Times 7-11-12)
David Brown

Những hi vọng to tát không thực tế đã được đầu tư vào ý tưởng rằng Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo thành một bức tường thành chống lại sự bành trướng của Trung Quốc tới các nước Đông Nam Á. Người ta nghĩ rằng các nước ASEAN, do bị yêu sách "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với các "vùng nước liên quan" của Trung Quốc có vẻ vươn gần đến Singapore làm gắn bó lại với nhau, sẽ xác định rõ lợi ích chung và vạch một lằn ranh mà các cường quốc không thuộc khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt là Hoa Kỳ có thể hậu thuẫn.

Tuy nhiên, ASEAN hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận và thương lượng không đối đầu, trong trường hợp này là một lỗ hổng chết người. Bốn trong số 10 thành viên của nó - Myanmar, Campuchia, Lào và Thái Lan – luôn đặt ưu tiên gìn giữ mối quan hệ song phương mặn nồng với Trung Quốc lên trên sự thống nhất của ASEAN. Do chia rẽ như vậy, các thành viên của ASEAN đã bàn bạc không có kết thúc để tìm kiếm một khuôn khổ thoả mãn tối thiểu tham vọng của Bắc Kinh.

Về điều này, họ đã nhận được không nhiều sự giúp đỡ từ Bắc Kinh. Trung Quốc lẫn tránh mọi đề nghị của ASEAN về việc thiết lập chế độ quản lí xung đột, bao gồm cả cái gọi là Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Bắc Kinh sẽ không đồng ý việc trọng tài phân xử các yêu sách đối nghịch nhau hoặc thậm chí các cuộc thảo luận với nhiều hơn một nước cùng một lúc. Thậm chí Trung Quốc cũng chẳng màng đến việc chỉ làm rõ các yêu sách của họ ở biển Đông là gì. Và như vậy, trong hai thập kỉ qua, vô số các cuộc họp ASEAN đều gác lại công việc này.

Bốn trong số 10 nước thành viên ASEAN ở tuyến đầu của tranh chấp. Malaysia, Brunei, Philippines và Việt Nam yêu sách chủ quyền đối với tất cả hay một phần quần đảo Trường Sa, một khu vực gồm các rạn đá, đảo đá và đảo nhỏ nằm lổn nhổn đầu phía nam của biển Đông. Kiểm soát các "thể địa lí" sẽ có thể yêu sách chủ quyền vùng biển xung quanh chúng. Việt Nam và Philippines yêu sách thêm các đảo nhỏ và các rạn đá xa hơn về phía bắc gần hơn về phía Trung Quốc.

Đối với Hà Nội, những yêu sách này gồm cả quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa bờ biển miền trung Việt Nam và đảo Hải Nam, các đảo nhỏ mà Bắc Kinh giật lấy từ các chế độ đã chết Nam Việt Nam vào năm 1974 và ở đó, đầu năm nay, Bắc Kinh dựng lên một quận làm bung xung được cho là bao hết các yêu sách phình to của họ ở biển Đông. Đối với Manila, yêu sách bao gồm bãi cạn Scarborough, khu vực nhiều cá ngoài khơi chỉ cách bờ biển đảo Luzon 200 km, nơi đó hồi tháng 4 họ đã bước ra khỏi một cuộc đối đầu kết thúc nhanh với các tàu tuần dương Trung Quốc.

Không có gì đáng ngạc nhiên, chính Philippines và Việt Nam đã vận động mạnh mẽ nhất cho một đáp trả mạnh mẽ đối với tham vọng của Trung Quốc muốn thống trị các vùng biển trải dài gần 2.000 km về phía nam đảo Hải Nam. Sự nôn nóng của Manila và của Hà Nội lôi kéo hải quân Mĩ can dự có thể là một yếu tố trong tranh chấp đã khiến một số anh em ASEAN của họ khó chịu.

Ngược lại, Malaysia và Brunei đã chủ trương giữ yêu sách nhỏ nhoi hơn. Họ đã giải quyết ổn thoả yêu sách giữa họ với nhau và với Việt Nam, dựa trên các khái niệm được hệ thống hóa trong Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) và luật điều ước quốc tế. Cả hai đã đứng tách khỏi những nỗ lực của Việt Nam và Philippines trong việc bảo vệ yêu sách của họ ở vùng biển phía bắc. Mặc dù có thể không khoan nhượng về tư tưởng, Kuala Lumpur và Bandar Seri Begawan dường như đã cố hi vọng ngược với các bằng chứng đang tăng rằng sự háo ăn của Trung Quốc có thể nuốt hết các vùng biển mà họ yêu sách.

Indonesiavà Singapore cũng chia sẻ mối quan tâm trong việc ngăn cản Trung Quốc theo đuổi các yêu sách phình to của họ. Các vùng biển trong đường chín đoạn tai tiếng của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền khu kinh tế (EEZ) của Indonesia trong vùng phụ cận của quần đảo Natuna. Jakarta và Singapore cho đến bây giờ đã làm nổi bậc bản thân họ là những người ủng hộ chính cho một "giải pháp ASEAN", với Singapore như thường lệ trì hoãn công khai đối với sự lãnh đạo của Indonesia.

Trong khi nhận là sẵn sàng giải quyết mọi thứ song phương, Trung Quốc vẫn cứ ì ra với yêu sách quyền lịch sử trong tất cả các vùng biển bên trong đường chín đoạn. Như vậy Bắc Kinh đang khẳng định quyền sở hữu các nguồn tài nguyên biển trong hơn 85% biển Đông, mặc dù UNCLOS quy định rằng tất cả các quốc gia đều có quyền chủ quyền độc quyền trong khai thác vùng biển liền kề từ bờ biển của họ ra xa đến 200 hải lí, hoặc hơn nữa nếu thềm lục địa của họ rộng hơn, trừ khi chúng giáp với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác. Trung Quốc đã một mực bác bỏ các quy định của UNCLOS, qua việc tuyên bố các thủy thủ và ngư dân của họ đã sử dụng những vùng biển này từ thời xa xưa.

Tất cả các bên tranh chấp đều có thể viện dẫn tiền lệ lịch sử để biện minh cho yêu sách của mình. Trong nhiều thiên kỉ, biển Đông là một vùng biển chung của toàn cầu. Việt Nam có thể đưa ra hàng tá bản đồ và văn bản nhà nước thế kỉ 18 chứng minh một sự quan tâm bền bỉ nhiều hơn đáng kể trong việc thực hiện chủ quyền đối với các đảo san hô khác nhau ở biển Đông so với Trung Quốc. Giống như ở Trung Quốc, các tài liệu vàng ố này hung nóng tình cảm dân tộc.

Tuy nhiên, lập luận lịch sử không cho ra một lối thoát khỏi mớ bong bong các yêu sách, trừ khi ít ra một số tay chơi ở phía Trung Quốc tin rằng, lâp luận đó được hậu thuẫn bằng sức mạnh không thể bác được. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì có phát biểu nổi tiếng tại cuộc họp ASEAN tổ chức vào tháng 8 năm 2010 rằng: "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ, và đó đơn giản là một thực tế."

Vùng nước bị khuấy động
Trong nhiều năm nay, hi vọng về một bước đột phá ngoại giao đã tăng lên trong những tháng mùa thu vào lúc biển Đông xáo động bởi gió mùa. Thời tiết dịu hơn đến, các hành động khiêu khích của Bắc Kinh lại nhân lên, đặc biệt hướng vào việc quấy rối ngư dân Việt Nam và Philippines và dọa các công ty năng lượng thăm dò triển vọng dầu khí đáy biển theo giấy phép do Hà Nội hay Manila cấp.

Bắc Kinh đã dựa vào hàng trăm tàu "an toàn hàng hải" và “bảo vệ thủy sản" có vũ trang để mở rộng sự kiểm soát của họ, trong khi lấp ló phía chân trời là lực lượng hải quân nhân dân ngày càng mạnh của họ. Không có gì đáng ngạc nhiên, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Singapore nỗ lực gấp đôi để xây dựng sức mạnh không và hải quân của họ. Philippines là kẻ đến muộn trong việc tăng cường quân sự ở biển Đông. Mặc dù Manila đã được thúc đẩy bởi các cuộc xung đột gần đây với Trung Quốc, lực lượng của họ đặc biệt yếu về hoả lực.

Chính sự giàu có dự kiến về dầu và khí đốt dưới đáy biển, được gói trong nỗi hận nhụt chí từ lâu về sự lăng nhục của nước ngoài, đang lôi kéo nỗ lực của Trung Quốc đưa biển Đông về dưới thống trị của mình. Việc ASEAN không bàn ra được một lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đang tăng lên này, việc Trung Quốc áp dụng không ngơi nghỉ chiến lược "đàm và lấy", và việc can dự tất yếu xảy ra của Mĩ trong những xung đột này đã khiến các chuyên gia thất vọng.

Chính việc hiểu rõ một Trung Quốc hay trả thù có thể tự sắp xếp nên chiếm ưu thế như thế nào trong cuộc tranh chấp hiện nay đã đánh thức Mĩ. Washington không thích đánh nhau và vẫn chưa rõ Mĩ có thể sẽ phản ứng ra sao nếu Việt Nam hoặc Philippines hoặc thậm chí Singapore rõ ràng trượt vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, dường như khá chắc chắn rằng Washington quyết tâm ngăn chặn không để Bắc Kinh kiểm soát việc lưu thông ngang qua Biển Đông

Nếu ASEAN không lấp đầy lỗ trống, thì ai vào đây? Mĩ và phần còn lại của thế giới cần phải có lập luận vững chắc để biện minh cho sự can dự lâu bền và có hiệu quả. Do mới đây bị cháy bỏng bởi con ngáo ộp vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq, công chúng Mĩ cảnh giác về một cuộc phiêu lưu quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản vốn cảnh giác với một tư thế quyết đoán. Nếu các quốc gia Đông Nam Á dọc bên bờ biển này mong muốn Mĩ và các đồng minh làm cái gì đó nhiều hơn là chỉ thể hiện quyết tâm bảo vệ tự do lưu thông qua biển Đông thì họ phải làm một điều gì thuyết phục rằng họ cần và đáng giúp đỡ.

Nhiều người trong cơ quan chính sách đối ngoại phương Tây tin rằng Mĩ nên là một đối tác của "Trung Quốc trỗi dậy." Các căng thẳng gia tăng tại biển Đông là một mối đe dọa cho viễn cảnh về một cộng đồng Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng. Sẵn sàng nhường lại phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc, giống như ASEAN họ nói rằng họ sẽ không đứng về bên nào trong tranh chấp. Nhiều "nhà tư tưởng chiến lược" phương Tây vẫn còn bàn luận về các cuộc đối đầu như thể tất cả các bên đều có lỗi như nhau.

Tuy nhiên, nhận thức này có thể thay đổi. Tất cả những gì cần thiết là Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam nên thương lượng một vị thế chung mà họ có thể thực hiện bằng cách làm rõ, nếu không dàn xếp được, các yêu sách của họ với nhau bằng cách áp dụng các quy định của UNCLOS và luật pháp quốc tế nói chung. Họ cũng có thể nhờ trọng tài cho các tranh chấp còn tồn lại. Hai nước không có tranh chấp Indonesia và Singapore có thể ủng hộ một quá trình của các nhà nước ASEAN như thế.

Kết quả ngay lập tức sẽ là việc làm rõ yêu sách hiện đang chồng chéo của bốn quốc gia này đối với các đảo, rạn đá và đảo đá của quần đảo Trường Sa. Họ có thể nhắm tới việc thoả thuận về "khu vực biển" mà các thể địa lí này tạo ra, và qua đó thiết lập các giới hạn địa lí của khu vực tranh chấp. Điều đó sẽ lại làm rõ ý nghĩa của những yêu sách này đối với việc kiểm soát các vùng biển xung quanh.

Về các yêu sách bên ngoài khu vực Trường Sa, một món hời được cho là chỉ tốt hơn so với không có gì. Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa gần bốn thập kỉ qua và bây giờ có vẻ cũng quyết tâm giữ chắc bãi cạn Scarborough. Tại thời điểm này, khẳng định thành công về các quyền lịch sử của Việt Nam và Philippines đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp dường như vô vọng.

Một tiến trình thực dụng sẽ là cố đòi Bắc Kinh công nhận vùng đặc quyền kinh tế được tạo ra theo các quy định của UNCLOS, một tiến trình mà nếu được tôn trọng có thể trả lại phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như bãi cạn Scarborough cho Philippines. Điều này Malaysia, Brunei, Indonesia và Singapore nên ủng hộ, mặc dù họ đã né tránh việc thừa nhận yêu sách quyền lịch sử.

Các bước này, có lẽ đạt tới được sau một vài tháng đàm phán căng thẳng và bí mật, sẽ thiết lập một nền tảng cho giải pháp hòa bình cho những gì mà bây giờ không thể phủ nhận là một cuộc khủng hoảng. Nó cũng sẽ tạo cho Hoa Kì và bạn bè một cơ sở vững chắc để ủng hộ mạnh mẽ, và thậm chí – nếu phải tới mức đó - can thiệp quân sự.

Hành trang Lịch sử
Trung Quốc, với ban lãnh đạo được đổi mới và xác định trong nhiều năm tới, vào lúc đó có thể sẽ tìm kiếm cách quay ra khỏi cuộc đối đầu. Những người phát ngôn của Trung Quốc đôi lần cho biết rằng các yêu sách nên được giải quyết theo luật pháp quốc tế, và trong khi chờ giải pháp như vậy các thỏa thuận khai thác chung các nguồn tài nguyên của biển Đôngcó thể có tác dụng làm giảm căng thẳng.

Tuy nhiên sẽ không dễ làm cho Trung Quốc quay lưng lại với các yêu sách lịch sử của họ. Một bước lùi như vậy là khó tưởng tượng được trừ khi Việt Nam cũng thực hiện giống như thế - nghĩa là, trừ khi Hà Nội cũng đồng ý xác lập ranh giới biển chỉ dựa trên UNCLOS, và các nguyên tắc liên quan của luật quốc tế.

Giống như Trung Quốc, Việt Nam đang đầu tư mạnh vào lập luận lịch sử. Thật vậy, một số học giả độc lập nói rằng dựa trên bằng chứng lịch sử các yêu sách của Hà Nội đối với các đảo tranh chấp là trội hơn. Sẽ không dễ dàng hơn chút nào cho Việt Nam đặt lịch sử lên giá, xét cho cùng, đó là một quốc gia đã tôi luyện bản sắc của mình qua việc đập tan những cuộc xâm lược Trung Quốc cứ mỗi vài trăm năm một lần kể từ 938 AD Và, trừ khi hai đối thủ lâu đời và không cân xứng này có thể vượt lên trên lịch sử cay nghiệt đó, có rất ít cơ hội cho một kết thúc có hậu cho cuộc khủng hoảng hiện tại biển Đông.

Một số sẽ cho rằng bác bỏ yêu sách lịch sử của Trung Quốc và đưa ra một vị thế đàm phán chung được xác lập dựa trên các nguyên tắc pháp lí vững chắc chỉ đơn giản là sẽ chọc giận siêu cường đang lên của châu Á. Tuy nhiên, thật khó tưởng tượng rằng không chống lại tham vọng của Trung Quốc có thể dẫn đến một kết quả tốt hơn.

Hiện vẫn còn một kịch bản có nhiều hi vọng. Do bị thúc đẩy bởi nhận thức rằng thời gian đã hết, bốn nước ASEAN tranh chấp vạch ra ranh giới biển giữa họ với nhau bằng cách áp dụng các nguyên tắc pháp lí có liên quan. Được hậu thuẫn về kế hoạch của Indonesia và Singapore, nếu không phải là của cả tập thể ASEAN, họ thông báo sẵn sàng bước vào đàm phán với Trung Quốc trên cùng một cơ sở. Thay vì chối bỏ những gì đã đạt được cho đến nay hay khăng khăng rằng sẽ chỉ đàm phán song phương, Trung Quốc nên đồng ý với quá trình này. Trong tương lai gần, một thỏa thuận chi tiết nhìn nhận TQ làm chủ hầu hết quần đảo Hoàng Sa và có các chỗ tựa chân ở quần đảo Trường Sa sẽ được bàn thống nhất.

Sau đó các bên chuyển sang thảo luận các vấn đề có liên quan, ví dụ như Bộ quy tắc ứng xử. Đó sẽ không phải là tài liệu từng bị dìm xuống mà ASEAN đã thảo luận mà là một tài liệu mạnh mẽ hậu thuẫn các cách dàn xếp về lãnh thổ thảo luận ở trên. Việc cùng nhau khai thác các nguồn năng lượng có thể kết hợp với các yếu tố khác nhau của một tương lai có tính xây dựng trong biển Đông Sau đó, các bên có thể đồng ý để 'cửa mở' cho các thực thể (cơ quan) của tất cả các quốc gia ven biển hành xử với trách nhiệm.

Nói cách khác, bất kì chế độ quản lí biển Đông nào đều không thể lâu bền, trừ khi nó đảm bảo các thực thể của Trung Quốc tiếp cận công bằng các nguồn tài nguyên biển của khu vực. Các nước ven biển khác phải đón tiếp và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và liên doanh của Trung Quốc, bao gồm cả việc Trung Quốc tham gia khai thác hidrocarbon đáy biển. Thủy sản có thể được quản lí chung và theo hướng lâu bền, và tuần tra chung có thể thực thi các quy tắc đã thoả thuận. Cuối cùng, các nước ven biển và các nước đi biển chính có thể đàm phán các quy định chi phối các kênh vận chuyển biển, việc thông báo và các quyền đi lại trong biển Đông.

Một số có thể phản đối rằng kịch bản có hậu này sẽ nguy hiểm chết người đối với các nguyên tắc tổ chức và thực hành lãnh đạo vốn là hiện thân của cái gọi là "cách của ASEAN". Tuy nhiên, thừa nhận rằng trong trường hợp này ASEAN đã không làm mô hình đồng thuận có tác dụng, sẽ có khả năng làm hiệu quả tổng thể của tổ chức ít hao mòn hơn là tiếp tục nỗ lực không hiệu quả để khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong các tranh chấp đang tăng lên.

David Brown là một nhà ngoại giao Mĩ đã nghỉ hưu viết về Việt Nam đương đại. Có thể tiếp xúc ông tại nworbd@gmail.com.

Monday, November 5, 2012

Trò chơi đoán ở Trung Quốc

Trò chơi đoán ở Trung Quốc
David Ignatius (WP 3/11/2012)

Khi ngày bầu cử tới gần, sẽ có ích khi nhìn vào quá trình chuyển đổi chính trị mù mờ đang diễn ra tại Trung Quốc trong tháng này. Đó là một gợi nhớ về những lợi ích của nền dân chủ đôi khi hỗn loạn của Mỹ.

Người Trung Quốc đang đối mặt với việc chuyển đổi chính trị mười năm một lần khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chuẩn bị chuyển giao quyền lực cho Tập Cận Bình, người thừa kế được chỉ định từ lâu. Nhưng bên dưới bề mặt đã nấu chín sẵn này, nhiều vấn đề quan trọng vẫn còn đang sôi sụt, với một Đại hội Đảng Cộng sản có tính quyết định dự kiến bắt đầu vào thứ Năm này.

Hãy tưởng tượng nếu thứ Ba này Hoa Kỳ phải quyết định không những tổng thống và các thành viên Quốc hội – mà còn cả quy mô và phạm vi của ngành hành pháp, việc giám sát quân đội và các quy định hiến pháp mới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc được cho rằng vẫn còn đang mặc cả về tất cả những vấn đề này vào đêm trước của đại hội đảng ở phía sau một bức màn bí mật tạo nguồn cấp cho các tin đồn và các bàn tán vĩa hè.

Việc chuyển đổi chính trị sắp tới sẽ thay thế hầu hết các thành viên của hai cơ quan điều hành chính của đất nước này- Ban thường vụ Bộ Chính trị của đảng và Quân Ủy Trung ương. Điều đáng ngạc nhiên là thậm chí những chuyên gia Mỹ nắm thông tin tốt nhất cũng biết rất ít về các quyết định nhân sự sẽ được thực hiện như thế nào.

Với việc thiếu minh bạch của Trung Quốc, đề tài bí hiểm này chỉ dành chủ yếu cho các nhà quan sát rất am tường về chính phủ Trung Quốc . Tuy nhiên, các được mất về chính trị ở Bắc Kinh trong tháng này có thể cũng quan trọng đối với thế giới như là các được mất về chính trị trong cuộc bầu cử Mỹ. Dưới đây là một số chữ "nếu" lớn mà các chuyên gia đang theo dõi:

● Ban thường vụ Bộ Chính trị sẽ lớn cỡ nào? Có tin đồn rằng số uỷ viên sẽ giảm từ 9 xuống 7 và hai chức vụ bị loại là tuyên truyền và thực thi pháp luật. "Quyết định loại bỏ hai vị trí này và giảm số uỷ viên từ 9 xuống7 gắn chặt với cải cách chính trị," Lí Thành (Cheng Li), một học giả hàng đầu về Trung Quốc tại Viện Brookings lập luận.

Trung Quốc sẽ vẫn là một nhà nước cảnh sát trị, ngay cả khi không thấy có ngành tuyên truyền và thực thi pháp luật trong [Ban Thường vụ] Bộ Chính trị. Và đó có thể là một chế độ độc tài kiên quyết hơn, với một nhóm tinh lọc, họ có thể đạt được sự đồng thuận một cách dễ dàng hơn về các chủ đề gai góc. Tuy nhiên, áp lực cho sự thay đổi đang lớn dần. Và đó sẽ là một nhóm các gương mặt mới - với năm hoặc bảy thành viên mới, tùy thuộc vào kích cỡ của nó.

● Chủ tịch về hưu, Hồ Cẩm Đào, sẽ tiếp tục ngồi lại ở Quân Ủy trung ương không? Tiền nhiệm của ông, Giang Trạch Dân, cũng nắm lấy vấn đề quân sự theo cùng cách, và Hồ Cẩm Đào  có thể cũng muốn được món địa vị và bảo trợ này, làm giảm đi vừa phải sức mạnh của Chủ tịch sắp lên, Tập Cận Bình. Nhưng ở đây câu chuyện cũng về thay đổi. Phần lớn trong số 12 thành viên của Quân Uỷ có khả năng đều sẽ là người mới. Điều này thể hiện sự gặt hái lớn cho quân đội Trung Quốc vốn ngày càng quyết đoán về các vấn đề như là biển Đông.

● Các vấn đề về tham nhũng và ô dù đã nổ bùng trong vụ bê bối Bạc Hi Lai vào tháng Hai vừa qua sẽ trong tầm kiểm soát hay không? Cho đến nay, Trung Quốc đã thực hiện tốt công việc kiềm chế các hậu quả không mong muốn từ việc thanh trừng Bạc Hi Lai, cựu bí thư có sức lôi cuốn của Trùng Khánh. Nhưng Lí Thành thuộc Viện Brookings thấy ra một sự chia rẽ phe phái sâu đậm giữa Hồ Cẩm Đào (có những người đi theo gốc gác từ Đoàn Thanh niên Cộng sản) và Giang Trạch Dân (có những kẻ ủng hộ chủ chốt thường được mô tả là các "thái tử đảng"). Những người ủng hộ Giang Trạch Dân ở thành thị được cho là ủng hộ sự phát triển nhanh tiếp tục, trong khi nhóm Hồ Cẩm Đào chú trọng tới tổ chức đảng và an ninh trong nước để kiểm tra tình trạng bất ổn đi kèm với việc tăng trưởng nhanh.

Thách thức cho Tập Cận Bình sẽ là việc bắt cầu nối cho khoảng cách này, và cho đến nay ông có vẻ khá khéo léo. Ông ta tự mình là một thái tử đảng (cha ông là một trong những cố vấn thân cận của Mao Trạch Đông), nhưng ông cũng đã bắt được các cầu nối đến phe của Hồ Cẩm Đào.

● Đảng sẽ xem xét những thay đổi về điều lệ đảng, có thể qua việc khẳng định rằng đảng nằm dưới quyền nhà nước hay không? Lí Thành dự đoán có thể có pháp lệnh rằng "đảng phải đứng dưới luật pháp chứ không phải đứng trên luật pháp."

Biến động ngầm bên dưới bề mặt phẳng lặng của chính trị Trung Quốc đã nổi rõ lên trong các vụ tiết lộ gần đây về tài sản kếch xù mà các lãnh đạo đảng đã tích lũy: Hồi tháng 6 Bloomberg News báo cáo  rằng đại gia đình Tập Cận Bình có gần $ 1 tỷ tài sản; tháng trước, tờ New York Times ghi nhận rằng gia đình Ôn Gia Bảo, thủ tướng sắp ra đi, ngầm sở hữu tài sản $ 2,7 tỷ USD. Chắc chắn có thể kể những câu chuyện tương tự như thế cho hầu hết các lãnh đạo chóp bu.

Bằng cách nào đó, trong hai tuần tới, ban lãnh đạo thối nát, bí ẩn này sẽ phải vạch đường chỉ lối cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. So ra thách thức của họ làm cho bầu cử dân chủ có vẻ dễ dàng.