Vì sao các hoạt động FON của Mĩ ở Biển Đông có lí?
Chương trình Tự do Hàng
hải của Hải quân Mĩ là một biểu hiện quan trọng của luật pháp quốc tế.
Jonathan G. Odom
The
Diplomat (31/10/2015)
(Bản dịch đã đăng trên anhbasam ngày 3/11/2015)
Chương
trình Tự do Hàng hải (FON) của Mĩ gần đây đã thu hút được sự chú ý đáng kể
tại Hoa Kì và cộng đồng quốc tế. Trong giai đoạn có sự chú ý tập trung này, một
số nhà quan sát đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của các hoạt động FON (FONOP) của
Mĩ. Tác giả trước đây đã
vạch ra tính chính đáng và tính hợp pháp của Chương trình FON của Mĩ, gồm cả
các FONOP được tiến hành như một phần của chương trình đó. Nhiều nhà quan sát
khác cũng đã đặt câu hỏi về tính thích hợp và sự khôn khéo của các FONOP của Mĩ,
đặc biệt là ở Biển Đông. Ví dụ điển hình là bài phê
bình gần đây của tiến sĩ Sam Bateman của Australia, trong bài đó ông cáo buộc
rằng các FONOP của Mĩ ở Biển Đông là "khó biện minh" (not make
sense). Bài này tiếp theo sau một bài
viết tương tự mà ông công bố vào tháng 6 năm 2015. Dù tiến sĩ Bateman nêu
ra một số câu hỏi đúng về tình hình đang diễn ra ở Biển Đông, ông đã đưa ra nhiều
giả định không chính xác đối với một số điểm về các FONOP của Mĩ và cũng phạm
sai lầm đối với một số điều khác. Dưới đây là một nỗ lực chỉnh lại cho đúng những
chỗ sai trái đó, dựa trên kinh nghiệm trước đây của tác giả với Chương trình
FON của Mĩ ở các cấp độ hành động , vùng tác chiến, và chính sách của quân đội Mĩ.
Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường của Mỹ, USS Lassen, đang trên đường tới vùng biển Thái Bình Dương.
Nguồn ảnh: Hải quân Mỹ.
Đòi hỏi về minh bạch không
bắt đầu với Mĩ
Trong phân tích của tiến sĩ Bateman về tình hình Biển Đông, có
thể hiểu được việc ông xoáy sự chú ý vào đòi hỏi minh bạch nhưng không may ông
xoáy sai hướng. Cụ thể, ông phàn nàn, "Không rõ Washington đang phản đối cái
gì ở Biển Đông." Chắc chắn, sự thiếu rõ ràng là một thành phần trong vấn đề
Biển Đông phức tạp này, và chúng tôi đã lập luận
trước đó rằng sự minh bạch hơn có thể giúp cải thiện tình hình tổng thể ở Biển
Đông. Tuy nhiên, sự cần thiết về minh bạch hơn không bắt đầu với Washington, mà
với các bên có yêu sách - và đặc biệt là với Bắc Kinh.
Trung Quốc chưa bao giờ làm rõ ý nghĩa của đường chữ U. Đó
là khẳng định chính thức của Hoa Kì, Singapore,
Indonesia,
và một số nước không yêu sách khác. Đó thậm chí còn là đánh giá của Ngô Sĩ Tồn
(Wu Shicun), chủ tịch Viện Nghiên cứu Nam Hải quốc gia Trung Quốc, ông có
viết trong cuốn sách hồi năm 2013 rằng các cuộc tranh luận về đường chữ U của
Trung Quốc "sẽ còn tiếp tục nếu Trung Quốc vẫn im lặng và tiếp tục mập mờ
về yêu sách của mình." Mới gần đây và có lẽ quan trọng nhất, đó cũng là khẳng
định của Tòa trọng tài trong vụ kiện Philippines-Trung Quốc, Toà đã nêu rằng việc "Trung
Quốc không làm rõ ý nghĩa của đường chín đoạn" là một “thực tế”.
Lạ lùng là tiến sĩ Bateman lại có thể làm được một điều mà
chính phủ nhiều nước, tòa án quốc tế, và các nhà quan sát lão luyện không thể
làm được. Tháng 2 năm 2014, tiến sĩ Bateman chỉ trích điều trần trước
Quốc hội Mĩ của Trợ lí Ngoại trưởng Daniel Russel qua việc nói rằng Russel đã cho
thấy ông "thiếu kiến thức" về việc đường chữ U của Trung Quốc là gì.
Cụ thể, tiến sĩ Bateman nói
rằng đường chữ U là một "cách vẽ địa lí vắn tắt lỏng lẻo để nói rằng chúng
tôi yêu sách chủ quyền các đảo và các thể địa lí, nó không thực sự chất vấn các
nước khác vốn đã thiết lập vùng đặc quyền kinh tế bên trong đường chín vạch, hoặc
thực sự có ranh giới biển với nước láng giềng." Dù điều này có thể là cái
mà Tiến sĩ Bateman giả định nó muốn nói, không thấy có tuyên bố hoặc tài liệu chính
thức nào do Trung Quốc đưa ra để hậu thuẫn cho giải thích của ông. Hơn nữa, thông
lệ luật pháp quốc tế trong thiết lập yêu sách về lãnh thổ và biển không vận hành
theo cách "vẽ địa lí vắn tắt lỏng lẻo".
Ngoài ra, Trung Quốc đã không làm rõ bản chất cụ thể của các
thể địa lí mà họ yêu sách ở Biển Đông cũng như các khu vực biển mà Trung Quốc
khẳng định rằng những thể địa lí đó được hưởng, có bao gồm những thể địa lí mà
họ mới thực hiện việc tôn tạo [reclamation] (tức là bồi đắp mở rộng các khu đất
được hình thành tự nhiên) và việc “đôn cao” [clamation] (tức là, xây dựng đảo
nhân tạo trên các bãi triều thấp và các thể địa lí ngầm). Lúc này lúc khác, đại
diện chính thức của Trung Quốc chỉ nói
rằng Trung Quốc có "chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa
[Trường Sa] và các vùng biển liền kề." Nhưng Trung Quốc chưa bao giờ nói
rõ những thể địa lí nào ở Biển Đông là đảo được hưởng vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ), những thể địa lí nào là đá (rock) chỉ được hưởng lãnh hải, và những thể
địa lí nào là đảo nhân tạo bảo đảm chỉ có tối đa một vùng an toàn 500 mét. Dù
trong luật lãnh hải năm 1992, Trung Quốc tuyên
bố rằng họ sẽ sử dụng đường cơ sở thẳng cho toàn bộ bờ biển và tất cả các đảo,
họ chưa vẽ ra hoặc công bố đường cơ sở cho bất kì thể địa lí nào trong nhóm đảo
Trường Sa như theo đòi hỏi của Điều 16 của UNCLOS. Và thậm chí sau khi Hoa Kì
tiến hành cuộc FONOP tuần này, Trung Quốc vẫn mập
mờ về bản chất cụ thể của các thể địa lí trong quần đảo Trường Sa và các
vùng biển xung quanh những thể địa lí mà họ yêu sách.
Washington đã cố rõ ràng về nhiều vấn đề liên quan đến tình
hình Biển Đông, và có thể cũng rất cần rõ ràng hơn về các khía cạnh khác trong
tương lai. Nhưng tiến sĩ Bateman cũng nên kêu gọi Bắc Kinh chính thức làm rõ những
thứ mà họ đang yêu sách ở Biển Đông chính xác là gì và nêu rõ cơ sở của chúng
theo luật pháp quốc tế cho việc đưa ra các yêu sách đó.
FONOP của Mĩ thách thức
các yêu sách biển quá đáng chứ không phải các yêu sách chủ quyền mâu thuẫn nhau
Tiến sĩ Bateman cũng giả định rằng các hoạt động FON của Mĩ có
thể có ý định dùng để "phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với
các thể địa lí có tranh chấp." Một lập luận như vậy đơn giản hoá quá mức
tình hình Biển Đông vốn là một ví dụ điển hình về một vấn đề phức tạp trong
quan hệ quốc tế liên quan đến các tranh chấp địa lí. Thực tế là tình hình Biển
Đông bao gồm nhiều loại hình tranh chấp quốc tế: (1) các yêu sách chủ quyền
lãnh thổ tranh chấp nhau, (2) các yêu sách biển chồng lấn và tranh chấp nhau,
và (3) các yêu sách biển thái quá.
Điều quan trọng là phải hiểu được bản chất của những tranh chấp
đó, vì các loại tranh chấp khác nhau áp dụng các bộ phận luật pháp quốc tế khác
nhau. (Luật tập tục [customary law] về chủ quyền áp dụng cho loại tranh chấp thứ
nhất, trong khi luật biển quốc tế áp dụng cho hai loại sau.)
Thích đáng hơn với giả định thiếu chính xác của tiến sĩ
Bateman, điều quan trọng là phải hiểu được các loại tranh chấp khác nhau ở Biển
Đông vì nhiều chính sách quốc gia khác nhau của Mĩ áp dụng cho tình huống phức
tạp đó cùng một lúc. Đối với tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà Hoa Kì không phải
là một bên, chính
sách của Hoa Kì thường là không đứng về bên nào trong các nước yêu sách chủ
quyền lãnh thổ mà kêu gọi các bên tranh chấp giải quyết các tranh chấp bằng các
biện pháp hòa bình. Đồng thời, đối với các yêu sách biển thái quá, Hoa Kì sẽ áp dụng chính
sách FON đã có lâu nay.
Như một vấn đề thực hành, việc áp dụng cùng lúc nhiều chính
sách của Mĩ diễn ra thế nào? Hãy xét quần đảo Hoàng Sa ở nửa phía bắc của Biển
Đông như một ví dụ. Có nhiều bên yêu sách (tức là, Trung Quốc, Đài Loan, và Việt
Nam) khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời, tất cả ba bên yêu
sách đều đề ra những điều hạn chế trong các vùng biển xung quanh các thể địa lí
đó mà Hoa Kì đã đánh
giá là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Ví dụ, mỗi một trong ba bên yêu
sách đều ban hành luật quốc gia cố tìm cách hạn chế quyền đi qua vô hại (innocent
passage) của tàu chiến nước ngoài. Khi tiến hành một FONOP để thách thức những yêu
sách biển thái quá đó, Hoa Kì không đứng về bên nào trong các bên yêu sách chủ
quyền các thể địa lí đó, mà Hoa Kì thách thức các yêu sách biển quá đáng mà mỗi
bên yêu sách đang khẳng định trong các vùng nước xung quanh những thể địa lí
này. Về bản chất, một FONOP của Mĩ xuyên qua những vùng biển xung quanh những thể
địa lí đó có thể tính là một "thách thức – ba" (three-fer).
Còn về tình huống khi nhiều nước ven biển yêu sách chủ quyền
cùng một thể địa lí nhưng chỉ một bên trong đó có yêu sách biển quá đáng xung
quanh thể địa lí đó thì sao? Một lần nữa, Hoa Kì tập trung việc thách thức vào yêu
sách biển quá đáng mà không đứng về bên nào có tuyên bố chủ quyền xung khắc
nhau. Trong Biển Hoa Đông lân cận, quần đảo Senkaku là một tình huống có tính
chất như vậy. Trung Quốc (gọi quần đảo này là Điếu Ngư [Diaoyu]) và Nhật Bản đều
tuyên bố chủ quyền đối với những thể địa lí đó. Dù Nhật Bản đã vẽ đường cơ sở
thẳng dọc theo các phần của bờ biển các đảo chính của mình, một số trong đó Hoa
Kì thấy là
quá đáng, Nhật Bản không đưa ra yêu sách biển nào quá đáng ở vùng biển xung
quanh quần đảo Senkaku. Ngược lại, tháng 9 năm 2012, Trung Quốc
đã vẽ một cách không phù hợp đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo này. Hoa
Kì đã đưa ra một phản kháng (demarché)
với Trung Quốc tháng 3 năm 2013 như là một phần của Chương trình FON Mĩ, thách
thức đường cơ sở không phù hợp xung quanh quần đảo Senkaku. Phản kháng nêu,
"Hoa Kì sẽ không đứng về bên nào đối với chủ quyền tối thượng của quần đảo
Senkaku. Bất kể yêu sách chủ quyền thế nào, luật pháp quốc tế không cho phép vẽ
đường cơ sở thẳng xung quanh các thể địa lí này." Như vậy, bất kì FONOP
nào của Mĩ trong vùng lân cận quần đảo Senkaku sẽ thách thức yêu sách biển quá
đáng đó mà không đứng về phe nào trong vấn đề các yêu sách chủ quyền xung khắc
nhau đối với chính các thể địa lí này.
Về vấn đề cụ thể của FONOP của Mĩ xung quanh các thể địa lí tôn
tạo/đôn cao ở Biển Đông, tác giả hoan
nghênh nỗ
lực gần đây của Shannon Tiezzi trong việc tháo gỡ vấn đề phức tạp về điều
mà các FONOP cụ thể đó đang thực sự thách thức là gì.
FONOP của Hoa Kì không
phân biệt đối xử
Tiến sĩ Bateman cũng giả định rằng Hoa Kì sẽ tiến hành
"các hoạt động FON chỉ chống lại các yêu sách của Trung Quốc" ở Biển
Đông. Nhưng giả định đó cũng không chính xác. Chương trình FON của Mĩ không
phân biệt đối xử đối với các nước - nó tập trung vào những yêu sách mà mỗi nước
riêng lẻ khẳng định. Chương trình này thách thức tính chất thái quá của các yêu
sách biển, bất kể bản chất mối quan hệ giữa Hoa Kì với các nước ven biển có yêu
sách. Trong thực tế, nếu xem lại các báo cáo hàng năm
của FON sẽ thấy rằng Hoa Kì thường xuyên thách thức như nhau các yêu sách biển thái
quá của đối thủ cạnh tranh, đối thủ tiềm tàng lẫn đồng minh và đối tác.
Trong nhiều thập kỉ, chính phủ Mĩ đã thách thức về
mặt ngoại giao và bằng hành động các yêu sách biển quá đáng của các nước ven biển
trong mọi khu vực trên thế giới. Chúng bao gồm các thách thức đối với yêu sách
biển quá đáng của nhiều nước quanh Biển Đông. Trên thực tế, trước khi chương
trình FON Mĩ được chính thức thành lập vào cuối những năm 1970, Hoa Kì đã phản
đối ngoại giao yêu sách biển quá mức của Cộng hòa Philippines vào năm 1961.
Khi xem lại các báo
cáo hàng năm về Tự do Hàng hải của Bộ Quốc phòng (DoD) sẽ thấy rằng các hoạt
động FON của Mĩ trong những năm gần đây đã được tiến hành một cách nhất quán
không phân biệt đối xử chống lại yêu sách biển thái quá không những của Trung
Quốc mà còn của Malaysia, Philippines, Đài Loan, và Việt Nam.
Với lịch sử của Chương trình FON của Mĩ như thế, sẽ hợp lí khi
giả định rằng Hoa Kì sẽ tiếp tục thách thức những yêu sách quá đáng trong tương
lai. Sự khác biệt duy nhất là Hoa Kì có thể sẽ thách thức ít hơn các yêu sách của
một số trong các nước ven biển đó, đặc biệt là của Philippines và Việt Nam.
Nhưng đó không phải là vì Hoa Kì đang đứng về phe nào hoặc phân biệt đối xử nghiêng
về bên này hoặc chống lại bên khác mà bởi vì hai nước này đã ban hành luật biển
quốc gia trong vài năm qua (Philippines năm 2009, Việt Nam năm 2012) vốn đã chỉnh
sửa thành công một số trong các yêu sách biển thái quá có từ lâu của họ phù hợp
với luật pháp quốc tế. Như vậy, việc Hoa Kì sẽ thách thức yêu sách biển trong
khu vực hay không phụ thuộc nhiều hơn vào việc Trung Quốc và các bên yêu sách
khác có duy trì hoặc chỉnh sửa các yêu sách biển quá đáng của mình hay không.
FONOP của Mĩ là có chủ
ý về bản chất nhưng không phải là khiêu khích có chủ ý
Tiến sĩ Bateman cũng đặc tả không công bằng các FONOP của Mĩ
như là "các khiêu khích có chủ ý." Ộng cáo buộc chính phủ Mĩ có ý định
kích động phản ứng từ một nước ven biển. Tuy nhiên, ông không cung cấp bằng chứng
hậu thuẫn cho khẳng định này. Như đã
bàn trước đây, FONOP của Mĩ - cũng như các thành tố khác của Chương trình
FON của Mĩ - là có chủ ý về bản chất. Đó là, chúng được hoạch định kĩ lưỡng, duyệt
xét lại về mặt pháp lí, được phê duyệt đúng cách, và được thực hiện một cách
chuyên nghiệp. Nhưng chúng không có ý định khiêu khích. Thay vào đó, chúng có ý
định cho thấy Mĩ không ngầm chấp nhận các yêu sách biển quá đáng do các nước
khác đưa ra. Chấp nhận ngầm/mặc nhận (asquiescence: im lặng/không có phản ứng
được coi là chấp nhận) không phải là một khái niệm mới mà đúng hơn là một nguyên
tắc đã được thiết lập vững chắc từ lâu của luật pháp quốc tế.
Khi nói đến vấn đề khiêu khích, tiến sĩ Bateman một lần nữa chuyển
sang một trọng tâm có ích, nhưng lại hướng sự chú ý sai chỗ. Hành động cố ý của
nước nào là nguồn gốc nẩy sinh phản ứng của các nước khác? Chính cái nước ven
biển đã quyết định đưa ra một yêu sách biển cố phủ nhận hoặc hạn chế quyền tự
do trên biển được đảm bảo cho các nước khác. Ví dụ, Trung Quốc đã ban hành một
đạo luật quốc gia hạn chế quyền đi qua vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong
lãnh hải của mình. Tuy nhiên, Điều 24 của UNCLOS nêu rõ rằng nước ven biển
không được "áp đặt các đòi hỏi đối với các tàu nước ngoài mà tác dụng thực
tế là phủ nhận hoặc làm suy yếu quyền đi qua vô hại." Với quy định rõ ràng
này của luật quốc tế thì các nước khác trông cậy vào cái gì? Một số nước có thể
giữ im lặng vì một số lí do nào đó. Nhưng có thể dễ đoán trước được rằng các nước
khác, chẳng hạn như Hoa Kì, sẽ thách thức hành động đơn phương đó của nước ven
biển, bằng các phản đối ngoại giao và thực hiện việc đi qua trên thực tế. Trong
ý nghĩa đó, các yêu sách biển quá đáng mới là hành động có chủ ý làm nảy sinh
phản ứng từ những nước khác.
FONOP của Mĩ bảo vệ ý
nghĩa về Luật quốc tế áp dụng được như mong muốn
Tiến sĩ Bateman cũng cáo buộc Hoa Kì về "việc cố quay
ngược đồng hồ đối với chế độ EEZ đã được cẩn thận cân bằng" trong UNCLOS.
Có lẽ, với nhận xét này ông có ý định làm một lời chỉ trích đối vối lập trường
hay cách tiếp cận pháp lí của Hoa Kì. Tuy nhiên, trong tư cách một người không
là luật sư hay phát biểu về các vấn đề liên quan đến luật pháp quốc tế, Tiến sĩ
Bateman có thể không nhận ra rằng đó đúng là những gì một nước nên làm trong việc
áp dụng luật quốc tế đúng cách: dựa vào lời văn gốc và lịch sử đàm phán của một
điều ước để bảo toàn tính toàn vẹn của các quy định pháp luật phản ánh trong điều
ước đó.
Luật quốc tế, như được phản ánh trong Công
ước Vienna về Luật điều ước, vạch ra các cách thức đã được thiết lập cho
các nước giải thích và áp dụng các điều ước quốc tế. Cụ thể, bộ phận luật [quốc
tế] này hỏi các nước phải giải thích một điều ước theo "ý nghĩa thông thường"
của các từ ngữ của nó, trong “ngữ cảnh của chúng," và dưới "ánh sáng
của đối tượng và mục đích của điều ước." Bộ phận luật quốc tế này cũng chấp
nhận, nếu một điều khoản cụ thể của một điều ước "không rõ ràng hoặc tối
nghĩa" thì các nước có thể tham khảo các phương cách giải thích bổ sung, kể
cả lịch sử đàm phán điều ước. Tương tự như vậy, các nước không được phép diễn
giải lại các quy định của luật pháp trong điều ước trái với ý nghĩa thông thường
của chúng, tách chúng ra khỏi ngữ cảnh, hoặc bỏ qua đối tượng, mục đích, và lịch
sử đàm phán của điều ước.
Đối với vấn đề cụ thể về EEZ, Hoa Kì dựa trên những quy tắc
diễn giải quốc tế đã được thừa nhận, chính
xác là để đề cao và giữ gìn cái "chế độ đặc quyền kinh tế đã được cẩn
thận cân bằng" phản ánh trong UNCLOS. Khái niệm độc đáo (sui generis) về
EEZ nảy sinh do một số nước ven biển tìm cách bảo vệ các nguồn tài nguyên trong
vùng biển trong vòng 200 hải lí đầu tiên dọc theo bờ biển của mình, và EEZ là một
kết quả thương thảo nhằm đảm bảo các quyền lợi liên quan đến tài nguyên kinh tế
cho các nước ven biển, nhưng mặt khác cũng bảo toàn các quyền tự do hiện có mà
các nước khác được hưởng. Nó không tạo ra một khu vực an ninh – thật ra, các nỗ
lực tìm cách chuyển đổi nó thành khu vực an ninh trong quá trình đàm phán
UNCLOS đã bị cố ý bác bỏ. Ngữ cảnh của UNCLOS cũng có liên quan. Ví dụ, lời lẽ
trong UNCLOS cấm các nước không được thu thập thông tin có thể "gây phương
hại đến quốc phòng, an ninh của một nước ven biển," trong lãnh hải một nước
ven biển, nhưng không có quy định tương đương hạn chế các hoạt động tương tự
trong EEZ. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Đại sứ SingaporeTommy Koh, chủ tịch
của hội nghị Liên Hiệp Quốc đàm phán và ký kết UNCLOS tuyên bố
năm 1984: "Không ở chỗ nào nó nêu rõ
liệu một nước thứ ba có thể hoặc không thể tiến hành các hoạt động quân sự
trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước ven biển. Nhưng, theo cách hiểu thông
thường thì lời văn mà chúng tôi đàm phán và nhất trí cho phép các hoạt động đó
được tiến hành."
Trái lại, chỉ trích trước
đây và gần
đây của tiến sĩ Bateman về FONOP của Mĩ dường như bỏ qua "đồng hồ"
này (tức là lời văn và lịch sử đàm phán UNCLOS) khi nói đến quyền đi qua vô hại.
Chẳng hạn, ông chất vấn liệu quyền đi qua vô hại có đảm bảo cho các tàu chiến
hay không. Nhưng quyền đi qua vô hại được đặt ra trong một tiểu mục của UNCLOS có
tên, "Những quy định áp dụng cho tất
cả tàu thuyền." (Nhấn mạnh thêm vào.) Và, do đó, không có gì ngạc
nhiên khi cũng chính Đại sứ Koh phát
biểu: "Tôi nghĩ rằng Công ước
khá rõ ràng về điểm này. Tàu chiến, giống như các tàu khác, có quyền đi qua vô
hại trong lãnh hải, và không có đòi hỏi nào buộc tàu chiến phải có được sự chấp
thuận trước hoặc thậm chí thông báo của nước ven biển."
Biết rằng quyền đi qua vô hại là một quyền mà tất cả các
tàu, kể cả tàu chiến, đều được hưởng, vấn đề là: các thông số quy phạm pháp luật
về quyền đó là gì? Lời văn của UNCLOS đòi hỏi việc đi qua vô hại của một con
tàu phải "liên tục và nhanh chóng" (Điều. 18). Đối với đòi hỏi mà hơn
100 nước trên thế giới đã đàm phán và ký kết trong suốt hơn mười năm đàm phán,
tiến sĩ Bateman đã thêm
vào một cách khó giải thích một đòi hỏi bổ sung rằng việc đi qua [vô hại] của
tàu chiến cũng phải "thẳng tắp" (direct) - mà không giải thích nguồn
gốc cho đòi hỏi bổ sung đó. Nhưng, như Pete Pedrozo, một trong những đồng nghiệp
của tôi đã viết
tinh gọn đáp trả chỉ trích trước đó của tiến sĩ Bateman, "Chẳng có điều nào
trong UNCLOS gợi ý rằng một con tàu thực hiện việc đi qua vô hại phải chạy theo
một đường thẳng từ điểm A tới điểm B."
Ngoài ra, lời văn trong UNCLOS đòi hỏi việc đi qua "vô hại"
phải ngưng không được thực hiện một danh sách 12 hoạt động cụ thể có thể làm
"phương hại đến an ninh của các nước ven biển" (Điều. 19). Trong số
các hoạt động bị cấm là con tàu can dự vào bất kì việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực,
thu thập thông tin chống lại nước ven biển, hoặc can thiệp vào hệ thống thông
tin liên lạc của nước ven biển. Mặc dù danh sách cụ thể của hoạt động bị cấm
này có tính chất gói trọn mọi thứ (exhaustive), tiến sĩ Bateman cho rằng chỉ việc
"phái" tàu chiến nước ngoài đi qua lãnh hải của nước khác "có thể
là một hành vi vi phạm quyền đi qua vô hại." Lí thuyết mà ông cho là đúng
là cách mạng trong bản chất và sẽ làm mất hiệu lực trên thực tế danh sách nêu ở
Điều 19 của Công ước. Tuy nhiên, một lần nữa, ông không giải thích ý thích cá
nhân của ông được chuyển hóa thành luật quốc tế ở chỗ nào. Như chuyện đương
nhiên, ông cũng không cung cấp bằng chứng nào cho thấy rằng quân đội Mĩ đã can
dự vào bất kì hành động nào trong số 12 hoạt động bị cấm trong khi tiến hành
FONOP để bảo toàn quyền đi qua vô hại. Tóm lại, lời lẽ xa gần đó là không có
căn cứ về pháp lí và thựctế.
FONOP của Mĩ kì vọng các
nước khác tuân theo Luật Quốc tế một cách nhất quán
Một trong những khẳng định vô lí nhất của tiến sĩ Bateman là
nỗ lực phân biệt vụ tàu Trung Quốc mới đây chạy ngang qua lãnh hải của Mĩ quanh
quần đảo Aleutian gần Alaska với vụ Mĩ tiến hành FONOP gần các thể địa lí tôn tạo/đôn
cao ở Biển Đông. Cụ thể, ông lập luận, "Trong khi điều tàu tuần tra vào
lãnh hải của nước khác đặc biệt là để chứng tỏ quyền được đi ngang qua có thể
là một hành vi vi phạm quyền đi qua vô hại, các tàu Trung Quốc đã thực hiện việc
đi qua thẳng tắp." Như chuyện hiển nhiên, lời giải thích của tiến sĩ
Bateman phớt lờ thực tế rằng hải quân Trung Quốc mới kết thúc việc tập trân với
hải quân Nga mấy ngày trước chuyến đi qua vô hại, và tàu chiến của Trung Quốc đã
phải đi chệch đáng kể ra khỏi lộ trình của họ sau đó để tiến hành cái mà Tiến
sĩ Bateman đặc tả như việc "đi qua thẳng tắp". Quan trọng hơn, nó bỏ
qua thực tế chính trị rằng quan điểm của Trung Quốc về luật pháp quốc tế có thể
đang trong quá trình phát triển, ít nhất là khi liên quan đến các đại dương
ngoài Đông Á.
Mười năm trước đây,cũng chính tiến sĩ Bateman dự
đoán như sau: "Đã có những kì vọng rằng Trung Quốc, khi phát triển về
tầm vóc như một cường quốc biển, có thể chuyển đổi từ địa vị của một nước ven
biển sang địa vị của một cường quốc biển tìm cách mở rộng tối đa các quyền tự
do theo luật biển. Tuy nhiên, theo cách nhìn của tôi, điều này ít có khả năng xảy
ra. Vị thế của Trung Quốc về các vấn đề này của luật biển là bám rể quá chặt.
Thay vì chuyển đổi vị thế của mình, có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục với
các chính sách hiện có của họ, hoặc thậm chí tăng cường chúng hơn nữa."
Tuy nhiên, trong thập kỉ qua một Trung Quốc đang trỗi dậy với
các lợi ích tăng thêm trên toàn thế giới đã và đang dần tiến gần tới một nan đề trên
biển: Trung Quốc sẽ tiếp tục coi chính mình thuần là một nước ven biển dễ bị
xâm hại đối với các mối đe dọa bên ngoài? Hoặc Trung Quốc sẽ nắm lấy tầm quan
trọng của việc gìn giữ quyền tự do trên biển nhằm bảo vệ tốt hơn lợi ích mở rộng
của mình?
Bất chấp dự báo của tiến sĩ Bateman mười năm trước, các hành
động gần đây của Trung Quốc trên biển gợi ra rằng họ đã chọn tự do hàng hải
"tối đa", ít nhất là khi họ muốn nói tới tự do cho các đại dương nằm
trong khu vực biển của các nước khác. Một thực tế khó
chối cãi là hải quân Trung Quốc, trong vài năm qua, đã nhiều lần tiến hành các
hoạt động quân sự trong EEZ của Mĩ (quanh Guam và Hawaii), Nhật Bản,
Philippines, Malaysia, Indonesia và Ấn Độ. Đồng thời, các tàu chiến của Trung
Quốc cũng đã thực hiện quyền đi qua vô hại trong lãnh hải của một số nước,
trong đó có Hoa Kì. Khi bị chất vấn về những hoạt động và việc đi qua đó của Hải
quân Trung Quốc, các quan chức Trung Quốc đã không phủ nhận các sự việc đó.
Tất nhiên, mọi nước phải áp dụng luật quốc tế, bao gồm cả luật
biển, một cách nhất quán - dù hành động trong các khu vực biển của mình hoặc
trong các khu vực biển của các nước khác. Phản ứng của Mĩ đối với việc Trung Quốc
đi ngang qua biển gần đây và các hoạt động của họ trong các vùng biển của nhiều
nước khác, trong đó có cả những hoạt động tiến hành bên trong các khu vực biển
của Mĩ, đã được tôn trọng vì nó phù hợp với luật pháp quốc tế. Với việc đi qua
đó cũng như các hoạt động đã thực hiện của quân đội Trung Quốc, cuộc tranh luận
pháp lí về các hoạt động quân sự của Mĩ trong EEZ của Trung Quốc và việc tàu
chiến Mĩ tiến hành quyền đi qua vô hại trong lãnh hải của Trung Quốc đã kết thúc.
Bất Kì nỗ lực nào tìm cách giải thích khác đi chỉ đơn thuần sẽ là một nỗ lực xảo ngôn pháp
lí. (cụm từ ‘xảo ngôn pháp lí’ [legal rhetoric], theo tác giả có nghĩa
là sử dụng các điều khoản của điều ước ngoài ngữ cảnh thích hợp để gán ép các lập
luận chính trị hoặc đưa ra các lập luận mâu thuẫn với hành động của mình.)
FONOP của Mĩ thách thức
các điều hạn chế đơn phương hơn là chấp nhận xảo ngôn mê hoặc
Nói về điều này, tiến sĩ Bateman dường như đã chấp nhận một
số các xảo ngôn pháp lí của Trung Quốc dựa trên vẻ bề ngoài. Một ví dụ về một xảo
ngôn như vậy là khi tiến sĩ Bateman nói rằng "Trung Quốc đã nhiều lần chối
bỏ rằng họ tạo ra một mối đe dọa [đối với Tự do hàng hải]." Tuy nhiên, ta
nên thận trọng trong việc chấp nhận sự phủ nhận bằng lời như vậy, và thay vì vậy
nên xem xét cả lời nói lẫn hành động của Trung Quốc trong tư
cách một nước ven biển.
Trong hai thập kỉ qua, Trung Quốc đã ban hành một trong các
chế độ pháp lí toàn diện nhất về các yêu sách biển quá đáng so với bất kì nước
ven biển nào trên thế giới. Trung Quốc đã vẽ không đúng cách đường cơ sở thẳng
dọc theo toàn bộ bờ biển lục địa của mình, dù UNCLOS chỉ cho phép sử dụng các
đường cơ sở như vậy trong những tình huống đặc biệt. Trung Quốc đã vẽ đường cơ
sở thẳng xung quanh quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Senkaku, dù UNCLOS chỉ chấp
nhận quyền đó cho nước quần đảo mà thôi. Trung Quốc hạn chế quyền đi qua vô hại
của tàu chiến nước ngoài trong lãnh hải của mình, dù UNCLOS đảm bảo quyền đó
cho tất cả các tàu thuyền. Trung Quốc đã áp đặt hạn chế an ninh trong vùng tiếp
giáp lãnh hải của họ, dù UNCLOS chỉ cho phép thực thi bốn dạng hạn chế theo luật
pháp quốc gia mà thôi (đó là, tài chính, di trú, vệ sinh môi trường, và hải
quan). Và Trung Quốc hạn chế các hoạt động nước ngoài trong EEZ của họ, dù
UNCLOS thiết lập EEZ để bảo vệ "quyền chủ quyền" liên quan đến tài
nguyên. Dù một số nước ven biển trên thế giới đã đưa ra các yêu sách biển quá
đáng thuộc một hoặc hai trong số bốn dạng này, Trung Quốc là một trong bảy nước
ven biển trên toàn thế giới có một "bộ đầy đủ” (full-house) các yêu sách
biển quá đáng ảnh hưởng đến tự do trên biển được bảo đảm cho các nước khác ở mỗi
khu vực biển của mình.
Tệ hơn nữa, chế độ pháp lí của Trung Quốc cho các yêu sách
biển quá đáng là một chế độ đang có khuynh hướng đi sai hướng. Một số nước ven
biển có thể đưa ra lập luận rằng các yêu sách biển quá đáng của họ chỉ đơn giản
là các luật lệ kế thừa, có trước ngày phê chuẩn UNCLOS và không còn hiệu lực.
Nhưng Trung Quốc đã tiếp tục tạo ra các yêu sách biển quá đáng mới trong những
năm gần đây, chẳng hạn như đường cơ sở thẳng không đúng cách quanh quần đảo
Senkaku vào năm 2012 và vùng nhận dạng phòng không rộng quá mức ở Biển Hoa Đông
vào năm 2013.
Như vậy, bất chấp có sự đảm bảo bằng lời của Trung Quốc, các
văn bản luật pháp và các hoạt động khác của họ không làm Hoa Kì và các nước
khác yên tâm rằng Trung Quốc không tạo ra một mối đe dọa cho sự tự do trên biển
trong vùng biển và vùng trời Đông Á, kể cả những vùng biển và vùng trời ở Biển
Đông.
Lời kết
Điểm gây rối rắm nhất do tiến sĩ Bateman tạo ra là cách ông
cố tối thiểu hoá những gì đang bị đe dọa khi nói đến yêu sách biển quá đáng của
Trung Quốc. Cụ thể, ông nói, "Đó gần như là một chuyện vặt mà một sự cố
nguy hiểm giữa quân đôi Trung Quốc và Mĩ có nguy cơ nảy ra từ đó." Đây
không phải là chuyện vặt mà là chuyện lớn.
Các nước trên thế giới, kể cả Hoa Kì và Trung Quốc, dành hơn
một thập kỉ để đàm phán UNCLOS. Hoa Kì không phải là một thành viên của Công ước
(nhưng thừa
nhận sẽ là); tuy nhiên, Hoa Kì từ lâu đã xem các quy tắc trong Công ước như
phản ánh luật tập tục có tính ràng buộc. Hơn nữa, quân đội Hoa Kì và Trung Quốc
đều rõ ràng công
nhận UNCLOS như là bộ quy tắc cần áp dụng, với Hoa Kì công nhận rằng Trung
Quốc là một thành viên [UNCLOS] và Trung Quốc thừa nhận rằng Hoa Kì "hậu
thuẫn và tuân thủ pháp luật tập quán quốc tế như được phản ánh" trong
UNCLOS. (Việc chỉ ra rằng Hoa Kì không phải là một bên tham gia UNCLOS chỉ đơn
thuần là một cách để ghi điểm tu từ -. nhưng điều đó không làm cho những nỗ lực
của Trung Quốc trong việc hạn chế quyền tự do hàng hải đảm bảo cho tất cả các
nước, trong đó có Hoa Kì, giảm đi tính đúng đắn)
Bộ phận luật [quốc tế] phản ánh trong UNCLOS là một sự cân bằng
chủ ý các lợi ích giữa nước ven biển và các nước sử dụng biển. Nó phải được tôn
trọng trên toàn cầu. Nó phải được tuân theo một cách nhất quán. Trong bối cảnh
này, việc ngầm chấp nhận cho hành động của bất kì nước ven biển nào có ý định
làm suy giảm sự tự do của các vùng biển được luật hóa trong UNCLOS không phải
là một lựa chọn chấp nhận được. Việc không chấp nhận ngầm là các nguyên lí cơ bản
của Chương trình FONcủa Mĩ, bao gồm cả FONOP được tiến hành theo chương trình
đó. Chế độ luật quốc tế cơ bản và phổ quát này sẽ được phép tháo dỡ cho phù hợp
với mong muốn của một nước? Nếu chế độ luật quốc tế này được phép làm cho méo
mó bởi những ham muốn đơn phương của một nước nào đó thì chế độ luật quốc tế
nào sẽ có nguy cơ kế đó? Đây không phải là "chuyện vặt", tiến sĩ
Bateman ạ. Rất nhiều thứ đang bị đe doạ.