Monday, November 27, 2023

Về quần đảo Hoàng Sa - P. A.


Về quần đảo Hoàng Sa

Đảo Phú Lâm và đảo Đá



Quần đảo này nằm trên tuyến đường tàu đi từ Hong Kong tới Sài Gòn, gần như cách đều cảng cực nam đảo Hải Nam và cảng Tourane (Đà Nẵng trên bờ biển An Nam): 250 đến 300 km.

Quần đảo Hoàng Sa được tạo thành từ hai nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) và Lưỡi Liềm (Crescent) cùng một số đảo và đá tách rời.

Khi biển tốt và trời trong, việc đi lại không gặp bất kì khó khăn nào; từ cột buồm có thể nhìn thấy những ngọn cây trên một số hòn đảo, thấy các mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước hoặc sóng nhào trên những rạn san hô. Khi trời nhiều mây, nên tránh nơi đó, vì chẳng lợi lộc gì khi vượt qua, trừ khi muốn tìm nơi neo đậu ở đó; tuy nhiên, nhìn chung chúng ta sẽ chỉ tìm được nơi trú ẩn ở đó để tránh gió thổi từ hòn đảo nơi chúng ta neo đậu.

Các dòng hải lưu ở Hoàng Sa rất bất thường; chúng là kết quả của những cơn gió thường xuyên ở đây.

Chúng chưa được nghiên cứu đầy đủ và chưa bao giờ được nghiên cứu một cách bền vững. Thông tin được đưa ra trong Hướng dẫn đi biển phần lớn đến từ các báo cáo trên biển của các thuyền trưởng bị đắm tàu ​​trên các rạn san hô này.

Chính những xác tàu đắm được dùng làm mốc để nhận biết các chỗ nguy hiểm, đặc biệt là các nồi hơi có khả năng chống chịu lâu hơn nhờ trọng lượng của chúng và do kích thước của chúng nên có thể nhìn thấy từ khoảng cách rất xa và khiến những người không quen biết ban đầu không thể giải thích được bản chất của những chỗ lồi lõm này trên các rạn san hô phải kinh ngạc.

Đó là dấu vết duy nhất hiện có trên các rạn san hô vốn tạo thành mối nguy hiểm cho người đi biển.

Kể từ khi thiết lập chế độ bảo hộ ở An Nam, nước mà những đảo này phụ thuộc vào, Pháp đã phần nào lơ là đối với những vùng đất phụ thuộc này mà cho đến nay chỉ thể hiện sự quan tâm tương đối.

Tuy nhiên, vào năm 1899, ông Doumer, lúc đó là Toàn quyền Đông Dương, đã dự định lập một ngọn đèn biển trên một trong các đảo của Hoàng Sa. Một nghiên cứu hoàn chỉnh đã được thực hiện: nó đã nằm im trong các thùng hồ sơ của Sở Hàng hải Công trình Công cộng, việc thực hiện dự án đã bị trì hoãn do chi phí xây dựng và bảo trì đèn biển này cao. Ngân sách của Thuộc địa của chúng ta đang bị căng kéo bởi những nhu cầu cấp thiết hơn.

Trong thời thông tin vô tuyến và nghiên cứu về các căn cứ tàu ngầm, vấn đề Hoàng Sa đôi khi được đặt ra trên báo chí Đông Dương. Thậm chí, cách đây vài năm, ý kiến ​​trong một số giới nhất định ở Thuộc địa của chúng ta đã bị lay động trước thông báo rằng người Nhật đã được phép khai thác phốt phát thấy có ở một số đảo trong nhóm.

Về vấn đề này, báo chí đã chứng minh cho Toàn quyền thấy sự cần thiết của việc sáp nhập Hoàng Sa. Một người đồng hương, vẫn còn trẻ và say mê tiểu thuyết phiêu lưu vốn là thú vui của tuổi trẻ chúng ta, đã đi xa đến mức thuê một chiếc tàu hơi nước để thực hiện việc chiếm hữu đảo Phú Lâm và “một tuyên bố về hành động này đã được các nhân chứng kí tên, bỏ trong một chiếc hộp kim loại kín và đặt ở một vị trí được đánh dấu trên hòn đảo này…

Những sáng kiến ​​này phải được ghi nhận và hoan nghênh, vì chúng chứng tỏ rằng dư luận không phải không quan tâm đến bộ phận nhỏ nhất của thuộc địa của chúng ta mà đó là hiểu sai thực tế khi nói đến việc sáp nhập một vùng đất phụ thuộc của An Nam.

Về vấn đề này, chỉ cần tham khảo một thư viện tốt là đủ, trong trường hợp không có các hồ sơ chính thức mà người bình thường khó tiếp cận được.

Trong cuốn Géographie de la Cochinchine (Địa lí Đàng Trong) của Chaigneau, có ghi:

Nam Kì gồm có... và quần đảo Hoàng Sa bao gồm các đảo nhỏ, rạn san hô và mỏm đá không có người ở. Chỉ đến năm 1816, vị hoàng đế hiện tại mới chiếm hữu quần đảo này.

Ấn bản gốc khá khó tìm, nhưng Bulletin des Amis du Vieux Hué số 2 năm thứ 10, tháng 4-tháng 6 năm 1923 dễ có được hơn, trong đó, ở trang 257 và các trang tiếp theo, tác phẩm này của Chaigneau được bình luận.

Cuốn sử An Nam “Đại Nam Nhứt Thống Chí” Quyển VI, xuất bản dưới thời vua Tự Đức, rất dễ tra cứu tại trường Viễn Đông Pháp, sau khi dịch, cho ra đoạn văn có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa như sau:

Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía đông đảo Lí [Sơn]. Từ cảng Sa Kì [Cầu], gió thuận, có thể đi thuyền tới nơi trong ba bốn ngày. Quần đảo này có cả thảy hơn 130 đảo đá, cách nhau một ngày đến vài giờ. Giữa quần đảo có một bãi cát vàng, rộng không biết bao nhiêu ngàn lí, được quen gọi là ‘Vạn Lí Trường Sa châu’, tức 'bãi cát dài 10 000 lí'. Trên bãi có một cái giếng có nguồn nước ngọt. Chim biển đổ về những nơi này với số lượng không đếm xuể. Có rất nhiều sản phẩm như hải sâm, đồi mồi, xà cừ, rùa lớn,…. Những mảnh vỡ của tàu thuyền đắm tích tụ ở đó. Vào đầu thời nhà Nguyễn, đội Hoàng-Sa được thành lập, do 70 người làng An Vĩnh hợp thành. Hàng năm, vào tháng 3, đội này ra xuống thuyền đến đó thu hải sản, đến tháng 8 mới trở về qua cảng Tư Hiền. Một 'đội Bắc Hải' cũng được thành lập, cùng dưới quyền chỉ huy của đội Hoàng-Sa, và thu nhặt hải sản nhóm đảo Côn Lôn ở Bắc Hải. Phía đông quần đảo gần với phủ Quỳnh Châu, đảo Hải Nam, đế quốc Trung Hoa. Đầu thời Gia-Long, đội Hoàng-Sa được thành lập theo cách thức cũ và sau đó bị giải thể. Vào đầu thời Minh Mạng, thuyền nhà nước thường được cử đến những nơi này để thăm dò các tuyến đường biển. Nơi đây có một bãi cát trắng có chu vi 1 070 trượng, với cây cối rậm rạp. Ở giữa có một cái giếng. Phía tây có một ngôi chùa cổ, không biết dựng vào lúc nào. Tấm biển trên cổng có khắc bốn chữ: 'Vạn lí ba bình’ (vạn lí sóng yên)'. Tên cũ (của nơi này) là: núi Chùa Phật (Phật tự sơn?). Hai bờ của nó có san hô. Phía tây bắc có một bãi có chu vi 340 trượng, 2 xích, cũng cao như bãi cát trắng. Tên (bãi này) là: đá Ban-Na. Năm Minh Mạng thứ 16, vua sai thuyền nhà nước đem gạch đá đến đó xây chùa, bên trái dựng bia đá để ghi nhớ.

Để bổ túc cho đoạn văn này, có thể tham khảo bản đồ trích từ “Hoàng Việt địa dư chí” được vẽ vào năm Minh Mạng thứ 14, bao gồm quần đảo Hoàng Sa vào trong đế quốc An Nam, đồng thời vẽ chúng gần bờ biển một cách lạ lùng.

Những tài liệu tham khảo này đủ tính thuyết phục nên không cần phải làm nặng nề thêm ghi chú này với nhiều trích dẫn nữa: quần đảo Hoàng Sa là một phần của An Nam, đó là điều không thể tranh cãi.

Hơn nữa, kể từ thời Gia Long xa xưa, những hàng xóm duy nhất có thể đến trú ngụ ở  quần đảo Hoàng Sa là người Trung Quốc lại ở quá xa; việc trú ngụ của Hải Nam gần như chỉ trên danh nghĩa. Cho đến những năm gần đây, người Trung Quốc chỉ trú ngụ một khu vực hạn chế dọc biển ở phía bắc đảo và một hoặc hai cảng ở bờ biển phía nam. Cần lưu ý rằng chỉ trong năm 1928, một tổng đốc Trung Quốc mới có thể thâm nhập vào nội địa Hải Nam lần đầu tiên, và đừng quên rằng việc này thực hiện hiện dưới sự dẫn dắt của một người của chúng ta, đức cha Savina, người từng là người hướng dẫn và thông dịch cho chuyến đi này cho tướng Gaston Wong, tổng đốc đương nhiệm của hòn đảo này.

Trong số vô số vụ đắm tàu ​​xảy ra ở quần đảo Hoàng Sa, có hai vụ đắm tàu, tàu ​​​​hơi nước “Le Bellona” của Đức năm 1895 ở đá Bắc và tàu ​​Nhật Bản “Imezi Maru” năm 1896 ở cụm đảo An Vĩnh, đã gây ra các vụ tranh cãi mà không phải là không có lợi để nhắc lại.

Hai tàu hơi nước này chở đồng do các công ti Anh bảo hiểm. Nỗ lực giải cứu đã vô ích và xác tàu bị bỏ phế. Người Trung Quốc, đi trên các thuyền tam bản hoặc thuyền nhỏ, cướp lấy chúng và chuyển số đồng thu được về  Hải Nam. Họ đề nghị các chủ tàu mua lại chúng. Sau đó, các Công ti Bảo hiểm đã nhờ đại sứ Anh ở Bắc Kinh và lãnh sự của họ ở Hải Khẩu, những người muốn quy trách nhiệm cho các quan chức địa phương. Các quan chức này phản đối, giải thích rằng quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc, cũng không gắn liền với bất kì châu quận nào của Hải Nam về mặt hành chính và từ chối mọi trách nhiệm.

Về quần đảo Hoàng Sa, tôi có một số kỉ niệm cá nhân cách đây khoảng hai mươi năm; Vào cuối năm 1908, lúc đó đang định cư ở Hồng Kông, tôi được những người bạn Quảng Đông đang có kế hoạch thực hiện một chuyến đi tới Hoàng Sa tiếp cận. Đó là về việc kiểm tra một số khẳng định theo đó các đảo này được bao phủ với phân chim và trai ngọc phải tụ tập hàng đống xung quanh các rạn san hô; Có vẻ như tư cách là một người Pháp của tôi khiến họ quan tâm hơn tư cách là một thủy thủ khi đi đến những đảo này. Bị cuộc phiêu lưu này cám dỗ, tuy nhiên tôi không thể thực hiện nó; công ti mà tôi đang làm việc đã quyết định khác, đã cử tôi đi tới Tây Tạng vào thời điểm dự định cho chuyến du hành đến Hoàng Sa.

Tuy nhiên, tôi biết được phần nào điều gì đã xảy ra với những kế hoạch này: một chuyến đi tới quần đảo Hoàng Sa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1909, nhưng chủ yếu là với tư cách cá nhân.

Có lẽ nó thậm chí còn không có mối liên hệ nào với kế hoạch ban đầu. Khi đó, cảm xúc do Nhật Bản tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas gây ra ở Trung Quốc vẫn chưa lắng xuống. Với việc tổ chức một chuyến đi tới quần đảo Hoàng Sa hoặc thực hiện một cuộc sáp nhập giả, các quan chức chắc chắn đang tìm cách “lấy lại thể diện”.

Bản đồ Đông Dương (Đại Nam nhất thống toàn đồ) - trích Hoàng Việt địa dư chí [皇越地輿誌], năm Minh Mạng 16 



Bản đồ vị trí quần đảo Hoàng Sa



Trích từ một bản đồ của Sở Thủy văn biển

Dù đó là gì đi nữa, một chuyến đi đã diễn ra và nó đáng được thuật lại. Vào cuối tháng 5 năm 1909, hai pháo hạm nhỏ từ Quảng Châu ra khơi, trên tàu có hai người Đức từ Maison Carlowitz, ngoài các thủy thủ (!) Trung Quốc trong đó có một đề đốc 'đường sông', có vẻ như vậy, vì nếu hạm đội (Armada) nhỏ này, nhờ đất liền che chắn, đi khá dễ dàng đến tận cảng Du Lâm, một cảng ở phía nam Hải Nam; nó vẫn ở dí nơi đó suốt nửa tháng trước khi ra khơi, chắc chắn là đang chờ ‘phong thủy’ thuận lợi, không làm cho những người đi biển táo bạo này bị say sóng.

Cuối cùng vào ngày 6 tháng 6 (ngày 19 âm lịch), phái đoàn đã đến gần một trong những đảo của Hoàng Sa, sau đó viếng một vài đảo khác, và vào ngày 7 tháng 6 lúc 4 giờ chiều, “Phục Ba” và “Sâm Hàng” (hai pháo hạm) chạy thẳng về Quảng Châu, như chúng ta được biết từ báo “Quốc Tế” (Kuou-Che-pao: báo lớn của Quảng Châu) trong một bài viết ngày 20 tháng 6 năm 1909, mà bản dịch của nó như sau:

…..Tất cả các đảo Tây Sa (Hoàng Sa) đều rất bằng phẳng, đảo cao nhất không quá vài chục mét. Ở mép nước, một số rạn san hô nổi lên. Trên các hòn đảo, nhiều cây cối mọc lộn xộn. Khí hậu rất nóng. Ở biển, san hô và đá bị cắt (hoa thạch) có rất nhiều. Trai có chứa ngọc; tuy nhiên những thứ bắt được không chứa gì cả. Đảo có tên Tou-Lin-Wen là đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Tên đảo ấy vừa được đổi từ Mo-K'e, họ của phó tướng Ngô Kính Vinh.

Chính trên hòn đảo này, cờ Trung Quốc đã được giương lên và chào với 21 phát đại bác sau đó. Nó được chia thành hai đảo nằm ở phía đông và phía tây của nhau. Đảo phía đông lớn hơn một chút, cao 13 feet, ở phần phía nam của nó, thấy một cây dừa lớn, cạnh đó là một cái giếng. Đảo nhỏ ở phía tây cũng có một cây dừa lớn, cao tới 10 feet.

Vào ngày 20 âm lịch (7/6) lúc 4 giờ chiều, “Phục Ba” và “Sâm Hàng” đã ra đi trở lại theo đường đi thẳng. Đạo đài Lí cho vẽ bản đồ tổng quát các đảo đã được khám phá và 15 bản đồ đặc biệt của chính những đảo này; ngoài ra, 10 bức ảnh đã được chụp. Trong hơn 10 đảo này, 3 đảo phía đông bắc cũng như một đảo phía tây nam lớn hơn một chút so với những đảo khác, cả 4 đảo này đều có thể lập các cảng thương mại. Mặt khác, không có rạn san hô nào đáng sợ ở 4 đảo này; do đó các tàu hơi nước có thể tiếp cận tới đó được. Vẫn còn những nơi khác mà tàu hơi nước có thể đến, nhưng chúng có kích thước quá nhỏ để có thể lập các cảng. Đây là lí do tại sao hiện có ý định tạo ra hai cảng ở hai đảo phía đông. Tất cả những đảo còn lại sẽ được dành cho trồng trọt, đánh cá và muối.

Chúng tôi cũng được biết rằng phó tướng Ngô Kính Vinh và phó tổng đốc Lieou sẽ được giao nhiệm vụ đặc biệt để cố vấn và đảm nhận việc thực hiện kế hoạch này ngay tại chỗ. Những ngày này, các dự án chi tiết đã được soạn thảo và các kế hoạch, quan điểm, v.v. sẽ được trình cho tổng đốc xem xét.

Đảo Phú Lâm và đảo Đá (theo đo vẽ của các sĩ quan Đức của tàu Freya và Iltis (1881-85)

Vài ngày sau, tờ “Kouo-Che” đăng một bài báo được dịch như sau:

Chúng tôi đã kể lại những đặc điểm cụ thể của chuyến điều tra do đề đốc Lí [Chuẩn] và đạo đài Lí [Triết Tuấn] thực hiện ở quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi được biết rằng họ đã gửi một báo cáo cho tổng đốc về kết quả điều tra. Liên quan đến việc thảo luận về dự án, mỗi người đều có quan điểm riêng; nhưng cả hai đều nhận thấy đảo Phục Ba ở phía đông quần đảo và đảo Mo-K'e ở phía tây rất phù hợp cho việc tạo ra hai cảng thương mại. Về kích thước, đảo Phục Ba có chu vi khoảng 4 đến 5 lí, dài 2,5 lí và rộng khoảng 1 lí. Mo-K'e có chu vi  khoảng 7 lí và chiều dài từ 6 đến 7 lí. Nhưng đảo này được chia thành hai phần không dính liền với nhau; có thể xây một cây cầu để nối chúng lại. Xét về Hoàng Sa, nếu mở cảng thương mại ở đó thì đảo Mo-K'e sẽ phù hợp cho việc này hơn đảo Phục Ba.

Có thể làm (?) hai con đường trên đảo sau theo phong cách của Hồng Kông và các bến tàu và đường bộ trên những bãi biển cát viền quanh nó. Do đó đảo Mo-K'e này được dự kiến sẽ được tiến hành trước rồi đến đảo Phục Ba.

Các đảo khác của quần đảo có diện tích nhỏ không phù hợp để thành lập các cảng thương mại mà chỉ để trồng trọt, đánh cá và lập các đầm muối.

Tổng đốc sau khi xem xét nhiều điểm của vấn đề, vừa mời thủ quỹ, quan tòa và đạo đài cùng nhau thảo luận theo báo cáo thăm dò về phương thức thực hiện dự án và kiểm tra tất cả các chi tiết của câu hỏi, đối với từng đảo và từng bản đồ nói riêng, để sau đó gửi báo cáo lên vua về chủ đề này.

Có vẻ như Chính quyền Pháp nếu được thông báo về việc này cũng không mấy xúc động trước diễn tiến này. Tuy nhiên, lẽ ra họ phải cho thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về nhiệm vụ này, ít nhất là chỉ bảo cho Cơ quan Thủy văn của Hải quân Quốc gia chúng ta biết các quy trình có thể cho phép thực hiện trong 36 giờ việc thăm dò và lập bản đồ tổng quát về Hoàng Sa, cộng thêm 15 bản đồ bổ sung đặc biệt khác của cùng các đảo đó và cả 10 bức ảnh chụp (!) không tính nghiên cứu về hai cảng thương mại và một cây cầu nối hai đảo!!!

Về phần hai người Đức, họ trở về khá thất vọng và không thực hiện bất cứ điều gì sau chuyến đi, và người Trung Quốc cũng không hơn gì.

Từ thời điểm này cho đến khoảng năm 1920, do nhân dân hạnh phúc, quần đảo Hoàng Sa không có nhiều sự kiện xảy ra, ngoại trừ việc các tàu tuần dương của Hải quan Đông Dương thường xuyên ghé vào các đảo khác nhau của quần đảo. Đôi khi, nhờ sự can thiệp của các lãnh sự của chúng ta ở Hải Nam, họ đã báo rằng sau những cuộc ẩu đả giữa ngư dân Trung Quốc và ngư dân An Nam ở Hoàng Sa, vợ và con ngư dân An Nam bị ngư dân Trung Quốc bắt cóc, bị gom chung với các sản phẩm đánh cá để bán tại các cảng ven biển Hải Nam.

Những lần khác, những chuyến tới lui này được xác định bởi tin báo của những người cung cấp thông tin về vũ khí và đạn dược, hoặc thuốc phiện, được cất giữ trên các đảo này, không phải là không gây nguy hiểm cho an ninh hoặc tài chính của chúng ta ở Đông Dương.

Chính trong một trong những chuyến đi giám sát này, chỉ huy tàu “Espadon” đã phải thuyết phục thuyền trưởng của tàu “Aklbouo Maru” từ Kobe, người đang vận chuyển phosphat khai thác từ ​​đảo Phú Lâm. Khi bị thẩm vấn, giám đốc người Nhật của công ti này khai rằng người đại diện cho công ti của ông, “Mitsui Bussan Kaisha”, đã không cho phép bắt đầu việc khai thác này vào cuối năm 1920 mà không tham khảo ý kiến ​​của Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn, và vị tư lệnh này không cho rằng cần thiết phải đưa ra lệnh cấm khai thác, theo quan điểm quân sự.

Nếu thông tin của tôi là chính xác, Chính quyền Pháp cảm thấy không cần thiết phải rút lại điều gần như sự cho phép do Tư lệnh Hải quân đưa ra một cách nhẹ nhàng, người Nhật đã hành động đúng đắn so với chính quyền Pháp vốn không hiểu đúng các quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.

Do đó, đây là một tiểu luận lịch sử về vùng đất phụ thuộc này của An Nam, việc nghiên cứu về nó vẫn chưa được thúc đẩy đầy đủ cho đến những năm gần đây. Hiện giờ không còn giống như vậy nữa và các quan điểm khác nhau đã được nghiên cứu.

Theo quan điểm hàng hải, chỉ cần tham khảo Hướng dẫn đi thuyền và các tài liệu bản đồ do Cơ quan Thủy văn Hải quân xuất bản là đủ.

Còn về  nghiên cứu khoa học, nó được giao cho  phái đoàn “De Lanessan”, một tàu hơi nước có lương giãn nước 750 tấn trực thuộc Cục Hải dương học và Nghề cá Đông Dương thực hiện. Ngoài việc được trang bị cho lưới kéo hiện đại, đơn vị này còn có các trang thiết bị cần thiết để biến nó thành một phòng thí nghiệm nổi thực sự, cho phép thực hiện mọi nghiên cứu khoa học và nghiên cứu hải dương học. Các kết quả thu được được báo cáo trong các ghi chú do Tiến sĩ A. Krempf, Giám đốc Cơ quan Hải dương học công bố. Những ghi chú này cũng là nguồn tài liệu chưa được xuất bản được quan tâm nhiều nhất, nhờ giá trị khoa học, chúng tạo thành một kho kiến ​​thức thực sự phong phú về Thuộc địa của chúng ta: những chi tiết được đưa ra là những điều quý giá nhất. Các dữ liệu sau đây được lấy từ chúng:

Cấu hình địa lí dưới nước của khu vực rộng lớn kéo dài từ vịnh Bắc Bộ đến cửa vịnh Thái Lan thể hiện một loạt thềm dưới nước được sắp xếp thành các tầng bậc liên tiếp có độ sâu tăng dần khi chúng ta di chuyển ra xa bờ biển. Những tầng ổn định nhất, rộng nhất và đáng chú ý nhất về mọi mặt nằm ở các độ sâu thay đổi từ 40 đến 60 mét.

Chính địa hình quan trọng dưới nước này được tìm thấy ở khối đảo biệt lập ở giữa biển Đông, tạo nên quần đảo Hoàng Sa.

Một loạt các cuộc khảo sát và nạo vét được tàu “De Lanessan” thực hiện trên cao nguyên ngầm mà từ đó các rạn san hô và đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa nổi lên; các nền móng này có độ sâu thay đổi từ 40 đến 100 mét được xác định là được tạo thành từ các lớp vỏ san hô bao phủ nó ở tất cả các điểm mà độ tinh khiết của nước cho phép phát triển san hô tạo ra rạn san hô. Đó là một bề mặt có hình dạng từ thời kì băng hà vốn được bao phủ bởi nước biển sau đợt băng tan cuối cùng, tiếp tục mang lại điều kiện tốt nhất cho san hô phát triển do nằm cách xa tất cả các bờ biển. Nó hiện được bao phủ đều bởi san hô sống, cát và sỏi san hô.

Đảo Phú Lâm tháng 7/1926 - Mai rùa biển và  dáng vẻ rừng nguyên thủy ven bờ biển của đảo

Quan điểm địa chất này đã được khẳng định, hãy rút ra từ báo cáo đáng chú ý của tiến sĩ Krempf những chi tiết cần thiết từ nó.

Trước hết, đây là những gì người đồng hương uyên bác của chúng ta nói về phốt phát:

Qua việc tiếp tục nghiên cứu trong phòng thí nghiệm những vật liệu được mang về từ chuyến đi của chúng tôi tới quần đảo Hoàng Sa năm 1926, chúng tôi đã có thể nhận ra cơ chế hình thành các lớp trầm tích phốt phát tạo thành đất của tất cả các đảo thuộc quần đảo này mà độ cao của chúng, bên trên mực nước khi triều cao, cho phép thảm thực vật phát triển. Tất cả những đảo này, không có ngoại lệ, đều có bản chất là san hô như chúng ta đã xác lập vào năm 1926. Do đó, đất của chúng, ban đầu và trước bất kì sự biến đổi nào có thể quan sát được, được tạo thành từ cacbonat vôi. Chính trên nền đất rất đặc biệt và rất nghèo này mà lần đầu tiên rừng được hình thành bao phủ các đảo nhỏ hiện nay có rừng thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời khi rừng này phát triển bằng các hạt giống trôi nổi từ những vùng đất xa xôi mang tới, vô số loài chim biển tìm nơi trú ẩn qua đêm ở những đảo này đã thải xuống đất tất cả acid phosphoric từ chế độ ăn chỉ gồm có cá và động vật biển. Nếu khí hậu của quần đảo Hoàng Sa vốn ôn hòa, ẩm ướt với lượng mưa dồi dào mà khô cằn như khí hậu của các đảo được bao phủ bởi phân chim ở Chile và Peru, thì acid phosphoric này sẽ vẫn ở trạng thái phân chim thông thường như trong các lớp  trầm tích được biết đến của bờ biển Thái Bình Dương của Nam Mĩ. Ở Hoàng Sa, với sự có mặt của nước mà đất rừng của các đảo này được cung cấp dồi dào, acid phosphoric hòa tan và phosphat hòa tan được giải phóng đã gặp phải, khi xâm nhập vào lòng đất, carbonat vôi đã giữ lại chúng và cố định khi mất đi acid carbonic. Do đó, sự biến đổi này tiến triển từ bề mặt đến chiều sâu. Chúng tôi vẫn chưa thể xác định độ dày của lớp được biến đổi như vậy. Chúng tôi chỉ có thể nói rằng nó vượt quá một mét ở một số điểm mà việc quan sát này trở nên dễ dàng hơn đối với chúng tôi nhờ sự hiện diện của giếng.

Ở trên mặt đất, các thành phần san hô đầu tiên gặp được do acid phosphoric hòa tan là cát vôi mịn ít nhiều đôi khi được tái tạo bởi gió hoặc các mảnh vụn san hô nhẹ. Sau khi chuyển hóa thành phosphat, hàm lượng acid phosphoric của các thành phần trên mặt đất này là 23 đến 25%.

Ở dưới sâu, quá trình phosphat hóa tập trung trên đá đặc được tạo thành từ các vũng nước, hoặc từ đá sa thạch san hô có thành phần lớn, đôi khi rất cứng. Mặc dù khi mất đi acid carbonic và khi biến thành phosphat, những tảng đá này vẫn giữ được cấu trúc nguyên thủy và nhà cổ sinh vật học có thể dễ dàng nhận ra, không thay đổi, hình thái của các loài san hô đã giúp hình thành nên chúng. Hàm lượng acid phosphoric của các lớp sâu này lên tới 42%.

Những phân tích này được giám đốc Phòng thí nghiệm Hóa học Sài Gòn, ông Michel, thực hiện.

Một vật liệu như vậy rõ ràng rất thú vị khi được sử dụng làm nguồn acid phosphoric. Tuy nhiên, cho đến nay, nó mới chỉ làm thử với một công ti Nhật Bản vốn vừa đảm nhận việc khai thác đảo Phú Lâm trong chuyến thăm của chúng tôi, vào tháng 6 năm 1926, sau khi đã từ bỏ, chưa khai thác hết, mỏ tốt ở đảo Roberts (Hữu Nhựt).

Người Nhật khai thác trên đảo Phú Lâm có đường sắt, toa xe, cầu cảng dài 300 mét, tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho công việc của những người điều hành.

Lực lượng lao động là người Trung Quốc, do một quản đốc người Philippines trông coi.

Trên nhiều công trường xây dựng, cây cối bị đốn đi và thảm thực vật bị phá hoại. Khi người Nhật khai thác xong lượng phosphat tích lũy qua hàng thế kỉ ở những đảo này, sẽ không còn gì ngoài khu rừng xinh đẹp nơi vô số loài chim biển cho đến ngày nay vẫn đến trú ẩn và làm tổ.

Các nhà tự nhiên học đã có thể nhìn thấy những biểu hiện đầu tiên của sự can thiệp của con người đối với sự cân bằng của hệ động vật ở những đảo này: vô số chuột chạy trên mặt đất; trong vòng vài tháng nữa, rừng ở đây sẽ bị chúng xâm chiếm. Cuộc xâm lấn này, theo sau việc đưa con người đến vùng đất hoang sơ này vài tháng, sẽ đặt dấu chấm hết cho sự thống trị của các loài chim trên đảo Phú Lâm.

Cầu tàu dài 300 m trên đảo Phú Lâm


Đảo Hữu Nhựt - người Nhật khai thác và bỏ phế

Do đó, các công ti có thể được thành lập trong tương lai gần nhằm tiếp tục khai thác phosphat quần đảo Hoàng Sa sẽ gặp khó khăn nghiêm trọng và các nhà quản lí của họ nên thực hiện một nghiên cứu sơ bộ nghiêm túc.

Công việc như vậy đòi hỏi chi phí đáng kể: cơ sở vật chất trên đất liền cho nhân sự, việc kéo sà lan, việc xây dựng cầu cảng, việc tiếp liệu khó khăn, nơi neo đậu không an toàn cho tàu chở hàng đến lấy hàng, v.v... và kết quả hi vọng sẽ ra sao sau lần khai thác hớt này do người Nhật thực hiện?

Về vấn đề đánh bắt cá, đã 20 năm nay, ít còn nghe nói đến việc trai ngọc được thu lượm hàng giỏ đầy ở quần đảo Hoàng Sa. Các thủy thủ Trung Quốc trong chuyến đi kéo dài 36 giờ năm 1909, trong thời gian đó họ đã làm rất nhiều điều đáng chú ý, đã tuyên bố trong báo cáo của mình: “Những con trai chứa ngọc, tuy nhiên không phải tất cả những con bắt được đều chứa gì…” và kể từ đó cũng như vậy

Khai thác phosphat vôi ở đảo Hữu Nhựt

Chưa hết, quan điểm hiện nay về các nền móng cao hình thành bởi các bãi của quần đảo Hoàng Sa, nằm trong giới hạn độ sâu rất thuận lợi cho sự phát triển của sinh vật biển, có xu hướng khiến chúng ta tin vào việc dễ dàng khai thác hệ động vật phong phú này; công việc của Phái đoàn “De Lanessan” thực hiện lại chứng tỏ điều ngược lại.

Báo cáo về chủ đề này được thể hiện qua lời lẽ sau:

Trong nghiên cứu của chúng tôi về khu vực này, chúng tôi quan tâm muốn biết liệu các nền tảng dưới nước mà một số đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa nằm bên trên, có thể khai thác được bằng ngư cụ kéo của châu Âu cũng như của bản địa hay không.

Nghiên cứu của chúng tôi nhanh chóng tiết lộ rằng lớp san hô bao phủ toàn bộ những bề mặt này hoàn toàn ngăn chặn mọi hình thức lưới kéo tiếp cận.

Những máy nạo vét mạnh như máy nạo vét Charcot, được gia cố đặc biệt theo kinh nghiệm của chúng tôi để hạ xuống các rạn san hô, không chịu được vài phút làm việc trong tình trạng hỗn loạn của các nền móng này nơi mà san hô đang hoạt động phát triển toàn diện.

Các quy trình chiếu sáng đáy biển mà chúng tôi đã bắt đầu sử dụng trong các cuộc điều tra của mình cho phép chúng tôi nhận ra bản chất không đều đặn của những nền móng này cũng như liệu chúng tôi có thể tự di chuyển giữa những khối lượng lớn bất thường của Meandrines, Astroeides, Porites và những vùng trũng sâu, được lót bằng cát san hô và sỏi, ngăn cách chúng .

Các kết quả khoa học về mọi mặt rất phong phú, nghiên cứu của chúng tôi về khu vực này từ quan điểm thực hành đánh bắt cá công nghiệp bằng thiết bị kéo do đó dẫn đến việc chống chỉ định tuyệt đối do việc thành lập san hô độc quyền của các nền móng này. Vì lí do này, có tính quyết định bởi tự nó, đã thêm vào câu hỏi về sự khó khăn và thậm chí cả những nguy hiểm khi đi lại ở những khu vực có nhiều rạn san hô và hầu như không có nơi trú ẩn an toàn.

Cần lưu ý thêm rằng chỉ có một số ít thuyền đến các đảo hoang này để đánh bắt rùa biển, hải sâm và các sản phẩm biển khác từ các rạn san hô.

Không phải lúc nào thuyền hay những người chuyên đánh cá cũng đến thực hiện các chuyến đánh bắt này trên các rạn đá của quần đảo Hoàng Sa: họ thường là những người đi biển hàng năm đi qua và trở về theo sự chuyển động của gió mùa trên đường từ Hải Nam đến  Singapore, những người, trong thời kì chế độ gió ngăn cấm mọi hoạt động di chuyển, đến để giảm bớt những bất tiện của mùa nghịch này bằng cách tham gia đánh bắt cá trên các rạn san hô của quần đảo xa xôi này.

Tuy nhiên, một số thuyền chuyên dụng, từ tháng 3 đến tháng 12 thực hiện ba chuyến đánh cá, trở về cảng quê hương vào dịp nghỉ lễ Tết từ tháng 1 đến tháng 2; thường bao gồm khoảng 20 người, họ được trang bị vũ khí ở một số cảng phía nam Hải Nam. Khi đến quần đảo Hoàng Sa, tại ngư trường, sau khi vượt qua hàng rào rạn san hô, thuyền được kéo vào bờ trên bãi cát đến nỗi gần như mắc cạn hoàn toàn.

Một màn bằng chiếu che cho các sinh vật sống khỏi bị nắng, và thủy thủ đoàn của nó đang bận rộn đánh bắt cá, chủ yếu là câu rùa, thứ hai là bắt trai to (tridachne) và hải sâm. Việc đánh bắt rùa được thực hiện bằng thuyền tam bản và lưới dọc lớn trải quanh mép ngoài của rạn san hô và dùng để đánh bắt rùa khi chúng lên bờ để đẻ trứng. Chuyến đánh bắt kéo dài 30 đến 45 ngày, trong thời gian đó đánh bắt được 125 đến 150 con rùa. Rùa sau khi bắt được sẽ được nhốt vào các chỗ nhốt dài 10m, rộng 5m, đáy hình trái xoan được tạo thành từ một vành đai đá khô cao 30 - 40cm tạo thành hồ chứa nước biển. Dưới chân là những cây que khá dài được lắp trên thành, hơi nghiêng về phía trong và rất gần nhau. Đây là những gì tạo thành rào chắn cho chỗ nhốt. Những chiếc que này được bện với nhau bằng dây leo ở phần trên. Trần được làm bằng những mảnh gỗ đan chéo nhau được phủ bằng cành cây để các con vật được che nắng.

Vị trí của chỗ nhốt được tính toán sao cho nước biển có thể thay mới mỗi khi thủy triều lên, nhìn chung có 3 đến 4 chỗ nhốt gần thuyền. Ngay sau khi bắt được, rùa được xếp theo kích cỡ bỏ vào các chỗ nhốt khác nhau cho đến ngày lên đường; sau đó chúng được mang sống xuống thuyền khi đó đã biến thành chỗ chứa. Hoạt động này chỉ được thực hiện khi thuyền nằm ở ngoài rìa ngoài của rạn san hô mà nó phải đi qua hoàn toàn nhẹ nhàng và có mớn nước tối thiểu. Tỉ lệ rùa chết dường như không nhiều trong thời gian ở trong chỗ nhốt hoặc trong quá trình vượt biển kéo dài trung bình 3 đến 4 ngày. Trong mọi trường hợp, những con rùa chết sẽ được cắt ra và tạo thành nguồn thức ăn bổ sung đáng kể của thủy thủ đoàn sống bằng động vật có vỏ và cá nhỏ bắt bằng cách câu khi thả lưới rùa. Chất thải của cá là thức ăn chính của rùa. Mỗi con rùa khi đến các cảng của Hải Nam được bán với giá 15 đến 25 piastres (đồng) tùy theo độ lớn.

Trai to (tridachne) được bắt từ ​​các rạn san hô xung quanh vùng nước thấp, màng cơ được cắt thành dải mỏng, sau đó phơi khô dưới nắng.

Từ những quan sát này, có thể suy ra rằng việc khai thác các nguồn tài nguyên do quần đảo Hoàng Sa mang lại có rất ít cơ hội mang lại lợi nhuận, bởi vì, trong mọi khả năng, đã quá muộn đối với phosphat và không thể đánh bắt bằng lưới kéo quy mô lớn do bản chất nền móng đáy biển. Không cần phải xem xét, với tư cách là một công việc kinh doanh, nghề đánh bắt cá nhỏ đã được thực hiện bởi các thuyền An Nam và vẫn còn được thực hiện bởi người Trung Quốc: nghề đánh cá này chỉ tạm lấy làm sinh kế cho những người thực hành nghề đánh cá này.

Vì vậy, việc từ bỏ phần lãnh thổ Đông Dương này của chúng ta có cần thiết hay không? Không một chút nào.

Ngược lại, chúng ta không thể bỏ qua vùng đất phụ thuộc này của nước bảo hộ An Nam mà các quyền không thể tranh cãi chưa bao giờ được định ra.

Các rạn san hô Hoàng Sa tạo thành mối nguy hiểm thực sự cho hàng hải; hầu như mỗi khi xảy ra vụ đắm tàu, “Hiệp hội dịch vụ thương gia” Hồng Kông đều yêu cầu Chính phủ Anh thực hiện các biện pháp cần thiết để lắp đặt ít nhất hai ngọn đèn biển ở đó.

Chính phủ Đông Dương có trách nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích chung này nếu cần thiết; nhiệm vụ này thuộc về chúng ta, đó là lợi ích của chúng ta khi thực hiện nó và chúng ta không thể cho phép người khác thực hiện nó.

Trong thời thông tin vô tuyến này cho phép theo dõi và báo trước các cơn bão, thời các dự án thủy phi cơ và nghiên cứu các căn cứ tàu ngầm, Hoàng Sa có tầm quan trọng chưa bao giờ có được đối với Đông Dương. Đây là lí do tại sao tôi thấy thú vị khi tổng hợp lại trong ghi chú này những chi tiết hiện tại về những rạn san hô tương đối ít được biết đến này.

P. A. LAPICQUE.

Thuyền trưởng đường dài.

Chủ tàu ở Viễn Đông.

https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k133960k#