Thursday, October 22, 2015

Bắc Kinh vươn tới vị thế trên tay về quân sự ở Châu Á

Bắc Kinh vươn tới vị thế trên tay về quân sự ở Châu Á
(Beijing Reaches for Military Upper Hand in Asia)

Khoảng cách nhanh chóng thu hẹp lại làm tăng thêm rủi ro cho Mĩ trong việc chống lại Trung Quốc

ANDREW BROWNE
WSJ (20/10/2015)

At a military parade Sept. 3 to commemorate the end of World War II, China displayed for the first time the DF-21D antiship ballistic missile, designed specifically to target approaching U.S. aircraft carriers.
 Tại cuộc diễu binh ngày 3 tháng 9 để kỉ niệm kết thúc Thế chiến II, Trung Quốc lần đầu phô ra  tên lửa đạn đạo chống tàu DF-21D, được thiết kế đặc biệt có mục tiêu nhắm vào các tàu sân bay Mĩ. Ảnh: EUROPEAN PRESSPHOTO AGENCY


ĐÀI BẮC- Năm 1996, khi Trung Quốc cố dọa cử tri Đài Loan với việc bắn tên lửa gần đảo này, Tổng thống Mĩ Bill Clinton đã nhanh chóng điều hai nhóm tác chiến tàu sân bay tới. Thông điệp thẳng tuột của ông cho Bắc Kinh: hãy xéo đi.

Mĩ lúc đó đang có sức mạnh ở tột đỉnh, còn Trung Quốc hầu như không có khả năng tự vệ trên biển và trên không, do đó, Lầu Năm Góc có thể có thừa sức để hành động nghênh ngang. Một cuộc xung đột, nếu Trung Quốc đần độn tới mức kích động lên, có thể phô lộ sự lạc hậu về  quân sự kinh niên của họ. Nếu đối đầu, Bắc Kinh buộc phải chịu thua.

Hiện nay, một cuộc khủng hoảng đang tích tụ ở Biển Đông đối với công việc xây đắp đảo đồ sộ của Trung Quốc làm nổi rõ sự thay đổi một cách đầy kịch tính cán cân quân sự ở Đông Á, không chỉ đối với Đài Loan mà ở mọi chỗ nằm trong tầm tên lửa, máy bay chiến đấu và tàu ngầm của Trung Quốc. Mĩ không lẫn tránh; họ hiện đang trù tính một cuộc thách thức hải quân ngày nào đó quanh quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc đã trang bị một đường băng đủ dài để máy bay quân sự đáp xuống trên một trong những mặt bằng do nạo vét. Nhưng Nhà Trắng đang rối bù về những rủi ro trong nhiều tháng nay.

Đừng trông mong các tàu sân bay. Chúng hiện là mục tiêu của tên lửa đạn đạo chống tàu hoạt động đầu tiên của thế giới. Bên cạnh đó, khống chế nhanh không phải là một phần của bất kì kế hoạch trò chơi hợp lí nào chống lại Trung Quốc ngày nay, kể từ năm 1996 chi tiêu quân sự của họ tăng lên trung bình hàng năm là 11%, thu hẹp khoảng cách quân sự với Mĩ nhanh hơn so với hầu như bất cứ ai có thể nghĩ tới.

Thay vào đó, Lầu Năm Góc thấy mình trong tình thế lưỡng nan: làm sao triển khai tối thiểu sức mạnh hải quân trong khi vẫn truyền tải được tín hiệu răn đe tới Bắc Kinh. Một lựa chọn là phái các tàu chiến ven biển tối tân nhưng vũ trang tương đối nhẹ đang đóng ở Singapore.

Mặc dù quần đảo Trường Sa không chút gì hơn một nhóm các rạn đá, đảo san hô và bãi cát ở rải rác, chúng đã trở thành những biểu tượng cụ thể trong một cuộc đấu tranh địa chính trị lớn hơn nhiều. Độ tin cậy về an ninh mà Mĩ bảo đảm cho các đồng minh châu Á đang bị đe doạ.

Tuy nhiên, bất cứ hành động nào mà Lầu Năm Góc quyết định làm sẽ chiếu sáng các lựa chọn quân sự đang thu hẹp của Washington  - và khả năng của Trung Quốc trong việc định hình các hành động của Mĩ. Theo một nghiên cứu gần đây của Rand Corp, trong vòng 5 đến 15 năm tới "Châu Á sẽ chứng kiến biên giới thống trị của Mĩ lùi ra xa dần."

Thật vậy, khi các nhà chiến lược quân sự Mĩ trù tính việc thực hành "Tự do hàng hải" bằng cách phái tàu chạy vào trong vòng 12 hải lí của các đảo do Trung Quốc tự tạo, điều trên hết trong suy nghĩ của họ là làm thế nào để tránh sa vào một cuộc xung đột. Đó không phải là vì Hoa Kỳ có bất kì nguy cơ bị thua nào - trong hầu hết các tình huống không dùng vũ khí hạt nhân, quân đội Mĩ vẫn vượt xa quân đội Trung Quốc - mà vì cái giá huỷ hoại có thể xảy ra.

Một cuộc xung đột với Trung Quốc sẽ không giống như bất kì cuộc xung đột nào mà Mĩ từng phải đối mặt kể từ Thế chiến II. Kể từ đó, Mĩ cũng chưa từng phải đối mặt với một kẻ thù có khả năng đe dọa các tàu sân bay và tàu ngầm của họ - biểu tượng kép về sức mạnh và uy tín của Mĩ.

Và Mĩ chưa từng đánh nhau với một kẻ thù có khả năng chiến tranh mạng - hay có vũ khí hạt nhân.



Hơn nữa, mặc dù Mĩ vẫn dẫn đầu một quân đội kinh khiếp trên tổng thể, Trung Quốc lại nắm giữ con chủ bài: địa lí. Sự gần gủi với các điểm nóng của Đông Nam Á, bao gồm cả Đài Loan và quần đảo Trường Sa, bù trừ phần lớn các lợi thế công nghệ của Mĩ. Bắc Kinh không phải tìm cách sánh với Mĩ từng loại vũ khí một để đảo ngược tình thế đối với Washington và bắt đầu chế ngự sân sau của mình.

Chắc chắn là quân đội của Trung Quốc chưa từng được thử thách từ sau cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam vào năm 1979, và trong nhiều lĩnh vực trọng yếu Mĩ vẫn còn đi trước nhiều thập kỉ . Ví dụ, Trung Quốc chỉ có 10 máy bay bồn dùng để tiếp nhiên liệu cho máy bay phản lực; Mĩ có 475.

Nhưng thời điểm đảo ngược cán cân đang đến gần hơn. Nghiên cứu của Rand cho biết một cuộc xung đột ở Đài Loan vốn chỉ cách bờ biển Trung Quốc 100 dặm, nhưng cách lục địa Hoa Kỳ hàng ngàn dặm, sẽ là một "biến động ngắn, gay gắt và có lẽ dữ dội với những thiệt hại nghiêm trọng cho cả hai bên."

Theo Bộ Quốc phòng Mĩ, Trung Quốc hiện có ít nhất 1 200 tên lửa đạn đạo tầm ngắn thuộc loại đã rót vào vùng biển xung quanh Đài Loan hồi năm 1996 lúc đảo này đang chuẩn bị bỏ phiếu bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên.

Sau đó, Bắc Kinh cũng hi vọng làm cử tri sợ hãi để bác bỏ ứng cử viên Quốc Dân Đảng đang cầm quyền, Lee Teng-hui (Lí Đăng Huy), người mà họ sợ sẽ dẫn Đài Loan theo con đường tìm kiếm độc lập. Kế hoạch này bị phản tác dụng: Lí Đăng Huy giành được đa số phiếu bầu.

Tháng 1 tới, Đài Loan đi vào bầu cử lần nữa, và một lần nữa Trung Quốc đang lo ngại về ứng cử viên đang dẫn trước Tsai Ing-wen (Thái Anh Văn), đảng của bà công khai gắn kết với những người ủng hộ độc lập, mặc dù chính bà đã nói rõ bà ủng hộ nguyên trạng.

Trung Quốc cho đến nay đã tạm ngưng chiến thuật bắt nạt đối với Đài Loan, mặc dù họ đang gia tăng các cảnh báo về hành động của hải quân Mĩ ở Trường Sa; một bài bình luận của Tân Hoa Xã cho biết Trung Quốc sẽ phản ứng "một cách thích hợp và dứt khoát." Một cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ ở Đông Á đang diễn ra, và các xu thế quân sự đều theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Tuesday, October 20, 2015

Đối đầu Mĩ – Trung lờ mờ hiện ra trong vùng biển rắc rối ở Biển Đông

Đối đầu Mĩ – Trung lờ mờ hiện ra trong vùng biển rắc rối ở Biển Đông

(Bản dịch đã đăng trên adminbasam on 18/10/2015)
US-China confrontation looms in troubled waters of South China Sea

SMH (17-10-2015)
Nick O’Malley, Phóng viên Mĩ của Fairfax Media


Tàu chiến Mĩ dự kiến sẽ thách thức chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố trong việc thực hành quyền tự do đi lại.
H1Bộ trưởng Quốc phòng Maurice Payne, Bộ trưởng Ngoại giao Úc Julie Bishop và Ngoại trưởng Mĩ John Kerry tại một cuộc họp báo ở hội đàm quốc phòng Mỹ-Úc. Ảnh: AP
Nếu bạn định thiết kế một khu vực biển có đặc điểm sẽ gây ra tranh chấp giữa các nước, bạn không thể nào làm tốt hơn việc hình thành Biển Đông.
Như Robert Kaplan, một cựu thành viên trong Ban Chính sách Quốc phòng của Lầu Năm Góc, viết trong cuốn sách của mình: Vạc dầu Châu Á, Biển Đông và sự chấm dứt của khu vực Thái Bình Dương ổn định (Asia’s Cauldron, The South China Sea and the End of a Stable Pacific), [Biển Đông là nơi có] chủ quyền tranh chấp giữa Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Việt Nam, hơn một nửa trọng tải giao thương thế giới tới lui qua đoạn yết hầu hàng hải này giữa Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
“Cái gọi là thực hành quyền tự do đi lại có thể chứng kiến các tàu hải quân Mĩ và Trung Quốc hoạt động cách nhau trong vòng 1000 mét ở vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền”.
Nằm bên dưới vùng biển đó là khoảng 900 ngàn tỉ feet khối khí đốt tự nhiên và 130 tỉ thùng dầu.
H1Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, phải, và Tổng thống Mĩ Barack Obama trên bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng ở Washington. Ảnh: Bloomberg
Yêu sách Trung Quốc đối với những mảng rộng lớn của Biển Đông đã mở rộng cùng nhịp với sự nâng lên về kinh tế và quân sự của họ.

Năm 2010 Trung Quốc cho Mĩ biết rằng họ coi khu vực này là ‘lợi ích cốt lõi’ và năm sau đó tờ Hoàn Cầu, phụ bản báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản, đã viết một xã luận, cảnh báo các nước khác đừng coi cách tiếp cận hòa bình của Trung Quốc đối với các tranh chấp trong khu vực là chuyện đương nhiên.
“Nếu những nước này không chịu thay đổi cách cư xử với Trung Quốc, họ cần chuẩn bị nghe tiếng đại bác gầm. Chúng ta cần sẵn sàng cho điều đó, vì đó có thể là cách duy nhất để các tranh chấp ngoài biển được giải quyết”.
Đúng lúc Trung Quốc quyết tâm khẳng định quyền lực chiến lược mới của họ ở đây, Mĩ cũng quyết không cho phép họ tạo ra những chuẩn mực quốc tế mới ở Biển Đông.
Nếu như có chiến tranh giữa Trung Quốc và Mĩ, đây chính là chỗ mà mọi người lo ngại nó có thể bắt đầu, đây chính là chỗ mà các nhà quan sát kì vọng Mĩ sẽ kiểm nghiệm quyết tâm của Trung Quốc trong những ngày tới.
Mấy tuần qua, có nhiều tường thuật từ các nguồn hải quân cấp cao của Mĩ – có nêu tên và không nêu tên – rằng Hải quân Mĩ đang có kế hoạch thực hiện điều mà họ gọi là thực hành quyền tự do đi lại qua các vùng biển mà Mĩ tin rằng Trung Quốc đang đòi chủ quyền phi pháp.
Hôm Thứ Năm, Phó Đô đốc Peter Daly, từng chỉ huy nhóm tác chiến tàu sân bay trong chiến tranh Iraq trước khi nghỉ hưu, nói với Fairfax Media rằng tất cả các dấu hiệu và chuyện trò ngoại giao mà ông chứng kiến, gơi ra rằng, một cuộc thực hành như vậy sẽ được tiến hành trong vài ngày tới.
Cái gọi là thực hành quyền tự do đi lại có thể chứng kiến các tàu hải quân Mĩ và Trung Quốc hoạt động cách nhau trong vòng 1000 mét ở vùng biển Trung Quốc đòi chủ quyền.
Để hiểu được tầm quan trọng của hoạt động này, cần phải hiểu yêu sách của Trung Quốc. Trung Quốc cho rằng họ sở hữu một chuỗi các đảo nhỏ và các rạn đá trải rộng trên 2000 km biển. Phần lớn của yêu sách này bị nhiều nước láng giềng tranh chấp mà hầu hết trong số họ được Mĩ ủng hộ về quân sự, ngoại giao.
Một số thể địa lí này đang trong tình trạng có các yêu sách đối kháng của các quốc gia khác.


<i></i>
Đối mặt với sự phản đối quốc tế và để củng cố yêu sách của mình, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn đá trong khu vực này, và khu vực 12 hải lí xung quanh khu đất được bồi tạo, coi như là lãnh hải độc quyền.
Hồi tháng 9, Mĩ tiết lộ rằng không những việc bồi tạo đang tăng tốc mà các cơ sở cảng và đường băng cũng đang được xây dựng trên nhiều đảo.
Mỹ và nhiều nước khác đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc, lưu ý rằng Công ước về Luật Biển của Liên Hợp Quốc không kéo dài phạm vi áp dụng ra cho đất bồi tạo.
“Không thể chế tạo chủ quyền”, Daly nói.
Hơn nữa, Mĩ cho biết, đáng lẽ Trung Quốc không được hoạt động trên đảo tranh chấp trước khi các tranh chấp giải quyết xong.
Và như vậy chúng ta đi đến một cuộc giằng co. Để khẳng định điều mà họ xem là luật pháp quốc tế rõ ràng, Mĩ dường như đang lên kế hoạch cho một đội tàu chạy băng qua khu vực 12 hải lý, xung quanh một hoặc nhiều hơn trong số các đảo bồi tạo hoặc có tranh chấp này.
Chính Daly đã từng tiến hành cách thực hành tương tự nhiều lần, nói rằng ông không biết Hải quân Mĩ đang có kế hoạch sử dụng loại tàu nào, mặc dù trong quá khứ thường triển khai từ một đến ba tàu khu trục.
Daly nói, dự kiến Trung Quốc có thể dùng các tàu chiến của họ bám sát theo đội tàu Mĩ.
Daly tin rằng việc thực hành này mà ông mô tả như lệ thường, sẽ được hoàn thành mà không có xung đột, và phản ứng của Trung Quốc đối với việc này sẽ là phản ứng ngoại giao.
Mỹ nhấn mạnh không theo đứng về phe nào trong các tranh chấp chủ quyền trong khu vực, họ chỉ đơn giản muốn nhấn mạnh tới việc khẳng định quyền tự do đi lại.
“Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cho tàu và máy bay di chuyển và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép”, Tổng thống Barack Obama phát biểu trong một cuộc họp báo chung với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Washington hồi tháng trước. Các quan chức Mỹ và các nhà ngoại giao cấp cao đã sử dụng những lời lẽ giống như vậy nhiều lần kể từ đó.
Úc cũng đã nhắc lại lập trường đó.
Dù vậy Trung Quốc vẫn không cho thấy dấu hiệu xuống nước. Quả vậy Bill Bishop, tác giả của Sinocism China Newsletter, nói trong buổi phỏng vấn do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế – một nhóm chuyên gia tư vấn hàng đầu của Mĩ – công bố, rằng với kiểu cách tuyên truyền của họ thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có chỗ để thụt lùi – hiện nay người dân Trung Quốc coi Biển Đông như là một bộ phận của Trung Quốc.
Bishop nói với CSIS rằng thậm chí việc bồi tạo đất của Trung Quốc có thể sẽ tăng thêm trong những tháng tới vì Bắc Kinh tin rằng chính quyền sắp tới của Mỹ do Hillary Clinton hay do một nhân vật Cộng hòa đứng đầu vào năm 2017 có thể sẽ quyết đoán hơn.
Trong chuyến thăm Washington, DC, của Tập Cận Bình hồi tháng trước, vỡ diễn ngoại giao hoành tráng đó phần lớn đi theo kịch bản, ngoại trừ một lời bình luận của Tập Cận Bình trong buổi họp báo ở Nhà Trắng.
Obama đã khẳng định lại ý định của Mỹ về việc đi lại trên biển và trên không, ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép.
Tập Cận Bình đã đưa ra một lời đáp trả mà các nhà quan sát ở thủ đô Mĩ vẫn còn đang tranh luận, nói rằng Trung Quốc không có ý định quân sự hoá các đảo đang bàn. Theo một nhà quan sát ở Washington, quan chức Trung Quốc tại sự kiện này có vẻ bị sốc trước lời đáp trả này, và các nhà bình luận không thống nhất về ý nghĩa của nó.
Có thể đó là chính sách đã thay đổi? Có thể đó là một sự nhầm lẫn?
Như Bonnie Glaser, cố vấn cao cấp châu Á, kiêm giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, gợi ý rằng, đó có thể vì Trung Quốc không xem việc tạo ra các cảng và sân bay, thậm chí radar, hoặc thiết bị định vị là quân sự hoá chăng?
Dù theo cách nào, các quan chức Mỹ đã nhìn thấy một lổ hổng trong cách phát ngôn này và họ đang luồng qua đó, tìm mọi cơ hội để dựng nó như vị thế mới của Trung Quốc.
Úc có vẻ đang hát cùng một bài hát.
Trong họp báo chung ở cuộc đàm phán quốc phòng Mĩ – Úc hàng năm ở Boston tuần này, Bộ trưởng Ngoại giao Julie Bishop nhận xét, “Chúng tôi lưu ý và chúng tôi thật sự hoan nghênh phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình khi ông ở đây tại Hoa Kỳ, tại Washington, rằng Chính phủ Trung Quốc không có ý định quân sự hoá quần đảo Trường Sa. Và chúng tôi hoan nghênh tuyên bố đó và chúng tôi chắc chắn muốn Trung Quốc phải giữ lời”.
Nếu và khi các tàu chiến Mĩ thật sự lách vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông dưới mắt của các lực lượng đối nghịch nhau trong những ngày tới, Daly tưởng tượng thái độ trên tàu sẽ tập trung, lặng im và trầm tĩnh.
Về các hoạt động nhự thế này, ông nói “Nó không hoàn toàn giống như bất kì ngày nào khác”, dù đó là một phần của các hoạt động bình thường. Ông nói tiếp, nhưng khi hai lực lượng đến gần với nhau tới mức như vậy thì những rủi ro về một sự cố không lường trước nào đó sẽ tăng lên.

Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông

Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông
(Think again: Myths and Myopia about The South China Sea)
Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm)

(Bàn dịch đã đăng trên  anhbasam ngày 21/10/2015)



Tàu sân bay Mĩ

"Ẩn dụ bàn cờ" chẳng giúp chúng ta hiểu trò chơi mà Trung Quốc đang tiến hành


Khi thế giới tập trung sự chú ý vào Biển Đông, nhiều huyền thoại về vấn đề này cũng sinh sôi nảy nở. Một số huyền thoại tồn tại là do chúng ta không đủ tri thức. Nhưng nhiều huyền thoại khác vẫn còn hiện ra là do chúng ta dùng sai kính khi nhìn sự vật. Câu hỏi hóc búa về Biển Đông là một câu chuyện đầy thách thức để giải mã bởi vì hầu hết các kính thông thường mà chúng ta sử dụng không giúp chúng ta thấy ra được bản chất của câu chuyện này.


Chẳng hạn, suy nghĩ theo cách nhìn đối lập trắng đen là một cách hữu ích để đơn giản hóa và làm nổi bật sự vật lên, nhưng tròng kính này trở nên vô dụng để nhìn thấy những gì xảy ra ở Biển Đông, bởi vì sự vật ở đó chủ yếu xảy ra trong các vùng xám. Một cách tốt khác để hiểu các hoạt động của con người là nghĩ về chúng như việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên. Phần lớn những gì mà các nước làm là một cuộc tranh giành về tài nguyên, nhưng nếu chúng ta chú tâm vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì chúng ta sẽ đánh mất một nguồn chủ chốt ở Biển Đông: địa điểm.


Chúng ta thường dùng ván cờ như một cách ví von cho trò chơi mà các nước tiến hành, và bàn cờ là hình ảnh phổ biến về chỗ mà các nước tác động qua lại. Nhưng cách ví von này sẽ không giúp chúng ta hiểu được t Trung Quốc đang bày trò chợi gì. Như David LaiHenry Kissinger quan sát, chiến lược của Trung Quốc không giống như một cuộc cờ thường mà là một cuộc cờ khác của Trung Quốc có tên là weiqi (围棋/vi kì: dịch theo nghĩa đen dịch là "cờ vây" [game of encirclement] và được biết đến trong tiếng Anh qua tên tiếng Nhật là "go"). Ý tưởng cơ bản của weiqi giống như ý tưởng trong Binh pháp của Tôn Tử (Sun Tzu). Thay vì tập trung vào các trận đánh trực diện với kẻ thù, ý tưởng là vận dụng các xu hướng của sự vật để xoay chuyển tình hình có lợi cho mình. Như tôi đã trình bày trong National Interest, những gì Trung Quốc đã và đang làm ở Biển Đông là một ví dụ điển hình của việc chơi weiqi một cách thiện nghệ như thế nào.


Trong một bài báo gần đây, Lyle Goldstein đã thực hiện công việc đáng khen trong việc vạch trần một số trong những huyền thoại phổ biến về Biển Đông. Ông cũng mời các nhà hiện thực đồng bạn tham gia thảo luận. Với tư cách là một người quan sát Biển Đông và bản thân cũng là một người hiện thực, tôi rất vui lòng nhận lời mời của ông. Tôi sẽ trình bày một cái nhìn hiện thực khác, nhưng mục đích của tôi không phải là tạo ra một sự khác biệt. Điều tôi muốn là để hiểu cái gì đang thực sự xảy ra và những tác động của nó đối với chiến lược.


Bãi cạn Scarborough


Goldstein bác bỏ ý tưởng rằng "Chính quyền Obama đã phạm một sai lầm nghiêm trọng trong vụ Bãi cạn Scarborough hồi mùa xuân năm 2012, giúp hành động 'gây hấn.' của Trung Quốc tiến xa hơn nữa." Tuy nhiên, lời chỉ trích của ông chệch xa mục tiêu thực sự, và qua đó phát tán hai huyền thoại khác. Huyền thoại thứ nhất là tình huống chỉ hai mặt đen trắng trong đó chiến tranh là lựa chọn duy nhất cho những gì mà chính quyền Obama đã làm. Điều đó có thể có chỗ đúng, như đã được tường thuật rộng rãi, rằng chính phủ Philippines đã tìm kiếm sự hậu thuẫn quân sự của Washington theo hiệp ước phòng thủ chung Mĩ-Philippines. Nhưng điều này không có nghĩa là Hoa Kì chỉ có hai lựa chọn: tiến hành chiến tranh để bảo vệ đồng minh hoặc giữ thế trung lập trong cuộc xung đột. Như Bonnie Glaser bình luận trên twitter, "Mĩ có các lựa chọn khác hơn là đi đến chiến tranh đối với vụ Bãi cạn Scarborough. Việc không hành động của Mĩ đã gây nhiều hậu quả." Mục tiêu đã nêu trong những lời chỉ trích của Goldstein của, bài báo của  Ely Ratner có tiêu đề "Learning the Lessons of Scarborough Reef” (Học các bài học kinh nghiệm về Bãi cạn Scarborough) cũng vạch rõ rằng "mối đe dọa về một cuộc xung đột quy mô lớn là xa vời. Thay vào đó, sự bất ổn định trong khu vực có nhiều khả năng xuất phát từ các tranh chấp và cạnh tranh xảy ra ở một vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình."


Sai lầm lớn nhất mà chính quyền Obama phạm phải trong việc xử lý bế tắc Scarborough là việc họ chấp nhận vai trò làm một nhà trung gian trung thực. Đây là một vai trò cao cả, nhưng Washington định vị sai về cấu trúc khi giữ vai trò đó. Sự chênh lệch lớn về khả năng giữa Trung Quốc và Philippines có nghĩa là qua việc hành xử như một nhà trung gian trung thực, Washington tiếp tay cho Trung Quốc và tiếp tục cô lập Philippines. Quả vậy, Bắc Kinh đã nhiều lần từ chối đàm phán với Manila và dùng Hoa Kì gây sức ép để buộc Philippines lùi bước. Sự chênh lệch về tin cây (Manila tin người trung gian nhiều hơn Bắc Kinh) cũng có hậu quả. Manila dường như diễn giải thỏa thuận đạt được qua môi giới của  Washington (và một thượng nghị sĩ Philippines cấp thấp tên Antonio Trillanes) như là hai bên cùng bỏ trống khu vực, nhưng trên thực tế Bắc Kinh chỉ dời một số tàu đi trong khi vẫn duy trì kiểm soát việc ra vào khu vực này.


Huyền thoại thứ hai mà Goldstein ôm ấp là giá trị của Scarborough Shoal nằm ở tài nguyên biển của khu vực xung quanh. Nếu chỉ vì dầu và cá ở đó thì một nước lớn như Trung Quốc đã không đánh liều quan hệ ngoại giao và uy tín quốc tế của mình như thế. Thay vì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cái đáng giá cho công sức của Bắc Kinh bỏ ra để chiếm giữ rạn san hô này là vị trí của nó. Nằm gần các tuyến đường vận chuyển chính nối eo biển Malacca ở phía nam với eo biển Đài Loan và Luzon ở phía bắc, Bãi cạn Scarborough là nơi lý tưởng để từ đó quan sát và tuần tra khu vực phía đông của vùng trung tâm Biển Đông. Mặc dù rạn san hô này chủ yếu là ngập nước với chỉ một vài mỏm đá nhỏ trên mặt nước khi triều cao, nó có tiềm năng để bồi đắp lên thành một đảo nhân tạo gấp hai lần kích thước Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Cho đến nay có thể Trung Quốc chưa xây dựng bất kì cấu trúc nào trên Scarborough, nhưng đó không phải là lý do để nghĩ rằng một đảo nhân tạo ở đó là một ý tưởng hảo huyền. Suy cho cùng, vào năm 1995 khi Trung Quốc bắt đầu chiếm Đá Vành Khăn, có ai nghĩ rằng 20 năm sau rạn san hô ngập nước này sẽ biến thành một đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa với diện tích bề mặt gần 1.400 acre (mẫu Anh)?


Xây đắp đảo


Một "huyền thoại" khác bị Goldstein chỉ trích là "những dự án xây dựng của Trung Quốc ở Trường Sa lậap ra các 'căn cứ' mới, đủ rộng để làm thay đổi cán cân cân quyền lực trong khu vực." Ông lập luận rằng các đảo nhân tạo ở đó rất dễ bị tấn công trong thời chiến và do đó chỉ có thể là các "tiền đồn mang tính biểu tượng thôi." Tôi đồng ý với phần đầu của lập luận này nhưng không đồng ý với phần sau.


Tiền đồn của Trung Quốc ở giữa đại dương có thể không phải dễ bị làm tổn hại như một số người suy nghĩ. Nếu chiến tranh nổ ra, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng họ không có sự phân biệt giữa một cuộc tấn công vào các đảo này và một cuộc tấn công trên đất liền. Điều này sẽ làm cho tất cả mọi người phải suy nghĩ đi nghĩ lại trước khi tung ra một cuộc tấn công vào các đảo. Tuy nhiên, như tôi đã lưu ý trên National Interest  và chỗ khác, Trung Quốc không chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực khi xây đấp các đảo và các cơ sở trong quần đảo Trường Sa. Chiến lược tổng thể của họ ở Biển Đông theo câu châm ngôn của Tôn Tử "bất chiến tự nhiên thành." Những đảo nhân tạo này có thể biến thành các điểm điều khiển mạnh, các trung tâm hậu cần lớn, và các căn cứ triển khai sức mạnh có hiệu quả trong thời bình và trong vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.


Do vị trí chiến lược và năng lực hậu cần của chúng, các đảo trong tay của Trung Quốc sẽ là những căn cứ lớn mà từ đó vô số tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có thể khống chế các vùng biển và bầu trời Biển Đông. Hiện giờ, mục tiêu của Bắc Kinh dường như là giành uy thế tối cao về hải quân và không quân những khi không sự dính dáng về quân sự của Hoa Kì. Khả năng của Việt Nam tấn công các tiền đồn của Trung Quốc là hết sức hạn chế do dễ bị Trung Quốc trả đũa dọc theo tuyến biên giới dài 1450 km trên bộ. Bốn sân bay ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có thể nâng thêm khoảng từ 30 tới 40 số lượng máy bay thế hệ thứ tư mà Trung Quốc có thể hoạt động cùng một lúc ở Biển Đông. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc đạt được ưu thế trên không đối với Việt Nam và Malaysia, hai nuớc có lực lượng không quân lớn nhất trong số các đối thủ Đông Nam Á. Việt Nam có đuợc một bờ biển dài dọc theo Biển Đông nhưng cả nước chỉ có 35 máy bay thế hệ thứ tư. Malaysia nằm xa về phía nam và cả nước có không quá 44 bốn máy bay thế hệ thứ tư. Mặc dù các khí tài quân sự của Trung Quốc trên các đảo ở Biển Đông sẽ rất dễ bị tổn hại trong thời chiến, chúng có thể rất hữu ích cho tuần tra thời bình và dọa nạt về tâm lí.


Cụm từ phổ biến "bồi tạo đất" (land reclamation) không chuyển tải hết bản chất các hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông. Những gì Bắc Kinh đang làm ở quần đảo Trường Sa không chỉ đơn thuần là bồi đắp đất mà còn thay đổi địa lí. Ian Storey đã gọi nó là "hình thành đất” (terraforming). Carl Thayer lập luận rằng đó không phải là bồi đắp đất mà "thực thi trung tâm biển của Đông Nam Á (excising the maritime heart out of Southeast Asia)." Cán cân quyền lực trong khu vực có thể không thay đổi quá nhiều, nhưng địa lí khu vực đang bị chuyển đổi. Và địa lí mới sẽ cho phép Trung Quốc đảo lộn sự cân bằng trong khu vực.


Hậu thuẫn các đồng minh và đối tác


Tôi đồng ý với Goldstein (và nhiều người khác) rằng sự ủng hộ của Washington đối với các bên Đông Nam Á có tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông sẽ tạo động lực để họ cuơng quyết và mạnh mẽ hơn. Nhưng tôi không đồng ý với kết luận rằng tốt hơn Hoa Kì nên rút tay ra khỏi Biển Đông


Thứ nhất, khuyến khích đến từ sự ủng hộ của Washington chỉ là một trong nhiều loại khuyến khích và gàn cản mà các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc là. Một điều cản trở rất lớn là sự chênh lệch không thể vượt qua về khả năng vốn đặt Trung Quốc vào một vị thế vô cùng thuận lợi so với các nước Đông Nam Á. Nếu không có sự ủng hộ của Washington, Philippines - trang bị kém về quân sự và gắn bó lỏng lẻo về chính trị - sẽ dễ dàng chịu thua trước sự khống chế của Trung Quốc, như điều đó cuối cùng đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng Scarborough.


Thứ hai, nguy cơ của một cuộc xung đột trực tiếp giữa Washington và Bắc Kinh là có thật ngay cả khi không có sự ủng hộ của Mĩ đối với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông chỉ thể hiện phần nổi của tảng băng; nằm sâu dưới bề mặt là một cuộc cạnh tranh có tính chiến lược hơn giành uy thế tối cao ở Tây Thái Bình Dương. Trung Quốc và Hoa Kì là hai đối thủ chính trong cuộc cạnh tranh này, mặc dù các quốc gia khác như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cũng có vai trò quan trọng.


Không có sự hiện diện thường trực ở Biển Đông và với căn cứ ở xa xôi tận quê nhà, Hoa Kì phải dựa vào Việt Nam, Philippines và ở một mức độ thấp hơn vào Malaysia để giữ cán cân bằng quyền lực trong khu vực không lệch quá xa về phía Trung Quốc. Về mặt này, lợi ích của Mĩ và Đông Nam Á là bổ sung nhau chứ không phải mâu thuẫn nhau. Giúp các đồng minh và đối tác cũng là một cách kinh tế để phục vụ lợi ích của Mĩ trong khu vực. Đối với việc Mĩ  trợ giúp các đồng minh và đối tác của mình ở Biển Đông, câu hỏi thực sự ở đây không phải có nên hay không mà là giúp như thế nào. Có nhiều lựa chọn để xem xét trong việc trả lời câu hỏi này, và một cuộc xung đột trực tiếp Trung-Mĩ là một nguy cơ phải ngăn ngừa, chứ không phải là một hệ quả logic của sự ủng hộ của Mĩ đối với các đồng minh và đối tác trong xung đột với Trung Quốc.


Tự do hàng hải và lãnh đạo khu vực


Nhưng tại sao Hoa Kì phải tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương? Câu trả lời gần như chuẩn là Hoa Kì có lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải và vị thế đứng đầu về quân sự của Mĩ tại các vùng biển này là sự bảo đảm tốt nhất cho điều đó. Tôi nghĩ rằng câu trả lời này có sai sót, nhưng không phải vì những lý do do Goldstein đưa ra. Thứ nhất, mặc dù Hoa Kì có lợi ích quan trọng ở Biển Đông, tự do hàng hải không phải là từ ngữ tốt nhất dùng cho lợi ích này. Thứ hai, có một lý do khác để cho Hoa Kì để tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương. Cho tôi đuợc giải thích.


Thuật ngữ "tự do hàng hải" là một lựa chọn không tồi về từ ngữ. Ý nghĩa của nó thay đổi tùy theo ta đứng ở vị trí pháp lý hoặc quan điểm quốc gia nào. Cái đuợc mất ở đây không phải là quá nhiều về quyền tự do hàng hải như là một tình hình thực tế mà là quyền truy cập tự do tới các vùng biển và bầu trời ở khu vực đông đúc này. Có một sự khác biệt cốt yếu giữa các cam kết của Trung Quốc và Mỹ đối với "quyền tự do hàng hải" ở Biển Đông. Sự khác biệt này xuất phát từ thực tế cơ bản rằng trong khi Hoa Kì đề cao khái niệm các vùng biển chung của toàn cầu (golobal commons), còn Trung Quốc lại trân quý ý tưởng về "đường chín đoạn". Với ý tưởng này, Bắc Kinh coi khu vực được chỉ ra bởi "đường chín đoạn" là một cái gì đó giống như một địa hạt có chủ quyền mà họ đã đánh mất vào tay người khác và họ có quyền lấy lại. Trung Quốc và Hoa Kì có thể có chung quan điểm khi nói đến tự do hàng hải tại hầu hết các vùng biển trên trái đất, nhưng Biển Đông là một trường hợp đặc biệt vì có "đường chín đoạn". Trong khi Washington thừa nhận quyền của mọi người, kể cả của kẻ thù của mình, được tự do tiếp cận các vùng biển và bầu trời ở khu vực này, Bắc Kinh giữ lại quyền đó cho chính họ. Khi Trung Quốc nói rằng họ đảm bảo quyền tự do đi lại ở Biển Đông thì cần ngầm hiểu rằng với tư cách một cường quốc độ lượng họ mở cửa ra cho tất cả mọi người nhưng những người khác phải tôn trọng chủ quyền của họ.


Trung Quốc còn lâu mới có thể kiểm soát tất cả các "cửa" dọc theo "đường chín đoạn", và thậm chí nếu họ có thể làm như vậy, họ cũng sẽ không đóng các "cửa" đó. Xét cho cùng, Trung Quốc có lợi ích rất to lớn trong việc giữ các dòng chảy thương mại xuyên qua Biển Đông không bị cản trở. Sự đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hàng hải và hàng không ở khu vực này ảnh hưởng đến các cơ sở có tính quy phạm của quyền tự do này nhiều hơn là tình hình thực tế. Nếu Hải quân Trung Quốc trở thành kẻ giám hộ quyền tự do hàng hải trong vùng biển này, hầu hết tàu thuyền, hầu như mọi lúc, vẫn có thể đi lại qua đó không bị cản trở, nhưng đó không phải là vì các nước được hưởng quyền khách quan về tự do truy cập mà vì họ được hưởng sự độ lượng chủ quan của Trung Quốc mà nhiều khi sưự độ luợng này có thể có chọn lọc và tùy tiện. Chi tiết tinh tế này có thể không quan trọng đối với các công ty bảo hiểm và vận chuyển, nhưng nó sẽ có hậu quả sâu rộng cho nền chính trị thế giới. Nó có nghĩa là trong trật tự khu vực do Trung Quốc  bảo lãnh thì luật pháp quốc tế phải nhường bước cho chính sách của Trung Quốc.


Ngay cả khi Trung Quốc hành xử theo cùng cách như Hoa Kì, vị thế đứng đầu của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ vẫn còn đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với quyền lãnh đạo của Mĩ trong khu vực. Sự tập trung của các động mạch chính của Châu Á ở khu vực này có nghĩa rằng, diễn giải lại theo cách nói của Harold Mackinder, ai kiểm soát Biển Hoa Đông và Biển Đông thì kẻ đó sẽ thống trị Châu Á; và với sự trỗi dậy của Châu Á, ai thống trị khu vực này thì kẻ đó sẽ điều khiển thế giới. Trong 70 năm tính từ ngày cuối của Thế chiến II, vị thế đứng đầu của hải quân Mĩ ở Tây Thái Bình Dương đã cho phép Washington đóng một vai trò lãnh đạo ở Châu Á. Về phần mình, Trung Quốc đã ngày càng thể hiện sự tin tưởng rằng con đường của họ tới vị trí đứng đầu Châu Á cũng chạy qua vị thế đứng đầu ở vùng biển này.


Chiến tranh Mĩ-Trung


Nếu cuộc thách giữa hai đối thủ này là không thể tránh được thì ai sẽ thắng ai? Tôi đồng ý với Goldstein rằng kết quả của một cuộc chiến tranh Mĩ-Trung là rất không chắc chắn. Với tất cả những lợi thế về công nghệ, Hoa Kì lại bị bất lợi rất lớn về địa lý.


Nếu nguy cơ bị thua của Mĩ va Trung Quốc là tương đương nhau thì Washington sẽ phải suy nghĩ lại chiến lược lớn của mình. Ngăn chặn sẽ là một trụ cột rất yếu trong chiến lược của Mĩ. Washington phải dựa trên cân bằng, chứ không ngăn chặn hoặc hòa giải, như là các đặc tính chủ yếu của chính sách ngoại giao và hoạch định chiến lược của mình. Vì chiến tranh vừa là một cái cần phải tránh vừa là cái không thể thắng, nên việc hoạch định chiến lược của Mĩ phải chuyển trọng tâm từ chiến tranh sang các vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.


Hoa Kì có thể cũng không cần phải sử dụng rất nhiều công cụ công nghệ cao của mình. Điều mà họ cần phải làm nhiều hơn là khắc phục những bất lợi về địa lý bằng cách sử dụng thế "cờ vây" một cách điêu luyện như Trung Quốc. Họ sẽ cần phải giúp các nước ven biển như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Malaysia tăng cường khả năng phòng thủ, cả quân sự lẫn phi quân sự, và góp chung lực lượng trong một liên minh mạnh mẽ. Có lẽ huyền thoại lớn nhất hơn cả liên quan đến an ninh Châu Á hiện nay là Hoa Kì không thể và không nên kiềm chế Trung Quốc.


Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Nghiên cứu An ninh Daniel K. Inouye. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả và không phản ánh quan điểm của DKI-APCSS, Bộ Quốc phòng, hay Chính phủ Hoa Kì.