Showing posts with label Tuyên bố Potsdam. Show all posts
Showing posts with label Tuyên bố Potsdam. Show all posts

Saturday, May 29, 2021

Đồng minh có hứa giao biển Đông cho Trung Quốc?

 Đồng minh có hứa giao biển Đông cho Trung Quốc?

(Did the allies promise the sea to China?)

26/5/2021


Bill Hayton





Nguồn ảnh: Cơ sở dữ liệu WW2



Trong số rất nhiều huyền thoại xoay quanh lịch sử biển Đông, một trong những huyền thoại khó xóa bỏ nhất là ý kiến ​​cho rằng trong Thế chiến thứ hai, các đồng minh phương Tây đã hứa giao các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp cho Trung Quốc. Huyền thoại này tiếp tục xuất hiện trong các cuộc thảo luận công khai dù không có bằng chứng hậu thuẫn nó. Ngay cả Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Huang Xilian (黄溪连: Hoàng Khê Liên), cũng đã nhầm lẫn khi lặp lại điều đó.



Tháng 7 năm 2020, Đại sứ Liên nói với Thời báo Manila rằng, "Trung Quốc đã thu hồi và nối lại việc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa sau chiến tranh theo Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Potsdam và các công cụ khác sau chiến tranh." Đại sứ đã sử dụng từ ‘Nam Sa’ như là tên Trung Quốc cho quần đảo Trường Sa. Có lẽ ông ta nói mà không biết mình đang nói những điều vô nghĩa.



Tuyên bố Cairo là một văn bản ngắn được công bố vào ngày 1 tháng 12 năm 1943 sau một loạt các cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc. Ba nhà lãnh đạo tuyên bố rằng, một khi chiến tranh kết thúc, “Nhật Bản sẽ bị tước bỏ tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà họ đã chiếm giữ hoặc trấn đóng kể từ đầu Thế chiến thứ nhất năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp của Trung Quốc, như là Mãn Châu, Formosa, và Pescadores (Bành Hồ), sẽ được thu hồi về Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nước này đã chiếm đoạt bằng bạo lực và lòng tham. "



Điều đầu tiên cần lưu ý về Tuyên bố Cairo là nó không đề cập đến quần đảo ‘Nam Sa’ hoặc Trường Sa, hoặc Hoàng Sa hoặc bãi cạn Scarborough hoặc bất kì thể địa lí nào có tranh chấp hiện nay. Những đảo duy nhất được nêu tên cụ thể là Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ) nằm ngay phía tây của Đài Loan. Chỉ có hai nhóm đảo này được hứa trả Trung Quốc, không có đảo nào khác.



Câu tiếp của Tuyên bố Cairo nói rằng các lực lượng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà họ đã xâm lược nhưng không nói gì về việc các lãnh thổ đó sẽ được trả lại cho những quốc gia nào. Câu văn này bao hàm các vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương, từ Miến Điện đến Papua New Guinea, từng là một phần của các đế quốc Anh, Pháp và Hà Lan trước khi bị Nhật Bản xâm lược. Các chính phủ đó muốn lấy lại các thuộc địa của họ sau khi Nhật Bản bị đánh bại, nhưng Hoa Kì không đồng ý. Kết quả là, lời văn của Tuyên bố Cairo rất mơ hồ. Các nhà lãnh đạo có thể đồng ý rằng Nhật Bản nên bị trục xuất khỏi các lãnh thổ đó, nhưng số phận tương lai của chúng vẫn chưa được quyết định.



Còn nữa. Quần đảo Nam Sa / Trường Sa không thể được coi là “vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” vì Trung Quốc đã không hề yêu sách nó vào năm 1943. Bằng chứng lịch sử rõ rệt. Năm 1943, Bộ Thông tin của Trung Hoa Dân Quốc (RoC) đã xuất bản cái mà họ gọi là ‘China Handbook 1937-43’ (Cẩm nang Trung Quốc 1937–43), một hướng dẫn toàn diện về địa lí, lịch sử, chính trị và kinh tế của nước này. Trên trang mở đầu, nó nói rằng “lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc kéo dài từ [Dãy núi Sajan (薩揚嶺:Tát Dương lĩnh) ở phía bắc]. . . đến đảo Tri Tôn của Hoàng Sa.”






Nói cách khác, vào năm 1943, Trung Quốc chỉ yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc biển Đông, chứ không yêu sách Trường Sa hay bãi cạn Scarborough. Hai ấn bản của Cẩm nang Trung Quốc đã được xuất bản trong năm đó; ấn bản đầu ở Calcutta vào tháng Bảy và ấn bản thứ hai ở New York vào tháng Mười Một. Cả hai đều in cùng một lời văn.



Mãi đến tháng 6 năm 1947, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Trung Quốc mới đồng ý yêu sách quần đảo Trường Sa / Nam Sa  (Nansha). Ngay cả khi đó, ấn bản năm 1947 của cuốn Cẩm nang Trung Quốc này cũng tỏ ra thận trọng. Nó nói rằng “ranh giới …. cực nam [của Trung Quốc] vẫn cần được xác định. . . và chủ quyền của quần đảo Đoàn Sa (Tuansha) phía nam đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc, Khối thịnh vượng chung Philippines và Đông Dương ”.


Vào thời điểm này, các nguồn tài liệu của Trung Quốc gọi Trường Sa là “Tuansha” (Đoàn Sa). Cái tên Nansha (Nam Sa) - bãi cát phía nam - lúc này được dùng để chỉ bãi ngầm Macclesfield, xa hơn về phía bắc, vì trước đây đó là khu vực cực nam của Trung Quốc. Chỉ đến năm 1947, cái tên "Nam Sa" mới được chuyển xuống xa hơn về phía nam. (Tôi đã giải thích lịch sử cách Trung Quốc yêu sách các đảo ở biển Đông trong một bài báo học thuật gần đây.)




Nói tóm lại, rõ ràng là không phái đoàn nào tại Hội nghị Cairo có thể có ý cho rằng cụm từ “lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” bao hàm cảTrường Sa hoặc bãi cạn Scarborough. Đơn giản là các đảo này không được bất kì ai coi là của Trung Quốc vào thời điểm đó. Tình hình phức tạp hơn một chút khi nói đến quần đảo Hoàng Sa. Năm 1931, Pháp với tư cách là thế lực thực dân ở Đông Dương đã chính thức yêu sách Hoàng Sa (dựa trên những yêu sách  [đúng ra là dựa trên việc thực thị chủ quyền không có tranh chấp - ND] xưa hơn nhiều của thuộc địa An Nam). Do đó, không rõ liệu Nhật Bản đã đánh cắp quần đảo này từ tay Trung Quốc hay Pháp, vì vậy tình trạng của quần đảo này vẫn còn mơ hồ.



Tuyên bố Potsdam năm 1945 hoàn toàn không đề cập đến các đảo ở biển Đông. Bản văn được Tổng thống Harry Truman,kế nhiệm của Roosevelt, cùng với Churchill và Tưởng Giới Thạch, chỉ nói rằng “Các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật Bản sẽ được giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ như chúng tôi xác định. " Nó không nói gì về việc lãnh thổ nào sẽ được trả cho Trung Quốc kiểm soát.



Điều này cũng đúng với Hiệp ước Hòa bình San Francisco năm 1951. Điều 2 chỉ nói rằng “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, quyền sở hữu và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa”. Một cụm từ tương tự cũng xuất hiện trong Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc. Không có hiệp ước nào nói bất cứ điều gì về việc các hòn đảo đó đúng lẽ thuộc về nước nào. Câu hỏi chỉ đơn giản là bỏ ngỏ.



Bằng chứng lịch sử là rõ ràng. Không có gì trong bất kì văn kiện nào trong số các văn kiện này hứa hẹn giao các đảo ở biển Đông - ngoại trừ Đài Loan và quần đảo Bành Hồ - cho Trung Quốc. Thật quá xấu hổ cho rất nhiều người tự xưng là hiểu biết về chủ đề này vẫn tiếp tục kéo dài những huyền thoại thế n.









Thursday, August 28, 2014

Tranh chấp biển Đông: Vẫn không có bằng chứng lịch sử cho tuyên bố của Trung Quốc

Tranh chấp biển Đông: Vẫn không có bằng chứng lịch sử cho tuyên bố của Trung Quốc

South China Sea Disputes: Still No Evidence of Historical Chinese Claim

Bill Hayton
RSIS (26/8/2014)

Tóm tắt

Mặc dù Trung Quốc khẳng định có các yêu sách lịch sử đối với nhiều phần của biển Đông, lập luận gần đây của một số nhà bình luận lặp lại một số những hiểu lầm thường được tin là đúng về các tranh chấp biển Đông và không đưa ra được bằng chứng hậu thuẫn các yêu sách của Trung Quốc.
  

Bình luận

Tiến sĩ Li Dexia (Lí Đức Hà) và ông Tan Keng Tat đã đáp lại việc tôi kêu gọi những người ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông hãy cung cấp chứng cứ có thể kiểm chứng được hậu thuẫn cho lập luận của họ (Bình luận trên RSIS ngày 3/7/2014). Tuy nhiên trả lời của họ cho thấy nhiệm vụ này có vẻ khó khăn tới dường nào. Họ không thể chứng minh Trung Quốc đã có đưa ra yêu sách đối với bất kì đảo cụ thể nào trước năm 1909, và không có bất kì một khẳng định nào của họ có chứng cứ có thể kiểm chứng được. Một số khẳng định có thể chứng minh được là không thật.

Đâu là bằng chứng cho thấy đã có quan chức thời tiền hiện đại của Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền với bất kì thể địa lí nào ở biển Đông? Không có bằng chứng nàocho thấy Zheng He (Trịnh Hoà) hay đô đốc nhà Minh nào khác đã làm như vậy. Điều này cũng đúng với đội quân viễn chinh Mông Cổ một thế kỉ trước đó. Khoảng 500 năm trước, người đi biển thường cho tàu thuyền chạy ven bờ biển này để tránh nguy hiểm của các rạn san hô chưa được ghi nhận vốn nằm ở trung tâm của nó. Nếu hai tác giả này biết có tài liệu hay bằng chứng nào khác chứng minh điều ngược lại thì đây chính là lúc để công bố các tài liệu tham khảo chính xác đó.

Mơ hồ vẫn còn đó

Chắc chắn có nhiều bản văn xưa của Trung Quốc có nói đến các 'đảo' nhưng vẫn còn mơ hồ ở mức cùng cực, không liên quan đến những vùng đất cụ thể và không đưa ra được bằng chứng nào về khám phá hay tuyên bố chủ quyền. Một số là các báo cáo theo các thông tin do người nước ngoài tới Trung Quốc đưa ra, một số khác đề cập đến những chỗ bí ẩn gần lối vào địa ngục và một số khác nữa lại là bản sao các bản đồ châu Âu.

Tiến sĩ Li và ông Tan đưa ra một số điểm cụ thể khác. Tôi cần phải lần lượt bàn tới từng điểm một.

Hai tác giả này đã không thuyết phục được tôi rằng cái tên ‘Xisha’ (Tây Sa) – chỉ quần đảo Hoàng Sa đã xuất hiện trong các tài liệu của Trung Quốc trước cái tên ‘West Sand’ (Cát Tây) xuất hiện trên bản đồ phương Tây. Tôi trong tư thế sẵn sàng chấp nhận rằng người châu Âu đã tiếp nhận các tên địa phương dùng cho các thể địa lí nhưng trong trường hợp này, tôi tin rằng điều ngược lại đã xảy ra. Tôi sẵn sàng chấp nhận bị chứng minh là sai - nhưng chỉ khi đưa ra được bằng chứng.

Khẳng định rằng công ước năm 1887 giữa Pháp và Trung Quốc quy quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc hiển nhiên là không đúng sự thật. Công ước (kí kết tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887) chỉ liên quan cụ thể tới khu vực Đông Dương mà thực dân Pháp gọi là "Tonkin" (Bắc Kì) - phần cực bắc của vùng đất bây giờ là Việt Nam.

"Kiến thức phổ thông” chứ không phải bằng chứng lịch sử

Tôi sẽ thích thú khi biết thêm về 'bia đá" do các quan chức Trung Quốc năm 1902 và do nhóm hải quân Trung Quốc được phái đến đảo Duy Mộng năm 1907 đặt ở quần đảo Hoàng Sa. Tôi đã tìm hiểu kĩ hai sự kiện này và không tìm ra bằng chứng vững chắc nào cho thấy chúng đã thực sự đã diễn ra. Tiến sĩ Li và ông Tan dựa vào nguồn thông tin gốc nào cho khẳng định này?

Càng nghiên cứu các yêu sách của Trung Quốc tôi càng thấy chúng được dựa trên những khẳng định thiếu dẫn chứng đã được lặp đi lặp lại trong nhiều thập kỉ thiếu việc kiểm tra có phê phán. Nhiều khẳng định như vậy đã trở thành một phần của ‘kiến thức phổ thông’ quốc tế về biển Đông. Các khẳng định đó nằm trong bài viết của Hungdah Chiu và Choon-ho Park mà hai tác giả có nói đến, trong bài viết năm 1976 ‘Disputed Islands in the South China Sea’ (Quần đảo tranh chấp ở biển Đông) của Dieter Heinzig, và cũng có trong cuốn sách của Marwyn Samuels năm 1982 ‘Contest for the South China Sea’ (Cuộc thi thố cho Biển Đông) mà sau đó nhiều học giả quốc tế đã dựa vào.

Các bài viết của Heinzig và Samuels thuộc dạng các công trình khai phá, đem lại nhiều hiểu biết cần thiết về chủ đề này. Tuy nhiên, nội dung các bài viết của cả hai phần lớn dựa vào các bài báo công bố trên các tạp chí của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi Trung Quốc chiếm đóng nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Một bài báođược công bố trong ấn bản tháng 3 năm 1974 của Nguyệt san thất thập niên đại (Ch'i-shi nien-tai Yueh-k'an) và hai bài báo trong ấn bản tháng 5 năm 1974 của tờ Minh Báo (Ming Pao). Những bài báo này rõ ràng không phải là những bài viết trung lập về học thuật: chúng được dùng để biện minh cho cuộc xâm lược đó.

Trích dẫn lọc lựa

Có ít ra hai trường hợp trong bài bình luận, hai tác giả trích dẫn một cách lọc lựa các tài liệu lịch sử. Trường hợp đầu tiên liên quan tới bức thư của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho đồng nhiệm Trung Quốc tháng 9 năm 1958 - để đáp ứng với 'Tuyên bố về Lãnh hải " của Bắc Kinh. Tuyên bố đó mở rộng lãnh hải mà Trung Quốc yêu sách ra đến 12 hải lí. Động thái này nhằm mục đích ngăn chặn việc tàu của Mĩ xen vào hậu thuẫn cho các đơn vị của Đài Loan trú đóng trên hai đảo Kim Môn (Jinmen) và Mã Tổ (Mazu), mà vào lúc đó đã bị quân đội Trung Quốc bắn pháo vào.

Phần thứ hai của Tuyên bố năm 1958 khẳng định yêu sách của Trung Quốc đối với các thể địa lí của biển Đông. Toàn văn lá thư của Phạm Văn Đồng gửi cho Chu Ân Lai lờ đi phần thứ hai này dù tán đồng phần đầu. Câu văn trọn vẹn là "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc." Đúng là bức thư đó không bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc một cách minh bạch, nhưng nó cũng không chấp nhận [toàn bộ] tuyên bố này.

Hai tác giả cũng trích dẫn sai Tuyên bố Cairo ngày 27 tháng 11 năm 1943 như sau: "Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các vùng lãnh thổ khác mà nó đã lấy được bằng bạo lực và tham lam." Tuy nhiên, đó không phải là lời lẽ thật sự của Tuyên bố.

Câu văn thật sự là: "... Nhật Bản sẽ bị tước hết tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này chiếm hữu hay chiếm đóng từ lúc mở đầu chiến tranh thế giới thứ I vào năm 1914, và rằng tất cả các vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã lấy cắp của Trung Quốc, như Mãn Châu, Đài Loan, và Bành Hồ, sẽ phải được trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nó đã lấy được bằng bạo lực và tham lam."

Không có đề cập đến bất kì thể địa lí nào trong biển Đông, ngoại trừ Formosa (Đài Loan) và Bành Hồ và không nói gì về ‘sở hữu' của các vùng lãnh thổ khác mà Nhật Bản phải bị trục xuất.

Cần phải phân nhỏ thành các yêu sách cụ thể

 Việc tôi khẳng định rằng "Trung Quốc, Việt Nam và Philippines tuyên bố quyền sở hữu các nhóm đảo lớn như thể chúng là đơn vị duy nhất" là đúng theo thực tế.

Tôi chưa bao giờ nói Philippines yêu sách quần đảo Hoàng Sa hay Việt Nam yêu sách Pratas (TQ gọi là Đông Sa). Tuy nhiên cả hai nước này, giống như Trung Quốc, quả có yêu sách các nhóm đảo lớn như thể chúng là một đơn vị duy nhất.

Philippines yêu sách một nhóm đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà họ gọi là nhóm đảo Kalayaan và Việt Nam yêu sách trọn quần đảo Paracels với tên là ‘Hoàng Sa’ và trọn quần đảo Spratlys với tên là ‘Trường Sa’. Các tranh chấp biển Đông sẽ trở nên giải quyết dễ dàng hơn nếu các yêu sách lớn này được chia nhỏ thành các yêu sách cụ thể đối với các thể địa lí cụ thể, được hậu thuẫn với bằng chứng cụ thể.

Tôi không vẩy cờ [ủng hộ] các yêu sách của Việt Nam, Philippines, Pháp hay thậm chí của Anh đối với các thể địa lí trong biển Đông. Tôi chỉ đơn thuần chỉ ra rằng phía Trung Quốc đã không đưa ra được bằng chứng lịch sử thuyết phục cho các khẳng định của chính họ.

Chấn chỉnh tình trạng này đòi hỏi phải có bằng chứng về những hành động chủ quyền thực tế thể hiện bởi các đại diện của chính phủ. Tôi khẳng định rằng phía Trung Quốc không có hành động chủ quyền trước ngày 6 tháng 6 năm 1909 đối với trường hợp quần đảo Hoàng Sa và ngày 12 tháng 12 năm 1946 ở quần đảo Trường Sa.

(Xem thêm Quần đảo Hoàng Sa: Bằng chứng lịch sử phải được kiểm tra của cùng tác giả)