Chương 5
Được
miếng và tay khôngDầu khí ở Biển Đông
Oil and Gas in the South China Sea
Tháng 8 năm 1990, Đông Nam Á đã trở nên rất phấn khởi về
việc ‘Trung Quốc trở lại’. Đã một năm kể từ khi vụ thảm sát tại quảng trường
Thiên An Môn và nhiều nhân vật có ảnh hưởng nghĩ rằng đã tới lúc quay trở lại
với công việc [bang giao]. Phô trương ầm ĩ, Thủ tướng Lí Bằng, một trong những
người đằng sau vụ thảm sát, đã bắt tay vào một chuyến thăm khu vực 9 ngày. Điểm
dừng chân thứ hai của ông là Singapore và sau các nghi thức lịch sự thông
thường và bữa quốc yến, vào ngày 13 tháng 8, ông đã chủ trì một cuộc họp báo.
Hầu hết các câu hỏi tập trung vào việc hai nước sẽ nối lại quan hệ ngoại giao
và vài nhà báo lưu ý tới thông báo có vẻ thân thiện của Lí Bằng rằng Trung Quốc
đã ‘sẵn sàng cùng với các nước Đông Nam Á chung ra sức phát triển Quần đảo Nam
Sa, trước mắt gác lại vấn đề chủ quyền.’[1] Đó
không phải là một nhận xét khơi khơi mà là tuyên bố công khai đầu tiên của một
chính sách vốn được Đặng Tiểu Bình cổ võ trong cuộc đàm phán với Nhật Bản về
Biển Hoa Đông vào tháng 10 năm 1978, và sau đó cũng nêu lên với các lãnh đạo
Philippines trong các cuộc gặp riêng trong năm 1986 và 1988: ‘Thế hệ này không
đủ khôn ngoan để giải quyết một vấn đề khó khăn như vậy. Sẽ là một ý tưởng hay
cậy vào sự khôn ngoan các thế hệ sau giải quyết.’ Tuyên bố này cũng là cơ sở
của chính sách nhà nước của Trung Quốc đối với cả Biển Hoa Đông và Biển Đông kể
từ đó.
Năm 1990, lãnh đạo Trung Quốc băn khoăn về năng lượng. Sau
30 năm Trung Quốc tự túc về dầu, nhờ mỏ Daqing (Đại Khánh) trên đất liền, rõ
ràng là nhu cầu ngày càng tăng lên do cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình sẽ
mau chóng vượt quá sản xuất. Đất nước cần nguồn cung mới. Tháng 4 năm 1987 các
nhà khoa học Trung Quốc khảo sát nhiều phần của Biển Đông và sau đó nhanh chóng
tuyên bố sự tồn tại của ‘dự trữ dầu và khí đốt phong phú ở bãi ngầm Zengmu
[Tăng Mẫu /James]’ ngoài khơi bờ biển Borneo.[2]
Tháng 12 năm 1989, tờ Trung Quốc Nhật Báo
cho biết tính toán chính thức rằng quần đảo Trường Sa chứa 25 tỉ mét khối khí
đốt tự nhiên và 105 tỉ thùng dầu và vùng bãi ngầm James cho thêm 91 tỉ thùng.[3]
Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo chính trị khác đã bắt đầu nói tới Biển Đông
như câu trả lời cho cuộc khủng hoảng đang lờ mờ hiện ra. Chủ đề đó được nhiều
tiếng nói chủ chốt trong các lĩnh vực năng lượng và quân đội khuếch đại thêm. Jiefangjun bao (Báo Giải Phóng Quân), tờ báo của Quân đội Giải phóng Nhân dân, đăng một
loạt bài từ năm 1987 đến 1990[4]
gắn kết tầm quan trọng thiêng liêng của việc bảo vệ lãnh thổ quốc gia với các
lập luận thực dụng ủng hộ việc thu vén tài nguyên ở Biển Đông.[5]
Đông Nam Á không để ý tới những bàn luận này. Trung Quốc ở
quá xa và thiếu phương tiện lẫn kĩ năng để phát triển bất cứ điều gì xa bờ quá
vài hải lí. Khi Lí Bằng đề xuất cùng phát triển ở Trường Sa, điều đó được hiểu
như là một đề xuất vô nghĩa. Ý kiến sẽ thay đổi. Chủ trương của Đặng Tiểu Bình
gồm nhiều thứ hơn là chỉ có việc gác lại bất đồng. Dạng thức đầy đủ của nó có
ba thành tố: ‘chủ quyền thuộc chúng ta, gác tranh chấp, cùng khai thác’(chủ quyền thuộc ngã, các trí tranh nghị,
cộng đồng khai phát), trong đó thành tố đầu tiên là có ý nghĩa nhất. Thật
ra, điều đó có nghĩa là bất kì nước nào muốn phát triển tài nguyên biển nằm
trong ‘đường chữ U’ sẽ phải hoặc thừa nhận yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh hoặc
trực tiếp thách thức sự hiện diện thực tế của Bắc Kinh. Vì không nước nào công
nhận chủ quyền của Trung Quốc, tuyên bố Lí Bằng ở Singapore đã trở thành nền
tảng cho các tranh chấp hiện nay. Cho đến lúc đó, mối quan tâm của Bắc Kinh có
vẻ chỉ giới hạn vào các đảo và rạn đá mà họ chiếm đóng vào năm 1974 và 1987-8. Sau
năm 1990, trở nên rõ ràng rằng nhiều nhóm lợi ích ở Bắc Kinh muốn thực thi chủ
thuyết ‘chủ quyền thuộc chúng ta’ trên toàn bộ diện tích nằm trong đường chữ U.
Đứng đầu trong số đó là Công Ti Dầu Khí Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc, CNOOC.
Nhưng kẻ thúc giục CNOOC thực hiện bước đi đầu tiên lại là một người Mĩ.
**********
Năm 1992, một người Mĩ thuộc bang Colorado đã thay đổi trò
chơi ở Biển Đông qua việc thực hiện thuật giả kim hiện đại: biến hư không thành
vàng. Ông ta đã viết lại các quy tắc thăm dò dầu ở Đông Nam Á, đưa hai nước đến
sát lằn ranh của xung đột rồi bước ra với vài triệu đô la. Trong quá trình này,
Trung Quốc lần đầu tiên đã làm rõ rằng yêu sách 'đường chữ U' không chỉ là một
di tích lịch sử mà còn là một tuyên bố về ý định tương lai và các nước láng
giềng mới hiểu rằng việc Trung Quốc tìm kiếm an ninh năng lượng sẽ đe doạ an
ninh năng lượng của chính họ. Nhưng câu chuyện của cuộc chiến tài nguyên của
Đông Nam Á có một khởi đầu hiếm có. Nó bắt đầu vào năm 1969 với một thanh niên
đi bộ nhiều dặm đến câu lạc bộ Country Denver để dự phỏng vấn cho một học bổng
học làm trợ lí người chơi golf (golf caddy).
Cha mẹ Randall C. Thompson li dị và không người nào có khả
năng sắm xe hơi vì vậy Thompson phải tự lo việc đi phỏng vấn. Anh đã rớt phỏng
vấn, nhưng một thành viên trong nhóm phỏng vấn, ấn tượng bởi tính quả quyết của
chàng thanh niên, đã thuyết phục các thành viên khác cho anh ta đi học khoa học
chính trị ở trường Đại học Colorado. Người ân đó là Sonny Brinkerhoff, gia đình
sở hữu Công ti Brinkerhoff Drilling. Mùa hè sau Brinkerhoff định cho 50 người
được học bổng làm việc ở các giếng dầu của mình ở Wyoming. Thompson là người
duy nhất nộp đơn. Anh ta thích công việc và cũng làm việc cho Brinkerhoff hè
năm sau. Hè sau đó, anh tốt nghiệp và đến gặp Brinkerhoff lần nữa. Cuối hôm đó,
Thompson đã có được việc làm như là một landman (người tìm các nơi có mỏ tiềm
năng có dầu và đàm phán quyền thăm dò) cho Amoco Corporation.
Thompson đã học việc sáu năm rồi tiếp tục công việc, bị đuổi
việc, bỏ một công việc khác, bị đuổi một lần nữa và bỏ một công việc thứ năm.
Anh không thích làm việc cho người khác nên vào năm 1980, anh đã trở lại gặp
Sonny Brinkerhoff. Anh bước ra khỏi văn phòng của Brinkerhoff ở tuổi 31 với
quyền nắm tài sản sản xuất dầu mỏ trị giá tới $ 1 triệu: Crestone Energy ra
đời. Thật không dễ dàng. Với giá dầu chỉ hơn chục đô la mỗi thùng, Crestone chỉ
chực sụp đổ. Nhưng vào năm 1989, Thompson đã bắt một cú điện thoại làm thay đổi
cuộc sống của anh. Edward Durkee là chuyên viên dầu hỏa quê Colorado và là một
trong 30 nhà đầu tư ban đầu trong Crestone. Năm 1989, ông làm việc cho công ti
Lundin Oil Thụy Điển, công ti này đang tìm cách giảm bớt quan tâm ở
Philippines. Durkee nói với Thompson rằng đó là một điều chắc chắn: ‘Tới đây
ngay bây giờ nếu không tôi sẽ chẳng bao giờ nói chuyện với anh nữa.’ Ngày hôm
sau, Thompson và luật sư của ông trên máy bay đến Manila.
Durkee đã sắp xếp tất cả mọi thứ. Chín ngày sau, ngày 4
tháng 9 năm 1989, Crestone đã mua giấy phép thăm dò của Lundin và ngay lập tức bán
được 40 % cổ phần cho một tập đoàn của 7 công ti Philippines. Thompson rời
Manila với một vali đầy tiền mặt. Bây giờ Crestone sở hữu đa số cổ phần trong
lô thăm dò GSEC 54 nằm ngoài khơi đảo Palawan. Nó chiếm một diện tích khoảng
một triệu rưỡi ha: từ các mỏ hiện có của Philippines chạy dài tới biên giới với
Malaysia. Crestone và các đối tác của nó đã duyệt qua các dữ liệu địa chấn cũ,
tìm kiếm bằng chứng về dầu có thể thu hồi được. Tình hình có vẻ sáng sủa. Chỉ
bảy tháng sau đó, tháng 4 năm 1990, họ đã bán được 70 % cổ phần của lô đó cho
British Petroleum (BP) nhận vài triệu đô la. Crestone có thêm một va li đầy
tiền mặt. Một năm sau đó, vào tháng 4 năm 1991, BP tìm thấy dầu, nhưng không ở
số lượng thương mại và một năm sau nữa đã bỏ Philippines hoàn toàn, trả lại
quyền cho tập đoàn của Crestone. Về mặt công nghiệp dầu thì chẳng có gì ở đó,
nhưng Thompson lại thành công biến nó thành vàng.
Quan trọng hơn cho khu vực, Thompson đã phát hiện ra Biển
Đông. Tại bữa tiệc sau khi BP kí kết, trong ngôi nhà của đại sứ Anh tại Manila,
bia chảy và lưỡi lơi ra. Thompson nhớ lại ‘Rượu đã nói dù lưỡi lẽ ra phải giữ
bí mật, và mọi người đều nói rằng Việt Nam sẽ là điểm nóng và những nhân viên
BP cho biết với rất nhiều lời, đó là vùng nước sâu ở quần đảo Trường Sa.[6]
Ngày hôm sau tôi đến thư viện để tìm xem Quần đảo Trường Sa ở đâu.’ Năm 1990
Việt Nam còn nằm ngoài giới hạn đối với các công ti dầu khí Mĩ vì cấm vận
thương mại thời chiến của Mĩ vẫn chưa bãi bỏ. BP và một số công ti khác của
châu Âu đã bắt đầu đánh hơi xung quanh, nhưng chỉ có người Nga thực sự bơm được
dầu lên. Những kí ức về một sự bùng nổ dầu ngắn trong những tháng lụi tàn của
chiến tranh Việt Nam vẫn còn sót lại và đó là tất cả điều kích thích mà
Thompson cần. Anh đã dành ba tuần sau buổi tiếp của đại sứ Anh để truy tìm các
hồ sơ địa chất và các khảo sát cũ. Cuối cùng, anh quyết định chọn một mảng đáy
biển nằm giữa bờ biển Việt Nam và đảo Trường Sa Việt Nam đang đóng bao gồm Bãi
Phúc Nguyên (Prince Consort) và Bãi Tư Chính (Vanguard). Nhưng thay vì đến Việt
Nam, Thompson đã biết mọi thứ về ‘đường chữ U’ nên đặt hi vọng vào Trung Quốc
thay vào.
Tháng 4 năm 1991 Thompson đi đến Viện Hải Dương Nam Hải tại
Quảng Châu để xem xét các khảo sát địa chấn đã được làm rùm beng lên một vài
năm trước đây. ‘Họ chỉ cho tôi một vài cấu trúc, tôi đã phấn khởi về điều đó và
sau đó tôi đã thực hiện thêm một số nghiên cứu.’ Ông đi gặp từng người rồi mời
ăn tối, cố thuyết phục Trung Quốc coi Crestone đúng mức, mãi cho đến tháng 2
năm 1992, sau nhiều thảo luận ở cấp cao nhất ở Bắc Kinh, cuối cùng ông đã đưa
ra đề nghị với ban quản trị CNOOC. Thompson nhờ hai cố vấn xác định chính xác
mảng đáy biển ông muốn được nhượng quyền: cố vấn ban đầu của ông Ed Durkee và
Daniel J. Dzurek, cựu Trưởng Ban Biên Giới của Bộ Ngoại Giao Mĩ. Hình dạng của
lô họ vẽ giống như một khẩu súng ngắn với chỗ cầm tay chỉ về phía Nam và nòng
chỉ về phía Đông. Chu vi kì lạ đó cố bao gồm các khu vực có khả năng có dầu
trong khi chạm vào chứ không vượt quá các đường yêu sách của Indonesia,
Malaysia và Brunei ở bốn chỗ. ‘Tôi nhờ Ed Durkee phác thảo lô này theo quan
điểm kĩ thuật và nhờ Dan Dzurek phác thảo theo quan điểm chính trị. Chúng tôi
đã hết sức cẩn thận để không phạm vào vùng biển của Philippines, hay của
Indonesia, Malaysia và Brunei,’ Thompson nhớ lại. Nếu lô của ông trông giống
như một vũ khí thì nó chỉ nhắm vào Việt Nam.
Cùng tháng đó Thompson dốc hết ý tưởng của mình với CNOOC,
Quốc hội Trung Quốc đã thông qua ‘Luật về Lãnh hải và Vùng Tiếp giáp Lãnh hải’.
Luật này chính thức hoá ‘Tuyên bố về Lãnh Hải’ của Trung Quốc năm 1958 (xem
Chương 4), qua đó tuyên bố chủ quyền Bãi Ngầm Macclesfield, hai Quần Đảo Hoàng
Sa và Trường Sa và tạo cơ sở pháp lí - ít nhất là trong mắt của Bắc Kinh - cho
việc cho thuê nhượng các lô thăm dò xa đất liền. Mảnh đáy biển làm Thompson
quan tâm nằm ngoài khơi chỉ cách bờ biển Việt Nam 250 km và cách các bãi biển
của Trung Quốc hơn 1 000 km. Sự táo tợn đến mức kinh khiếp, ngay cả CNOOC
cũng thấy quá sức mình – về kĩ thuật và về chính trị. Thompson cho biết ông đã
phải ra sức thuyết phục CNOOC nhượng quyền mà không qua đấu giá, qua việc cảnh
báo ban quản trị rằng công khai sẽ chỉ tạo ra rắc rối với Việt Nam.[7]
Tại thời điểm đó Crestone có bốn nhân viên: Thompson, một
thư kí, một nhân viên tiếp tân và một kế toán bán thời gian. Cuối cùng ông đã
đạt được thỏa thuận. CNOOC đã trao cho một trong những công ti dầu nhỏ nhất thế
giới quyền đối với một khu vực biển rộng lớn: 25 155 km². Crestone chỉ
phải trả $50 000. Trung Quốc gọi lô đó là ‘Wan An Bei-21’ (WAB-21/Vạn An
Bắc 21). Theo thỏa thuận này, CNOOC sẽ cung cấp dữ liệu địa vật lí hiện có của
họ và giữ lại quyền được mua 51 % thuê nhượng vào một thời điểm sau này nếu lô
cho thấy có lợi nhuận. Crestone sẽ tiến hành khảo sát địa chấn thêm và trang
trải các chi phí phát triển. Đối với các lãnh đạo chính trị Trung Quốc,
Thompson là điều nằm mơ biến thành sự thật. Ở đây là một người, người Mĩ, lại
sẵn sàng khẳng định trên thực tế yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ngoài khơi bờ
biển Việt Nam. Crestone sẽ nhận lấy mọi búa rìu dư luận trong khi CNOOC có thể
ngồi nhìn.
WAB-21 hầu như nằm hoàn toàn trong
EEZ của VN
Thompson lạc quan về mỏ dầu tiềm năng và lơ là về hiểm nguy
chính trị. Khi Crestone kí hợp đồng thuê nhượng vào ngày 8 tháng 5 năm 1992,
ông nói với các phóng viên, ông tin rằng có ‘cách vượt quá 1,5 tỉ thùng dầu’
trong lô này và rằng ông ‘thà tìm kiếm dầu khí tại một khu vực có tiềm năng
cao, rủi ro kĩ thuật thấp và chính trị xấu hơn là nơi ngược lại.’ Ông cũng thấy
vui sướng với cam kết của các nhà chức trách Trung Quốc dùng toàn bộ sức mạnh
hải quân của họ để bảo vệ yêu sách của mình, nếu xảy ra cuộc đối đầu với Việt
Nam. Chính phủ Hoa Kì giữ khoảng cách. Một nhà ngoại giao Mĩ đã tham dự lễ kí
kết tại Bắc Kinh, nhưng toà đại sứ từ chối bất kì sự dính dáng nào trong các
cuộc đàm phán của Crestone. Thật ra, Thompson nói rằng trong những ngày sau khi
kí kết cả Bộ Ngoại Giao Mĩ lẫn CIA đều gọi ông để cố tìm hiểu ông muốn theo
đuổi cái gì. Đặc biệt Bộ Ngoại Giao đã quan ngại - cảnh báo Thompson phải để
nhân viên Mĩ và trang thiết bị nằm ngoài lô vì có nguy cơ bị Việt Nam tóm giữ.[8]
Vì lí do nhạy cảm chính trị, Thompson có thể làm chậm rãi:
Crestone không bắt buộc phải khoan giếng nào trong bảy năm. Trong khi đó, Việt
Nam trút sự tức giận của họ, với việc đưa ra các phản đối chính thức với chính
phủ Trung Quốc và đăng các bài báo buộc tội. Một cuộc chiến tranh bằng lời kéo
dài trong một năm rưỡi. Suốt thời gian đó Crestone tiếp tục công việc chuẩn bị
của mình. Sau đó, vào tháng 12 năm 1993, Thompson đã được mời tới Hà Nội hội
đàm với TS Hồ Sĩ Thoảng, chủ tịch công ti dầu khí quốc doanh của Việt Nam,
PetroVietnam. Ông được đề xuất một thỏa thuận: tiến hành liên doanh, nhưng chỉ
khi ông hủy bỏ hợp đồng hiện có với CNOOC. Thompson từ chối, và Việt Nam trở
nên giận dữ hơn. Họ chuẩn bị để triển khai với các đồng minh lớn hơn nhiều so
với Crestone.
Trong một vài năm các công ti của Mĩ đã bận bịu với việc cố
dàn xếp các thoả thuận làm ăn tại Việt Nam. Trong số đó có Mobil – nóng lòng
trở lại một khu mỏ tiềm năng mà họ đã xác định ra lần đầu tiên ngay trước khi
Nam Việt Nam sụp đổ năm 1975: khu vực mà họ gọi là Blue Dragon (Thanh Long) bên
trong khu mà Việt Nam, gọi dân giả hơn là Lô 5.1b. Dù không chồng lấn lên
WAB-21, nó vẫn nằm trong ‘đường chữ U’. Cùng lúc đó, PetroVietnam cũng đang đàm
phán với một công ti lớn của Mĩ, Conoco, về các lô 133, 134 và 135 mà chắc chắn
chúng chồng lấn với WAB-21. Gần đó, Atlantic Richfield và British Gas sắp bắt
đầu khoan trong một lô khác của Việt Nam mà Trung Quốc cũng yêu sách.[9]
Tuy nhiên, không ai có vẻ lo ngại về nguy cơ làm Bắc Kinh nổi giận. Ngày 3
tháng 2 năm 1994, ngày mà các công ti này đã phải chờ đợi đã đến: Hoa Kì chính
thức dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại lên Việt Nam và họ vội vã kí hợp đồng.
Tuy nhiên, Crestone được xác định là công ti đầu tiên giành
được trên thực tế thị phần của mình. Khoảng tháng 4 năm 1994, bạn bè Thompson ở
Viện Hải Dương Nam Hải đã sẵn sàng vào cuộc. Viện đã được tài trợ và được Bắc
Kinh bật đèn xanh để thực hiện một vòng công tác khảo sát địa chấn mới ở khu
vực phía Bắc Biển Đông. Thompson đã thuyết phục họ thay đổi vị trí - và hướng
về WAB-21. Khi Mobil và các đối tác Nhật Bản chuẩn bị để chính thức kí thỏa
thuận Blue Dragon với PetroVietnam, Thompson và viện này đang cần mẫn làm việc
ngoài biển. Hôm Thứ Ba ngày 19 tháng 4, khi việc kí kết tiến tới ở Nhà Khách
Quân đội tại Hà Nội, Crestone thông báo đã bắt đầu công việc khảo sát địa chấn
ở WAB-21 và đang lên kế hoạch để khoan giếng thăm dò đầu tiên của mình, với sự
hậu thuẫn hết lòng của Trung Quốc.[10]
Mobil rõ ràng đã không đánh giá thật nghiêm túc hoạt động
Crestone: ít ra không đủ nghiêm túc để ngăn mình (và đối tác Nhật Bản) trao $
27 triệu đổi lấy các quyền đối với lô của họ. Tuy nhiên, theo giám đốc truyền
thông lúc đó R. Thomas Collins của Mobil, PetroVietnam cụ thể yêu cầu công ti
thông báo rằng họ quay trở lại khu vực mà trước đây đã thăm dò theo một giấy
phép từ chính quyền Nam Việt Nam trước đó để tăng sức mạnh tuyên bố.[11]
Ngoài biển, mọi thứ đang trở nên gay go.
Các tàu Trung Quốc không bao giờ kết thúc cuộc khảo sát của
mình. Theo Thompson, sau bốn ngày thu thập dữ liệu, ba tàu hải quân Việt Nam xuất
hiện và bắn ngang mũi của nó. ‘Tôi đang ở trên một tàu Trung Quốc, không ai
biết nói tiếng Anh, bị bắn bởi một chiếc tàu Việt Nam, ở đó cũng chẳng ai nói
tiếng Anh,’ ông nhớ lại. Sau một bế tắc kéo dài hai ngày, Thompson và thuyền
trưởng của con tàu quyết định không có lí do gì để tiếp tục và quay trở lại
Quảng Châu. Dù ban đầu TQ hứa sẽ hậu thuẫn hoàn toàn, hải quân họ đã không xuất
hiện. ‘Họ không muốn một cuộc đối đầu,’ Thompson nói. Nhưng Bắc Kinh chỉ chờ
thời.
Ngay sau khi Trung Quốc rút lui, PetroVietnam vội vã khẳng
định chủ quyền đối với cùng mảnh biển. Ngày 17 tháng 5 năm 1994, Tam Đảo, một giàn khoan thuộc công ti
Vietsovpetro liên doanh với Nga, di chuyển đến Bãi Tư Chính (Vanguard). Khu vực
này, Lô 135 theo Việt Nam, là một lô mà Conoco đang có ý định thuê nhượng, mặc
dù nó nằm bên trong góc Tây Nam lô WAB-21 của Crestone.[12] Bây
giờ thì tới phiên Trung Quốc hành động. Họ triển khai hai tàu nhưng không cố
đuổi giàn khoan đi. Thay vào đó họ bao vây: chặn nguồn cung cấp dung dịch khoan
và thực phẩm. Chi tiết về những gì xảy ra là sơ sài nhưng nhân viên giàn khoan
bị mắc kẹt trong cuộc bao vây trong nhiều tuần. Theo Ian Cross, lúc đó làm tư
vấn cho Integrated Exploration and Development Services ở Singapore, họ khoan
xuống khoảng 3 000 mét, nhưng không tìm thấy dầu. Theo Thompson, ‘họ không
biết họ đang làm gì, giàn khoan không đặt đúng vị trí. Họ chỉ ra đi để chứng
minh chủ quyền.’ Chắc chắn Vietsovpetro không bao giờ công bố về những điều họ
tìm thấy.
Luật lãnh hải năm 1992 của Trung Quốc, công việc khảo sát
dầu, hợp đồng với Crestone và nhiều biểu thị về vẻ nghiêm túc của Bắc Kinh đối
với yêu sách ‘đường chữ U’ đã làm các chính phủ khu vực Đông Nam Á lo lắng sâu
đậm. Trong một lúc nào đó, sáu thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) đã thảo luận xem liệu có nên để Việt Nam tham gia hàng ngũ của họ
không. Có rất nhiều yếu tố để xem xét nhưng khi việc đối đầu về dầu leo thang
thì ngoại giao cũng tăng tốc. Một loạt các chuyến thăm và các cuộc họp trong
tháng 4 và tháng5 năm 1994 đã dẫn tới một thông báo vào ngày 11 tháng 7 rằng
Việt Nam sẽ được mời tham gia - mặc dù VN không chính thức nộp đơn gia nhập.
Ngày 19 tháng 7, tin tức về vụ bế tắc Tam
Đảo bị rò rỉ ra thế giới bên ngoài ngay khi những chuẩn bị cuối cùng cho
cuộc họp các ngoại trưởng ASEAN đã được thực hiện, ở đó lời mời chính thức sẽ
được chuyển tới Việt Nam. Một tuần sau cuộc họp, quân đội Trung Quốc tổ chức
cuộc tập trận công khai trên đảo Hải Nam, theo lời của các phương tiện truyền
thông chính thức, phô diễn gần như toàn
bộ các loại vũ khí, thiết bị và kĩ thuật.[13] Một
cách làm mạnh tay như vậy chỉ làm tăng nỗi lo lắng của Đông Nam Á về ý đồ của
Trung Quốc.
Lời mời của ASEAN có thể châm ngòi cho một sự thay đổi đột
ngột về chiến thuật của Bắc Kinh. Ngày 5 tháng 9 năm 1994, sau một tháng với
các cuộc thảo luận kín, TQ thông báo rằng Giang Trạch Dân sẽ thực hiện chuyến
thăm VN lần đầu tiên của một chủ tịch Trung Quốc. Và vào cuối tháng đó, Trung
Quốc cũng đã đề xuất cho Việt Nam vay $170 triệu để tân trang các nhà máy sản
xuất lạc hậu. Cả hai bên đều quyết tâm hàn gắn mối quan hệ. Một lí do có thể là
để làm dịu mối quan hệ với ASEAN nhưng lí do khác có lẽ là Bắc Kinh đã làm xong
việc bí mật chuẩn bị để chiếm Đá Vành Khăn (Mischief Reef) (xem Chương 3).
Khoảng thời gian này, từ Manila tin tức rò rỉ rằng Alcorn Petroleum đã bắt đầu
công việc khảo sát trong một khu vực tranh chấp của Biển Đông, khu vực Bãi Cỏ
Rong (Reed Bank) ngoài khơi Philippines. Có lẽ việc xuống thang với Việt Nam
chỉ đơn giản là một mưu đồ chia rẻ đối phương tiềm năng để dễ bề hành động.
Điều này cũng giải thích lí do vì sao vào tháng 1 năm 1995, khi sự cố Đá Vành
Khăn diễn ra, nhà chức trách Trung Quốc đã bảo Crestone nên làm công việc thăm
dò chậm lại.
Tình thế bị bế tắc. Thompson không có vốn để phát triển bất
kì mỏ tiềm năng nào thành mỏ khai thác thương mại. Crestone cần một công ti có
cùng thái độ chẳng màn tới rủi ro chính trị và có cái túi sâu hơn. Cái mà
Thompson cần là một công ti như Benton Oil and Gas: một công ti kì cựu của thời
gay go và hỗn loạn Nga hậu-Xô Viết Năm 1996, trên nền của sự bùng nổ dầu, giá
cổ phiếu của Benton tăng gấp ba lần: nó đã sẵn sàng cho một mảnh hành động ở
Biển Đông. Ngày 24 tháng 9 năm 1996 Benton đã đồng ý mua Crestone với giá $
15,45 triệu. Thỏa thuận này được kí kết vào ngày 6 tháng 12 với ghi nhận của
Benton rằng ‘tài sản chính của Crestone
là một hợp đồng dầu khí với CNOOC’.[14] Đó
là Lô WAB-21 mà từ đó chưa có một thùng dầu nào đã được rút lên. Một lần nữa,
Randall C. Thompson đã xoay xở để biến ‘một số không’ về mặt thương mại thành
một đống vàng lớn. Các cổ đông của Crestone, bây giờ có khoảng 130 doanh nghiệp
trong đó, cũng kiếm được một đống gọn gàng. Số phận Benton không phải quá hồng.
Năm 1998 và 1999, với giá dầu sụt giảm còn $ 12 một thùng, Công ti Benton đã
buộc phải ghi lỗ một con số sửng sốt là $ 204 triệu. Benton cầm cự bằng cách
bán tài sản. Nhưng vào giữa tháng 8 năm 1999, người sáng lập công ti Alex
Benton đã đưa đơn xin phá sản cá nhân và tháng 9, ông đã bị buộc phải từ chức
Chủ tịch và Giám đốc điều hành.
Ngày 14 tháng 5 năm 2002 Benton Oil and Gas đổi tên thành
Harvest Natural Resources, làm cho nghe giống như một nhà sản xuất bánh granola
hơn là một công ti dầu khí với thiên hướng về rủi ro chính trị. Nó vẫn nắm
quyền thuê nhượng của Trung Quốc đối với Lô WAB-21 mặc dù hiện nay nó đánh giá
quyền này thấp hơn nhiều. Năm 2002 họ cắt đi $ 13,4 triệu USD giá trị quyền đó
(gần 90 % khoản tiền đã trả để mua lại vào năm 1996). Tuy nhiên, họ vẫn nuôi hi
vọng rằng một ngày nào đó tình hình có thể sẽ tốt lên. Từ năm 2003 đến 2008 họ
đã chi $ 661 000 cho thăm dò và thu thập dữ liệu trong lô này và có lẽ
nhiều hơn kể từ đó, mặc dù họ không còn nêu từng mục các khoản chi trong báo
cáo hàng năm. Randall Thompson vui hưởng một cuộc sống tốt đẹp ở Colorado, dẫn
các cháu đi câu cá. Ông ta vẫn còn tích cực trong việc làm ăn về dầu và tại
thời điểm viết sách, đang tìm những mỏ tiềm năng mới ngoài khơi Italy, Morocco,
New Zealand và Nam Phi. Ông vẫn còn sở hữu các quyền tới 4,5 % của số tiền thu
được của Lô WAB-21 - nếu nó được khoan vào lúc nào đó.
**********
Đột phá đầu tiên của CNOOC vào vùng biển tranh chấp không
cho ra tí dầu nào và tệ hại hơn, làm cho Đông Nam Á đoàn kết lại trong báo
động. Trong 13 năm, đề xuất của Lí Bằng về cùng khai thác đã bị lịch sự phớt
lờ, các chính phủ khác không sẵn sàng để gác vấn đề chủ quyền. Việt Nam,
Indonesia, Malaysia và Brunei tiếp tục cho thuê các vùng biển ngoài khơi của họ
cho các công ti dầu khí quốc tế và lô của Crestone vẫn là một sự bất thường.
Không có nhu cầu phải tìm kiếm bất kì kiểu phát triển chung nào với Bắc Kinh.
Nhưng trong năm 2003 có một chính phủ đã xé rào. Đáng ngạc nhiên đó lại là quốc
gia, cho đến khi đó, đã từng cổ vũ mạnh mẽ nhất một mặt trận ASEAN thống nhất
chống các vi phạm của Trung Quốc: Philippines. Một nhóm nhỏ đầu não chính trị ở
Manila đã bày vẽ việc đảo ngược chính sách này, gần như là một sáng kiến tư
riêng. Họ qua mặt các cấu trúc hoạch định chính sách của chính phủ và thiết lập
quan hệ với Trung Quốc - và khu vực – theo một tiến trình hoàn toàn khác.
Năm 2003, Jose de Venecia là Chủ Tịch Viện Đại Biểu, Hạ viện
của Philippines, và là chủ tịch đảng cầm quyền, the Lakas-Christian Muslim
Democrats (đảng những người Dân chủ Hồi giáo Công giáo Lakas). Lúc còn thanh
niên, ông đã làm ra được nhiều tiền qua việc cung ứng lao động Philippines cho
các nhà thầu ở Trung Đông và sau đó, ông tham gia vào việc thăm dò dầu đầu tiên
ngoài khơi đảo Palawan. Với tiền bạc, quan hệ gia đình và sức mạnh chính trị,
ông là một thế lực quan trọng trong chính trị Philippines. Ông cũng đưa ra quan
điểm về phát triển quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc thông qua, cùng nhiều thứ
khác, Hội Nghị Quốc Tế các Đảng Chính Trị Châu Á (ICAPP) mà ông xướng ra vào
năm 2000, và Hiệp Hội các Quốc Hội Châu Á vì Hòa Bình (AAPP) mà ông là chủ
tịch.
Năm 2003 Gloria Macapagal Arroyo đã làm Tổng thống
Philippines được hai năm, trong thời gian đó
thương mại với Trung Quốc - chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô - đã
tăng gấp ba lần: từ $ 1,8 tỉ trong năm 2001 lên $ 5,3 tỉ vào năm 2003. Với việc
Mĩ tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố ở Trung Đông, Trung Quốc đã nhìn
thấy một lối mở. Năm 2001, Bắc Kinh đề xuất cấp $ 400 triệu vốn vay ưu đãi cho
các dự án NorthRail (đường sắt Bắc) nối Manila với căn cứ không quân cũ của Mĩ
tại Khu Kinh Tế Clark. Cuối cùng khi dự án động thổ vào ngày 5 tháng 4 năm
2004, bài phát biểu chính dành rất nhiều lời cảm ơn chính phủ Trung Quốc, được
đọc bởi người đề xướng chính: Jose de Venecia.[15]
Giống như de Venecia, Eduardo Manalac từng là thành viên của
đội khoan giếng dầu ngoài khơi đầu tiên của Philippines năm 1974. Không giống
như de Venecia, Manalac vẫn ở lại trong ngành dầu khí, trãi qua 28 năm với công
ti Mĩ Phillips Petroleum, kể cả 7 năm với tư cách là Giám Đốc Thăm Dò ở Trung
Quốc. Năm 2000, ông đã giúp khám phá mỏ dầu ngoài khơi lớn nhất của Trung Quốc
(trong Vịnh Bột Hải – cách xa mọi tranh chấp biên giới quốc tế) và được trao
tặng cả ‘Giải Thưởng Hữu Nghị’ của Chính Phủ Trung Quốc lẫn ‘Giải Nhân Viên
Điển Hình’ của CNOOC. Là một chuyên gia, Manalac biết chính xác ngành dầu
Philippine bị lỗi điều gì. Sau khi nghỉ hưu với Phillips, ông dành khả năng
phục vụ cho đất nước của mình như một cách ‘để đáp trả học phí đại học giá rẻ
mà tôi đã từng hưởng’ và tháng 3 năm 2003, được bổ nhiệm làm Thứ Trưởng Năng
Lượng. Dù là hai con người khác biệt với những quan tâm khác biệt, Manalac và
de Venecia đồng làm trung gian cho một thỏa thuận giữa Philippines và Trung
Quốc làm cả khu vực giật mình.
Manalac biết rõ Trung Quốc nhưng muốn lĩnh vực dầu khí của
Philippines có khả năng tự lực. Ông cho rằng vấn đề thật ra là chuyện nội bộ:
các tập đoàn nhỏ của các công ti địa phương tiếp cận được với Bộ Năng Lượng
nhưng không đủ vốn để đầu tư vào thăm dò. Họ lấn át các đối thủ quốc tế vốn có
thể sẵn sàng mạo hiểm một vài trăm triệu đô la để khoan một cái giếng trong các
vùng biển chưa được khoan thử. Năm 2003, Manalac tổ chức vòng đấu thầu minh
bạch lần đầu tiên của Philippines để cố gắng và thu hút các công ti lớn thăm dò
ngoài khơi. ExxonMobil giành được quyền đối với khu vực của biển Sulu nhưng
không ai quan tâm đến Biển Đông. Manalac tin rằng các khu mỏ tiềm năng là tốt,
nhưng, nếu khi nào muốn thoát khỏi việc phụ thuộc gần như hoàn toàn vào dầu mỏ
nhập khẩu thì Philippines phải cần một cách tiếp cận khác, một cách tiếp cận có
tính đến tình hình địa chính trị. ‘Tôi có cảm giác là không công ti nào trong
số những tên tuổi lớn dám vào một khu vực khi ở đó có nhiều yêu sách [lãnh
thổ]. Đó vốn là vùng biển sâu nên sẽ đòi hỏi một lượng vốn lớn để khoan và phát
triển’, ông nhớ lại. ‘Tôi hỏi liệu Tổng Thống sẽ ủng hộ một ý tưởng theo đó
chúng ta sẽ cùng với các nước khác đang yêu sách thực hiện một nỗ lực phát
triển chung. Và bà nói ủng hộ.’
Trong khi đó de Venecia chăm chút mối quan hệ của mình với
các lãnh đạo Trung Quốc. Tháng 4 năm 2002, ông đã tổ chức cuộc họp hàng năm thứ
ba của AAPP ở Bắc Kinh và tháng 3 năm 2003, ông là người đứng đầu phái đoàn
chính phủ đến hội chợ thương mại đầu tiên của Philippines ở Shanghai (Thượng
Hải).[16]
Tháng 9 năm 2003, ông tiếp Wu Bangguo (Ngô Bang Quốc), vừa là đối tác vừa là
người đứng đầu Quốc Hội Trung Quốc và cũng là chủ tịch của AAPP. Trong thời
gian ở Manila, Ngô Bang Quốc chứng kiến việc kí kết thỏa thuận hoán đổi tiền tệ
$ 1 tỉ giữa ngân hàng trung ương hai nước (nhằm mục đích bảo vệ Philippines
chống lại khả năng cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 lặp lại) và phát
biểu trước một cuộc họp của các lãnh đạo quốc hội. Sau đó de Venecia nói với
các nhà báo rằng ‘Ông Ngô đã đề xuất một chương trình thăm dò và phát triển
chung trong quần đảo Trường Sa’. De Venecia tán thành ý tưởng đó, qua việc nói
rằng ‘những khu vực này đang nằm chờ và chúng ta cũng có thể để chúng mở ra cho
việc chia sẻ lợi nhuận với nhau hoặc chia sẻ lợi nhuận với tất cả các bên.’[17]
Và có thoả thuận rằng một công ti khai thác dầu lớn của Trung Quốc sẽ gửi một
phái đoàn đến Manila trong tháng 11. Ngày 10 tháng 11 năm 2003, thư về ý định
tham gia vào chương trình hợp tác xét duyệt, đánh giá và lượng định các dữ liệu
địa chất, địa vật lí và kĩ thuật có sẵn khác có liên quan để xác định tiềm năng
dầu khí của khu vực này đến hạn để kí kết giữa Công Ti Dầu Khí Quốc Gia
Philippines (PNOC) và CNOOC.[18]
Lặng lẽ, Manalac và giám đốc điều hành CNOOC đã vẽ ra ranh
giới của một khu vực thăm dò. Ranh giới phía Tây phải tránh vùng biển của
Malaysia nhưng giới hạn phía Bắc và phía Đông là chỉ là vấn đề giữa hai bên.
Cuối cùng nó bao phủ một diện tích 143 000 km² ở phía Bắc và phía Tây
Palawan - bao gồm, nhưng vươn khỏi vùng biển cạn Bãi Cỏ Rong (Reed Bank).
Manalac biết ý tưởng chia sẻ tài nguyên là đầy tranh cãi cả trong nước lẫn ở
nước ngoài, nhưng với tư cách giám đốc PNOC ông đã giải thích sau đó, ‘30 % của
một cái gì đó thì tốt hơn 100 % của chẳng có gì’. Vấn đề là cấu trúc thỏa thuận
này là như thế nào để tránh tất cả những cạm bẫy tiềm năng về chính trị của
Philippine và ngoại giao của ASEAN. Manalac yêu cầu được chuyển sang Công Ti
Dầu Khí Quốc Gia Philippines để thỏa thuận với CNOOC có thể được cấu trúc như
một thoả thuận thương mại chứ không phải là một sự sắp xếp liên chính phủ. Đó
là một mẹo vặt vì cả hai công ti đều là doanh nghiệp nhà nước.
Tháng 7 năm 2004, khi Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo
(bạn bè và kẻ thù của bà gọi tắt là GMA) cho rút đội quân nhỏ của Philippines
khỏi Iraq, quan hệ với Washington trở nên lạnh giá rõ rệt. Bà phản ứng bằng việc
tìm cách bắt tay toàn diện với Trung Quốc và kênh liên lạc là Jose de Venecia.
Ông đã sắp xếp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc đăng cai tổ chức Đại Hội thứ ba của
Hội Nghị Quốc Tế Các Đảng Chính Trị Châu Á ở Bắc Kinh vào tháng 9 năm 2004, và
tháng 8 GMA đã bất ngờ được mời đến để đưa ra một trong các phát biểu quan
trọng. Ngày 18 tháng 8, GMA sắp xếp lại nội các của mình và chuyển Eduardo
Manalac từ nhiệm vụ Thứ Trưởng Năng lượng sang làm Chủ tịch PNOC. Năm ngày sau
đó de Venecia nói với các phóng viên rằng GMA sẽ vận động cho việc thăm dò
chung với Trung Quốc trong chuyến thăm Bắc Kinh. ‘Chúng ta không nên cho phép
những khác biệt khu vực ngăn cản chúng ta phát triển,’ ông nói sau khi đưa ra
bài phát biểu về tác động của giá dầu cao vào nền kinh tế của Philippines.[19]
Tuần sau, vào ngày 1 tháng 9, Manalac, bây giờ không còn là một thành viên của
chính phủ, kí kết cái được gọi là Hiệp Định Thăm Dò Địa Chấn Biển Chung (Joint
Marine Seismic Undertaking) với người bạn cũ của mình, Chủ tịch Công ti Dầu khí
Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc, Fu Chengyu (傅成玉[PhóThành Ngọc]).
Hiệp Định Thăm Dò Địa Chấn Biển Chung hoặc JMSU là đứa con
tinh thần của một nhóm nhỏ thân cận GMA. Giáo sư Aileen Baviera, một trong
những nhà phân tích khu vực thạo tin Philippines nhất, cho biết Bộ Ngoại giao
và Hội đồng An ninh Quốc gia đã bị loại ra trong suốt quá trình đàm phán.[20]
Trong khi một số người ủng hộ JMSU, kể cả Manalac, được thúc đẩy bởi mong muốn
cải thiện an ninh năng lượng của đất nước và giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu
thì những người khác có những quan tâm ít cao cả hơn. De Venecia dường như
thích đề cao vị trí của mình như là một nhà môi giới quyền lực và người gác
cổng cho đầu tư của Trung Quốc vào Philippines. (Các thoả thuận như vậy đã đi
theo đúng hạn, đặc biệt trong các chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào tháng
4 năm 2005 và Thủ tướng Ôn Gia Bảo vào tháng 1 năm 2007.) Ngoài ra còn có một
nhóm doanh nhân quan tâm đến việc kí kết các thoả thuận làm ăn hấp dẫn với các
công ti Trung Quốc. Nhóm này nhất thiết có cả chồng của GMA, con trai của Jose
de Venecia và những người khác trong nhóm của họ. Bè nhóm chủ chốt này dường
như đã nắm quyền kiểm soát chính sách đối ngoại của nước này và uốn cong nó
theo lợi ích riêng của họ.
Bên ngoài các biệt thự của Manila, phản ứng là sự kinh ngạc.
Các nhà ngoại giao ASEAN muốn biết tại sao Philippines lại xem thường yêu cầu
đoàn kết khu vực.có tính nguyên tắc nhiều năm. Việt Nam đã cáu tiết. Trong sáu
tháng, VN đã nện các nhà ngoại giao Philippines với những phản kháng nhưng cuối
cùng quyết định rằng tham gia vào cuộc khảo sát sẽ tốt hơn là không tham gia.
Ngày 14 tháng 3 năm 2005, PetroVietnam kí kết tham gia Hiệp Định Khảo Sát Địa
Chấn Biển Chung mở rộng kéo dài ba năm. CNOOC sẽ điều hành các cuộc khảo sát,
PetroVietnam sẽ xử lí dữ liệu tại một trung tâm hợp tác với công ti Fairfield
của Mĩ, và Công Ti Dầu Khí Quốc Gia Philippines, chẳng có gì nhiều để góp vào,
cho biết sẽ tổ chức việc phân tích. Ngày 1 tháng 9 một tàu khảo sát cũ của
CNOOC, tàu Nanhai 502 (Nam Hải 502),
rời Quảng Đông với các chuyên gia ba nước trên tàu. Hơn 75 ngày sau, họ thu
thập được 11 000 km dữ liệu địa chấn, bao phủ toàn bộ khu vực JMSU. Ngày
16 tháng 11, tàu đậu tại cảng tiếp liệu của PNOC ở Batangas, phía Nam Manila, ở
đó Eduardo Manalac tuyên bố rằng ‘những căng thẳng chính trị là chuyện lịch
sử.[21]
Những người khác sẽ thấy không phải như thế.
Đến tháng 1 năm 2007, một vài mỏ tiềm năng đầy hứa hẹn đã
được xác định, do đó giai đoạn hai của các khảo sát chi tiết hơn đã được đưa ra
bàn. Bộ Ngoại Giao phản đối và mãi cho đến tháng 6 Tổng Thống mới cấp phép cho
giai đoạn 2. Khoảng thời gian đó GMA bị nhấn chìm bởi một làn sóng cáo buộc
tham nhũng liên quan đến bà, chồng bà, người đứng đầu Ủy ban bầu cử và các dự
án được viện trợ Trung Quốc tài trợ. Tuy nhiên, giai đoạn 2 vẫn tiến tới, thu
thập thông tin chi tiết hơn về các khu vực cụ thể của đáy biển. Kế hoạch cho
giai đoạn 3 đã được thực hiện: xếp đặt vị trí để khoan thăm dò. Nhưng sau đó,
vào tháng 1 năm 2008, nhà báo kì cựu Barry Wain đã viết một bài báo cho Far Eastern Economic Review (Tạp chí
Kinh tế Viễn Đông) cáo buộc chính phủ của GMA có ‘các nhượng bộ kinh khiếp'
trong JMSU và chỉ trích các điều khoản và điều kiện bí mật của nó.[22]
Bài viết này được đội quân ngày càng đông những người chỉ trích GMA chợp lấy và
JMSU đã trở nên nhớp nhúa bởi nó liên quan đến Trung Quốc và các dự án cơ sở hạ
tầng hư hỏng do tham nhũng.
Khi những cáo buộc lan rộng và đấu đá nội bộ trở nên tồi tệ,
các kiến trúc sư của JMSU đã bị đẩy ra ngoài. Manalac tiếp tục những nỗ lực của
mình để làm trong sạch lĩnh vực dầu của Philippines bằng cách cắt các mối quan
hệ ấm cúng giữa các công ti năng lượng địa phương và Bộ Năng lượng. Ông không
tuân lệnh GMA, trao một hợp đồng dầu không liên quan cho công ti Mitra của
Malaysia, chứ không trao cho công ti có quan hệ với chồng của GMA. Chán ngán
với tham nhũng đang diễn ra, ông đã từ chức ở Công Ti Dầu Khí Quốc Gia
Philippines vào tháng 11 năm 2006. De Venecia bị mất chức Chủ Tịch Hạ Viện vào
tháng 2 năm 2008 sau khi con trai của ông buộc tội chồng của GMA tham nhũng
trong một dự án cơ sở hạ tầng về băng thông rộng (broadband) do Trung Quốc tài
trợ. Thỏa thuận JMSU đã chết chìm trong biển, khả năng về việc gia hạn bi lạc
mất giữa các màn kịch nhẹ diễn ra trên sân khấu chính trị ở Philippines. Nó hết
hạn vào ngày 1 tháng 7 năm 2008 mà không một ai đang nắm quyền chuẩn bị lí lẽ
cho việc gia hạn nó.
Manalac vẫn coi Công Tác Thăm Dò Địa Chấn Chung là một thành
công: dù sao thì nó cũng đã cho phép Công ti Dầu khí Quốc gia Philippines chia
bớt chi phí cho một cuộc khảo sát mà nó muốn làm và không có nguy cơ đối đầu
trên biển. Theo quan điểm của Trung Quốc, thành công chỉ là một phần. Lần đầu
tiên hai chính phủ ASEAN đã gác sang một bên vấn đề chủ quyền và cho thấy một
mô hình phát triển chung. Tuy nhiên, một lần nữa, phía Đông Nam Á đối lập đã
phá ngang các cơ hội thực sự làm ra dầu của CNOOC. Không rõ là giấy phép cho
giai đoạn 3 của JMSU đã được cấp chưa.
Thay vào đó, chính phủ các nước khác tiếp tục phớt lờ đề
xuất của Lí Bằng và nhượng nhiều lô bên trong ‘đường chữ U’ cho các công ti
quốc tế theo cách riêng của họ. Nhưng trong thời gian hoạt động của JMSU, tăng trưởng
kinh tế tăng vọt của Trung Quốc đã bắt đầu cho nó ảnh hưởng lớn hơn. Nếu JMSU
là một củ cà rốt của Trung Quốc để thúc đẩy việc cùng phát triển ở Biển Đông,
thì bây giờ Bắc Kinh đã có một cây gậy để vung vào các công ti không chịu nghe
theo họ.
**********
Trung tâm công nghiệp hydrocarbon của Việt Nam là thành phố
Vũng Tàu trên bờ biển Đông Nam của nước này. Từng là một khu nghỉ mát thực dân
Pháp, sự cao sang của nó đã chịu thua sự thô ráp công nghiệp. Một phía của bán
đảo dài là sân chơi cho các kĩ sư Nga với bụng chắc khoẻ và quần bơi nhỏ xíu.
Phía khác, đối mặt với các cửa sông, bị lấn áp bởi các thùng chứa, bãi hàn.
Giữa chúng là một dải các khu tháp không nổi bật và khách sạn có tên lạc quan
là Grand Hotel mà vào ngày 4 tháng 6 năm 2007, BP Việt Nam chính thức chào đón
tổng giám đốc mới Gretchen H. Watkins tại đó. Watkins đã bắt đầu trong vai trò
kĩ sư cho Amoco và, sau khi công ti này được BP tóm thu, đã chuyển qua nhiều vị
trí công tác ở London, Hà Lan và Canada. Trẻ và đầy tham vọng, bây giờ cô ấy đã
có cơ hội để chứng tỏ bản thân mình ở chốn biên giới hoang sơ. Điều mà cô không
biết là cấp trên tột cùng của cô, Giám đốc điều hành Tony Hayward của BP, đã
giết chết cơ hội của cô. Cô dành một năm học bằng kinh nghiệm cay đắng về những
nguy hiểm của việc cố tác nghiệp trong vùng biển mà cô có thể nhìn thấy từ cửa
sổ.Grand Hotel.
BP đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1989 nhưng phải mất một
thập kỉ để trở thành một trong số ít các công ti quốc tế làm ra tiền ở đó. Năm
2002 giàn khoan Lan Tây của họ tại Lô
6.1 cách bờ 362 km, bắt đầu bơm khí đốt vào các đường ống dưới nước dài nhất
thế giới đến một trạm phát điện trên cửa sông nhìn thấy từ Grand Hotel. Năm
2006 khí đốt của BP đã tạo ra trên 1/3 sản lượng điện của Việt Nam và sẽ nhiều
hơn thế vì công ti có được quyền đối với hai lô thăm dò khác. BP nắm các lô này
trong nhiều năm, chờ đợi để thấy thuyết phục rằng nền kinh tế của Việt Nam có
thể tạo ra đủ nhu cầu đáng để mở rộng việc sản xuất điện, và do đó khí đốt. Vào
đầu năm 2007, với việc nước này mới vừa trở thành thành viên của Tổ Chức Thương
Mại Thế Giới và các nhà đầu tư tên tuổi lớn đổ xô vào, BP cũng sẵn sàng ra sức.
Ngày 6 tháng 3, BP công bố kế hoạch phát triển hai mỏ khí đốt mới ở Lô 5.2 và
hoặc sẽ nối chúng với đường ống đang có hoặc xây dựng đường ống khác. Một nhà
máy điện thứ hai sẽ được xây dựng trên bờ để biến khí thành nhiều điện hơn cho
nước này và nhiều tiền hơn cho BP. Lịch thực hiện được để mơ hồ nhưng đối tác
PetroVietnam của BP gợi ý khí đốt có thể đi vào hoạt động vào năm 2011.
Vào khoảng thời gian đó, đại sứ Trung Quốc ở Australia,
Madame Fu Ying (Bà Phó Oánh), đã có kế hoạch riêng, chuẩn bị chuyển đến một vị
trí mới ở London. Phó Oánh là một cố nhân của BP. Năm 2000, khi BP công bố kế
hoạch phát triển Lô 6.1, bà đang là Tổng Giám Đốc Vụ Châu Á tại Bộ Ngoại Giao
Trung Quốc. Theo một nhân vật cao cấp trong BP, bà đã đưa ra nhiều phản kháng
rất mạnh mẽ với ban quản trị của BP ở Bắc Kinh và Đông Nam Á yêu cầu công ti
dừng dự án vì nó đã xâm phạm yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Vào thời điểm đó,
Giám Đốc Điều Hành BP là John Browne, một nhà quản lí kì cựu của nhiều trận
chiến nơi biên giới. Ông chỉ đơn giản nhún vai với các phản đối của Phó Oánh và
dự án tiếp tục. Nhưng ngày 1 tháng 5 năm 2007, Browne từ chức ở BP sau một vụ
tai tiếng và Tony Hayward thay vào vị trí đó.
Phó Oánh đến London vào ngày 10 tháng 4, cũng là ngày mà Bắc
Kinh công khai thù địch trong một cuộc chiến mới với BP. Trả lời một câu hỏi cò
mồi từ một phóng viên truyền hình nhà nước Trung Quốc về các dự án khí mới,
người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Qin Gang (Tần Cương) tuyên bố, ‘hành
động mới của Việt Nam [là] bất hợp pháp và không hợp lệ ... không có lợi cho sự
ổn định của khu vực Biển Đông.’ Điều lạ là lô mà Bắc Kinh bây giờ lôi vào để
phản đối (Lô 5.2) thực tế lại gần với bờ biển Việt Nam hơn Lô 6.1 mà BP đang
hoạt động. Không thành vấn đề: đó là một cơ hội cho Madame Fu trả thù. Một
trong những điều đầu tiên mà bà ta làm sau khi dọn dẹp xong hành lí ở London là
yêu cầu có một cuộc họp với Giám Đốc Điều Hành mới toanh Tony Hayward. Công ti
đã nắm bắt những gì đang đến nên đã triệu các nhà quản lí chóp bu tại Việt Nam
về London để chuẩn bị cho các cuộc thảo luận. Họ đưa ra lí do mạnh mẽ để BP
tiếp tục dự án rồi để vấn đề cho Hayward và nhóm của ông [giải quyết].
Đến năm 2007, BP là một trong những nhà đầu tư nước ngoài
lớn nhất ở Trung Quốc. Danh mục đầu tư $ 42 tỉ của BP bao gồm nhiều cổ phần
trong các nhà máy hóa dầu, sản xuất khí ngoài khơi, 800 trạm xăng, 30 % cổ phần
ở các trạm khí tự nhiên hoá lỏng đầu tiên của nước này và một số doanh nghiệp
khác. Madame Fu biết rất rõ điều này và ngày 18 tháng 5 năm 2007, bà đã dùng nó
trong cuộc họp tại trụ sở BP. Bà đưa ra các phản đối của mình đối với các hoạt
động của BP trong vùng biển tranh chấp và sau đó, theo một người trong cuộc, đã
đưa ra hai cảnh báo cụ thể: thứ nhất, nếu công ti cứ tiến tới ở Lô 5.2 thì
chính phủ Trung Quốc sẽ xem xét lại tất cả các hợp đồng mà họ đã trao cho BP;
và, thứ hai, Trung Quốc không thể đảm bảo sự an toàn của bất cứ nhân viên BP
làm việc trong các khu vực tranh chấp. Đó dường như là một lời đe dọa thẳng
thừng đối với cả vận mạng thương mại của công ti lẫn mạng sống của người lao
động tham gia thăm dò và sản xuất. Thiếu kinh nghiệm đối phó với các chế độ thô
bạo như các tiền nhiệm, Hayward lùi bước. Ông đã thực hiện một thỏa thuận với
Phó Oánh: BP sẽ tiếp tục hoạt động Lô 6.1 nhưng sẽ tạm ngừng hoạt động tại Lô
5.2. Phó Oánh đã trả được thù.
Đó là đống bề bộn mà Gretchen Watkins thừa hưởng khi cô đến
Vũng Tàu hai tuần sau đó. BP đã kí hợp đồng với PetroVietnam (đại diện cho
chính phủ Việt Nam) và Công ti ConocoPhillips của Mĩ cam kết khảo sát và thăm
dò ở Lô 5.2. Theo nguồn tin ngoại giao Mĩ do Wikileaks công bố, có vẻ BP đã
không nói cho đối tác Mĩ biết về cam kết của Hayward với Phó Oánh mãi cho đến
ngày 8 tháng 6, khi công ti hủy bỏ kế hoạch công việc của mình cho năm 2007. Cả
ConocoPhillips lẫn PetroVietnam đều không muốn để vuột BP. Watkins thấy mình
bất lực giữa một cơn bão địa chính trị và pháp lí. Ngày 13 tháng 6, tin tức rò
rỉ rằng BP đã phải đình lại việc khảo sát địa chấn theo kế hoạch và hai ngày
sau tại Hà Nội đại sứ Hoa Kì Michael Marine được đối tác Anh và ConocoPhillips
đến viếng. Theo báo cáo của ông về hai cuộc họp (do Wikileaks công bố),
ConocoPhillips than phiền rằng PetroVietnam đã đòi hỏi họ phải thực hiện hợp
đồng công việc dù BP đã tạm ngưng. Đại sứ Anh, Robert Gordon, nói với ông rằng
Anh đã phái một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại Giao đến hội đàm với Chính Phủ
Việt Nam.[23]
Với việc BP nhượng bộ trước sức ép của Trung Quốc, ConocoPhillips
không có nhiều lựa chọn ngoài việc phải làm theo. Công ti này có lợi ích kinh
doanh nhỏ hơn ở Trung Quốc nhưng vẫn đáng kể, gồm mỏ Tây Giang phía Nam Hong
Kong và phát triển mỏ Peng Lai (Bành Lai) ở Vịnh Bột Hải. Ngửi mùi chiến thắng,
Bắc Kinh mở rộng chiến dịch. Cũng trong tháng đó, Bộ Ngoại Giao phàn nàn với
chính phủ Nhật Bản về các hoạt động của tổ hợp gồm Idemitsu, Nippon Oil và
Teikoku Oil, họ đang lập kế hoạch công tác khảo sát địa chấn ở hai Lô 5.1b và
5.1c (cạnh các lô của BP). Theo báo cáo của đại sứ Mĩ tại Tokyo do Wikileaks
công bố, chính phủ Nhật Bản đã quyết định không đưa đẩy vấn đề này với Bắc Kinh
và trong tháng 7, tập đoàn Nhật Bản đình chỉ kế hoạch của mình.[24]
Đầu tháng 8 năm 2007, giám đốc điều hành Chevron đã được toà đại sứ Trung Quốc
ở Washington DC triệu tập đến và yêu cầu ngừng việc thăm dò của công ti ở Lô
122 của Việt Nam. Thông điệp được lặp lại một cách mạnh mẽ hơn tại một cuộc họp
khác ở Bắc Kinh vào tuần sau. Yêu cầu này có vẻ thái quá. Lô 122 nằm ngay ngoài
khơi bờ biển Việt Nam và chắc chắn trên thềm lục địa VN. Tuy nhiên, Chevron đã
kí một hợp đồng rất lớn thuê nhượng khí ở Tứ Xuyên với PetroChina và có nhiều
thứ để mất. Chevron đã đình chỉ hoạt động tại Lô 122 trước cuối tháng.[25]
Ngày 8 tháng 9, toà lãnh sự Trung Quốc tại Houston gửi cho một công ti dầu khí
khác, Pogo, một lá thư bảo họ ngừng công việc tại Lô 124, cách lô 122 50 km về
phía Nam.
Năm 2007, TQ ép Chevron ngưng thăm
dò Lô 122 và Pogo ngưng công việc ở Lô 124 sát bờ biển VN
Madame Fu rõ ràng rất hài lòng với BP vì vào ngày 31 tháng 8
năm 2007, bà đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt tới tận nơi sản xuất dầu trên
bờ biển Wytch Farm của công ti ở miền Nam nước Anh, ở đó bà gợi ý rằng ‘hai bên
có thể thực hiện trao đổi và hợp tác nhiều hơn nữa.’ Bất thường đối với chuyến
viếng thăm ở Dorset, người tiếp bà là John Hughes, phụ trách Châu Á Thái Bình
Dương của BP. Ông đã đặc biệt đề cập đến hi vọng của BP ‘thực hiện hợp tác
chiến lược với các công ti dầu khí lớn của Trung Quốc’.[26]
Nhưng Bắc Kinh đã chưa tới hồi kết với BP. Bước tiếp theo là cố gắng sử dụng
công ti để thúc ép chính phủ Việt Nam nhượng bộ chủ quyền. Theo một nhân vật
cao cấp BP trong cuộc, chính phủ Trung Quốc đề nghị công ti tạo điều kiện để có
các cuộc thảo luận giữa CNOOC và PetroVietnam về việc cùng phát triển ở Lô 5.2
và Lô 5.3 kế cận. Động cơ của CNOOC vừa lợi nhuận vừa chính trị: Chủ Tịch Công
Ti Fu Chengyu (Phó Thành Ngoc) có tham vọng cao. Trụ sở chính của CNOOC tại Bắc
Kinh đối diện trực tiếp với Bộ Ngoại Giao, Bộ chủ quản của Fu Ying, qua ngã tư
đường Chaoyangmen (Chiêu Dương Môn). Trong hai năm 2007 và 2008, trục Fu-Fu
(Phó Oánh- Phó Thành Ngọc) dường như là hai mặt của cùng một chính sách.
Thật ra đây là lần thứ hai mà CNOOC buộc BP làm trò mai mối:
đã có một nỗ lực trước đó vào năm 2003. Sau đó, BP giới thiệu CNOOC cho
PetroVietnam rồi quay đi. PetroVietnam đã lịch sự vui vẻ bàn luận một số chủ đề
chung trong vài tháng cho đến cuối cùng họ nói thẳng rằng họ vui vẻ đón nhận
CNOOC làm đối tác thương mại nhưng không thể nào trở thành đồng quản trị của
các lô dầu khí của Việt Nam. Khi CNOOC quay lại cuộc đấu trong năm 2007, ông Fu
đã có cái gì cụ thể hơn trong đầu: cổ phần trong hai lô 5.2 và 5.3. Cũng giống
như các thỏa thuận mà Randall Thompson đã đề xuất thay mặt cho Crestone 15 năm
trước, đó phải là một sắp đặt có hiệu quả - dưới vỏ bọc của việc ‘cùng phát
triển’ – hàm ý công nhận quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với các nguồn tài
nguyên trong vùng tranh chấp. Và lần này BP sẽ không được phép khoanh tay đứng
ngoài các cuộc thảo luận. Thực tế, BP được sử dụng như một cánh tay trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc.
Ban Quản Trị cấp cao của BP ở London dưới quyền Tony Hayward
dường như mù mờ về lịch sử và địa chính trị của tình hình mà bây giờ họ thấy
mình rơi vào. Công ti tiếp tục hoạt động trên cơ sở rằng điều này có thể chỉ là
một cuộc làm ăn mạo hiểm khác, rằng CNOOC có thể bị mua chuộc với một thỏa
thuận thương mại và rằng tranh chấp chủ quyền có thể để cho các chính phủ xử
lí. Công ti dường như không nhận ra rằng đó chính
là tranh chấp chủ quyền. Trong hơn một năm Gretchen Watkins và các giám đốc
điều hành khác bay qua lại giữa Hà Nội và Bắc Kinh chuyển các thông điệp giữa
hai công ti dầu khí nhà nước. BP đề xuất phát triển các dự án ở các khu vực
mới, các dự án có lợi ích đối ứng cho cả hai bên, và tin chắc rằng một thỏa
thuận có khả năng xảy ra. BP thậm chí đổi chức danh của Watkins thànhTổng Giám
Đốc Thăm Dò và Sản Xuất BP Việt Nam và Trung Quốc. Không ngạc nhiên là chẳng có
tiến bộ nào. Việt Nam không lung lay về chủ quyền còn CNOOC chẳng quan tâm đến
thỏa thuận thương mại. Nhưng phải mất vài tháng để Hayward và nhóm của ông cuối
cùng mới hiểu được. Họ quan tâm nhiều hơn nữa tới mỏ tiềm năng rất lớn mở ra ở
Vịnh Mexico. Đối với họ, Đông Nam Á là một màn diễn phụ.
Watkins và ban quản trị khu vực của BP đã cố tìm lối thoát.
Họ biết họ không thể đáp ứng nghĩa vụ hợp đồng để hoàn thành khảo sát địa chấn
vào cuối năm 2008. Thay vào đó, vào đầu năm đó, BP và ConocoPhillips lặng lẽ
chuyển quyền tác nghiệp hai Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam. Họ tiếp tục sở hữu
quyền đối với hai lô này nhưng việc xếp đặt này có nghĩa là họ có thể tránh
việc phái tàu của họ vào vùng biển tranh chấp. Ngày 13 tháng 5 năm 2008,
Watkins thông báo cho đại sứ Mĩ Michael Michalak mới được bổ nhiệm tới Hà Nội về
sắp xếp này, nói với ông rằng BP và ConocoPhillips không có kế hoạch báo chính
phủ Trung Quốc về sự thay đổi trong vai trò tác nghiệp.[27] Hai
tuần sau đó, nhà chính trị quyền lực nhất ở Việt Nam, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh
đã đến Bắc Kinh hội đàm trong ba ngày. Cùng đi với ông là Chủ Tịch
PetroVietnam, đã có các cuộc thảo luận riêng với Chủ tịch Fu của CNOOC. Sau đó
ông Fu đã đến Hà Nội để đàm phán với PetroVietnam nhưng vẫn không có bước đột
phá. Tin tức về cuộc khảo sát của PetroVietnam đã rò rỉ ra trong tháng 7 nhưng
Trung Quốc dường như quá bận tâm với Olympic Bắc Kinh sắp xảy ra để có bất kì
hành động đáp trả nào.[28]
Mọi thứ với Watkins đã quá đủ. Sự phát triển mỏ khí đốt đã
bị đình trệ và toàn bộ kĩ năng của cô không bao gồm các cuộc đàm phán địa-chính
trị. Sự nghiệp của cô không đi đến đâu với BP Việt Nam vì vậy, vào tháng 7 năm
2008, cô đã đánh đổi vai cỡ trung trong một tập đoàn khổng lồ để lấy một vai
lớn hơn trong tập đoàn tương đối nhỏ, là Phó Chủ Tịch Điều Hành Sản Xuất Quốc
Tế cho Marathon Oil, một công ti với ít tranh chấp chủ quyền phải xử lí. Kế
nhiệm cô là một người Mĩ khác, Luke Keller, cựu chủ tịch của công ti con
Atlantic Richfield của BP và có nhiều năm kinh nghiệm với các chính phủ hay
tranh cãi, từ Texas tới Azerbaijan. Tuy nhiên, đến thời điểm này, ban quản trị
của BP đã nhận ra là trò chơi đã mãn và vào cuối tháng 11 năm 2008 họ đã bắn
tin cho PetroVietnam. BP muốn rút ra. BP lặng lẽ chuyển không cổ phần của mình
trong hai Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam và xoá sổ $ 200 triệu họ đã đầu tư vào
chúng. Quyết định này buộc ConocoPhillips cũng làm như vậy vào tháng 12. Madame
Fu đã giành thắng lợi cuối cùng.
BP có thể nào chơi khác đi không? Kinh nghiệm của một công
ti dầu khí khác - lớn nhất thế giới - cho thấy họ có thể. ExxonMobil cũng nhận
các đe dọa từ nhà chức trách Trung Quốc - và họ cứ phớt lờ. Trong nhiều năm,
ExxonMobil không thành công bằng BP trong việc thâm nhập thị trường Trung Quốc.
Vốn đầu tư lớn duy nhất của họ là 22,5 % cổ phần trong một dự án lọc dầu và hóa
dầu ở Phúc Kiến. Toà Lãnh sự Hoa Kì ở đó lưu ý rằng dự án này đã có nhiều điều
phải làm với các mối quan hệ và vốn chính trị tiềm năng mà họ trao cho chính
phủ Trung Quốc hơn bất kì đóng góp quan trọng nào từ ExxonMobil. Ngay cả các vị
trí của dự án, ngay trong vùng biển ngang Đài Loan, đã được xem như là một
phương tiện để đạt được đòn bẩy ngoại giao tác động lên Hoa Kì nếu như có bất
cứ một cuộc khủng hoảng nào giữa Bắc Kinh và Taipei (Đài Bắc).[29]
Công ti cũng có các con bài khác để chơi. Trung Quốc gần như vô vọng trong việc
tăng nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên và ExxonMobil đã phát triển một dự án lớn
ngay trên biên giới Đông Bắc của TQ trên đảo Sakhalin của Nga. Gazprom, đối tác Nga của nó, muốn bán khí đốt
trong nước nhưng ExxonMobil muốn xuất khẩu. Bắc Kinh khó thể nào xa lánh Exxon
quá nhiều. Quan trọng không kém, và hoàn toàn trái ngược với các công ti của
Anh và Nhật Bản, ExxonMobil có thể dựa vào chính phủ Hoa Kì để tạo sức ép cho
vụ việc của mình với nhà chức trách Trung Quốc.
Tháng Giêng năm 2008, người đứng đầu mới về thăm dò đến Việt
Nam: Russ Berkoben. Ông làm việc với ExxonMobil 32 năm, trong đó có thời gian
làm người đứng đầu thăm dò ở Trung Quốc. Ngay sau đó công ti đã kí một bản ghi
nhớ với PetroVietnam để thăm dò các Lô 156 đến 159. Hai lô xa nhất ngoài khơi
mà Việt Nam chưa từng cho thuê nhượng. Góc Đông Nam của Lô 159 cách bờ biển
Việt Nam hơn 500 km – nằm ngay trong vùng biển tranh chấp. ExxonMobil cũng đang
đàm phán nghiêm túc về việc thuê nhượng các Lô 117, 118 và 119 chỉ ngay ngoài
khơi bờ biển miền Trung Việt Nam. Ngày 20 tháng 7 năm 2008, Greg Torode của báo
South China Morning Post ở Hong Kong
đưa tin rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc tại Washington đã cảnh cáo
ExxonMobil rằng triển vọng làm ăn của họ tại đại lục Trung Quốc có nguy cơ bị
mất.[30]
Người cung cấp tin cho Torode là một quan chức cấp cao của Chính Phủ Obama, vốn
đã được một giám đốc điều hành của ExxonMobil báo cáo tóm tắt.
Vào cuối tháng 8 có vẻ như người Trung Quốc đã coi sự việc
nghiêm trọng. Liên doanh theo kế hoạch của ExxonMobil về xây dựng một cơ sở khí
tự nhiên hóa lỏng $1 tỉ tại Hong Kong đã bất ngờ bị hủy bỏ. Giám đốc điều hành
công ti nói với các nhà ngoại giao Mĩ họ không nghĩ rằng lí do là từ tranh chấp
Việt Nam - thỏa thuận này đã bị các nhà hoạt động môi trường địa phương phản
đối mạnh - nhưng có vẻ rằng người Trung Quốc đã lợi dụng để đe dọa. Sau đó, trớ
trêu là ExxonMobil lại bị Việt Nam trừng phạt bởi vì họ đang bị Trung Quốc
trừng phạt. ExxonMobil đã đàm phán với PetroVietnam trong hơn một năm về 4 lô
(các Lô 129-132, giữa Lô 156 và bờ biển) nhưng tháng 10 năm 2008 PetroVietnam
lại trao chúng cho Gazprom của Nga. Berkoben nói với Đại sứ Michalak rằng
PetroVietnam sợ rằng ExxonMobil sẽ chịu thua dưới áp lực của Bắc Kinh.[31]
Tháng 7 năm 2008, các nhà ngoại giao Nga đã nói với đối tác Mĩ rằng Trung Quốc
chẳng gây sức ép nào lên các công ti Nga - và có lẽ các nhà chức trách Việt Nam
cũng biết được điều đó.[32]
ExxonMobil không phải là công ti duy nhất coi thường sự
cưỡng ép của Trung Quốc. Công ti năng lượng ONGC Videsh của Ấn Độ (một đối tác
với BP tại lô 6.1 và cũng là người thuê các lô 127 và 128), KNOC của Hàn Quốc
và một số công ti nhỏ hơn không có nhiều lợi ích ở Trung Quốc - như Premiers
của Anh và Talisman của Canada - cũng phớt lờ TQ. Bắc Kinh đã thử những cách
khác để gây sức ép. Tháng 10 năm 2007, Mike Bruce, Giám Đốc Tài Chính của Pearl
Energy ở Singapore, nhận được một cú gọi từ toà đại sứ Trung Quốc. Nhà ngoại
giao nói với Bruce rằng công ti của ông đã tiến hành thăm dò trái phép trong
vùng biển của Trung Quốc và mời ông đến đại sứ quán để thảo luận. Bruce từ chối
và thay vào đó mời phía Trung Quốc đến chỗ của ông. Một vài ngày sau, một đoàn
đại biểu đến đúng hẹn và báo cho nhà quản trị Pearl Energy rằng họ đã biết công
ti đã có một tàu khảo sát đang ở hiện trường (tại Lô 6.94, gần như bao quanh Lô
6.1 của BP). Theo Bruce, họ doạ sẽ gây sức ép lên Chính Phủ Singapore vì Pearl
được niêm yết trên thị trường chứng khoáng Singapore. Nhưng khi Bruce báo với
họ rằng Pearl không còn trên danh sách ở Singapore sau khi được Aabar Energy
của Abu Dhabi mua lại một năm trước đây, mặt họ thụng xuống. ‘Ô, thế thì khác,’
người phụ nữ dẫn đầu nhóm nói và Pearl chẳng bao giờ nghe thấy họ lần nữa.
Đến đầu năm 2009, công ti duy nhất có quyền lợi ở Trung Quốc
vẫn còn khai thác ngoài khơi Việt Nam là ExxonMobil. Ngày 30 tháng 6, họ đã kí
một hợp đồng phân chia sản phẩm với PetroVietnam cho hai nhóm lô (các Lô
156-159 ở phía Đông Nam hoang sơ và các Lô 117, 118 và 119 ngoài khơi Đà Nẵng),
khiến họ trở thành chủ sở hữu diện tích ngoài khơi lớn nhất ở Việt Nam. Một
tuần trước đó Russ Berkoben đã đến Đại sứ quán Mĩ tại Hà Nội giải thích rằng
buổi lễ sẽ được tổ chức im ắng để tránh làm Trung Quốc tức giận. Ông nhận là
không biết chắc về phản ứng có thể có của họ nhưng nói ExxonMobil đã ‘sẵn sàng
nếu Trung Quốc phản ứng.’ Phần thưởng của Berkoben tới chỉ hơn một năm rưỡi sau
đó, vào tháng 10 năm 2011, khi công ti tìm được trữ lượng khí đốt tiềm năng rất
lớn tại Lô 118. Công việc thăm dò vẫn tiếp tục trong các lô khác.
Với công ti ExxonMobil ngoại lệ, mọi công ti dầu bị buộc
phải lựa chọn hoặc hoạt động tại Trung Quốc, hoặc trong vùng biển do một trong
các nước khác tuyên bố chủ quyền. ConocoPhillips đã bỏ hai Lô 5.2 và 5.3 vào
tháng 12 năm 2008 nhưng vẫn giữ cổ phần trong hai lô khác ngay cạnh bờ biển
Việt Nam, cách xa mọi rắc rối với Trung Quốc. Tháng 2 năm 2012, họ rời khỏi đất
nước này hoàn toàn để chú tâm vào các liên doanh nhiều lợi nhuận hơn. Chevron
giữ lại 20 % cổ phần của mình tại Lô 122 nhưng đình chỉ tất cả các hoạt động ở
đó cho đến khi bán xong hết vào đầu năm 2013. Điều đó có vẻ làm Bắc Kinh hài
lòng vì vào năm 2010, Chevron đã được trao cổ phần ở ba giếng ở phần phía Bắc
Biển Đông, ngoài khơi đảo Hải Nam.[33] Vào
lúc viết sách, giữa năm 2014, được biết Chevron đang cố gắng để giảm đi sự quan
tâm còn lại của nó ở VN - hai lô ngoài khơi bờ biển phía Tây Nam, gần biên giới
biển với Indonesia và Malaysia.
BP vẫn làm ăn ở Việt Nam, điều hành công việc ban đầu chuyển
khí-ra-điện từ Lô 6.1. Nhưng sau đó, vào tháng 7 năm 2010, vận đỏ ở Vịnh Mexico
của Tony Hayward biến thành thảm họa. Công ti này bất thình lình cần $ 30 tỉ để
trả tiền bồi thường sau vụ nổ giàn khoan Deepwater Horizon và dầu tràn. Ngày 18
tháng 10 năm 2010, BP bán nguồn lợi của mình ở Việt Nam và Venezuela cho
TNK-BP, liên doanh Nga của họ, với giá tổng cộng $ 1,8 tỉ. Có lẽ họ cảm thấy
người Nga có thể chịu được nhiệt. BP đã có một sứ mạng khác cho bàn tay bình ổn
của Luke Keller. Ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ Tịch Điều Hành Tổ chức Phục Hồi
Bờ Vịnh của BP- giúp làm sạch đống ngổn ngang dầu tràn. Một vài tuần trước vụ
bán, ngày 21 tháng 9 năm 2010, Tony Hayward đã gặp Phó Oánh một lần nữa. Sau
những thành công ở London, bà đã được bổ nhiệm làm Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung
Quốc. Hayward mang theo người kế nhiệm Bob Dudley. Đó là một trong những nhiệm
vụ chính thức cuối cùng của Hayward cho BP. Chín ngày sau đó, ông không còn
Giám đốc điều hành nữa.
Số phận Fu Chengyu không được chức cao cũng không bị thất
sủng. Mặc dù đã gây sức ép nhiều mặt, CNOOC một lần nữa đã thất bại trong việc
nắm quyền truy cập vào các nguồn tài nguyên dầu tiềm năng quanh những chốn xa
xôi ở Biển Đông. Không có phần thưởng chính trị nào cho người lãnh đạo đầy tham
vọng của công ti. Giải khuyến khích của ông là vào tháng 4 năm 2011, được điều
sang Sinopec, công ti lọc dầu lớn nhất châu Á và là một đối thủ lờ đờ của
CNOOC. Tài kinh doanh của ông Fu là rõ ràng: lợi nhuận CNOOC đã tăng gấp 5 lần
trong thời gian ông điều hành, Đảng Cộng sản Trung Quốc cảm thấy ông sẽ đáng
giá hơn trong vai nhà chỉnh đốn công nghiệp chứ không phải trong vai người gở
rối địa chính trị.
***********
Đến cuối năm 2010 chiến dịch của Bắc Kinh đã buộc BP và
ConocoPhillips phải ngừng thăm dò bên trong ‘đường chữ U’ và JMSU đã tạo một
tiền lệ về lựa chọn mà Trung Quốc ưa thích hơn. Tuy nhiên, chính phủ mới ở
Philippines và các chính phủ cũ tại Việt Nam, Brunei và Malaysia đã không lung
lay về chủ quyền, và sự cám dỗ của lợi nhuận tiềm năng vẫn đủ mạnh để thu hút
các công ti khác, ít lo lắng hơn bởi áp lực của Trung Quốc, thử đưa tay vào
vùng biển tranh chấp. Bắc Kinh đã dùng cạn hết đòn bẩy thương mại, nên bây giờ
việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ sẽ đòi hỏi những kĩ thuật ít tinh tế hơn.
Ngày Thứ Tư 2 tháng 3 năm 2011, tàu khảo sát địa chấn MV Veritas Voyager (do công ti địa vật
lí Pháp CGG Veritas làm chủ) đã bắn súng áp suất mạnh trên khu vực Bãi Cỏ Rong
(Reed Bank), khu biển cạn ngoài khơi cách Palawan khoảng 160 km. Bốn sợi cáp
thuỷ âm dài 2.700 mét kéo phía sau, thu nhặt sóng âm phản xạ lại từ các lớp đá
hàng ngàn mét dưới đáy biển. Ngồi trong trung tâm chỉ huy hoạt động chiến đấu ở
Puerto Princesa, thủ phủ tỉnh Palawan, Trung tướng Juancho Sabban, Chỉ Huy
Trưởng Bộ Chỉ Huy Miền Tây Lực Lượng Vũ Trang Philippines, đang chờ một điều gì
đó xảy ra. Tàu Voyager đã khảo sát
được gần hai tháng và các thông báo cảnh báo về các hoạt động của nó được đăng
trên website tuần duyên. Đoàn khảo sát trên tàu đã nhìn thấy một tàu Trung Quốc
vào ngày 28 tháng 2 và ngày hôm sau đã nhận được sự hộ tống không mong muốn.
Một tàu Hải Giám Trung Quốc (CMS) đã đến cách Voyager khoảng 100 mét và ra lệnh cho nó rời đi.
Tàu Voyager đang
hợp đồng với công ti Forum Energy đăng kí ở Anh (dù do Philippines kiểm soát).
Năm 2005, ngay khi cuộc khảo sát của JMSU nói ở trên sắp bắt đầu, Forum tiếp
nhận một lô thăm dò từ công ti Sterling Energy của Anh - ngay ở giữa khu vực
của JMSU. Eduardo Manalac đã đảm bảo với đối tác Trung Quốc rằng việc thuê
nhượng thăm dò của Forum sẽ được phép kéo dài thêm một ít nữa nhưng những người
khác trong chính phủ Philippines bị lung lay do vận động của Forum. Ngày 10
tháng 2 năm 2010, hợp đồng thuê đã được nâng thành một hợp đồng dịch vụ đầy đủ,
SC72. Manalac rất tức giận còn Forum thì hớn hở. Các cuộc khảo sát trước đó đã
gợi ra rằng khu mỏ tiềm năng Sampaguita bên trong lô này chứa 3,4 nghìn tỉ feet
khối khí đốt. Bây giờ chỉ cần định ra chính xác chỗ để khoan.
Vì Voyager tiếp
tục khảo sát, mỗi ngày Chủ Tịch Ray Apostol của Forum đều tiếp xúc với Tướng
Sabban. Ngày 2 tháng 3, ông gọi Sabban trong hốt hoảng. Hai tàu Hải Giám (71 và
75) đã chạy ngang mũi tàu Voyager và
ra lệnh cho nó rời khỏi khu vực. ‘Chúng tôi đang xếp mọi thứ lại’, ông nói với
viên tướng. Sabban bảo ông ta ra lệnh cho đoàn khảo sát ở lại và hai máy bay
định vị không vũ trang OV10 bay lên. Khi họ đến khu vực này, hai giờ sau đó,
các tàu Trung Quốc đã biến mất. Sau đó, ông triển khai tàu quét mìn BRP Rizal, đóng vào năm 1944, và BRP Rajah Humabon, đóng vào năm 1943. Hai
tàu này đã cũ nhưng đủ tác dụng làm các tàu Hải Giám tránh xa Voyager thêm bảy ngày nữa, cho phép nó
để hoàn thành khảo sát trước thời hạn.
Mười hai tuần sau đó, Hải Giám đã thử dùng một chiến thuật
hung hăng hơn ở phía bên kia biển. Tàu khảo sát Bình Minh, thuộc công ti liên doanh giữa PetroVietnam và CGG
Veritas, đang làm việc tại Lô 148, cách cảng Nha Trang của Việt Nam 120 km về
phía Đông. Sáng sớm ngày 26 tháng 5 năm 2011 ba tàu Hải Giám 12, 17 và 84, xuất
hiện ở chân trời và sau đó tới gần. Hai tàu đánh cá đang canh chừng tàu Bình
Minh nhưng không thể bảo vệ toàn bộ sợi cáp 17 000 mét kéo sau nó. Tàu Hải
Giám 84 chạy băng ngang qua sợi cáp, cố ý cắt đứt nó. May mắn cho Việt Nam, sợi
cáp thuỷ âm nhiều triệu đô la có trang bị phao cấp cứu đã đưa nó lên trên mặt
nước để phục hồi. Hư hại đã được sửa chữa và tuần sau đó Bình Minh 02 trở ra biển đi kèm với 8 tàu hộ tống.
Hai tuần sau đó, một tàu địa chấn khác, lần này hợp đồng
chung của PetroVietnam và công ti Talisman của Canada, đã bị chặn phá tại Lô
136-03, ở phía cực Đông Nam vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) do Việt Nam tuyên bố
của mình. Lô này ở ngay phía Nam 3 lô mà ConocoPhillips đã bỏ hồi năm 2008 và
bao gồm một phần lô WAB-21 của Randall Thompson. CGG Veritas cũng là chủ tàu
này, chiếc Veritas Viking 2. Tuy
nhiên, lần này, kẻ tấn công không phải là Hải Giám mà là Ngư Chính (FLEC) Trung
Quốc. Và lần này, Trung Quốc đưa ra một nguyên cớ phức tạp để biện minh cho
việc cắt cáp. Một đội nhỏ tàu cá Trung Quốc xuất hiện trong khu vực khảo sát và
cứ ở lại đó bất chấp cảnh báo từ một tàu Cảnh Sát Biển Việt Nam yêu cầu rời đi.
Ngày hôm sau, 9 tháng 6, lúc các tàu Ngư Chính 303 và 311 chạy phía trước tàu Viking thì tàu đánh cá số 62226 chạy
băng ngang các sợi cáp phía sau. Lưới tàu đánh cá bị vướng và tàu bị kéo ngược
trên biển. Sau đó, các tàu Ngư Chính vội vả đến giúp tàu đánh cá cắt các cáp
truyền theo điều mà nhà chức trách Trung Quốc tuyên bố sau này là một hành động
tự bảo đảm an toàn.
Ba sự cố này trong nửa đầu năm 2011 đã kích động làn sóng
chỉ trích giận dữ khắp Đông Nam Á và bên ngoài về việc ‘bắt nạt’ của Trung
Quốc. Bốn sự cố khác tiếp sau: Bình Minh
02 bị cắt cáp lần thứ hai vào ngày 30 tháng 11 năm 2012 tại Lô 113 (gần
Quần đảo Hoàng Sa, do Gazprom thuê) và hai sự cố khác trong EEZ của Malaysia
ngoài khơi đảo Borneo ngày 21 tháng 8 năm 2012 và một sự cố khác nữa ngày 19
tháng 1 năm 2013 trong đó tàu của chính phủ Trung Quốc đã ngăn chặn công việc
khảo sát dầu.[34]
Một số người chộp lấy những hành động này của các cơ quan phụ trách biển của
Trung Quốc như là bằng chứng về ý định thù địch của Bắc Kinh. Họ cũng cung cấp
nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhiều bộ phận của nhà nước Trung Quốc - CNOOC,
Hải giám và Ngư Chính - coi ‘đường chữ U’ là một yêu sách thực đối với 80 %
Biển Đông. Tất cả các sự cố đều xảy ra ở cách xa bất kì thể địa lí nào mà Trung
Quốc có yêu sách và do đó dường như không phù hợp với bất kì đòi hỏi nào dựa
trên UNCLOS. Khi chỉ trích tăng lên, lãnh đạo Bắc Kinh dường như đã nhận ra
rằng Hải Giám và Ngư Chính đã đi quá xa. Tháng 3 năm 2013, chính phủ công bố kế
hoạch đưa tất cả các cơ quan phụ trách biển khác nhau (Cục Hải dương Quốc Gia,
bao gồm Hải giám Trung Quốc, thuộc Bộ Đất Đai và Tài Nguyên; Hải Cảnh Trung
Quốc, thuộc Bộ Công An; Cục An Toàn Hàng Hải, thuộc Bộ Giao Thông; Ngư Chính
thuộc Bộ Nông nghiệp; và Tổng cục Hải quan) dưới sự quản lí duy nhất. Kể từ đó,
ít nhất cho đến thời điểm viết sách, chưa có thêm những sự cố như vậy.
Chiến lược này thành công đến mức nào? Loại Việt Nam ra - nó
đã thất bại: cắt cáp không ngăn được việc tiếp tục thăm dò và Talisman dự kiến
sẽ khoan ở Lô 136-03 vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, ngoài khơi Philippines chiến
lược đó có hiệu quả hơn nhiều. Forum không thể bắt đầu khoan trên khu vực Bãi
Cỏ Mây và trong điều kiện Philippines không có khả năng dùng sức mạnh bảo vệ
yêu sách của mình với những tàu chiến cũ kĩ, Trung Quốc bây giờ, trên thực tế,
đã thiết lập được việc ngăn cấm đối với sự phát triển ở đó. Ban quản trị Forum
đã tham gia vào nhiều cuộc thảo luận dài với CNOOC, nhưng vào thời điểm viết
sách, không có dấu hiệu của bước đột phá. Các nhà chính trị Philippines có một
sự lựa chọn: họ sẽ xuống nước về chủ quyền để cải thiện an ninh năng lượng
không? Bảo vệ yêu sách lãnh thổ với hi vọng giành được phần trăm tài nguyên
trong tương lai nhưng trong khi chờ đợi không có được gì cả là tốt hơn; hoặc
bây giờ thỏa hiệp với hi vọng được nhanh chóng chia một phần của một cái gì đó
là khôn ngoan hơn?
**********
CNOOC và các cơ quan khác của Bắc Kinh đã thực hiện những nổ
lực to lớn để cố giành được quyền tiếp cận với các nguồn tài nguyên hydrocarbon
xung quanh Biển Đông. Nhưng đổi lại tất cả các nỗ lực đó họ có khả năng nhận
lại cái gì? Một trong những nơi tốt nhất để đánh giá thật khách quan về tiềm
năng dầu khí của Biển Đông là quán rượu Penny Black ở khu nhìn ra biển cũ ở
Singapore. Đó là một nơi bia rượu ồn ào với các bàn luận thể thao là chính.
Nhưng cái ồn ào ngang ngạnh lại xen lẫn với một kiến thức sâu sắc về các cấu
trúc địa chất. Penny Black là nợi tụ họp của một nhóm nhỏ các chuyên gia tư vấn
địa chất và địa vật lí, những người đã dành nhiều thập kỉ khảo sát các vùng
Biển Đông Nam Á. Hầu hết họ là người Anh trong độ tuổi bốn và năm mươi, thành
viên của the Southeast Asia Petroleum Exploration Society (SEAPEX: Hội Thăm Dò
Dầu Đông Nam Á), và họ có thể đã và đang làm việc cho tất cả những ai đã từng
cố tìm hydrocarbon trong khu vực này. Họ đã nhìn thấy hàng chục công ti nhảy
vào khu vực này và hầu hết đều khập khiễng bước ra. Họ đã giúp một số làm ra
tiền và một số khác nhận ra chẳng còn gì để làm ra tiền. Sinh kế của họ phụ
thuộc vào việc giữ những bí mật thương mại và với nhiều tỉ đô la đặt cược họ
không thể quá cụ thể nhưng nhiều gợi ý có thể được đưa ra cùng những cái lắc
đầu.
Trí tuệ tập thể là đáng ngạc nhiên. Các chuyên gia này tin
rằng các khu vực tranh chấp ở Biển Đông thực sự chứa tương đối ít dầu và khí
đốt. Phần lớn các nguồn tài nguyên biển đều nằm bên ngoài ‘đường chữ U’. Có một
số mỏ tốt và mỏ tiềm năng đáng chú ý bên trong khu vực Trung Quốc yêu sách,
nhưng các nhà địa học của Penny Black tin rằng khả năng này là không đáng tạo
ra ồn ào khu vực này. Một sự hiểu biết đúng đắn sẽ đòi hỏi trình độ cử nhân địa
chất nhưng lời giải thích lúc trà dư tửu hậu là các khảo sát địa chấn đang tìm
kiếm ba điều: đá [mẹ] sinh dầu (souce rock for hydrocarbon), bể chứa
(reservoir), nơi mà hydrocarbon có thể tích chứa ở đó và tầng chắn (seal) để
đảm bảo rằng chúng không biến đi. Chỉ có một vài nơi trong quần đảo Trường Sa
là có đủ ba điều này. Trong kỉ Miocene, 30 triệu năm trước, nhiều rạn san hô
lớn đã hình thành trên biển, và khi lớp vỏ trái đất di chuyển và mực nước biển
thay đổi, các rạn san hô này cao dần lên, hình thành các bãi đá carbonate dầy.
Những đá carbonate xốp và dầu khí vốn có thể đã được hình thành trong các kỉ
trước có thể đã bị bốc hơi hoặc trượt đi. Với lớp carbonate dày lên đến
3 000 mét, rất khó để có được các khảo sát chính xác về những gì nằm bên
dưới. Nếu không có một khảo sát chính xác, ai sẽ mạo hiểm hàng triệu đô la cần
cho việc khoan một giếng dầu?
Ở trung tâm khu vực tranh chấp, có tin thậm chí còn tồi tệ
hơn. Chỗ cuối thềm lục địa, đáy biển tụt mạnh từ 200 mét xuống 2 000 mét
và xuống sâu tới 6 000 mét ở một số nơi. Sau nhiều năm làm việc trên hàng
chục dự án, kể cả cho khảo sát bị gián đoạn năm 2011 của Forum, Jon Savage biết
Biển Đông cũng rõ gần như Penny Black. Lời phán của ông về vùng biển sâu là gì?
Đó chủ yếu là lớp vỏ đại dương, không có đá mẹ cho dầu và khí đốt, không có bể
chứa để dầu khí có thể tích chứa trong đó và không có tầng chắn để ngăn rò rỉ.
Tóm lại, ‘không có tiềm năng dầu khí’, ông nói trong một hôi nghị tại thành phố
Hồ Chí Minh vào tháng 11 năm 2013.[35] Ý
kiến đó được hầu hết tất cả mọi người trong ngành công nghiệp này chia sẻ. Vậy
tại sao các nguồn của Trung Quốc tiếp tục làm ầm ĩ điều ngược lại?
Câu trả lời dường như nằm ở sự kết hợp của tín điều và cơ
hội. Sau màn phô trương chào đón các cuộc khảo sát ban đầu của Trung Quốc trong
thập niên 1980 và các thao tác của các cơ quan nhà nước chủ chốt trong việc đảm
bảo nguồn cung năng lượng mới cho đất nước, quá nhiều người có lợi ích trong
việc đề cao Biển Đông như là món thuốc chữa vạn năng cho năng lượng. Chẳng hạn,
tháng 9 năm 1994, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên, Song Ruixang (宋瑞祥: Tống Thuỵ Tường),
tuyên bố rằng Quần đảo Trường Sa ‘hứa hẹn một tiềm năng dầu là 30 tỉ tấn’
(khoảng 220 tỉ thùng).[36]
Một khi mả các nguồn tin chính thức đã công bố thì những con số đều phải đúng -
và là giải pháp cho khủng hoảng quốc gia - rất khó để cho bất kì quan chức nào
khác tuyên bố chúng vô nghĩa. CNOOC được giao nhiệm vụ phát triển các nguồn dự
trữ rộng lớn này và trở thành một tiếng nói mạnh mẽ trong hệ thống khuếch đại
tiềm năng của Biển Đông. Trữ lượng có vẻ càng lớn thì lí do càng mạnh để giành
thêm kinh phí từ nhà nước.
Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa ‘tài nguyên’
(resources)- cái nằm dưới lòng đất - và trữ lượng (reserves) – phần có thể rút
lấy được. Thông thường, có thể đưa khoảng 1/3 nguồn tài nguyên lên mặt đất về
mặt kĩ thuật trong khi chỉ có thể đưa khoảng 1/10 lên mặt đất về mặt thương
mại. Ước tính minh bạch và có thẩm quyền nhất mới đây về tiềm năng dầu khí của
Biển Đông là từ US Geological Survey (USGS -: Cơ quan Khảo sát Địa chất của Mĩ
) hồi tháng 6 năm 2010 và US Energy Information Administration (Cơ Quan Thông
Tin Năng Lượng Mĩ) vào tháng 2 năm 2013. Cơ Quan Thông Tin Năng Lượng ước tính
Biển Đông chứa chỉ 11 tỉ thùng dầu và 190 nghìn tỉ feet khối khí đốt như là trữ
lượng có thể khai thác thương mại được. Tức là nó có gần như cùng số lượng dầu
với Mexico và cùng số lượng khí như ở Châu Âu (trừ Nga).[37] Dựa
trên những gì được biết về địa chất của khu vực, USGS ước tính nguồn tài nguyên
chưa được phát hiện vào khoảng 11 tỉ thùng dầu (với ước tính thấp và cao từ 5
đến 22 tỉ thùng) và 4 tỉ thùng khí tự nhiên lỏng – tổng số kết hợp là 15 tỉ
thùng. USGS ước tính rằng nguồn khí chưa được khám phá có thể là quan trọng hơn
- một con số từ 70 tới 290 nghìn tỉ feet khối. Như vậy, nguồn tài nguyên chưa
được phát hiện có thể gần giống y như con số hiện tại của trữ lượng.[38]
Tuy nhiên, những con số này là cho toàn bộ Biển Đông, kể cả
các khu vực nằm chắc trong EEZ của các nước khác. Chỉ có một tỉ lệ nhỏ của
những con số nói trên là nằm trong lãnh thổ tranh chấp và chỉ có 1/10 của tỉ lệ
đó là thu hồi được về mặt thương mại. Những mỏ tiềm năng này có thể tạo ra một
tác động đáng kể trong nền kinh tế của các nước nhỏ, các nền kinh tế nghèo như
Philippines hay Việt Nam. Nhưng trong tình huống Trung Quốc tiêu thụ khoảng 3
tỉ thùng dầu và khoảng 5 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên mỗi năm, trữ lượng và
tài nguyên của Biển Đông hầu như không đáng
với những hỗn loạn và căng thẳng (Sturm
und Drang) phí ra cho chúng. Ngay cả khi mỗi giọt dầu và mỗi bóng khí đều
được chuyển tới Trung Quốc thì chúng cũng chỉ cung cấp năng lượng cho nền kinh
tế của đất nước này may lắm là trong một vài năm. Địa chất không thuận lợi lại
ở vị trí dễ bị bão còn các cơ sở hạ tầng phục vụ thì kém phát triển. Tony
Regan, cựu giám đốc điều hành Shell, hiện là chuyên gia tư vấn năng lượng đóng
ở Singapore, nói thẳng thắng về các mỏ tiềm năng thương mại ở Biển Đông. ‘Khu
vực này không bao giờ có ý nghĩa đối với các công ti dầu mỏ lớn và hiện nay họ
cũng không tin nó là điều gì to tát kế tiếp. Có nhiều khu vực xa hấp dẫn hơn xa
bên ngoài - Tây Úc và Đông Phi chẳng hạn và tất nhiên phải kể khí đốt từ các
vỉa than và đá mềm theo quy trình mới.’[39] Nói
cách khác, có những cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn để Trung Quốc giảm bớt nỗi
lo của mình về an ninh năng lượng hơn là khuấy động Biển Đông.
Tất cả các nước trong khu vực đều đang lo ngại về an ninh
năng lượng của mình. Nhu cầu đang tăng trong khi sản xuất lại giảm. Phát triển
ở ngoài biển đang bị trì hoãn do các tranh chấp lãnh thổ và các mỏ mới Đông Nam
Á đang được phát hiện chưa đủ để thay thế cho các mỏ đang suy giảm. Kết quả là
việc nhập khẩu từ bên ngoài khu vực phình ra. Biển Đông hiện nay là quan trọng
hơn nhiều cho hydrocarbon chuyển ngang qua nó so với cho hydrocarbon nằm bên
dưới nó. Trong năm 2013, Cơ quan Thông tin Năng lượng tính toán rằng 1/3 lượng
dầu thế giới và ½ khí tự nhiên hóa lỏng thế giới đã đi qua eo biển Malacca tới
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tính trung bình, mỗi ngày có hai
tàu chở dầu thô loại cực lớn, mỗi chiếc chở 2 triệu thùng dầu, và hai tàu chở
khí tự nhiên hóa lỏng lớn, mỗi chiếc chở 200 000 mét khối phải đến Nhật
Bản chỉ để cho việc thắp sáng.[40]
Tất cả các nước Đông Á và Đông Nam Á đều dễ bị gián đoạn nguồn cung. Trong năm
2008 dầu chiếm 22 % tổng mức tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc, một nửa số dầu
đó được nhập khẩu và 85 % phần trăm lượng dầu nhập khẩu đi qua eo biển Malacca.
Nói cách khác, gần 10% của nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc đi ngang
qua Biển Đông. Tất cả những con số này đã tăng lên kể từ năm 2008 và có vẻ như
còn tăng thêm nữa.[41]
Trong phần tư thế kỉ kể từ lúc Lí Bằng đưa ra nhận xét tại
Singapore, cách tiếp cận của lãnh đạo Trung Quốc cho vấn đề năng lượng đã giả
định rằng nước này phải kiểm soát thực tế các nguồn tài nguyên để dựa vào
chúng. Điều này đã và đang là khuôn mẫu từ việc nhượng quyền cho Crestone cho
đến JMSU đến các trận đánh bên trong ‘đường chữ U’. Có nhiều lựa chọn khác.
Việc giảm căng thẳng đối với các yêu sách biển có thể cho các chính phủ sự tự
tin lớn hơn rằng tự do hàng hải sẽ được bảo vệ. Một cách tiếp cận hợp tác hơn
trong khu vực đối với việc cung cấp năng lượng có thể cho phép tất cả các nước
phát triển các nguồn tài nguyên trong EEZ của chính mình và các công ti sẽ bán
cho bất cứ nơi nào có nhu cầu lớn nhất. Khi đó, các chính phủ sẽ sẵn lòng tin
cậy lẫn nhau trong việc đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng của mình được đến an
toàn thay vì cố giữ độc quyền chúng bằng vũ lực. Nhưng niềm đam mê về Biển Đông
đã tăng lên ở các nước xung quanh bờ biển và sự thỏa hiệp có vẻ ngày càng ít có
khả năng xảy ra hơn.
* Bản đồ do người dịch vẽ minh hoạ thêm dùng Google Earth và bản đồ các lô dầu VN của IHS 2006
-------------------------------
Xem thêm: (bản song ngữ chương này)
Lời mở đầu
Chương 1: Từ tiền sử đến 15000
Chương 2: Bản đồ và đường vẽ: từ 1500 đến 1948
Chương 3: Nguy hiểm và ranh ma: 1946-1995
Chương 1: Từ tiền sử đến 15000
Chương 2: Bản đồ và đường vẽ: từ 1500 đến 1948
Chương 3: Nguy hiểm và ranh ma: 1946-1995
Chương 4: Biển Đông và Luật Quốc tế
Chương 5: Dầu khí ở Biển Đông
Chương 6: Chủ nghĩa dân tộc
Chương 7: Ngoại giao
Chương 8: Các vấn đề quân sự
[1] Nayan Chanda and Tai Ming Cheung, Reef Knots: China Seeks
ASEAN Support for Spratly Plan, Far
Eastern Economic Review, August 1990, 11.
[2] ‘Oil
Discovered on Nansha Islands,’ Xinhua,
24 July 1987.
[3] China Daily,
24 December 1989.
[4] John W.
Garver, China’s Push through the South China Sea: the Interaction of
Bureaucratic and National Interests, The
China Quarterly, no. 132 (1992), 9991028.
[5] Knut
Snildal, Petroleum in the South China Sea
– a Chinese National Interest?, Thesis, Department of Political Science,
University of Oslo, 2000.
[6] Personal
interview by telephone. 2 December 2013.
[7] Benton,
Successful in 2 International Ventures, Plunges into Disputed China Play,
Oilgram News, 13 December 1996. See also John R. Engen, Where Hope and Risk Go
Hand in Hand, World Trade Magazine,
February 1996.
[8] World Trade Magazine,
February 1996.
[9] British
Gas, Arco Begin Drilling in Area Claimed by Vietnam, The Oil Daily, 7 June 1994
[10] Crestone
Begins Project in South China Sea Despite Dispute over Sovereignty of Area, The Oil Daily, 20 April 1994.
[11] Thomas
Collins, Blue Dragon: Reckoning in the
South China Sea (Vienna, Virginia, 2002), 116.
[12] Heat
Builds and Vietnam and China Begin to Drill, Offshore, August 1994.
[13] Chan
Wai-fong, PLA Flexes its Muscles for Vietnams Benefit, South China Morning Post, August 1994.
[14] Benton Oil
And Gas Company Completes Acquisition of Crestone Energy Corporation, PR
Newswire, 5 December 1996.
[15] ‘North
Rail Project Launched, China Start Building Rail Project from Manila to
Ilocos,’ Manila Bulletin, 6 April
2004.
[17] ‘RP, China
to Push Formation of Asian Anti-Terror Alliance,’ Philippines Star, 1 September 2003.
[18] Oil Giants
to tap Ocean Resources, Xinhua, 13
November 2003.
[19] Maria
Eloise Calderon, Government Mulls Oil Search at Spratlys with China, Business World, 24 August 2004.
[20] Aileen S.
Baviera, The Influence of Domestic Politics on Philippine Foreign Policy: The
Case of PhilippinesChina Relations since 2004, RSIS Working Papers, no. 241 (Singapore, June 2012). Available at http://www.rsis.edu/publications/WorkingPapersWP241.pdf.
[21] ‘China,
Philippines, Vietnam Get Seismic Data from South China Sea,’ Xinhua, 19 November 2005.
[22] Barry
Wain, Manilas Bungle in the South China Sea, Far Eastern Economic Review, JanuaryFebruary 2008.
[23] US State
Department Cable O7HANOI1119, ‘Conoco Phillips and BP Concerns About Projects
in the South China Sea,’ 15 June 2007. Có thể xem tại http://www.wikileaks.org/plusd/cables/07HANOI1110_a.html.
[24] US State
Department Cable 08TOKYO544, ‘Japan Plans No Action in South China Sea
Dispute,’ 29 February 2008. Có thể xem tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/08TOKYO544_
a.html.
[25] US State
Department Cable 07HANOI1599, ‘SinoVietnam Territorial Dispute Entangles
Multiple Multinational Energy Firms,’ 7 September 2007. Có thể xem tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/07HANOI1599_a.html.
[26] ‘Fu Ying
Visits Wytch Farm Oilfield of the [sic] British Petroleum,’ Chinese Embassy,
London, 25 September 2007. Có thể xem tại http://www.chinese-embassy.org/uk/eng/EmbassyNews/2007/t377632.htm.
[27] US Embassy
Cable 08 HANOI579, ‘BP Transfers Operatorship of South China Sea Blocks to
PetrovietnamExploration Work Resumes,’ 16 May 2008. Có thể xem tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/08HANOI579_a.html.
[28] ‘Petrovietnam
Surveying Oil Block Eyed by China’, Reuters, 22 July 2008.
[29] US State
Department Cable07GUANGZHOU317, ‘The Tiger Sprints Ahead: Exxonmobil First
Western Oil Major to Launch Fully Integrated Joint Venture in China,’ 9 March
2007. Có thể xem tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/07GUANGZHOU317_a.html.
[30] Greg
Torode, Oil Giant Is Warned over Vietnam Deal, South China Morning Post, 20
July 2008.
[31] US State
Department Cable 08HANOI1241, ‘Vietnam Negotiates Deal with Gazprom, Bypasses
ExxonMobil, 6 November 2008. Có thể xem tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/08HANOI1241_a.html.
[32] US State
Department Cable oSHANOI897, ‘Russian Concern about Chinese Pressure on
ExxonMobil’, 4 August 2008. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2008/08/08HANOI807.html.
[33] Chevron
Corporation, 2010 Supplement to the Annual Report, March 2011. Có thể xem tại http://www.chevron.com/documents/pdf/chevronzoioannualreportsupplement.pdf.
[34] Buku
Bertemu Ruas, The RMN Against China Maritime Surveillance Agency, Malaysia
Flying Herald blog, 16 April 2013. Có thể xem tại http://malaysiaflvingherald.wordpress.com/2013/04/16/buku-bertemu-ruas-the-rmn-
against-china-maritime-surveillance-agency/.
[35] Jon
Savage, Oil and Gas Potential of the Area, Seismic Activities to Date and the
Delays to Hydrocarbon Exploration Caused by Disputes. Một bản sao của bài
thuyết trình có thể xem tại http://cil.nus.edu.sg/wp/wp-content/uploads201106/Session-1-Jon-Savage-South-China-Sea-Conference-June-20111-pdf.pdf.
[36] ‘Minister
Reveals Spratly Islands’ Oil Potential’, Xinhua,
5 September 1994.
[37] US Energy
Information Administration, South China Sea Energy Brief, 7 February 2013. Có
thể xem tại http://www.eia.gov/countries/regions-topics.cfm?fibs=scs.
[38] US
Geological Survey, ‘Assessment of Undiscovered Oil and Gas Resources of
Southeast Asia’, Fact Sheet 20103015, June 2010. Có thể xem tại http://pubs.usgs.gov/fs/2010/3015/pdf/FS10-3015.pdf.
[39] Phỏng vấn
cá nhân. Singapore 4/6/2013.
[40] Japanese
energy imports, 2012 figures: liquefied natural gas: 108.87 m³/365 days/
average LNG carrier size of 200,000 m³; oil: 3.65 million barrels a day /
average VLCC of 2-million-barrel capacity. Xem http://www.reuters.com/article2013/04/04/lng-gas-japan-idUSL5NoCR3XZ20130404.
[41] Jian
Zhang, ‘Chinas Energy Security: Prospects, Challenges and Opportunities’, Working Papers by CEAP Visiting Fellows, Brookings Institution Center for East
Asia Policy Studies, no.54, July 2011.