Thursday, May 11, 2023

TÓM TẮT và LỜI TỰA_LêOa Đăng

 

TỪ MỞ RỘNG BIÊN CƯƠNG TRÊN BẢN ĐỒ 
ĐẾN XÂY DỰNG ĐẢO NHÂN TẠO: 
LỊCH SỬ 100 NĂM TRANH CHẤP 
BIỂN ĐÔNG

Lê Oa Đằng

從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史

黎蝸藤

CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM
ĐÀI BẮC-2017



Giới thiệu sơ lược tác giả 

Lê Oa Đằng: Tiến sĩ Triết học Đại học Virginia, Hoa Kỳ, hiện tham gia công tác nghiên cứu ở cơ quan học thuật của Hoa Kì. Những năm gần đây chuyên nghiên cứu lịch sử biển Hoa Đông và biển Đông, luật biển quốc tế và quan hệ quốc tế ở Đông Á. 

Tác phẩm có “Đảo Điếu Ngư là của ai - Lịch sử và pháp lí đảo Điếu Ngư”, “Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong- Biển Đông  trước thế kỉ 20”

TÓM TẮT

Các tranh chấp ở biển Đông (SCS) đã là một điểm nóng trong một thời gian dài. Bên cạnh các tranh chấp truyền thống về yêu sách lãnh thổ đối với các đảo, biên giới trên biển, tài nguyên dưới nước và đáy biển giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, biển Đông đã trở thành đấu trường tranh giành quyền lực biển giữa Mĩ và Trung Quốc trong những năm gần đây. Để hiểu các cuộc tranh giành biển Đông, cần phải hiểu lịch sử của biển Đông. Tuy nhiên, mặc dù có một số lượng lớn các bài báo và sách về biển Đông, nhưng khó có thể tìm thấy có một công trình nào xem xét và phân tích khách quan và thấu đáo các tư liệu lịch sử về biển Đông.


Cuốn sách của tôi, Biển không có tranh chấp, Lịch sử bị bóp méo của biển Đông (SCS) trước năm 1900 (2016), là nỗ lực đầu tiên để làm điều đó. Cuốn sách hiện tại này là phần tiếp theo, tập trung vào lịch sử hiện đại của biển Đông, tức là lịch sử sau năm 1900. Nó có bốn mục tiêu. Thứ nhất, thu thập, khai quật và kiểm tra các tư liệu lịch sử liên quan đến biển Đông. So với thời cổ đại, tư liệu lịch sử cho thời hiện đại phong phú hơn nhiều. Nhưng những câu chuyện kể về lịch sử hiện đại của biển Đông phần lớn đã bị bóp méo bởi việc lọc lựa và diễn giải sai trong tuyên truyền quốc gia. Thứ hai, khám phá nguồn gốc và sự phát triển của các tranh chấp về biển Đông, và giải thích các sự kiện liên quan trong bối cảnh lịch sử của chúng. Thứ ba, phân tích các vấn đề pháp lí liên quan trong khuôn khổ dựa trên luật pháp quốc tế. Thứ tư, thông qua việc phân tích lợi ích của các bên liên quan, cuốn sách nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn về thực trạng của biển Đông hiện nay. Cuốn sách chỉ ra rằng không có yêu sách của bên nào đối với biển Đông là không thể tranh cãi. Giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế có thể là giải pháp tốt nhất, mặc dù giải quyết hòa bình tranh chấp là không hứa hẹn.


Cuốn sách chia lịch sử hiện đại của biển Đông thành bốn thời kì. Giai đoạn đầu tiên (1900-1952) là "Kỉ nguyên Nhật Bản". Trong giai đoạn này, Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng ở biển Đông. Lợi ích thương mại đã thúc đẩy các doanh nhân Nhật Bản khám phá và chiếm đóng quần đảo với sự trợ giúp của chính phủ Nhật Bản với mục đích quân sự ở một mức độ nhất định. Các chuyến đi tới đảo của Nhật Bản là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tranh chấp lãnh thổ lần thứ nhất (quần đảo Pratas, 1907), lần thứ hai (quần đảo Hoàng Sa, 1931) và lần thứ ba (quần đảo Trường Sa, 1933) ở biển Đông. Sau thất bại trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản từ bỏ các đảo ở biển Đông trong các hiệp ước hòa bình. Tuy nhiên, các hiệp ước hòa bình này không giải quyết vấn đề chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông.


Giai đoạn thứ hai là “Kỉ nguyên Chiếm đảo” (1953-1989). Trong giai đoạn này, hai chính quyền Trung Quốc (Trung Hoa Dân Quốc hoặc Quốc dân đảng ở Đài Loan và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hoặc Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh) và các quốc gia mới độc lập (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia) tranh giành quyền kiểm soát các đảo. Việc phát hiện ra dầu ở biển Đông vào cuối những năm 1960 càng làm tăng thêm sự cạnh tranh. Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và tiến đến Trường Sa bằng hai trận hải chiến với Việt Nam.


Giai đoạn thứ ba là “Kỉ nguyên đối đầu cường độ thấp và phân định biển” (1990-2008). Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Trung Quốc đã áp dụng chính sách ngoại giao “Láng giềng tốt” và đề xuất “gác tranh chấp”. Trung Quốc đã thay đổi chiến lược của mình bằng cách sử dụng các tàu dân sự nhà nước thay vì tàu chiến hải quân trong các cuộc đối đầu, điều này đã làm giảm đáng kể cường độ của các cuộc xung đột. "Đường 9 đoạn" của Trung Quốc, lần đầu tiên xuất hiện trên các bản đồ chính thức do Trung Quốc xuất bản vào năm 1947 nhưng ý nghĩa của nó chưa hề được giải thích hoặc làm rõ, trở thành tâm điểm của các tranh chấp. Năm 2002, Trung Quốc và Các nước ASEAN đã kí “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”, mang lại một thời kì hòa bình ngắn ngủi cho hầu hết các nước liên quan.


Giai đoạn thứ tư là “Kỉ nguyên theo đuổi sức mạnh trên biển” (2009-2016), đặc trưng bởi sự can dự sâu của Mĩ. Trung Quốc nhằm tới việc kiểm soát khu vực bên trong “Đường 9 đoạn”, và bổ sung cho mục đích này bằng cách cưỡng ép các nước láng giềng, chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, xây  đảo nhân tạo trên 7 rạn đá chiếm được ở Trường Sa và quân sự hóa các đảo ở biển Đông. Đổi lại, Mĩ đưa ra và đẩy mạnh Chiến lược tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương và tiến hành các hoạt động tự do hàng hải của Mĩ ở biển Đông. Philippines đã kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Thường trực và giành được chiến thắng lịch sử. Tuy nhiên, chiến lược “lát cắt salami" (tằm ăn dâu) của Trung Quốc ở biển Đông dường như không thể cản lại được. Thành công bất ngờ của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kì năm 2016 cho thấy sự khởi đầu của một kỉ nguyên mới của biển Đông.



LỜI TỰA 


Trong những năm gần đây, tranh chấp về biển Đông (Nam Hải) đã trở thành tiêu điểm chú ý của quốc tế. Cùng với những tranh chấp truyền thống về lãnh thổ, về vùng biển, về tài nguyên, hiện nay tranh chấp biển Đông còn trở thành nơi đọ sức giữa Trung Quốc và Mĩ. Muốn hiểu tranh chấp biển Đông, trước hết phải đọc hiểu lịch sử của biển Đông để hiểu rõ ngọn nguồn của tranh chấp ở đây. Điều này xem như tiền đề cơ bản nhất, trên thực tế lại rất khó làm được. Vì hầu hết các tường thuật về lịch sử Biển Đông đều có liên quan rất nhiều đến lập trường của người tường thuật, vì vậy mà rất khó tìm được sách lịch sử tin cậy có liên quan đến biển Đông. Những sách lịch sử biển Đông mà người viết hiện tìm thấy được, dựa theo nguồn gốc có thể chia làm 3 loại: do Trung Quốc và Đài Loan xuất bản, do Việt Nam xuất bản và do phương Tây xuất bản. Hai loại đầu đều mang lập trường chủ nghĩa bản vị sâu đậm, khó nói là khách quan trung lập, loại cuối thì do hạn chế của tư liệu thu thập được nên thường không đủ độ sâu (đặc biệt đối với lịch sử biển Đông thời cổ và lịch sử biển Đông hiện đại trước Chiến tranh thế giới thứ hai). 

Với sự giúp đỡ của Công ti Ngũ Nam, tác giả đã xuất bản cuốn “Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong - Biển trước thế kỉ 20” vào năm 2016. Cuốn sách đó lấy sử liệu làm bằng chứng, thông qua phân tích và so sánh sử liệu cổ đại biển Đông, thử khôi phục lịch sử biển Đông trước năm 1900, để giúp người đọc hiểu rằng: biển Đông từ xưa đến nay đã là vùng biển chung, chứ không phải “từ xưa đến nay” thuộc về Trung Quốc. Cuốn sách này là cuốn tiếp theo cuốn đó, chuyên về trình bày và phân tích biển Đông thời hiện đại, cũng chính là lịch sử biển Đông sau năm 1900. Cuốn sách đã tham khảo toàn diện các tác phẩm tiêu biểu, rất nhiều bài viết và sách chuyên khảo của Trung Quốc và các nước khác trong lĩnh vực này, cùng với sách trắng của chính phủ các nước, hội nghị bàn tròn học thuật của các cơ quan chính phủ và tư liệu hội thảo... Trong cuốn sách này, tác giả đã tiến hành nhiều phân tích gốc, so sánh quan điểm và chứng cứ của các bên về biển Đông, cố gắng phác họa nên lịch sử hiện đại của biển Đông từ góc độ lịch sử và học thuật, đồng thời cố gắng thảo luận và lí giải khách quan về các vấn đề biển Đông trên lập trường trung lập. 

Nhiệm vụ hàng đầu của cuốn sách này vẫn là khai quật và xử lí sử liệu về biển Đông. So với lịch sử thời cổ đại, sử liệu về biển Đông thời hiện đại tương đối chi tiết và xác thực hơn, nhưng với “thủ thuật ngôn ngữ” của các nước có liên quan, việc lựa chọn sử dụng sử liệu phiến diện và xuyên tạc lịch sử vẫn là điều thường gặp. Ví dụ như Trung Quốc khẳng định: Trung Quốc liên tục tuyên bố chủ quyền các đảo ở Nam Hải, một loạt tuyên bố và hiệp ước trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai trả lại Nam Sa (Trường Sa) cho Trung Quốc; đường 9 đoạn không hề bị phản đối trong suốt hơn 30 năm sau khi được ban hành; tranh chấp ở Nam Sa mới xuất hiện từ sau khi phát hiện ra dầu khí vào những năm 1960; cho tới trước những năm 1970 Việt Nam luôn thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa; trong những năm 1960 và 1970, tuyệt đại đa số quốc gia đều thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Nam Hải... Nếu chỉ xem lí lẽ một chiều của Trung Quốc thì khó tránh khỏi nghĩ rằng các nước láng giềng của Trung Quốc đều có lòng tham không đáy. Cũng vậy, nếu chỉ nhìn vào các miêu tả của phía Việt Nam thì khó tránh khỏi căm ghét đến tận xương tủy đối với việc Trung Quốc “ỷ lớn hiếp nhỏ”. Tuy nhiên, chỉ cần khảo chứng nghiêm túc sử liệu, vận dụng logic chính xác để phân tích, đồng thời dùng luật quốc tế đánh giá thêm thì sẽ phát hiện: vấn đề biển Đông rất rối rắm phức tạp, còn lâu mới rõ ràng sáng tỏ như tuyên truyền chính thức của Trung Quốc. Chỉ khi ý thức rõ về điểm này mới có thể hiểu vì sao biển Đông trở thành tiêu điểm của các tranh chấp lãnh thổ trên thế giới. 

Nhiệm vụ quan trọng khác của cuốn sách này là truy tìm nguồn gốc, diễn biến và mức độ gay gắt của tranh chấp biển Đông, đồng thời lí giải những tranh chấp này trong khuôn khổ lịch sử. Tranh chấp biển Đông mới xuất hiện trong khoảng 100 năm trở lại đây, cũng là bộ phận quan trọng nhất của lịch sử biển Đông thế kỉ 20. Nhờ việc công khai hồ sơ của các nước và giải mật của WikiLeaks mấy năm gần đây, có thể tiến hành phân tích thấu đáo hơn đối với quá trình quyết sách của các sự kiện lịch sử trong những năm đó. Dù vậy, sự thay đổi của tình hình biển Đông vẫn phụ thuộc vào môi trường vĩ mô; diễn biến của tranh chấp biển Đông quan hệ mật thiết với tình hình chung của thế giới. Cuốn sách này được đặt tên là “Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo” chính là muốn thể hiện xu thế thay đổi về sức mạnh của Trung Quốc trong hơn 100 năm qua. 

Nhiệm vụ thứ ba của cuốn sách là bước đầu làm sáng tỏ tranh chấp biển Đông từ góc độ luật quốc tế. Cuốn “Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong” không đề cập nhiều tới luật quốc tế, bởi vì tuyệt đại bộ phận thời gian mà cuốn sách đó đề cập tới đều chưa có luật quốc tế “hiện đại”; hơn nữa khi đó hầu như không có quốc gia nào đưa ra vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông, vụ việc thích hợp cho việc dùng luật quốc tế để phân tích không nhiều. Tuy nhiên, luật quốc tế đã trở thành một nhân tố không thể thiếu khi thảo luận vấn đề biển Đông từ thế kỉ 20 về sau. Vì vậy, khi bàn về lịch sử biển Đông, cuốn sách này đã lồng vào việc thảo luận về luật quốc tế có liên quan một cách thích hợp, với hi vọng bước đầu làm sáng tỏ ý nghĩa pháp lí quốc tế của các sự kiện lịch sử có liên quan, và khuôn khổ pháp lí quốc tế của các vấn đề chủ yếu của biển Đông. Tuy nhiên, tính chất phức tạp về luật quốc tế của các đảo ở biển Đông và vấn đề phân giới ở biển Đông vượt xa phạm vi có thể bao hàm của cuốn sách này. Tác giả chỉ hi vọng rằng trong tương lai có thể sẽ có đủ thời gian, tinh thần và sức lực để phân tích  và thảo luận căn kẽ chuyên sâu trong cuốn sách tiếp theo về biển Đông.

Nhiệm vụ cuối cùng của cuốn sách này là qua việc làm sáng tỏ ngọn nguồn của tranh chấp biển Đông, lí giải tình hình biển Đông hiện nay. Biển Đông hiện là điểm nóng trong quan hệ quốc tế. Từ góc độ lịch sử, cuốn sách này thông qua phân tích lợi ích tại biển Đông cũng như lập trường thái độ của các bên đối với biển Đông trong quan hệ quốc tế ở biển Đông để miêu tả bối cảnh chung của tình hình biển Đông. Do hạn chế về độ dài, cuốn sách không bàn sâu về quân sự và tài nguyên ở biển Đông. 

_____________

Xem tiếp:

Chương I:Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông 

Chương II: Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)

Chương III: Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)

Chương IV: Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)

Chương V: Thời kì xung đột thấp (1990-2008)

Chương VI: Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)

Phụ lục I: Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn

Phụ lục 2: Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ


Wednesday, May 10, 2023

TRANH CHẤP ĐẢO ĐÔNG SA GIỮA TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN LÀ MÀN DẠO ĐẦU CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG (Lê Oa Đằng - Ch. I)


CHƯƠNG I 

TRANH CHẤP ĐẢO ĐÔNG SA GIỮA TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN LÀ MÀN DẠO ĐẦU CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG 

I.1  Địa lí cơ bản của biển Đông 

Biển Đông có diện tích 3,5 triệu km2, tiếp giáp với vịnh Thái Lan theo đường ranh giới kéo dài từ Cà Mau miền Nam Việt Nam đến Kota Bharu của Malaysia. Xung quanh được bao bọc bởi đại lục, bán đảo và quần đảo..., có thể gọi đây là “Địa Trung Hải” của Đông Á. Phía Đông Bắc biển Đông giáp Đài Loan, phía Bắc giáp Trung Quốc đại lục, phía Tây giáp Việt Nam, phía Tây Nam giáp Malaysia (Malaya), Singapore và Indonesia, phía Nam giáp Malaysia (Sabah và Sarawak) và Brunei, phía Đông giáp Philippines. Các nước xung quanh biển Đông gồm có Trung Quốc (bao gồm chính quyền Bắc Kinh và Đài Bắc. Để tiện cho việc hành văn, chính quyền Trung Quốc ở Bắc Kinh sau năm 1949 gọi tắt là Trung Quốc, Đại lục hoặc Bắc Kinh, chính quyền Đại Bắc gọi là Đài Loan để không lẫn lộn về ý nghĩa), Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines, tổng cộng có 7 nước 8 bên. Quốc tế gọi vùng biển này là biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Trung Quốc gọi là Nam Hải, Việt Nam gọi là biển Đông, Philippines gọi là biển Tây Philippines. Để thuận tiện, cuốn sách này dùng tên gọi Nam Hải (bản dịch chuyển thành ‘biển Đông’ trừ những chỗ thấy cần giữ nguyên) theo cách gọi của Trung Quốc. Biển Đông theo nghĩa rộng bao gồm Vịnh Thái Lan, nhưng vì các lãnh thổ và vùng biển có tranh chấp ở biển Đông đều tập trung ở phía Đông đường nối Cà Mau của Việt Nam với quần đảo Natuna của Indonesia, nên  biển Đông trong cuốn sách này chỉ vùng biển phía Đông đường nối này.

Biển Đông có nhiều đảo. Cái thường được gọi là ‘các đảo ở biển Đông’ (南海諸島: Nam hải chư đảo) chỉ hàng loạt đảo / rạn đá san hô cách xa đất liền phân bố trên biển Đông. Từ góc độ địa lí, quốc tế thường chia các đảo ở biển Đông thành 5 quần đảo (Hình 1): Pratas Islands (quần đảo Đông Sa), Macclesfield Bank (quần đảo Trung Sa), Scarborough Shoal (đảo Hoàng Nham /bãi Dân Chủ / bãi cạn Scarborough-ND), Paracel Islands (quần đảo Tây Sa, quần đảo Hoàng Sa) và Spratly Islands (quần đảo Nam Sa, quần đảo Trường Sa). Phía Trung Quốc gộp đảo Hoàng Nham vào trong quần đảo Trung Sa. Căn cứ danh mục tiêu chuẩn của Trung Quốc, Nam Sa (Trường Sa) có tổng cộng hơn 280 đảo, đá, bãi ngầm. 

Có thể chia tranh chấp lãnh thổ các đảo ở biển Đông thành 3 nhóm:  bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham) chỉ tồn tại tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines; Hoàng Sa (Tây Sa) chỉ tồn tại tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam; Trường Sa (Nam Sa) là quần đảo có tranh chấp lớn nhất, liên quan đến 5 nước là Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, nhưng tranh chấp chủ yếu tập trung vào 3 nước Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. 




Hình 1: Bản đồ các đảo ở biển Đông do Trung Quốc xuất bản

Phạm vi yêu sách chủ quyền của các nước ở quần đảo Nam Sa là khác nhau: Trung Quốc yêu sách toàn bộ quần đảo Trường Sa; quần đảo Trường Sa mà Việt Nam yêu sách chủ quyền không bao gồm mấy bãi ngầm ở phía Nam (như bãi ngầm James [Tăng Mẫu], bãi ngầm Bắc Khang [North Luconia]...); quần đảo Trường Sa mà Philippines tuyên bố chủ quyền không bao gồm các bãi ngầm ở phía Nam như trên cũng như đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) và các đảo, đá, bãi ngầm ở phía Tây đảo này; Malaysia chỉ yêu sách các đảo, đá và bãi ngầm nằm trên phần kéo dài của thềm lục địa nước này; Brunei chỉ tuyên bố chủ quyền đối với rạn san hô Louisa (đá Nam Thông, Louisa Reef). Còn về mặt chiếm đóng trên thực tế, theo Trung Quốc, Việt Nam kiểm soát nhiều đảo, đá của quần đảo Nam Sa nhất, lên đến 29 đảo, đá; Philippines thứ hai, chiếm đóng 10 đảo, đá; còn Malaysia thì chiếm đóng 8 đảo, đá, ngoài ra ở vùng biển phụ cận bãi ngầm Luconia, bãi ngầm Luconia Nam, bãi ngầm James (Tăng Mẫu) có số lượng lớn giàn khoan khai thác dầu, khí đốt trên biển. Chủ quyền của Brunei đối với đá Louisa (Nam Thông) gần đây được Malaysia thừa nhận, nhưng không có dấu vết của sự quản lí trên thực tế. Ngoài ra, yêu sách của Indonesia không liên quan đến chủ quyền các đảo và bãi ngầm, nhưng lại yêu sách chủ quyền đối với vùng biển phụ cận quần đảo Natuna, vốn không có tranh chấp chủ quyền, nhưng có thể chồng lấn với vùng biển trong đường 9 đoạn của Trung Quốc khoảng 50 000 km2. 

Trung Quốc đại lục đã chiếm đóng 10 đảo, đá gồm: đá Xu Bi (đá Chử Bích, Subi Reef), đá Én Đất (đá An Đạt, Eldad Reef), đá Gaven (đá Nam Huân, Gaven Reef), đá Gạc Ma (đá Xích Qua, Johnson South Reef); đá Ba Đầu (đá Ngưu Ách, Whitsun Reef), đá Tư Nghĩa (đá Đông Môn, Hughes Reef), đá Ken Nan (đá Tây Môn, McKennan Reef), đá Chữ Thập (đá Vĩnh Thử, Fiery Cross Reef), đá Châu Viên (đá Hoa Dương, Cuarteron Reef), đá Vành Khăn (đá Mĩ Tế, Mischief Reef). Ngoài ra gần đây Trung Quốc cũng mở rộng phạm vi tuần tra ở các vùng biển khác thuộc biển Đông, khả năng đã hình thành sự kiểm soát đối với các đảo, đá khác, khó để đánh giá mức độ của những sự kiểm soát này. 10 đảo, đá mà Trung Quốc chiếm đóng trên thực tế, có cái là bãi đá, có cái chỉ là bãi triều thấp (tức trong trạng thái tự nhiên không thể nổi lên mặt nước khi thủy triều lên), nhưng Trung Quốc đại lục đều đã xây dựng những kiến trúc nhân tạo lên trên những thể địa lí này, vẫn có thể nhô lên trên mặt nước khi triều cao. Bắt đầu từ năm 2014, Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo nhân tạo với quy mô lớn, diện tích thực tế của một số đảo nhân tạo đã lớn hơn diện tích đảo Ba Bình để trở thành phần đất liền lớn nhất của Trường Sa. Đài Loan kiểm soát đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (đảo Thái Bình, Itu Aba Island) và bãi Bàn Than (đá Trung Châu) gần đó. 

Bảng 1: Các đảo, đá chủ yếu mà các nước có tuyên bố chủ quyền chiếm 

giữ ở quần đảo Nam Sa 

Bên chiếm giữ

Tên tiếng Trung 

Tên tiếng Anh 

Diện tích (ha, 10 000m²)

  Đài Loan 

Đảo Ba Bình (Thái Bình)

Itu Aba 

43

Việt Nam 

Đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy)

Spratly Island 

15

Đảo Song Tử Tây (Nam Tử)

Southwest Cay 

13

Đảo Sinh Tồn (Cảnh Hồng)

Sin Cowe Island 

8

Đảo Nam Yết (Hồng Hưu)

Namyit Island 

8

Đảo Sơn Ca (bãi Đôn Khiêm)

Sand Cay 

9

Đảo An Bang (An Ba)

Amboyna Cay 

2

Philippines   

Đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ)

Thitu Island 

33

Đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt)

West York Island 

16

Đảo Song Tử Đông (Bắc Tử )

Northeast Cay 

14

Đảo Vĩnh Viễn (Mã Hoan)

Nanshan Island 

6

Đảo Loại Ta (Nam Thược)

Loaita Island 

7

Đảo Bình Nguyên (Phí Tín)

Flat Island 

4

Bãi An Nhơn (Dương Tín)

Lankiam Cay 

0,44

Malaysia 

Đá Hoa Lau (Đạn Hoàn)

Swallow Reef Island

Đảo nhân tạo

Trung Quốc 

 

Đá Chữ Thập (Vĩnh Thử)

Fiery Cross Reef 

Đảo nhân tạo

Đá Vành Khăn (Tế)

Mischief Reef 

Đảo nhân tạo

Đá Su Bi (Chử Bích)

Subi Reef 

Đảo nhân tạo

Đá Ga Ven (Nam Huân)

Gaven Reefs 

Đảo nhân tạo

Đá Gạc Ma (Xích Qua)

Johnson South Reef

Đảo nhân tạo

Đá Châu Viên (Hoa Dương)

Cuarteron Reef 

Đảo nhân tạo

Đá Tư Nghĩa (Đông Môn)

Hughes Reef


Đá Ba Đầu (Ngưu Ách)

Whitsun Reef


Đá Ken Nan (Tây Môn)

McKennan Reef


Đá  Én Đất (An Đạt)

Eldad Reef


Bảng 1 liệt kê các đảo chủ yếu mà các nước kiểm soát, số liệu diện tích tự nhiên của các đảo lấy từ công trình địa lí về Trường Sa của Hancox và Prescott.  Những ước tính về diện tích này không nhất định là đáng tin cậy, đặc biệt là khi thủy triều lên và xuống, sai khác về diện tích là rất lớn. Vì vậy những con số này chỉ có ý nghĩa tham khảo.

Trong số những đảo, đá này, tính theo diện tích tự nhiên, chỉ có 11 đảo là có thể thích hợp cho con người sinh sống. Nhưng trong Phán quyết Trọng tài biển Đông năm 2016, những “đảo” này đều bị coi là đá. 11 đảo chủ yếu này do Đài Loan, Việt Nam và Philippines chia nhau chiếm giữ: Đài Loan kiểm soát đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (Thái Bình), Việt Nam kiểm soát đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) ở phía Tây và đảo Song Tử Tây (đảo Nam Tử), đảo Sinh Tồn (đảo Cảnh Hồng), đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu) ở phía Bắc; Philippines kiểm soát 6 đảo ở phía Bắc và phía Đông là đảo Thị Tứ (đảo Trung Nghiệp), đảo Song Tử Đông (đảo Bắc Tử), đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo Bến Lạc (đảo Tây Nguyệt), đảo Bình Nguyên (đảo Phí Tín), đảo Vĩnh Viễn (đảo Mã Hoan). 

I.2  Biển Đông trước thế kỉ 20 

Đại thể có thể lấy năm 1900 làm mốc để phân chia lịch sử biển Đông thành hai phần là cổ đại và hiện đại. Trước đó, hoàn toàn chưa xảy ra tranh chấp chủ quyền các đảo ở biển Đông, giai đoạn lịch sử này đã được thảo luận chi tiết trong cuốn “Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong - Nam Hải trước thế kỉ 20” của tôi. Ở đây chỉ đưa ra các giải thích có tính khái quát. 

Có thể chia lịch sử biển Đông trước thế kỉ 20 thành 2 thời kì là cổ đại và cận đại, và lại có thể tiến một bước khi lấy khoảng năm 960 làm ranh giới để phân chia biển Đông cổ đại thành hai giai đoạn là viễn cổ- trung cổ và cận cổ. 

   Viễn cổ-Trung cổ 

Giai đoạn thứ nhất của biển Đông cổ đại là từ thời viễn cổ đến khi nhà Tống ở Trung Quốc thành lập (khoảng năm 960). Có 2 lí do chính để lấy năm 960 làm ranh giới. Thứ nhất, trước và sau năm này, Việt Nam độc lập với Trung Quốc, còn trước đó trong một thời gian dài Việt Nam là một phần của Trung Quốc, hoạt động của “người Trung Quốc” ở biển Đông lúc đó rất khó phân biệt rạch ròi nên thuộc về lịch sử của “người Trung Quốc” hay là lịch sử của “người Việt Nam” sau này. Tuyệt đại bộ phận thời gian sau khi độc lập, Việt Nam là nước độc lập (ngoại trừ những gian đoạn ngắn bị Trung Quốc xâm lược). Thời kì sau đó hoạt động ở biển Đông có thể phân biệt rõ ràng là của người Trung Quốc hay của người Việt Nam. Thứ hai, trước triều Tống, vận tải đường biển của Trung Quốc ở biển Đông kém phát triển, kể từ sau triều Tống, Trung Quốc mới tham dự mạnh mẽ vào hàng hải ở biển Đông, ghi chép và hiểu biết về biển Đông mới tăng lên rõ rệt.

Từ thời cổ đại, biển Đông đã là nơi các dân tộc ven biển sinh sống và phát triển. Người châu Á xa xưa nhất thuộc ngữ hệ Nam Đảo là những người đầu tiên đến biển Đông, trong số những người châu Á kế đó thì tộc Bách Việt đến biển Đông thứ hai, còn tộc Hoa Hạ thì đến sau hơn nữa. Mãi đến sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính Nam Việt, Trung Quốc mới tiếp giáp với biển Đông trong thời gian ngắn. Năm 111 TCN, sau khi nhà Hán thôn tính nước Nam Việt, Trung Quốc mới chính thức trở thành nước ven biển Đông. 

Trong giai đoạn này, việc khai thác và sử dụng biển Đông của Trung Quốc rất hạn chế, nói gì đến kiểm soát nó. Bắt đầu từ thời Tây Hán, thương mại và giao thông ở biển Đông đã hưng thịnh, nhưng trong thời gian hơn 1000 năm sau đó, Trung Quốc với vai trò là nơi sản xuất và thị trường của thương mại biển Đông lại thiếu động lực và kinh nghiệm trực tiếp tham dự vào giao thông thương mại ở biển Đông, cho nên hoàn toàn không có sự hoạt động mạnh trong giao thông ở biển Đông. Người Phù Nam, Cham, Ấn Độ, Ba Tư và Ả Rập... lần lượt trở thành nhân vật chính của giao thông biển Đông, người Trung Quốc chỉ đóng góp  một phần vào giao thông đường biển gần bờ dọc theo bờ biển Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), Giao Chỉ. Lợi ích chính trị, kinh tế của Trung Quốc chủ yếu lấy việc kiểm soát đối với đất liền, đối với Trung Quốc biển Đông không có nhiều ý nghĩa chiến lược. Tùy Dượng Đế từng có mưu đồ mở rộng sức ảnh hưởng ở biển Đông, nhưng rất nhanh chóng kết thúc vì sự diệt vong của nhà Tùy. Nhà Đường cũng không có ham muốn kiểm soát biển Đông. 

Thời kì này không có bằng chứng đáng tin cậy nào có thể chứng minh rằng khi đó Trung Quốc đã biết về các đảo ở biển Đông được ghi chép lại, không có bằng chứng cho thấy rằng người Trung Quốc đã từng có hoạt động sản xuất trên các đảo ở biển Đông, càng không có bằng chứng cho thấy rằng Trung Quốc từng kiểm soát các đảo ở biển Đông. Điều này hoàn toàn không lạ bởi vì nhận thức về biển thời cổ đại bắt nguồn từ việc phát triển các tuyến đường biển. Nhận thức của Trung Quốc về biển Đông (khi đó gọi là Trướng Hải) thời nhà Đường chỉ hạn chế ở phạm vi các tuyến đường biển xung quanh mà các nước ngoài khai thác. Trước thời Tùy, tuyến đường biển ở biển Đông là tuyến đường ven biển đi qua vịnh Đông Kinh (còn gọi là vịnh Bắc Bộ), đương nhiên khó phát hiện các đảo ở biển Đông. Đến thời kì nhà Tùy và nhà Đường, tuyến đường đi tắt (tuyến đường xuyên biển ) từ Chiêm Thành đến Quảng Châu mới được mở ra, đi qua vùng biển phụ cận quần đảo Hoàng Sa, nên mới có khả năng phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. Vào thời nhà Đường, người Ả Rập chiếm vai trò độc tôn trong giao thông ở biển Đông, có lẽ họ đã phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa sớm nhất, nhưng vì ghi chép không chính xác nên khó mà xác nhận được; còn về quần đảo Trường Sa, do nằm cách xa tuyến đường giao thông nên càng có ít người biết đến. 

Cần phải chỉ ra là kể từ sau khi bị nhà Hán thôn tính, trong thời kì dài hơn 1000 năm Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc trong khoảng thời gian này là lịch sử chung của Trung Quốc hiện đại và Việt Nam hiện đại. Khi đó, hoạt động của “người Trung Quốc” ở biển Đông, bao gồm các  hoạt động sản xuất (gần bờ) và vận tải đường biển (quãng đường ngắn), trên mức độ rất lớn là thuộc về người Việt vốn bị gọi là “bọn phiên di Cao Lương” (高涼生口: Cao Lương sinh khẩu). Vì vậy, ngay cả người Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với biển Đông trong thời kì này thì theo luật quốc tế cũng khó có thể độc chiếm quyền này. 

Biển Đông thời Cận cổ 

Giai đoạn thứ hai của biển Đông cổ đại từ khi nhà Tống ở Trung Quốc thành lập đến trước thời cận đại (từ năm 961 đến khoảng năm 1840). Nhà Tống là một quốc gia coi trọng ngoại thương. Do khu vực con đường tơ lụa đi qua bị Khiết Đan (nước Liêu), nước Kim và Đại Hạ (Tây Hạ) khống chế, nên kể từ khi thành lập nhà Tống đã bắt đầu coi trọng thương mại biển. Với sự gia tăng sức mạnh trên biển, Trung Quốc bắt đầu phát triển thành một cường quốc lớn trong thương mại ở biển Đông. Nhưng cùng lúc đó, các thương nhân Ả Rập, Ba Tư và Cham... vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong vận tải đường biển ở biển Đông. Họ xây dựng các khu cư trú người nước ngoài ở các hải cảng của Trung Quốc, thế lực của họ lớn tới mức nhà Tống phải ủy nhiệm người Cham (có giả thuyết là người Ả Rập) Bồ Thọ Canh làm quản lí tàu thuyền ở Tuyền Châu. Sau khi Mông Cổ chinh phục Trung Quốc, nhà Nguyên tiếp tục duy trì thế mạnh trên biển. Vào nửa cuối thế kỉ 13, người Mông Cổ đã tiến hành 4 cuộc hải chiến ở biển Đông: hải chiến Nhai Châu giữa Mông Cổ và Tống, hải chiến Mông Cổ và Đại Việt, hải chiến Mông Cổ với Cham và hải chiến Mông Cổ với Java. Ngoài thất bại trong cuộc chiến cuối cùng, ba cuộc chiến kia đều chiến thắng đối thủ, điều này cho thấy sức mạnh hải quân nhà Nguyên khi đó rất lớn. Thời kì nhà Nguyên, người Ả Rập cũng bị người Mông Cổ chinh phục khiến cho vận tải đường biển của người Ả Rập tương đối suy yếu. Trong thời kì này Trung Quốc mới có thể cạnh tranh được với người Ả Rập ở biển Đông. 

Nhưng đến thời Minh, Trung Quốc lại sớm bắt đầu việc cấm biển. Chu Nguyên Chương quy định tư nhân không được đi biển. Trong thời kì Minh Thành Tổ Chu Đệ, có việc Trịnh Hòa, đi biển Tây (Tây dương) nhưng cũng chỉ là thời huy hoàng ngắn ngủi. Sau khi Trịnh Hòa mất Trung Quốc lại quay trở lại việc cấm biển. Triều Minh muốn xây dựng “hệ thống bá chủ” (宗藩體 制: tông phiên thể chế), tức là biến quan hệ thương mại quốc tế đơn thuần vốn có trở thành một thủ đoạn chính trị, và việc “triều cống” của các nước trở thành phương thức thương mại duy nhất với Trung Quốc. Tuy nhiên, làm như thế trái lại đã khiến thế lực của Trung Quốc ở biển Đông đã bị hạn chế rất nhiều. Ngoài buôn lậu và cướp biển bị chính quyền Trung Quốc xem là phi pháp, tuyệt đại bộ phận thương mại và giao thông ở biển Đông đều là “thuyền chở đồ triều cống” của nước ngoài, hoặc thuyền buôn của phương Tây (đến Ma Cao). Trong thời nhà Minh, trọng tâm sự chú ý của Trung Quốc đối với vùng biển xung quanh là phòng thủ biển chống lại “Oa Khấu” (Wakou)- những kẻ buôn lậu và cướp biển Trung Quốc cùng với một số kẻ “giang hồ” Nhật Bản. Những kí ức về Oa Khấu còn liên tục kéo dài đến năm 1840 thời Thanh. Khi đó, cuốn “Dương phòng tập yếu” do tỉnh Quảng Đông biên soạn còn đề cập rất nhiều đến Oa Khấu. Cấm biển thời Thanh thậm chí còn nghiêm ngặt hơn thời Minh. Đến thời Càn Long (giữa thế kỉ 18) quy định chỉ giữ lại một cảng để buôn bán với nước ngoài là Quảng Châu, Trung Quốc bước vào thời kì “bế quan tỏa cảng”. Chính sách cấm biển tuy có đôi lúc bị đảo ngược, nhưng về cơ bản toàn bộ thời Minh, Thanh việc cấm biển vẫn là chủ yếu. 

Nhìn chung toàn bộ thời cận cổ, các triều Tống, Nguyên tương đối coi trọng lợi ích trên biển ở biển Đông, trong khi triều Minh, Thanh thì ngược lại. Sau thời Trịnh Hòa, sự kiểm soát của Trung Quốc đối với biển Đông trong phần lớn thời gian là rất yếu, giao thông ở biển Đông cũng không phát triển. Trong sách “Hải lục” của người thời Thanh có nhắc đến vào cuối thế kỉ 18 có 4 tuyến đường biển ở biển Đông, thuyền và thủy thủ của Trung Quốc do thiếu kĩ thuật nên chỉ có thể đi trên hai tuyến đường biển ở ven bờ, còn hai tuyến đường kia, một tuyến cần phải đi xuyên qua đường biển nằm giữa Hoàng Sa và Trung Sa, tuyến khác cần phải đi xuyên qua đường biển phụ cận Trường Sa, tất cả đều chỉ có tàu bè nước ngoài mới có thể đi qua được. 

Bắt đầu từ thời Tống, những ghi chép về các đảo ở biển Đông tương đối nhiều, nhưng tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa rất khác nhau, cần phải thảo luận riêng. Mặc dù rất có thể Hoàng Sa đã được các nhà hàng hải thời trước thế kỉ 10 biết đến, nhưng không có bằng chứng chắc chắn. Hơn nữa, trước thời Tống địa vị trong giao thông ở biển Đông của Trung Quốc không hề mạnh mẽ, nên rất ít có khả năng người Trung Quốc phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. 

Khi bàn luận về việc Trung Quốc phát hiện quần đảo Hoàng Sa trước thời Tống, học giả Trung Quốc ít ra đã phạm hai sai lầm. Thứ nhất, lấy bộ phận khái quát thành tổng thể, lấy “Trướng Hải sinh từ thạch” trong thư tịch cổ để nói thành người Trung Quốc phát hiện “các đảo san hô ở Nam Hải  rộng lớn bao gồm Tây Sa và Nam Sa”, thật ra ngay cả những từ thạch này đúng là đá san hô thật thì cũng chỉ cho thấy rằng Trung Quốc biết ở biển Đông có những đá san hô này. Ở khu vực ven biển Đông cũng có đá san hô, nên phát hiện đá san hô hoàn toàn không đồng nhất với phát hiện ra Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ hai, “cưỡng đoạt” lịch sử, coi những việc được ghi chép trong thư tịch Trung Quốc là việc do người Trung Quốc làm. Ví dụ, những ghi chép của Giả Đam thời Đường về các tuyến đường biển ở biển Đông thật ra đó chỉ là ghi chép lại những điều do người nước ngoài biết được kể lại, nhưng lại được diễn giải thành bằng chứng cho việc người Trung Quốc khai phá các tuyến đường này. 

Mãi đến đầu đời nhà Tống (1018) mới xuất hiện ghi chép có thể khẳng định thật sự đó là quần đảo Hoàng Sa, trong “Tống hội yếu” khi chép việc sứ giả Cham đi sứ Trung Quốc có nêu: “Chúng tôi đến Quảng Châu, nếu thuyền bị gió thổi trôi đến Thạch Đường, thì đi mãi cũng không đến được.  Theo mô tả về tuyến đường và vị trí địa lí, Thạch Đường ở đây chắc chắn là Hoàng Sa. Vì vậy, xét đoán từ bằng chứng theo sử liệu này thì Cham là người phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa sớm nhất. 

Trong thời gian dài, Hoàng Sa là cái tên mà các nhà hàng hải các nước nghe đến là sợ, nơi nguy hiểm cần phải hết sức tránh khi đi biển. Có thể từ thời Minh ở Trung Quốc, bắt đầu có ngư dân đến nơi này đánh cá. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều nói ngư dân của mình đã đến khu vực này đánh cá từ rất lâu, nhưng thời điểm bắt đầu chính xác thì không chắc chắn, vì cuộc sống của những “người dân lớp dưới” này nói chung không được ghi chép trong sử sách. Những năm gần đây, khảo cổ ở Hoàng Sa có được thành quả to lớn, nhưng thành quả chủ yếu đều là di vật tàu đắm của các thời kì, hoàn toàn không thể chứng minh về hoạt động ngư nghiệp. Một số dấu vết của cuộc sống con người cũng được tìm thấy ở Hoàng Sa , nhưng vì có sự tương đồng trong văn hóa, phong tục của Việt Nam và Trung Quốc, các đồ dùng của người Việt Nam rất giống với đồ dùng của người miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là người Hải Nam, họ cùng viết chữ Hán, cùng thờ cúng bà Thiên Hậu (do chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa Trung Quốc), nên những vết tích về đời sống con người này khó xác định thuộc về ai.

Sau thời nhà Tống, Trung Quốc có rất nhiều ghi chép về biển Đông và Hoàng Sa, nhưng tuyệt đại bộ phận sách địa lí đều không chỉ ra chính xác sự quy thuộc của Hoàng Sa, ngược lại có một số sách viết là Hoàng Sa nằm trong biên giới Việt Nam hoặc thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ, cuốn sách hướng dẫn hàng hải “Thuận phong tương tống” có viết rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc “biển Giao Chỉ”, khi đi sứ Nam Dương, sứ giả nhà Minh là Ngô Huệ đã miêu tả rằng đi vào biên giới Giao Chỉ trước khi đi qua quần đảo Hoàng Sa. Trong hệ thống phương chí của Trung Quốc, kể từ triều Vạn Lịch thời Minh đã có ghi “Vạn Châu có biển Trường Sa, biển Thạch Đường”, nhưng kèm theo câu nói này đều có chú giải là “sách cổ viết” và “chưa tra cứu rõ sự thực”. Nhưng truy ngược về cuốn “Quỳnh quản chí” mà họ dựa vào, trong đó chỉ đề cập đến câu “phía Đông là Thiên Lí Thạch Đường, Vạn Lí Trường Sa” của Cát Dương Quân, khi đó Thiên Lí Thạch Đường và Vạn Lí Trường Sa đều để chỉ quần đảo Hoàng Sa, nó được liệt kê cùng với tên các nước ngoài như Chân Lạp ở phía Tây và Chiêm Thành ở phía Nam, và không có ý nghĩa về sự quy thuộc lãnh thổ. Vì vậy, những bằng chứng này hoàn toàn không thể chứng minh việc Trung Quốc đặt Tây Sa dưới sự quản lí của Vạn Châu. Địa lí chí cấp quốc gia càng có tính chính thức hơn, ví dụ trong 7 bản “Nhất thống chí” từ thời Nguyên đến thời Thanh, những ghi chép “chưa tra cứu rõ sự thực” này hoàn toàn không được đưa vào. Điều này đã cho thấy chính quyền trung ương Trung Quốc không hề xem những nơi này thuộc về Trung Quốc. 

Trong các bản đồ “Thiên hạ nhất thống chí” và các bản đồ Đông Nam di, Tây Nam Di từ thời Minh trở về sau, phần nhiều đều có các tên Thạch Đường và Trường Sa xuất hiện, nhưng vị trí cụ thể của chúng rất khó xác định. Bản đồ “Thiên hạ nhất thống chí” phải được xem là bản đồ thế giới, các địa điểm trên bản đồ không phải tất cả đều là địa điểm ở Trung Quốc; trên bản đồ, Trường Sa và Thạch Đường lẫn lộn trong tên các nước ngoài, khó mà xác định là một bộ phận của Trung Quốc, có bản đồ thậm chí còn dùng màu sắc và giới tuyến biểu thị nó nằm ở phía ngoài lãnh thổ quốc gia Trung Quốc. Trường Sa và Thạch Đường xuất hiện trong các bản đồ Tây Nam di, Đông Nam di càng giống như một bộ phận của nước ngoài. Lãnh thổ trong các bản đồ cấp quốc gia của Trung Quốc đều dừng lại ở đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều không nằm trong đó. Bản đồ các tỉnh (tỉnh Quảng Đông), bản đồ các châu, phủ (Quỳnh Châu và Vạn Châu) cũng đều không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ phòng thủ biển của Trung Quốc thường có bao gồm những vùng không thuộc về Trung Quốc nhưng trọng yếu đối với việc phòng thủ biển của Trung Quốc (như Đài Loan thời Minh). Dù vậy, trên những bản đồ này cũng không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thời cổ đại rõ ràng không thuộc khu vực hành chính của Trung Quốc. 

Trong luật quốc tế, quy định phát hiện đơn thuần không thể sản sinh ra chủ quyền, hoạt động tư nhân đơn thuần cũng không thể sản sinh chủ quyền, tác dụng của bản đồ cũng không được đánh giá cao, còn bằng chứng về sự quản lí thực tế của nhà nước mới là trọng yếu. Tuy nhiên, những bằng chứng về sự quản lí đối với Hoàng Sa mà Trung Quốc đưa ra vừa mơ hồ vừa phân tán. Địa điểm trong đo đạc Tứ Hải thời Nguyên không thể kiểm chứng được, nhưng nhiều khả năng nó ở miền Trung Việt Nam (tức Lâm Ấp) hơn là ở Hoàng Sa. Ngay cả khi việc đo đạc thực hiện ngay tại Hoàng Sa, nhưng do công trình đo đạc của họ có nhiều địa điểm nằm ngoài lãnh thổ, khó có thể vì thế mà cho rằng Trung Quốc có thể thể hiện chủ quyền một cách chắc chắn. Bằng chứng việc Trung Quốc tuần tra ở Hoàng Sa rất mơ hồ: ghi chép trong “Vũ kinh tổng yếu” thời Tống trên thực tế là ghi chép một lần xuất chinh chứ không phải ghi chép về việc tuần tra; ghi chép về tuần tra của tướng Sài Công thời Minh rất khó chứng minh rằng ông ta đã tuần tra đến Hoàng Sa; các ghi chép trong “Tuần la kí lục” (Ghi chép tuần tra) của Hoàng Tả thời Minh thật ra chẳng qua là việc các nhà sử học Trung Quốc bẻ cong thông tin địa lí do người đời sau chú giải thành tuyến đường tuần tra; Thất Châu Dương mà Ngô Thăng thời Thanh khi tuần tra đảo Hải Nam đi qua phải là các đảo Thất Châu ở đông bắc Hải Nam. Có bằng chứng thuyết phục cho thấy Trung Quốc khi đưa quân ra nước ngoài đã đi qua quần đảo Hoàng Sa, cũng có bằng chứng cho thấy có thể Trịnh Hòa đã đi qua quần đảo Hoàng Sa trong chuyến đi biển Tây (Tây dương). Nhưng những sự kiện này đều là những ví dụ về cuộc viễn chinh và chuyến đi biển đặc biệt, khó được xem là thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa. 

Vì vậy, trước thời cận đại, dù Trung Quốc có rất nhiều ghi chép về quần đảo Hoàng Sa, cũng có hoạt động tư nhân ở quần đảo Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc vừa không sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ của mình vừa không có bằng chứng thuyết phục chứng tỏ đã quản lí Hoàng Sa, rất khó để cho rằng Trung Quốc đã có chủ quyền đối với Hoàng Sa từ thời cổ đại.

   Chủ quyền lịch sử của Việt Nam 

Việt Nam hiện nay trong lịch sử là hai quốc gia. Phần phía Bắc với tộc người Việt là chủ thể, trước thế kỉ 10 bị Trung Quốc thống trị, sau khi độc lập năm 958 tiếp tục giữ địa vị độc lập trong thời gian dài, tên gọi là Đại Việt. Đây là quốc gia chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Trung Quốc. Phần phía Nam là Chiêm Thành (còn gọi Champa) đã dựng nước từ thế kỉ 2 TCN với tộc người Cham là chủ thể. Nước này trong vòng văn hóa Ấn Độ. Trong lịch sử, Đại Việt và Chiêm Thành từng đánh nhau trong thời gian dài, cuối cùng vào thế kỉ 18, chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam (còn gọi là Đàng Trong) đã tiêu diệt hoàn toàn Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ đến miền Nam Việt Nam, sau đó lại chiếm được lãnh thổ ở châu thổ sông Mekong từ tay Cao Miên để hình thành nên nước Việt Nam hiện nay. 

Đại Việt và Chiêm Thành hoạt động rất mạnh mẽ trong giao thông ở biển Đông thời cổ đại, nhất là Chiêm Thành. Trong các ghi chép có thể xác nhận, Chiêm Thành là nước phát hiện quần đảo Hoàng Sa sớm nhất, nhưng kiểu “quyền sơ khai” hình thành trên cơ sở phát hiện không thể chuyển hóa thành chủ quyền đích thực. Trong khoảng thời gian rất dài sau khi Việt Nam giành độc lập từ Trung Quốc, những ghi chép về Hoàng Sa của Việt Nam hầu như là con số không. Như trên đã trình bày, cùng thời kì này Trung Quốc cũng thiếu bằng chứng có sức thuyết phục để chứng minh ý đồ chủ quyền và sự quản lí hữu hiệu của mình. 

Nhưng bắt đầu từ thế kỉ 17, Việt Nam bắt đầu dần dần quản lí Hoàng Sa. Giữa hoặc nửa sau thế kỉ 17, “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” do Đỗ Bá vẽ bắt đầu nói đến việc chính quyền chúa Nguyễn ở miền Nam Việt Nam (còn gọi là Đàng Trong) hàng năm đều cử người đến vớt của rơi của các tàu gặp nạn ở một nơi gọi là bãi Cát Vàng (Hoàng Sa than). Phía Việt Nam cho rằng bãi Cát Vàng ở đây chính là Tây Sa (Việt Nam gọi là Hoàng Sa). Việc chúa Nguyễn hàng năm cử người đến Hoàng Sa vớt của đều được nhắc đến trong 3 loại tác phẩm độc lập khác. Một là trong sách của người Pháp Pierre Poivre nhắc đến việc ông nghe nói rằng chúa Nguyễn cử người đến “Paracels” vớt của. Hai trong “Hải ngoại kỉ sự” của nhà sư Trung Quốc Đại Sán Hán Ông cũng đã tường thuật việc chính quyền Việt Nam hàng năm cử đội Hoàng Sa đi đến “Vạn Lí Trường Sa” trục vớt của rơi. Từ mô tả phương hướng có thể thấy rằng Vạn Lí Trường Sa ở đây rất có thể chính là quần đảo Hoàng Sa, mà Vạn Lí Trường Sa cũng là tên gọi quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc khi đó. Cuối cùng và cũng là bằng chứng có sức thuyết phục nhất, chính là sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, trong đó có nói đến việc chính quyền hàng năm đều phái đội Hoàng Sa đến Đại Trường Sa (bãi Cát Vàng, Hoàng Sa chử) trục vớt của rơi. Ghi chép này rất tỉ mỉ khiến người ta tin chắc nơi được nói đến ở đây chính là Hoàng Sa hiện nay. Trong 4 tác phẩm này, đặc biệt là 2 tác phẩm sau, đều đã nói rõ chúa Nguyễn đã thật sự phái đội Hoàng Sa đến quần đảo Hoàng Sa hàng năm để trục vớt của rơi. Những hoạt động này mang ý đồ thể hiện chủ quyền mạnh mẽ: thứ nhất, nó là hành động của nhà nước; thứ hai, nó là hành động hàng năm và có quy luật; cuối cùng, nó mang hàm ý của quản lí hành chính. Có thể nói, từ cuối thế kỉ 17 đến đầu thế kỉ 19, Việt Nam đã bước đầu xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Đến đầu thế kỉ 19, sau khi nhà Nguyễn thành lập, Việt Nam càng quản lí hữu hiệu Hoàng Sa hơn. Đặc biệt là trong hai thời kì 1815-1816 và 1833-1836, hoàng đế Gia Long và hoàng đế Minh Mạng lần lượt phái thủy quân đến Hoàng Sa dựng cờ, đo đạc thủy văn, xây miếu dựng bia và trồng cây để làm cột mốc. Những sự kiện này không những được ghi chép trong sách sử chính thức của nhà nước “Đại Nam thực lục”..., còn được ghi chép trong ít nhất 4 tác phẩm của phương Tây khi đó. Từ đầu đến cuối thế kỉ 19, trong không ít tư liệu, bản đồ và sách địa lí tương tự của phương Tây đều thừa nhận Hoàng Sa (Paracel Islands) là lãnh thổ của Việt Nam. Tác phẩm “Hải lục” của Trung Quốc cũng thừa nhận Vạn Lí Trường Sa là phên dậu bên ngoài của Việt Nam. Mặc dù học giả Trung Quốc đã phủ nhận Hoàng Sa là quần đảo Tây Sa, và cũng phủ nhận Paracel là quần đảo Tây Sa, nhưng qua phân tích tỉ mỉ, đặc biệt là từ năm 1808, sau khi các nước phương Tây đã biết rõ vị trí chính xác của Hoàng Sa thì kiểu hoài nghi này của Trung Quốc không còn chỗ đứng. Những bằng chứng này cho thấy từ nửa sau thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 19, Việt Nam đã từng bước xác lập sự quản lí đối với Tây Sa, đến giữa thế kỉ 19, hình thức chủ quyền này đã được xác lập hoàn toàn và đã được thế giới thừa nhận. 

Từ một bản sử liệu mà người viết mới phát hiện có thể thấy được trong những năm 1830 Việt Nam quản trị Hoàng Sa như thế nào. Trong tờ báo của phương Tây năm 1839 khi miêu tả về Cochin China (Đàng Trong) có viết: 

It is well known that the present government has a well appointed navy, the largest and best armed in Eastern Asia. This year some petty acts of piracy had been committed on the coast, which so much incensed the King, that a large part of the fleet was immediately put under sailing orders; and, cruizing about the Paracels and other places, fell in with several craft from Haenan. There being some guns on board, these fishermen and traders were declared pirates, and brought in triumph to the harbor of Phuyen. In the meanwhile, an Amoy junk coming up from Singapore, happened to fall in with one of these cruizers, and was ordered to heave to. Upon refusing to comply with this request, the suspicion that this was a regular buccaneer increased, and she was finally boarded by force. The sailors, having been transported to the next military station, were put in prison, and the property was confiscated. The commander; however, was a very spirited man and drew up a suitable petition to the local authorities, wherein he explained the legality of his pursuits and also sent in the register of the junk with a permit to trade to the Southern seas. This document contains an order of Kee-lung addressed to all the prefects of the maritime provinces, to allow Chinese junks to sail to the Indian Archipelago, and puts the lawfulness of this trade beyond doubt. After a few weeks of delay, the magistrates finally set them free, but made them pay a heavy fine for not lowering immediately the sails, when the man of war ordered them to do so. They then re-embarked their cargo, met with a very severe gale, lost their mast, and being without water, abandoned the vessel and arrived entirely destitute at Keamoon. 

... The only rich man is the King, he has fine palaces, large treasures, excellent fortresses and vessels far superior to the navy of the Celestial Empire. 

(Ai cũng biết rằng triều đình hiện nay có thuỷ binh được trang bị tốt, một đội thủy binh lớn nhất và vũ trang tốt nhất ở Đông Á. Năm nay, có một số vụ cướp biển nhỏ đã được xảy ra ở bờ biển, điều này khiến Nhà vua phẫn nộ nhiều đến nỗi đã lập tức ra lệnh cho một phần lớn của hạm đội ra khơi; và trong khi chạy đến Hoàng Sa và những nơi khác, đã gặp một số tàu từ Hải Nan. Có súng trên tàu nên những ngư dân và thương nhân này bị cho là cướp biển, và mang về bến cảng Phú Yên. Trong khi đó, một chiếc tàu của Amoy (Hạ Môn) từ Singapore đi tới, đã tình cờ gặp một trong những tàu tuần dương này, được lệnh phải dừng lại. Tàu từ chối thực hiện lệnh này khiến càng bị nghi ngờ thêm rằng đây là một tàu thường xuyên của cướp biển, và cuối cùng tàu này đã bị quân lính dùng vũ lực lên tàu. Các thủy thủ, sau khi được chuyển đến trạm binh tiếp theo, bị bỏ tù và bị tịch thu tài sản. Tuy nhiên, chỉ huy tàu là một người rất có tinh thần và đã đưa ra một kiến ​​nghị thích hợp với chính quyền địa phương, trong đó ông giải thích tính hợp pháp của việc ông theo đuổi và cũng nạp kèm sổ đăng kí của tàu với giấy phép buôn bán đến các vùng biển phía Nam. Tài liệu này có chứa một lệnh của Kee-lung (Cơ Long, Đài Loan -ND) gửi đến tất cả các tỉnh trưởng của các tỉnh vùng biển, cho phép các tàu thuyền của Trung Quốc chạy đến quần đảo Ấn Độ, và cho thấy chắc chắn tính hợp pháp của hoạt động buôn bán này. Sau một vài tuần trì hoãn, cuối cùng các phán quan đã trả tự do cho họ, nhưng bắt họ phải trả một khoản tiền phạt nặng vì không chịu ngừng ngay khi được chỉ huy hải quân ra lệnh. Sau đó, họ đưa hàng xuống tàu lại, gặp gió giật rất mạnh, bị mất cột buồm và không có nước ngọt, đã bỏ tàu đến Keamoon trong tình cảnh  cùng khổ.

... Người giàu có duy nhất là Nhà vua, ông ta có những cung điện đẹp đẽ, kho báu lớn, pháo đài tốt và tàu chiến hơn hẳn thủy quân của Thiên triều.)

Sử liệu này đã cung cấp mấy thông tin quan trọng: thứ nhất, hải quân Việt Nam lớn mạnh nhất Đông Á khi đó, hơn hẳn so với Trung Quốc; thứ hai, hải quân Việt Nam thường xuyên tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa, và bắt những thuyền cá Trung Quốc bị nghi ngờ là cướp biển đưa về Việt Nam xét xử; cuối cùng, Việt Nam áp thuế đối với các thuyền cá qua lại giữa Trung Quốc và Singapore, đã cho thấy sự quản trị hành chính đối với vùng biển này. Sử liệu này rất ăn khớp với các sử liệu khác, đã chứng minh thêm một bước chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và sự kiểm soát đối với biển Đông của Việt Nam trong những năm 1830. 

   Quần đảo Trường Sa với Brunei và Sulu 

Quần đảo Trường Sa trong thời gian dài nằm ngoài các tuyến đường hàng hải chủ yếu của Đông Nam Á, vì vậy nó được ghi chép trong các tư liệu tương đối muộn. Việc phát hiện ra quần đảo Trường Sa sớm nhất vẫn có thể là người Cham, thời gian cũng chắc chắn là sau khi nhà Tống thành lập. Mãi đến thời Nguyên, Minh mới có các ghi chép chính xác của người Trung Quốc về Trường Sa, nhưng nó được miêu tả như là một bộ phận của “Vạn Lí Thạch Đường”, dễ thấy là sự hiểu biết về nó rất hạn chế. 

Đối với quần đảo Trường Sa, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam hay các nước khác đều không có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền. Trong các sách địa lí và lịch sử của Trung Quốc, quần đảo Trường Sa cũng giống như quần đảo Hoàng Sa đều được ghi chép mơ hồ. Chỉ được gọi chung chung với những cái tên như “Trường Sa”, “Thạch Đường”, “Thiên Lí Thạch Đường”... Không có ví dụ đáng tin cậy nào về việc quản lí đối với Trường Sa. Thật ra, ngay cả Hoàng Sa tương đối ở gần mà vẫn không có bằng chứng chắc chắn về  sự quản lí, nên rất khó thể tưởng tượng chuyện trái ngược là tiến hành quản lí đối với Trường Sa ở xa xôi và phân bố phân tán hơn rất nhiều. 

Nhưng trong thời kì này, Việt Nam cũng không có bằng chứng rõ ràng về sự kiểm soát đối với Trường Sa. Trong sách sử của Việt Nam có ghi chép đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa từng hoạt động vào thế kỉ 19, phạm vi hoạt động của đội này bao gồm “Bắc Hải”, Bắc Hải ở đây có khả năng là vùng biển ở khu vực Trường Sa, nhưng do ghi chép quá ít nên không thể xác nhận được. Hơn nữa, khác với đội Hoàng Sa sau đó được thủy quân thay thế, trong lịch sử không có ghi chép gì thêm về hoạt động của đội Bắc Hải. Có thể thấy, ngay cả khi Việt Nam thật sự có hành động chính thức nhất định đối với Trường Sa, thì cũng còn cách rất xa so với việc quản trị thật sự. Còn các bằng chứng khác như bản đồ... cũng không thể chứng minh lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả Trường Sa. 

Cũng trong thời gian này, các nước ven biển cổ đại ở phía nam biển Đông như Brunei và Sulu... cũng có quyền lịch sử không thể xem nhẹ đối với quần đảo Trường Sa, ví dụ có tài liệu lịch sử của Trung Quốc cho thấy vào thời Minh các nước này có thể là chủ lực trong vận tải biển ở quần đảo Trường Sa. 

   Thời cận đại phương Tây làm chủ biển Đông 

Thế kỉ 16 phương Tây bắt đầu tiến vào biển Đông, từ đó ảnh hưởng của họ ở biển Đông ngày càng lớn. Giữa thế kỉ 19, họ bắt đầu xâm lược các nước ven biển Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Brunei, Sulu..., cho đến cuối thể kỉ 19 bá quyền phương Tây ở biển Đông đạt đến điểm đỉnh. Các nước ven biển Đông, ngoài Trung Quốc, đều trở thành thuộc địa của các cường quốc phương Tây – Việt Nam thuộc Pháp, Borneo thuộc Anh và Hà Lan, Philippines ban đầu thuộc Tây Ban Nha, sau thành thuộc Mĩ. Trung Quốc mặc dù vẫn là quốc gia độc lập nhưng hải quân nhỏ yếu và tư duy quân sự chủ yếu tập trung vào phòng thủ biển ven bờ, còn đối với biển Đông thì không có ý định cố nắm lấy và nằm ngoài tầm với. Do đó, các cường quốc phương Tây với tàu to súng lớn đã làm chủ cục diện biển Đông, gây ảnh hưởng đến khu vực này trong một số mặt sau đây: 

Thứ nhất, các nước phương Tây dùng kĩ thuật hiện đại của họ để tiến hành thăm dò và đo đạc biển Đông nhiều lần, vẽ ra hải đồ chính xác, đã làm thay đổi cơ bản nhận thức về biển Đông và các đảo ở biển Đông. Các nước phương Tây cũng đã bảo vệ quyền tự do và an toàn hàng hải ở biển Đông bằng cách thiết lập một hệ thống cứu hộ quốc tế và chống cướp biển.

Thứ hai, sự xâm lược thực dân của các nước phương Tây đã phá vỡ cục diện ban đầu của các nước ven biển Đông, trong đó chịu ảnh hưởng nhất là Việt Nam. Sau khi từng bước trở thành thuộc địa của Pháp, dù trong sách vở Hoàng Sa vẫn được xem là lãnh thổ của Việt Nam, nhưng sau năm 1860 Việt Nam đã mất khả năng kiểm soát nó trên thực tế. Do các hoạt động của Việt Nam ở Hoàng Sa cơ bản là do nhà nước tổ chức, nên sau khi hoạt động của nhà nước chấm dứt, không có hoạt động tư nhân của người dân kế thừa. Vì thế, trễ nhất là sau năm 1867, không còn hoạt động của người Việt Nam ở Hoàng Sa. Cuộc xâm lược của Tây Ban Nha đối với Sulu và của Anh đối với  Brunei đã làm hai nước này mất đi sức ảnh hưởng đối với quần đảo Trường Sa. 

Thứ ba, các nước phương Tây đều không có thái độ tích cực đối với vấn đề chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông. Ví dụ Pháp, với tư cách là nước bảo hộ của Việt Nam, không quan tâm tới Hoàng Sa hoặc Trường Sa. Dù vào năm 1899 từng lập kế hoạch xây dựng đèn biển ở Hoàng Sa, nhưng kế hoạch này cuối cùng không được thực hiện, nếu không việc này có thể được coi là một hành động tuyên bố chủ quyền. Anh cũng không tích cực với quần đảo Trường Sa, nửa cuối thế kỉ 19 nước này từng hai lần cấp giấy phép khai thác hai đảo ở Trường Sa, điều này đã được ghi chép trong hồ sơ, nhưng từ đầu đến cuối đều không có hành động khai thác trên thực tế. Nguyên nhân chủ yếu của thái độ tiêu cực này là do các đảo ở biển Đông có diện tích nhỏ bé, tài nguyên lại nghèo nàn, không thể sinh lợi; về mặt quân sự không có vị trí chiến lược lại khó duy trì việc đóng quân. Vì thế, các đảo biển Đông dễ lấy này đều bị xem là vô giá trị và không bị thôn tính. Kết quả là trong khoảng thời gian từ 1860 đến 1899, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc khu vực chân không về chủ quyền trong quản trị chính thức. Ngoại lệ duy nhất là bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham), người Tây Ban Nha đã giành được chủ quyền cho Philippines. 

Thứ tư, bên được lợi nhất từ trạng thái chân không chủ quyền các đảo ở biển Đông là Trung Quốc. Thế kỉ 19 là thời kì ngư dân Trung Quốc hoạt động với quy mô lớn tại các đảo ở biển Đông. Từ sau năm 1860, hoạt động của ngư dân bắt đầu mở rộng đến Trường Sa. Trong khoảng thời gian này, ngư dân Trung Quốc trở thành người khai thác duy nhất ở Hoàng Sa và Trường Sa. Những hoạt động tư nhân này của người dân đem lại ưu thế cho Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền các đảo ở biển Đông sau này. Ngoài ra, vào cuối thế kỉ 19, ý thức lo lắng về biên giới biển của Trung Quốc bắt đầu tăng lên, các phần tử trí thức tư nhân bắt đầu coi trọng địa vị của các đảo ở biển Đông, có một số sách vở dân gian của Trung Quốc mơ hồ coi Hoàng Sa (hoặc bao gồm cả Trường Sa) là lãnh thổ Trung Quốc. 

Tuy nhiên, trong cái nhìn của nhà nước Trung Quốc, Hoàng Sa và Trường Sa đều không phải là lãnh thổ của Trung Quốc. Phạm vi tuần tra của hải quân Trung Quốc chỉ đến cực Nam đảo Hải Nam; trong sách địa lí có thẩm quyền của nhà nước, cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Trước năm 1909, không có bất kì bằng chứng nào có thể chứng minh nhà nước có ý muốn quản lí đối với những đảo này: lời bàn của Quách Tung Đảo không có hiệu lực pháp lí; đề nghị xây dựng đèn biển ở Đông Sa của Hart không được thực hiện; cái gọi là phản đối tàu đo đạc của Đức là không có căn cứ. Ngược lại, trong vụ hai tàu bị đắm ​​năm 1895 và 1896, chính phủ Trung Quốc biểu thị rõ ràng Hoàng Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. 

Thứ năm, khi các nước phương Tây tiến vào biển Đông, họ cũng đồng thời đem hệ thống luật quốc tế của phương Tây đến đây. Các nước thực dân bá chủ dựa vào quan điểm của luật quốc tế để xử lí vấn đề biển Đông, còn Trung Quốc cũng đã xác nhận tính thích dụng của luật quốc tế đối với Trung Quốc thông qua các hiệp ước và thực tiễn ngoại giao. Vào giữa và nửa sau thế kỉ 19, quan niệm lãnh hải của phương Tây đã thay thế quan niệm biên giới biển truyền thống giữa các nước Đông Á. Trong quan niệm truyền thống thời kì nhà Thanh, giữa Trung Quốc và Việt Nam có biên giới biển rõ ràng, biên giới biển hai nước tiếp giáp nhau, ở giữa không có “vùng biển quốc tế”. Ví dụ ở trên mặt biển biển Đông, hai bên lấy vùng nước đối diện bãi Đồi Mồi ở cực nam đảo Hải Nam để phân chia ranh giới, vượt qua ranh giới này là tiến vào “Di Dương” (biển của bọn di) của Việt Nam. Nhưng sau khi Trung Quốc và Việt Nam (thuộc Pháp) đều ủng hộ việc lấy đường bờ biển làm cơ sở để giới hạn lãnh hải thì giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xuất hiện “vùng biển quốc tế”. Việc các nước phương Đông thừa nhận “vùng biển quốc tế” là một thắng lợi của nguyên tắc tự do hàng hải, đồng thời cũng đặt nền móng cho luật biển quốc tế hiện nay. Từ đó về sau, khi bàn bạc đến biên giới biển mà tách rời với đất liền và chủ quyền lãnh thổ thì thiếu đi tính hợp lí. 

Thứ sáu, mặc dù các hiệp ước phân giới trong thời kì này không có liên quan rõ ràng đến các đảo ở biển Đông nhưng chúng đã để lại những điểm gây tranh cãi cho các tranh chấp về đảo sau này. Trong đó, đặc biệt là “Công ước Pháp-Thanh” được kí kết giữa Trung Quốc và Pháp tại Bắc Kinh năm 1887 và “Hiệp ước Paris” giữa Mĩ và Tây Ban Nha năm 1899 là nổi bật nhất. Trong đoạn 3 của “Công ước Pháp-Thanh” quy định “các đảo trên biển” lấy đường thẳng từ Bắc đến Nam đi qua xã Trà Cổ ở vịnh Bắc Bộ làm ranh giới, ở phía Tây thuộc Việt Nam, ở phía Đông thuộc Trung Quốc. Đường ranh giới này kết thúc ở đâu không hề được quy định rõ. Vì vậy, việc nó có bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa hay không trở thành điểm tranh cãi trong tranh chấp về Hoàng  Sa giữa Trung Quốc và Pháp vào thập niên 1930. “Hiệp ước Paris” đã hoạch định địa giới giao nhận giữa Mĩ và Tây Ban Nha, nhưng bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham) đã bị "mất" một cách khó hiểu bởi thái độ thờ ơ của Mĩ tương tự như Anh và Pháp.

Thứ bảy, hệ thống luật quốc tế mà phương Tây đưa đến đã xác lập các nguyên tắc cho việc phán đoán sự quy thuộc các đảo ở biển Đông thời kì này. Căn cứ “Luật liên thời gian” (Intertemporal Law) trong luật quốc tế, chủ quyền các đảo biển Đông thời kì này phải tuân theo quan điểm của luật quốc tế khi đó, tức là phải có “ý thức chủ quyền” và “chiếm đóng hữu hiệu” một cách rõ ràng. 

Trong tuyên truyền của Trung Quốc, “Yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền quản lí của Trung Quốc ở biển Đông có lịch sử hơn 2000 năm, từ thời Hán đã phát hiện và từng bước hoàn thiện sự quản lí đối với Nam Hải, đặc biệt là các đảo, đá ở Nam Sa và các vùng biển liên quan”. Câu khẳng định này đã nhập nhiều luận điểm khác nhau vào làm một nên đã nảy sinh hiểu lầm rằng Trung Quốc đã có chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông “từ xưa đến nay”. Trên thực tế, có rất nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy rằng từ xưa đến nay biển Đông là vùng biển công cộng không thuộc bất kì quốc gia nào. Mặc dù đối với các đảo biển Đông, ngoài Việt Nam đã từng có sự kiểm soát thực tế đối với quần đảo Hoàng Sa trong lịch sử, trước thế kỉ 20 không có quốc gia nào muốn thôn tính chúng một cách thật sự. Tình trạng này kéo dài cho đến thế kỉ 20, sau khi một thế lực mới nổi  xuất hiện mới có sự thay đổi. 

I.3  Người Nhật khai thác ở quần đảo Đông Sa (Pratas)

Bước vào thế kỉ 20, biển Đông cũng  đột nhiên bước vào một thời kì tranh chấp. Bắt đầu với tranh chấp đảo Đông Sa (Pratas) giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Hoàng Sa và Trường Sa cũng lần lượt xuất hiện tranh chấp. Dù chủ quyền của đảo Đông Sa hiện nay không có tranh chấp  (ngoài tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan), nhưng việc xem xét lại giai đoạn lịch sử này sẽ giúp ích rất nhiều đối với việc nhận thức chính xác lịch sử biển Đông. 

Đảo Đông Sa nằm cách Sán Đầu khoảng 250 km về phía Nam và bao gồm một đảo san hô vòng (đảo Đông Sa) và hai bãi đá ngầm tạo thành. Vào đầu thế kỉ 18 người Trung Quốc gọi là “Nam Áo Khí” (南澳氣), người phương Tây gọi là “đảo Phố Lạp Tha Sĩ” (蒲拉他士/Pú lā tā shì: Pratas Island). Có lẽ từ rất sớm nó đã là vùng hoạt động của ngư dân Trung Quốc, nhưng cho tới đầu thế kỉ 19 mới có ghi chép thành văn chính xác. Năm 1868, Tổng ti thuế vụ Hải quan Trung Quốc Hách Đức (Sir Robert Hart, người Anh) từng đề nghị xây dựng đèn biển trên đảo Đông Sa nhưng không được thực hiện. Trung Quốc mất đi cơ hội khẳng định chủ quyền đối với Đông Sa. Năm 1883, một tàu của Hà Lan bị mắc cạn ở Đông Sa, hàng hóa bị ngư dân Trung Quốc cướp sạch. Người Hà Lan đã gửi công hàm cho phía Trung Quốc để kháng nghị, nhưng chưa rõ kết quả của việc này. Trung Quốc lại một lần nữa mất đi cơ hội khẳng định chủ quyền. 

Vào đầu thế kỉ 20, đã xuất hiện một bên mới trong tranh chấp biển Đông đó là Nhật Bản, một cường quốc mới nổi ở Đông Á. Kể từ thời Minh Trị duy tân Nhật Bản đã đi theo con đường bành trướng ra bên ngoài. Nhưng năm 1870, lần đầu tiên Nhật Bản thôn tính Lưu Cầu (Ryukyu); năm 1880, Nhật Bản chiếm quần đảo Tiểu Lạp Nguyên (Ogasawara); năm 1895, trước tiên Nhật Bản chiếm đảo Senkaku (Điếu Ngư) rồi thông qua “Hiệp ước Mã Quan” để đoạt lấy Đài Loan và quần đảo Bành Hồ từ tay Trung Quốc; năm 1905, Nhật Bản đánh bại nước Nga để giành đặc quyền ở Mãn Châu, đồng thời giành được quần đảo Kuril và miền Nam đảo Sakhalin; năm 1910, Nhật Bản chính thức thôn tính Triều Tiên. Trong các lần bành trướng, Nhật Bản đã nhanh chóng đánh bại và thay thế Trung Quốc trở thành nước lớn ở khu vực Đông Á. Bản thân Nhật Bản là một quốc đảo, sự bành trướng của nước này cũng là bắt đầu từ các đảo. Các đảo nhỏ nằm rải rác ở khu vực Đông Á, đặc biệt là “đảo không người” trở thành đối tượng hàng đầu trong sự bành trướng của Nhật Bản. Sau khi giành được quần đảo Ogasawara và đảo Senkaku, dựa vào uy danh sau Chiến tranh Giáp Ngọ, người Nhật Bản bắt đầu mở rộng sự chú ý đến biển Đông. Lấy đảo Senkaku và quần đảo Ogasawara làm ví dụ, mô thức thông thường của Nhật Bản là xua tư nhân hành động trước: đầu tiên tư nhân thăm dò và khai thác sau đó nhà nước xác nhận là đảo không người, cuối cùng thôn tính.  Các đảo biển Đông cũng không là ngoại lệ. 

Năm 1901, một tàu do người Nhật là Tây Trạch Cát Thứ (Yoshiji Nishizawa) mua trên đường đi từ Nhật Bản đến Cơ Long thuộc Đài Loan đã đi nhầm đường đến phía Nam Ryukyu, cuối cùng tàu dạt đến “đảo không người”. Đảo này chính là đảo Đông Sa, nhưng khi đó các thuyền viên đều không biết đến đảo này, cũng như không biết rõ vị trí chính xác của đảo. Thuyền viên lưu lại trên đảo 2 ngày, phát hiện trên đảo không có cư dân, nên đã lấy một ít mẫu bùn cát về Cơ Long làm hóa nghiệm. Kết quả phát hiện đất bùn trên đảo có chứa phốt phát, có giá trị khai thác. Nishizawa quyết định tăng cường việc khai thác. Vì vậy vào năm 1902, Nishizawa đến đảo Đông Sa khảo sát, đồng thời mang về một ít quặng và hải sản. Năm 1903, ông ta lại đến đảo Đông Sa, mang theo một  nhà hóa học, nhưng gặp bão không thể đến được. Sau đó, do Chiến tranh Nhật-Nga, kinh tế tiêu điều, trong tình trạng thiếu vốn, cuộc khảo sát của Nishizawa đành phải dừng lại.  Các mỏ phốt phát trên các đảo nhỏ ở vùng biên giới xa xôi là một trong những động lực để Nhật Bản khai thác các đảo khi đó, năm 1885 khi chính phủ Nhật Bản khảo sát đảo Senkaku, cũng đã khảo sát hàm lượng phốt phát trong bùn đất giống như vậy. 

Năm 1901, một người Nhật Bản khác nảy sinh hứng thú đối với đảo Đông Sa. Đó chính là nhà thám hiểm về đảo nổi tiếng Ngọc Trí Bán Hữu Vệ Môn (Tamaki Hanemon), ông ta là nhân vật chủ chốt trong khai thác phát triển đảo Đại Đông (Daito) vào nửa sau thế kỉ 19. Khác với Nishizawa, ông biết đảo Đông Sa qua hải đồ và đến thám hiểm có kế hoạch. Vào tháng 11/1901, ông hỏi Ngoại vụ tỉnh (tương đương Bộ Ngoại giao-ND) Nhật Bản đảo Đông Sa thuộc về nước nào, Ngoại vụ tỉnh không trả lời được, nên đã ra lệnh cho Lãnh sự ở Hong Kong điều tra. Chính quyền Anh tại Hong Kong trả lời: “Có vẻ không thuộc nước nào, nhà Thanh hình như đang do dự liệu có đưa nó vào lãnh thổ nhà Thanh (Trung Quốc) hay không, cần phải điều tra rõ ý đồ của nhà Thanh”. Nhưng trong tình hình điều tra chưa có tiến triển, Ngoại Vụ tỉnh đã trả lời đảo này là không thuộc về nước nào. Vì vậy, trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 8/1901, Tamaki đã tổ chức mấy chục người tiến hành thám hiểm đảo Đông Sa trong 3 tháng. Nhưng kết quả khảo sát của ông ta dường như cho thấy giá trị khai thác không lớn, vì vậy mà không có hành động tiếp theo. 

Ba lần đổ bộ lên đảo như đã trình bày ở trên chính là những khảo sát ban đầu của Nhật Bản đối với Đông Sa, phía Trung Quốc đều không có phản ứng gì. Nếu như nói thời gian khảo sát của Nishizawa là tương đối ngắn, thì thời gian khảo sát đại quy mô kéo dài 3 tháng của Tamaki không thể coi là không dài. Nhưng đối với lần khảo sát này, không những chính phủ Trung Quốc khi đó không biết mà ngay đến ngư dân sau đó cũng không đề cập đến, và trong “Tổng hợp hồ sơ đảo Đông Sa” cũng không có ghi chép. Có thể thấy rằng chính phủ Trung Quốc khi đó thiếu sự quản lí đối với Đông Sa, điều này càng củng cố thêm lí do để người Nhật cho rằng đảo Đông Sa là “đảo không người”. 

Sau Chiến tranh Nga-Nhật, Nishizawa tiếp tục ý định khai thác đảo Đông Sa. Tháng 8/1906, Nishizawa chỉ huy nhân viên điều khiển tàu “Trường Phong Hoàn” đổ bộ lên đảo Đông Sa lần thứ hai, mang về một lượng lớn mẫu vật. Mùa hè năm 1907, Nishizawa chỉ huy 120 người đổ bộ lên đảo Đông Sa lần thứ 3. Lần này Nishizawa có sự chuẩn bị khi đến, mở đường xây nhà, treo cờ Nhật Bản trên đảo, đặt tên đảo là đảo Nishizawa (Tây Trạch), sau đó lại chiêu mộ thêm nhiều nhân viên từ Nhật Bản và Đài Loan, bao gồm thầy thuốc và nhà hóa học, chính thức khai thác phốt phát. Theo báo chí, trước khi chính thức khai thác Nishizawa cũng đã hỏi ý kiến của nhiều cơ quan liệu đảo này có thuộc về nước nào hay không, bao gồm “Sứ quán nhà Thanh tại Nhật Bản, Lãnh sự các nước ở Yokohama, Quan đạo Thượng Hải, Phòng chính trị Hong Kong Anh”, câu trả lời cuối cùng đều là “hoàn toàn không thuộc nước nào”, và cuối cùng đã được Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản cho phép mới tiến hành. Nếu điều này là đúng thì nó càng chứng tỏ thêm rằng khi đó Trung Quốc không biết về đảo này. 

Không có ghi chép nào về người Trung Quốc trong hồ sơ của Nishizawa, nhưng trong lời kể của ngư dân Trung Quốc sau đó, được ghi chép lại có nêu việc người Nhật Bản xua đuổi người Trung Quốc như thế nào. Ví dụ ngư dân Lương Thắng khai rằng: đầu tiên người Nhật xua đuổi ngư dân, không cho phép họ đánh cá ở vùng phụ cận, sau khi bị từ chối liền phá hủy thuyền tam bản; người Nhật còn phá hủy miếu Đại Vương và nơi ở trên đảo, thậm chí còn đào bới các ngôi mộ trên đảo, đốt xương rồi ném xuống biển, vì vậy anh ta không dám quay lại đảo Đông Sa. 


I.4  Việc điều tra của Trung Quốc 

Việc Nishizawa khai thác Đông Sa (Pratas) được truyền thông Nhật Bản đưa tin đầu tiên. Báo chí Nhật Bản xem đây là một sự tích vinh quang khi “phát hiện đảo không người”, “vĩ đại như việc Columbus tìm ra lục địa mới châu Mĩ”.  Sau đó truyền thông Hong Kong đăng lại việc này mới thu hút sự quan tâm. Phản ứng của chính phủ Trung Quốc cho thấy thiếu sự quản lí chính thức đối với đảo Đông Sa. Quan chức Trung Quốc đầu tiên chú ý đến vấn đề này là tổng đốc Lưỡng Giang (Giang Tây, Giang Nam) Đoan Phương. Ông biết được việc này qua báo chí, vào tháng 9/1907 ông gửi điện cho Bộ Ngoại vụ nhà Thanh yêu cầu điều tra.  Ngày 11/10, Bộ Ngoại vụ chỉ thị Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn, một mặt chỉ ra rằng “người Hoa sợ khó cầu an, ít có người đến (đảo này)”, mặt khác lại cho rằng “Người Mân (Phúc Kiến), Việt (Quảng Đông) nào mà sành sỏi đi biển và có hiểu biết sâu rộng về địa lí, đều biết đảo này thuộc nước ta, ở địa phương chắc có bản đồ thư tịch có thể tra cứu”, và yêu cầu Lưỡng Quảng nghiên cứu xem “Tên gọi cũ của đảo này là gì? Có người cư trú hay không? ... Có đúng là có việc (người Nhật Bản khai thác) hay không? ” 

Từ bức điện của Bộ Ngoại vụ thấy rằng cái gọi là “... đều biết đảo này là thuộc nước ta” có lẽ là lời kể trong bức điện của Đoan Phương hoặc là lời lẽ của báo chí Hong Kong, Bộ Ngoại vụ thật ra không hề biết rõ tình hình của đảo này. Mô tả ban đầu về kinh vĩ độ vị trí của đảo cũng sai (viết thành 14° 422’’ vĩ Bắc, 116° 4214’’ kinh Đông). Lỗi này có thể cũng từ bức điện của Đoan Phương. 

Trương Nhân Tuấn sau khi nhận được lệnh, cùng với các ti tiến hành khảo sát, gửi điện trả lời vào ngày 15/10. Dựa theo kinh vĩ độ (sai) của đảo, trong bức điện có nhận định rằng “dường như không thuộc quyền quản lí của tỉnh Quảng Đông”, nhưng vẫn chưa biết tình hình đảo này. Cuối cùng yêu cầu rằng “nghe nói nơi này sóng to gió lớn, tỉnh Quảng Đông lại không có quân và tàu lớn, rất khó điều tra tận nơi, không biết có nên mời quý Bộ chuyển điện tín đến [hạm đội] Nam Dương, đưa thuyền lớn đi điều tra hay không? 

Trả lời của Trương Nhân Tuấn đã cho thấy hai tình trạng. Thứ nhất, nhận thức ít ỏi của nhà nước Trung Quốc về đảo Đông Sa, ngay đến tên gọi và vị trí của đảo cũng không biết, phía Quảng Đông cũng không biết việc người Nhật Bản chiếm đảo Đông Sa. Thứ hai, tỉnh Quảng Đông thiếu thuyền đến đảo Đông Sa tuần tra, phải nhờ thuyền của thủy quân Nam Dương, điều này cho thấy rằng thủy quân Quảng Đông không có khả năng tuần tra bình thường ở đảo Đông Sa. Kết hợp với các bằng chứng khác, điều này chứng tỏ rằng phạm vi tuần tra biển của thủy quân Trung Quốc thời kì cuối Thanh giới hạn ở vùng biển gần bờ, ngay đến tuần tra đảo Đông Sa thủy quân cũng không có khả năng, chứ đừng nói đến quần đảo Tây Sa và Nam Sa. 

Trong khi chờ thủy quân Nam Dương chi viện, Đoan Phương hỏi Lãnh sự quán Nhật Bản ở Nam Kinh, Lãnh sự Nhật Bản trả lời rằng “đảo này trên thực tế ở phía tây nam Đài Loan, phía đông nam Hong Kong, cách Hong Kong hơn 170 hải lí, tức đảo Phố Lạp Tha Sĩ trong Tân dịch Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ thuyết”. Đoan Phương theo đó tra cứu “Tân dịch Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ thuyết” (新譯中國江海險要圖說), cuối cùng phát hiện ra rằng trong hải đồ phương Tây đảo này được đặt tên là “đảo Phố Lạp Tha Sĩ” (Pratas) và biết vị trí chính xác của nó, cũng từ những tư liệu của người Anh ông biết thêm rằng “thuyền cá Trung Quốc đến tránh bão ở cảng này”, và nhận định rằng nơi này “đích xác thuộc sự quản lí của Quảng Đông”. Ông gửi những kết luận này cho Trương Nhân Tuấn trong một bức điện ngày 4/11, đồng thời nhờ Trương Nhân Tuấn tìm kiếm những bản đồ trước đó, vì lúc đó những thứ ông ta có thể tìm đều là bản đồ mới đo mới vẽ, không đủ để chứng minh chủ quyền một cách thuyết phục. Trương Nhân Tuấn gửi điện trả lời “tìm khắp sách vở bản đồ của tỉnh Quảng Đông, đều không có bằng chứng xác thực ghi chép về đảo này”. Vẫn cần điều tra thực địa để đưa ra kết luận.

Hải quân Nam Dương mãi không thể điều tàu đến được, vì vậy gần một năm sau đó cũng không có tiến triển. Lúc này, trái lại người Anh có đôi chút sốt ruột, họ sợ sau khi Nhật Bản chiếm đảo Đông Sa sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh ở Quảng Đông và biển Đông. Khá lâu không thấy phía Trung Quốc có phản ứng gì, tháng 8/1908 Lãnh sự quán Anh tại Quảng Châu gửi thư cho Ủy viên Dương vụ Quảng Đông rằng: “Đảo này không có cư dân, rõ ràng là đất không thuộc về ai. Nhưng hàng năm đều có thuyền cá Trung Quốc đến đảo. Vào năm 1882 và 1902 chính phủ Anh đề nghị xem có nên xây một đèn biển trên đảo này hay không. Sau đó vì không thể phán đoán đảo này thuộc nước nào, và nên do ai xây dựng, do đó không tiến hành nữa. Nay tuân theo chủ trương của Bộ Ngoại giao nước chúng tôi, tình hình đảo này và nước mà nó thuộc về cần được điều tra chi tiết... Vì vậy dùng công hàm đặc biệt này thỉnh cầu tra xét tường tận từ trong hồ sơ của dinh tổng đốc xem đảo này có thuộc về Trung Quốc hay không, chính phủ Trung Quốc có văn bản tuyên bố rõ ràng hay không. Xin chỉ rõ từng điểm một.” Ủy viên Dương vụ Quảng Đông trả lời rằng “đảo này đúng là đảo thuộc về Trung Quốc”. Thái độ của ông này khác với Trương Nhân Tuấn, đại khái khi đó phía tỉnh Quảng Đông đã có ý nhận định đảo Đông Sa thuộc về tỉnh mình, và mặc dù nội bộ vẫn tìm kiếm bằng chứng để tiện giao thiệp với Nhật Bản, nhưng với Anh thì vẫn khẳng định rõ chủ quyền.

Đoan Phương sau khi biết chuyện, ngày 14/9/1909 vội vàng gửi thư cho đề đốc Nam Dương Tát Trấn Băng, đốc thúc phải nhanh chóng phái tàu điều tra. Để tiện việc giao thiệp với Nhật Bản, ông cho rằng Anh “trước tiên nói [không] thuộc Trung Quốc. sau đó nói có thuyền cá Trung Quốc đến đó hàng năm, ngụ ý  đảo này thuộc Trung Quốc. Sau đó nói chính phủ Anh muốn xây dựng đèn biển, có hỏi phía Trung Quốc đảo này có phải thuộc Trung Quốc hay không”. Vì vậy, có thể suy đoán rằng phía Anh “biết rõ đảo này bị quân Nhật chiếm, thấy phía Trung Quốc không lên tiếng truy hỏi, do đó dùng lời bóng gió, ngầm  nhắc nhở ta phải tuyên bố và liệu định cụ thể hơn”. 

Tuy nhiên, việc điều tàu vẫn còn gặp trở ngại, mãi cho đến ngày 1/2/1909 thủy quân Nam Dương mới phái “tàu Phi Ưng” từ Hong Kong ra đi, ngày 2/2 đến được đảo Đông Sa. Trong khi điều tra ở đó, Trung Quốc mới biết rõ lần đầu rằng tên tiếng Trung của đảo này là đảo Đông Sa. Đồng thời qua quan sát họ cũng thấy rằng trên đảo khi đó không có người Trung Quốc mà chỉ có người Nhật hoạt động, và cũng đề cập đến việc người Nhật Bản phá hủy miếu Thiên Hậu và xua đuổi thuyền cá của Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Trung Quốc đến được Đông Sa. Báo cáo của chuyến đi lần này rất sơ sài, có thể thấy là cuộc khảo sát không được tỉ mỉ. Vì vậy, Trương Nhân Tuấn phái tàu Phi Ưng và một tàu bắt buôn lậu (tàu do người Anh quản lí) đến đảo Đông Sa lần nữa để khảo sát chi tiết. 

Hai tàu lại đến đảo Đông Sa ngày 19/2. Lần khảo sát này chi tiết hơn lần trước rất nhiều, khi lên đảo họ được người Nhật tiếp đãi. Mặc dù khi đó Nishizawa không có trên đảo, người Nhật vẫn rất hợp tác khi trả lời các câu hỏi, bầu không khí rất tốt, tiếc là người phụ trách không biết nhiều về ngọn nguồn của đảo này. Sau đó, nhân viên khảo sát cũng đã đi viếng toàn đảo và hỏi han ngư dân xung quanh, cuối cùng viết thành “Báo cáo của ủy viên” tương đối tường tận, trong đó có nội dung hỏi đáp với người Nhật và lời khai của ngư dân. Trong báo cáo này có mấy điểm đáng chú ý: thứ nhất, hoạt động khai thác của Nishizawa mang tính chất tư nhân, hoàn toàn không có sự tham dự trực tiếp của chính phủ Nhật Bản; thứ hai, vào năm 1909, Toàn quyền Đài Loan (Nhật Bản) từng phái người đến thị sát, điều này cho thấy chính phủ Nhật Bản sau đó đã biết việc Nishizawa khai thác ở Đông Sa; thứ ba, những người Nhật này hoàn toàn không biết đảo này thuộc nước nào; thứ tư, người Nhật thường xuyên xua đuổi thuyền cá của Trung Quốc ở đó, và phá hủy các kiến trúc có trước của Trung Quốc trên đảo; thứ năm, ngư dân Trung Quốc thường xuyên hoạt động tại đó chịu tổn thất rất lớn nhưng không biết phải báo cáo cho ai. 

Cho đến lúc đó, chính quyền và xã hội Trung Quốc mới biết về sự việc trên đảo Đông Sa. Sau khi nắm vững những tư liệu này, ngày 15/3 Trương Nhân Tuấn đã xin ý kiến của Bộ Ngoại vụ về việc Bộ Ngoại vụ hay tỉnh Quảng Đông sẽ đứng ra để giao thiệp với Nhật Bản. Ngày 13/5, Bộ Ngoại vụ điện trả lời Trương Nhân Tuấn, quyết định để tổng đốc Lưỡng Giang Đoan Phương đứng ra giao thiệp với Nhật Bản trước. Nhưng Trương Nhân Tuấn đợi không thấy thư trả lời của Bộ Ngoại vụ, nên ngày 17/3 đã gửi công hàm cho tổng lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Châu Lại Xuyên Thiển Chi Tiến (Asanoshin Laikawa), giao thiệp giữa Trung Quốc và Nhật Bản về Đông Sa mở đầu từ đó.


I.5  Việc giao thiệp giữa Trung Quốc và Nhật Bản 

Ngày 17/3/1909, Trương Nhân Tuấn gửi công hàm cho tổng lãnh sự Nhật Bản tại Quảng Châu nói: “Hiện kiểm tra mặt biển Huệ Châu có đảo Đông Sa mà xưa nay là nơi thuyền cá các cảng của Phúc Kiến, Quảng Đông đi đánh cá cập bến, đó chính là đất đai của Quảng Đông. Gần đây có doanh nhân của quý quốc thuê công nhân khai thác phốt phát ở đây, tự ý kinh doanh, là việc bất hợp pháp, nhờ quý quan lãnh sự ra lệnh doanh nhân này lập tức rút lui, điều tra xử lí  để giữ tình hữu nghị”. Lãnh sự Nhật Bản trả lời rằng đang gửi điện cho Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản để tìm hiểu tình hình. Thời gian này, công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản là Hồ Duy Đức thấy báo chí Nhật Bản đưa tin về việc này nên hỏi Trương Nhân Tuấn. Trương Nhân Tuấn và Bộ Ngoại vụ quyết định tiến hành theo hai hướng cùng một lúc, giao thiệp giữa tỉnh Quảng Đông với Lãnh sự Nhật Bản và giữa Công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản với Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản. 

Ngày 21/3, Laikawa gặp Trương Nhân Tuấn, xác định rằng “đảo này vốn không thuộc Nhật Bản, chính phủ ngài cũng không có ý chiếm đóng, chỉ nên xem là đảo hoang vô chủ, nếu Trung Quốc cho rằng đảo này là vùng đất của mình, thì cần phải có sách địa phương chí và bằng chứng xác thực đảo này do quan nào, doanh nghiệp nào quản lí, để đem những bằng chứng này gửi điện về cho Bộ Ngoại vụ giải quyết”. 

Trương Nhân Tuấn chỉ ra rằng: (1) Ngư dân Trung Quốc đánh cá ở đây; (2) Trên đảo trước đây có miếu thờ thần biển do Trung Quốc xây dựng, hiện nay tuy bị Nhật Bản phá dỡ nhưng vẫn có dấu tích có thể xác nhận được; (3) Đất đai của các nước không cứ nhất định phải có người cư trú mới có thể có quyền quản lí. 

Nhưng Laikawa phản bác rằng đánh cá ở đây chỉ có thể xem là hoạt động của tư nhân, thứ miếu thờ thần biển nếu đã không còn thì khó mà kiểm tra chi tiết được, chỉ có bằng chứng quản lí thật sự mới có thể thuyết phục phía Nhật Bản.  Khi công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản Hồ Duy Đức giao thiệp với Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản, ông cũng nhận được câu trả lời tương tự. 

Theo báo Nhật Bản đưa tin: “Chính phủ Nhật Bản biểu thị rằng đảo Đông Sa hiện tại tuy không biết thuộc về nước nào, nhưng Nhật Bản quyết không chiếm làm của mình. Hơn nữa, Nhật Bản cũng có thể thừa nhận đảo này thuộc về Trung Quốc, nếu Trung Quốc có thể đưa ra bằng chứng đích xác”. Khi được truyền thông Hong Kong hỏi, lãnh sự Nhật Bản tại Hong Kong bày tỏ rằng ông không rõ việc này, và cũng đã phủ nhận việc này do chính phủ Nhật Bản làm. Nói như vậy là mâu thuẫn với việc Nishizawa được Ngoại vụ tỉnh chấp thuận trước đó, có thể giải thích điều này là do khi đó Lãnh sự Nhật Bản tại Hong Kong chưa chắc đã biết về sự đồng ý của Ngoại vụ tỉnh, nhưng cũng có thể khi đó Nhật Bản đã quyết định không tranh đoạt đảo này, lãnh sự muốn không dính dáng với nó trước nhà Thanh. 

Trương Nhân Tuấn cảm thấy phía Nhật Bản ngang ngược và vô lí. Nhưng công bằng mà nói, thái độ của Nhật Bản không phải là quá tệ: ít nhất Nhật Bản cũng thừa nhận đảo này vốn không thuộc lãnh thổ Nhật Bản, chỉ cần Trung Quốc đưa ra bằng chứng quản lí thực chất, thì Nhật Bản sẽ đồng ý từ bỏ tranh chấp; mà bằng chứng về quản lí  thực chất mà phía Nhật Bản yêu cầu cũng hợp tình hợp lí, còn xa mới đạt đến yêu cầu về bằng chứng quản lí  mà các thành viên tòa trọng tài đưa ra phán quyết sau này (năm 1929) trong vụ kiện tranh chấp đảo giữa Palmas Mĩ và Hà Lan. Ví dụ, Nhật Bản cho rằng chỉ cần đưa ra bằng chứng như bản đồ, sách vở... là có thể đồng ý rồi, nhưng trong vụ kiện đảo Palmas bản đồ rất khó để trở thành bằng chứng. 

Về phía Nhật Bản chỉ có toàn quyền Đài Loan bày tỏ ý kiến, cho rằng đảo Đông Sa là đảo phụ thuộc của Đài Loan, được Trung Quốc cắt nhượng cho Nhật Bản trong Chiến tranh Giáp Ngọ. Nhưng lập luận như vậy không có chút căn cứ, chính phủ Nhật Bản hiển nhiên cũng không đồng ý với cách lập luận này. 

Thái độ này của Nhật Bản có thể liên quan với tình hình quốc tế. Khi đó Chiến tranh Nhật-Nga vừa kết thúc, và Nhật Bản đã thu hút sự chú ý của Anh, Pháp, Hoa Kỳ … Để bảo vệ lợi ích truyền thống của họ ở biển Đông (3 nước đều có thuộc địa ở biển Đông), 3 nước này đương nhiên không muốn Nhật Bản mở rộng thế lực đến khu vực biển Đông. Việc Anh bóng gió gợi ý với Trung Quốc việc xây dựng đèn biển ở Đông Sa chính là một ví dụ. Sau chiến tranh Nhật Bản cũng cần phục hồi và giấu mình chờ thời. Sau khi xảy ra sự kiện tàu “Nhị Thần Hoàn” (Tatsu Maru) năm 1908, tinh thần chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc dâng cao, tranh chấp đảo Đông Sa không khác gì đổ thêm dầu vào lửa (xem phần sau). Ngoài ra, việc khai thác ở đảo Đông Sa của Nhật Bản từ đầu đến cuối chỉ là sự khai thác mang tính chất tư nhân, Nishizawa thậm chí còn chưa thành lập công ti. Mặc dù toàn quyền Đài Loan ủng hộ việc thôn tính đảo Đông Sa, và quan chức địa phương Đài Loan cũng từng đến đảo khảo sát, nhưng Đài Loan chỉ là thuộc địa, không thể đại diện hoàn toàn cho thái độ của Nhật Bản. Hơn nữa, Đài Loan cũng không chính thức ủng hộ hành vi của Nishizawa, ví dụ như không đưa đảo Đông Sa vào khu vực hành chính của Đài Loan, cũng như không chính thức quản lí nó. Như vậy, chính phủ Nhật Bản can thiệp vào vụ này không sâu, cũng không hề cố hết sức để chiếm lấy đảo Đông Sa. Vì thế, ngay từ đầu chính phủ Nhật Bản đã chỉ thị cho Laikawa không cần phải khăng khăng cho rằng đảo Đông Sa là của Nhật Bản, chỉ cần yêu cầu phía Trung Quốc đưa ra bằng chứng, nếu phía Trung Quốc không thể đưa ra bằng chứng mới xem xét đưa ra đối sách tiếp. 

Như vậy, mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Trương Nhân Tuấn bắt đầu bắt tay vào việc tìm kiếm bằng chứng, nhưng bằng chứng lại không hề dễ tìm. Nguyên nhân chủ yếu là mặc dù ngư dân hoạt động nhiều ở đảo Đông Sa, nhưng chính phủ Trung Quốc trên thực tế không có bằng chứng vững chắc về đảo Đông Sa. Gần hai năm sau sự việc, chính phủ Trung Quốc vẫn mơ hồ về vị trí của đảo Đông Sa, ví dụ vào ngày 24/3, Bộ Ngoại vụ Trung Quốc còn gửi thư yêu cầu Trương Nhân Tuấn xác minh kinh vĩ độ và xem đảo Đông Sa có phải là “đảo Bích Liệt Tha” (碧列他) không. Ngày 27/3, Trương Nhân Tuấn trả lời:

Ngày 6 tháng 9 năm Đinh Mùi nhận được điện của Bộ Binh (鈞部: Quân bộ) nói có một vùng đảo thuộc quyền quản lí nằm ở 14° 42’ 2” vĩ Bắc, 116° 42’ 14” kinh Đông. Tra hải đồ của Anh, nơi này chỉ toàn là biển, không có đảo nào. Cách Quảng Đông quá xa, tự thấy khó nói là đất của Quảng Đông. Quảng Đông cũng không có tàu thuyền lớn nào có thể đi xa để khảo sát ngoài biển, không khỏi nhìn biển mà thở dài. Tiếp đó nhận điện Ngọ Soái, đảo này ở 20° 42’ vĩ Bắc, 116° 43’ kinh Đông. Tra lại hải đồ của Anh mới biết tên đảo này là Bồ Lạp Tha Sĩ (蒲拉他士/Pú lā tā shì: Pratas), tức đảo Đông Sa thuộc Quảng Đông, đó không phải là đảo bị người Nhật chiếm ở 14° vĩ Bắc. Hiện đã tra rõ đảo sau cách biên giới biển Quảng Đông rất gần và có tên là đảo Tây Sa ở vùng biển Hải Nam, đã phái người đến đảo Tây Sa và thuê tàu của Hải quan đến điều tra để có thêm bằng chứng. Truy kĩ từ Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ (中國江海險要圖), chỉ rõ đảo này thuộc Quảng Đông cách Ma Cao 13 lí, có thể quả quyết là thuộc Quảng Đông, dựa vào đó để đấu tranh. Bộ Binh tra cứu bản đồ thấy có tên đảo là Bích Liệt Tha, đó phải là phiên âm của đảo Bồ Lạp Tha Sĩ (Pratas). Người Nhật gần đây đổi tên thành Tây Trạch (Nishizawa) mưu đồ cắt bỏ tên gọi Đông Sa của nước ta, bản đồ nước ta tường tận về đất liền mà sơ lược về biển, thiên về khảo chứng phương hướng xa gần, lâu nay ít đo đạc ghi chép thực tế, có nhiều sai sót. Các đảo ven bờ thường chỉ có tên đất mà không có hình vẽ, ghi chép chi tiết. Đành chịu không thể khảo cứu trong sách cũ. Vẫn phải dựa vào hải đồ của Anh. Các bằng chứng khác hiện đang cố gắng thu thập, chủ yếu không nằm ngoài ngư nghiệp. Nhu viễn kí [柔遠記], Giang hải hiểm yếu đồ thuyết có ghi chép nhiều mặt, đem dùng để đấu tranh không phải là không có hiệu quả”. 

Đoạn trả lời  này có mấy điểm đáng chú ý là:

 Thứ nhất, “14° 42’ 2” vĩ Bắc, 116 ° 42’ 14” kinh Đông” nằm ở khoảng 100 km về phía tây bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham). Nơi này được tổng đốc Lưỡng Quảng miêu tả là “cách Quảng Đông quá xa, tự thấy khó nói là đất của Quảng Đông”. 

Thứ hai, Tổng đốc Lưỡng Quảng thừa nhận địa lí học của Trung Quốc “tường tận về đất liền mà sơ lược về biển, thiên về khảo chứng phương hướng xa gần, lâu nay ít đo đạc ghi chép thực tế, có nhiều sai sót. Các đảo ven bờ thường chỉ có tên đất mà không có hình vẽ, ghi chép chi tiết. Đành chịu không thể khảo cứu trong sách cũ.” Đây chính là lí do vì sao Trung Quốc khó mà đưa ra bằng chứng thực tế. 

Thứ ba, đến cuối cùng vẫn phải dựa vào hải đồ của Anh, mà “Giang hải hiểm yếu đồ thuyết” lại là bản dịch từ hải đồ của Anh. 

Thứ tư, chính phủ Trung Quốc còn thiếu các bằng chứng quản lí nó. 

Thứ năm, bản đồ tìm được khi đó tương đối gọi là do Trung Quốc vẽ nằm trong “Quốc triều nhu viễn kí” (1881) của Vương Chi Xuân, phần dư đồ ven biển trong đó có địa danh Đông Sa, thật ra có không ít bản đồ của Trung Quốc ghi tên “Nam Áo Khí”, nhưng nhà nước không biết, do đó đây là bản đồ duy nhất có thể tìm thấy. 

Thứ sáu, vấn đề Tây Sa được đề cập ở đây sẽ còn được thảo luận ở chương tiếp sau. 

Ngày 29/3, Trương Nhân Tuấn mang mấy tấm bản đồ đến giao thiệp với Laikawa. Laikawa rất thẳng thắn bày tỏ rằng: “Dựa trên bằng chứng cho thấy đảo này thuộc về Trung Quốc, dù chưa hoàn chỉnh, nhưng theo lời của tổng đốc Quảng Đông, thì có vẻ như không thể phủ nhận, tuy nhiên phải đảm bảo cho ổn thỏa, nếu không chính phủ vẫn xem là đảo vô chủ”. Ở đây, phía Nhật Bản biểu thị rằng chỉ có bằng chứng bản đồ như vậy vẫn chưa đủ. Nói như vậy đúng ra vẫn chưa hạ thấp, thật ra hải đồ của Anh chỉ là hải đồ chứ không có liên quan đến vấn đề chủ quyền. Và bản đồ trong“Quốc triều nhu viễn kí” cũng thiếu đánh dấu biên giới quốc gia rõ ràng. Theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt, thật sự khó mà chứng minh Đông Sa thuộc Trung Quốc. Nhưng Nhật Bản khi đó hoàn toàn không có ý tranh đoạt Đông Sa với Trung Quốc. Do đó, chủ đề thảo luận nhanh chóng chuyển sang vấn đề bồi thường.

Trương Nhân Tuấn hỏi Laikawa: lấy gì để đảm bảo ổn thỏa? Laikawa đáp rằng: “Việc kinh doanh Nishizawa rất tốn kém, môt khi rút đi tất tổn thất nhiều – sau khi rút đi, của cải của ông ta như nhà cửa, mấy đoạn đường sắt... cần phải có biện pháp thích hợp”. Ý của phía Nhật Bản là chỉ cần phía Trung Quốc chịu bồi thường cho Nishizawa, Nhật Bản sẽ bằng lòng rút khỏi cuộc tranh chấp về đảo Đông Sa. Trương Nhân Tuấn thì lấy tổn thất của ngư dân Trung Quốc ra để phản bác. Hai bên đồng ý sẽ đàm phán tiếp về vấn đề này. 

Đến đây, các trở ngại trong tranh chấp đảo Đông Sa đã được loại bỏ hết. Trong mấy tháng đàm phán sau đó, hai nước Trung-Nhật triển khai đàm phán xung quanh vấn đề bồi thường và trao trả như thế nào, nhưng không còn là vấn đề cơ bản nữa. Những vấn đề này bao gồm: (1) Nhật Bản yêu cầu Nishizawa vẫn có thể khai thác khoáng sản trên đảo, Trung Quốc nhất quyết muốn thu mua tất cả tài sản; (2) Nếu Trung Quốc nhất quyết thu mua thì giá tài sản của Nishizawa được định là bao nhiêu? Nishizawa có cần nộp thuế đối với hải sản và khoáng sản mà ông khai thác trong mấy năm qua không? (3) Tổn thất của ngư dân Trung Quốc và tổn thất của ngôi miếu bị phá hủy là có thật hay không, định giá bao nhiêu? 

Cuối cùng, vào ngày 11/10, hai bên kí thỏa thuận, phía Trung Quốc thu mua tài sản của Nishizawa, định giá 160 000 đồng tiền bạc; Nishizawa trả lại các khoản tiền về thuế, tàu cá, miếu thờ... được định là 30 000 đồng. Sau khi Nishizawa giao cho phía Trung Quốc tài sản và số phân chim hiện có theo danh sách cho phía Trung Quốc, trong vòng nửa tháng phía Trung Quốc sẽ giao khoản tiền cho lãnh sự Nhật Bản tại Quảng Đông. Trong thỏa thuận này, từ góc độ luật quốc tế, điều đáng chú ý là câu chữ về các khoản thuế. Các khoản thuế này đồng nghĩa với việc Nishizawa phải nộp thuế cho phía Trung Quốc theo thu nhập trước đó, và có nghĩa là Nhật Bản thừa nhận đảo Đông Sa trước đó không phải là đất vô chủ mà là đảo do chính phủ Trung Quốc quản lí. Ngày 15/11, đại biểu hai nước Trung, Nhật cùng đến đảo Đông Sa, tiến hành kiểm kê và chuyển giao tài sản. Tranh chấp Đông Sa chính thức kết thúc. 


I.6  Trung Quốc củng cố chủ quyền đối với đảo Đông Sa và việc  gia tăng ý thức phòng thủ biển ở Trung Quốc 

Sau khi tranh chấp đảo Đông Sa kết thúc, Trung Quốc lập tức tăng cường sự quản lí đối với đảo Đông Sa. Các biện pháp bao gồm: 

(1) Khảo sát. Ngày 13/2/1910, Tri phủ dự khuyết Quảng Châu Thái Khang dẫn đầu đoàn nhân viên khảo sát đảo Đông Sa. Sau khi trở về, viết thành báo cáo “Trù tính về tiếp nhận mời gọi doanh nhân đảm nhận việc sản xuất trên đảo”, đề xuất nhiều biện pháp như mời gọi doanh nhân khai thác phốt phát, thu hoạch hải sản, đảm nhận làm nghề cá ở đảo; mộ người bảo vệ, sửa chữa tàu thuyền; mời Ti quan thuế vụ Cửu Long phái thuyền đến đo đạc, vẽ bản đồ...

(2) Mời gọi doanh nhân. Dựa trên kiến nghị này, Đạo Khuyến nghiệp, Cục Thiện hậu và Ti Bố chính tỉnh Quảng Đông kết hợp đưa ra thông báo mời gọi đầu tư. Tiến hành mời gọi đầu tư vào phốt phát và nghề cá. Để thuận tiện cho việc khảo sát của doanh nhân, vào ngày 27/3, Thái Khang và hơn 20 doanh nhân đến đảo Đông Sa khảo sát thực địa, thế nhưng điều kiện khắc nghiệt trên đảo làm giảm bớt nhiều ý muốn khai thác của doanh nhân, việc mời gọi đầu tư kết thúc mà không có kết quả. 

(3) Nhà nước khai thác. Sau khi mời gọi đầu tư thất bại, Trung Quốc quyết định kinh doanh đảo Đông Sa theo hình thức nhà nước điều hành. Vào tháng 6/1910 chương trình quốc doanh được thông qua, cho phép Thái Khang mời kĩ sư Nhật Bản và mộ công nhân Trung Quốc. Tháng 7, thành lập “Ủy ban quản lí đảo Đông Sa”. Hai tháng sau đó, Ủy ban tổ chức cho nhân viên thu lấy một lô phốt phát, nhưng nguồn tiêu thụ không tốt, thu lợi rất ít, không thể tiếp tục làm được, cuối cùng vào cuối tháng 9 quyết định ngừng công việc. Ngày 20/11, Ti sự đảo Đông Sa Hồng Niệm Tông tiến hành nghiệm thu tài sản trên đảo. 

(4) Trung – Nhật hợp tác khai thác. Sau khi khai thác quốc doanh thất bại, Trung Quốc đành phải hợp tác với Nhật Bản một lần nữa. Năm 1911, qua sự trung gian giới thiệu của lãnh sự Nhật Bản Laikawa, Đạo Khuyến nghiệp tỉnh Quảng Đông và Thương hội Osawa đã kí hợp đồng, cho doanh nhân Nhật Bản tiến hành khai thác hải sản (như ốc biển...) của đảo Đông Sa, Trung Quốc được 60% lợi nhuận, Nhật Bản được 40%. Nhưng lợi nhuận của doanh nhân Nhật Bản rất ít, nên đã tuyên bố ngừng công việc vào tháng 10 cùng năm. 

(5) Ngư nghiệp và quản lí ngư dân. Vào năm 1910, tỉnh Quảng Đông ra thông cáo, báo cho ngư dân Huệ Châu biết rằng họ có thể đến đánh cá ở vùng phụ cận đảo, nếu trên biển có sóng gió hoặc sự cố, có thể lên đảo sẽ có người đóng trên đảo tiếp đãi. Cũng có thể xây dựng lại miếu, nhưng cần trình báo và được nhà nước cho phép mới có thể tiến hành. Sau đó, tỉnh Quảng Đông còn thử soạn thảo chương trình ngư nghiệp chi tiết hơn, nhưng vì đã cho Nhật Bản nhận thầu nên chương trình không được dùng. 

(6) Tuần tra và quản lí. Trong thời gian hợp tác Trung–Nhật, Ti sự đảo Đông Sa Hồng Niệm Tông nhiều lần đến đảo tuần tra, báo cáo sự tiến triển của các hạng mục trên đảo. Trong báo cáo còn miêu tả trên đảo có một “ủy viên quản lí sự vụ trên đảo, một người quản lí công nhân, một dũng mục, một thầy thuốc, 13 lính canh, trông coi tài sản trên đảo” trực thuộc sở Khuyến nghiệp tỉnh Quảng Đông. 

Mặc dù Trung Quốc không thành công trong việc khai thác đảo Đông Sa, nhưng thông qua một loạt hành động như kể trên, Trung Quốc đã thực thi đầy đủ chủ quyền đối với đảo Đông Sa. Sau năm 1909, đảo Đông Sa đã xuất hiện phổ biến trên nhiều bản đồ của Trung Quốc và của tỉnh Quảng Đông (xem phần II.8). Điều này cho thấy quyền quản lí của Trung Quốc đối với đảo Đông Sa đã chính thức được thiết lập. Sau thời Dân quốc, Sở Thực nghiệp tỉnh Quảng Đông lại đưa ra thông báo chiêu thương đối với đảo Đông Sa. Điều này đã cho thấy  sự liên tục trong việc kiểm soát đảo Đông Sa thời Dân quốc. 

Trong sự kiện đảo Đông Sa, phản ứng của người dân Trung Quốc rất thú vị. Một mặt, khi ngư dân bị xua đuổi khỏi đảo Đông Sa vào năm 1907, họ căm giận mà không biết kêu ai, cũng không thấy bất cứ tờ báo nào đưa tin. Mặt khác, khi Trung Quốc và Nhật Bản giao thiệp vào năm 1909, báo chí bắt đầu đưa tin và tình hình của quần chúng sôi sục xuất hiện. Ví dụ, thượng tuần tháng 3/1909, Hội nghiên cứu Tự Trị Huệ Châu cử đại biểu đến Quảng Châu, tổ chức họp chung với Hội nhân sĩ doanh nhân tỉnh, hợp sức để đưa ra bằng chứng trong “Hải quốc văn kiến lục” cho thấy rằng Trung Quốc đã biết đến Đông Sa từ lâu. Lại có Quan Tả Điền từng đi đến Đông Sa chỉ ra “hai ba chục năm trước, có học giả Hồ Duy Đồng ở Nam Hải dâng thư lên quan, miêu tả tỉ mỉ vùng đảo nơi này, rất quan trọng. Vẫn chưa thể tìm thấy nguyên văn tờ trình này”. Hội Tự Trị tỉnh Quảng Đông dưới sự lãnh đạo của nhân sĩ Chu Khổng Bác lại tập hợp nhiều người cùng bàn luận về vấn đề đảo Đông Sa, quyết định áp dụng ba bước để giải quyết: (1) Nhanh chóng công bố cho trong và ngoài nước biết để tạo áp lực dư luận; (2) Trình thư lên chính phủ, yêu cầu chính phủ đảm bảo chắc chắn lợi ích của ngư dân; (3) Tranh đấu đến cùng.

Ngày 11/4, Chu Khổng Bác lại tổ chức hội nghị, đề xuất việc gửi điện cho chính phủ, yêu cầu bảo vệ lợi ích ở đảo Đông Sa. Sau đó, liên tục có người gửi thư cho tổng đốc Quảng Đông và tổng đốc Lưỡng Giang, yêu cầu bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc. Lúc này, “chủ nghĩa dân tộc” ở Quảng Đông dâng cao. Vào tháng 2/1908 xảy ra vụ án Nhị Thần Hoàn (Tatsu maru) giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Tàu Nhị Thần Hoàn chở vũ khí đang dỡ hàng tại vùng biển bên ngoài đảo Lộ Hoàn của Ma Cao, bị thủy quân nhà Thanh bắt được. Hai bên tranh cãi liệu sự việc xảy ra ở vùng biển của Trung Quốc hay ở vùng biển của Bồ Đào Nha, liệu thủy quân Trung Quốc có quyền truy bắt buôn lậu ở Ma Cao hay không. Cuối cùng, nhà Thanh thừa nhận vùng biển này thuộc Ma Cao, đồng thời xin lỗi và bồi thường cho Nhật Bản. Sự việc này dẫn đến cao trào chống Nhật ở Quảng Đông. 

Trong cuộc đàm phán phân chia ranh giới ở Ma Cao năm 1908-1909 ngay sau đó, phía Trung Quốc cũng có sự nhượng bộ đối với Ma Cao. Đồng thời, ở Đông Bắc còn có tranh chấp đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Vì vậy thời gian này ở Quảng Đông đã dấy lên cao trào chống Nhật, bài ngoại như tẩy chay hàng hóa của Nhật.... Lúc đó lại thêm tranh chấp đảo Đông Sa, càng khiến tình cảm quần chúng ngày càng sôi sục. Truyền thông Nhật Bản nhận định rằng sự kiện đảo Đông Sa “đang lúc lòng người bị kích động, khí thế hừng hực, sợ không thể ngăn chặn được. Và vấn đề đột nhiên nẩy sinh bị lợi dụng như một cái cớ để xúi giục tẩy chay, thật đáng lo ngại. Các cấp thẩm quyền ngoại giao phải công bằng vô tư, điều tra rõ sự thực và nhanh chóng giải quyết”. Vào thời gian này, Trung Quốc cũng đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, và Pháp cũng quyết định không lên tiếng vì sợ kích động chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. 

Tóm lại, sau sự kiện đảo Đông Sa, chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề các đảo ở biển Đông. Các đảo ở biển Đông không còn là các đảo không quan trọng, mà là lãnh thổ cần phải tuyên bố rõ ràng. Năm 1909, việc Trung Quốc giành được Đông Sa và tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa đều phản ánh ý thức về quyền lợi biển của Trung Quốc đang tăng lên. 

Đảo Đông Sa là đảo được giải quyết vấn đề chủ quyền sớm nhất trong số các đảo ở biển Đông. Sau khi bước vào thời Dân quốc, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục tăng cường sự quản lí ở Đông Sa, khuyến khích doanh nhân Trung Quốc khai thác Đông Sa, không cho phép doanh nhân nước ngoài (người Nhật Bản) khai thác. Người Nhật Bản vẫn quan tâm đối với hải sản trên đảo như trước, đặc biệt là một thứ hải sản loại tảo tên là hải nhân thảo (rong biển). Năm 1926, một công ti ở Quảng Đông được cấp giấy phép độc quyền khai thác rong biển, lại lén cho người Nhật kinh doanh rong biển, bị chính quyền tỉnh Quảng Đông phát hiện, giấy phép của công ti này đã bị hủy bỏ. Năm 1927, một công ti khác có được quyền kinh doanh hải sản ở đảo Đông Sa, nhưng liên tục xảy ra xung đột với ngư dân Nhật Bản đến thu hoạch trộm rong biển, năm 1932 còn gây thành vụ án đẫm máu. 

Năm 1933, doanh nhân Nhật Bản đổ bộ trái phép lên đảo, chiếm kho tàng và thiết bị trên đảo, dẫn đến sự giao thiệp ngoại giao Trung-Nhật. Tranh chấp về rong biển mãi đến khi bùng nổ chiến tranh Trung-Nhật năm 1937 vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, trong những tranh chấp này, chính phủ Nhật Bản đều không thách thức chủ quyền của Trung Quốc đối với Đông Sa. Tổng thuật về những tranh cãi đó có thể tham khảo chuyên luận của tác giả khác, không trình bày chi tiết trong cuốn sách này.


I.7  Kết luận: Bình luận về tranh chấp đảo Đông Sa 

Tranh chấp đảo Đông Sa là cuộc tranh chấp đầu tiên về các đảo biển Đông từ khi lịch sử được ghi chép lại đến nay. Nhật Bản là một cường quốc biển mới nổi trước đây đã khuấy động biển Đông vốn yên tĩnh trước đây. Từ mấy chương tiếp theo có thể thấy rằng trong suốt nửa đầu thế kỉ 20, các tranh chấp ở biển Đông đều có liên quan đến Nhật Bản. Sự xuất hiện của Nhật Bản, một mặt đã làm bừng tỉnh ý thức quyền lợi biển và tình cảm chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, mặt khác cũng đã đụng chạm đến lợi ích của các nước Anh, Pháp, Mĩ..., khiến họ càng chú ý tới tình hình biển Đông. Có thể nói, cho đến Hòa ước San Francisco được kí kết năm 1951, Nhật Bản là trục chính trong vấn đề biển Đông, và vấn đề biển Đông sau chiến tranh cũng có dính dáng đến Hiệp ước San Francisco vốn có chỗ mập mờ. 

Trong toàn bộ sự kiện đảo Đông Sa, có mấy điểm có thể giúp ích cho việc nhận thức vấn đề luật quốc tế về các đảo ở biển Đông. 

Thứ nhất, Đông Sa nằm trong vùng biển gần của Trung Quốc, và sự việc ngư dân Trung Quốc phát hiện và khai thác nó sớm nhất là điều đáng tin cậy. Vì vậy, căn cứ luật quốc tế, Trung Quốc có các quyền ban đầu đối với nó. Hơn nữa, trước khi người Nhật khai thác đảo này, không có bất cứ quốc gia nào tuyên bố chủ quyền đối với nó. Ví dụ, các nhà hàng hải phương Tây đã biết đến từ rất sớm, vẽ lên trên bản đồ và đù vẽ đảo này, nhưng không tuyên bố nó là của họ. Năm 1883, Hà Lan kháng nghị với Trung Quốc vì có tàu bị va vào đá ngầm, đây có thể xem là sự thừa nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Trung Quốc ở Đông Sa (nhưng phía Trung Quốc dường như không biết việc này). Vì vậy, với sự kiện đảo Đông Sa, không có quốc gia nào có quyền lịch sử có thể sánh được với Trung Quốc. Tình huống hoàn toàn khác với tình huống của Hoàng Sa và Trường Sa. Hoàng Sa và Trường Sa đều khó có thể khẳng định rằng chúng đã được người Trung Quốc phát hiện ra, quần đảo Hoàng Sa có bằng chứng về sự kiểm soát của Việt Nam; quần đảo Trường Sa luôn có bằng chứng về hoạt động hàng hải và đo vẽ của các nước. Theo các ghi chép đáng tin cậy, người Trung Quốc chỉ mới đến đến đánh cá ở biển Đông vào khoảng những năm 1860, các nước khác hoàn toàn không có quyền lịch sử. 

Thứ hai, trước tranh chấp đảo Đông Sa, chính phủ Trung Quốc thiếu sự quản lí đối với đảo Đông Sa. Điều này thể hiện một số mặt sau đây: đầu tiên, sau khi bị xua đuổi, ngư dân Trung Quốc hoàn toàn không có bất cứ kênh nào để phản ánh, chính quyền địa phương không hề hay biết. Chính phủ Trung Quốc phải qua tổng đốc Lưỡng Giang vốn không có quan hệ trực tiếp mà chỉ thông qua báo chí mới để ý đến việc này; thứ hai, chính phủ Trung Quốc thiếu nghiêm trọng các thông tin về vị trí và những điều liên quan khác về đảo Đông Sa, phải dùng tư liệu do lãnh sự Nhật Bản cung cấp và mất đến hai năm để xác minh nhiều lần mới biết được vị trí chính xác, tên gọi chính xác và tên mà người Trung Quốc thường gọi của đảo này; thứ ba, chính phủ Trung Quốc thiếu năng lực quản lí thường xuyên đối với đảo Đông Sa, khi kiểm chứng khẩn cấp tình hình thực tế của Đông Sa, hải quân Quảng Đông không có tàu có thể đi xa đến Đông Sa mà phải đợi tới một năm rưỡi mới có thể mượn tàu của hạm đội Nam Dương để đến thăm dò. Cuối cùng, sau khi xảy ra sự việc thì chính quyền Trung Quốc mới tìm kiếm tư liệu khắp nơi để “chứng minh” đảo này thuộc Trung Quốc, và cuối cùng bằng chứng chủ yếu vẫn là bản đồ hàng hải của Anh.

Thứ ba, Nhật Bản mới đầu nhận thức đảo Đông Sa là đảo không người (đất vô chủ), điều  này có căn cứ nhất định. Trước hết, năm 1901 Nhật Bản đã hỏi ý kiến chính quyền Anh ở Hong Kong về sự quy thuộc của đảo Đông Sa, nhưng nhận được câu trả lời “có vẻ không thuộc về ai”. Thứ hai, năm 1901, Tamaki Hanemon tiến hành cuộc khảo sát 3 tháng trên đảo nhưng không hề bị Trung Quốc kháng nghị. Thứ ba, năm 1906 khi Nishizawa khai thác đảo Đông Sa có hỏi “công sứ nhà Thanh tại Nhật Bản, lãnh sự các nước tại Yokohama, Quan đạo Thượng Hải, chính quyền Anh ở Hong Kong”, câu trả lời cuối cùng đều là “hoàn toàn không thuộc nước nào”. Có thể thấy, nhận thức của nhiều nước trên thế giới lúc đó đều xác định rằng đảo này hoàn toàn không thuộc về nước nào (có thể Hà Lan là ngoại lệ duy nhất). Cuối cùng, ngay đến công sứ nhà Thanh ở Nhật Bản cũng cho rằng đảo này không phải của Trung Quốc. 

Thứ tư, mặc dù Nhật Bản khuyến khích cá nhân khai thác đảo vô chủ ở hải ngoại, nhưng ít ra điều đó hoàn toàn không phải không coi trọng đạo lí vào thời đó. Ngay khi đàm phán Trung-Nhật mới bắt đầu, Nhật Bản đã quyết định chỉ yêu cầu Trung Quốc đưa ra bằng chứng ở mức độ thấp nhất thì có thể coi như chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Đông Sa đã được chứng minh. Ví dụ này có thể dùng để luận chứng cho tình hình đảo Senkaku (Điếu Ngư), Trung Quốc thường nói rằng đảo Senkaku bị Nhật Bản “cướp đoạt” trước và sau khi “Hiệp ước Mã Quan” được kí kết, cũng nói rằng vì Đài Loan đã được cắt nhượng rồi nên Trung Quốc không thể nói đến việc của đảo Senkaku. Nhưng sự việc đảo Đông Sa cho thấy Nhật Bản không ngang ngược đến như vậy.  

Thứ năm, tranh chấp đảo Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản giải quyết thông qua đàm phán chứ không qua Tòa Trọng tài quốc tế. Điều này cho thấy vấn đề luật pháp quốc tế liên quan đến chủ quyền đảo Đông Sa chỉ có tác dụng là tiền lệ cho hai bên trong đàm phán chứ chưa phải là tiền lệ và có hiệu lực ràng buộc đối với bên thứ ba. 

Thứ sáu, trong sự kiện đảo Đông Sa Trung Quốc biểu hiện ra sự thiếu hiểu biết và thiếu bằng chứng về sự kiểm soát của mình (ví dụ thiếu bản đồ, sách vở, không có sự quản lí thường xuyên, ngư dân bị xua đuổi không biết báo cáo với ai, nhà nước không có kênh thường xuyên chính thức để biết tình hình trên đảo...), thực tế cho thấy “bằng chứng lịch sử” của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, bãi Scarborough và quần đảo Trường Sa ở xa hơn càng yếu hơn, càng không cần nói đến sự kiểm soát đối với vùng biển. Điều này giúp ích rất nhiều trong việc lí giải chính xác “bằng chứng lịch sử” của Trung Quốc khi phân tích luật quốc tế về các đảo đó. 

Thứ bảy, thực tế cho thấy chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc thật sự có thể ảnh hưởng đến sự quy thuộc chủ quyền các đảo ở một mức độ nhất định. Các đảo ở biển Đông trước đây vốn được nhiều người coi là đảo không người, nếu một nước khác có thái độ không kiên quyết thì có thể họ cần phải cân nhắc cân bằng lợi ích của các đảo này với tổn thất gây ra bởi chủ nghĩa dân tộc gây ra. Điều này có thể giúp lí giải thái độ của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa khi đó.

_________________

Xem bản có chú thích ở đây.

Chương II: Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)

Chương III: Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)

Chương IV: Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)

Chương V: Thời kì xung đột thấp (1990-2008)

Chương VI: Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)

Phụ lục I: Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn

Phụ lục 2: Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ