Thursday, January 1, 2015

Bill Hayton - BIỂN ĐÔNG (Chương 1: Từ tiền sử đến năm 1500)

Chương 1

Những xác tàu và những điều sai

Từ tiền sử đến 1500


WRECKS AND WRONGS

Prehistory to 1500


 Bill Hayton
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Contents
Maps
Introduction
  1. Wreck and Wrongs: Prehistory to 1500
  2. Maps and Lines: 1500 to 1948
  3. Danger and Mischief: 1946 to 1995
  4. Rocks and Other Hard Places: the South China Sea and International Law
  5. Something and Nothing: Oil and Gas in the South China Sea
  6. Drums and Symbols: Nationalism
  7. Ants and Elephants: Diplomacy
  8. Shaping the Battlefield: Military Matters
  9. Cooperation and its Opposites: Resolving the Disputes
Epiloque
Notes
Acknowledgements and Further Reading
Index
----------------------------
Bill Hayton là phóng viên lâu năm với BBC, ông từng ở VN, Miến Điện ...và mấy năm trước có viết một quyển sách về Việt Nam (Vietnam: rising dragon). Quyên sách này (The South China Sea: the struggle for power in Asia) là một công trình nghiên cứu chuyên về các tranh chấp biển Đông (xem thêm Hỏi & Đáp: Bill Hayton về các kình địch ngày càng tăng ở biển Đông). Do điều kiện có hạn, xin dịch trước những chương có liên quan nhiều đến VN, khi nào có thời gian sẽ dịch tiếp các chương còn lại
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

VICTOR PAZ nín thở. Trước mặt ông là ba phiến đá đều có chiều dài khoảng một người. Điều này sẽ cần một cố gắng nào đó. Ông để ra một phút để kiểm soát sự phấn khích của mình: hi vọng và thận trọng đấu tranh giành uy thế. Khi ông dừng lại, chim chiền chiện - hinay hinay trong tiếng Tagalog (một ngôn ngữ chính của Philippines) - trên các cây bili, tiếng hót của chúng vang vọng xung quanh miệng hang, báo hiệu cho một phát hiện khảo cổ. Bên trên hang, tháp đá vôi khổng lồ Illé nổi bật lên ruộng lúa, chế ngự nền thung lũng xanh. Vào lúc này những người khác đã đặt các công cụ của họ xuống đứng xem, lập thành nhóm khán giả xung quanh. Phiến đá giữa có vẻ dễ nâng lên nhất. Victor cúi xuống và nắm lấy nó với cả hai tay. Thận trọng, ông nạy nó ra.

Bên dưới phiến đá là một lồng ngực: bị vỡ vụn nhưng vẫn nhận ra được là của con người. Victor cười toe toét. Đây là điều tốt, một phần thưởng tương xứng sau một mùa đào xới. Đám khán giả nhỏ vây quanh rìa miệng hố, cách một mét bên trên chỗ Victor đang quỳ. Khi phiến đá đã được đặt sang một bên họ có thể thấy rằng bộ xương đã thành các nắm vỏ vụn, vẫn ép với nhau, mặc dù cái túi đã từng giam hãm chúng đã mục rả từ lâu. Hai vỏ gàu tát nước lớn được đặt về một phía, nhưng điều mà sau này sẽ cho thấy là phát hiện quan trọng nhất nằm ở phần trên của ngực: một chiếc vòng cổ gồm các đĩa xen kẽ với hạt conus - đồ trang sức làm từ vỏ sò hình nón nhỏ.

Victor dời hai phiến đá còn lại, để lộ toàn bộ bộ xương. Bây giờ ông có thể thấy việc chôn cất thực hiện công phu như thế nào. Bao quanh bộ xương có rất nhiều đá sắp xếp theo một hình dạng cố ý. Phía trên đầu, những viên đá làm thành một mũi nhọn với sỏi đánh bóng ở đỉnh. Là người đứng đầu Chương trình nghiên cứu khảo cổ học tại Đại học Philippines, Victor buộc phải là một người hoài nghi chuyên nghiệp. Nhưng ông biết phát hiện này có thể có tầm quan trọng rất lớn về tình cảm cũng như về khoa học. Người tiền nhiệm của ông trong vai trò này- cũng là thầy ông - Wilhelm Solheim và trong nhiều thập kỉ Solheim đã lùng sục phía đầu này của đảo Palawan, xâu chuỗi các bằng chứng cho một lí thuyết giải thích về cách các dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa lan ra khắp Đông Nam Á diễn ra như thế nào và tại sao. Nhưng sau cả một đời nghiên cứu quanh Biển Đông, Solheim không còn thời gian nữa. Ở tuổi 81 khoa của ông đã từ từ rời ông đi. Những phát hiện ở hang Illé vào tháng 4 năm 2005 sẽ là phần thưởng cho ông.

Victor đứng lên và nhìn lại những viên đá xung quanh cơ thể. Chúng có dạng của một chiếc thuyền, hướng vào phía bóng của hang và thế giới bên kia nơi xa. Hòn đá đánh bóng đánh dấu mũi thuyền và các vỏ dùng tát nước, như tên của chúng ngụ ý, là những vật dụng quan trọng cho bất cứ ai dùng một chiếc xuồng bị rỉ nước đi trên đại dương. Nhưng ngay cả Victor cũng chưa sẵn sàng cho sự phát hiện tiếp theo. Các hạt hình nón đã được đưa tới phòng thí nghiệm ở Manila để xét nghiệm. Do động vật tạo ra vỏ từ các chất dinh dưỡng và khoáng chất mà chúng ăn vào, chúng mang các mã đánh dấu phân tử (molecular marker)  về thời gian và địa điểm nơi chúng sống và chết. Và những vỏ hình nón này, vốn đã được thu lượm, gia công, biến thành đồ trang sức và được đặt trong mộ này, đã sống và đã chết ít nhất 4 200 năm trước đây. Và rằng, đối với Victor Paz và Wilhelm Solheiin, đó là bằng chứng mà họ đã tìm kiếm trong nhiều năm. Nó đã cho họ một cơ hội để chốt lại một cuộc tranh luận đã chia rẻ các nhà khảo cổ: cư dân hiện đại của Đông Nam Á hình thành như thế nào và tại sao? Khám phá của họ có vẻ là bằng chứng rằng những người chôn người chết ở hang Illé đã là những người đi biển hơn bốn thiên kỉ trước. Điều đó sẽ đánh gục phần chủ yếu của cách giải thích chi phối rằng nền văn hóa Đông Nam Á chỉ đơn giản là khuếch tán từ miền Nam Trung Quốc. ‘Chúng tôi cần phải biết nhiều hơn nữa,’ Paz thừa nhận, ‘nhưng điều đó ngày càng trở thành một lập luận khó có thể bỏ qua.’

Paz, Solheim và các đồng nghiệp của họ đã đi đến một thung lũng xa xôi ở mũi phía Bắc ôn hoà của đảo Palawan để cố giành phần thắng một cuộc tranh luận. Động cơ của họ vừa có tính cá nhân vừa có tính khoa học. Họ đã cố ý tìm kiếm bằng chứng có thể hậu thuẫn cho một lí thuyết mà họ đã hình thành nhưng các phương pháp của họ là trung thực, nhóm của họ là thông thoáng và lập luận của họ là logic. Điều bất hạnh là việc theo đuổi độc lập kiến thức chỉ là một trong nhiều động cơ của việc thăm dò khảo cổ ở Biển Đông. Những kẻ khác ít quan tâm đến những câu hỏi lớn vì họ đã chọn câu trả lời cho họ rồi: mục đích của họ là tìm kho báu hoặc biện minh cho các yêu sách lãnh thổ. Và những kẻ có ý định ít cao cả hơn lại có quyền sử dụng các nguồn tài nguyên lớn hơn rất nhiều.

Nhiều động cơ pha trộn nhau trong các nhà khảo cổ và sử học - và các ông chủ của họ - ở Đông Nam Á là không có gì mới. Trong nhiều thế kỉ, việc viết lịch sử của khu vực này đã tiết lộ nhiều về các ám ảnh đương đại bao nhiêu thì cũng nhiều về quá khứ bấy nhiêu. Có phải Đông Nam Á không khác gì hơn là một sàn diễn mà trên đó những kẻ bên ngoài đã chơi trò chơi đế chế? Người dân sống quanh Biển Đông có nguồn gốc từ Trung Quốc hay từ các nơi khác? Các nền văn minh lớn Champa, Angkor và Srivijaya phát triển tại chỗ hay được cấy ghép? Văn hóa và văn minh từ một hoặc từ nhiều nguồn đổ tới? Ai kiểm soát lãnh thổ và điều đó thực sự có nghĩa là gì? Các nhà sử học thực dân, dân tộc chủ nghĩa và quốc tế chủ nghĩa đã trả lời tất cả những câu hỏi này khác biệt nhau. Bằng chứng mới đây từ ngôn ngữ học, đồ gốm, di truyền học, thực vật học và trầm tích học đang chiếu rọi ánh sáng mới. Càng phát lộ, câu chuyện càng trở nên phức tạp hơn.

**********

Bằng chứng sớm nhất về con người ở Đông Nam Á có niên đại khoảng 1,5 triệu năm trước. Những di cốt của 'Người Java’, được gọi chính thức hơn là homo erectus [người đứng thẳng], đã được tìm thấy cả ở Java lẫn ở Trung Quốc. Nhưng ông ta, vợ và các con, dường như đã chết đi khoảng 50 000 năm trước, có thể bị xua vào quên lãng bởi người họ hàng thông minh hơn, homo sapiens [người khôn]. Con người hiện đại có thể đã tới Australia khoảng 50 000 năm trước, gợi cho thấy trên đường đi họ đã định cư ở Đông Nam Á. Các xương sọ tìm thấy ở Borneo và Philippines chỉ ra rằng con người hiện đại đã đến những nơi đó tương ứng 40 000 và 22 000 năm trước đây. Vấn đề là có rất ít bằng chứng khác, chủ yếu là bởi vì thế giới lúc đó trông rất khác biệt. Mực nước biển 17 000 năm trước thấp hơn so với hiện nay khoảng 120 mét. Những đảo hiện đại Java, Sumatra và Borneo dính vào đại lục và dính với New Guinea. Nếu như, dường như vậy, homo sapiens sống dọc theo bờ biển, thì các làng ông ta xây dựng nên và các công cụ ông sản xuất bây giờ nằm ngoài tầm với của khảo cổ học, 120 mét dưới mặt nước. Có những lổ hổng rất lớn trong sự hiểu biết của chúng ta và có rất ít bằng chứng để lấp những lỗ hổng đó lại.

Nhưng khi chúng ta đến gần hơn - cách đây một vài nghìn năm - bằng chứng lại nhân lên và cách lập luận cũng thế. Các khu định cư sinh sống rải rác phát triển thành đô thị như thế nào? Bằng cách nào mà những người chỉ biết công cụ bằng đá có thể làm chủ đồng và sắt nấu chảy? Và những đổi mới lan rộng ra như thế nào? Những lời giải thích đầu tiên xuất phát từ một cái nhìn sâu sắc đáng chú ý của một học giả người Đức, Otto Dempwolff. Vào khoảng đầu của thế kỉ XX, ông bắt đầu chứng minh sự tương đồng giữa các ngôn ngữ khác nhau của Đông Nam Á. Vào lúc mà nhà ngôn ngữ học người Mĩ Robert Blust phát triển công việc này vào cuối thế kỉ XX, nhiều liên kết đã được phát hiện giữa hơn 1000 ngôn ngữ được nói ở những nơi xa cách nhau như Đài Loan, Hawaii, đảo Phục Sinh, New Zealand, Malaysia và Madagascar. Ý nghĩa thật lạ thuờng. Chúng chứng tỏ rằng những người cách xa nhau hàng ngàn dặm đại dương bao phủ một nửa chu vi trái đất lại chia sẻ cùng nguồn gốc văn hóa. Blust cho rằng các gốc rễ đó đều có thể truy trở về một ngôn ngữ duy nhất được nói ở Đài Loan khoảng 5 500 năm trước đây, một ngôn ngữ mà ông gọi là ‘proto-Austronesian’. Và bằng cách chứng tỏ ngôn ngữ này đã chia nhỏ và nhân lên như thế nào, ông nghĩ ra lí thuyết liên kết sự khuếch tán của các ngôn ngữ Austronesia khắp trên các đảo của Đông Nam Á với sự di cư của các dân tộc, việc định cư của các khu vực mới và sự lan toả của nông nghiệp và công nghệ khác. Nó được biết đến như là mô hình ‘Từ Đài Loan đi‘ (Out of Taiwan).

Nhưng những người nói tiếng proto-Austronesian ở đâu ra? Nhà khảo cổ học sống ở Australia Peter Bellwood tin rằng họ là con cháu của những nông dân đầu tiên đã nắm vững nghệ thuật trồng lúa ở thung lũng sông Dương Tử khoảng 8 500 năm trước đây. Trong giai đoạn này ‘Trung Quốc’ là quê hương của nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau ngoài tiếng proto – Austronesian, còn có tiếng Trung-Tạng (mà từ đó tiến triển thành tiếng Trung, Tạng và Miến), tiếng Nam Á (mà từ đó phát triển ra tiếng Việt và Khmer) và tiếng Thái. Ngoài trồng lúa, những người này cũng nuôi heo và gia cầm, làm gốm và dùng các công cụ đá. Trong thiên niên kỉ sau, áp lực tại quê nhà và cơ hội ra nước ngoài khiến các nhóm này di chuyển khắp Đông và Đông Nam Á. Theo cách hiểu của Bellwood, những người nói tiếng proto-Austronesian dần dần lan về phía Đông và phía Nam, cuối cùng đi tới bờ biển Trung Quốc khoảng 5 500 năm trước đây.

Cho đến lúc đó, những cuộc di dân đều diễn ra trên đất liền. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo của cuộc phiêu lưu Austronesian là hoàn toàn khác. Mực nước biển 5 000 năm trước đây khá giống như bây giờ, khiến cho eo biển Đài Loan rộng khoảng 130 km ở điểm hẹp nhất. Tuy nhiên, trở ngại này dường như đã được vượt qua, bởi vì các nhà khảo cổ đã thu được bằng chứng về việc trồng lúa có niên đại vào khoảng thời gian này ở Đài Loan. Khoảng hơn một ngàn năm sau đó, người nói tiếng Austronesian đã đến hoặc sinh sôi nẩy nở trên đảo đã che khuất đi gần hoàn toàn bất kì dấu tích sót lại nào của những lần di dân trước và ngôn ngữ của họ đã bắt đầu phân chia thành các phương ngữ. Trong mô hình Bellwoods, bước tiếp theo là ‘từ Đài Loan đi.’

Bước đầu tiên là cuộc hành trình về phía Nam qua eo biển Luzon. Bằng cách nhảy đến quần đảo Batanes, dải đất đơn lẻ dài nhất vào khoảng 80 km. Các bước nhảy tiếp sẽ đưa những người du hành đi đến Luzon, đảo chính của Philippines, nơi mà, một lần nữa, họ sẽ gặp phải những người di cư từ những đợt sớm hơn nhiều. Những người mới đến, với công nghệ và văn hóa tiên tiến hơn, lập ra các khu định cư , thịnh vượng, phát triển về số lượng và di chuyển lần nữa. Bellwood cho rằng từ khoảng 4 000 năm trước đây (2000 BCE) những người từ Đài Loan ra đi phân tán khắp phần còn lại của Philippines và sau đó phía Tây của Indonesia hiện nay. Những người khác đi về phía Đông. Vào khoảng năm 1500 BCE (trước kỉ nguyên hiện nay), một số đã đến quần đảo Mariana, cách Luzon 2 500 km và sau đó tiếp tục đến Fiji. Vào khoảng năm 800 BCE, Tonga đã có người định cư, khoảng năm 300 CE tới phiên Hawaii, và khoảng năm 1200 là New Zealand.

Đó là một câu chuyện kịch tính và có đầy rẫy bằng chứng hậu thuẫn nó: bản thân các ngôn ngữ, các phát hiện khảo cổ và nghiên cứu di truyền. Nhưng cũng có một số vấn đề với nó. Một số phát hiện ở quần đảo Batanes mới hơn những phát hiện ở Luzon, gợi ra rằng người ta đã di chuyển từ phía Nam đến đó, chứ không phải từ phía Bắc. Kĩ thuật chôn cất tìm thấy ở Nam Việt Nam xưa hơn kĩ thuật tương tự tìm thấy ở Đài Loan và Luzon. Bằng chứng cho việc trồng lúa xa xưa ở Đài Loan là rất hiếm, cho thấy nó không phổ biến rộng rãi ở đó trước khoảng 4 000 năm trước đây; phân tích di truyền của cây lúa cho thấy rằng nhiều chủng lúa khác nhau - từ Ấn Độ và Java - có thể đã đi qua khu vực này từ Nam đến Bắc trước khi nhiều chủng lúa ‘Trung Quốc’ đi theo hướng ngược lại. Di truyền cũng cho thấy lợn Thái Bình Dương và chuột Thái Bình Dương từ Đông Dương, chứ không phải từ Đài Loan đến. Các điều phản bác đã chất cao thêm.

Kết quả là có một cách giải thích khác đối với sự lan toả của ngôn ngữ và văn hóa quanh Biển Đông đã xuất hiện. Thay vì nhấn mạnh một dòng người ‘từ Đài Loan ra đi’, nó đề xuất một mạng lưới liên lạc liên tục chuyển tải thông tin và công nghệ theo nhiều hướng. Nó cũng làm cho vùng ven biển Trung Quốc vừa là một nơi nhận vừa là một nơi chuyển nền văn hóa này đi, nhưng không phải là nguồn duy nhất của nó. Và đó là lí do vì sao Bill Solheim tự thấy mình nên mừng việc phát hiện ra ngôi mộ ở Bắc Palawan.

Solheim đã bắt đầu việc tìm kiếm nguồn gốc nền văn minh Đông Nam Á hơn nửa thế kỉ trước, theo học tại Berkeley và Arizona rồi đào xới ở Philippines trong thập niên 1950. Chính công việc với đồ gốm thúc đẩy ông phát triển một mô hình rất khác với mô hình của Peter Bellwood. Ông cho rằng sự tương đồng giữa các lọ 2500 tuổi mà ông tìm thấy ở Kalanay trên đảo Masbate của Philippines và những lọ khác thu được trong thập niên 1920 ở Sa Huỳnh trên bờ biển Nam Việt Nam không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhiều lọ trong số đó đã được vẽ với những kiểu mẫu hình học rất chính xác - hình tam giác, đường ziczac, đường song song và hình nhát rìu cắt hoặc ép vào đất sét. Một số lọ có hình dạng phức tạp và nhiều lọ đã được tô với một mảng màu đỏ đặc biệt. Từ sự khởi đầu này, quan điểm của Solheim mở rộng ra cho cả đồ gốm từ các địa điểm khác lan ra khắp Đông Nam Á, rồi cho các loại đồ vật khác – đặc biệt là các công cụ và đồ trang sức - và sau đó cho các giai đoạn, cả trước lẫn sau đó. Nhiều đồng nghiệp của ông không đồng ý, lập luận rằng định nghĩa về ‘tương tự’ bấy giờ trở thành quá mơ hồ khó có thể có ích gì. Tuy nhiên, Solheiln vẫn dấn tới. Nhiệm vụ tiếp theo của ông là cố gắng giải thích những điểm tương đồng đó đã xảy ra như thế nào.

Một cái nhìn chiều sâu cốt lõi là mặc dù những vật tương tự có thể tìm thấy được ở nhiều nơi, chúng lại xuất hiện ở những chỗ đó vào các thời điểm khác nhau. Vì vậy, trong khi ‘rìu’ (một dụng cụ đẽo xưa) đã được phát triển ở Đông Nam Trung Quốc khoảng 5 000 năm trước rồi truyền sang Đài Loan và Việt Nam trong thiên kỉ sau, những lọ chôn vùi tìm được ở Việt Nam và Palawan có niên đại cách đây hơn 4000 năm nhưng ở Luzon và Đài Loan chỉ cách 1000 năm. Tương tự, mặt ngọc bích treo lủng lẳng dưới bông tai gọi là ‘o khoen’ (‘lingling o’ -có dạng giống như một vòng tròn ở gần đầu bị uốn thành những điểm nhọn hướng xuống và hướng sang hai bên) có niên đại cách đây tới 4 000 năm tại Việt Nam nhưng lại có niên đại gần đây hơn ở Đài Loan và Philippines. Đối với Solheim, điều này có nghĩa rằng các đồ vật, kiến thức và văn hóa đã phát triển ở những nơi khác nhau và sau đó lan truyền tới lui trên một khoảng cách rất lớn xung quanh lục địa Đông Nam Á và các đảo, tiến triển trong quá trình di chuyển.

Vì vậy, ông bắt đầu phát triển ý tưởng về một mạng lưới trên biển: các cộng đồng bán du mục di chuyển bằng đường biển và sông, sống bằng săn bắn, thu lượm và buôn bán. Đối với Solheim vấn đề là những người này, nếu họ tồn tại, đã để lại quá ít dấu vết: không định cư lâu dài, không có di tích kiến trúc và không có ghi chép bằng văn bản. Nó đòi hỏi một bước nhảy vọt của trí tưởng tượng để tin vào sự tồn tại của họ. Nhưng sau đó ông nhận ra rằng các bằng chứng thật ra vẫn còn ở đâu đó. Cuối thập niên 1950, nhà nhân chủng học Mĩ Alexander Spoehr gặp những phụ nữ người Samal trên đảo Mindanao của Philippines chưa bao giờ sống trên đất liền và tin tuởng rằng nếu làm như vậy họ sẽ bị ma quỷ hãm hại. Thậm chí ngày nay, nhiều ‘digan biển’ người Badjao của Philippines, người Bajau của Malaysia, người Orang Laut của Indonesia, người Tanka của miền Nam Trung Hoa và người Dan của Việt Nam vẫn tiếp tục sống trên và quanh biển, sinh sống bằng việc đánh cá, buôn bán. Quả vậy, khắp cả khu vực, từ Trung Quốc tới Việt Nam và Thái Lan, vẫn còn có nhiều cộng đồng những người trên sông nước tiếp tục một hình thức sinh sống mà, trên thực chất, bắt đầu từ nhiều ngàn năm trước. Solheim đã đặt ra một từ để chỉ những người này lấy từ hai từ tiếng Austronesian chỉ ‘đảo phía Nam’ và ‘người’. Ông gọi họ là người Nusantao.

Để thật sự hiểu họ, chúng ta phải lật ngược những ý niệm của chúng ta về đất liền như là một nơi an toàn và biển như là một nơi nguy hiểm. Đất liền có thể thù địch, nơi ở của những sinh vật nguy hiểm, kẻ trộm và người thu thuế. Biển thì đầy thức ăn và, gần như chỗ nào cũng đi lại dễ dàng.Nguồn cung cấp rau trái có thể từ các bờ sông, hoặc qua đổi chác / mua bán và, như nhà nhân chủng học New Zealand Atholl Anderson đã giải thích, ngay cả vấn đề nước ngọt cũng có thể vượt qua được. Có thể mang theo một lượng nước lớn trong các ống tre. Tre thì bền chắc, dễ dàng gói gọn và, khi dùng hết nước có thể sử dụng để sửa chữa ghe thuyền. Nếu tính thêm số nước mưa và nước từ cá biển thì các chuyến đi dài đến ba hoặc bốn tuần sẽ không còn là vấn đề.

Vẻ đẹp của mô hình Solheims, mà ông gọi là mạng lưới liên lạc và giao thương đường biển Nusantao, là nó không đòi hỏi bất kì một đứt quãng lớn nào với quá khứ, hoặc bất kì hoạt động di cư đơn lẻ lớn nào. Nó không dựa vào, hoặc loại trừ bất kì một nhóm dân tộc đặc biệt nào. Công nghệ và văn hóa phát triển dần dần. Một số người Nusantao nói các ngôn ngữ Austronesian, những người khác thì không; một số thì bán định cư, một số hoàn toàn du cư; một số sống trên biển, một số ở các cửa sông, những người khác sống xa trên đất liền. Họ tác động qua lại với những người định cư và dân cư nên ắt phải có lai tạp. Họ không bao giờ có ý thức hành động như một nhóm và công nghệ của họ rất đơn giản, nhưng bằng các hành vi nhỏ đi lại và mua bán/đổi chác người Nusantao tạo ra một mạng lưới rộng lớn lực lượng buồm chèo có thể vận chuyển hải sâm từ miền Bắc Australia tới các bàn ăn ở miền Nam Trung Quốc và chuối từ các khu rừng của New Guinea đến các khu vườn của Madagascar. Và trên mỗi chuyến đi hàng hóa, kiến thức và văn hóa chuyển qua chuyển lại.

Đó là một mô hình lộn xộn theo cách tuyệt vời và có tính người vui vẻ (joyously human). Nó có nghĩa là những người thực sự phát hiện ra các đảo trong Biển Đông không có căn cước sắc tộc mà ngày nay chúng ta thừa nhận và chắc chắn không đính vào bất cứ điều gì giống như một nhà nước. Khi các đơn vị chính trị phát triển trên đất liền thì người Nusantao cố gắng sống bên ngoài sự kiểm soát của họ. Sự khác biệt giữa mua bán / đổi chác và buôn lậu, cướp biển và nổi loạn là mờ nhạt. Điều mỉa mai là khi các quốc gia hiện đại ngày nay đưa ra các yêu sách chủ quyền lãnh thổ trên biển, họ thường căn cứ vào các hoạt động của những người mà trong những giai đoạn trước đây, những quốc gia này đã cố hạn chế hoặc thậm chí tiêu diệt họ.

Người Nusantao không phải là một sắc dân, vì vậy sẽ hầu như vô nghĩa khi hỏi họ ở đâu ra. Tuy nhiên, Solheiln lập luận rằng một trung tâm quan trọng của mạng Nusantao là khu vực bờ biển giữa miền Trung Việt Nam và Hong Kong. Từ đây chạy thẳng đến Madagascar về phía Tây và đảo Easter (Phục Sinh) về phía Đông, Australia về phía Nam và Nhật Bản về phía Bắc. Chúng ta biết rằng các hạt chuổi thủy tinh Ấn Độ đã được đưa đến Trung Quốc bởi những người được mô tả, trong các văn bản của Trung Quốc, là 'Malay' vào khoảng năm 400 BCE (TCN) và các trống đồng đặc sắc ‘Đông Sơn’, làm ở miền Bắc Việt Nam khoảng 2000 năm trước, đã được tìm thấy trong các ngôi mộ khắp cả khu vực Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Đây là một thời kì phát triển nhanh chóng, khi các xã hội phức tạp và các đế quốc bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới - và liên kết tất cả chúng lại với nhau là một mạng lưới trên biển.

Vì nếu có các cộng đồng trên biển giao thương lên xuống dọc theo các bờ biển và liên lạc qua khoảng cách xa xôi thì sẽ là lố bịch khi nghĩ rằng những liên kết này sẽ dừng lại ở ranh giới giữa những nơi mà bây giờ chúng ta gọi là ‘Đông Á’, ‘Đông Nam Á’, ‘Ấn Độ’, ‘Arab’ hoặc ‘Châu Âu’. Nhưng thương nhân ven biển sẽ phải liên lạc với đồng nghiệp của họ ở phía Bắc, phía Nam, phía Đông và phía Tây. Cả thông tin lẫn hàng hóa sẽ chảy qua các mạng này, người dân ở nơi này sẽ biết được ý tưởng và hàng hoá ở nơi khác; kí ức dân gian về khách phương xa tới sẽ lâu bền và các thứ gia bảo kì lạ sẽ được truyền xuống các thế hệ sau. Dĩ nhiên, các tuyến đường biển không phải là cách duy nhất để đi lại. Những người khác đã đi bằng đường bộ nhưng đường biển có thể nhanh hơn và an toàn hơn.

Năm 1939, một bức tượng bằng ngà voi Ấn Độ đã được tìm thấy dưới lớp tro ở Pompeii và các nhà khảo cổ đã bắt đầu chấp nhận rằng giao thương đường dài giữa Rome và Nam Á đã phát triển tốt vào thời gian núi lửa Vesuvius phun trào vào năm 79. Nó không đơn thuần là bức tượng từ phía Đông đến. Một tài liệu La Mã, 'Periplus of the Erypthrean Sea’ (Sổ ghi hải trình trên biển Đỏ) có niên đại khoảng năm 63, đề cập đến một nơi gọi là 'Thina' nổi tiếng là một nguồn lụa. Có vẻ rằng 2000 năm trước, một số người Châu  Âu đã biết được một tuyến đường biển tới Trung Quốc. Có cuộc tranh luận về việc liệu nhà sử học La Mã Pliny có thực sự mô tả đinh hương trong thế kỉ I hay không, nhưng đinh hương được liệt kê như hàng nhập khẩu vào Ai Cập khoảng năm 180. Chỉ có một nơi trên thế giới có trồng đinh hương lúc đó: quần đảo Moluccan Bắc, thuộc Indonesia hiện nay. Và khoảng năm 284, đế chế La Mã Đông đã cử phái bộ đầu tiên sang Trung Quốc, ghé qua bờ biển Lâm Ấp, chỗ bây giờ là Việt Nam.

**********

Rải rác khắp Đông Nam Á, từ Champa ở Việt Nam và Angkor ở Campuchia đến Borobudur và Prambanan ở Indonesia, hàng chục tháp và đền to lớn hiện ra hoàn toàn xa lạ với cảnh vật xung quanh. Phong cách Ấn Độ, chín chắn với các thiếu nữ đầy sức quyến rũ với các bàn thờ thờ các vị thần được tô điểm của các tháp này, bây giờ có vẻ như là những vật trôi nổi, do đợt triều Hindu rút xuống để lại. Bao phủ trong rừng nhiều thế kỉ, chúng đã được người Châu  Âu phát hiện khi mà chủ nghĩa thực dân trưởng thành đến mức có thể chi trả cho các nhà khảo cổ để đi lùng sục khắp các hang hốc của đế quốc.

Và các nhà khảo cổ học này đã vội vàng kết luận về việc ai đã xây dựng các kiến trúc to tát đó, và tại sao. Háo hức để biện minh cho sự có mặt của chính các xã hội của họ trong những vùng đất xa lạ này, họ tưởng tượng rằng những ngôi đền đó là công trình của thế hệ xa xưa những người bên ngoài. Giống như người Châu  Âu đã mang văn minh và tiến bộ tới dân bản xứ, những nhà xây dựng các đền đài này nhiều thế kỉ trước cũng làm như vậy. Những nhà xây dựng này ắt phải từ Ấn Độ đến, áp đặt ngôn ngữ và lối sống của họ lên các cư dân tăm tối và nâng họ lên một vài nấc trên bậc thang của nền văn minh trong quá trình này. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa thực dân Châu  Âu chỉ là sự tiếp nối của một khuôn mẫu hành vi đã xác lập lâu đời ở Đông Nam Á.

Những ý tưởng này tồn tại một thời gian dài. Cho đến năm 1964, nhà sử học người Pháp George Coedès còn có thể viết rằng ‘người dân ở vùng Viễn Ấn có nền văn minh hậu kì đá mới khi nền văn hóa Phật - Brahmano của Ấn Độ lần đầu tiên tiếp xúc với họ’. Nói cách khác, khu vực này nằm dí ở thời kì đồ đá cho đến khoảng năm 400 khi bị người Hindu và người theo đạo Phật từ phía Tây tới thuộc địa hoá. Các dân tộc Đông Nam Á đã bị loại ra khỏi câu chuyện; lịch sử chỉ là một cái gì đó xảy ra cho họ, chứ không phải là một cái gì đó mà họ định hình. Phải mất một nửa thế kỉ đào bới, dịch thuật và suy nghĩ mới lật đổ được quan điểm đó.

Kết quả là chúng ta có thể thấy một liên kết trực tiếp giữa nhũng người xây dựng các đền to lớn đó và những người du mục Nusantao vốn đã đi dọc ngang vùng biển tới phía Đông và phía Tây trong nhiều thế kỉ. Thật vậy, bây giờ có vẻ như Đông Nam Á đã giao thương với Ấn Độ nhiều thế kỉ trước khi văn hóa Ấn Độ bắt rễ ở Đông Nam Á. Sản phẩm và kiến thức di chuyển tới lui qua mạng lưới giao thương. Người nói tiếng Austronesia đã trao các tên của họ chỉ tàu thuyền vào ngôn ngữ miền Nam Ấn Độ vào thế kỉ I. Kĩ thuật sản xuất hạt thủy tinh của Ấn Độ đã được truyền khắp Đông Nam Á thậm chí sớm hơn.

Từ thế kỉ I đến thế kỉ V bờ Biển Đông Nam Á trở nên phồn thịnh qua tiến trình giao thương với các nền văn minh Ấn Độ khác nhau: gỗ đàn hương, cardamoms (đậu khấu), long não, đinh hương, đồ trang sức và kim loại quý. Nhiều tài liệu Ấn Độ đề cập đến ‘Đảo Vàng'- Swarnabhumi và 'đất vàng' Swarnabhumi. Cùng với giao thương, các yếu tố của các nền văn hóa khác nhau cũng di chuyển theo: từ thiết kế đồ gốm tới tôn giáo rồi triết học và chính trị. Có vẻ thay vì bị người Nam Á thuộc địa hoá, những nhà cai trị Đông Nam Á đã chọn cách dung nạp những ý tưởng Nam Á về vua chúa, thày cúng và quyền uy để củng cố vị trí của họ đối với người dân của mình và giữ vững lãnh thổ trước các đối thủ.

Theo những điều ít ỏi chúng ta biết, thế lực thống trị ở Đông Nam Á trong các thế kỉ đầu dường như là khu vực mà các ghi chép của Trung Quốc gọi là ‘Phù Nam’. Phù Nam nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, trải rộng lên chỗ mà ngày nay là miền Nam Việt Nam và Campuchia. Qua sự kết hợp của vị trí địa lí ngẫu nhiên và chính trị xảo quyệt Phù Nam dựng nên một đế chế từ vị trí then chốt của mình trên các tuyến giao thương giữa Châu  Âu và Ấn Độ ở phía Tây và Trung Quốc ở phía Đông. Nó trở nên trù phú khi Rome phát triển thị hiếu đối với tơ lụa Trung Quốc và gia vị Đông Nam Á, khi Trung Quốc tìm kiếm nhũ hương và mộc dược từ Arab và khi thủy tinh, đồ gốm, kim loại, ngà voi, sừng và khoáng sản quý di chuyển qua lại giữa những nơi này với nhau.

Những người tiên phong là dân Nusantao, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, trao đổi hàng hoá và thu lợi nhuận từ tiến trình đó. Nhiều tài liệu Trung Quốc mô tả tàu thuyền Malay (được gọi là Kunlun bo [Côn Lôn bạc] cặp bến ít ra từ thế kỉ III BCE. Dần dần những người khác từ bờ biển Ấn Độ và Trung Đông tham gia với họ. Không có bằng chứng khảo cổ học cho thấy có bất cứ tàu thuyền Trung Quốc nào thực hiện các chuyến giao thương trên Biển Đông trước thế kỉ X. Điều này dường như làm suy yếu nhiều khẳng định của Trung Quốc về điều ngược lại , chẳng hạn như sự khẳng định của trang web của Bộ Ngoại giao rằng ‘Dương Phu [杨孚/Yang Fu] thuộc triều đại Đông Hán (23-220) đã nhắc tới quần đảo Nam Sa trong cuốn sách của mình mang tên Dị vật chí (异物志/Yiwu Zhi – Sách về những thứ kì lạ/hiếm hoi)‘[1]. Các bằng chứng hiện có cho thấy nghiên cứu của Dương Phu có nhiều khả năng liên quan đến việc dò hỏi các thương nhân nước ngoài đến các cảng hơn là tự mình đi tới nơi. Mặc dù có một số người Trung Quốc đi tới nước ngoài trên tàu của các sắc dân khác, những cư dân nơi mà bây giờ là Nam Trung Quốc dường như bằng lòng để cho người khác mạo hiểm đi biển còn họ chỉ đảm trách việc giao thương tại điểm đến mà thôi.

Vị trí của Phù Nam có tính cốt lõi theo nghĩa đen bởi vì giao thương trong giai đoạn này tiến hành theo từng chặng. Rất ít, nếu có, tàu thuyền nào chạy suốt lộ trình. Thay vào đó, thương nhân có thể chỉ mang hàng hóa trên chặng lộ trình mà họ biết rõ nhất: từ Châu  Âu đến Ấn Độ, từ Ấn Độ đến bán đảo Malaysia, rồi bằng đường bộ qua eo đất Kra tại điểm hẹp nhất của bán đảo Mã Lai (nơi mà vận chuyển 40 km trên bộ tránh được một chặng đường dài 1600 km trên biển), bằng đường biển một lần nữa đến Phù Nam và cuối cùng từ Phù Nam tới miền Nam Trung Quốc. Để thành công, thương nhân cần làm chủ nhịp điệu do chế độ gió hàng năm đặt ra mà bây giờ chúng ta biết với từ Arab chỉ mùa - mawsim hoặc monsoon.

Vào mùa hè ở bán cầu Bắc, lục địa Châu Á nóng lên. Không khí bên trên bốc lên cao, cuốn theo nhiều không khí từ biển ở phía Nam vào, tạo ra những luồng gió mạnh dai dẳng thổi vào lục địa: gió mùa Tây Nam. Khi Châu Á mát lại vào mùa thu và mùa đông, không khí bên trên lắng xuống và bị đẩy ra khỏi lục địa: gió mùa Đông Bắc. Dùng tàu thuyền đi từ bán đảo Malaysia đến Phù Nam dễ dàng nhất từ tháng 12 tới tháng 1 nhờ gió thổi đi từ Nam Á, nhưng sau đó có một khoảng chờ đợi lâu, cho đến tháng 6 mới có thể bắt đầu các chuyến đi từ Phù Nam tới miền Nam Trung Quốc. Tàu thuyền phải ở tại cảng khi bắt đầu mùa mưa bão vào giữa tháng 7. Đi ngược trở lại, thời gian chạy tàu thuyền dễ nhất từ Trung Quốc đến Đông Nam Á là vào tháng 1 và tháng 2, khi gió và các dòng chảy theo hướng Đông Bắc xuống. Sau đó phải tạm dừng cho tới khi chế độ gió mùa Nam Á làm cho việc chạy tàu thuyền về phía Tây an toàn và thuận tiện.

Khoảng thời gian gió và dòng chảy không thuận lợi, từ tháng 2 đến tháng 6 mỗi năm, đem lại sự thịnh vượng cho bờ biển ở chỗ bây giờ là Việt Nam trong nhiều thế kỉ. Lúc đó, thương nhân bị buộc phải tạm dừng ở Phù Nam và mua lại hàng từ các nguồn địa phương. Một tài liệu của Trung Quốc từ thế kỉ III mô tả các tàu ‘Malay’ có thể như thế này: dài trên 50 mét với bốn cánh buồm và có khả năng chở 700 người cùng 600 tấn hàng hoá.[2] Một số lượng lớn tàu, hành khách và thuỷ thủ, cung cấp một thị trường lành mạnh cho nông dân địa phương và các đại lí hàng hoá và một dòng thuế ổn định cho các vua chúa và triều đình của họ dựa vào để sống. Nó cũng làm Phù Nam thành một nơi tuyệt vời để làm kinh doanh và vào thế kỉ II đó là một trạm trung chuyển cho người Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc và các thương nhân khắp nơi của khu vực Đông Nam Á. Mặc dù ảnh hưởng của Trung Quốc là lớn lao nhưng chính Ấn Độ đã cung cấp cho Phù Nam những cảm hứng văn hóa và chính trị. Vua Phù Nam chấp nhận Ấn Độ giáo, lấy tên Ấn và vay mượn tư tưởng chính trị từ các vua Ấn Độ. Ngay cả việc quy hoạch thành phố dường như cũng đi theo đường hướng của Ấn Độ.

Phù Nam chỉ là một trong nhiều đế quốc, vương quốc và thái ấp xung quanh Biển Đông nổi lên, phát triển mạnh và phai dần vào quên lãng trong thiên kỉ I CE (kỉ nguyên hiện tại). Lịch sử của họ vẫn còn đang được đào bới: theo cả nghĩa đen từ các di chỉ khảo cổ lẫn theo nghĩa ẩn dụ từ các trang sách cổ của Trung Quốc và các văn bản khác. Thường thì chúng ta chỉ thấy họ qua phản chiếu, vì họ được những người khác ghi nhận và chúng ta thường nhìn họ qua những điều chúng ta quan tâm hiện nay: cố gắng theo dõi gốc gác của các quốc gia hiện đại thông qua các dịch chuyển biên giới và việc di trú các dân tộc của các thế kỉ trước Nhưng biên giới hiện tại và bản sắc của chúng ta sẽ không có ý nghĩa với những người thật sự sống trong giai đoạn xa xưa này. Chẳng hạn, nhà sử học Michael Churchman đã chỉ ra rằng các tài liệu ghi chép thời Hán-Đường (từ 111 BCE đến 938 CE) không có sự phân biệt về mặt ngôn ngữ giữa ‘người Hoa’ và ‘người Việt’. Chính các nhà sử học thế kỉ XIX và XX đã áp đặt bản sắc dân tộc hiện đại lên những sắc dân xưa này.[3] Trong giai đoạn khi mà nhà chức trách đế quốc Pháp cố gắng để xác định ranh giới rõ ràng giữa khu vực của họ và của ‘Trung Quốc’, các nhà sử học Pháp cũng đồng thời phân chia người dân cổ xưa thành các loại khác nhau qua việc chuyển các tên của họ theo cách 'Việt Nam' hoặc cách ‘Trung Quốc’.

Khu vực bây giờ là Trung Quốc trông rất khác vào hai thiên kỉ trước. Những người được quy là Yue hoặc Việt trong các tài liệu của Trung Quốc sống dọc bờ biển phía Nam, kể cả đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam ngày nay. Họ đã bị nhà Tần chinh phục một thời gian ngắn vào năm 221 BCE nhưng trong vòng 15 năm nhà Tần sụp đổ và bờ biển phía Nam giành được độc lập khoảng một thế kỉ. Mãi cho đến năm 111 BCE miền Nam mới rơi vào tay nhà Hán - và thậm chí sau đó khu vực này chủ yếu vẫn giữ tự trị thêm một thế kỉ nữa. Trong những năm đầu của kỉ nguyên hiện nay người Hán áp đặt cai trị trực tiếp hơn, khiến lúc này lúc khác có nhiều cuộc nổi dậy và các chiến dịch quân sự trừng phạt, và tình trạng kiểm soát mơ hồ này kéo dài tới khi nhà Hán sụp đổ năm 220 CE. Khi nhà Hán cuối cùng sụp đổ, đế chế của họ bị tách thành ba nước, với nhà Ngô (Wu) tiếp thu nhiều khu vực phía Nam sông Dương Tử. Nhưng nhà Ngô chỉ kéo dài cho đến khoảng năm 265 thì bị đối thủ phía Bắc là nhà Tấn (Jin) đánh bại. Sau đó, chỉ 80 năm sau, năm 316, nhà Tấn bị loại khỏi phía Bắc và trở thành một vương quốc phía Nam cho đến khi cũng bị sụp đổ năm 420 và đã được thay thế bởi một loạt các vương quốc phía Nam khác.

Thế thì 'Trung Quốc' ở đâu trong thời đại đó? Các nhà sử học của Trung Quốc có xu hướng mô tả ‘một nền văn minh vờ là một nhà nước’, để sử dụng công thức của Lucian Pye, một nền văn hóa liên tục vốn đã kiểm soát vùng đất Đông Á rộng lớn trong nhiều thiên kỉ.[4] Đây không phải là cách nó xuất hiện theo quan điểm Biển Đông. Trong nhiều thế kỉ, các triều đại và các dân tộc từng kiểm soát vùng bờ biển phía Bắc của Biển Đông là khác biệt với những kẻ kiểm soát các khu vực nội địa của ‘Trung Quốc'. Trong khi các vương quốc phía Bắc nhìn vào phía trong, các vương quốc phía Nam lại nhìn ra phía ngoài. Các vương quốc này kết nối trực tiếp với mạng lưới giao thương đường biển và thông qua đó với Phù Nam và phần còn lại của khu vực.

Trong hầu hết thời kì này, Phù Nam có được hai điều cho thấy là rất cốt yếu đối với mọi trung tâm giao thương thành công của Đông Nam Á: quan hệ có lợi với bất cứ ai đang nắm quyền ở Ấn Độ và ở miền Nam Trung Quốc. Những khi có khủng hoảng, và đặc biệt sau khi có thay đổi chính trị, Phù Nam sẽ gửi ‘các đoàn sứ giả’ tới Trung Quốc để tìm cách bảo vệ vị trí của họ như là đối tác giao thương ưu tiên. Đại diện của họ sẽ dâng 'cống vật’ giúp các cuộc thương thảo tiến triển dễ dàng hơn. Phần lớn kết quả đều từ quan hệ triều cống này. Một số nhà sử học dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc lập luận rằng điều đó cho thấy rằng các xã hội Đông Nam Á là chư hầu của hoàng đế Trung Hoa. Đó là cách mà các tài liệu cổ của Trung Quốc có xu hướng ghi nhận. Tuy nhiên, các tài liệu đương đại Đông Nam Á cho thấy rằng 'cống nạp' không được xem như là một loại quan hệ phong kiến nào đó giữa chủ và tớ mà chỉ đơn thuần là một quan hệ đối tác giao thương. Vua chúa Trung Quốc hoan nghênh việc 'cống nạp' như sự công nhận nước ngoài về quyền cai trị của họ. Triều cống đảm bảo quan hệ nước ngoài tốt và về mặt biểu tượng củng cố quyền lực trong nước của các vua chúa với các đối thủ tiềm năng. Đối với những nước ‘cống nạp’, đó chỉ là thủ tục cần thiết để được ra vào các cảng. Chính tình trạng ‘quan hệ triều cống’ như thế này đã khiiến Phù Nam thành người gác cổng cho sự giàu có cả trong phạm vi ảnh hưởng lẫn ở xa tít ngoài chân trời.

Trong gần ba thế kỉ Phù Nam dường như đã chi phối việc giao thương ở Biển Đông, dù bị các đối thủ tấn công. Họ sử dụng cả ngoại giao và sức mạnh để duy trì vị trí của mình, thích ứng với những thăng trầm của việc giao thương đường dài trên biển cho đến giữa thế kỉ IV. Vào khoảng thời gian đó lệ phí cao và tham nhũng ở các cảng Trung Quốc làm kinh doanh suy giảm, các thương nhân không có việc làm quay sang cướp biển và các thương nhân có óc cạnh tranh tư tìm đường đi biển tới bán đảo Malay theo cách của mình, kết thúc quyền nắm giữ của Phù Nam đối với eo đất Kra. Các thương nhân từ các phần khác của Đông Nam Á bắt đầu bỏ qua Phù Nam và làm việc trực tiếp với các cảng khác xa phía trên bờ biển. Dần dần Phù Nam bị các đối thủ che khuất. Vào lúc mà giao thương đường biển hồi sinh một lần nữa, sau sự sụp đổ của nhà Tấn ở Trung Quốc năm 420 CE, thì các cảng khác gặt hái nhiều lợi lộc, đặc biệt là những cảng xa về phía trên bờ biển, ở Champa.

Ngược với Phù Nam, nơi ít thứ còn sót lại, Champa đã để lại các công trình đồ sộ: tháp gạch đỏ lớn nằm rải rác khắp khu vực mà bây giờ là miền Trung Việt Nam. Hình bóng Ấn Độ của các công trình là rõ ràng; thật ra, ngay cả cái tên ‘Champa’ dường như cũng được vay mượn từ một vương quốc của Ấn Độ. Cội rễ của Champa nằm trong văn hóa đồ đá Sa Huỳnh mà Wilhelm Solheim xác định như là một phần của mạng lưới Nusantao và sự thịnh vượng của nó, giống như sự thịnh vượng của Phù Nam trước đó, được xây dựng trên việc hôn phối giữa giao thương đường biển và xuất khẩu các mặt hàng nội địa: ngà voi và sừng tê giác là hai trong số nhiều sản phẩm độc đáo mà những khu rừng ở đó có thể cung cấp. Champa không phải là một nhà nước tập trung, mà là một tập hợp nhiều khu định cư tại các thung lũng sông dọc theo bờ biển thừa nhận một nhà cai trị chính. Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm của nó, quyền lực thường xuyên di chuyển qua lại giữa các thung lũng khác nhau.

Champa hiếm khi hòa bình. Nó nổi lên từ nạn cướp biển tiếp sau sự suy tàn trong giao thương hợp pháp với Trung Quốc vào cuối thế kỉ IV. Sau khi nhà Tấn sụp đổ, đường bộ từ Trung Quốc tới phương Tây đã bị đóng đối với các vua mới phía Nam Trung Quốc, nhà Liêu Tống. Kết quả là họ phải phụ thuộc vào giao thương đường biển vốn đã bị thiệt hại vì cướp biển Champa. Mối đe dọa này tồi tệ đến nỗi quân Liêu Tống đã tiến đánh Champa năm 446 và phá hủy kinh đô của họ. Nhưng rồi Liêu Tống cũng tự tuyên bố mở cửa cho giao thương và Champa đã trở thành một trạm trung chuyển - trong khi vẫn dung dưỡng, và đôi khi khuyến khích cướp biển. Gần như cùng lúc đó, Quảng Châu trên châu thổ Sông Châu (Pearl River) trở thành cảng chính của miền Nam Trung Quốc và giao thương giữa hai phía- được nối kết bởi các chu kì gió mùa hàng năm - trở nên được lợi cao.

Tuy nhiên, dù Champa thống trị giao thương đường biển với Trung Quốc, họ không giữ độc quyền. Nhiều cảng giao thương khác cũng bắt đầu phát triển các quan hệ. Vương quốc Taruma ở miền Tây Java và các vua khác ở Sumatra đã phái sứ giả tới vào năm 460. Một điều mà tất cả những nơi này cùng có là họ chấp nhận các yếu tố văn hóa tôn giáo và chính trị Ấn Độ: ban đầu là Ấn Độ giáo, sau đó là Phật giáo. Các vương quốc này tự gọi mình bằng từ Tiếng Phạn mandala - bánh xe - và các nhà vua là cakravartin – người quay bánh xe. Họ tự thấy mình như là trung tâm của hệ thống chứ không phải là các quốc gia có biên giới xác định. Tính chính đáng của họ ắt phải xuất từ sự nhìn nhận của những nhà cai trị khác nhiều hơn là từ việc kiểm soát thực tế lãnh thổ. Quan hệ giữa các nhà cai trị thì linh hoạt và các trung tâm ít quyền lực hơn có thể trung thành với nhiều hơn một mandala. Nhưng tính chính đáng này cần phải được hậu thuẫn bởi sức mạnh quân sự. Để duy trì vai trò trung tâm, mandala cần có khả năng buộc các thực thể chính trị cấp dưới khép vào đường hướng khi cần thiết.

Việc sử dụng cách cai trị của Ấn Độ và sự lan toả tiếp tục của tôn giáo Ấn Độ trong khu vực là bằng chứng về sự liên kết giao thương mạnh mẽ giữa Đông Nam Á và những nơi ở phía tây suốt phần còn lại của thiên kỉ đầu tiên. Gỗ thơm, nhựa, vàng, gia vị và đôi khi nô lệ đều có nhu cầu cao. Bằng chứng chưa thật rõ ràng nhưng có vẻ như trong giai đoạn này giao thương với các vương quốc Ấn là quan trọng hơn với Trung Quốc đối với hầu hết vùng Đông Nam Á. Có một sự sụt giảm đặc biệt trong giao thương với Trung Quốc vào cuối thế kỉ VI. Tuy nhiên, vào năm 618 khi mà triều đại nhà Đường nắm quyền ở Trung Quốc và thống nhất các vùng đất thấp lần đầu tiên trong 200 năm, giao thương Biển Đông dường như đã cất cánh một lần nữa. Điều kiện đã chín muồi cho sự xuất hiện của các mandala khác tận dụng lợi thế của nó. Đây là thời đại của nhiều nền văn minh Ấn hoá lớn: Champa, Srivijaya, và Angkor: những người xây dựng công trình này đã làm thực dân Châu  Âu kích động và tiếp tục mê hoặc chúng ta ngày nay.

Trong khi Champa vẫn còn dính dáng vào các hành vi cướp biển, một đối tác giao thương đáng tin cậy hơn xuất hiện xa hơn nhiều về phía Nam, trên bờ biển phía Đông Nam của đảo Sumatra. Trong một thời gian dài, gần như tất cả những gì được biết về Srivijaya đều từ những mô tả của Trung Quốc. Ngay cả vị trí của nó cũng là điều bí ẩn. Mãi cho đến năm 1993 nhà khảo cổ Pháp Pierre-Yves Manguin mới có thể xác nhận những nghi ngờ trước đó rằng Srivijaya nằm dọc theo bờ sông Musi ở chỗ bây giờ là thành phố Palembang của Indonesia. Đáng buồn là có vẻ hầu hết những vết tích của một trong những nền văn minh quan trọng nhất Đông Nam Á hiện nay nằm bên dưới nhà máy phân bón PIHC. Công ti này thường được gọi là PT Pupuk Srivijaya nhưng thậm chí khộng còn chút dấu vết nào của thành phố cổ Srivijaya này, giống như những tàn tích mà công ti vô tình xóa sạch trong thập niên 1960.

Srivijaya là một mandala cổ điển - thế lực chi phối trong nhóm các khu định cư buôn bán dọc theo tuyến đường giao thương chính Đông-Tây. Từ căn cứ của mình, Srivijaya kiểm soát việc đi lại xuyên qua cả eo biển Malacca ở phía Bắc lẫn eo biển Sunda phía Nam. Khoảng năm 683 nó có thể có một đội quân hùng mạnh khoảng 20 000 người - phần nhiều trong số đó có lẽ là dân du cư Nusantao vốn có thể vừa mua bán vừa đánh nhau nhân danh nhà vua.[5] Giao thương đường Biển Đông-Tây thực tế không thể có được nếu không có sự đồng ý của Srivijaya. Đó là một thế lực đáng kể nên năm 683 triều đình nhà Đường Trung Quốc phái sứ thần đầu tiên tới nơi mà họ gọi là đảo Nam Dương (Nanyang)- Đông Nam Á để gắn kết quan hệ giữa hai nước.[6] Trên thực tế, Sriwijaya trở thành người gác cổng cho triều đại nhà Đường trong khu vực.

**********

Hải sâm, tiếng Indonesia là trepang, đã được xuất khẩu từ Đông Nam Á đến Trung Quốc vừa như một nón ăn ngon vừa như một loại thuốc ít nhất 2000 năm qua. Vì vậy, rất phù hợp khi một thợ lặn tìm trepang ngã nhào theo nghĩa đen lên một phát hiện làm thay đổi hoàn toàn hiểu biết của chúng ta về lịch sử giao thương ở Biển Đông. Tháng 8 năm 1998, trong khi theo đuổi các sinh vật trườn trên đáy biển gần 2 km ngoài khơi bờ biển phía Bắc đảo Belitung của Indonesia, một thợ lặn tìm thấy một gò đất kì lạ. Vỡ lẽ ra đó một chiếc thuyền buồm (dhow) Arab chất đầy hơn 55 000 món gốm Trung Quốc – một lô hàng mà cuối cùng được bán với giá $ 32 triệu, mặc dù cả ông lẫn nước của ông không thấy được phần lớn những thứ đó. Hình vẽ trên gốm tiết lộ rằng con tàu đã chìm năm 826 CE vào giữa triều đại nhà Đường, làm cho điều này thành bằng chứng cụ thể đầu tiên của giao thương đường biển trực tiếp giữa thế giới Arab và Trung Quốc.

Bằng chứng là thứ mà tất cả các nhà sử học tìm kiếm và, trái ngược với Trung Quốc với nhiều thế kỉ tài liệu ghi chép, Đông Nam Á thiếu nó. Tài liệu còn sót lại ít ỏi, các khu định cư ven biển đã bị quét sạch và khí hậu nhiệt đới kết hợp với côn trùng phàm ăn đã làm phân huỷ hầu hết các thứ còn lại. Các thành phố lớn bị mất dấu có chứa những đồ chạm khắc có ích nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng trong các ghi chép lịch sử. Cơ hội tốt nhất của việc san lấp các lỗ hổng nằm trong việc phát hiện các hiện vật thực tế. Các chi tiết nhỏ nhất, từ thành phần phân tử của các vỏ sò đến các kĩ thuật được sử dụng khi đóng tàu thuyền, có thể mở khóa tiết lộ về nơi và cách con người di chuyển, về thứ họ ăn, về loại xã hội họ sống và về cách họ quan hệ với những người khác. Kết quả là các nhà khảo cổ hiện đại rất khó tính về việc ghi nhận lại tất cả mọi thứ trong các cuộc khai quật của họ: cách bố trí không gian sống của một con tàu có thể gợi ý về văn hóa và hệ thống thứ bậc của người trên tàu và sự sắp xếp hàng hóa có thể tiết lộ thứ tự của các cảng ghé qua. Mỗi mãnh bằng chứng đều có thể hữu ích. Hơn nữa, đồng nghiệp sẽ chỉ coi các diễn giải là hợp lệ nếu các phát hiện được ghi nhận một cách chính xác và để mở cho xem xét và diễn giải lại. Những điều này ít nhất, chứ không phải lần đầu tiên, đã không xảy ra ở xác tàu Belitung. Có các ưu tiên khác cấp bách hơn.

Sau khi các thợ lặn trepang trích lấy một ít bát đĩa và bán lại trên thị trường, lời đồn lan ra và một công ti địa phương, Sulung Segara Jaya, lấy được một giấy phép từ Ủy ban quốc gia cứu hộ tàu đắm của Indonesia cho khai quật xác tàu . Nó được công ti Seabed Explorations, thuộc sở hữu của Tilman Walterfang, một kĩ sư xây dựng Đức chuyển thành nhà thám hiểm dưới nước, nhanh chóng tham gia. Hai công ti này đã làm việc nhanh chóng. Theo kinh nghiệm cay đắng họ biết rằng hiện trường sẽ nhanh chóng bị những người khác cướp bóc nếu họ không làm nhanh. Tháng 8 năm 1998 Indonesia đang trong cuộc khủng hoảng. Tổng thống Suharto bị hạ bệ, hơn một ngàn người đã bị giết trong cuộc bạo loạn, li khai tăng lên và người nước ngoài trốn chạy ra khỏi đất nước cùng với tài sản của họ. Walterfang vẫn không nao núng: của cải tương lai của ông vẫn còn nằm ở đáy biển. Các đội tiếp tục làm việc, di dời càng nhiều hàng hóa càng tốt trong tháng 9 và tháng 10 trước khi gió mùa làm ngừng công việc của họ. Như họ lo sợ, những kẻ săn tìm kho báu địa phương gần như ngay lập tức nhảy vào. Walterfang kí hợp đồng với một công ti riêng biệt, Maritime Explorations, thuộc sở hữu của một cựu kĩ sư, Michael Flecker, để khai quật phần còn lại của địa điểm trong năm mới và làm một phân tích khoa học hơn về những gì còn sót lại. Flecker đã khai quật hàng chục xác tàu trong khu vực và cũng có bằng tiến sĩ khảo cổ học biển.

Bây giờ chúng ta biết rằng đồ gốm trên con tàu đắm ở Belitung được sản xuất hàng loạt ở ít nhất 5 địa điểm riêng biệt trên khắp Trung Quốc, rồi vận chuyển quanh bờ biển Trung Quốc đến Quảng Châu, ở đó chúng đã được chuyển lên một tàu có dáng phảng phất những chiếc vẫn còn được sử dụng ở biển Oman, được làm từ gỗ được trồng ở Trung Phi và Ấn Độ. Nhân viên tàu có thể là một tập hợp nhiều giống dân Arab, Ba Tư và Malay và khách hàng cuối cùng cho các hàng hóa này là tầng lớp thượng lưu và trung lưu của Abbasid Caliphate, ở trung tâm Baghdad. Tàu chạy đi từ Quảng Châu lúc có gió mùa Tây Nam, có thể dừng lại trên đường để bổ sung dự trữ thực phẩm và nước trước khi bị đắm trên một rạn san hô trong phạm vi ảnh hưởng của Srivijaya. Vậy thì hàng hóa vận chuyển trên tàu đúng lẽ thuộc về ai? Theo quan điểm của Walterfang thì câu trả lời rất đơn giản: ông ta- và bất cứ ai đã chuẩn bị để mua chúng từ ông ta. Khi gốm bị lấy đi để bảo tồn và rửa sạch và phần còn lại của tàu được kiểm tra để tìm manh mối về nguồn gốc của nó, việc cãi vả bắt đầu.

Cuối cùng chỉ có Singapore đủ quan tâm tới kho báu này để chi trả món tiền mà Walterfang tìm kiếm. Động lực đằng sau việc mua lại hàng hóa là Pamelia Lee, người lúc đó đứng đầu Hội đồng Du lịch Singapore và là em dâu của Thủ tướng nhiều năm tại vị của Singapore, Lí Quang Diệu (Lee Kuan Yew). ‘Tôi nghĩ đã tới lúc để Singapore tìm kiếm những điều tốt hơn trong cuộc sống’, bà nhớ lại. ‘Giống như mọi quốc gia khác trở nên giàu có bạn phải nhìn vào việc xây dựng gốc rễ của mình.’[7] Lee hi vọng rằng lô hàng hóa đó sẽ đủ để trả lại số tiền mua bằng cách thu hút du khách đến khu nghỉ mát lớn lúc đó được lên kế hoạch cho đảo Sentosa ở Singapore. Vào tháng 4 năm 2005, Tổng công ti Sentosa nhà nước, một bộ phận của Bộ Giao thương và Công nghiệp Singapore, công bố một thỏa thuận mua kho chứa vật quý này từ công ti của Walterfang với giá $ 32 triệu. Một nửa số chi được đóng góp bằng các bất động sản của một trong những người giàu nhất Đông Nam Á: trùm ngân hàng và khách sạn Tan Sri Khoo. Thỏa thuận này được mô tả như là một phần cốt lõi của kế hoạch Sentosa nhằm tạo ra một bảo tàng biển mới lắp đầy với hiện vật được trục vớt từ những con tàu đắm.

Đầu năm 2011, trong khi bảo tàng biển đang xây dựng, một số 'Kho báu nhà Đường’ đã được trưng bày tại Bảo tàng ArtScience trên bờ biển Singapore. Có kế hoạch sẽ chuyển cuộc triển lãm cho Viện Smithsonian ở Washington DC năm sau. Nhưng rồi một liên minh các nhà khảo cổ Mỹ đã can thiệp. Họ phẩn nộ vì một công ti tư nhân lại được cho phép để khai quật một địa điểm quý hiếm như vậy. Một số người đã cáo buộc Viện khuyến khích việc hôi của. Điều đó đã biến thành một cuộc tranh cãi giữa những người lí tưởng và những kẻ hoài nghi - giữa những người tin rằng cách thực hành khảo cổ học tốt nhất nên được tôn trọng trong mọi trường hợp và những người cảm thấy rằng những vấn đề thực tế về hôi của và khai thác tài chính đòi hỏi các giải pháp thực tế. Tháng 4 năm 2011, Smithsonian đã chịu thua và hủy bỏ triển lãm. Walterfang cáo buộc những người phê phán mình là kẻ háo danh đang chơi trò chính trị khác.[8] Từ đó các mối quan hệ không được cải thiện nhiều.

Thậm chí tệ hơn, Bảo tàng thực nghiệm biển (Maritime Experiential Museum) trên đảo Sentosa cũng lạnh nhạt với 'Kho báu nhà Đường’. Ở đó có nhiều hiện vật từ các xác tàu khác nhưng không có lấy một vật nào từ xác tàu ở Belitung. Tại thời điểm viết sách, chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ trong số hàng hóa này được trưng bày công cộng, một ít trường hợp bên trong khách sạn Goodwood Park ở Singapore, trước đây thuộc sở hữu của ông Khoo. Có vẻ như Singapore ít quan tâm đến một trong những khám phá khảo cổ đáng chú ý nhất trên thế giới. Pamelia Lee thất vọng vì người dân của đảo quốc này, theo nhiều cách là tương đương với Phù Nam hoặc Srivijaya, đã không hiểu ý nghĩa của kho báu. ‘Theo tôi thì trong những năm tới, khi họ có được thứ tốt nhất trong tất cả các tiện ích, họ sẽ tìm kiếm một thứ hữu hình nào đó khác hơn’, bà thở dài.[9] Nhưng có lẽ có một thông điệp sâu sắc hơn ở đây. Có vẻ như không những người Singapore không có cảm giác sở hữu' số hàng hóa đó, họ cũng không có ý thức sở hữu đối với biển, mặc dù thực tế là toàn bộ đất nước của họ tồn tại dưa trên giao thương đường biển. Singapore là một trạm trung chuyển, được tư bản hoá trên các luồng hàng Đông-Tây đi qua bến cảng của nó, nhưng điều đó không biến thành một cảm giác về quyền thụ hưởng đối với tài sản đó.

Gác ý nghĩa hiện đại sang một bên, điều mà xác tàu ở Belitung chứng minh cho các nhà khảo cổ là vào giữa thời nhà Đường (ba thế kỉ từ 618 tới 907) giao thương ở Biển Đông đã là một ngành công nghiệp xuất khẩu tích hợp cao. Doanh nghiệp ở nhiều vùng của Trung Quốc thiết kế sản phẩm cho các thị trường cụ thể (trang trí các biểu tượng Phật giáo hoặc chữ viết Koran theo yêu cầu) và sản xuất chúng hàng loạt. Sau đó đại lí địa phương vận chuyển hàng hoá trên đất liền, trên sông và dọc theo bờ biển đến cảng trung chuyển, ở đó thương nhân nước ngoài sẽ đảm nhận việc vận chuyển đường dài. Có một sự phân chia lao động rõ ràng giữa sản xuất trong nước và ngoại thương.

Triều đình nhà Đường dùng các biện pháp đặc biệt để khuyến khích mối quan hệ này. Ban đầu triều đình ra lệnh phải có các quy định đề ra sẵn cho người nước ngoài đến Quảng Châu và đặt ra một chức quan chính thức để giám sát việc giao thương. Thương nhân Malay (có lẽ cũng là người Nusantao) đi đến Quảng Châu với số lượng lớn cùng với người Arab, Ba Tư, Armenia và Ấn Độ. Họ mang theo các sản phẩm tốt nhất từ quốc gia của họ: ngọc trai, thảm và khoáng chất từ Ba Tư (bao gồm cả cobalt xanh được dùng trong men gốm), nhũ hương, mộc dược, và chà là từ Arab, đồ trang sức và đồ thủy tinh từ Ấn Độ và các loại gia vị và nước hoa từ khu vực Đông Nam Á. Họ trao đổi chúng để lấy đồ gốm, lụa và đồ kim loại của Trung Quốc. Con đường tơ lụa trên biển, xa lộ Abbasid-Đường từ Quảng Châu đến Baghdad, qua ngã Srivijaya và Sri Lanka, tạo ra sự giàu có to lớn cho những ai có thể kiểm soát nó.

Dưới thời nhà Đường, giao thương là đặc quyền của triều đình và chỉ có các quan được bổ nhiệm mới có thể xử lí hàng nhập khẩu: hoạn quan, người có đủ mọi động cơ để đòi hối lộ và bóc lột thương nhân ở những chỗ họ dễ sơ hở nhất. Tham nhũng trở nên ngày càng tệ hơn cho đến tháng 10 năm 758, đã có một cuộc bạo động. Thương nhân Ba Tư và Arab bỏ rơi quảng Châu và giao thương với nơi khác. Các nhà cai trị đồng bằng sông Hồng ở khu vực bây giờ là Việt Nam (trên danh nghĩa là dưới quyền thống trị của nhà Đường nhưng phần lớn là tự trị) đã chớp lấy cơ hội. Cảng của họ, tại Long Biên, đã trở thành đầu mối giao thương trong một vài thập kỉ. Tuy nhiên, Quảng Châu ắt đã lấy lại vị trí của nó vào lúc tàu Belitung rời bến khoảng năm 826. Nhưng 40 năm sau đó, năm 878, quân nổi dậy chống Đường chiếm đóng Quảng Châu. Một tài liệu Arab nói rằng họ lựa ra và tàn sát hàng ngàn người Arab, Ba Tư, Do Thái và tín đồ Kitô cư trú ở đó. Tuy nhiên, các thương nhân nước ngoài còn sống sót dường như vẫn còn trụ lại được trên bờ biển.

Cuộc nổi dậy mang hơi hướm của những gì sắp đến. Năm 906 nhà Đường sụp đổ, vương quốc cũ của họ bi chia năm xẻ bảy và bờ biển lại trở thành độc lập. Việc phân nhánh này thay đổi toàn bộ khu vực. Trên bờ biển phía Tây Nam, khu vực xung quanh Quảng Châu tách ra để thành lập vương quốc Nam Hán và sau đó các nhà lãnh đạo của đồng bằng sông Hồng cũng tách ra thành lập Đại Việt. Đại Việt phát triển thành đối thủ và cuối cùng chinh phục các vùng đất của Champa (và hơn một ngàn năm tiếp theo phát triển thành Việt Nam).

Trên bờ biển phía Đông Nam, chỗ tỉnh Phúc Kiến hiện nay, vương quốc Mân Nam (闽南/Minnan) xuất hiện. Tách rời phía Bắc, Mân Nam gắn với biển. Trong suốt thế kỉ X, nó đã trở thành một nước giao thuơng biển hoàn toàn. Cảng Tuyền Châu [Quanzhou] nổi lên từ bóng tối để trở thành nơi tập trung của các năng lượng kinh doanh và điểm chọn để đến cho các thương nhân từ Trung Đông. Sau hơn một ngàn năm giao thương với người nước ngoài, những người mà ngày nay chúng ta gọi là 'người Trung Quốc' lần đầu tiên mới giong buồm đi khắp các đại dương trên chính tàu thuyền của mình.[10] Đó là khởi đầu của tập tục đi biển đã mang người Phúc Kiến và đặc biệt là các thành viên người Mân hay nhóm dân Phúc Kiến đi khắp Biển Đông và xa hơn nữa.

Khoảng năm 970, sau 60 năm độc lập, phía Nam lại chịu dưới sự kiểm soát của nhà Tống, với kinh đô ở Khai Phong [Kaifeng]. Ban đầu, nhà Tống coi biển theo cách các vua chúa nội địa xưa nay: như là một nguồn đe dọa. Đó là một nơi mà những ‘phần tử xấu’ như kẻ buôn lậu hoặc đối thủ chính trị có thể ẩn nấp và nơi mà ý tưởng nước ngoài có thể lan truyền. Năm 985 tất cả thương nhân Trung Quốc đều bị cấm đi nước ngoài. Nhà Tống theo vết các triều đại trước đó áp đặt độc quyền của triều đình về thương mại. Các giao dịch tư nhân đều bị cấm, ép buộc thương nhân nước ngoài phải nhập khẩu hàng hóa của họ thông qua các kênh chính thức để cho triều đình qua đó có thể áp đặt các loại thuế lên tàu thuyền, thuế hải quan lên hàng nhập khẩu và cũng sung vào quỹ một tỉ lệ hàng hóa và lợi nhuận khi bán lại cho người tiêu dùng trong nước.

Nhưng trong vòng vài năm nhà Tống khởi xướng một chính sách quay vòng trở lại đáng chú ý. Năm 987 triều đình cử bốn phái bộ ra nước ngoài để khuyến khích các nước ngoài giao thương. Nhưng điều đó chưa đủ. Áp lực đòi triều đình nới lỏng sự kiểm soát ngày càng tăng thêm: từ các thương nhân ven biển vốn muốn được lợi nhuận; từ người tiêu dùng vốn muốn có hàng hoá nước ngoài; và từ công quỹ vốn cần thu nhập để gồng gánh bộ máy quan liêu. Năm 989 vận chuyển tư nhân Trung Quốc đã được cho phép dùng tàu thuyền giao thương với nước ngoài. Cuối cùng, sau nhiều thế kỉ ở đầu nhận của giao thương, vào cuối thế kỉ X dân đi biển Trung Quốc đã được chính thức cho phép thực hiện các chuyến đi buôn riêng của họ. Cũng có các ưu đãi về thuế. Tỉ lệ hàng hóa trong nước bị triều đình tự động trưng thu đã được cắt giảm chỉ bằng một nửa và tiếp tục giảm sau đó. Người đóng tàu thuyền đã học được cách đóng tàu đi biển. Họ dung nạp các phát minh từ giao thương đường thuỷ nội địa Trung Quốc, chẳng hạn như các khoang kín nước và bánh lái sau tàu, nhưng họ cũng sao chép các yếu tố của tàu Malay đã đến bờ biển của họ trong nhiều thế kỉ. Ngay cả tên mà họ dùng chỉ các tàu này– po [: bạc] - có nguồn gốc Malay.

Trong nhiều năm sau năm 1069, Vương An Thạch, một quan triều đình nhà Tống, đi tiên phong trong cải cách nhằm tăng thu nhập của triều đình bằng việc kích thích thương mại. Trong một thử nghiệm rất sớm với kinh tế tự do, thuế nhập khẩu được giảm và việc quản lí giao thương được phân cấp cho các cảng. Đó là một thành công: trong vòng 20 năm, giá trị trong giao thương đã tăng gấp đôi. Một cải cách khác đã có hậu quả sâu rộng. Triều đình bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu tiền đồng. Loại tiền tệ này lan toả nhanh chóng trên mạng lưới giao thương ở Biển Đông và tiền đúc nhà Tống đã trở thành một phương tiện trao đổi tới tận Sumatra và Java.

Khoảng năm 1090 tàu Trung Quốc đã được cho phép chạy ra nước ngoài từ bất kì cảng nào, khuếch trương thu nhập từ giao thương rộng rãi hơn nữa. Động thái này cũng cho phép các thương nhân Phúc Kiến lấn vào công việc kinh doanh trước đây do người nước ngoài độc quyền. Và cũng giống như người nước ngoài, họ cũng buộc phải theo gió mùa và phải đợi ở các cảng nước ngoài cho tới khi gió đổi hướng. Trong lúc tạm trú họ bắt đầu cắm rễ xuống tại chỗ: lập ra các đền thờ nữ thần đi biển Ma Tổ (妈祖/Mazu) và manh nha ra các phố Tàu (Chinatown). Tuy nhiên hạn chế vẫn còn. Tàu thuyền Trung Quốc chỉ được phép vắng mặt ở cảng trong 9 tháng, một chu kì gió mùa. Họ chỉ có thể đi xa lắm là tới Sumatra trước khi phải quay về. Giao thương phía Tây vào Ấn Độ Dương vẫn dành riêng cho tàu Arab, Ấn Độ và Srivijayan. Tuy nhiên, bất chấp điều đó những thương nhân Trung Quốc mạo hiểm hơn đã bắt đầu xông đến Ấn Độ và Vịnh Ba Tư.

Nhưng tại quê nhà, triều đình nhà Tống phải chịu sức ép ngày càng tăng. Năm 1126, mất quyền kiểm soát vùng đất phía Bắc vào tay quân xâm lược Nữ Chân (女真/Jurchen) từ Mãn Châu, họ dời đô tới Hàng Châu trên bờ biển phía Đông. Lúc cuộc khủng hoảng nẩy ra họ cấm tàu thuyền Trung Quốc đi ra nước ngoài và dừng việc nhập khẩu gần như tất cả các hàng hoá sang trọng (với ngoại lệ đáng chú ý là ngà voi cần cho việc làm khóa đai cho vua quan). Nhưng cuộc khủng hoảng này chỉ kéo dài nhiều nhất là sáu năm tới khi nhà Tống bắt đầu cho tự do hóa giao thương lần nữa. Trong vòng 14 năm, chính sách giao thương đã hầu như quay trở lại vị trí trước khủng hoảng. Đòi hỏi phải giao thương là áp đảo. Vào khoảng thập niên 1160 cộng đồng người nước ngoài ở Tuyền Châu đã trở nên lớn đến mức cần tới một nghĩa trang riêng. Phần lớn các thương nhân này là người theo đạo Hồi, đạo Hồi đã bắt rễ ở Champa cũng khoảng thời gian này, và họ đã có những quan hệ tốt đẹp với cả người đạo Hồi ở Trung Đông lẫn cư dân đạo Hồi ngày càng tăng của Trung Quốc.

Nhà Tống kéo dài thêm một thế kỉ nữa. Nhìn một cách tổng thể, giai đoạn từ lúc nhà Đường sụp đổ năm 906 cho đến khi nhà Tống sụp đổ năm 1279 có vẻ như là một 'thời hoàng kim' đầu tiên của giao thương quanh Biển Đông. Những thay đổi ở Trung Quốc và Ấn Độ và sự phát triển của giao thương Hồi giáo đã mở ra những tăng trưởng lớn trong giao thương và tạo ra của cải.[11] Đất nước hùng mạnh nhất trong khối Champa là Vijaya, trở nên phồn thịnh vào thời điểm này. Trái lại, Srivijaya lại suy sụp sau khi bị vương quốc Chola ở Nam Ấn Độ xâm lược năm 1025. Điều này cho phép nhiều cảng khác xuất hiện dọc theo bờ biển Sumatra, Java, Bali, Borneo và đất liền Đông Nam Á. Các đảo ở Philippines (được biết với tên là Butuan [蒲端: Bồ Đoan] và Ma-yi [麻逸: Ma Dật] trong tài liệu tiếng Trung) cũng bắt đầu được ghi nhận là các thực thể giao thương. Việc phát hiện một kho báu vàng tuyệt vời ở thành phố Suriga của Philippines trên chóp đảo Mindanao vào năm 1981, cho thấy một nhóm người quyền thế giàu có Hindu-hoá đã ở đó vào thời gian này.

Nhiều hàng mới đã được trao đổi, ngày càng đưa nhiều người và vùng lãnh thổ vào hệ thống giao thương khu vực, và cuối cùng là toàn cầu. Nhưng vào cuối thế kỉ XIII, bùng nổ dường như đã chuyển thành bại hoại. Trong năm 1275, Jambi, cảng chính của Srivijaya bị cướp biển Java phá hủy. Vào lúc đó quân Mông Cổ từ phía Bắc cũng đã tiến vào lãnh thổ nhà Tống. Việc người Mông Cổ cuối cùng chinh phục Phúc Kiến và Quảng Châu năm 1279 dường như đã gây ra một sự suy giảm chung trong giao thương khu vực và kéo dài cho đến khi họ bị mất quyền lực gần một thế kỉ sau đó. Thay vào đó, Biển Đông đã trở thành một đấu trường xung đột khi ‘triều đại nhà Nguyên’ của Mông Cổ tìm kiếm ảnh hưởng. Đặc biệt, Hốt Tất Liệt (Kublai Khan), vua nhà Nguyên đã 14 lần phái chiến thuyến ra nước ngoài tiến hành các cuộc tấn công phá hoại Champa và Java. Tuy nhiên, nếu không có nguồn của cải từ giao thương đường biển, triều đại nhà Nguyên không thể tạo ra thặng dư cần thiết để duy trì quyền lực của mình. Đến năm 1368, họ bị vứt vào sọt rác của lịch sử.

Họ đã bị thay thế bởi nhà Minh, triều đại gần như ngay lập tức đã cố gắng xóa bỏ giao thương nước ngoài của tư nhân và một lần nữa đưa nó nằm hoàn toàn dưới sự kiểm soát của triều đình. Quan hệ giao thương chính thức trở lại hình thức 'triều cống’ chứ không phải là thị trường mở và Quảng Châu đã được chỉ định là cảng 'hợp pháp' cho tàu thuyền từ Đông Nam Á đến. Nhưng sau gần bốn thế kỉ giao thương tư nhân do thương nhân Trung Quốc thực hiện và với một cơ sở hạ tầng các đại lí cùng mạng lưới gia đình có sẵn quanh khu vực, giao thương không chính thức chưa bao giờ bị triệt tiêu, đặc biệt là trong các doanh nghiệp của tỉnh Phúc Kiến. Cuối cùng buôn lậu đã trở thành chi phối, đặc biệt là khi cộng đồng người Hoa ở nước ngoài bắt đầu sử dụng giao thương 'cống nạp' làm vỏ bọc. Cuối cùng nhà Minh quay lưng với biển và tập trung vào các vấn đề nội địa, nhưng chỉ sau việc khẳng định ngoạn mục nhất của quyền lực nhà nước Trung Quốc trên biển: 30 năm các 'chuyến đi thái giám'.

**********

Geoff Wade là một nhà sử học Australia, một chuyên gia điềm đạm về triều đại nhà Minh và Minh sử lục (sử biên niên nhà Minh). Nhưng nếu muốn làm ông phật ý, chỉ cần hỏi về Gavin Menzies và cuốn sách của ông ta 1421: the Year China Discovered the World (1421: năm Trung Quốc khám phá thế giới), mô tả các thứ được cho là khám phá của đô đốc thái giám Trung Quốc Trịnh Hoà (Zheng He). Wade bởn cợt. Ông nói ‘cuốn sách của Menzies là khá đáng chú ý về mặt là chẳng có một trong những điều được khẳng định trong quyển sách là có chút xác thực nào. Các đô đốc  thái giám mà ông ta khẳng định là đã đi vòng quanh thế giới lại chẳng hề đi qua Châu Phi, không có tài liệu Trung Quốc hoặc tài liệu nào khác hậu thuẫn cho các chuyến đi được nêu, chẳng xác tàu thuyền của Trung Quốc tìm được nằm ngoài Châu Á, và cũng không có các điểm định cư hay kiến trúc nào của nhà Minh ngoài phạm vi Châu Á. Một kiểu thêu dệt (fiction) với quy mô này lại có thể được công bố và được chào hàng như một sách đứng đắn (non-fiction) là một lời buộc tội tệ hại cho ông Menzies, nhưng thậm chí tệ hại nhiều hơn như vậy cho nhà xuất bản.[12] Wade có thể tức giận nhiều hơn so với hầu hết chúng ta nhưng đây là quan điểm chung của các nhà sử học về các khẳng định của Menzies. Menzies có thể đã sáng tác ra phần lớn những điều trình bày nhưng chắc chắn rằng Trịnh Hoà là một nhân vật lịch sử hấp dẫn: một người đạo Hồi ở Vân Nam, bị bắt trong cuộc xâm lược của nhà Minh rồi bị hoạn, nhưng sau này lại giúp hoàng đế thứ ba nhà Minh thắng lợi trong cuộc tranh giành ngôi vua. Hiện nay Trịnh Hoà được biết đến rộng rãi đến nỗi khó có thể tin rằng đã có lúc ông từng là một khuôn mặt mờ nhạt. Điều đó thay đổi vào tháng 10 năm 1984, khi nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình sử dụng viên đô đốc này để biện minh cho chính sách ‘mở cửa’ tham gia với phương Tây trong một bài phát biểu trước Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản. Trong những năm tiếp đó, Trịnh Hoà đã trở thành khuôn mặt xuất hiện trên các quảng cáo cho chính sách trỗi dậy hòa bình của Bắc Kinh, một mẫu mực cho sự tham gia của Trung Quốc với thế giới. Năm 2004, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ kỉ niệm lớn đánh dấu 600 năm chuyến đi đầu tiên của đô đốc này, Thứ trưởng Thông tin Xu Zuyuan (Từ Tổ Viễn), tóm tắt những quan điểm chính thức của về thành tựu của ông. Từ Tổ Viễn tuyên bố ‘như vậy những chuyến đi đó là những hoạt động ngoại giao thân thiện. Trong tiến trình chung của bảy chuyến đi đến Tây Dương, Trịnh Hoà đã không chiếm dù chỉ một mảnh đất, lập một pháo đài hoặc tóm thu của cải của các nước khác. Trong hoạt động giao dịch và thương mại, ông đã thực hành việc cho đi nhiều hơn ông nhận lại, và do đó ông được dân chúng nhiều nước khác nhau trên tuyến đường chào đón và ca ngợi.[13]

Tuy nhiên, Geoff Wade cho rằng cách trình bày này về Trịnh Hoà cũng gây ngộ nhận gần như phiên bản của Gavin Menzies. Nghiên cứu của Wade về Minh sử lục phát hiện có 25 chuyến đi do các thái giám khác nhau chỉ huy trong những năm từ 1403 cho đến đầu thập niên 1430, trong số đó Trịnh Hoà chỉ chỉ huy 5 chuyến. Đại đa số các chuyến đi đều đến Đông Nam Á nhưng Trịnh Hoà trở nên nổi tiếng vì tàu của ông đã đi xa hơn tới quanh Ấn Độ Dương. Wade cho rằng các chuyến đi đó không phải là thực hiện nhiệm vụ hòa bình mà rõ ràng là phô trương sức mạnh. Mỗi chuyến đi - có từ 50 tới 250 tàu – mang theo 20 000 quân được trang bị với các loại vũ khí tiên tiến nhất lúc đó. Mục đích rõ ràng là để gây kinh khiếp. Trong chuyến đi đầu tiên, được lệnh đi năm 1405, Trịnh Hoà dừng lại ở Palembang thuộc đảo Sumatra, ở đó ông truy bắt Trần Tổ Nghĩa (陈祖义/Chen Zu-yi), một người chạy trốn triều đình nhà Minh. Được biết có 5000 người bị chết trong giao tranh. Cũng trong chuyến đi đó hạm đội của Trịnh Hòa đã đánh một đội quân ở Java, mà Wade tin rằng có thể thuộc về Majapahit, đối thủ tranh giành uy thế với Trung Quốc ở Biển Đông vào thời điểm đó. Trong một chuyến đi khác, vào năm 1411, Trịnh Hoà xâm chiếm một thành phố của Sri Lanka, tiêu diệt quân đội thành phố này, bắt vua mang về Trung Quốc và đưa lên một vua bù nhìn. Năm 1415, ông đã can thiệp vào một cuộc nội chiến ở Sumatra và cũng có ý kiến cho rằng quân lính của ông đã có hành vi tàn ác trên bán đảo Arab.[14]

Wade cho rằng sự kiện là rất nhiều vua chúa và sứ thần đã được chuyển đến Trung Quốc trên tàu của Trịnh Hoà cho thấy họ phải bị cưỡng ép đi và việc cưỡng ép này đã cho nhà Minh quyền đi lại tới các cảng và các tuyến đường biển. Năm 1405 đô đốc Trịnh Hoà thành lập một đồn trú đóng ở Malacca (tiếng Malay là Melaka), một thành phố chỉ mới thành lập ba năm trước, đồn này cho phép quân Minh kiểm soát eo biển chỗ nó được đặt. Đổi lại ông ta phong vương cho vua Malacca. Mục đích chung của những chuyến đi này rõ ràng gồm hai mặt: kiểm soát các tuyến đường giao thương và tạo cho hoàng đế mới giành được ngôi ở bản quốc tính chính đáng qua việc các vua chúa nước ngoài tỏ lòng thần phục ông ta. Điều này khác xa với hình ảnh chính thức về ‘sứ giả nổi bật của hoà bình và hữu nghị’ do Bắc Kinh đề cao. Cuối cùng, cách ngoại giao pháo hạm này chỉ kéo dài 30 năm. Các quan lại triều đình ghen tị kiềm chế bớt quyền lực của viên hoạn quan này. Ưu tiên chính sách lại quay vào bên trong: bản đồ Trịnh Hoà bị đốt và tàu thuyền của ông bị để hư dần hư mòn. Trung Quốc không có tàu hải quân khác có khả năng đi tới các đảo của Biển Đông mãi đến khi họ được Hoa Kì biếu cho 500 năm sau đó.

Nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc biết huyền thoại mạnh hơn lịch sử và nhà ngoại giao tốt bụng Trịnh Hoà vẫn dong buồm ra đi bất cứ khi nào hợp tác hàng hải cần được thảo luận ở Đông Nam Á hoặc một thỏa thuận đầu tư tổ chức ở Đông Phi. Nói chung ‘lịch sử chính thống’ vẫn đóng một vai trò quan trọng ở Trung Hoa Cộng sản, như chỉ cần một chuyến viếng ngắn ngủi đến Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc tại Quảng trường Thiên An Môn sẽ chứng thực điều đó. Nó củng cố cho quyền cai trị của Đảng và hạ thấp đối thủ. Một khi mà một câu chuyện lịch sử đặc biệt trở thành giáo điều của Đảng, thách thức nó sẽ là một hành động bất phục tùng ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp cá nhân. Ủng hộ nó với bằng chứng sẽ được tưởng thưởng.

Năm 1986, Cục Quản lý Di sản văn hóa quốc gia Trung Quốc đã lập ra Trung tâm Di sản khảo cổ học dưới nước (UWARC) do Bảo tàng Quốc gia quản lí. Quyết định này được thúc đẩy một phần bởi một nỗi sợ hãi rằng Trung Quốc đang mất quyền sở hữu các xác tàu đắm ở xa vào tay các nhà trục vớt giàu tiền của nước ngoài. Nhưng Cục cũng có một mục đích khác. Chuyến công tác đầu tiên trên sóng nước của UWARC là tới Quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc chiếm đóng nhưng Việt-Nam tuyên bố chủ quyền. Tháng 3 năm 1999, giám đốc trung tâm, Zhang Wei, thông báo rằng các thợ lặn của ông đã thu hồi được 1500 di vật có niên đại từ năm 907, ‘chứng tỏ rằng người Trung Quốc là cư dân sớm nhất’ của quần đảo Hoàng Sa. Các nhà khảo cổ ít phe phái cười to. Năm 907 triều đại nhà Đường mới vừa sụp đổ vì vậy nói xác tàu đó có thể là một trong số các tàu đầu tiên nhất từ đất nước mới độc lập Mân Nam chạy đi là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên, có rất nhiều khả năng đó là tàu của Malaysia hay Arab. Đồ gốm Trung Quốc được buôn bán trên toàn khu vực, và cả bên ngoài. Lấy sự hiện diện của đồ gốm trên bất kì bãi ngầm nào làm bằng chứng cho sở hữu lịch sử của Trung Quốc thì không hơn gì lấy sự hiện diện của hàng ngàn vỏ sò cowry trong một ngôi mộ thời đại đồ đồng ở thị trấn An Dương (安阳/Anyang) của Trung Quốc làm bằng chứng rằng tỉnh Hà Nam đúng lí ra phải thuộc về Philippines.

Zhang, giám đốc đầu của Trung tâm, không được bổ nhiệm làm một nhà phân tích độc lập về bằng chứng lịch sử. Khi trình UWARC cho Uỷ ban Quốc tế về Di tích và Di chỉ vào năm 2005, Zhang giải thích rằng tổ chức này đang chuẩn bị ‘một hoặc hai cuộc trục vớt xác những tàu đắm ở Quần đảo Nam Sa’ và rằng: ‘Các kết quả từ cuộc trục vớt có thể chứng minh rằng Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi các đảo của Biển Đông’[15]. Có một quan hệ cộng sinh giữa chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Trung tâm. UWARC có một ngân sách mà các nhà khảo cổ khác trong khu vực chỉ có thể mơ tới.[16] Chỉ riêng 'cơ sở nghiên cứu' của nó ở thành phố Thanh Đảo thôi cũng tiêu tốn $ 24 triệu và UWARC còn có các trung tâm khác ở Hồ Bắc, Hải Nam và Phúc Kiến cộng với một tàu nghiên cứu mới.[17] Cuộc trục vớt xác tàu đắm 'Nam Hải Một' ở cửa Sông Châu được tài trợ với khoản tiền là $ 150 triệu. Và UWARC trả lại sự ưu đãi này bằng việc phục vụ trung thành với nhà nước: những phát hiện củng cố cho lịch sử chính thống và do đó cho các kể lể về chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc ở Biển Đông.

Khắp trên biển này, các nhà khảo cổ dưới nước khác thấy khó khăn hơn để nghiên cứu một chuyện kể khác. Tháng 4 năm 2012, một đoàn công tác hỗn hợp Pháp-Philippines do Bảo tàng Quốc gia ở Manila tổ chức điều tra một xác tàu đắm trên bãi cạn Scarborough, 220 km về phía tây Luzon, đảo chính của Philippines.

Đóng trên tàu phục vụ MV Sarangani, họ đã tuân thủ cách thực hành tốt nhất: điều tra địa điểm tại chỗ, phi thương mại và với ý định công bố các phát hiện của họ cho những người khác xem xét lại. Nhưng sau đó một tàu hải giám Trung Quốc đến và ra lệnh cho họ phải rời đi - với lí do xác tàu đắm này thuộc về Trung Quốc. Chỉ có các nhà khảo cổ Trung Quốc mới được phép điều tra địa điểm đó để họ lại có thể tìm thấy ‘bằng chứng’ về chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc.

Dù có những khó khăn này, các nhà khảo cổ như Victor Paz, Peter Bellwood, Wilhelm Solheim, Pierre-Yves Manguin và tất cả các đồng nghiệp của họ đã gom góp được đủ bằng chứng để kể một câu chuyện rất khác về Biển Đông: đó là một nơi nhiều thứ tiếng trao đổi và giao thương, ở đó các câu hỏi về chủ quyền là hoàn toàn khác với cách mà chúng được đặt ra hiện nay. Cho đến đầu thế kỉ thứ XVI, một loạt các mandala Ấn hoá thống trị biển vùng Đông Nam Á. Không có một sự kế tục rõ rệt từ trung tâm quyền lực này tới cho một trung tâm kế. Việc hưng thịnh cũng như suy tàn của chúng đều diễn ra từ từ, và trong thời gian dài có những lúc chúng cùng tồn tại một cách hòa bình, thường thì không. Phù Nam, ở đồng bằng sông Cửu Long, nắm giữ ảnh hưởng từ thế kỉ I đến thế kỉ IV; Champa, nơi bây giờ là miền Trung Việt Nam, từ thế kỉ VI đến XVI; Sriwijaya, trên đảo Sumatra, từ thế kỉ VII đến XII; Angkor, ở hạ nguồn Mekong, từ đầu thế kỉ thứ IX đến thập niên 1430; Majapahit, trên đảo Java, từ thế kỉ XII đến XVI; và Malacca, trên bán đảo Malay, từ đầu thế kỉ XV cho đến khi người Bồ Đào Nha đến vào đầu thế kỉ XVI. Có những lúc thế lực cai trị trên bờ phía Bắc Biển Đông, khu vực mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Quốc, can thiệp vào công việc của các chính thể khác nhưng hiếm hoi và chỉ trong một thời gian có hạn. Không có bất kì đất nước hoặc dân tộc nào ‘sở hữu’ Biển Đông dù theo bất cứ ý nghĩa nào. Được biết tháng 9 năm 1975, Đặng Tiểu Bình đã nói với Lê Duẩn rằng các đảo của Biển Đông ‘từ xa xưa đã thuộc về Trung Quốc.[18] Cụm từ này xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên trong ba ấn phẩm Trung Quốc vào tháng 11 năm 1975.[19] Lời lẽ này đã được lặp đi lặp lại vô số lần từ đó nhưng, như chúng ta sẽ thấy, việc xem xét lại các bằng chứng cho chúng ta biết ý thức sở hữu này không phải có từ xa xưa mà chỉ rất gần đây.





----------------------------


[1] ‘Historical Evidence to Support China’s Sovereignty over Nansha Islands’, Ministry of Foreign Affairs, PRC, 17/11/2000, xem trực tuyến tại http://www.coi.gov.cn/scs/article/z.htm.
[2] Pierre-Yves Manguin, ‘Trading Ships of the South China Sea’, Journal of Economic and Social History of the Orient, vol. 36, no. 3 (1993), 253-80.
[3] Michael churchman, ‘Before Chinese and VietNamese in the Red River Plain: The Han-Tang Period’, Chinese Southern Diaspora Studies, vol.4 (2010), 25-37.
[4] Pye, Lucian W.,’China Erratic State, Frustrated Society’, Foreign Affairs, 1 Sept. 1990. Web 17 Jul. 2014 http://www.foreignaffairs.com/articles/45998/Lucian-w-pye/china-erratic-state-frustrated-society.
[5] Wihlelm Solhelm, Archaeology and Culture in Southeast Asia: Unravelling the Nusantao, Quezon City (2007), 74.
[6] Derek Heng, Sino-Malay Trade and Diplomacy from the Tenth Through the Fourteenth Century (Athens, Ohio, 2007)
[7] Phỏng vấn cá nhân, Singapore 1/6/2012.
[8] Kate Taylor, ‘Treasures Pose Ethics Issue for Smithsonian’, New York Times 24 Apr 2011.
[9] Phỏng vấn cá nhân, Singapore 1/6/2012.
[10] The origins of the word ‘China’ seem to come from Southeast Asia. See Chapter 3 of Anthony Reid, Imperial Alchemy: Nationalism and Politacal Identity of Southeast Asia,( Cambridge, 2011) and Geoff Wade, ‘The Polity of Yelang and the Origins of the Name ‘China’, Sino-Platonic Papers, no. 18 (May 2009). Có thể đọc tại http://www.sino-platonic.org.
[11] Geoff Wade, ‘An Early Age of Commerce in Southeast Asia, 900-1300CE’, Journal of Southeas Asian Studies, vol. 40 (2009), 221-65.
[12] Trao đổi qua email, 12/12/2013.
[13] Quoted in Geoff Wade, ‘The Zheng He Voyage: A Reassessment’, ARI Working Paper, no. 31 (October 2004). Có thể xem tại http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps04_031.pdf.
[14] Ibid.
[15] Zhang Wei, ‘The Problem Encounter [sic] in the Protection of UCH (underwater cultural heritages)’, paper delivered at the 15th ICOMOS General Assembly and Scientifice Symposium in Xi’an, China 17-21 October 2005. Có thể xem tại  http://www.international.icomos.org/xian2005/papers/4-45.pdf.
[16] Jeff Adams, ‘The Role of Underwater Archaeology in Framing and Facilitating the Chinese National Strategic Agenda’, in Tami Blumenfield and Helaine Silverman (eds), Cutural Heritage Politics in China (New York, 2013), 261-82.
[17] ‘China starts Building Bases for Reseaching Underwater Relics’, Xinhua 17March 2012.
[18] ‘On China’s Sovereignty Over Xisha and Nansha Islands’, Beijing Review, 24 August 1979, 24.
[19] Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes: The Case of South China Sea Islands (London, 1989), 94.

No comments: