Tranh chấp biển Đông: Vẫn không có bằng chứng lịch sử cho
tuyên bố của Trung Quốc
South China Sea Disputes: Still No Evidence of Historical Chinese Claim
Bill Hayton
RSIS (26/8/2014)
Tóm tắt
Mặc dù Trung Quốc
khẳng định có các yêu sách lịch sử đối với nhiều phần của biển Đông, lập luận gần
đây của một số nhà bình luận lặp lại một số những hiểu lầm thường được tin là
đúng về các tranh chấp biển Đông và không đưa ra được bằng chứng hậu thuẫn các
yêu sách của Trung Quốc.
Bình luận
Tiến sĩ Li Dexia (Lí
Đức Hà) và ông Tan Keng Tat đã đáp lại việc tôi kêu gọi những người ủng hộ
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông hãy cung cấp chứng cứ có thể kiểm
chứng được hậu thuẫn cho lập luận của họ (Bình
luận trên RSIS ngày 3/7/2014). Tuy nhiên trả lời của họ cho thấy nhiệm vụ
này có vẻ khó khăn tới dường nào. Họ không thể chứng minh Trung Quốc đã có đưa
ra yêu sách đối với bất kì đảo cụ thể nào trước năm 1909, và không có bất kì một
khẳng định nào của họ có chứng cứ có thể kiểm chứng được. Một số khẳng định có
thể chứng minh được là không thật.
Đâu là bằng chứng
cho thấy đã có quan chức thời tiền hiện đại của Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ
quyền với bất kì thể địa lí nào ở biển Đông? Không có bằng chứng nàocho thấy
Zheng He (Trịnh Hoà) hay đô đốc nhà Minh nào khác đã làm như vậy. Điều này cũng
đúng với đội quân viễn chinh Mông Cổ một thế kỉ trước đó. Khoảng 500 năm trước,
người đi biển thường cho tàu thuyền chạy ven bờ biển này để tránh nguy hiểm của
các rạn san hô chưa được ghi nhận vốn nằm ở trung tâm của nó. Nếu hai tác giả
này biết có tài liệu hay bằng chứng nào khác chứng minh điều ngược lại thì đây
chính là lúc để công bố các tài liệu tham khảo chính xác đó.
Mơ hồ vẫn còn đó
Chắc chắn có nhiều
bản văn xưa của Trung Quốc có nói đến các 'đảo' nhưng vẫn còn mơ hồ ở mức cùng
cực, không liên quan đến những vùng đất cụ thể và không đưa ra được bằng chứng nào
về khám phá hay tuyên bố chủ quyền. Một số là các báo cáo theo các thông tin do
người nước ngoài tới Trung Quốc đưa ra, một số khác đề cập đến những chỗ bí ẩn
gần lối vào địa ngục và một số khác nữa lại là bản sao các bản đồ châu Âu.
Tiến sĩ Li và ông
Tan đưa ra một số điểm cụ thể khác. Tôi cần phải lần lượt bàn tới từng điểm một.
Hai tác giả này
đã không thuyết phục được tôi rằng cái tên ‘Xisha’ (Tây Sa) – chỉ quần đảo
Hoàng Sa đã xuất hiện trong các tài liệu của Trung Quốc trước cái tên ‘West
Sand’ (Cát Tây) xuất hiện trên bản đồ phương Tây. Tôi trong tư thế sẵn sàng chấp
nhận rằng người châu Âu đã tiếp nhận các tên địa phương dùng cho các thể địa lí
nhưng trong trường hợp này, tôi tin rằng điều ngược lại đã xảy ra. Tôi sẵn sàng
chấp nhận bị chứng minh là sai - nhưng chỉ khi đưa ra được bằng chứng.
Khẳng định rằng công
ước năm 1887 giữa Pháp và Trung Quốc quy quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc hiển nhiên là không đúng sự
thật. Công ước (kí kết tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887) chỉ liên quan cụ
thể tới khu vực Đông Dương mà thực dân Pháp gọi là "Tonkin" (Bắc Kì) -
phần cực bắc của vùng đất bây giờ là Việt Nam.
"Kiến thức phổ thông” chứ không phải bằng chứng lịch sử
Tôi sẽ thích thú
khi biết thêm về 'bia đá" do các quan chức Trung Quốc năm 1902 và do nhóm hải quân Trung Quốc được phái đến đảo Duy Mộng năm 1907 đặt ở quần đảo Hoàng Sa.
Tôi đã tìm hiểu kĩ hai sự kiện này và không tìm ra bằng chứng vững chắc nào cho
thấy chúng đã thực sự đã diễn ra. Tiến sĩ Li và ông Tan dựa vào nguồn thông tin
gốc nào cho khẳng định này?
Càng nghiên cứu các
yêu sách của Trung Quốc tôi càng thấy chúng được dựa trên những khẳng định thiếu
dẫn chứng đã được lặp đi lặp lại trong nhiều thập kỉ thiếu việc kiểm tra có phê phán. Nhiều khẳng định như vậy
đã trở thành một phần của ‘kiến thức phổ thông’ quốc tế về biển Đông. Các khẳng
định đó nằm trong bài viết của Hungdah Chiu và Choon-ho Park mà hai tác giả có
nói đến, trong bài viết năm 1976 ‘Disputed Islands in the South China Sea’ (Quần
đảo tranh chấp ở biển Đông) của Dieter Heinzig, và cũng có trong cuốn sách của Marwyn
Samuels năm 1982 ‘Contest for the South China Sea’ (Cuộc thi thố cho Biển Đông)
mà sau đó nhiều học giả quốc tế đã dựa vào.
Các bài viết của
Heinzig và Samuels thuộc dạng các công trình khai phá, đem lại nhiều hiểu biết
cần thiết về chủ đề này. Tuy nhiên, nội dung các bài viết của cả hai phần lớn dựa
vào các bài báo công bố trên các tạp chí của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi
Trung Quốc chiếm đóng nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Một bài
báođược công bố trong ấn bản tháng 3 năm 1974 của Nguyệt san thất thập niên đại
(Ch'i-shi nien-tai Yueh-k'an) và hai bài báo trong ấn bản tháng 5 năm 1974 của
tờ Minh Báo (Ming Pao). Những bài báo này rõ ràng không phải là những bài viết trung
lập về học thuật: chúng được dùng để biện minh cho cuộc xâm lược đó.
Trích dẫn lọc lựa
Có ít ra hai trường
hợp trong bài bình luận, hai tác giả trích dẫn một cách lọc lựa các tài liệu lịch
sử. Trường hợp đầu tiên liên quan tới bức thư của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng
gửi cho đồng nhiệm Trung Quốc tháng 9 năm 1958 - để đáp ứng với 'Tuyên bố về
Lãnh hải " của Bắc Kinh. Tuyên bố đó mở rộng lãnh hải mà Trung Quốc yêu
sách ra đến 12 hải lí. Động thái này nhằm mục đích ngăn chặn việc tàu của Mĩ xen
vào hậu thuẫn cho các đơn vị của Đài Loan trú đóng trên hai đảo Kim Môn (Jinmen)
và Mã Tổ (Mazu), mà vào lúc đó đã bị quân đội Trung Quốc bắn pháo vào.
Phần thứ hai của
Tuyên bố năm 1958 khẳng định yêu sách của Trung Quốc đối với các thể địa lí của
biển Đông. Toàn văn lá thư của Phạm Văn Đồng gửi cho Chu Ân Lai lờ đi phần thứ
hai này dù tán đồng phần đầu. Câu văn trọn vẹn là "Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của
Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc."
Đúng là bức thư đó không bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc một cách minh bạch,
nhưng nó cũng không chấp nhận [toàn bộ] tuyên bố này.
Hai tác giả cũng trích
dẫn sai Tuyên bố Cairo ngày 27 tháng
11 năm 1943 như sau: "Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các vùng lãnh thổ khác mà
nó đã lấy được bằng bạo lực và tham lam." Tuy nhiên, đó không
phải là lời lẽ thật sự của Tuyên bố.
Câu văn thật sự là: "... Nhật Bản sẽ bị tước hết
tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này chiếm hữu hay chiếm đóng từ lúc mở
đầu chiến tranh thế giới thứ I vào năm 1914, và rằng tất cả các vùng lãnh thổ mà
Nhật Bản đã lấy cắp của Trung Quốc, như Mãn Châu, Đài Loan, và Bành Hồ, sẽ phải
được trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả
các lãnh thổ khác mà nó đã lấy được bằng bạo lực và tham lam."
Không có đề cập đến
bất kì thể địa lí nào trong biển Đông, ngoại trừ Formosa (Đài Loan) và Bành Hồ
và không nói gì về ‘sở hữu' của các vùng lãnh thổ khác mà Nhật Bản phải bị trục
xuất.
Cần phải phân nhỏ
thành các yêu sách cụ thể
Việc tôi khẳng định
rằng "Trung Quốc, Việt Nam và Philippines tuyên bố quyền sở hữu các nhóm đảo
lớn như thể chúng là đơn vị duy nhất" là đúng theo thực tế.
Tôi chưa bao giờ
nói Philippines yêu sách quần đảo Hoàng Sa hay Việt Nam yêu sách Pratas
(TQ gọi là Đông Sa). Tuy nhiên cả
hai nước này, giống như Trung Quốc, quả có yêu sách các nhóm đảo lớn như thể
chúng là một đơn vị duy nhất.
Philippines yêu
sách một nhóm đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà họ gọi là nhóm đảo Kalayaan và Việt
Nam yêu sách trọn quần đảo Paracels với tên là ‘Hoàng Sa’ và trọn quần đảo Spratlys
với tên là ‘Trường Sa’. Các tranh chấp biển Đông sẽ trở nên giải quyết dễ dàng hơn
nếu các yêu sách lớn này được chia nhỏ thành các yêu sách cụ thể đối với các thể
địa lí cụ thể, được hậu thuẫn với bằng chứng cụ thể.
Tôi không vẩy cờ [ủng
hộ] các yêu sách của Việt Nam, Philippines, Pháp hay thậm chí của Anh đối với
các thể địa lí trong biển Đông. Tôi chỉ đơn thuần chỉ ra rằng phía Trung Quốc
đã không đưa ra được bằng chứng lịch sử thuyết phục cho các khẳng định của chính
họ.
Chấn chỉnh tình
trạng này đòi hỏi phải có bằng
chứng về những hành động chủ quyền thực tế thể hiện bởi các đại diện của chính
phủ. Tôi khẳng định rằng phía Trung Quốc không có hành động chủ quyền trước ngày
6 tháng 6 năm 1909 đối với trường hợp quần đảo Hoàng Sa và ngày 12 tháng 12 năm
1946 ở quần đảo Trường Sa.
No comments:
Post a Comment