Về hai vụ đắm tàu ở HS cuối thế kỉ 19
Vào cuối
thế kỉ 19 có hai chiếc tàu chở đồng của Đức và Nhật đắm ở Hoàng Sa bị ngư dân Hải
Nam đến hôi của. Công ti của Anh phụ trách bảo hiểm hàng hoá của hai tàu này có
yêu cầu chính quyền Trung Quốc giải quyết đền bù nhưng bị từ chối. Nhiều bài
nghiên cứu của học giả Việt Nam cũng như nước ngoài, kể cả văn bản về lập
trường chính thức của Việt Nam đối với vụ giàn khoan 981 gửi LHQ ngày
3/7/2014 đã nêu sự việc này như một trong những luận điểm chính để biện minh chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Luận điểm
này đã được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) đưa ra ít ra từ năm 1959 (xem phụ
lục 1) nhưng không thấy có trong Bạch thư
tháng 2/1975 (tức một năm sau khi TQ chiếm toàn bộ Hoàng Sa) mà lẽ ra nó phải
được nêu ra nếu quả thực có cơ sở vững chắc. Chúng tôi không có điều kiện tiếp
xúc với các hồ sơ lưu của Bộ Ngoại giao Anh hay của VNCH nên không thể khẳng định
tính chính xác của luận điểm này. Tuy nhiên, có tài liệu trong hồ sơ lưu ở Văn
khố Quốc gia Australia về vụ việc này trình bày sự việc với một số điểm khác biệt
đáng lưu ý và cũng có vẻ khá khách quan. Đó là trang 7 của hồ sơ đã được giải mật về ‘Paracel Islands’ (Quần đảo Hoàng Sa) lập
ngày 29/8/1975, tức trang 20 của tập hồ sơ “Islands
in the South China Sea”, số series A1838/335, số hiệu 226/1 Pt2 của Văn
khố Quốc gia Australia (NAA). Mục 18, 19 và cước chú của trang này tạm dịch
ra tiếng Việt (xem bản gốc tiếng Anh ở Phụ lục 2) như sau:
18. Việt Nam đã khẳng định rằng việc Trung
Quốc xử lí yêu cầu bồi
thường bảo hiểm phát sinh từ vụ tàu "Bellona" và "Himaji
Maru" bị đắm trên quần đảo Hoàng Sa tương ứng vào năm 1894 và 1895, hậu
thuẫn quan điểm của họ rằng quần đảo Hoàng Sa chưa bao giờ là của Trung Quốc.
Theo Việt Nam thì sau khi hai tàu này bị đắm thì hai công ti của Anh phụ trách bảo
hiểm số đồng chở trên tàu tìm cách nhờ đại sứ Anh tại Bắc Kinh giúp để có được
đền bù cho số hàng hoá đã bị ngư dân đảo Hải Nam của Trung Quốc lấy cắp. Nhà
chức trách Trung Quốc bị cáo buộc đã từ chối mọi trách nhiệm và nói rằng quần
đảo này không thuộc Hải Nam, do đó theo báo Việt Nam Xưa và Nay(?) “ngầm đùn đẩy trách nhiệm lên nhà
chức trách Đông Dương.”
19. Việc tiến hành rà soát các hồ sơ Ngoại
giao Anh liên quan đến vụ này không ủng hộ cách lập luận của Việt Nam dựa trên
các sự kiện đó. Các giấy tờ này cho thấy rõ rằng Chính phủ Trung Hoa từ chối
xem xét yêu cầu đền bù của các công ti dựa trên các căn cứ sau đây: (i) yêu cầu
đưa ra quá lâu sau sự kiện mà nó có liên quan; (ii) các công ti đã không cố
gắng đúng mức để cứu lấy hàng hoá; và (iii) phần của yêu cầu liên quan đến việc
nhà chức trách trên đảo Hải Nam đã không cung ứng trợ giúp thích đáng trong
việc truy tìm đồng bị chìm, là không hợp lệ vì quy định cứu hộ năm 1876 của
Trung Hoa đã không được tuân thủ. Ở London các cố vấn pháp luật nhà nước (Hoàng
gia) cho rằng một yêu cầu đền bù hợp lệ đối với chính quyền trên đảo Hải Nam do
không giúp đỡ trong việc thu hồi đồng có thể đã tồn tại nhưng do quá chậm trễ
nên không thúc ép được. Không có điều gì trong các giấy tờ này cho thấy rằng
Trung Hoa phủ nhận họ có trách nhiệm đối với quần đảo này và chắc chắn không có
đề cập đến trách nhiệm đối với quần đảo này đảo nằm ở chính quyền Pháp ở Đông
Dương.
………………………………..
* Lưu ý: Bản sao các giấy tờ này đã
được chuyển cho Đại sứ quán Nam Việt Nam tại London vào năm 1974, đáp ứng theo
yêu cầu của Bộ Ngoại giao ở Sài Gòn sau khi HMG (chính phủ Úc/Anh) chỉ ra rằng
hồ sơ lưu của chúng ta không ủng hộ quan điểm đưa ra trên tờ Việt Nam Xưa và Nay (?). Có lẽ do vậy mà tuyên bố cuối cùng của Việt
Nam về việc này mà chúng ta đã thấy, cụ thể là Bạch thư tháng 2 năm 1975,
không có đề cập đến lập luận dựa trên vụ hai con tàu đắm này.
MẬT
Tài liệu trên, có vài chi tiết
sai lệch nhỏ với các tài liệu và bài viết đã có, chẳng hạn như năm hai tàu bị đắm là 1894,
1895 thay vì 1895, 1896 (có thể theo tài liệu gốc truy cập được hoặc có thể do
gõ nhầm) hay chi tiết về tên con tàu Nhật là Himeji Maru thay vì Imej[z,g]i
Maru (các cách phiên âm khác nhau chấp nhận được của một từ Nhật). Tuy nhiên, thông
tin về quan điểm của VN trong mục 18 rõ ràng là chính xác (xem phụ lục 1), tính
đáng tin cậy của mục 19 cũng khó bác bỏ vì nằm trong một tài liệu ngoại giao có
thể làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của chính phủ Australia. Còn phần cước chú, tuy ghi là “[c]ó
lẽ do vậy” ([p]robably as a result) nhưng lí do Bạch thư tháng 2/1975 không nêu
lại vụ việc này có nhiều khả năng là nhờ phản hồi của Bộ Ngoại giao Australia.
Bởi vì theo lẽ thường không ai lại bỏ đi một luận điểm đáng giá như vậy trong lập luận
của mình trừ khi nó thiếu cơ sở như đã nêu.
Lưu ý rằng
việc sử dụng các chi tiết có thể có sai lệch trong vụ việc này cho tới nay là
điều hiểu được vì chúng đã từng được nêu ra trong các tài liệu chính thức trước
đây và thậm chí trong các nghiên cứu của các tác giả có uy tín quốc tế như
Monique Chemilier-Gendreau, Stein Tonesson… Tài liệu cũ hơn (sau khi sự việc xảy
ra khoảng hơn 30 năm) có thể tìm thấy trên mạng là bài báo “L'histoire moderne des iles Paracels” (Lịch
sử hiện đại quần đảo Hoàng Sa) đăng trên tờ báo "L'Eveil de l'Indochine" số 738, ngày 22/5/1932 tại Hà Nội (xem phụ lục
3). Với điều kiện thông tin còn lạc hậu lúc đó, có nhiều khả năng tác giả bài
báo này không có điều kiện để tham khảo các tài liệu lưu của Bộ Ngoại giao Anh.
Do đó, các chi tiết nêu ra trong bài báo có thể không đảm bảo tính chính xác và
điều này ảnh hưởng tới những bài viết tham khảo hay trích dẫn bài báo này.
Nếu không có các nguồn tài liệu gốc nào có thể
bác bỏ được tính tín cậy của tài liệu từ Văn khố Australia, có lẽ không nên
chơi trò may rủi sử dụng vụ việc này trong các bài viết, bài nghiên cứu mới về
quần đảo Hoàng Sa, không nên giật tít kiểu
như “Năm
1898, TQ tuyên bố: “Hoàng Sa là đất hoang, không thuộc Hải Nam”…, vì những
điều như vậy có khả năng làm mất uy tín nhiều hơn là có lợi trong việc tranh đấu cho
chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa. Đặc biệt khi muốn dùng vụ việc này làm chứng lí trong hồ sơ kiện tụng (có vẻ đang xúc tiến), thiết nghĩ những người có trách nhiệm cần cẩn trọng
kiểm tra lại tính chính xác của nó từ nguồn tài liệu gốc chứ không phải các nguồn tài liệu thứ cấp như có vẻ đã làm. Điều này hoàn toàn nằm trong khả năng của các cơ
quan có liên quan của chính phủ với rất nhiều phương tiện trong tay.
Phụ lục 1: Tuyên bố của VNCH tháng 3/1959 phân phát tại Rangoon (trích)
Tạm dịch ra tiếng Việt
|
Gõ lại phần bản gốc cho dễ đọc
|
Hai
trong số các tàu bị đắm, tàu Bellona (đắm vào năm 1895 ở rạn san hô phía bắc)
và Imezi Maru (đắm vào năm 1896 ở cụm An Vĩnh) chở đồng được công ti Anh bảo
hiểm.
Sau
nỗ lực cứu hộ vô vọng, các tàu đắm bị bỏ phế. Một số người Trung Quốc, đi trên
các con thuyền tam bản và thuyền mành nhỏ đến hôi của và mang đồng mà họ có
được từ đó đem về Hải Nam, rồi gợi ý bán lại cho chủ các tàu.
Sau
đó Công ti bảo hiểm viện tới đại sứ Anh tại Bắc Kinh và Lãnh sự ở Anh Hải-Hạo
(nay là Hải Khẩu) can thiệp , tìm cách buộc chính quyền địa phương Trung Hoa chịu
trách nhiệm về hàng bị đắm.
Nhà
chức trách Trung Hoa đã từ chối mọi trách nhiệm, một mực cho rằng Hoàng Sa
không thuộc về Trung Hoa, và rằng quần đảo này không được đính vào phần nào
của Hải Nam, ngầm đùn đẩy trách nhiệm lên nhà chức trách Đông Dương.
|
Two of the shipwrecked vessels, the Bellona
(wrecked in 1895 on the north reef) and the Imezi Maru (wrecked in 1896 on
the Amphitrite) were carrying cargoes of copper insured by British Companies.
After a vain attempt at salvage, the wrecks
were abandoned. Some Chinese, plying in sampans and small junks, pillaged the
wreckage and took the copper they got from it to Hainam (sic), where they
offered to re-sell it to shipowners.
The Insurance Companies then provoked an
intervention by the British Minister in Peking and the British Consul in
Hoi-Hao, who tried to hold the Chinese local authorities responsible for the
shipwrecks.
The Chinese authorities declined all
responsibility, maintaining that the Paracel did not belong to China, and
that the islands were not attached to any part of Hainam (sic), implicitly
throwing back the responsibility onto the Indochinese authorities.
|
Trang 7 gõ lại cho dễ đọc (trích):
18. The Vietnamese have asserted that the Chinese handling of the insurance claims arising out of the wrecks of the “Bellona’ and the “Himeji Maru” on the Paracels in 1894 and 1895 respectively, support their view that the Paracels have never been Chinese. The Vietnamese version is that following the wreck of these two vessels the British companies which had insured their cargoes of copper sought the help of the British Minister in Peking to obtain redress since the cargoes had been pillaged by fishermen from China’s Hainan Island. The Chinese authorities, it is alleged, declined all responsibility and said that the islands were not part of Hainan, thus according to Vietnamese Yesterday and Today “implicitly throwing back responsibility on to the Indo-Chinese authorities.”
18. The Vietnamese have asserted that the Chinese handling of the insurance claims arising out of the wrecks of the “Bellona’ and the “Himeji Maru” on the Paracels in 1894 and 1895 respectively, support their view that the Paracels have never been Chinese. The Vietnamese version is that following the wreck of these two vessels the British companies which had insured their cargoes of copper sought the help of the British Minister in Peking to obtain redress since the cargoes had been pillaged by fishermen from China’s Hainan Island. The Chinese authorities, it is alleged, declined all responsibility and said that the islands were not part of Hainan, thus according to Vietnamese Yesterday and Today “implicitly throwing back responsibility on to the Indo-Chinese authorities.”
19.
An examination of the British Foreign Office records relating to this affair
does not bear out the construction placed on the events by the Vietnamese.
These papers make it clear that the Chinese Government refused to consider the
insurance companies’ claims on the following grounds: (i) that they had been
submitted long after the event to which they related; (ii) that the companies
had not made sufficient to salvage: and (iii) that part of the claims, which
related to a failure by the authorities on Hainan Island to provide adequate
assistance in tracing the sunken copper, was not valid because the Chinese
salvage regulations of 1876 had not been followed. In London the Law Officers
of the Crown argued that a valid claim might have existed against the
authorities on Hainan for failure to assist in the recovery of the copper, but
that too great a delay meant that no claim should be pressed. There is nothing
in these papers to show that the Chinese denied that they had responsibility
for the islands and certainly there is no mention of responsibility for the
islands resting with the French authorities in Indo-China.
…………………………….
*
Note: Copies of these papers were passed to the South Vietnamese Embassy in
London in 1974, in response to a request from the Ministry of Foreign Affairs
in Saigon after HMG had pointed out that our records did not support the view
put forward in Vietnam Yesterday and Today. Probably as a result, the last statement
of the Vietnamese case we have seen, namely the White Pages of February 1975,
makes no mention of the argument based on the shipwrecks.
CONFIDENTIAL
Phụ lục 3: Bài báo “L'histoire moderne des iles Paracels” trên L'Eveil de l'Indochine" số 738, ngày 22/5/1932 (trích):
No comments:
Post a Comment