Friday, July 11, 2014

Hội chứng nhớ lầm của Trung Quốc

Hội chứng nhớ lầm của Trung Quốc

Cả nước đã được dạy sai rằng người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo của biển Đông
China’s false memory syndrome
Bill Hayton
Prospect (10/07/2014)

(bản dịch này cũng đã đăng ở đâhttp://anhbasam.wordpress.com/2014/07/12/2750-hoi-chung-nho-lam-cua-trung-quoc/)

Biển Đông là nơi mà tham vọng của Trung Quốc (TQ), nỗi âu lo của châu Á và sức mạnh của Mĩ hội tụ nhau. Trong vùng biển của mình TQ đã từ bỏ mọi giả vờ về "trỗi dậy hòa bình" để ngã về kiểu ngoại giao pháo hạm. Tàu cảnh sát biển vũ trang TQ đã đâm vào tàu của đối thủ Việt Nam, phong tỏa các tiền đồn của Philippines, ngăn trở các tàu khảo sát dầu của Malaysia và doạ nạt các tàu Indonesia đang bảo vệ ngư trường quốc gia. Đáp lại, tất cả các nước này đang mua vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ quân sự với các chính phủ các nước khác lo lắng với sự quyết đoán ngày càng tăng của TQ – chủ yếu là Hoa Kì mà còn có Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.

Cội rể của tất cả các rắc rối này là cái mà Bắc Kinh gọi là "yêu sách lịch sử không thể tranh cãi" chiếm tới đến 80 % biển Đông: chạy thẳng từ cảng Hồng Kông tới gần sát bờ biển Borneo cách xa 1500 km. Vấn đề với yêu sách này là không có bằng chứng đáng tin cậy nào làm chỗ dựa cho nó. Tuy nhiên, mẫu chuyện hư cấu lịch sử này đe dọa hòa bình và an ninh ở châu Á và cung cấp sàn diễn cho một cuộc đấu tranh giữa TQ và Mĩ với những tác động mang tính toàn cầu. Có vẻ rất khó có thể tin rằng cuộc đối đầu tiềm năng có tính huỷ diệt này lại có gốc rể là tranh chấp về những đảo rải rác gần như hoàn toàn không ở được.

Có hai nhóm "đảo" chính ở biển Đông. (Chỉ có một số rất ít là đảo thực sự, phần lớn chỉ là rạn san hô, bãi cát hoặc đá). Trong cụm phía bắc, quần đảo Hoàng Sa đang có tranh chấp giữa TQ và Việt Nam. Ở phía nam quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều do TQ, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết những chỗ hoang vắng này đều có tên Anh, thường do các tàu và các nhân viên trên tàu vẽ ra bản đồ các đảo này tặng cho tên riêng. Richard Spratly là một thuyền trưởng tàu săn cá voi đã phát hiện hòn đảo có tên ông vào năm 1843, tàu HMS Iroquois cho tên của mình cho đá Iroquois (bãi Amy Douglas) trong khi làm công việc khảo sát trong thập niên 1920, và cứ thế tiếp tục...

Khi một ủy ban của chính phủ TQ lần đầu đặt tên tiếng Trung cho các đảo vào năm 1935, tất cả việc họ làm là dịch hoặc phiên âm các tên tiếng Anh đang có. Ví dụ, ở quần đảo Hoàng Sa, đá Antelope Reef (Hải Sâm) trở thành Lingyang ( : linh dương = antelope) và ở quần đảo Trường Sa, North Danger Reef (đá Bắc) trở thành Beixian (北崄: bắc hiểm [nguy hiểm phía bắc = north danger], đảo Spratly (Trường Sa đã trở thành Si-pu-la-te-li (斯普拉特利 phiên âm tên tiếng Anh)[*]. Uỷ ban TQ chỉ việc sao y các bản đồ, các sai sót và mọi thứ của Anh. Các tên này sau đó được xem xét chỉnh lại hai lần. Bãi cạn Scarborough, được đặt tên theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, được phiên âm là Si-ka-bo-lei jiao (斯卡伯勒礁 –Tư ca bá lặc tiều) vào năm 1935, đổi tên thành Min'zhu Jiao (民主礁- Dân chủ tiều [đá Dân chủ]) của nước THDQ vào năm 1947 và sau đó được CHNDTH đặt tên ít nhạy cảm chính trị hơn là Huangyan (黄岩岛 – Hoàng Nham [đá màu vàng]) vào năm 1983.

Hiện nay, chính quyền TQ dường như hoàn toàn không biết về điều này. Việc biện hộ khuôn mẫu chính thức về chủ quyền "không thể tranh cãi" của TQ đối với biển Đông bắt đầu bằng cụm từ "người TQ là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa." Trên thực tế, "người TQ" chỉ sao chép các tên này từ người Anh. Ngay cả từ "Nam Sa" (có nghĩa là "cát phía Nam") cũng đã chạy vòng quanh trên bản đồ TQ. Năm 1935 tên này đã được sử dụng để mô tả các khu vực biển cạn mà được biết trong tiếng Anh với tên là "Macclesfield Bank" (lại theo tên một tàu khác của Anh). Năm 1947, tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam trên bản đồ TQ để chỉ quần đảo Trường Sa.

Một cuộc xem xét đầy đủ mỗi biện minh mà phía TQ đưa ra sẽ tốn nhiều trang giấy nhưng đủ để nói rằng chưa hề thấy có bằng chứng khảo cổ học nào về việc có tàu TQ chạy trên biển này trước thế kỉ 10. Cho đến thời điểm đó tất cả việc giao thương và khai thác đều do các tàu thuyền Malaysia, Ấn Độ và Ả Rập thực hiện. Các tàu này có thể, vào lúc này lúc khác, có chở khách TQ. Các chuyến đi được bàn luận nhiều của các "đô đốc thái giám" TQ kể cả Zheng He (Trịnh Hoà), kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho đến thập niên 1430. Sau đó, mặc dù các thương nhân và ngư dân chạy tàu thuyền tới lui dọc biển này, nhà nước TQ không bao giờ đến các vùng biển sâu lần nào nữa cho mãi đến khi chính phủ Quốc dân đảng được Mĩ và Anh tặng cho một số tàu thuyền vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai.


Bản tin trong báo South China Morning Post ngày 13/1/1947 cho thấy nhờ hơn 100 tàu do Mĩ tặng mà hải quân THDQ đã chiếm đóng HS, TS và Pratas sau thế chiến II (ND sưu tầm từ Văn khố quốc gia Australia - NAA)

Lần đầu tiên quan chức chính phủ TQ đặt chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là ngày 12 tháng 12 năm 1946, vào thời điểm đó cả hai đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra các tuyên bố chủ quyền ở biển này. Một phái đoàn TQ cấp tỉnh đã đến quần đảo Hoàng Sa một vài thập kỉ trước đó vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện điều có vẻ như là một cuộc thị sát trong một ngày, nhờ hai thuyền trưởng Đức mượn của hảng buôn Carlowitz dẫn đường. Nhiều đối đầu quốc tế phát xuất từ tuyên bố đơn sơ này.

Đây là toàn cảnh lịch sử hiện lên từ các nghiên độc lập tốt nhất. Nhưng khi nói điều này cho hầu như bất kì người TQ nào thì họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực. Từ phòng học đến sảnh đường ngoại giao, một cách nhớ chính thức về chủ quyền của TQ trên biển đã trở thành một thực tế được xác lập. Làm sao mà một ý thức quốc gia về quyền được hưởng đối với biển Đông lại phát triển rất mạnh từ một nền móng lung lay như vậy?

Câu chuyện có thể bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến lần một vào năm 1840 và điều mà bây giờ người TQ gọi là "thế kỉ quốc sỉ (thế kỉ nhục nước)" tiếp sau đó. TQ rõ ràng gánh chịu đau thương dưới bàn tay của đế quốc phương Tây và Nhật Bản. Hàng ngàn người bị giết, nhiều thành phố đã bị thuộc địa hoá và chính phủ rơi vào vòng nợ nần các ngân hàng quốc tế.

Nhà địa lí William Callahan và những người khác đã vạch ra cách mà phe Quốc dân đảng (QDĐ) và Cộng sản, như là một phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, đã cố tình gieo trồng một ý thức về vi phạm lãnh thổ để động viên nhân dân như thế nào. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lí của TQ như Bai Meichu (Bạch Mi Sơ), một trong những người sáng lập Hội Địa lí TQ, bắt đầu vẽ các bản đồ cho công chúng TQ thấy các nước đế quốc đã xâu xé lãnh thổ TQ tới mức nào.

Những "bản đồ quốc sỉ" này cho rằng lãnh thổ hợp lẽ của TQ bao gồm tất cả các nước chư hầu trước kia đã từng triều cống hoàng đế Trung Hoa. Các bản đồ này bao gồm bán đảo Triều Tiên, nhiều vùng rộng lớn của Nga, Trung Á, Hymalaya, và nhiều khu vực của Đông Nam Á. Các đường được vẽ trên các bản đồ để đối chiếu các khu vực rộng lớn của đế quốc xưa với tình trạng teo lại của đất nước này. Tai hại là sau khi ủy ban chính thức của TQ đổi tên các đảo trong biển Đông vào năm 1935, một trong những đường này đã được vẽ ra vòng quanh biển này. Đây là cái mà bây giờ được gọi là đường "chữ U" hoặc "9 vạch" choán 80 % biển Đôngvà tất cả các đảo bên trong nó. Tai nạn bản đồ đó, dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, lại là cơ sở cho yêu sách chủ quyền hiện tại của TQ.

TQ rõ ràng gánh chịu sự sỉ nhục dưới bàn tay của người nước ngoài độc đoán nhưng nhà nước hiện đại nổi lên từ đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến tranh sau đó đã tìm thấy niềm an ủi trong những ghi nhớ sai lầm vốn ít liên quan đến những gì thực sự xảy ra. Như bất kì người nào đi xem triển lãm "Con đường hồi sinh" mới tại Bảo tàng Quốc gia TQ ở quảng trường Thiên An Môn sẽ thấy ra, hội chứng nhớ lầm này là một thành phần cốt lỏi trong huyền thoại làm nên tính chính đáng của Đảng Cộng sản: huyền thoại đảng cứu đất nước thoát khỏi sỉ nhục.

Các viện nghiên cứu và các ủy ban của chính phủ QDĐ trong nửa đầu thế kỉ 20 đã để lại Đảng Cộng sản một "lịch sử chính thức" sai lầm có thể chứng minh được. Chính điều này, chứ không phải là mối đe dọa của đám đông theo chủ nghĩa dân tộc trên đường phố làm cho tranh chấp Biển Đông rất khó giải quyết và nguy hiểm. Nhưng nếu thừa nhận sự sai trái của nó sẽ loại bỏ một nền tảng cốt lỏi của vị thế của Đảng trong đỉnh cao của xã hội TQ.

Rủi thay, không có cách dễ dàng nào khác cho xung đột đang tiếp diễn trong biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột hoàn toàn nhưng không ai sẵn sàng giảm bớt căng thẳng bằng cách điều chỉnh yêu sách lãnh thổ phải chăng hơn. Một số quan chức TQ trong tư riêng thừa nhận sự vô lí về pháp lí của việc duy trì yêu sách "đường chữ U" này. Nhưng cũng chinh các quan chức này lại nói rằng họ không thể chính thức điều chỉnh yêu sách này vì những lí do chính trị (sự chỉ trích trong nước sẽ là rất lớn). Thế thì làm thế nào để có thể thuyết phục dân TQ có một cái nhìn khác về lịch sử biển Đông?

Có lẽ là câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn hơn ở đại lục rất nhiều. Hiện đã có một số học giả "bất đồng chính kiến" đang xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỉ 20. Đài Loan cũng là nơi các văn thư của THDQ, chính phủ vẽ nên "đường chữ U" lần đầu, được lưu trữ. Một cuộc kiểm tra thấu đáo và mở rộng quá trình lộn xộn mà theo đó đường này được vẽ ra có thể thuyết phục những người làm ra dư luận phải xem xét lại một số những huyền thoại của QDĐ mà từ lâu họ đã tuyên bố như là chân lí trong kinh.

Có lẽ lí do mạnh nhất để bắt đầu tại Đài Loan là chính quyền Bắc Kinh sợ rằng bất kì sự nhượng bộ nào mà họ có thể đưa ra sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Nếu nhà chức trách ở đó muốn xuống thang sự xung đột do việc chép sử trong biển Đông, thì sẽ dễ dàng hơn nhiều để chính quyền Bắc Kinh làm tương tự như vậy. Chìa khóa cho một tương lai hòa bình ở châu Á nằm trong việc xem xét trung thực và có tính phê phán quá khứ.

Quyển The South China Sea and the struggle for power in Asia (Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á) của Bill Hayton sẽ được Đại học Yale xuất bản vào tháng 9.




[*] Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành âm L (ví dụ: Roma --> Luó Mă [La Mã], Rousseau--> Lú Suō [Lư Thoa]... mới thấy Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi - 斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly, hoặc Si-ka-bo- lei (Tư ca bá lặc - 斯卡伯勒礁) là phiên âm của S-car-bo-rough hay Pai-la-su [phách lạp tô - 柏拉苏] là Pa-ra-cel... Qua đó cũng thấy khi chuyển thêm qua âm Hán Việt thì thường là cách biệt quá xa so với âm gốc như mấy ví dụ vừa nêu (ND).

No comments: