CHƯƠNG II
Cuộc chinh phạt Java lớn năm 1293 của Trung Quốc
A. J. H. Charignon
Bulletin de la Société des Études Indochinoises 1929 (Tome IV, No 4)
Việc này được mô tả trong Nguyên sử [Yuen-che], q. 210, tờ 11 đến 13, và Tân
Nguyên sử, q. 253, tờ 5 đến 7; mặc dù tài liệu sau không có giá trị bằng
tài liệu đầu, chúng tôi dịch cả hai, bởi vì cần đưa ra nhiều chi tiết để xác
lập rằng cuộc viễn chinh này diễn ra ngay ở Nam Kì [Cochinchine]. Trước nhất, đây là những gì
nói trong Nguyên sử:
"Trảo Oa [Tchao-wa爪哇] nằm bên ngoài biên giới của đế
chế[1] , còn xa
hơn Chiêm Thành [Tchan- tch'eng占城][2]. Từ nam Tuyền Châu [Ts'iuen-tcbeou 泉州] (Phúc
Kiến) đi đường biển thì tới Chiêm Thành trước rồi mới đến nước này. Không
thể xác minh phong tục và tập quán, đất đai và sản vật ở nước này là gì, (nhưng biết rằng) nói chung, trong số các nước
phiên bên ngoài này, nhiều người có đồ quý hiếm, rất được chuộng ở Trung
Quốc; còn cư dân của họ có vẻ bề ngoài xấu xí và kì lạ; tính tình cũng
như tiếng nói không giống với người Trung Quốc. Thế tổ rất muốn áp đặt sự cai trị lên
tất cả những dân tộc nước ngoài, nhưng xét rằng so với nhiều lần đem quân
ra khỏi biên thuỳ thì cuộc cất quân đi đánh Trảo Oa vẫn còn quan trọng
hơn.
"Theo lệnh hoàng đế tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 29 [tháng 3 năm 1292], Sử Bật [Che Pi], Diệc Hắc Mễ Thất [I-he-mi-che], Cao Hưng [Kao Hing] là
các quan tỉnh Phúc Kiến được cử làm Bình chương Chính sự đi chinh phạt Trảo
Oa; hội quân ba tỉnh Phúc Kiến, Giang Tây và Hồ Quảng cả thảy 20 000 người,
phân ra thành hai đội quân tả, hữu do hai tướng chỉ huy (đô nguyên soái phủ),
bốn Chinh Hành thượng Vạn hộ; phát 1 000 chiếc thuyền, cấp lương thực một
năm, 40 000 nén 錠 tiền (= 2 000 000 lượng), ban cho 10 hổ phù, 40 kim phù, 100 ngân phù,
100 áo vàng, dùng để thưởng người có công trong bọn Diệc Hắc Mễ Thất và quân
sĩ.
“Lúc cáo từ, Hoàng đế nói: “Các khanh đến Trảo
Oa, bảo cho quân dân nước ấy biết rõ, triều đình ta lúc đầu cùng Trảo Oa cho sứ
giả qua lại giao hảo với nhau, nhưng sau đó sứ giả chính thức của ta là Mạnh
Kì [Mong Ki孟琪] bị họ thích chữ lên mặt, vì vậy chúng ta phải cử quân
đến trừng phạt”.
“Tháng 9 (tháng 10/1292), quân hội lại ở
Khánh Nguyên [慶元] (nay là Ninh Ba thuộc Chiết Giang). Sử Bật,
Diệc Hắc Mễ Thất cùng các quan chức tỉnh (Phúc Kiến), vội đến Tuyền Châu
(bằng đường bộ); trong khi Cao Hưng mang đồ quân lương xuống thuyền từ
Khánh Nguyên (Ninh Ba) đi tới bằng đường biển.
“Tháng 11 (tháng 12/1292), quân của ba tỉnh
Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Quảng họp lại ở Tuyền Châu.
“Tháng 12 (tháng 1/1293), họ ra đi từ bến Hậu
Chử (bờ bắc sông Tuyền Châu).
“Tháng giêng năm sau (tháng 2/1293) họ đến núi Cấu Lan [Keou-lan构欄] ( = Phan
Thiết?)[3] và cùng
bàn tính kế hoạch tấn công ở đó.”
"Tháng 2 (tháng 3/1293), Diệc Hắc Mễ Thất và Tôn Tham Chính [Suen Ts'an-tcheng] bắt đầu với việc ra lệnh cho các viên chức tỉnh (Phúc
Kiến) thông báo cho các quan lại (Trung Quốc) cai trị cấp dưới ở Trảo
Oa và những nơi khác[4]
rằng họ phải thoát đi bằng con đường vòng và sẽ họp lại tại Hải Nha [海牙] (Phan Thiết). Theo đó bọn Dương Tử [Yang Tse], Toàn Trung Tổ [Ts’iuen-Tchong-tsou] vạn hộ Trương Tháp Lạt Xích [Tchang-t’a-ts'e-tch'e], với hơn 500 quân và 10 thuyền
đi trước để báo cho họ biết. Sau đó, quân triều đình tiếp tục đi (bằng đường biển)
tiến tới tận cửa Cát Lợi [Ki-li-men吉利門] (= vịnh Gành Rái, phía bắc Vũng
Tàu)[5] Sử Bật
cùng Cao Hưng vào tới Đỗ
Tịnh Túc [Tou-ping-tchou杜竝足] (= Bà Rịa thuộc Trảo Oa[6]), và bàn
tính với bọn Diệc Hắc Mễ Thất về việc đổ quân lên bờ và chia quân sĩ ra thành hai
cánh, xâm nhập cùng lúc bằng đường thủy và đường bộ vào nước này.
"Sử Bật, Cao Hưng[7] , Tôn
Tham Chính dẫn bọn đô nguyên soái Na Hải [Na Hai], vạn hộ Ninh Cư Nhân [Ning
Kiu-jen] thống lĩnh đoàn thuyền từ Đỗ Tịnh Túc (Bà Rịa) đi qua cửa
kênh Nhung Nha Lộ [Jong-ya-lou戎牙路][8] đến Bát Tiết
Giản [Pa-tsie-kien 八節澗] (Bát Giang)[9] .
"Cao Hưng và Diệc Hắc
Mễ Thất, dẫn bọn đô nguyên soái Trịnh Trấn Quốc [Tcheng Tchen-kouo], vạn hộ
Thoát Hoan [T’o-Hoan], cùng với kị binh và bộ binh
rời Đỗ Tịnh Túc (Bà Rịa) bằng đường bộ.
“Vạn hộ Thân Nguyên [Chien Yuen] làm tiên phong, còn bọn phó nguyên soái Thổ Hổ Đăng Ca [T’ou-hou-teng-ko], vạn hộ Trữ
Hoài Nguyên [Tchou Hoai-jen], Lí Minh [Li Ming]
được sai dùng thuyền nhọn [鑽鋒船: toản phong thuyền], theo đường Nhung Nha Lộ đến Ma Nhạ Ba
Hiết [Ma-je-pa-hie] (Võ Đắt)[10], họ dùng bè xâm nhập sâu hơn rồi tiến vội về Bát
Tiết Giản (Bát Giang). Vào ngày thỏa thuận, tại đó họ gặp cánh quân
đi cảnh báo quan lại cai trị cấp dưới ở Trảo Oa, và được cho biết rằng
con rể của vua Trảo Oa, là Thổ
Hãn Tất Đồ Gia [T’ou-han-pi-cho-ye] đem cả nước
đến xin hàng, nhưng
vì Thổ Hãn Tất Đồ Gia không thể bỏ quân lính để đi, nên trước tiên ra lệnh Dương Tử, Cam Châu Bất Hoa
[Kan-tcheou-pou hoa], Toàn Trung
Tổ dẫn Tể tướng của nước ấy là Tích Lạt Nan Đáp Trá Gia [Si-la-nan-t’a-tcha-ye] cùng hơn 50 người của ta đến đến chỗ gặp (quân Nguyên).
"Ngày đầu tháng 3 (tháng 7/1293), hội quân ở Bát Tiết Giản (Bát
Giang); dòng sông này(chảy) rất xiết, phía thượng lưu chạy qua rất
gần chỗ vương phủ Đỗ Mã Ban [Tou-ma-pan][11]; và phía hạ lưu dẫn ra biển
lớn Bồ Bôn [P’ou-pen 莆奔大海 (Bồ Bôn đại hải)][12] , như vậy (có thể nói) đó là
chỗ cổ họng của Trảo Oa cần phải đảm bảo việc nắm giữ nó. Lại có
một tướng (của Trảo Oa) là Hi Ninh Quan [Hi-ning-koan 希甯官][13] ngồi nhìn cân nhắc hành động, neo thuyền dọc theo bờ sông, chờ xem kết quả được thua, được chiêu dụ ba lần mà
không hàng. Khi đó quan lại tỉnh (Phúc
Kiến) lập ven bờ sông (Bát Giang) một doanh trại dạng hình bán
nguyệt rồi để cho vạn hộ Vương
Thiên Tường [Wen T’ien-siang] ở đó giữ bến
sông; bọn Thổ Hổ Đăng Ca, Lí Trung [Li Tchong] thống lĩnh quân thủy, bọn Trịnh Trấn
Quốc, tỉnh đô trấn phủ Luân Tín [Luen Sin] thống
lĩnh quân bộ, kị, theo đường thuỷ và đường bộ cùng đi đánh Hi Ninh Quan (tức đi
theo huướng về phía Nam). Quá sợ hãi, hắn bỏ thuyền chạy trốn trong đêm. Quân
ta thu được hơn 100 chiếc thuyền đầu quỷ[14].
Bọn đô nguyên soái Na Hải, vạn hộ Ninh Cư
Nhân, Trịnh Khuê [Tcheng Koei], Cao Đức Thành [Kao Te-tch'eng], Trương Thụ [Tchang Cheou]
được lệnh canh giữ cửa biển Bát Tiết Giản[15].
"Đại quân đang đi (về phía Bắc) thì Thổ Hãn Tất Đồ Gia sai sứ giả đến báo rằng vua Cát Lang [Ko-lang 葛郎][16] (nay là Di Linh [Djiring]) đuổi giết đến Ma Nhạ Ba Hiết (Võ Đắt); chính vì vậy ông
xin quan quân giải cứu. Diệc Hắc
Mễ Thất, Trương Tham Chính trước tiên đến trấn an Thổ Hãn Tất Đồ Gia, Trịnh
Trấn Quốc vội vã dẫn quân đến Chương Cô [Tchang-kou 章孤][17] (nay là Tracu) để phối hợp
hành động, còn Cao Hưng đi tới Ma Nhạ
Ba Hiết. Nhưng ở đây, ông được báo
là không ai biết quân Cát Lang ở cách
đó gần hay xa. Cao Hưng quay trở lại
Bát Tiết Giản (Bát Giang) thì Diệc Hắc Mễ Thất lại được báo rằng từ đêm hôm sau,
quân giặc đã xuất hiện, nên đòi Cao Hưng nhanh chóng đến Ma Nhạ Ba Hiết (Võ Đắt).
"Ngày 7, quân Cát lang, chia thành ba hướng đánh Thổ Hãn Tất Đồ Gia.
“Ngày 8, Lê Minh [黎明], Diệc Hắc Mễ Thất, Tôn Tham Chính được vạn hộ Lí Minh [李明] tháp tùng tiến tới theo hướng Tây Nam (so với Ma Nhạ Ba Hiết = Võ Đắt); nhưng không gặp giặc. Cao Hưng và vạn hộ Thoát Hoan theo con đường phía Đông Nam của Võ Đắt, đánh nhau với
giặc, giết mấy trăm người; số còn lại bỏ chạy tản mác trốn trong các hang
núi. Giữa trưa, giặc lại xuất hiện ở con đường phía Tây Nam
(của Võ Đắt), Cao Hưng đánh chúng lần nữa tiến đến tận Phủ/Bô [Pou 脯] (nay là Pat, trên vùng sông
La Ngà [Da Lagna]) và chúng lại bị đánh thua lần nữa.
"Ngày 15, quân ta chia thành ba ngã đánh Cát Lang (Di Linh)
và hẹn ngày 19 sẽ tiến hành việc phối hợp tại Đáp Hà [Taha荅哈] (nay là Tola trên vùng sông
La Ngà)[18] khi
nghe tiếng pháo thì cùng nhau trận. Bọn Thổ Hổ Đăng Ca đem quân thủy ngược dòng nước (sông La Ngà) đi lên, bọn
Diệc Hắc Mễ Thất theo đường phía Tây Nam (của sông), bọn Cao Hưng theo đường
phía Đông mà đi, quân của Thổ Hãn Tất Đồ Gia theo sau.
"(Thực tế) vào ngày 19,
họ mới đến Đáp Hà (= Tola). Vua Cát Lang (Di Linh) thống lĩnh
khoảng 100 .000 quân đến khiêu chiến, từ giờ Mão [卯] (5h -
7h sáng) đến giờ Mùi [未] (1h - 3h chiều), đánh liên tiếp
ba trận; giặc bị thua, chạy trốn tan tác; số buộc phải chạy xuống sông chết
đuối lên đến hàng chục ngàn; số bị giết khoảng 5 000. Vua nước này chạy vào trong thành (Di Linh)
để chống giữ, quan quân bao vây thành, và chiêu dụ ông ta ra hàng. Tối hôm
đó, vua của nước này là Hà Chỉ Cát Đương (Ha-tche-ko-t'ang) rời thành ra hàng, nhận được đảm bảo rằng sẽ
có lệnh hoàng đế cho ông trở về vương quốc của mình.
“Ngày 2 tháng thứ 4 (tháng 5/1293), Thổ Hãn Tất Đồ Gia được cho phép trở về nước (Trảo Oa) để chuẩn bị đồ
cống nạp (cho Hoàng đế); vạn hộ
Niết Chỉ Bất Đinh (Nie-tche-pou-ting ), Cam Châu Bất Hoa được
phái dẫn 200 quân theo theo hộ tống.
“Ngày 19, Thổ Hãn Tất Đồ Gia làm phản bỏ trốn[19], để cho
quân lính của mình chống trả thay. Niết Chỉ Bất Đinh, Cam Châu Bất Hoa và quan chức tỉnh (Phúc Kiến) Phùng Tường (Fong Siang) đều bị hại chết (do bị phục kích).
“Ngày 24 quân ta quay lại; dẫn
theo Hà Chỉ Cát Đương với vợ con và hơn trăm
người, cùng bản đồ địa dư, hộ khẩu, thư tịch, tờ biểu viết chữ bằng vàng thuyết
phục xin được cho về để trình cho Hoàng đế.
“Chi tiết chuyến chinh phạt này có
thể xem trong truyện Sử Bật, Cao Hưng
(trong Nguyên sử).”
Những chi tiết bổ sung sau đây được đặc biệt lồng vào phần Địa chí
nước Qua Oa trong cuốn Tân Nguyên sử [新元史] xuất bản gần đây.
“Qua Oa [Koa-wa 瓜哇][20] nằm bên ngoài của đế quốc, còn
xa hơn Chiêm Thành, nhưng tên của nó không ghi trong sử sách nào của
chúng ta[21].
Từ nam Tuyền Châu đi bằng đường biển thì đến
Chiêm Thành trước rồi mới đến nước này[22]. Không thể xác minh phong
tục cùng sản vật ở nước này là gì.
“Thế tổ lo lắng tới việc mở rộng quyền
cai trị của mình lên tất cả các dân tộc Đông Dương[23] nhưng
ông thấy rằng cuộc đem quân đi đánh Qua Oa sẽ khó khăn hơn nhiều so với tất
cả những lần phái quân ra nước ngoài trước đây. Năm 1280, chiếu chỉ đầu tiên
về nước này được ban ra; năm 1286, bọn Tất Lạt Man [Pi-la- man] được phái đến Qua Oa, từ đó sứ giả hai bên qua lại không
ngớt; sau đó Mạnh Kì được sai cầm chiếu lệnh đến đó, bị vua nước này thích
chữ lên mặt. Khi viên sứ giả này trở về Trung Quốc, Hoàng đế nổi giận và lập tức quyết định cất quân đi đánh Qua Oa.
“Lệnh hoàng đế tháng 3 năm 1292 cử cùng lúc Sử Bật, Cao Hưngvà Diệc
Hắc Mễ Thất vốn là các quan tỉnh Phúc Kiến, sẽ gôm về tỉnh này tổng cộng
20 000 quân của hai tỉnh Giang Tây và Hồ Quảng; cấp 1 000 tàu biển;
lương thực cho một năm; cùng với 100 lệnh phù gồm phù hổ, phù vàng và, phù
bạc dùng để thưởng cho những người có công.
“Quân sĩ, sau khi tập trung tại Tuyền Châu, khởi hành từ bờ bắc của sông;
gió thổi điên cuồng, sóng to sủi bọt làm thuyền lắc lư như đưa võng; quân
sĩ mấy ngày không ăn uống được. Vượt qua biển Thất Châu [Ts’i-cheou 七 洲 洋(Thất Châu Dương)][24] có rạng
Thạch-Đường [Che-t’ang 石塘] dài hàng ngàn lí; cuối cùng đi qua biên giới giữa Giao Chỉ [Kiao-tche] (= Tonkin [Bắc Kì]) và Chiêm Thành (= Annam).
"Tháng giêng năm sau (tháng 2/1293), đội thuyền đến Đông Đổng [Tong-tong (hòn Hài)], Tây Đổng [Si-tong (hòn Đồ Nhỏ)] (Nha Trang), đảo Ngưu Khi [Nicou-Ki] (Cam Ranh?), rồi vào biển lớn Hỗn Độn [Hoen-toen][25], và đổ bộ lên bờ ở đảo Cảm Lãm [Kan-lan] (Phú
Điền ?), các núi Giả Lí Mã Đáp [Kia-li
ma-ta], Cấu
Lan (Phan Thiết?)[26] và nhiều núi khác, tạm thời đóng quân
ở đó; rồi đốn cây làm thuyền nhỏ để luồng sâu hơn vào phía giặc.
“Sau đó, bọn quan lại cấp dưới [ở Qua Oa] Dương Tử, Toàn Trung Tổ được
sai dẫn khoảng 500 người[27] đi
trước đến trấn an và và
cảnh báo (người của ta ở tại Qua Oa); sau đó đại quân theo sau tiến lên (bằng đường biển) tới tận
cửa Cát Lợi (Vịnh Gành Rái).
“Khi đến vùng Đỗ Tịnh Túc (Bà Rịa) thuộc Qua Oa, bọn Sử Bật bàn nhau chia quân thuỷ, lục
cùng đánh. Sử Bật thống lĩnh bọn đô
nguyên soái Na Hải đem quân thủy, từ Đỗ Tịnh Túc, vượt qua cửa lạch Nhung Nha
Lộ, đến Bát Tiết Giản (Bát Giang). Cao Hưng
cùng Diệc Hắc Mê Thất đem quân kị, bộ đi từ Đỗ Tịnh Túc (Bà Rịa) theo đường bộ.
“Bọn phó nguyên soái Thổ Hổ Đăng Ca được
sai đi thuyền mũi nhọn, theo đường (lạch) Nhung Nha Lộ đến cầu nổi ở Ma Nhạ
Ba Hiết[28] [Võ Đắt].
“Qua Oa lúc đó đánh nhau với nước láng giềng, vương quốc Cát Lang (Di
Linh); vua nước này bị hoàng tử của Cát Lang là Hà Chỉ Cát Đương giết chết, con rể (của nạn nhân) là Thổ Hãn Tất Đồ Gia đánh Cát Lang nhưng không
thắng, rút về nương náu ở Ma Nhạ Ba Hiết. Nghe tin bọn Sử Bật đến, ông
ta đem dâng xứ sở với núi sông, nhà cửa và người dân nước mình, cùng với
bản đồ nước Cát Lang đến xin hàng.
“Trước tiên, Dương Tử, Toàn Trung Tổ được
lệnh dẫn bọn Tể tướng của (của Qua Oa) là Tích Lạt Nan Đáp Trá Gia (Si-la-nan-t’a-tcha-ye) cùng
với 50 người của ta đến đón đại quân lúc đó đang tập trung trên sông Bát
Tiết (Bát Giang). Sông
này phía thượng nguồn chảy ngang qua rất gần vương phủ Đỗ Mã Ban (vua phía Tây, hay vua nước Qua Oa), còn phía
hạ lưu dẫn đến biển lớn Bồ Bôn (tiếp giáp bờ biển phía Nam của bán đảo An
Nam); do đó nó là chìa khóa mà Qua Oa phải nắm giữ. Một mưu thần (của Qua Oa) là Hi Ninh Quan lo việc phòng thủ (Bát
Tiết Giản) neo thuyền dọc theo sông đứng chờ xem kết quả được, thua, ba lần
được chiêu dụ mà ông ta không hàng. Khi đó một trại có hình bán nguyệt được
cho lập ven bờ sông; vạn hộ Vương Thiên Tường được cử ở lại đó giữ bến
sông, rồi bọn Thổ Hổ Đăng Ca dẫn quân thủy, lục cùng tiến (về phía Nam). Kinh
sợ, Hi Ninh Quan bỏ thuyền trốn đi
lúc đêm tối, quân ta lấy được thuyền đầu
quỷ hơn trăm chiếc; rồi đô nguyên soái Na Hải được lệnh giữ cửa biển
Bát Tiết Giản.
“Đại quân đang tiến (nhưng về phía Bắc) thì Thổ
Hãn Tất Đồ Gia sai sứ giả đến báo cáo láo rằng hoàng tử của Cát Lang truy
đuổi bám sát ông tới Ma Nhạ Ba Hiết (Võ Đắt), vì thế cầu xin quan quân cứu dùm ông ta.
“Diệc Hắc Mê Thất tin theo, trước tiên sai đô nguyên soái Trịnh Trấn Quốc
dẫn quân đến Chương Cô (= Tracu) để cứu ông ta. Cao
Hưng đến Ma Nhạ Ba Hiết (Võ Đắt);, thì được báo rằng không biết quân của Cát Lang cách
đó gần hay xa, Cao Hưng quay lại Bát Tiết Giản (Bát Giang), ở đó được quân dọ thám báo rằng quân giặc
sẽ đến vào ban đêm, cũng như lần trước ông vội vả đến Ma Nhạ Ba Hiết (Võ
Đắt).
“Trên thực tế, không chút chậm trể quân Cát Lang chia ba hướng tiến
đến đánh. Diệc Hắc Mễ Thất với vạn hộ Lí Minh đón giặc ở phía Tây Nam (Võ
Đắt), nhưng không gặp. Cao Hưng với vạn hộ Thoát Hoan tiến về phía Đông Nam
(Võ Đắt) gặp chúng giao chiến, giết chết và làm bị thương hàng trăm tên; bọn
còn lại bỏ chạy lẫn khuất trong các hang núi. Thình lình giặc từ phía Tây Nam tràn đến, Cao Hưng
đánh lần nữa và tiến đến Phủ/Bô (= Pat), lại đánh chúng thua chạy.
“Sau đó, quân ta chia thành ba cánh
đi đánh Cát Lang, Thổ Hổ Đăng Ca đem quân thủy ngược dòng (La Ngà) đi lên, Diệc Hắc Mê Thất theo đường
phía Tây (của sông), bọn Cao Hưng theo đường phía Đông; Thổ Hãn Tất Đồ Gia đem
quân của chính mình theo sau, hẹn hội quân ở thành Đáp Hà (= Tola). Vua của nước Cát Lang (Di Linh) đem hơn 100 000 quân đến
chống, đánh ba trận, quân giặc thua, tan vỡ, người bị rơi xuống sông chết rất
nhiều. Sau đó quân ta tiến đến bao vây thành này. Buổi chiều hôm đó, Hà Chỉ
Cát Đương ra hàng, vợ con cũng bị bắt làm tù binh.
“Thổ Hãn Tất Đồ Gia xin về để chuẩn bị biểu
xin làm chư hầu, đồng thời cống nạp đồ trân quý lấy được của kẻ thù;
vạn hộ Niết Chỉ Bất Đinh, Cam Châu Bất Hoa thống lĩnh 50 quân hộ tống ông ta.
Đi nửa đường, hắn làm phản giết hai sứ giả rồi bỏ trốn; sau đó tập hợp
quân binh đến đánh quân ta.
“Bọn Sử Bật vừa đánh vừa lui 300 dặm (lí),
lên được thuyền, đi 68 ngày đêm, đến Tuyền Châu, quân sĩ chết hơn 3 000
người. Hoàng đế tỏ ra giận dữ xét rằng bọn Sử Bật đã có hành động
đáng chê trach khi cư xử dễ dãi với bọn giặc (Qua Oa), phạt đánh đòn cả
bọn.”
“Phần địa chí trongTân Nguyên sử liệt kê tiếp các sứ giả mà Qua
Oa đã cử tới triều đình Trung Hoa kể từ đó, tức là vào các năm 1295, 1297,
1325, 1328, 1332, và 1363; sau đó nó kết thúc với mô tả ngắn sau đây, đủ để thấy
gần như mô tả trong Địa chí Xà Bà [闍婆] ở Tống sử (q. 489, tr. 15 và
16) cho thấy rằng phần địa chí này đã cung cấp tất cả các đặc điểm, nguồn
gốc "Côn Lôn", sản vật phong phú, vị trí gần biển, vv:
“Nước này bằng phẳng, thích hợp cho việc trồng lúa, cây gai dầu, kê nếp,
đậu, nhưng không sản xuất trà. Nước biển đun cho bốc hơi để làm ra muối. Nước
này sản xuất vàng, bạc, tê giác, ngà voi, giấy, gỗ đàn hương, hoa hồi; người
ta cũng nuôi tằm dệt lụa. Nhà đẹp, phần lớn trang trí với vàng hoặc ngọc bích.
Họ cắt lá bạc để làm tiền. Rượu vang, được làm với quả trầu (? 段哧丹樹 đoạn hách đan thụ), rất thơm ngon. Tục lệ ở
đây có tên mà không có họ. Nhà vua là hình mẫu về cách búi tóc, ông đeo chuông vàng, mặc áo dài lụa
hoa, đi giày và dép da.Ông ngồi trên ngai vàng có chạm trổ. Quan lại hoặc sứ giả tới yết
kiến vái ba lần rồi lui ra. Khi gặp vua, người dân, tránh ra và quỳ xuống để
tỏ sự kính trọng, chờ khi ông đi qua xong mới đứng dậy trở lại.”
Phân tích các tài liệu này: một trong những đặc điểm đầu tiên, không kém
nổi bật nhất là khoảng cách khá ngắn đi từ Phúc Kiến đến Qua Oa, điều
này gây chú ý những nhà biên tập Địa lí (nhà Thanh) “Theo Nguyên sử thì
năm Chí Nguyên thứ 28 (1292-1293), đoàn
quân chinh phạt rời Tuyền Châu tháng 12 (tháng 1/1293) đã tới nước này vào
tháng giêng năm kế (tháng 2/1293); như vậy nước này chỉ cách đó khoảng một
tháng đi thuyền, có vẻ không phải là quá xa.”[29]. Quả
thế, không nghi ngờ chút nào là thời gian một tháng này hoàn toàn không đủ
cho một đoàn thuyền, đi chung với nhau và buộc phải đi dọc theo bờ biển, từ
Tuyền Châu (Zayton) để tới Java (hiện đại), trong khi để đến được đảo Sumatra
không xa bằng, Marco Polo phải mất hơn hơn một tháng rưỡi (chính xác 4 790
dậm, hoặc 48 ngày)[30] theo tuyến
đường thương mại thông thường.
Còn về tuyến đường G. Gerini đề xuất[31], đi dọc
theo bờ biển phía tây Borneo, cần phải suy nghĩ thêm, không những vì tuyến đường
này không ngắn hơn tuyến đường trước chút nào mà nhất là vì Nguyên
sử không nêu ra địa danh quan trọng nào giữa Chiêm Thành (An Nam) và Qua
Oa; không nói rằng đội thuyền Trung Quốc đã vượt qua [過 (quá)] biển Hổn Độn (biển Đông)
mà chỉ chỉ đi vào [入 (nhập)] trong biển này: Có khả năng là tuyến đường biển phía tây Borneo
này cho tới thời hiện đại mới được biết đến , bởi vì các tác giả Trung Quốc
và các nhà địa lí Ả Rập tuyên bố chắc nịch rằng tàu thuyền phải không
được rời khỏi bờ biển bán đảo An Nam nếu không muốn bị đắm tàu. Và P. Amiot[32] lưu
ý, trong Notice sur le Koa-wa (Lưu ý về Qua Oa) ‘Từ Phúc Kiến đi Qua Oa, xuống thuyền ở phủ
Tuyền Châu, đi về phía Nam, sau một tháng sẽ đi ngang qua Chiêm Thành và tới
đó’. Ông nói thêm hơn chút nữa "Các
tàu từ Phương Tây tới Trung Quốc từng chạy ven bờ nước này trong một thời
gian".
Cuối cùng, từ thông tin do P. Mailla dịch rằng trong số các hòn đảo (đảo
hoặc núi) Cảm Lãm (Kan-lan), Giả Lí Mã Đáp (Kia-li-ma-ta) và Cấu Lan (Keou-lan), địa phương cuối này được đặt dưới sự kiểm soát của Chiêm Thành, nên
ta có thể kết luận rằng hai địa danh đầu cũng vậy vì được gặp trước, và cả
ba phải nằm tại lối vào biển Hổn Độn, tức là phía Tây Nam và không xa mũi Dinh (Padarang). Do đó chúng tôi cũng đi men theo bờ biển Nam Kì giữa mũi Dinh và mũi Vũng Tàu (cap St Jacques); đây là nơi mà Marco Polo đã tiếp xúc với Java lớn,
đây là nơi mà đoàn quân đi chinh phạt của Hốt Tấn Liệt (Khubilai) đổ
bộ lên bờ trước tiên để làm thuyền nhẹ ở đó giúp họ đi theo kênh Nhung
Nha Lộ và sông La Ngà, tức là đi vòng quanh Qua Oa và đưa họ đến phía sau.
Việc này đặt ra kế hoạch chiến dịch rất dễ thực hiện theo: Một
cuộc đổ bộ lên bờ bên ngoài mũi Dinh và dưới mũi Kê Gà không những
để tu sửa đội thuyền và đóng các thuyền nhỏ mà còn để cảnh báo các quan
lại Trung Quốc vẫn còn ở Bát Giang và bảo họ rút lui đến một nơi được
hẹn trước; cánh quân được phái cho mục đích này; không thể đi lên thung lũng
sông Bát Giang vốn được canh
giữ rất kĩ; nên phải đi từ Phan Thiết hoặc một địa điểm lân cận.
Đoàn thuyền sau đó tiếp tục đi đến vịnh Gành Rái và đến Bà Rịa rồi thực
hiện một cuộc đổ bộ thứ hai ở đó, quân sĩ được chia nhỏ, và kế hoạch tấn công
không còn phối hợp với nhau. Cánh tiên phong tiến tới bằng đường thuỷ
theo một con lạch, chắc chắn ở xa về phía đông nhất, được gọi là Nhung Nha Lộ; sau đó họ đi vào sông La
Ngà cho tới Võ Đắt; từ đó họ đi theo nhánh sông bên trái bằng bè, vượt qua
(có thể bằng đường thuỷ) chỏm núi Gia Lao, và đến Bát Giang, cánh
đi trực tiếp từ Phan Thiết cũng tới đó cùng một lúc.
Một bộ phận của đoàn quân tiên phong tiến bằng đường thuỷ tới Bát
Giang, trong khi kị binh và bộ binh đến đó bằng đường bộ. Bát Giang trở
thành căn cứ cho các hoạt động của quân đội Trung Quốc; một trại cố thủ được thiết
lập, kế đó quan tâm chính là trấn giữ sông Bát Giang trên suốt chiều
dài của nó. chạy ra tới biển.
Như vậy sau khi nắm giữ được vị trị then chốt của Qua Oa, quân Trung
Quốc thấy cần theo đuổi mục tiêu khác, đó là đẩy lùi quân Cát Lang, xuống đến
vùng phụ cận của Võ Đắt (Voduoc). Sau
khi đánh bại giặc trong nhiều cuộc chạm trán, họ tới thung lũng sông La
Ngà, qua Phủ/Bô (Pat), tới tận Đáp Hà (Tola); ở đó họ đánh nhau với
chính vua Cát Lang cùng bọn tuỳ tùng. Bị thua, nhà vua lui vào thành Di
Linh khoá chặt cửa, sau đó vội vã ra đầu hàng.
Như vậy hai tài liệu chính thức Trung Quốc Cựu và Tân Nguyên sử cho
phép khẳng định vùng La Ngà là địa bàn của các hoạt động chính, và kết
luận này được xác nhận bởi việc xác định nước Qua Oa chính là nướcXà Bà cổ
mà chúng tôi sẽ đưa ra ở chương sau. Chúng tôi thực hiện việc xác định
[vị trí các nước] chưa thật đầy đủ, trong khi những người đi trước chúng tôi,
những người đặt chuyến chinh phạt năm 1293 của Trung Quốc vào trong
Java hiện đại, trái lại xác định rất chính xác; hết sức chính thức. Những
địa danh Cảm Lãm (Kan-lan), Giả
Lí Mã Đáp (Kia-li-ma-ta), Cấu Lan (Keou-lan), Đỗ Tịnh Túc (Tou-Ping –tchou),
Ma Nhạ Ba Hiết (Ma-je-pa-hie), mà chúng tôi tìm kiếm vô vọng ở Nam
Kì, họ lại tìm ra chúng trong các vùng lân cận bên trong Java hiện đại. Có
phải điều này có nghĩa rằng, không tính đến những phản bác rất nghiêm
trọng mà việc đọc Nguyên sử cho thấy, chẳng hạn việc gần gủi
với Chiêm Thành (An Nam), thời gian không lâu của chuyến đi, sự có mặt
một hệ thống cai trị của Trung quốc đã thành lập ở Qua Oa vv, chưa
kể khó có khả năng xảy ra việc phái một đoàn quân chinh phạt tới một
nước ở xa tận Java hiện đại mà Trung quốc chưa bao giờ có quan hệ chính thức,
có thể tìm được ở đó một cách giải thích tốt hơn cho các hoạt động hay
không? Không chút nào; và chúng tôi sẽ chứng minh:
a.Trước hết chúng ta
hãy lấy Ma Nhạ Ba Hiết (Ma-je-pa-hie), theo W. W. Rockhill, người dịch cuốn Mã Hoan[33]:
“Thành này là kinh đô của đất nước, nằm ở phía Tây Nam Chương Cô, cách
nửa ngày đi bộ, Chương Cô cũng ở ven biển": Thế mà theo Nguyên sử, Ma Nhạ
Ba Hiết không phải là kinh
đô của Qua Oa và nằm cách xa bờ biển;Chương Cô nằm về
phía thượng nguồn hơn, trên cùng một con sông, nghĩa là còn xa biển
hơn nữa; cuối cùng về mặt chính tả trong Mã Hoan, tức là ‘Mãn Giả Bá Lại’ [满者伯吏 (Man-tche-pa-i)] thay
cho Ma Nhạ Ba Hiết, ‘Chương Cô’
[Tchang-kou] viết là 漳沽thay vì 章孤, không phải là những tên ghi trong Nguyên sử; do
đó mọi thứ làm tin rằng đó không nói về cùng những địa phương.
b. Núi Câu Lan
勾欄, được Uông Đại Nguyên nêu như là nơi cung cấp gỗ
đóng thuyền nhẹ cho đội tàu Trung Quốc, được Phí Tín viết là Giao
Lan 交欄 và đặt nó cách núi Linh 靈
của Chiêm Thành 10 ngày theo đường biển; một khoảng cách quá ngắn vào
thời đó, sao lại đi tìm nó ở đảo Geram?[34]
c. Nguyên sử nói sông
Bát Tiết Giản (Pa-tsie-kien),
là cổ họng, chìa khóa của Qua Oa, còn kinh đô nằm về phía thượng nguồn
của nó; tuy nhiên, quân Trung Quốc không phải đi ngang qua thung lũng sông
này để xâm nhập vào Qua Oa: họ đi theo một đường vòng dài qua cửa Cát
Lợi, Đỗ Tịnh Túc, Ma Nhạ Ba Hiết; một bộ phận
cũng đến Qua Oa theo các con sông bên trong. Một mạng lưới như thế có
thể có ở Java hiện đại không? Các kinh đô ở đó có luôn nằm ở phía trên cùng
của thung lũng không? Nếu muốn đồng nhất Bát
Tiết Giản với sông Brantas chảy tới Soerabaja thì Ma Nhạ
Ba Hiết hay Majapahit không
thể nằm trên con sông này, do đó, theo Nguyên sử; hoặc Majapahit không phải là
kinh đô, và kinh đô này không nằm trên con sông vốn là chìa khóa, bế tắc không
lối thoát. Bên cạnh đó, khi theo con sông Majapahit, phải đi qua các thành phố
Bô [Pou], Đáp Hà [Ta-ha], trước khi đến kinh đô của Cát lang. Kinh đô này
do đó phải nằm trên dãy núi đi xuyên qua Java từ Đông sang Tây; nó chỉ
có thể ở phía Nam của Qua Oa, mà điều này mâu thuẫn với các tác giả nhà Minh,
phân biệt vua Tây và vua Đông ở Qua Oa.
Chúng tôi không phủ
nhận rằng hầu hết các điạ danh được những người đi trước chúng tôi tìm thấy
ở Java hiện nay không được rút ra từ những cái tên được nêu trong Nguyên
sử, ví dụ như Majapahit, Kalimmata, Crimon, Pa-tsie-na-kien, P'ou-pen, Tu-pan,
Tchang-kou, chúng tôi chỉ nói rằng điều này không đủ để kết luận rằng chúng chỉ
cùng địa điểm. Chắc chắn rất tò mò nhận ra chúng ở đó, và phải tin rằng chúng
đã được nhập từ Nam Kì vào, sau những đợt di cư mà chúng tôi vẫn không biết
diễn ra như thế nào cũng như khi nào, nhưng kéo dài sự hoạt động qua bán đảo
Mã Lai và đảo Sumatra, nơi mà một số trong những địa danh này có thể được tìm
thấy, các đợt di cư trong mọi trường hợp là khá muộn và không thể trước thời
nhà Đường (AD 618- 907) bởi vì, như chúng ta sẽ thấy sau này, tất cả những gì
được sử sách triều đại này nói về các nước ở biển Đông, và đặc biệt là địa
danh Ha Lăng hoặc Xà Bà chỉ áp dụng cho Đông Dương. Và sau này, khi các tác giả
thời nhà Minh đặt ở Indonesia những tên mà dưới thời Đường và Tống thuộc
về Đông Dương thì họ thường chuyển cho chúng những đặc điểm sao chép từ
sử sách của các triều đại trước, nhưng không còn ăn khớp với vị trí mới: từ
đó gây lúng túng cho chúng tôi trong việc giải thích, và từ đó buộc
chúng tôi phải cẩn trọng trong nghiên cứu này dựa càng ít càng tốt vào các
tác giả sau thời nhà Nguyên.
(Nhiều chi tiết trong Nguyên sử không phù hợ̣p nếu đồng nhất Ma Nhạ Ba Hiết là Majapahit ở Java (Indonesia) [bản đồ trên wikipedia] - ND)
Những cân nhắc này của chúng tôi được gợi ra từ những đoạn trích của
Uông Đại Uyên [汪大淵], Mã Hoan vv, được WW Rockhill
công bố dưới tiêu đề Notes on the relations and trade of China... (Ghi chú về các mối quan hệ và
thương mại của Trung Quốc....), TP năm 1914 và 1915, và cũng từ Notice (Lưu ý) của P. Amiot, 1, c, t.
XIV, tr. 101-111, mà dường như rút ra từ cùng các tác giả. Trong quyển sau, nhiều
đặc điểm áp dụng cho Nam Kì, những đặc điểm khác cho Java hiện đại; chúng tôi
sẽ nêu ra một số trong những đặc điểm đầu như sau:
"Người ta phân biệt có ba loại người sống trong vương quốc này: 1)
người nước ngoài từ phương Tây ...; 2) người Trung Quốc vốn định cư ở đó
từ thời nhà Đường, và đã chấp nhận đạo Hồi, và những người này được gọi là
người Đường[35].
Họ buôn bán và đi thuyền dọc theo bờ biển; 3) Cuối cùng là người bản địa,
họ trông không có gì giống với hai loại người mà tôi vừa đề cập ... Chính
vì vậy họ được nói trong một cuốn sách làm thời nhà Tống.
“Trong một cuốn sách làm thời nhà Minh có nói ... rằng ở đó không
có trộm cướp, cũng không có tội phạm, và nếu ai đó đánh rơi một cái gì đó,
không ai nhặt lấy làm của. Cụm từ Thái Bình Xà Bà 太平闍婆 (Xà Bà là tên cũ của Qua
Oa) trở thành một tục ngữ.
“ ‘Nhất thống chí’ ghi rằng trong vương quốc Qua Oa có một con sông gọi
là Bát Tiết Giản chảy từ vương phủ Đỗ Mã Ban (= vua phía Tây) cho đến Bồ
Bôn là chỗ cửa sông. Đây là nơi mà quân Mông Cổ muốn xâm nhập nước này vv ...".
Đoạn sau đây của Phí Tín [Fei-Sin] (thế kỉ XV) do những người ủng hộ
Java hiện nay gợi ra; nhưng tác giả này gọi nó là Trảo Oa [爪 哇], trong khi ông dùng tên Xà Bà [闍婆] cho nước mà quân của Hột Tấn Liệt đi chinh phạt. Vì vậy, ông xác
lập sự phân biệt giữa hai địa danh này, và
đối với ông, Xà Bà không phải là Java (hiện đại). Chúng tôi sẽ cung
cấp thêm nhiều bằng chứng sau này, nhưng trong đoạn vừa nói của Phí Tín
mà G. Schlegel sao chép và dịch lại, không có chỗ nào cho phép sự nhầm lẫn
này:
“Dưới triều đại phiên Nguyên, các tướng Cao Hưng và Sử Bật được lệnh
chỉ huy một đội quân rất đông xuống nhiều thuyền lớn đi chinh phạt Xà Bà [闍婆]. Sau khi trải qua một cơn bão, họ đến chân núi Giao Lan 交闌山 , hầu hết tàu thuyền đều bị hư
hỏng. Sau đó, họ lập trại trên núi này, đóng một trăm thuyền và tiếp tục cuộc
chinh phạt Xà Bà; sau khi bắt được thủ lãnh nước này, họ quay trở về Trung
Quốc. Ngày nay ở nhiều nơi ở đó vẫn còn thấy người Trung Quốc trộn lẫn với
dân bản địa; bởi vì vào thời kì đó, hàng trăm bệnh binh của chúng ta bị bỏ lại
để chữa bệnh không thể trở về xứ sở được, họ để lại con cháu của họ ở đảo
này."[36]
CHÚ THÍCH:
[1] Bản gốc dùng hải ngoại 海外, đó là phản nghĩa của hải nội 海內; vì từ này
thường được sử dụng để chỉ đế chế Trung Hoa, nghĩa là tất cả các vùng lãnh
thổ bao gồm bên trong biên giới của nó, từ kia áp dụng cho các nước bên ngoài.
[1] Lưu ý là nước
được chọn là để đối chiếu; tuy nhiên tên được chọn không phải là
Borneo, bán đảo Malacca hay đảo Sumatra, vốn sẽ chỉ ra rõ ràng hơn nếu đội
thuyền Trung Quốc được phái tới Java hiện đại, mà lại là Chiêm Thành, tức
là An Nam hiện nay. Câu trong bản gốc như sau 視占城益遠 (thị Chiêm Thành ích viễn), dịch theo
nghĩa đen là” ‘so với Chiêm Thành nó ở xa hơn’.
[1] Cấu Lan 构欄, biến thể là 勾欄 (Câu Lan) không phải là một đảo, vì ta đi
từ địa điểm này để đến kinh đô của Trảo Oa vốn nằm gần Bát Giang (Atlas A. Pavie, pl. V, kinh 105° 14 ';.
vĩ 10° 56'). Mailla (Hist. gén. De la
Chine, t IX, tr. 452) nói Cấu Lan thuộc vương quốc của Chiêm Thành (=
Annam), điều này là hoàn toàn chính đáng bởi vì do bị Bắc Kì và Trung Quốc
đẩy lùi về phía nam, Chiêm Thành phải tiến hành đấu tranh dai dẳng với
Chân Lạp (nay là. Campuchia) để giành quyền sở hữu phần phía nam bán
đảo An Nam.
Tân Nguyên sử, q. 253, tr. 12. v°, cung cấp các
chi tiết sau: “Ở đó nhiệt độ ấm áp; người dân làm nghề săn bắn. Nguyên từ
đầu triều đại, Sử Bật dẫn quân chinh phạt.Qua Oa 瓜哇 (= Trảo Oa) đã bị gió làm tấp dưới chân núi và tất cả các tàu thuyền
bị hư hỏng; may mắn có một chiếc thoát được thảm họa, và vì hàng hóa chỡ
theo tất cả chỉ là đinh và vôi, vì thấy trên núi có rất nhiều cây, quân
triều đình đã đóng hơn chục chiếc thuyền, còn cột buồm, bánh lái, vv, thì
không thiếu. Khoảng 100 người bị bệnh không thể đi xa hơn phải để lại ở
đó, và cho đến ngày hôm nay, người Trung Quốc và người bản địa vẫn sống xen
kẽ ở đó. – Cf. Thông báo
(T'oung-pao), 1915, tr. 161.
[1] Sách ghi là bản tỉnh 本省, nghĩ là chính quyền của Phúc Kiến, chịu trách nhiệm tổ chức cuộc
chinh phạt và chính quyền cấp dưới tại Trảo Oa 爪哇等處宣慰司 (Trảo Oa đẳng xử tuyên úy ti) gắn với nó. Chi tiết này
cho thấy rõ rằng có một hình thức chính quyền phôi thai của Trung Quốc
tại Trảo Oa.
[1] Cát Lợi môn có thể chính là vịnh Gành Rái, vì nó
được nói ở Tân Nguyên sử, q. 253, tr. 10 v°: “Hà Lai
Vật (Xiá lái wù遐來物) là một cách gọi khác của Cát Lợi môn (Jílì mén吉利門). Vào
thời 'Chí Nguyên' (1236-1294), đại quân phái đi chinh phạt Qua Oa
(= Trảo Oa), sau khi đi từ núi Cấu Lan (Phan Thiết) tiến tới tận cửa
Cát Lợi; khu vực này là chính là Hà Lai Vật Người ở đó thích
chuyện ma thuật; đàn ông và đàn bà đều búi tóc; khi có người chết,
xác được ướp với long não nguyên chất để không bị phân hủy trước khi làm
đám tang.”
[1] Đỗ Tịnh
Túc: chúng tôi không thể xác định được; nếu các thành phố hiện nay được
xây dựng trên nền các thành phố xưa (có nhiều khả năng như vậy) thì
phải tìm Đỗ Tịnh Túc phía Bà Rịa, tìm Ma Nhạ Ba Hiết ở Võ Đắt vì hoạt động của đội quân Trung Quốc bao gồm việc đi vòng Trảo Oa
khi đi lên lưu vực sông La Ngà, nhánh trái của Đồng Nai, và vội vàng quay
ngược về Bát Tiết Giản (Bát Giang) vốn là là chìa khóa của nước này,
như cho thấy ở phần sau của câu chuyện này.
[1] Cao Hưng được nêu tên ở
đây do nhầm lẫn vì ở đoạn tiếp theo, ông ta đi đường bộ với kị binh và bộ
binh.
[1] Nhung
Nha Lộ. – Con lạch này, chạy từ vịnh Gành Rái, phải
dẫn thẳng đến sông La Ngà, hay ít nhất tới sông Đồng Nai. “Sau đó, tên nó
bị biến dạng thành Trọng Ca La 重迦羅. Đất nước này sản xuất muối, và tất cả các loại
cây trong đó có cây nam 楠; đất đai không tốt bằng Qua Oa (lưu vực hạ
lưu sông La Ngà). Đàn ông và đàn bà đều búi tóc; không có tù trưởng cai
trị ho, người già được kính trọng. Sử Bật thống lĩnh đoàn thuyền Trung
Quốc đi theo lạch Nhung Nha Lộ để đi đến Bát Tiết Giản (Bát Giang) “- Tân
Nguyên sử. q. 253, tr.11, vo.
[1] Bát Tiết
Giản -Tên này dường như có nghĩa là 'tám con sông chảy
siết' và gặp nhau tại Bát Giang (八江) hiện nay. "Đó là vùng đất
thuộc nước Tiêm Sơn 尖山; nước này nằm trên một phần của Đông
Dương. Do đó Tiêm Sơn là tên
được đặt sau này cho Trảo Oa. . . Bát
Tiết Giản sống không
chừng mực. Đây là đất nước mà Sử Bật đi tới khi đi đánh Qua Oa (=
Trảo Oa), khi ông vượt qua lối vào kênh Nhung Nha Lộ”. - Tân Nguyên sử, q. 253, tr.11, r.
[1] Ma Nhạ Ba Hiết (Ma-je-pa-hie)
- Không có chỗ nào trong sách chỉ ra rằng thành này là thủ đô của Trảo Oa;
Thành này có thể là vương phủ Đỗ Mã
Ban (xem dưới đây, chú thích 11, trên sông Bát Tiết
Giản (Bát Giang), bởi vì dân gốc Côn Lôn 崑崙, luôn
chọn trung tâm của họ ở phía trên cùng của thung lũng. Điều đó cho phép
nghĩ rằng Võ Đắt (Voduoc) là Ma Nhạ
Ba Hiết bởi vì
từ chỗ này sông La Ngà rẻ ra một nhánh trái dẫn đến Gia Lao (đỉnh 803), để
sử dụng nhánh sông này, đội tàu Trung Quốc phải dùng bè 浮梁 (phù lương); có lẽ theo cách này để vượt
qua đường phân thuỷ, nếu 'Gia'
trong Gia Lao là một hia'峽 (hạp:
dòng nước hẹp) mở ra cho việc đi lại bên trong.
[1] Đỗ Mã Ban 杜馬班được Amiot nêu ra, Mem. concernant les Chinois (Kí ức về người Trung Quốc), t. XIV, p. 109, như
là danh hiệu của vua Qua Oa phía Tây; nên ở đây phải là danh hiệu của vua
Trảo Oa; vua phía Đông là danh hiệu của vua Cát Lang sắp được nói tới.
[1] Bồ Bôn 莆奔, có lẽ chỉ là
biến dạng của Bàn Bàn 盤盤, một trong những nước chính của bán
đảo An Nam vào thời nhà Đường. Biển Bồ Bôn chỉ là một phần của đại dương
nằm dođc theo bán đảo giữa mũi Dinh (Padarang) và Vũng Tàu (St Jacques). Người
dân Bồ Bôn rất dũng cảm; đàn ông buíi tóc, còn đàn bà cuộn tròn tóc;
đây là nước mà biển Bồ Bôn lấy tên. -- Tân Nguyên sử, q. 253, p. 11 vo.
[1] HI NINH QUAN 希甯官chắc chắn chỉ là một biệt danh do phía Trung Quốc đưa ra để chỉ vị
quan phụ trách việc phòng thủ; cụm từ này có nghĩa là [ông quan] lặng lẽ chờ, như được giải thích từ câu
chuyện. Ông là người trấn giũ sông Bát Tiết Giản từ Bát Giang đến mũi
Kê Gà, tức là, cổ họng, chìa khóa của Trảo Oa, chính vì vậy thoạt đầu
các hoạt động quân sự chủ yếu vào hướng việc chống lại ông.
[1] Đầu quỷ ở đuôi các chiếc thuyền đối phương là một biểu tượng như chúng vẫn
còn ở gắn trên những chiếc thuyền Trung Hoa ở tỉnh nhà của họ.
[1] Do đó quân
đội Trung Quốc đã lấy được dễ dàng phần lớn nhất của Trảo Oa, chìa khóa
chiến lược; phần còn lại của các chiến dịch sẽ được hướng về việc chống Cát
Lang (= Di Linh) và thung lũng La Ngà sẽ là nơi diễn ra các hoạt động
quân sự.
[1] CÁT LANG phải là một biến dạng
của Ha Lăng 訶陵 (hay Ko-ling ) trong Đường thư; nó tương ứng với đầu phía đông
của lãnh thổ bị nước này chiếm đóng.
[1] CHƯƠNG
CÔ章孤 không thể
tìm thấy ở phía hạ lưu Ma
Nhạ Ba Hiết (Võ Đắt), nhưng không xa về phía thượng lưu, bởi vì đó là khu vực
bị giặc chiếm của La Ngà. Tracu (Atlas A. Pavia. Pl V) đáp ứng tốt
với Chương Cô về mặt vị
trí, cũng có thể cả về mặt phát âm. Như vậy, Trịnh Trấn
Quốc có thể tham gia vào hai trận đánh xảy ra ở phía tây nam và đông nam
của Ma Nhạ Ba Hiết
, các trận mà tiếp sau đó Cao Hưng sẽ tiến thẳng tới tận Phủ/Bô 脯 (= Pat), luôn trên vùng La Ngà.
[1] ĐÁP HÀ 荅哈 có thể nhận ra
đầy đủ ở Tola hiện nay;mục
tiêu này nằm ở phần của vùng La Ngà, nơi mà sông này chảy từ bắc xuống nam,
điều này giải thích vì sao để đến đó, Diệc Hắc Mễ Thất phải theo con đường ở
về phía tây, còn Cao Hưng theo con đường phía đông.
[1] Có khả năng làThổ Hãn Tất Đồ Gia đã trốn lánh về
phía Bát Giang, trung tâm của nước này; từ đó ông ta quấy rối tuỳ thích quân
Nguyên đang lui quân về thuyền của họ vẫn đậu ở vịnh Gành Rái, theo sông La
Ngà và lạch Nhung Nha Lộ.
[1] QUA OA 瓜 哇 - Không có cơ sở để nói rằng Qua
Oa là một dạng phát âm sai của Trảo Oa 爪 哇 , Qua Oa chắc chắn là một
hình thức cứng của Xà Bà 闍婆 được dùng thời nhà Nguyên; nó chỉ xuất hiện
trong sử sách của họ cho đến năm 1282, tháng 7 (q.12, tr. 7), từ đó nó được
thay thế bằng Trảo Oa 爪 哇; được các tác giả nhà Minh
dùng lại, chúng ta có thể xem như nó được người TQ dành riêng để chỉ Nam
Kì, trong khi Trảo Oa chỉ dùng để chỉ Java hiện đại.
[1] Rõ ràng là những người biên tập Nguyên
sử đã không để tâm tới việc đồng nhất Qua Oa với nước Xà Bà (hoặc
Dja-va) 闍婆 xưa: Qua Oa được nhắc đến, được mô tả trong Sử sách của các triều đại xưa,
kể từ triều Tiền Tống (420-479)
đến triều Hậu Tống (960-1279), và khi thì dưới tên Xà Bà 闍婆, khi thì dưới tên Ha Lăng 訶陵 tuỳ thuộc vào việc nước này hay nước kia, là láng
giềng nhưng khác nhau, ưu thế hơn.
[1] Có phải điều
này gợi ý rằng giữa Chiêm Thành và Qua Oa không có nước đáng kể để nêu lên
sao?
[1] Bản gốc ghi 世祖撫有四彞 (thế tổ phủ hữu tứ di [ lưu ý di viết là 彞 (dân thiểu số ở các vùng Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý
Châu (Trung Quốc) chứ không phải夷 trong tứ di (man,
di ,nhung địch)- ND]), từ cuối cùng trong đó phải là táng
葬 vì cụm từ ‘tứ táng’ 四葬 quen dùng để chỉ 4 cách táng người chết được thực hiện ở Đông Dương
trước đây, cụ thể là: 1) dìm trong nước (thuỷ táng); 2) đốt (hoả táng);
3) chôn trong đất (địa táng); 4) bỏ ngoài trời (điểu táng:: 鳥葬). Bốn cách này được nêu trong Nam sử 南史 . Sử Phù Nam (xem Chí Nguyên , q. 丑 (sửu), tr. 114), và
đã được dùng để chỉ toàn bộ Đông Dương.
[1] Biển Thất Châu (Thất Châu
Dương).- ở đây từ này để chỉ phần của biển Đông bao gồm giữa Đông Nam Quảng
Đông và An Nam [Trung Kì] hơn là vịnh Bắc Bộ; nó không có nguồn gốc tử Thất Châu 七洲 , từ lâu hợp thành Giao Chỉ (hay Bắc Kì). Atlas de Géographie historique, "Li-tai yu-di ..." (Lịch đại dư địa đồ....) (AD.
1879), bản đồ các nước ngoài dưới triều Nguyên đặt biển này trong vịnh
Bắc Bộ và cho biết thêm rằng nó còn được gọi là "biển Cửu Châu"
九洲 洋
(Cửu Châu Dương). Theo " Chí Nguyên",
p. 18, là biển phía đông nam của huyện Van萬縣 [Hải Nam] mà tất cả những ai đi đến vùng biển phía Nam đều phải vượt qua. Trong
phần đông bắc của nó, có các rạn san hô Trường
Sa 長沙, Thạch Đường 石塘, và nhiêù rạn san hô khác nữa mà tàu thuyền nêncẩn thận tránh xa.
Người ta nói rằng trong biển này, có chim hoa tiêu箭鳥 (tiễn điểu)i, thấy người
đến chúng lập tức bay đến và dẫn đường cho họ.
Theo đó thì đội
tàu Trung Quốc không vượt qua eo biển Hải Nam mà đi dọc theo bờ biển phía Tây
của đảo này đến chóp phía Nam của nó; từ đó sẽ đi về phía biên giới Giao
Chỉ và Chiêm Thành (nay là Quảng Nam), khoảng cách mà khi thuận gió có
thể vượt qua trong một ngày ( Tân Nguyên sử , tr. 453, p. ar ").
Đó là tuyến đường luôn phải đi theo, điều y như vậy đã được Giả [Cổ]
Đam 賈耽chỉ ra từ thế kỷ VII, khi ông tính ba ngày đi từ đá tượng 象石 (Tượng thạch), Đông Nam đảo Hải-nan đến núi Tchan-pou-lan, tức Cù Lao Chàm. --- Cf P. Pelliot B.E.F.E. O. 1904, tr. 216. [những tảng đá có dạng tượng 象石 dường như rất tương ứng với các tượng trên bờ biển Poix mà không thể không
vượt qua, theo nhà địa lý Ả Rập. Dimaski chỉ ra, ba tượng "tạc trong đá,với khuôn
mặt đáng sợ ..." Xem G. Ferrand, Texte ... tr. 371.]
[1] Chúng tôi không biết các từ 'Đông Đổng’ và 'Tây Đổng'
chỉ cái gì, nhưng sẽ không ngạc nhiên khi chúng tương ứng với hai đỉnh
Trúc 東西竺 (Đông Tây
Trúc = đỉnh thứ nhất, Mẹ và con; đỉnh thứ 2, Salacco), được Phí Tín và
Minh sử nói đến [xem phiên bản của chúng tôi về "Livre de M. Polo, t.
III, tr. 158, n° 2]. [Ghi chú
trong bài chính là dựa theo việc tổng hợp tài liêu của nhà nghiên
cứu Phạm Hoàng Quân – ND].
HỔN ĐỒN ở
đây, chúng tôi tin rằng chỉ là sự biến dang của 'Côn Lôn' 崑崙, tên thường dùng cho biển Đông, đi từ phía tây nam của mũi Dinh (Padarang),
và cũng có thể có dãy Trường Sơn ở phần phía nam, tên lấy từ dân 'Côn Lôn' sống trên bán đảo này.
[1] Điều làm cho chúng tôi nghĩ Phan
Rí là Giả Lí Mã Đáp trước hết là phần Rí trong Phan Rí vốn có thể phiên âm giống
như vậy cho từ bản địa Giả-li 假里,
phần khác thuộc địa phương Ma dai' (=
Ma-ta [Mã Đáp]) ở phía thượng lưu sông Bình Thuận.
Phan Thiết được
biện minh bởi sự cần thiết phải chuyển núi Cấu Lan ra ngoài và bên dưới mũi Kê Gà, vốn
dưới sự giám sát trực tiếp của Qua Oa.
Theo Edrisi (AD 1154), ‘kế bên đảo Djàwaga
[hoặc là Qua Oa, hay đúng hơn là Chiêm Thành], chúng tôi tìm thấy một tên đảo
khác tên là Karimada [= Jiǎ lǐ mǎ dá (Giả Lí Mã Đáp) theo Nguyên sử],
mà cư dân có da đen [họ thuộc về chủng ‘Côn Lôn’, và từ này trong tiếng Trung
Quốc có nghĩa là 'người da đen', 'thuộc về hắc chủng'. – Chí Nguyên, q. 寅 (dần), tr. 145, § 4]. Họ
được gọi là Narhin (ghi chú đưa ra biến thể là"Bumin" , đó có vẻ là phiên âm của 'Bồ dân’ 蒲民 , tức là ‘người dân Bồ’. (= người Côn Lôn). Họ mặc áo có tên là
"Azar" và khố. Đây là một bộ lạc táo bạo và dũng cảm và đi luôn
luôn mang vũ khí theo. Đôi khi họ xuống thuyền và đi tấn công các tàu
buôn và cướp hàng hoá trên tàu. Họ chỉ cho đồng bào của họ vào nhà, và
không sợ kẻ thù "-.. G. Ferrand, 1 c, tr 176.
[1] Đoạn tương tự
được chỉnh lại rõ ràng hơn là trong Cựu Nguyên sử, vide supra (xem bên
trên.)
[1] Cách diễn giải này bị bác bỏ vì nó ngụ ý rằng Ma Nhạ Ba Hiết là đích đến, rằng
sông Bát Tiết Giản chính là sông La Ngà. Cựu Nguyên sử không nói về cầu
nổi 浮橋 (phù kiều) mà chỉ nói về chỉ bè 浮梁 (phù lương), được dùng ở thượng nguồn của Ma Nhạ Ba Hiết [Võ Đắt] để đến Bát
Tiết Giản [Bát Giang].
[1] G. Pauthier, 1. c., tr. 560, chú thích.
[1] Để có con
số 4 790 dặm, chỉ cần cộng thêm vào tổng số 1 790 đề cập ở trên, tr.
2, khoảng cách 1 500 dặm giữa Tuyền Châu và Champa, cùng khoảng cách 1 500
dặm từ Champa đến Java lớn. Đối với mức tương đương mà chúng tôi đề xuất
là 100 dặm một ngày đi thuyền, nó được dựa trên thực tế là xưa kia khoảng cách
bằng đường biển được tính theo số theo số ngày đi, chu vi cac đảo cũng
tính tương tự như vậy; những khoảng cách này thường hay bị nói vống lên,
và không bao giờ được thực hiện cho khoảng cách địa lí.
[1] G. Gerini 1.
c, tr. 714-720.
[1] Amiot, 1. c, XIV, tr, 101. -. Trong những chuyến hành
hương Phật giáo thế kỉ VIII, khoảng cách giữa Trung Quốc (Quảng Châu) và nước Phật
Thệ 佛逝vốn là láng
giềng phía tây nam của Qua Oa, lúc đó được gọi là Ha Lăng 訶陵 hoặc Đồ/Xà Bà 闍婆, vẫn gần như luôn
là một tháng.
[1] W W. Rockhill: Thông báo 1915, tr. 242.
[1] Cùng tác giả, TP 1915, tr. 261 --Theo
P Pelliot, 1. c. 1904, tr. 462, Núi Linh không xa bờ biển An Nam, bên trên mũi
Đại Lãnh (Varella). Từ điểm này đi thuyền về phía nam trong 10 ngàythì không thể tới quá mũi Vũng Tàu (St.
Jacques). Nếu, gần như giữa các giới hạn tương tự, Giả Đam chỉ tính có 4 ngày
rưỡi thì đó là, do chính ông không thực sự đi và thường xuyên đưa ra các
khoảng cách ngắn. Chu Đại Quan, đi từ Champa tới mũi Dinh (Padarang), ghi là 15 ngày; núi Linh nằm
ở khoảng 3/4 khoảng đường này, do đó sau khi đi qua núi này, vẫn phải cần
4 ngày nữa mới tới mũi Dinh. Thêm 6 sáu ngày nữa không thể đi tới mũi
Vũng Tàu; M. Polo, đi từ Phan Thiết hoặc chỗ lân cận đó (= Java lớn) trong
7 ngày thì tới đảo Côn Sơn (Poulo Condor).
[1] Theo L. de Rosny, Les
peuples orient...(Các dân tộc phương
Đông ...), tr. 142, "những nỗ
lực đầu tiên đưa kinh Coran vào Java hiện nay lại chỉ có từ năm 1391 AD". P. Amiot không nói rằng
việc cải đạo của những tín đồ Hồi giáo Trung Quốc có từ giai đoạn nhà
Đường, nhưng việc này được hiểu ngầm, trong mọi trường hợp việc cải
đạo của họ hiển nhiên xảy ra trước cuối thế kỉ XIV; do đó không ở Java
hiện đại. Edrisi (1154 AD) giải toả cho chúng ta ở điểm này: "Người ta
nói rằng khi tình hình Trung Quốc đang gặp rắc rối bởi cuộc nổi loạn (dưới
triều nhà Đường) và nền chuyên chế và quân nổi loạn đã trở thành quá mức
ở Ấn Độ, những cư dânTrung Quốc chuyển việc buôn bán của họ tới Djàwaga
và các đảo phụ thuộc đảo này (= bán đảo An Nam), đi vào quan hệ và trở nên
quen thuộc với người dân của chúng vì vốn liếng, các tiện nghi về cách cư xử
của họ và sự thoải mái trong giao dịch. Đó là lí do tại sao hòn đảo này
rất đông người, và rất được người nước ngoài lui tới. " - G Ferrand, tr.
175..
[36 G. Schlegel, TP 1901, tr.
375-76 và ghi chú 247.
No comments:
Post a Comment