Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?
Huyền thoại lịch
sử, chiến lược quốc phòng và lợi ích kinh tế, tất cả đều có vai trò
Nikkei
Asian Review 29 tháng 3 năm 2017
Bill Hayton
(Bản dịch đã đăng trên anhbasam ngày 31/03/2017)
Câu hỏi Trung Quốc
thực sự muốn gì ở biển Đông ít được nghiên cứu một cách đáng ngạc nhiên ở phương
Tây. Có quá nhiều nhà phân tích quốc tế dường như bằng lòng khi đưa ra các giả
định về động cơ chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc mà không đối chiếu
các tuyên bố hay tài liệu của Trung Quốc.
Mối quan tâm của
các chiến lược gia Mĩ, đặc biệt về tự do đi lại, an toàn của các đồng minh và
duy trì một trật tự dựa trên luật pháp chi phối hầu hết các bài viết/sách
vở tiếng Anh về tranh chấp. Họ rất thường chiếu cùng những động lực đó lên
“thứ khác” và diễn giải các hành động của Trung Quốc trên cơ sở đó
Một số tài liệu
chính thức của Trung Quốc có thể đọc được, vẽ ra một hình ảnh khác biệt. Sách
trắng của Trung Quốc về chiến lược quân sự công bố tháng 5 năm 2015 xác định
các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc là “chủ nghĩa bá quyền, chính trị quyền
lực và chủ nghĩa can thiệp mới”, và nêu rằng ưu tiên hàng đầu của quân đội
là “bảo vệ sự thống nhất quốc gia [của Trung Quốc], toàn vẹn lãnh thổ và lợi
ích của sự phát triển.”
Trong khi các nhà
phân tích Mĩ tập trung vào quyền truy cập biển Đông như là một phần của “khu
vực dùng chung của toàn cầu”, Trung Quốc tập trung vào việc bảo vệ biển Đông
như là một phần của lãnh thổ vốn có của Trung Quốc. Nghiên cứu của tôi dấy
lên mối nghi ngờ nghiêm trọng về các kể lể lịch sử này nhưng các nhà phân
tích phương Tây cần nghiêm túc nhiều hơn nữa nếu họ muốn hiểu những gì đang thúc
đẩy các tranh chấp ở đó.
Mặc dù tiến trình
chính trị mờ đục của Trung Quốc gây khó khăn cho việc đánh giá cách lãnh đạo
của quốc gia “thật sự” coi biển Đông như thế nào, các văn bản và các tuyên
bố chính thức chắc chắn cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Như Ryan Martinson
của trường Naval War College Mĩ nhận xét, hồi tháng 6 năm 2014 Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định rằng Trung Quốc phải đặt ưu tiên cao nhất
vào việc xây dựng “một bức tường bất khả xâm phạm đối với việc bảo vệ biên giới
và đại dương.”
Michael Swaine của
Quỹ Carnegie vì Hòa bình quốc tế đã lưu ý rằng Tập Cận Bình đã nhiều lần tập
trung vào “sự cần thiết phải duy trì vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc,
các quyền và lợi ích trên biển và đoàn kết dân tộc, và xử lí đúng đắn các
tranh chấp lãnh thổ và hải đảo.”
Danh sách của đô đốc
Năm 2004 hồi kí
của mình, Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), được xem như là cha đẻ của hải
quân Trung Quốc hiện đại, đã liệt kê 6 mục tiêu về biển trong chiến lược của
ông về “phòng thủ tích cực vùng biển gần”, bao gồm việc tái thống nhất
Đài Loan với đại lục; lấy lại lãnh thổ biển bị mất và có tranh chấp; bảo vệ
tài nguyên biển quốc gia; bảo đảm các tuyến đường liên lạc chiến lược của
Trung Quốc; ngăn cản hoặc đánh bại bất kì cuộc tấn công bằng đường biển nào của
nước ngoài; và xây dựng rào cản hạt nhân chiến lược đủ tầm.
Điều có vẻ có ý
nghĩa nhất là ba mục tiêu đầu liên quan đến việc “lấy lại” lãnh thổ và kiểm
soát tài nguyên biển quốc gia. Đây là bằng chứng cho sự ám ảnh lâu dài của
lãnh đạo Trung Quốc với việc làm chấm dứt mối “quốc sỉ” của đất nước.
Mặc dù vậy, phân
tích quốc tế về các hành động của Trung Quốc tại biển Đông đã chú trọng quá
nhiều vào ba mục tiêu sau - các chủ đề cổ điển của các nghiên cứu hải quân truyền
thống và quan hệ quốc tế - nhưng không đúng mức cho ba mục tiêu đầu. Những
phân tích như vậy không hiểu được những động cơ chính thúc đẩy chính sách của
Trung Quốc.
Hành động của
Trung Quốc được dựa vào cảm nhận về quyền nước này được làm chủ (sense
of national entitlement) đối với các đảo, các rạn san hô và vùng biển của biển
Đông dựa trên các tài liệu lịch sử khu vực theo chủ nghĩa dân tộc. Cảm nhận
về quyền được làm chủ này có thể dẫn Trung Quốc tới việc thực hiện các động
thái quyết đoán hơn trong khu vực trong những năm tới - việc sáp nhập mỗi lần
một ít các khu vực chiến lược và có nhiều tài nguyên-- sẽ dẫn tới đối đầu nhiều
nữa.
Những cân nhắc
chiến lược rõ ràng là rất quan trọng đối với Trung Quốc. Đối với một nước phụ
thuộc vào thương mại, việc tiếp cận đại dương mở thông qua biển Đông là vấn đề có
tính sống còn của quốc gia. Nhìn qua ống kính này, có thể dễ dàng lập luận rằng
việc xây dựng đảo của Trung Quốc là một phản ứng phòng thủ trước một chiến lược
chiến tranh có thể có trong tương lai của quân đội Mĩ ngăn chận con đường thương
mại trên biển.
Trung Quốc đã là
nước chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm từ năm 2007, và năm 2013 Trung Quốc đã
vượt Mĩ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Ngoại thương chiếm
khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc, tuy nhiên nước này
không có đường ra biển không bị cản trở.
Một yếu tố thứ
hai cho chương trình “phòng vệ” này là tăng cường chiến lược “chống truy cập / từ
chối khu vực” đối với các nỗ lực của Hoa Kì trong việc hậu thuẫn Đài Loan
trong trường hợp có xung đột. Các căn cứ trên đảo mới của Trung Quốc gia tăng lớn
lao việc giám sát qua các hệ thống cảnh báo sớm của Trung Quốc, tạo điều kiện
dễ dàng theo dõi các mục tiêu tiềm năng hơn và cung cấp những khu trú ẩn phân
tán cho tàu chiến và máy bay.
Yếu tố thứ ba là
Trung Quốc dự kiến sẽ sử dụng các vùng nước sâu của biển Đông làm căn cứ cho
tàu ngầm tên lửa đạn đạomới lớp Jin [Tấn]. Sẽ rất dễ dàng để Trung Quốc xây dựng
“pháo đài” cho những tàu ngầm này nếu họ có thể kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Việc lắp đặt “các
trại trên không” lớn và tháp radar trên các đảo nhân tạo mới mà Trung Quốc đang
xây dựng cho thấy chúng sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các hoạt động giám sát trên
không, trên biển và dưới mặt biển nhằm tăng cường khả năng bảo vệ tích hợp cho
tàu ngầm bên trong pháo đài. Việc xây dựng đảo của Trung Quốc cũng phản ánh mục
tiêu ngăn chặn không cho các bên yêu sách Đông Nam Á làm bất kì hành động nào
có thể ngăn chặn Trung Quốc khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Người ta đã lập
luận rằng hành động của Trung Quốc ở biển Đông là kết quả của một chiến lược lớn
được cấp cao nhất của chính hệ thống chính trị sau khi Tập Cận Bình trở
thành lãnh đạo của Trung Quốc vào năm 2012 cho phép. Nhưng có rất nhiều dấu hiệu
cho thấy một số quan chức Trung Quốc ủng hộ một chính sách quyết đoán hơn ngay trước
khi Tập Cận Bình nắm quyền.
Điều này dường
như phản ánh sự cạnh tranh giữa nhiều bên, trong đó có lực lượng vũ trang trên
biển, các ngành công nghiệp đánh bắt cá và các công ty năng lượng nhà nước, vốn
được hưởng lợi từ một chính sách biển Đông quyết đoán. Mặc dù những nhóm vận
động này đôi lúc đấu đá lẫn nhau, nhưng sức mạnh của các nhóm lợi ích đó
rất to lớn khi họ bắt tay với nhau. Một điều mà tất cả bọn họ có thể đều đồng
ý là dù vì lí do dân tộc, an ninh, lợi nhuận hay việc làm, Trung Quốc phải tiếp
cận được không gian và các nguồn lực của biển Đông.
Quyền “lịch sử”
Bên dưới các động
cơ “phòng thủ” và quan liêu là một phiên bản lịch sử đặc biệt, sô vanh nước lớn.
Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại, quan điểm chính thức của Trung
Quốc là chỉ có các tàu thuyền Trung Quốc từng sử dụng biển Đông xưa nay và do
đó Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với các vùng biển bên trong đường chữ U. Hồi
tháng 7 năm 2016 Tòa trọng tài quốc tế ở The Hague kết luận rằng không có cơ
sở chính đáng để Trung Quốc khẳng định “quyền lịch sử”, tuy nhiên, lập luận
này tiếp tục là nền tảng cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Trung Quốc và
các nước Đông Nam Á láng giềng.
Nghiên cứu gợi
ra mạnh mẽ rằng yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông đã được phát triển trong nửa đầu thế
kỷ 20 như là một phản ứng chính trị trong nước để chống lại chủ nghĩa đế quốc
Nhật và châu Âu. Nó xuất hiện trong các giai đoạn trong thời kì khủng hoảng
năm 1909, 1933 và Thế chiến II. Sự phát triển của yêu sách đó, một phần, là một hành động
kháng cự có tính biếu tượng và
chính khía cạnh này trong lịch sử của họ vẫn làm cho nó thành một vấn đề đầy cảm xúc hiện nay.
Mĩ và các chính
phủ khác, đã khôn ngoan giữ trung lập về vấn đề lãnh thổ. Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa là họ nên bỏ qua nó. Nếu các nhà phân tích bỏ bớt các yếu tố lãnh thổ và chỉ tập
trung vào các câu hỏi về chiến
lược lớn thì họ sẽ đi tới việc trả lời câu hỏi sai, làm vấn đề biển Đông càng tệ hại hơn. Kết quả cuối cùng, như khu vực đã nhiều lần nhìn
thấy, là tranh chấp. Tranh chấp này không thể giải quyết
được bằng các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc việc phô trương lực lượng hải quân. Nguyên
nhân gốc rễ của cảm nhận về
quyền được làm chủ của
Trung Quốc cần phải được giải quyết.
Chính sách của
Trung Quốc đối với biển Đông phản ánh một cảm xúc bất bình mà những đấu
thủ khác trong các tranh chấp thường không đánh giá cao. Trung Quốc tin rằng họ
đang chỉnh lại cho đúng những sai trái gây ra cho họ trong những thập kỷ
trước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông
là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất”.
Hoang tưởng lịch sử
Bắc Kinh tin rằng
bất kì hành động của một cường quốc nước ngoài cố cản trở việc thống nhất lãnh
thổ quốc gia - dù đó là một cuộc tuần tra hải quân hay một toà trọng tài quốc
tế - phải bị chống lại, bởi vì đó chỉ đơn giản là một màn diễn khác trong một
lịch sử lâu dài về mưu toan của nước ngoài chia cắt tổ quốc Trung Quốc.
Mặc dù những kể
lể lịch sử chính thức của Trung Quốc rõ ràng là có nhiều vấn đề, điều
quan trọng là phải nhận ra rằng ý thức về sự chính đáng mà nó tạo ra cho việc
hoạch định chính sách của Trung Quốc có thể dẫn đến xung đột hơn nữa. Nếu các
nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kì và những nơi khác không nhận ra được sức mạnh
thúc đẩy của những kể lể lịch sử và tính mệnh lệnh về lãnh thổ của
Trung Quốc thì họ sẽ không hiểu được các mục tiêu của Trung Quốc.
Cả ngoại giao lẫn
đối đầu đều sẽ không làm giảm động lực thúc đẩy phía sau các hành động của
Trung Quốc ở biển Đông. Mặc dù việc sử dụng vũ lực có thể cản trở những bước
lấn tới của Trung Quốc, nó cũng sẽ làm tăng cảm giác thất vọng và kích động những
đòi hỏi bên trong Trung Quốc về một phản ứng quyết đoán hơn. Các tranh chấp
chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng
của Trung Quốc - và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các
bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.
Lí do chiến lược
của việc Trung Quốc duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở biển Đông - bảo vệ bờ
biển, các tuyến đường biển và ngăn chặn hạt nhân - sẽ còn bền vững. Nhưng
các lập luận của họ cho việc kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên biển và
quyền điều chỉnh giao thông thì lại dựa trên các kể lể lịch sử lệch lạc
và có thể bị thách thức.
Vì đây là hai vấn
đề có nhiều khả năng gây xung đột, thách thức chúng là đáng giá hơn. Hoàn toàn
có thể giữ trung lập về mặt chính trị đối với vấn đề lãnh thổ, trong khi
vẫn khẳng định rằng các yêu sách của Trung Quốc thiếu những bằng chứng có
thể kiểm chứng được. Tất cả các nước có lợi ích trong việc giải quyết hòa
bình các tranh chấp biển Đông cần phải xem xét lịch sử một cách nghiêm túc hơn
và khẳng định rằng những yêu sách thiếu hậu thuẫn không phải là cơ sở để đối
thoại và giải quyết xung đột.
Đối với khu vực châu
Á và trên thế giới, sự tham gia không thể thiếu của các chuyên gia về Trung
Quốc và các nhà hoạch định chính sách về cơ sở của các kể lể của họ về biển
Đông là bước thiết yếu đầu tiên. Các nhà đối thoại với các quan chức Trung Quốc
phải tự vũ trang mình các bằng chứng đó để thách thức các kể lể lịch sử
không có thật và sẵn sàng sử dụng chúng trong các cuộc thảo luận. Trong 20 năm
qua, tất cả các bằng chứng này đã trở nên tìm thấy dễ dàng. Đã đến lúc sử
dụng chúng.
No comments:
Post a Comment