Lữ Phương
Việc thành lập một đảng chính trị mới đang nói tới ở đây là
một đảng giả định, mang tên “Đảng Dân Chủ Xã hội” do Lê Hiếu Đằng đề xuất. Anh
Đằng là một cán bộ đã 45 tuổi Đảng, hoạt động ở các đô thị miền Nam trong thời
kỳ chiến tranh “chống Mỹ”, sau 1975 từng đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Mặt Trận
Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh suốt một thời gian dài. Đề xuất của anh đã làm dấy
lên trong dư luận trong và ngoài nước một không khí tranh cãi sôi nổi, hào hứng, quyết
liệt ít thấy . Là chỗ quen biết anh Đằng,
sau khi theo dõi những cuộc tranh luận nói trên, tôi xin được góp thêm với công luận mấy ý kiến
sau đây:
***
1. Điều tôi có thể khẳng định đầu tiên là đề xuất ấy chỉ là
ý kiến đột xuất của riêng Lê Hiếu Đằng khi anh đối mặt với căn bệnh ngặt
nghèo mà mình vướng phải, từ đó nẩy ra ý
định nhìn lại cả một đời hoạt động đã qua và đã bày tỏ những dằn vặt cá nhân của
mình về những hoạt động đó trong bài “ Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” .
Khi bài này xuất hiện trên một trang mạng lập tức được anh Hồ Ngọc Nhuận – một
nhà báo cũng là một nhân sĩ ngoài Đảng, thuộc “lực lượng thứ ba” đối lập với chính quyền Sài Gòn trước đây,
sau 1975 đã cùng hoạt động với anh Đằng trong ban lãnh đạo Mặt trận Thành phố Hồ
Chí Minh – lên tiếng tán thưởng bằng một bài viết hết sức nhiệt tình mang tên
“Phá Xiềng”.
Sau bài viết đó của anh Nhuận, đây đó đã phát sinh dư luận
cho rằng việc thành lập một đảng mới đối lập, đương đầu với Đảng Cộng sản đã là
một thực tế đang được xúc tiến và xúc tiến
bởi một nhóm người đang nuôi tham vọng nào đó về chính trị. Nhưng theo
chỗ tôi biết thì trên thực tế chưa hề có một cá nhân nào hoặc một nhóm người
nào đó thực sự có ý định kết tập nhau lại để
bắt tay vào việc hình thành ra cái đảng chính trị này cả. Tất cả chỉ mới
manh nha trong sự gợi ý từ bài viết của anh Đằng và riêng anh Đằng cũng cho biết,
ngay cả khi có điều kiện để hiện thực hoá ý tưởng ấy thì trong tình trạng bệnh
tật không biết đi đến đâu hiện nay, anh cũng không thể nào đứng ra đảm đương được.
Anh Đằng không ngây thơ đến nỗi không hiểu
tính chất đầy khó khăn và phức tạp của một dự án chính trị như vậy.
2. Qua việc tiếp xúc trực tiếp với anh và những văn bản mà
anh đã công bố, tôi có thể khẳng định
thêm rằng khi gợi ra vấn đề “đa đảng” nói trên, anh Đằng không hề đề ra mục
tiêu lật đổ hay thay thế Đảng cộng sản đang lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt
Nam. Động lực thực sự của anh là muốn đưa ra một giải pháp thiết thực, góp phần
dân chủ hoá đời sống chính trị của đất nước, từ đó cùng góp sức với Đảng cộng sản,
tìm kiếm những giải pháp phù hợp thực tế
để mau chóng đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Suy nghĩ này
của anh thật ra không có gì mới mẻ vì đã được nhiều nhân vật hoạt động và một số
nhà nghiên cứu (kể cả những người trong Đảng) nói tới từ lâu, quan trọng nhất là chỉ ra được nguyên nhân mọi
sai lầm lặp đi lặp lại của Đảng cộng sản cầm quyền: đó là việc Đảng đã coi cái
ý thức hệ Mác-Lênin của riêng mình như chân lý duy nhất đúng, ép buộc toàn xã hội phải thừa nhận, căn cứ vào đó thiết lập quyền
độc tôn lãnh đạo, không màng đến phản ứng của cuộc sống thực tiễn, nguyện vọng
của đông đảo nhân dân.
Tất cả mọi sự phản biện dai dẳng đưa đến những đề xuất tìm kiếm một giải pháp điều chỉnh lại hướng
đi cho đất nước cũng xuất phát từ đó: trong thời kỳ mới này, Việt Nam cần phải
chuyển mình sang thể chế dân chủ để hình
thành một tập hợp dân tộc đồng thuận, trong và ngoài nước, dựa trên đó
cùng nhau tìm ra những giải pháp thoát khỏi được sự bế tắc bấy lâu nay. Trong ý
hướng dân chủ hoá đời sống chính trị đó, vấn đề kiểm soát quyền lực – cụ thể là
không để nhà nước dùng sự độc tôn quyền lực triệt tiêu sự sống độc lập của
xã hội công dân, kết quả là biến sự độc tôn đó thành chỗ dựa cho các tập đoàn lợi
ích cấu kết với nhau để thao túng nhà nước – đã được đặt ra ngày càng gay gắt,
dưới nhiều hình thức, từ việc lên tiếng của những cá nhân đến những kiến nghị tập
thể mở rộng cho nhiều người tham gia.
3. Vấn đề “đa đảng” mà Lê Hiếu Đằng nêu ra chỉ nhắc lại những
suy nghĩ chung nẩy sinh từ quá trình thảo luận tìm kiếm con đường dân chủ hoá
cho Việt Nam, diễn ra cả hơn hai thập kỷ đã qua. Và không phải chỉ như vậy vì
có lúc các ý tưởng ấy đã thể hiện trong thực tế, cụ thể qua sự xuất hiện công
khai một số đảng chính trị mà thách thức rất đáng chú ý là việc ông Hoàng Minh
Chính một cựu đảng viên đứng ra “phục hồi” một đảng ra đời vào thời kỳ cách mạng
1945 mệnh danh là Đảng Dân Chủ. Gọi là “phục hồi” một đảng cũ (thực chất là do
Đảng Cộng sản chủ động lập ra) nhưng trong khi đó ông Chính lại dời vị trí nội
địa của nó ra hải ngoại để một số nhân vật bên ngoài chi phối, vì thế nỗ lực của
ông đã không giữ được tính chính danh cần phải có để có thể hoạt động, nhất là
không đủ thực lực để vượt qua được sự trấn áp của Đảng cộng sản.
Đảng chính trị mang tên “Dân chủ Xã hội” do Lê Hiếu Đằng đề xuất đã đi theo một hướng
hoàn toàn khác: là kết quả của cuộc vận động trong nước nhưng không ra đời một
cách tự phát từ cuộc sống xã hội mà lại bắt nguồn từ nội bộ Đảng cộng sản, cụ
thể từ sáng kiến của những đảng viên bất đồng, xin ra khỏi Đảng với một số lượng
tương đối nào đó để có thể khởi xướng và thành lập. Thực chất của cái thực thể chính trị được Lê
Hiếu Đằng đề xuất đã bộc lộ rõ trong điều kiện giả định đó: Đảng Dân chủ Xã hội
sẽ không thể nào trở thành hiện thực nếu chưa có đủ số đảng viên cộng sản ly
khai cần thiết. Vì thế sẽ là tất nhiên khi thấy anh Đằng chưa nói gì đến cương
lĩnh, tổ chức, điều lệ của đảng, và cũng là tất nhiên nữa khi chúng ta chưa thấy
có dấu hiệu nào cho biết đã có một sự chuẩn bị tối thiểu để làm việc đó. Câu hỏi
về sự chín muồi hay chưa của tình hình để sự đề xuất này có thể đi vào thực tế
thiết tưởng cũng không có ý nghĩa bao nhiêu.
Vì thế, muốn nhìn ra cho rõ hình hài của cái thực thể chính
trị mới này tôi thấy không dễ. Tuy vậy nếu cố gắng đi sâu vào những gì Lê Hiếu Đằng gợi ra qua
các bài viết của anh, chúng ta vẫn có thể hình dung ra được đôi nét rất khái
quát của nó. Khác hẳn về phương pháp hoạt động với Đảng cộng sản, đó là điều rõ
ràng nhất: nếu một bên là chuyên chính, dựa vào đường lối từ bên trên để “cải tạo” bên dưới, buộc bên
dưới phải vâng phục (cộng sản) thì một bên sẽ là dựa vào bên dưới – Lê Hiếu Đằng
nói đến nhiều lần cái “xã hội dân sự” đang lớn mạnh – để hoạt động, lấy nguyện vọng của bên dưới
hình thành đường lối, căn cứ vào đó tạo ra áp lực tác động lên trên, buộc Đảng
cộng sản phải tiến hành những cải cách căn bản và thiết thực (dân chủ xã hội).
Khác nhau về phương pháp hoạt động nhưng xét về mặt mục
tiêu, hai thực thể chính trị ấy vẫn có thể gặp nhau trên những định hướng lý
thuyết khả dĩ về một mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống: hạn chế sự bóc lột
mù quáng và vô độ của chủ nghĩa tư bản, đề cao quyền sở hữu về sức lao động của
những người công nhân, bảo vệ môi trường tự nhiên, lành mạnh hoá môi trường văn
hoá xã hội …Với những tương đồng giả định đó, nếu ra đời được, Đảng Dân Chủ Xã
hội sẽ đảm nhận một chức năng đặc biệt trong mô hình “lưỡng đảng” kiểu Việt Nam, ở đó Đảng cộng sản vẫn là chủ thể lãnh đạo còn Đảng
Dân chủ Xã hội sẽ giữ vai trò của một lực lượng “đối trọng hợp pháp”, không
hoàn toàn là một thứ đảng bù nhìn vuốt đuôi (như ở Trung quốc) nhưng cũng không
phải là một đảng chống đối nhằm “giải thể” Đảng cộng sản để thay thế như người
ta có thể tưởng tượng ra.
4. Nhìn chung lại, tôi thấy đề xuất thành lập Đảng Dân chủ
Xã hội của Lê Hiếu Đằng đã đặt nền trên mấy nhận định sau đây:
- Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản hiện nay đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc phát triển lành mạnh của đất nước, vì vậy đang đưa dân tộc vào một cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, có nguy cơ để mất chủ quyền vào thế lực bành trướng phương Bắc.
- Tình trạng đó được quy về phương thức lãnh đạo chuyên chính của Đảng cộng sản với một đường lối áp đặt, xa rời thực tế, mất lòng dân, cho nên biện pháp dân chủ hoá sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cấp bách để giải quyết cuộc khủng hoảng nói trên.
- Trong tình thế cực đoan như hiện nay, sự ra đời của một đảng mới gần gũi với Đảng cộng sản về mục tiêu nhưng khác về phương pháp là phương thức tốt nhất, để vừa dân chủ hoá thể chế chính trị ở Việt Nam, vừa tạo ra một môi trường cạnh tranh thúc đẩy Đảng cộng sản tự dân chủ hoá và canh tân.
Qua sự tìm hiểu như trên, giả sử như tiếp cận được gần đúng
suy nghĩ của Lê Hiếu Đằng, nếu bỏ qua một số biểu đạt có tính chất cảm tính vì
những bức xúc đặc biệt của anh, tôi cho rằng những suy nghĩ ấy cần được đón nhận
một cách thiện chí vì bản thân cái phần
cốt lõi trong bài viết của anh đã bắt nguồn từ một thiện chí không thể không
ghi nhận. Những anh em quen biết anh Đằng lâu năm đều nhận thấy anh thuộc loại
đảng viên ít chịu khoan nhượng trước những sai trái, cho nên hoạt động trong một
môi trường phải tận mắt chứng kiến quá nhiều những điều đi ngược lại lý tưởng
ban đầu của anh, nghiêm trọng, dai dẳng đến phi lý, anh không thể không tiếp nối
những người đi trước (như tướng Trần Độ đã mất ), lên tiếng phê phán những sai
trái ấy với tinh thần trách nhiệm cao nhất của một đảng viên mà cũng là của một
công dân. Gọi anh là kẻ “phản bội”, “chuyển hệ” hoặc theo đuôi các “thế lực thù
địch”, xuyên tạc tư tưởng để bôi nhọ
nhân thân của anh v.v… là những quy kết đầy ác ý.
Còn về vấn đề “”đa đảng” mà anh xởi lên, như đã nói ở trên,
thật sự đó vẫn chỉ là một đề xuất giả định, đúng hơn là một khuyến cáo có tính
chất định hướng cho Đảng cộng sản – chứ không phải cho những thực thể chính trị
khác – mà anh vẫn còn là một thành phần, mục đích không có gì khác hơn là thúc
đẩy sự canh tân thể chế, vì lợi ích của dân tộc mà cũng là vì Đảng của anh. Vốn
là một khuyến cáo công khai đề xuất trực
tiếp, nếu không đồng ý với anh thì điều quan trọng nhất để những nhà lãnh đạo Đảng
ứng phó là chỉ đạo những nhà lý luận của mình, dưới hình thức một cuộc đối thoại
cũng công khai, minh bạch trả lời từng điểm một các vấn đề đã được nêu ra, nhân
dịp này thành thật công bố đường lối giải quyết những khó khăn hiện nay của Đảng
(nhất là với chủ nghĩa bành trướng phương Bắc),
không phải chỉ với riêng anh mà với cả đông đảo những người thuộc nhiều thế hệ khác nhau, đã
nghĩ như anh và tạo ra động lực để anh bộc lộ. Không làm như vậy mà lại né
tránh các vấn đề đó, trong khi đó lại cho mở ra chiến dịch công kích anh hết sức
thô bạo – cơ sở lập luận không dựa vào
đâu ngoài những công thức tuyên truyền
xa rời thực tế (như tính chất “khoa học” của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự chọn lựa của Đảng và của nhân dân là một,
cổ vũ đa đảng là làm rối loạn xã hội
v.v…), đương nhiên coi đó như những chân lý quyền uy, không cần thuyết
phục – những nhà lý luận của Đảng đã
không gặt hái được gì ngoài những chống
trả quyết liệt của nhiều xu hướng phản biện khác nhau.
5. Để giữ tính chất nghiêm túc cho đề xuất của Lê Hiếu Đằng,
thiết nghĩ chúng ta cần vượt lên cuộc
tranh cãi ồn ào đang diễn ra để tìm hiểu thêm vấn đề này theo một viễn cảnh chuyển đổi xã hội rộng lớn hơn
mà ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra ngày càng rõ ràng, đặc biệt là những ý hướng
canh tân mạnh mẽ xuất phát từ trong nội bộ Đảng cộng sản. Trong xu thế ấy, việc
đề xuất công khai và trực tiếp của Lê Hiếu Đằng về vấn đề “đa đảng”là một đột biến quan trọng, có khả năng mở ra một
hướng mới cho quá trình đấu tranh trong nội bộ Đảng về sự cần thiết phải có những
chuyển hoá triệt để về lãnh đạo: cuộc đấu tranh dân chủ hoá đời sống chính trị
của đất nước từ nay trở đi sẽ không chỉ giới hạn trong việc “phản biện” trên lời
nói về những chính sách sai lầm của Đảng mà cần tranh đấu tạo ra một định chế
phân tán quyền lực để ngăn chặn những sai lầm ấy một cách có hiệu lực. Việc kiểm
soát quyền lực này không đụng chạm tới cương lĩnh của Đảng cộng sản (đó là chuyện
nội bộ của những người cộng sản) mà chỉ đặt vấn đề thiết lập một định chế mới để
buộc Đảng cộng sản phải tuân thủ những quy định dân chủ về “kiểm soát và cân bằng
quyền lực” khi đem cương lĩnh của mình ra thực hiện.
Trước một xu thế như vậy, sự phản ứng ứng quyết liệt của một
số cán bộ Đảng, quen bám víu (một cách lén lút) vào thứ lý luận giáo điều về
“chuyên chính vô sản”, dứt khoát không chia quyền với bất cứ ai, là hoàn toàn dễ
hiểu. Nhưng nhìn vào lịch sử của phong
trào cộng sản thế giới, người ta nhận thấy quan niệm ấy không phải lúc nào cũng
được áp dụng một cách tuyệt đối, máy móc, nhất là trong những tình thế khó khăn cần linh động
nhân nhượng để đừng mất tất cả (“dĩ nhất biến ứng vạn biến” như Hồ Chí Minh hay
nói): việc Đảng cộng sản Đông Dương, cuối năm 1945 ra thông báo căn cứ vào
“tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước” bấy giờ để tự giải
tán là một thí dụ . Trong những tình hình như vậy, vấn đề “đa đảng” không còn
là một khái niệm thiêng liêng, một nguyên tắc bất dịch mà là một công cụ trong
đấu tranh, cần phải được sử dụng để bảo vệ mục đích theo đuổi của mình. Vấn đề
thành công hay thất bại trong trong việc quyết định này hoàn toàn tuỳ thuộc vào
bản lĩnh của những người có đảm lược sử dụng công cụ đó.
Ngay trong điều kiện đã giành thắng lợi rồi mà muốn bảo vệ
quyền lực một cách lâu bền, công cụ đó vẫn không thể tiên quyết coi như một cấm
kị. Thực tế cho chúng ta biết có khá nhiều hình thức “đa đảng” đã được những đảng
cầm quyền sử dụng có lợi cho mình. Có thể cho phép một loạt đảng “hiệp thương”
tồn tại để làm “kiểng” cho chế độ một đảng
độc tài. Cũng có trường hợp các đảng gọi
là “đối lập trung thành” được luật pháp cho hoạt động công khai nhưng trên thực
tế đã bị đảng cầm quyền khống chế (một cách hợp pháp và cả bất hợp pháp) để duy trì quyền lãnh đạo thống trị của mình.
Cũng có trường hợp công cụ đa đảng được dùng trong thể chế “đa nguyên đa đảng” ở
đó các đảng đối lập, vì một lý do văn hoá, lịch sử nào đó, luôn chiếm vị trí
thiểu số, nhưng cũng có những trường hợp được sử dụng trong thể chế “nhất
nguyên đa đảng”, ở đó chỉ có hai đảng
thay nhau cầm quyền bằng những phương
pháp khác nhau nhưng có cùng mục đích bảo vệ những giá trị chung của một chế độ
cả hai đều chia sẻ. Trước thực tế phức tạp của cuộc đấu tranh quyền lực, việc
tuyệt đối hoá một quan niệm “độc đảng” có nội dung nào đó để duy trì sự độc tôn
quyền lực cho Đảng của mình trong mọi trường hợp là một thái độ không thực tế.
Nhất là lại thuần tuý bằng trấn áp và bạo
lực thì không những không thực tế mà còn nguy hiểm: đảng chính trị đó chỉ tích
tụ những toan tính bạo lực ngược chiều, trước sau gì cũng “quỵ sụm” hoặc bị
đánh đổ bằng con đường bạo lực do mình tạo
ra.
***
Sẽ là một thiếu sót nếu bài này chấm dứt mà không có vài lời
sau đây xin thưa cùng những người quen hay không quen đã bày tỏ thái độ đồng
tình, cổ vũ đề xuất của Lê Hiếu Đằng: a) Đề xuất của anh chỉ là một khuyến cáo với Đảng cộng sản. Tán thành nhưng xem đây chỉ như một sáng kiến
“cải lương”, “thoả hiệp” hoặc “ảo tưởng” cũng không sao, nhưng đừng quên rằng
đây là một hình thức tranh đấu mới nẩy sinh từ bên trong hàng ngũ những người cộng sản trước tình thế mới. b)Thực
chất của đề xuất đó là chuyển hoá thể chế chuyên chính sang dân chủ pháp quyền, ở đó hình đa đảng là một công cụ đấu tranh thực hiện bằng
phương pháp nội tại của những người cộng sản bất đồng. Cần xuất hiện những suy nghĩ khác có nội dung
phù hợp với những bước đi thích hợp hơn. c) Công việc cực kỳ khó khăn, xin đừng
quá bồng bột coi đề xuất này như một thứ phép màu mang đến khả năng chấm dứt
ngay được di sản nặng nề của độc tài, chia rẽ, hận thù do quá khứ để lại. Cũng đừng quên trong chính
trị, vấn đề “đa đảng” chỉ là một công cụ
đấu tranh: viễn cảnh về một xã hội mà công cụ đó cần vượt qua và nhắm tới mới
là mục tiêu quan trọng hơn.
Xong đúng ngày 2-9-2013
L.P
No comments:
Post a Comment