TỔNG NIÊN GIÁM ĐÔNG DƯƠNG 1910
BẾN TRE (II)
ĐỊA LÍ KINH TẾ
Tỉnh có ruộng lúa, vườn cây
và giồng. Trên đồng chỉ trồng lúa bản địa.
Trong các vườn cây, thường
nằm ven bờ hoặc gần nguồn nước, có các loại cây ăn quả như cam, xoài, măng
cụt, mít, mãng cầu xiêm, quế, ổi, bưởi, khớm, cũng như dừa, cau và trầu.
Trên vùng đất giồng có trồng
cây bông vải, dâu tằm, bắp, khoai, cũng như các loại rau đậu và cải.
Các công trình cải thiện
- Khai hoang –Tháo chua
Một số phần của tỉnh có các
chỗ trũng, có diện tích khá lớn, nước bị tù đọng trong đó không có
chỗ thoát ra. Do vậy, đất không được nước rửa mặn nên giữ lại một lượng
rất lớn muối, được gọi là phèn, và không thích hợp cho việc trồng trọt.
Nhiều kinh đã được đào
trong một số những khu vực này cho phép nước chảy tháo chua đất và khai
hoang đất đai.
Chẳng hạn kinh từ Ba Tri tới
Đồng Xuân, kinh Cái Bông, kinh Bình Khương.
Những kinh đó là quan
trọng nhất. Có nhiều kinh khác được các làng xã đào theo cùng một mục đích mà
tầm quan trọng của chúng chỉ ở mức địa phương.
Cây trồng. -
Gỗ theo chế độ rừng
Tỉnh chỉ có ít rừng. Các
khu vực rừng nằm ở phía nam hai cù lao Bến Tre và Mỏ Cày, trong các vùng
đất bị nước lợ lấn vào, không thể trồng lúa ở đó. Chúng chỉ bao gồm các
loại cây có thể được sử dụng làm củi. Các cánh rừng này đã được thiết lập thành
khu bảo tồn và được khai thác theo lô mỗi năm để tránh chúng bị những người
buôn gỗ chỉ thực hiện việc đốn củi khiến gỗ bi phá hết nhanh chóng.
Trên cù lao Ben Tre, các
khu bảo tồn rừng nằm ở làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị. Ở đó có mấm, su,
già, vẹt giá, cóc và bần.
Trên cù lao Mỏ Cày có
nhiều khu bảo tồn rừng hơn nằm trên các làng Giao Thạnh, Thạnh Phong và
An Nhơn thuộc tổng Mmh Trị. Thấy có các loại cây như mấm, cóc, già,
bần, vẹt, đước, v.v.
Các khu bảo tồn rừng của
các tổng này bao phủ một diện tích khoảng 3 500 ha.
Trong tỉnh, lùm bụi trải
rộng trên diện tích 7 343 ha, và vẫn còn các vùng đất hoang sơ hoặc đầm
lầy chiếm gần 30 000 ha.
Loại cây rừng -
Cây ăn trái - Việc trồng trọt
Cũng có các loại cây
rừng nhưng với số lượng nhỏ như: mù u, có gỗ cứng được trồng khá thường trong các
vườn cây dùng để làm cột; giá, dương, dầu, sao, cay-cui, gỗ cứng giống như mù u; bời lời
khá hiếm, được sử dụng làm kèo, xuyên,trính và ván; bàn và bàn gai.
Cây ăn quả có: măng cụt, thấy
có nhiều ở phía bắc của cù lao Mỏ Cày, cũng thấy có chút ít ở các
nơi khác nhưng được trồng với số lượng nhỏ; xoài, ổi, mận, mảng cầu, mít,
lựu, táo tàu, hồng, chà là, vải thiều, cam, quýt, chanh, bưởi, đu đủ, khế.
Cuối cùng là chuối đủ
loại; dừa, cau.
Thực vật
Ngoài những cây được nêu ở
trên, chúng ta có thể vẫn chỉ ra trong hệ thực vật có các cây dôm (fayottier),
sả, bạc hà, gòn, tre đủ loại, dâu tằm, xương rồng, hồng có hoa rực rỡ giả
và thật, gai dầu, trôm, cao su, lài, dâm bụt, loa kèn, corilopsis (keo?), sứ,
súng, v.v.
Gia súc -. Các
loài - Chăn nuôi
Những gia súc chính là
trâu, dùng để cày ruộng; bò, ngựa.
Một số dê và cừu được một
số chủ đất giàu có trong tỉnh nuôi.
Hầu như mọi người bản địa đều
nuôi heo thuộc giống An Nam và gà vịt.
Thú rừng - Săn bắn – Chài lưới
Có cọp, heo rừng, khỉ,
hươu nhiều loại, rái cá, chồn, chuột cống, chuột xạ, chuột nhắt, chuột
đồng, vv
Tất cả các loài chim nước
và chim ở bưng, bồ nông, vịt, mòng két, gà nước, bìm bịp, dẽ, diệc, sếu, cò, le le, vv...
Việc đánh cá được thực
hiện trên các sông rạch chạy dọc ngang khắp tỉnh, cũng như trong các ao
hồ tự nhiên và nhân tạo. Các loài cá tôm đánh bắt được cùng loại như ở
các tỉnh khác.
Một số ngư dân đi đánh cá
ngoài biển bắt được cá nhám gai, hải cẩu, cá mập và các loài sinh vật
biển khác. Cũng bắt được cá chày trên sông vào những lúc nó vào đẻ trứngt.
Mỏ và mỏ đá
Không có trong tỉnh.
CÔNG NGHIỆP
4 xưởng cưa, trong tay
người Hoa.
Ba tri trên cù lao Bến
Tre và Mỏ Cày trên cù lao kia, là hai trung tâm sản xuất tơ lụa.
Các con giồng xung quanh
hai trung tâm này trồng dâu tằm bản địa hoặc được nói là của Trung Quốc mà
lá dâu được sử dụng để nuôi tằm với số lượng nhỏ trong cư dân.
Tơ sản xuất ra, khá bình
thường, một phần được sử dụng tại chỗ làm thành các tấm lụa bán từ 5 đến 7
đồng. Nhưng phần lớn số tơ này được người Hoa mua dưới dạng sợi rồi tập
trung về Chợ Lớn.
Người dân làng Bảo Thạnh, ven
biển, trên cù lao Bến Tre sinh sống bằng việc đi mò trai lấy ngọc trai
bán với người Hoa; những viên ngọc trai này, rất nhỏ, ít lóng lánh và bất
thường, không có giá trị nhiều. Chúng được người Hoa sử dụng làm đồ trang sức
và làm một vị thuốc trị bệnh trong toa thuốc bản địa.
Hoạt động buôn bán chung
của tỉnh là buôn bán lúa gạo, chủ yếu nằm trong tay người Hoa và được thực
hiện ở các chợ Bến Tre, Ba Tri, Mỏ Cày, Ba Vát, Thom và Giồng Luông.
Tại Bảo Thạnh và Đông Xuân, hai làng thuộc
tổng Bảo Trị và Bảo Thuận, có buôn bán ngọc trai.
Tại Ba Tri và Mỏ Cày, tơ
sợi và lụa sản xuất trong các vùng quanh đó được tập trung về hai
trung tâm này.
CÔNG CHỨC, THƯƠNG NHÂN,
CÔNG NGHIỆP
HÀNH CHÍNH
Daroussin, quản trị viên (administrateur) bậc
3, tỉnh trưởng.
Eudel, Trợ lý quản trị
viên (administrateur adjoint).
Maureau, quản trị viên bậc
5. dân sự vụ, kế toán.
Bonneau, thư kí (commis) bậc 2,
Nguyễn Trung Thu, đốc phủ
sứ Ba Tri.
Bùi Thế Xương, tri
phủ bậc
1, phụ trách Mỏ Cày.
Cao Văn Ngưu,
tri
phủ bậc
2.
Bùi Duy Quân, tri
phủ bậc
2.
Phạm Đại Độ, tri
huyện
bậc 2.
HỘI ĐỒNG THUỘC ĐỊA: Diệp
Văn Cương.
HỘI ĐỒNG TỈNH: Lê Văn Phương;
Lê Sanh Do; Trần Văn Ngo, Đỗ Ngọc Tôn; Phạm Văn Can; Phạm Duy Ngọc; Đặng Ngọc
Lan; Mai Văn Nhiên; Nguyễn Văn Du; Huỳnh Trần Thăng; Trần Văn Ky; Trần Văn An;
Nguyễn Hiền Vi; Lư Duy Hinh; Bùi Quan Đại; Nguyễn Văn Hớn; Nguyễn Duy Hưng ;
Ngô Văn Cày; Nguyễn Văn Hon; Triệu Văn Huân; Tống Phú Nhan; Lê Quan Hóa,
HẢI QUAN VÀ THUẾ VỤ:
Blay, 2 kiểm soát viên
(contrôleur) bậc 2; Chardigny, nhân viên bậc 4; Pierlovisi, nhân viên bậc 1;
Marcantelli, nhân viên bậc 4; Célicourt, nhân viên bậc 3, trưởng hảng ruợu
Thái Xương; Collet, nhân viên bậc 3, trưởng chi nhánh Ba Tri, Pouillac, nhân viên
bậc 3, trưởng chi nhánh
Mỏ Cày.
GIÁO DỤC CÔNG LẬP: E.
Maclec, giám đốc trường tỉnh Bến Tre.
TƯ PHÁP
TOÀ SƠ THẨM : Sasias, Chánh
án: Habert, Công tố viên Cộng Hoà, đang nghỉ phép; Breffauf, phó thẩm
phán, quyền công tố viên Cộng hòa; E. Persuis, lục sự (thư kí toà);
Granier và Casinier, nhân viên lục sự.
NGÂN KHỐ: Cugnol, Chánh thư
ký(commis principal) bậc 1, phát ngân viên.
BƯU ĐIỆN: Nguyễn Văn Bảy,
trưởng trạm (receveur); Khổng Hữu Hiền, điện tín viên (télégraphiste) tại Mỏ Cày; Nguyễn Văn Chấn,
điện tín viên tại Ba Tri; Nguyễn Văn Lưu, điện tín viên ở Thạnh phú; Lê Quan
Kiên và Võ Văn Chưu, điện tín viên.
CẢNH SÁT: Khổng Hữu Ninh,
cảnh sát trưởng bậc 2; Huỳnh Văn Luân và Trần Văn Thanh, đột trưởng bậc
2.
HIẾN BINH (CÔNG AN):
Cahioni, hiến binh (gendarme), quyền ủy viên cảnh sát.
CÔNG CHÁNH: Godard, thư kí bậc 1, lục lộ.
CHĂM SÓC Y TẾ : Bác sĩ
Brian, 4 sơ châu Âu.
ĐỊA CHÁNH: Leymarie và
Serra, điều tra viên; Vittori và Frassefo, sinh viên đo đạc.
Thương mại và Công nghiệp
TÍN NGƯỠNG: Danvy, giáo
sĩ tông đồ tại Bến Tre
LÒ GẠCH: Trần Tân; lò
gạch của phái bộ truyền giáo nước ngoài.
TIỆM GẠO: Lạc Sanh, Đặng
Hiệp Hưng Và Nhuận Sanh Xương.
TIỆM GIA VỊ: Nguyễn Văn Nên
tự Niên Thanh Kí và Nam Hưng.
TIỆM BÁN SĨ: Quảng Phát
Lợi, Lục Châu, Du Kiếm, Diệp Anh, Lý Kiếm, Trương Thái, Diệp Thái, Đặng Xí, Lâm
Trân, Huỳnh Chiêu, Trần Thiện, Trần Cẩm, Đặng Châu Cường, Mạch Bình, Lạc
Sanh: Tăng Kiều, Trần Thi Nên, Trần Kiết Lâm và Châu Mai.
TIỆM GẠO TRONG TỈNH BẾN
TRE : Lục Châu, Trương Thái, Đặng Xí, Tăng Sanh, Lạc Sanh, Hứa Cai, Trần Chương,
Sử Ki Quang, Chân May, Huỳnh Đại, Lưu Phi, Hội Hải, Dương Thủy, Dương Thu, Dương
Triều, Lê Hoàn, Mạch Bình: Cung Đăng Phương và Trần Kiết Lâm.
TRẠI CÂY: Quảng Dư Long,
Kim Thái Hưng, Nam Phước Lợi, Huỳnh Thanh Quang, Cẩm Phương, Quách Lục, Vĩnh
Lợi, Quảng Thái Hưng, Du Thái Lợi, Lạc Sanh, Trương Tài, Trần Cư.
TRẠI HÒM: Tư Đê, Nguyễn Văn
Nhu, Triệu Văn Ngân, Trần thi Cơ, Trần Văn Giản.
TIỆM THUỐC: Tồn Tế Đường,
Hàng Tế Đường, Tồn Tâm Đường, Nhuận Sanh Xương, Cung Đăng Phương.
ĐIỀN CHỦ: Gallois-Montbrun, Gernot, Hamet, Mariani, Giovansili.
TIỆM VẢI: Davandjourpakir,
Assonamarikir, Abamadoublé, Mougamadoucadar, Mougamadouseidon.
TIỆM CẦM ĐỒ: Trương Thái.
TIỆM THIẾT: Trần Hương; Tăng Quang;
Đinh Tu.
TIỆM GIÀY: Diệp Hương.
KHÁCH SẠN: Lưu Lâm.
TIỆM VÀNG: Nguyễn
Vân Mậu.
TIỆM ĐÓNG XE: Mã Bi; Lâm
Xuân;
Châu Xuân.
NHÀ THẦU: Tăng Kiên.
CÁC KHU VỰC HÀNH CHÍNH
BẾN TRE. Thành phố Bến Tre
nằm trên bờ phải rạch Mỹ Lồng, cách chỗ hợp lưu của nó với Hàm Luông
khoảng 2 km và cách Sài Gòn 92 km, có một khung cảnh rất thoải mái, nó
có những đường phố rộng rất quy củ, một đại lộ rất đẹp ở trung tâm thành
phố, một toà Hành chính (toà bố) không thua kém những toà nhà tương
tự khác của Đông Dương, một trường học rộng gồm 5 dãy trong đó có 2
dãy lầu, một tòa án sơ thẩm (1re
instance), một ngân khố loại 1, một kho hải quan và
thuế vụ, một nhà bưu điện, một khu công chánh, một khu địa chính, một nhà
sinh với một nữ hộ sinh Pháp, một bệnh viện bản xứ do một bác sĩ và các sơ điều
hành, và một nhà việc xã, một ngôi đình xinh đẹp thờ thành hoàng ở giữa
một công viên rợp bóng cây, một tòa nhà lớn thông thoáng làm chỗ họp mặt
cho hội tương tế giáo chức, bến đò, một bể bê tông cốt thép lớn. v.v.
1. Tổng Bảo An : 6 làng;
3 734 dân có trong sổ bộ, cách tỉnh lị 13,7 km 7.
Gồm các làng An Bình Đông, An Bình Tây, An Lai, An Điền, An Ngãi Trung, Vĩnh Đức
Tây.
Ba tri: trên con kinh cùng tên,
cách tỉnh lị 31 km, chợ rất quan trọng, buôn bán lụa, bông
vải, thuốc lá, tơ
tằm
rất nổi tiếng. Phủ
đường, một kho hải quan, một bưu
điện và một trường tổng. Chợ cách biển 7 km.
Chợ Giồng Tre: Chợ rất quan trọng trên
rạch Cái Bông.
CHI NHÁNH HẢI QUAN : Nourrison.
TRƯỜNG TỔNG: Trương Văn Ngưu,
giáo viên.
BƯU ĐIỆN: Nguyễn Văn Chân,
trưởng trạm
2. Tổng Bảo Đức:
6 làng; 1 136 dân có trong sổ bộ, cách tỉnh lị 15 km.
Các làng: Hàm Luông (Long?), Long
Hoà, Mĩ Phú, Tân Quy, Tiên Thuỷ, Tiên Thuỷ Tây.
Sóc Sãi (Tiên Thuỷ): trung tâm
khá đông dân, hoạt động buôn bán ít quan trọng. Đối diện là cồn Long Hoà,
dài 3 km và rộng 1 km.
TRƯỜNG TỔNG: Võ Văn Pho,
giáo viên.
3. Tổng Bảo Hoà:
8 làng; 1 224 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 15 km.
Gồm các làng Bình Lợi,
Phú Quới, Phú Thạnh, Phước Đa, Phước Thành, Phước Triệu, Phước Tường, Tân
Thủy.
TRƯỜNG TỔNG: Trân văn Ngưu,
giáo viên.
4. Tổng Bảo Hựu:
10 làng ; 4 961 dân có trong sổ bộ, cách tỉnh lị 5 km.
Các làng: An Hội: Bình Nguyên,
Long Hưng, Long Phú, Long Sơn, Long Thạnh, Mĩ An, Phú Lợi, Phú Nhuận, Phước
Mĩ.
An Hội: làng tỉnh lị, nơi sinh
của Đốc bộ Báu, quan
võ, bắt đầu sự nghiệp từ lính trơn và trở thành tổng đốc, đuổi bọn thảo
khấu cướp bóc làng mạc ở các tỉnh miền Trung, đốt cháy nhiều tàu Trung Quốc
đến cướp phá bờ biển An Nam.
LÒ GẠCH: Trần Tân.
TRƯỜNG TỈNH: N.....
5. Tổng Bảo Khánh:
7 làng; 1 238 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 20 km.
Các làng: Đại Định, Phong Mĩ, Phong
Nẫm, Phú Hữu, Phước Hậu, Phước Hữu, Phước Thạnh.
6. Tổng Bảo Lộc: 11
làng; 3 961 dân có trong sổ bộ, cách Bến tre 10 km.
Các làng: Bình Chánh: Bình
Hoà, Bình Khương, Bình Thành, Binh Tiên, Châu Bình, Châu Phú, Châu Thới, Tân
Hào Đông, Tân Thanh Đông, Tân Thanh Trung.
Giồng Trôm (Bình Hoà): kho gạo bán
sĩ lẻ khu vực, chợ quan trọng, trung tâm đông dân cư.
Chợ tổng
Hay: Chợ do một chánh tổng tên Hay lập và nằm
ở trung tâm của một ngôi làng có nhiều cánh đồng lúa. Mua bán gạo và thóc.
TRƯỜNG TỔNG: Lê văn Kiêm,
giáo viên.
7. Tổng Bảo Ngãi :
5 làng; 1 241 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 9 km.
Các làng: An Hiệp, Mĩ Thành,
Sơn Hoà, Sơn Thuận, Tân Thành Đông.
Cái Nứa (Sơn Hoà): chợ và trung
tâm khá đông dân.
TRƯỜNG TỔNG: Võ Văn Pho,
giáo viên.
8. Tổng Bảo Phước 7
làng; 2 818 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 20,9 kim.
Gồm các làng An Ngãi Tây,
Hưng Lễ, Hưng Nhượng, Hưng Phong, Tân Hào, Tân Hưng, Thạnh Phú Đông.
Hương Điểm (Tân Hào): chợ quan
trọng, dân số đông đúc, nhà việc đẹp, ngôi chùa rất nổi tiếng hàng năm tiếp
đón hàng ngàn người hành hương đến từ nhiều địa điểm của Nam Kì. Bến đò
cho phép đò ghe cập vào ở phía trước chợ vốn nàm ở cuối ngọn rạch Bến Tre.
Mua bán gạo, cơm dừa, trái cây.
Chợ Giồng Quéo (An
Ngãi Tây): chợ quan trọng, buôn bán gạo.
TRƯỜNG TỔNG Ng. Văn Thưởng,
giáo viên
9. Tổng của Bảo Thành
15 làng; 4 156 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 9 km.
Các làng: Lương Hoà, Long
Mĩ, Lương Phú, Lương Quới, Lương Thạnh, Lương Thạnh Tây, Mỹ Điền, Nhơn Sơn,
Phong Điền, Phú Điền, Phú Long, Phú Thuận, Phú Tự, Tú Điền.
Mĩ Lồng (Mĩ Thạnh): chợ lớn nằm
trên bờ phải của sông Bến Tre; có thể đến đó bằng đò và bằng đường bộ, tuyến
đường trực tiếp dài 6 km. Có một nhà việc đẹp, một ngôi chùa Hoa. Nó đã từng
là chợ nổi tiếng nhất trong tỉnh.
TRƯỜNG TỔNG: Lê văn Sửu,
thầy giáo.
10 Tổng Bảo Thuận :
11 làng; 3 415 dân có trong sổ bộ; 32 km từ Bến tre.
Các làng: Đồng Xuân, Hoà Binh,
Mĩ Chánh, Mĩ Hoà, Mĩ Nhơn, Mĩ Thành, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Điền, Tân
Thanh và Tân Trang.
Giồng Trôm(?): trên
bờ phải của sông Ba Lai, kho trung chuyển mua bán trong khu vực, chợ có
nhiều hàng hoá, trung tâm đông dân, chợ cá lớn ở cửa rạch Giồng Trôm.
TRƯỜNG LÀNG: Nguyễn Văn
Hưu, giáo viên.
11. Tổng Bảo Trị :
8 làng; 3.493 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 38 km.
Các làng: An Hoà Tây, An Thuỷ,
Bảo Hoà, Bảo Thạnh, Phú Lễ, Tân Hoà, Vĩnh Đức Đông và Vĩnh Đức Trung.
Chợ Xã Diệu (An Hoà Tây): một chợ
khá quan trọng.
Bảo Thạnh: đây là nơi có ngôi mộ
của Phan Thanh Giản dưới sự chăm sóc của các cháu trai của vị quan vĩ đại,
nhà triết học này mà hành động cao cả của ông được tất cả dân An Nam
biết đến.
12. Tổng Minh Giáo:
10 làng; 3.102 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 18 km.
Các làng: An Thạnh, Khánh
Thạnh, Phú Hữu, Quới Hưng, Tân Hưng, Tân Nhuận, Tân Quới, Tân Thạnh, Tích
Khánh và Vĩnh Khánh.
An Thạnh: trên bờ phải của rạch Băng
Cung, trung tâm khá quan trọng.
Băng Tra: cách Bến Tre 5 năm giờ,
trung tâm quan trọng, buôn bán gạo và các loại trái cây. Nhà việc ở giữa một nơi
rất đông dân.
Chợ Thom (An Thạnh): trên bờ phải
Băng cung, chợ đặt rất đúng chỗ, một số đình chùa, cách Mỏ Cày 6 km.
13. Tổng Minh Đạt:
11 làng; 3 487 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 11 km.
Gồm các làng của An Phước,
Đa Phước, Đinh Phước, Hiêp Phước, Hội An, Hội Phước, Tân Binh, Tân Hội,
Thành Bình, Thanh Hoa và Thanh Thuỷ.
Mỏ Cày: ở bên một con rạch cùng
tên, một chợ khá quan trọng, dân số đông đúc, buôn bán gạo, lụa tơ tằm và khăn
xếp có giá trị cao, nhà việc thanh lịch, phủ đường, một trường tổng, một
nhà kho Hải quan và thuế vụ và một văn phòng Bưu điện.
HẢI QUAN: Biaise,
Jules, trưởng trạm.
TRƯỜNG TỔNG: Nguyên Văn Cao, giáo viên.
BƯU ĐIỆN: Khổng Hữu Hiền, trưởng
trạm
14. Tổng Minh Hoà: 7 làng; 1 719 dân có trong sổ
bộ, cách Bến Tre 10 km.
Gồm các làng Hòa Bình, Tân Đức, Tân Lộc, Tân Thiện, Tân Thông, Thanh Xuân, Thanh Sơn
15. Tổng Minh Huệ:
6 làng; 1 959 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 18 km.
Các làng: An Thới, Ngãi Đăng,
Phú Trạch, Thới Trạch, Thanh
Thiên, Từ Sơn.
16. Tổng Minh Lí:
7 làng; 2 063 dân có trong sổ bộ; cách Bến Tre 13 km.
Gồm các làng Gia Thành, Mĩ
Sơn, Phú Hiệp, Phú Hội, Tân Ngãi, Trương Thành, Vĩnh Thành.
Tổng (Minh Lý) được hình
thành từ làng Vĩnh Thành, và Phú Hội có biệt danh là công viên của tỉnh;
có các loại thực vật và trá cây các loại, hồng xiêm (sabotier), ca cao, cà
phê, măng cụt, sơ ri (cerisier), vải, long nhãn, vv... vườn cây ăn quả dài
mút mắt. Xứ đạo, nhà thờ xinh đẹp, tượng đài Gothic, tu viện, 170 nữ tu,
trại trẻ mồ côi, 250 trẻ em, chỗ trú, trường học. Các ngành công nghiệp chính
là sấy trầu và sản
xuất tơ lụa có giá trị cao, một lò gạch.
Tổng Minh Lí Là quê hương
của linh mục Philipe Phan Văn Minh, bị hành hình ngày 3 tháng 7 năm 1853 và
được Giáo Hoàng Léon XIII phong thánh vào năm 1901.
BƯU ĐIỆN: Nguyễn Văn Sang.
17. Tổng Minh Phú:
5 làng, 1.775 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 32 km.
Các làng: Đại Điền; Đông Phú;
Quới Điền, Tân Khánh; Thới Thạnh.
Làng Đại Điền: trung tâm khá đông dân, chợ
rất lớn, nhiều cửa tiệm người Hoa, nhiều đình chùa, cách Bến Tre ba giờ.
TRƯỜNG TỔNG: Nguyễn Tân Minh,
giáo viên.
18. Tổng Minh Quới;
9 làng: 3 877 dân có trong sổ bộ, cách Bến Tre 28 km.
Các làng: An Bình, An Định,
Hương Mĩ, Phước Thạnh, Tân Hoà, Tân Hương, Tân Tập, Tân Trung, Tập Khánh.
Cái Quao (An Định): cách Bến Tre
ba giờ, chợ lớn, mua bán gạo.
Chợ Cầu Móng (Hương
Mĩ): được gọi như vậy vì nó gần một cầu có hình cầu vồng (móng).Trung tâm khá
đông dân, nhà việc, 3 đình/chùa.
Làng Tân Hương: trung tâm khá quan
trọng, ba chùa, nhà việc.
TRƯỜNG TỔNG CÁI QUAO: Trần Văn Qui, giáo viên.
19. Tổng Minh Thiện: 7 làng, 1 435 dân có trong sổ
bộ, cách Bến Tre 10 km.
Các làng: Nguơn Khánh: Phù Mĩ, Phước Hạnh, Tân Phú Tây, Truug Mĩ, Vĩnh Hoà, Vĩnh Thuận.
Ba Vát (Phước Mĩ Trung): chợ rất quan trọng,
trung tâm rất đông dân, vị thế đẹp trên sông, mua
bán
trái
cây.
TRƯỜNG TỔNG: Trần Văn Nhuận, giáo viên.
20. Tổng Minh Thuận: 8 làng, 2 496 dân có
trong sổ bộ, cách Bến Tre 18 km.
Gồm các làng Bình Thành, Đông An, Đông
Thành, Gia Khánh, Hưng Nhơn, Tân Thanh, Tân Thanh Tây, Thanh Trung.
Giồng Keo (Tân Thanh Tây): chợ rất
quan trọng, dân số rất đông, nhiều cửa tiệm người Hoa buôn bán gạo.
TRƯỜNG TỔNG: Nguyễn Khắc Minh, giáo viên.
21. Tổng Minh Tri ̣: 7 làng, 3 296 dân có
trong sổ bộ, cách Bến Tre 38 km.
Các làng: An Nhơn, An
Quy, An Thạnh, An Thuận, Giao
Thạnh; Thạnh Phong, Thạnh Phú.
Giồng Miễu (Thạnh Phú): chợ rất quan trọng ở một ngôi làng nằm giữa
những cánh đồng lúa rộng lớn. Mua bán
lúa lớn.
Chợ Bến Dinh,
chợ nhỏ ít quan trọng.
TRƯỜNG TỔNG: Nguyễn Hữu Hạnh, giáo viên.
BƯU ĐIỆN: Ng. Hữu Nghĩa, trưởng
trạm.
---------------
(trang 731 [791], trong phần thuộc tỉnh MĨ THO)
22. Tổng Hoà Quới: 24 làng; 6 082 dân
có trong sổ bộ, cách Mĩ Tho 25 km.
Các làng: Châu Hưng, Giao
Long, Long Phụng, Phú Ngãi, Phú Nhơn, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Vang, Phước
Bình, Phước Hậu, Phước Hoà, Phước Khánh, Phước Thiệu, Phước Thới, Tân
Hưng, Thới Lai và Vang Quới.
Giao Hoà: trung tâm quan trọng, trên
bờ trái sông Mĩ Tho, ngay cửa kinh có cùng tên mà ven bờ phải có
nhiều nhà cửa, 150 cư dân.
An Hoá: nằm ở đầu kia kinh Giao
Hòa, dân số thấp.
Trường tổng.
BƯU ĐIỆN: Nguyễn Văn An,
Nguyễn Văn Bông.
Rạch Miễu: trung tâm khá đông dân:
400 người; chợ quan trọng; gạo, cau, chuối, dừa, nhà việc, chùa, bến đò.
Các làng Quới Sơn, Nguyệt
Thành, An Hoá, Tân Thạch, làm dừa.
23. Tổng Hòa Tính. 11 làng, 3.612 đăng ký, cách
Mĩ Tho 24 km.
Các làng: Bình Đại, Định
Trung, Lộc Tân, Lộc Thuận, Phú Long, Phước Thuận, Tân Định, Thạnh Lộc, Thọ Phú,
Thới Thuận, Thừa Đức.
Những làng này trồng tràm,
bông vải và khai thác củi.
----------------------------------
(xem trọn bài)
No comments:
Post a Comment