Chạm trán
với Việt Nam
(Encountering Vietnam)
Westad, Odd Arne, 2017, The Cold War: A World History (Chiến tranh Lạnh: Lịch sử thế giới), NY: Basic Books (Ch 12,
tr. 313-338.).
(Bản dịch đã đăng trên Tiếng Dân ngày 10/10/2017)
Bià sách 'The Cold War: A World History'
Cuộc cách mạng Việt Nam (VN) bắt đầu là một cuộc nổi dậy chống lại sự áp bức của thực dân và kết thúc bằng một loạt các cuộc chiến tranh vướng víu sâu đậm với Chiến tranh Lạnh toàn cầu. Nó có nguồn gốc từ việc Pháp thuộc địa hoá Đông Dương vào thế kỉ XIX, hoặc thậm chí xa xưa hơn từ việc Trung Quốc thống trị VN cả ngàn năm. Nòng cốt của công cuộc này là một nhóm các nhà yêu nước cách mạng của VN ở tuổi thanh niên đã trở thành những người hết lòng theo chủ nghĩa Mác và ngưỡng mộ kinh nghiệm của Liên Xô. Đối với những thanh niên này, yêu nước và chủ nghĩa Marx là một. Họ tin rằng chỉ bằng cách phát triển phong trào, quốc gia và nhà nước của mình theo các quy luật phát triển của Marx thì VN mới có thể thực sự thành công trong thế giới hiện đại. Chương trình của họ là lâu dài, bao quát, và không tưởng, nhưng việc thực hiện chương trình đó phụ thuộc trước hết vào việc giành được độc lập và thống nhất đất nước. Và chính vì những mục tiêu này mà gần ba triệu người VN đã chiến đấu và bỏ mình trong thế kỉ XX.
Mặc dù vào lúc đó các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới
không nhìn thấy rằng VN khác với các nước châu Á khác theo nhiều cách. Đó
là nơi duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản đã trở thành phương tiện chi phối chủ nghĩa dân tộc (yêu nước) gần như ngay từ đầu. Ngay cả ở những nước mà phong trào cộng
sản đã phát triển rất lớn, chẳng hạn như Trung Quốc, Triều Tiên, hay Indonesia, điều
đó là một hiện tượng tiệm tiến nhiều hơn và các đối thủ tranh quyền mạnh hơn.
Nhưng ở VN, đối thủ của CS đã bị tì vết do việc cộng tác với người Pháp,
và Hồ Chí Minh (HCM) có thể thể hiện phong trào Việt Minh của ông như là dân
tộc đích thực cả về mặt văn hóa lẫn chính trị. Bất chấp việc ông từng là
một nhân viên lâu năm của Quốc tế cộng sản, sau năm 1945 HCM đã tô vẽ lại
chính mình như là biểu tượng của độc lập dân tộc và là một bậc cao tuổi đáng
được sự kính trọng, gần như sùng kính, của tất cả người Việt Nam.
Cuộc chiến tranh của Mĩ ở VN do đó là rồ dại ngay từ đầu. Không phải vì
không có người Việt chống cộng vốn sẵn sàng chiến đấu vì mục đích của họ,
nhưng vì họ là thiểu số và chắc chắn sẽ thua sút khi so sánh về tính chính
thống dân tộc (naionalist authenticity). Cộng sản VN cũng có thể dựa vào sự
trợ giúp của Trung Hoa cộng sản liền kề và sự giúp đỡ của Liên Xô. Nhưng nhiều
chính phủ Hoa Kì liên tiếp nhau tin rằng Hoa Kì phải hành động để tránh việc
cộng sản chiến thắng ở Đông Dương. Thuyết domino, đầu tiên đề ra cho Trung
Quốc, đã được chuyển qua VN. Đối với họ, Chiến tranh Lạnh là một trò chơi có
tổng zero, trong đó cái mất của một bên là cái được cho bên kia. Và Liên
Xô, hoặc, thậm chí tệ hơn, Trung Quốc, được xem là kiểm soát cộng sản VN,
đứng ngoài thủ lợi thông qua sự thành công của họ.
BÊN TRONG VN mọi việc trông khá khác biệt. Đối với HCM và những người
đã từng làm việc với ông trong phong trào cộng sản VN từ những năm 1920, Hội
nghị Geneva năm 1954 là một thảm hoạ. Thay vì giành được một Việt Nam
thống nhất, XHCM như mục tiêu chiến đấu của họ (và sự tin tưởng
rằng họ đã đạt được nó thông qua sức mạnh trên chiến trường), họ chỉ nhận
được một nửa đất nước, và triển vọng không chắc chắn về việc đất nước sẽ thống
nhất sớm. Và thậm chí tệ hơn: Moscow và Bắc Kinh, hai kẻ bảo trợ chính, đã bắt
tay nhau buộc họ phải chấp nhận sự chia cắt này. Mặc dù Hà Nội được bảo rằng
đây là việc ‘củng cố’ thành quả cách mạng tạm thời, không người cộng
sản VN nào có chút nghi ngờ về sự thống nhất đất nước của họ là vật
tế trên bàn thờ chính trị của các cường quốc lớn. Nhưng các lãnh đạo CSVN cũng biết rằng họ không đủ khả năng tự mình chiến đấu chống lại chế độ mới
ở miền Nam và kẻ ủng hộ Mĩ. HCM tin rằng thống nhất cần có thời gian. Trước
hết, cộng sản Bắc VN phải xây dựng nhà nước, tinh chỉnh quân đội, và xây dựng
các liên kết chặt chẽ với các đồng minh cộng sản. HCM đã chịu áp lực mạnh mẽ
từ các nhà lãnh đạo trẻ, và đặc biệt là những người từ phía nam, đòi một chính
sách hoạt động hơn. Ông là một biểu tượng hơn là một nhà lập quốc; quyền
lực của ông bị thu lại, và sự thiếu kiên nhẫn tăng lên, khi Bắc VN phát
triển vào cuối những năm 1950.
Nhà nước Bắc VN, có tên là VNDCCH, ngay từ đầu đã là cộng sản. Năm 1951 HCM
đã lập ra Đảng Lao Động VN (ĐLĐ) làm nòng cốt hoạt động trong mặt trận Việt
Minh.Từ Hiệp định Geneva năm 1954 trở đi, ĐLĐ phụ trách việc xây dựng nhà
nước, và nhà nước mà nó xây dựng ở phía bắc vĩ tuyến 17 là một bản sao của
mô hình Liên Xô như được thực hiện ở Trung Quốc sau năm 1949. ĐLĐ kiểm soát
quân đội, công an, và có một mạng lưới lớn người chỉ điểm và các nhân viên
thực thi chính trị trên khắp đất nước (kể cả nhiều phần ở phía nam). Nó bắt
giam các đối thủ trong các trại lao động kiểu Stalin. Khoảng 15 000 người
đã bị hành quyết, hầu hết trong chiến dịch cải cách ruộng đất thực hiện vội
vã theo mô hình Trung Quốc. Ít nhất một triệu người trốn chạy về phía nam. Ngay
cả Liên Xô và Trung Quốc cũng đã chỉ trích Bắc Việt vì đã đi quá xa quá
nhanh.
Nhưng những rắc rối mà những người cộng sản VN tự đặt mình vào đã được
khắc phục với việc che giấu nó trong vỏ bọc chủ nghĩa dân tộc. HCM tuyên bố,
tất cả những gì đã làm là làm vì điều tốt đẹp nhất cho đất nước, làm
cho nó giàu mạnh và thống nhất. Tuyên truyền cộng sản, cả ở phía bắc lẫn
phía nam, xác lập sự tín nhiệm về dân tộc của chính quyền Hà Nội và quan
trọng không kém, chính phủ miền nam lại thiếu chúng. Các nhà lãnh đạo tại Hà
Nội vẫn tin rằng, có lẽ đúng, họ sẽ “thắng” trong một cuộc tổng tuyển
cử trên cả nước nếu được tổ chức, đó là lí do tại sao chính quyền
Eisenhower không chấp nhận một cuộc bầu cử như vậy, dù có trong Hiệp định
Geneva. Đến năm 1957 rõ ràng rằng cuộc tổng tuyển cử toàn quốc không còn
khả năng xảy ra, và cả Liên Xô lẫn Mĩ đều dễ dàng chấp nhận hiện trạng đối
với VN và phần còn lại của Đông Dương. Với cuộc tấn công hòa bình của mình
đang diễn ra, điều cuối cùng mà Khrushchev muốn là một cuộc chiến tranh khác ở
châu Á.
Tuy nhiên, người Mĩ lại có vấn đề về những gì phải làm với nam VN.
Người Pháp đã ra đi, nhẹ nhõm rời đi sau khi quân đội họ bị sỉ nhục. Cựu
hoàng Bảo Đại, đã bị tì vết vì hợp tác với cả Pháp lẫn Nhật. Vị hoàng đế này
cùng các cố vấn Mĩ của ông đã sắp xếp đưa Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Diệm là một nhà yêu nước phản kháng Việt Minh và đã lưu vong, chủ yếu ở Mĩ từ
năm 1950. Chủ trương của ông mang tính bản địa (nativist), công giáo, và bảo thủ:
Diệm tin rằng để làm cho VN trở thành cường quốc mà nó xứng đáng để trở
thành thì phải quay trở lại gốc rể truyền thống của mình dưới một hình
thức mới công giáo và đầy sức sống. VN mới của ông phải là hiện đại, theo khuôn
mẫu mà phương Tây đề ra, nhưng cũng sẽ tận dụng các khả năng độc đáo của VN phải
tạo ra một xã hội công chính và ổn định. Chẳng bao lâu Diệm đã truất phế
Bảo Đại và lập ra nước Việt Nam Cộng
hòa ở phía nam với chính ông là tổng thống. Hoa Kì bắt đầu đổ viện trợ đáng kể
vào nhà nước Nam VN mới, nhưng những cải cách Diệm đã hứa chậm đến. Mục
đích chính của ông là củng cố chế độ của mình chống lại tất cả mọi phía, gồm cả
những người cộng sản vẫn còn ở lại miền Nam.
Bất chấp những lời khuyên của các đối tác quốc tế , những người cộng sản
VN dần dần mở rộng chiến dịch chống chế độ của Diệm ở miền Nam. Năm 1956,
được khuyến khích bởi việc Khrushchev xoá bỏ Stalin hoá và khẳng định
rằng mỗi đảng phải tìm ra đường lối riêng của mình đi tới chủ nghĩa xã hội, Lê
Duẩn, tay cộng sản miền Nam viết ra một tuyên ngôn bậc thầy về ngôn ngữ
hai mặt. Trong đó, ông nhấn mạnh vào tính đúng đắn trong quan điểm của Liên Xô
rằng “tất cả các cuộc xung đột trên thế giới hiện nay có thể được giải quyết
bằng biện pháp hòa bình.” Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng, ở miền nam, “phong
trào cách mạng của nhân dân chắc chắn sẽ nổi lên.” Nói cách khác, đảng cộng
sản phải ủng hộ phong trào quần chúng tự phát ở miền nam, định hình nó, và
lãnh đạo nó. Đến năm 1957, để đáp trả những nỗ lực của Diệm trong việc loại
bỏ cộng sản ở miền nam, đảng bắt đầu một chiến dịch ám sát và đánh bom. Lê Duẩn
được cử làm người đứng đầu của đảng, dần dần thay thế HCM thành trung tâm
quyền lực thực sự. Tháng 1 năm 1959, ĐLĐ chấp thuận của một “chiến tranh nhân
dân” ở miền Nam và bắt đầu đưa cán bộ xâm nhập vào miền Nam qua Lào, dọc theo 'đường
mòn HCM.' Tháng 7 năm 1959 cộng sản miền Nam giết chết hai cố vấn quân sự Mĩ
ngay bên ngoài thủ đô Sài Gòn. Họ là những người Mĩ đầu tiên chết trong cuộc
chiến tranh mới ở VN.
Lí do Hà Nội có thể tổ chức một cuộc tổng nổi dậy chống
lại chính phủ Diệm vào năm 1960 là vì sự chia rẽ Trung-Xô. VN bắt đầu khôn khéo chơi trò 'khích tướng' hai nhà bảo trợ tranh nhau để có được sự ủng hộ mà họ cần. Gần như
chắc chắn rằng Lê Duẩn và nhóm lãnh đạo của ông thân cận với Trung Quốc hơn
Liên Xô rất nhiều về mặt ý thức hệ, và tính triệt để cao độ của Mao đã
khích lệ họ hành động mạnh mẽ. Nhưng Khrushchev không chỉ bị cạnh tranh và
hoàn cảnh lôi kéo. Vì các sự kiện ở Cuba, Algeria, và Congo, vào năm
1960 Liên Xô đã phải cảnh giác nhiều hơn cho tiềm năng thắng lợi thông qua 'cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc' so với những gì họ được cảnh báo chỉ
một vài năm trước đó. Do đó, việc định thời gian nổ ra cuộc nổi dậy ở
phía nam của Hà Nội gần như hoàn hảo, mặc dù Lê Duẩn hay các nhà bảo trợ
nước ngoài của ông vào lúc đó không mong đợi bất cứ điều gì ngoài một cuộc
đấu tranh lâu dài với một kết quả không chắc chắn.
John Kennedy thừa kế tình huống khó xử về VN từ tổng thống
Eisenhower, và ông không bao giờ có thời gian hoặc dịp để tập trung vào nó tới
mức tìm ra một chiến lược vững chắc. Thay vào đó, chính sách VN của Kennedy
trở nên trượt dần về phía can dự ngày càng lớn hơn của Mĩ, mặc dù JFK
chống lại việc đưa quân chính quy của Mĩ tới Đông Dương. Ông đã tham gia
vào cuộc đàm phán trung lập hoá cho Lào, đã cho một sự có vẻ nào đó về
sự ổn định cho khu vực. Nhưng sự vướng víu lớn nhất của Kennedy, ăn khớp với
cách tiếp cận tổng thể của ông đối với Thế giới thứ ba, là thông qua các nỗ lực
cải cách nhà nước Nam VN và nâng cao năng lực chiến đấu của quân đội và không
quân nước này. Tới năm 1963 Hoa Kì có 16 000 cố vấn ở miền Nam VN,
tăng lên so với con số 600 khi Kennedy lên nắm quyền. Tất cả các đơn vị quân
đội VN chính có sĩ quan Mĩ gắn vào, và mặc dù các cố vấn Mĩ không bị buộc
phải trực tiếp tham gia chiến đấu chống Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miển Nam (MTGP) do cộng sản điều khiển, họ ngày càng trở nên không
thể thiếu trong nỗ lực chiến tranh của Nam VN. Máy bay và trực thăng Hoa
Kì vận chuyển quân đội VN, kể cả các cuộc đột kích ra miền Bắc VN. Người Mĩ
cũng bắt đầu sử dụng thuốc khai quang huỷ diệt cây trồng để phiến quân miền
Nam VN và những người ủng hộ họ bị đói, và bắt đầu lập ra 'ấp chiến lược' mà
các nông dân được 'cứu' khỏi sự kiểm soát của MTGP có thể được di dời tới
đó.
Mặc dù sự trợ giúp của Mĩ tăng lên, rõ ràng là chế độ
Diệm đã gặp rắc rối nghiêm trọng vào năm 1963. Không những MTGP mở rộng hoạt động, đặc biệt
là ở các khu vực xung quanh thủ đô Sài Gòn của miền Nam. Nhưng tổng thống miền Nam
VN cũng đụng độ với phe đối lập chính trị phi cộng sản, các nhóm Phật giáo,
và các tổ chức sinh viên, học sinh. Quan hệ của ông với các nhà bảo trợ Mĩ
cũng xấu đi; Diệm nhấn mạnh rằng Nam VN là một đất nước có chủ quyền và rằng
ông là tối hậu trong kiểm soát việc đề ra kế hoạch dân sự và quân sự. Một số
nhà sư tự thiêu trên đường phố Sài Gòn để phản đối chế độ, và hình ảnh thân thể họ đang cháy được chiếu trên tin tức truyền hình Mĩ, làm cho nhiều người
Mĩ tự hỏi về sự thành công của việc Mĩ can dự vào VN. Trong tuyệt vọng,
chính phủ Kennedy lặng lẽ khuyến khích các tướng lĩnh Nam VN thực hiện một cuộc
đảo chính chống Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tổng thống Nam VN đã bị các sĩ
quan của chính ông bắt cóc và giết chết. Ba tuần sau, Kennedy bị bắn chết tại Dallas.
Lỗi lầm lớn nhất của Kennedy về VN là luôn xem miền nam và miền bắc là hai
quốc gia khác nhau. Từ điều này dẫn tới việc quân đội miền Bắc can dự ở
miền Nam là xâm lược, và rằng các cường qưốc cộng sản lớn—đặc biệt là Trung
Quốc —đứng đằng sau cuộc xâm lược này. Lối suy nghĩ này,
mà tổng thống mới, Lyndon B. Johnson, đã tiếp nhận từ Kennedy, liên kết chiến
tranh VN trực tiếp với Chiến tranh Lạnh. Nó cũng liên kết trở ngược với chiến
tranh Triều Tiên, nội chiến Trung Quốc, và cuối cùng là Thế chiến II. Bài học
được giả định là nếu như Hoa Kì không đứng lên chống lại xự xâm lược của
cộng sản thì sự cương quyết sẽ bị nghi ngờ và vị thế, bao gồm
vị thế ý thức hệ cũng sẽ bị xói mòn. Nhưng cả Kennedy lẫn Johnson đều tin
rằng chính phủ Mĩ, và đặc biệt là chính phủ dân chủ mà không tỏ cho thấy đứng
lên chống xâm lược cộng sản thì sẽ bị các nhà tạo dư luận và cử tri trừng
phạt. Cả Kennedy lẫn Johnson, theo nhiều cách khác nhau, đều có một nỗi sợ hãi
lớn về sự nhu nhược. Dẫn lời bạn bè tại quê nhà Texas, Johnson thích nói rằng
người Mĩ “sẽ tha thứ cho bạn cho bất cứ điều gì trừ sự nhu nhược.”
Về mặt đối nội, Lyndon Johnson là một trong những vị tổng thống được
chuẩn bị tốt nhất mà Hoa Kì từng có. Ông đã có mặt ở Quốc hội kể từ năm 1937
và được biết đến như là ông chủ của Thượng viện, nơi ông là lãnh đạo đảng đa
số đã bênh vực cho những mục tiêu tiến bộ theo khuôn FDR (Franklin Delano
Roosevelt). Là phó tổng thống của Kennedy, ông đã phục vụ một cách không vui
vẻ bên lề quyền lực. Với vụ tổng thống bị ám sát, ông đã được ném vào ghế
trên cùng của nền chính trị Mĩ, và ông đã có một loạt các cải cách mà ông
muốn thực hiện gần như ngay từ đầu. Một số kế hoạch đã được phát triển trong
thời chính quyền Kennedy. Nhưng hầu hết đều là mục tiêu riêng của Johnson,
và ông có kinh nghiệm, sự dẻo dai, và đủ tiền bạc để đẩy chúng thông qua. Có
lẽ tổng thống thành công nhất về mặt lập pháp trong lịch sử Hoa Kì, Johnson
chứng kiến các sáng kiến lớn về xóa đói giảm nghèo, dân quyền, và chăm sóc
sức khỏe, cũng như cải cách nhập cư và giáo dục được thông qua, xử lý nhiều
vấn đề gai góc mà tiền nhiệm của ông (hoặc, đối với các vấn đề quan trọng
đó, những người kế nhiệm ông) đã lảng tránh Trong năm 1964 bầu cử tổng thống,
ông đè bẹp đối thủ đảng Cộng hòa và được bầu lại với tỉ lệ số phiếu phổ
thông cao nhất chưa từng có.
Tuy nhiên, một giải pháp cho cuộc chiến tranh leo thang tại VN dường như cũng
lẫn tránh Johnson. Mặc dù bản năng chính trị của ông đã nói với ông phải tìm
ra một lối thoát nhanh nhất có thể có, ông lại sợ hậu quả. Ưu tiên của ông
là cải cách trong nước, nhưng ông cảm thấy ông sẽ không thể thực hiện chúng đầy
đủ nếu ông không có cơ hội mới cho chính sách đối ngoại. Bàn luận về cách
trình bày chiến tranh với người dân Mĩ, Johnson đã tâm sự với một người bạn cũ
ở Thượng viện:"Tôi nghĩ tôi phải nói rằng tôi không đưa bạn tới đây, nhưng
chúng ta đang ở đây do hiệp ước [với miền Nam VN] và danh dự quốc gia của chúng
ta bị đe dọa. Và nếu hiệp ước này là không tốt thì không có hiệp ước nào
là tốt. Vì vậy, chúng ta ở đó. Và khi ở đó, chúng ta phải tự hành xử như những
người chân chính. Đó là số một. Thứ hai, trong cuộc cách mạng của chúng ta, chúng
ta muốn tự do và tất nhiên chúng ta nhìn với sự cảm thông với những ai mong
muốn tự do và nếu bạn để họ một mình và cho họ tự do, chúng ta sẽ ra đi ngày
mai."
Trong năm 1964, chính quyền Johnson ngày càng thấy chắn chắn rằng Hoa
Kì phải đối mặt với một thách thức toàn diện từ phe cộng sản tại VN. Cuộc đảo
chánh Diệm không dẫn đến gì nhiều ngoài sự bất ổn gia tăng. Phiến loạn ở VNCH
tiếp tục lan rộng. Bằng chứng miền Bắc cung cấp và chỉ đạo cuộc nổi dậy tiếp
tục tăng thêm. Và đứng phía đàng sau Hà Nội là Bắc Kinh và Moscow, ít nhiều
theo thứ tự đó. Đối lại với những bằng chứng dồi dào về sự chia rẽ Trung-Xô
ngày càng gia tăng, Johnson vẫn tập trung vào VN như là một vấn đề của khối cộng
sản. Sự khác biệt giữa các cường quốc cộng sản, theo chính quyền Johnson, là
Liên Xô thì thực tế và hợp lí, trong khi Trung Quốc là không chừng mực và ngày
càng không hợp lí. Không khó khăn để thấy định kiến chủng tộc đằng sau kiểu suy
nghĩ này: Liên Xô, xét cho cùng, ít nhất do là người châu Âu lãnh đạo,
trong khi Trung Quốc là người phương Đông không hiểu (hoặc không muốn
tham gia vào) việc cho nhận bình thường giữa các cường quốc. Bộ
trưởng Quốc phòng Robert McNamara của Johnson tin rằng chính sự vô lí này
hơn bất cứ điều gì đã làm cuộc chiến tranh tiếp diễn.
Cho đến giữa năm 1964, tổng thống đã tin chắc rằng cách duy nhất để chiến
thắng trong chiến tranh ở VN là việc cho thấy sự sẵn sàng của quân đội trên trận
địa. Nếu Hoa Kì chứng tỏ cho Hà Nội và Moscow thấy rằng họ không đạt được gì
qua việc xâm lấn thêm thì họ sẽ quay lại bàn đàm phán, bất chấp tiếng tru
tréo phản đối từ Trung Quốc. McNamara và cố vấn an ninh quốc
gia của tổng thống McGeorge Bundy, cả hai đều đã thúc giục việc đánh bom Bắc VN, triển khai
các lực lượng Mĩ trên bộ, và mở rộng sự tham gia của Mĩ trong cuộc chiến
cùng với quân đội miền Nam VN. Trong dự thảo bài phát biểu của tổng thống,
Bundy lập luận rằng Hoa Kì không “bị ràng buộc phải đưa ra cho những kẻ xâm
lược bất kì sự bảo đảm nào về việc trả đũa chung và cần thiết cho các
hành động chiến tranh chống lại những người tự do ở Nam VN. Những gì đã được
ra lệnh từ bên ngoài Nam VN có thể bị trừng phạt bên ngoài Nam VN, bởi toàn
bộ luật pháp của các quốc gia, và bởi nguyên tắc cơ bản rằng người ta phải
chịu trách nhiệm về những gì được thực hiện theo lệnh của mình. Kẻ xâm lược
tại Hà Nội biết tội lỗi của mình, và thế giới cũng biết điều đó.” Ngay cả Bộ
trưởng Ngoại giao Dean Rusk, là người tương đối bồ câu về các vấn đề ngoại
giao, cũng thúc giục tổng thống. Ông nói với Johnson “Vấn đề chiến tranh và hoà
bình nằm ở Thái Bình Dương. Nếu chúng ta có vẻ ngập ngừng trước Liên Xô và
Trung Hoa cộng sản thì điều này sẽ được hiểu là một phần thưởng cho hướng đi
mà họ đang theo, và điều này sẽ làm tăng nguy cơ chiến tranh. Nếu chúng ta thực
hiện một động thái báo hiệu cho Bắc Kinh rằng chúng ta đang suy yếu, thì điều
đó sẽ làm tăng nguy cơ cho chúng ta.”
Tháng 8 năm 1964, Johnson đã sử dụng các báo cáo không chính xác về việc các
tàu Bắc Việt bắn vào tàu hải quân Hoa Kì trong vùng biển quốc tế như là một
cái cớ để được Quốc hội trao quyển mở rộng chiến tranh. Cái gọi là nghị
quyết Vịnh Bắc Bộ ủy quyền cho tổng thống “dùng mọi biện pháp cần thiết để đẩy
lùi bất kì cuộc tấn công vũ trang nào vào lực lượng của Hoa Kì và ngăn chặn
sự xâm lăng thêm nữa.” Năm 1965, Không quân Mĩ bắt đầu ném bom công kích Bắc VN,
và số lượng lính Mĩ tăng lên gần 200 000. Tính đến cuối năm đó có gần 2 000
người Mĩ đã thiệt mạng trong giao tranh, và đối với hầu hết mọi người ở Mĩ đã trở nên rõ ràng rằng đây là một cuộc chiến tranh thực sự và không phải là
loại xung đột uỷ nhiệm mà Hoa Kì đã can dự trên toàn cầu trong thập kỉ
qua.
Hiện nay chúng ta biết rằng nhiều giả định của Hoa Kì về tính toán chính
trị và quân sự đối với các bên Bắc Việt, Liên Xô và Trung Quốc trong Chiến
tranh VN là nhầm lẫn. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt xem cuộc chiến tranh này như
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Họ đang nhắm tới một chiến thắng quân sự mà
họ hiểu rằng chỉ có thể xảy ra sau khi Mĩ buông ra. Liên Xô nhận ra rằng
cuộc chiến tranh ở VN đã gây thiệt hại cho Mĩ trong việc chống Chiến tranh
Lạnh toàn cầu, vì nó làm các nước và các phong trào của Thế giới thứ ba xa
lánh, và làm cho Liên Xô có vẻ như là một nước vì hòa bình và giúp đỡ cho
nước VN nhỏ bé đánh chàng khổng lồ Goliath Mĩ. Theo hầu hết các cách
đánh giá, tầm quan trọng ở VN rất thấp đối với Liên Xô và ngày càng cao đối
với Hoa Kì. Tuy nhiên, Moscow luôn cảnh giác với việc chiến tranh lan rộng ra
những nơi khác ở Đông Nam Á, do đó Liên Xô buộc phải có một vai trò tích cực
và rõ ràng hơn trong bảo vệ các cuộc cách mạng địa phương. Như sự việc
diễn ra, những người kế nhiệm của Khrushchev hài lòng với việc lên án sự
xâm lược của Mĩ và cung cấp viện trợ hạn chế cho Bắc VN (một phần là để tách
họ ra khỏi liên minh với Trung Quốc), trong khi nói riêng với Johnson rằng
Moscow đã cố gắng làm dịu hành vi của Hà Nội. Thông điệp không quá mềm dịu
của Liên Xô cho Mĩ là VN chỉ có thể giải quyết nếu Washington sẵn sàng làm
việc với Moscow về các vấn đề Chiến tranh Lạnh khác.
Chính vai trò Trung Quốc ở VN thay đổi nhiều nhất, đúng
theo đường hướng các chính sách đảo điên của Bắc Kinh trong những năm 1960.
Trong phần đầu của thập kỉ đó, và đặc biệt là sau năm 1962, Mao Trạch Đông
ngày càng sử dụng chiến tranh ở VN như một vũ khí chống lại Liên Xô. Mao tuyên
bố, những người cộng sản Trung Quốc dành cho Hà Nội sự ủng hộ hoàn toàn
cho những nỗ lực tiến nhanh trên con đường dẫn tới chủ nghĩa cộng sản và giải
phóng miền Nam. Thông điệp của Mao là chỗ nào Moscow chỉ nói quanh co thì
Bắc Kinh sẽ có hành động. Viện trợ của Trung Quốc cho Bắc VN tăng đáng kể hàng
năm, khi Hà Nội đứng về phía Trung Quốc trong các cuộc tranh cãi với Liên Xô
về ý thức hệ. Nhưng khi sự can dự của Hoa Kì mở rộng vào năm 1964, Mao lại
tìm cách tránh xung đột trực tiếp với Mĩ, như đã xảy ra ở Triều Tiên. Bắc
Kinh tỏ tín hiệu cho Washington biết rằng quân đội của chính họ sẽ không
dây dưa vào trừ khi Mĩ xâm lược miền Bắc. Mặc dù lập trường của Mao ngày
càng cách mạng trong nước và quốc tế, ông ta đã có một sự tôn trọng lành mạnh
đối với sức mạnh của Mĩ. Bên cạnh đó, với việc đối đầu với Liên Xô xấu
đi (phải nói chủ yếu là do hành động của chính ông) Mao Trạch Đông đã
có chút thèm muốn một cuộc chiến tranh toàn diện ở Đông Dương. Do đó, chính
sách của Trung Quốc sẽ bao gồm viện trợ cho Bắc Việt và MTGP ở phía nam, trong
khi thúc giục họ đánh Mĩ “không ngừng nghỉ” và tránh mọi cuộc đàm phán.
Nhưng Bắc Kinh cũng đã học được từ Triều Tiên là không quá liều lĩnh. Đến
năm 1967 Trung Quốc có 170 000 quân đóng ở VN để giúp miền Bắc VN phòng thủ,
trong khi sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp Mĩ vượt qua ranh giới giữa Bắc
và Nam VN. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nói với Bắc VN, “Ý tưởng cơ bản của
tôi là chúng ta nên kiên nhẫn. Kiên nhẫn đồng nghĩa với chiến thắng. Kiên nhẫn
có thể khiến các bạn khó khăn hơn, gánh chịu nhiều đau khổ hơn. Tuy nhiên
trời sẽ không sập, đất sẽ không dời, và người dân không thể bị tiêu diệt hoàn
toàn. Vì vậy, kiên nhẫn có thể được tưởng thưởng bằng chiến thắng, do đó gây
những thay đổi lịch sử, khuyến khích các nước châu Á, châu Phi, và châu Mĩ
Latin, và hạ gụt đế quốc Mĩ”.
Chính quyền Johnson cũng nhìn thấy cuộc chiến ở VN theo cách nhìn quốc
tế. Qua các năm 1965 và '66, tổng thống tin rằng sự yếu kém ở VN sẽ chuyển
thành những thụt lùi ở đâu đó trong Thế giới thứ ba và cũng có thể là ở
châu Âu. Johnson chủ yếu thấy điều này về mặt liên minh: nếu Hoa Kì không giữ
lời ở Đông Nam Á thì đồng minh và kẻ thù tiềm năng ở những nơi khác sẽ nghĩ gì?
Nhưng ông cũng cảm nhận (được các cố vấn khuyến khích) rằng mọi thứ
có thể sắp chuyển thành lợi ích của Hoa Kì ở một số vùng quan trọng của châu
Á, châu Phi và Mĩ Latin. Điều quan trọng, Johnson nghĩ, là giữ vững pháo đài
tại VN trong khi các nước mới khác (được
các chương trình trợ
giúp giúp đỡ và khuyến khích) đã quay lưng lại với chủ nghĩa cực đoan, hướng tới tự do và
tăng trưởng kinh tế. Khi nhận thấy rằng viện trợ nước ngoài không được công
chúng nói chung hoặc Quốc hội ủng hộ, tổng thống đã đưa ra một thông điệp
đặc biệt có dấu ấn của LBJ cả về hình thức lẫn nội dung. Johnson nói: “Đối
với những quốc gia hết lòng vì tiến bộ trong tự do, sự giúp đỡ từ chúng ta
và từ những nước khác có thể tạo ra sự khác biệt giữa thất bại và thành công. Đây
là trung tâm của vấn đề này .... Chúng ta sẽ để lại cho chúng ta và con cháu
chúng ta gặt hái tai ương nếu chúng ta thu nhỏ lại nhiệm vụ vật lộn với đói
nghèo và ngu dốt trong cộng đồng thế giới. Chính những hạ sĩ quan tuyển quân
vô cảm của chủ nghĩa cộng sản. Chúng nở rộ ở nơi nào chúng ta ngập ngừng.
Nếu chúng ta chểnh mảng nghĩa vụ của mình, chủ nghĩa cộng sản sẽ mở rộng
tham vọng của họ. Đó là phương trình nghiêm khắc chế định thời đại chúng ta,
và từ đó có thể không có lối thoát trong logic hoặc trong danh dự.”
Chính quyền Mĩ đã đúng khi thấy khoảng giữa thập niên 1960 là một bước
ngoặt trong Thế giới thứ ba, ngay cả khi họ đã sai lầm về những ảnh hưởng lâu
dài của bước ngoặt đó cho VN và phần còn lại của Đông Dương. Ở Algeria, từ
lâu là diễn đàn của cách mạng lâu năm của Thế giới thứ ba, quân đội đã
quay lưng với tổng thống Ben Bella và lật đổ ông ta trong
một cuộc đảo chánh vào tháng 6 năm 1965. Chỉ có phản kháng nhỏ. Đa số người Algeria cảm thấy rằng
Ben Bella nói rất hay nhưng thực hiện kế hoạch rất tồi. Họ muốn có một cách
tiếp cận thực tế và thực dụng hơn trong phát triển kinh tế, cho ra được các
kết quả thấy được cho những người đã từng đấu tranh rất lâu cho nền
độc lập của nước mình. Không phải vì có quá nhiều nội dung trong chương
trình của Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN) bị người dân phản
đối mà là vì việc thực hiện chúng tệ hại và việc tầng lớp chủ chốt
mới của cách mạng tự lấy mình làm trung tâm. Lãnh đạo quân đội, tướng
Houari Boumedienne mà lực lượng của ông đã ngầm chiếm lấy thủ đô Algeria
hành động như đóng vai phụ trong bộ phim The
Battle of Algiers của Gillo Pontecorvo, hứa hẹn nói ít làm nhiều, đó cũng
là những gì mà người Algeria có được trong những năm sau đó. Trong chính
sách đối ngoại và trong nhiều kế hoạch kinh tế của họ, Algérie đã đi gần Liên
Xô và rời xa lí tưởng của Thế giới thứ ba.
Tại Ghana, các sự kiện tương tự cũng đã diễn ra. Kwame Nkrumah, trong gần
một thập kỉ là nhà lãnh đạo không bị thách thức của nước này và người phát
ngôn chính của Thế giới thứ ba, bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự năm
1966. Nkrumah đã mất phần lớn sự ủng hộ của công chúng vì chính sách
kinh tế của ông chậm mang lại kết quả và ông ngày càng trở nên độc tài. Năm
1962, ông cách chức Chánh án tối cao. Hai năm sau, ông cấm tất cả các đảng
đối lập, biến Ghana thành một nhà nước độc đảng và tự cho mình làm tổng
thống trọn đời. Cuộc đảo chính xảy ra khi Nkrumah đang trên đường sang Trung
Quốc và Bắc VN, và các sĩ quan quân đội nắm quyền tuyên bố rằng một trong những
mục đích của họ là để cứu Ghana khỏi sự kiểm soát của cộng sản sắp xảy ra.
Trong cuốn sách Chủ nghĩa thực dân mới, giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa đế quốc, xuất bản 6 tháng trước khi bị lật
đổ, Nkrumah cáo buộc các đối thủ của mình bị chìm ngập trong “cơn lũ tuyên
truyền chống tự do [vốn] bắt nguồn từ các thủ đô phương Tây, nhằm chống lại
Trung Quốc, VN, Indonesia, Algeria, Ghana và tất cả các nước đang khai phá con
đường độc lập đi tới tự do của riêng mình.... Bất cứ nơi nào có cuộc đấu tranh
vũ trang chống lại các thế lực phản động thì những nhà yêu nước bị gọi
là bọn phiến loạn, kẻ khủng bố, hoặc thường là 'những tên khủng bố cộng sản'!”
Các cuộc đảo chính ở Algeria và Ghana là của trời cho đối với chính quyền
Johnson. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy CIA đã can dự trực tiếp trong các
biến cố này, chính phủ Hoa Kì đã khuyến khích và tỏ rõ sự ủng hộ đối với
những hành động đó của quân đội. Trong khi kết quả ở Ghana là một chế độ độc
tài quân sự có quan hệ chặt chẽ với Hoa Kì, kết quả ở Algeria lại u ám hơn theo
góc nhìn của Mĩ. Boumedienne không là đòn bẩy trong các vấn đề quốc tế,
và việc lập kế hoạch của ông tương tự theo kiểu Liên Xô đã được người Mĩ
biết rõ. Dù vậy, Washington vẫn thích ông nhiều hơn là nhà theo Thế
giới thứ ba Ben Bella. Khi điểm lại cuộc đảo chính, CIA nhận xét rằng “trong
nhiều khu vực của Algeria quân đội đã có thể đã cho ra sự lãnh đạo và điều
hành vững vàng hơn chính phủ Ben Bella hay đảng FLN.” Cách suy nghĩ như Liên
Xô đã trở nên ít thách thức đối với chính quyền Johnson bên ngoài châu Âu
bằng các nhà cách mạng chống đế quốc và bạn bè các loại của Trung Quốc
hoặc Cuba. Mặc dù chiến tranh lạnh đang tiếp diễn, Moscow đã trở thành một
loại kẻ thù 'bình thường' (người châu Âu, nghiêm túc, và khá dễ dự
đoán) trong khi Thế giới thứ ba là hỗn loạn và quá mức. Nằm
tại cốt lõi của những nỗi sợ hãi của Hoa Kì là nỗi nghi ngờ rằng bên đối kháng
tương lai đối với sự vượt trội toàn cầu của Hoa Kì có thể có vẻ là Trung Quốc
hay Cuba hơn là Liên Xô.
Nếu như có nhóm sự kiện nào làm cho Washington dừng kiểu cách suy
nghĩ này thì đó chính là sự thất bại của phe tả ở Indonesia và Congo
vào năm 1965. Cả hai thất bại này vẫn còn đưa ra tín hiệu rằng tương lai,
ít nhất là về mặt thách thức của cộng sản, có thể không nằm ở Bắc Kinh và
Havana. Theo những cách khác nhau, hai thất bại này cũng có thể cho thấy Thế
giới thứ ba như một lực lượng đối lập chính trị toàn cầu bắt đầu đến chỗ
kết thúc. Đối với Washington, hai cuộc phản cách mạng ở Indonesia và
Congo (và sau đó ở Bolivia) khẳng
định rằng chiến dịch của
Mĩ chống các toan tính của Thế giới thứ ba có thể có hiệu quả, nếu có
đồng minh mạnh tại chỗ là những người đã chiến đấu chống lại những kẻ
cực đoan vì những lý lẽ riêng của họ. Đó là loại bài học mà về mặt khái
niệm không thể áp dụng cho VN vì những đồng minh như thế không tồn tại ở đây
và vì có Trung Quốc hung hăng nằm ngay bên cạnh. Tuy nhiên, kết luận hợp
lí từ sự không thống nhất về việc Hoa Kì nên rút quân khỏi VN, là cũng
không thể thực hiện được vì sợ bị coi là yếu đuối, thiếu kiên quyết, và chủ
bại trong Chiến tranh Lạnh.
Kể từ khi Lumumba bị giết năm 1960, Congo đã chứng kiến sự đấu tranh
lẻ tẻ của cánh tả hay các nhóm ly khai chống lại một chính quyền trung ương
yếu được hậu thuẫn của Mĩ, Bỉ, và các công ty châu Âu quan tâm đến việc
khai thác tài nguyên khoáng sản khổng lồ của nước này. Cho đến năm 1964 một
cuộc nổi loạn quy mô lớn đã nổ ra ở miền đông Congo do những kẻ cực đoan
cầm đầu đã chiếm lấy Kisangani (lúc đó được gọi Leopoldville) và tuyên bố thành
lập nước Cộng hòa nhân dân. Khi quân đội Congo, được lính đánh thuê châu Âu, Nam
Phi và các cố vấn Mĩ trợ giúp, tiến gần tới Kisangani, phiến quân bắt
nguười châu Âu làm con tin và đe dọa sẽ giết họ nếu tiếp tục tấn công. Thủ
tướng Moïse Tshombe, người chịu trách nhiệm về việc giết chết
Lumumba, kêu gọi phương Tây can thiệp. Tháng 11 năm 1964 Tổng thống Johnson
quyết định đưa máy bay Mĩ chuyển quân Bỉ tới miền đông Congo để di tản các
con tin. “Chúng ta không thể chỉ việc đứng nhìn bọn ăn thịt người giết chết
hàng loạt người”, tổng thống nhận xét từ trang trại của ông ở Texas. Dù
có hơn 1 000 con tin được giải thoát, vẫn còn 200 người khác đã bị
giết, cùng với hàng ngàn người Congo. Nhờ hoạt động nước ngoài rộng lớn do
CIA điều khiển, chính phủ Congo dần dần nắm quyền kiểm soát lãnh thổ nổi loạn
và sự trả thù tàn khốc của họ.
Sự can dự của Mĩ ở Congo dẫn đến những phản ứng giận dữ từ các
nước châu Phi khác, không nhiều mấy vì lòng yêu mến dành cho các phiến
quân Congo vốn thường được coi là vô tổ chức và không có đầu óc, mà vì nó
liên quan đến các chủ thuộc địa cũ Bỉ. Các Simbas (sư tử) còn lại, như những
người còn sống sót của nước Cộng hòa Nhân dân tự gọi mình, nhận được sự
giúp đỡ từ Ai Cập và Algeria, mà còn từ những Cuba, nước này cử Che Guevara
với một lực lượng đặc nhiệm hơn một trăm người để chiến đấu với họ vào tháng 4
năm 1965. Che đã trãi qua bảy tháng không kết quả trong những khu rừng đông
Congo, ngày càng thất vọng vì phiến quân không có sự phối hợp và lãnh đạo của
họ có xu hướng thích cuộc sống cao sang ở Cairo hơn là viếc chiến đấu gian
khổ ở Congo. Vào cuối năm 1965 quân nổi dậy đã bị đánh bại. Hoa Kì đã "dẹp
tan cuộc nổi loạn ở Congo", cố vấn an ninh quốc gia Johnson, Robert
Komer, nói với các ông chủ của ông. “Chúng ta và người Bỉ trên thực tế đã đưa
tín hiệu cho Tshombe và cung cấp cho ông ta mọi thứ ông nghĩ ông cần - tiền
bạc, vũ khí, cố vấn.”
Một thế giới cách xa Congo, Indonesia thậm chí còn nằm ở vị trí cao
hơn trong danh sách những điểm rắc rối quốc tế của Mĩ. Những người yêu nước Indonesia,
do Sukarno đứng đầu, đã giành được độc lập từ Hà Lan vào năm 1949 với Hoa Kì
như một trợ thủ cho việc giải phóng. Một phần lí do của việc Washington quyết
định thúc đẩy Hà Lan đến việc trao trả độc lập hoàn toàn cho thuộc địa cũ của
họ là vì Sukarno có vẻ là một người chống cộng cứng rắn. Năm 1948, quân đội
của ông ta đã tiến hành một cuộc nội chiến ngắn với Đảng Cộng sản Indonesia
(PKI) hùng mạnh và giành chiến thắng quyết định. Nhưng khi Sukarno bắt đầu
quan tâm nhiều hơn tới các cuộc đấu tranh chống thực dân trên toàn cầu và làm
cho các chính sách kinh tế của mình trở nên cấp tiến hơn, thì Indonesia mất đi sự ưu ái của Mĩ. Tại Washington, hội nghị Bandung, nơi Sukarno là nước
chủ nhà giữ vai trò lãnh đạo, được coi là một thách thức đối với chính
sách đối ngoại của Mĩ, và Sukarno đã trở thành một tên đáng ghét (bête noire) khác của chính quyền Eisenhower. Khi Tổng thống Indonesia quay trở lại tập
trung quyền hành cao độ và hợp tác với Đảng cộng sản hồi sinh vào năm 1957,
sự kiên nhẫn của Mĩ đã xuống thấp. Với sự trợ giúp của Anh và Hà Lan, chính
quyền Eisenhower đã thực hiện một chương trình bí mật giúp phe nổi loạn Hồi
giáo chống Sukarno ở Sumatra. Dulles nói với đối tác Anh rằng: “Chúng ta phải
ngăn chặn Indonesia tiến về phía cộng sản. Nếu cộng sản trở nên ưu thế ở Java thì điều tốt nhất nên làm là làm suy yếu hệ thống
của họ bằng cách tạo nên sự độc lập cho các hòn đảo bên ngoài, bắt đầu với
Sumatra.”
Chiến dịch của CIA chống Sukarno đã thất bại, nhưng dễ hiểu là đã làm cho nhà lãnh đạo Indonesia ý thức rằng người Mĩ đã tìm cách để tóm ông.
Trong những năm 1960, các chính sách của ông đã trở nên có chủ ý hơn trong
việc xây dựng một nhà nước trung tâm mạnh mẽ cho tất cả người dân Indonesia mà
theo quan điểm của ông nên bao gồm toàn bộ Borneo, New Guinea, và kể cả bán
đảo Malaysia. Ông đã tìm cách chính thức hóa liên minh giữ ông nắm quyền, qua
việc tuyên bố rằng chính phủ của ông dựa trên Nasakom: dân tộc, tôn giáo, và cộng
sản. Khi Malaysia trở thành độc lập vào năm 1963, có thể đoán được là Sukarno
đã tố cáo quốc gia mới này là một nhà nước bù nhìn của thực dân mới Anh
và bắt đầu một cuộc chiến tranh tầm thấp kéo dài ba năm chống nước này, mà
những người Mã Lai gọi là konfrontasi,
sự đối đầu. Với việc lực lượng Indonesia đối đầu với lực lượng Anh và Austrlia
ở Borneo, và Đảng Cộng sản đạt được chỗ đứng về chính trị ở Indonesia, Hoa
Kì tuyệt vọng trong tìm kiếm một chính sách. Chính quyền Johnson đã lúng túng.
Tổng thống muốn rút lại tất cả viện trợ cho nước này, nhưng Lầu năm góc và CIA
khuyến nghị tiếp tục tiếp xúc với quân đội, hi vọng rằng các sĩ quan của họ sẽ
hành động chống lại Sukarno.
Nhưng Washington không phải là cường quốc duy nhất rào dậu trong quan
hệ của mình với kẻ gây rối thuộc Thế giới thứ ba. Liên Xô đã bị Sukarno chỉ
trích là già cỗi, trắng bệch, và chậm chạp, và bị PKI chỉ trích là xét lại,
giống như cách Trung Quốc chỉ trích. Tuy nhiên, Liên Xô hiển nhiên là nhà
cung cấp vũ khí lớn nhất. Giống như Mĩ, Moscow vẫn giữ liên lạc với các sĩ
quan trong quân đội Indonesia nhưng ít có ảnh hưởng chính trị trực tiếp. Trái
lại, Trung Quốc dường như gần gủi với cả Sukarno lẫn cộng sản Indonesia.
Vào đầu những năm 1960, với sự chia rẻ Trung-Xô là rõ ràng, tổng thống
Indonesia nghĩ rằng ông có thể kéo Bắc Kinh đứng nào sân chung với Thế giới
thứ ba chống đế quốc và chống Chiến tranh lạnh. Trong những bài diễn văn và bài
viết, ông ca ngợi tầm quan trọng của Trung Quốc. Nhưng Mao Trạch Đông cũng
không được thuyết phục về mối quan hệ này. Khi vị thế của Mao chuyển xa về phía tả
vào giữa thập niên 1960, Sukarno và chế độ của ông dường như ít được tin cậy
hơn, đơn giản vì đó là một chính phủ “tư sản” và không phải là một chính phủ
xã hội chủ nghĩa đích thực.
Khi căng thẳng diễn ra ở Indonesia, Sukarno dường như quá phóng to về
tình hình chính trị xáo trộn. Ông gọi năm 1965 là “năm sống nguy hiểm” và đã
tăng cường quyết tâm thay đổi chính trị và kinh tế. Sự thiếu thận trọng của
ông đã cho thấy trong việc tự huỷ công việc đã làm quay về tình trang
cũ. Mùa hè năm 1965, các sĩ quan cao cấp không hài lòng với đề xuất của tổng
thống lập ra một lực lượng dân quân vũ trang song song với quân đội chính quy.
Trong khi đó, Cộng sản lo sợ về sức khoẻ của Sukarno, dựa
trên thông tin từ các bác sĩ Trung Quốc của ông. Họ cho rằng với việc ông ta ra đi, các viên tướng sẽ quay lại chống họ lần nữa.
PKI ra tay trước,
với việc quyết định cho
các sĩ quan cấp thấp cộng
sản tiến hành
một cuộc đảo chánh ngày 30 tháng 9 năm 1965, trong đó 6 tướng bị giết. Nhưng các tướng còn
lại, do Suharto lãnh đạo, đã phản công và
nắm quyền kiểm
soát Jakarta, 'bảo
vệ' Sukarno và đưa đảng cộng sản Indonesia ra ngoài vòng pháp luật.
Cuộc đảo chính ở Jakarta đã được nối tiếp bằng một số vụ
giết người tồi tệ nhất trong suốt thời kì Chiến tranh Lạnh. Những người theo chủ nghĩa quốc gia cánh hữu trong quân
đội và một số nhà lãnh đạo Hồi giáo đã phát động và tổ chức các cuộc thảm sát
những người cộng sản vốn có vẻ hầu như không chuẩn bị cho sự tàn bạo của các
vụ tấn công. Những người thiểu số bị nghi ngờ, thường không có lí do, là đã hợp tác
với cộng sản cũng bị tấn công hung bạo. Đặc biệt là cộng đồng người Hoa
bị đánh nặng nề nhất. Cộng chung, có ít nhất nửa triệu người đã thiệt mạng,
chủ yếu là bị chặt đầu hoặc treo cổ. Một nhân chứng nói, “Giống như sét đánh, mã
tấu của người hành quyết lia nhanh qua cổ nạn nhân, một người sửa xe đạp
một mắt, không quyền lực. Đầu ông bị quăng vào giỏ. Sau đó, hai tay ông được
cởi trói để trông như thể ông chết mà không bị trói trước. Lúc đầu, cái xác
không đầu của ông chìm mất dưới mặt nước, rồi cuối cùng nó cũng đã nổi lên.
Người kế tiếp bị giết là một phụ nữ; Tôi không biết cô ấy là ai.” Ở một phần
của đất nước, các con sông dày đặc với xác người đến nổi nước không chảy được.
Toà đại sứ Hoa Kì đã góp phần vào các vụ giết người này với việc cung
cấp cho quân đội danh sách những người cộng sản.
Trên toàn thế giới, tất cả các bên dường như nhẹ nhỏm
vì Sukarno đã ra đi. Người Mĩ có lí do nhất để được giải tỏa. “Cuối cùng
chúng ta có Sukarno trên đường chạy trốn,” Robert Komer đã viết thư cho tổng
thống Johnson. “Thật khó để đánh giá quá cao tầm quan trọng tiềm tàng của chiến
thắng rõ ràng của quân đội đối với Sukarno. Indonesia ... quả đang trên đà trở
thành một nước cộng sản bành trướng, điều này có thể gây nguy hiểm cho hậu
phương toàn bộ vị trí của phương Tây ở lục địa Đông Nam Á. Bây giờ... xu hướng
này đã bị đảo ngược rõ rệt.” Liên Xô liếm vết thương của mình nhưng đổ lỗi
cho Sukarno và PKI về thảm họa này. Trung Quốc, theo quan điểm Maoist cục bộ
của họ, cũng không bị xao động. Bộ trưởng ngoại giao Trần Nghị (Chen Yi)
nói: “Tôi nghĩ sẽ là một điều tốt nếu Sukarno bị lật đổ. Sukarno có thể làm
trung gian giữa phe tả và phe hữu. Nhưng tương lai của Indonesia phụ thuộc
vào cuộc đấu tranh vũ trang của PKI. Đây là điều quan trọng nhất.” Những điều tưởng
tượng của Trần Nghị đã sớm bị xua tan. Đảng cộng sản mạnh mẽ nhất bên
ngoài khối Xô Viết đã bị nghiền nát mãi mãi, và Indonesia đã bước vào 30 năm cánh
hữu nắm quyền độc tài.
Việc rất
nhiều nhà lãnh đạo Thế giới thứ ba bị lật đổ vào giữa những năm 1960 có
nghĩa là cả phong trào này bị rơi vào khủng hoảng. Nổi cộm là việc hội
nghị Á-Phi dự trù tổ chức ở Algiers vào mùa thu năm 1965 không bao giờ diễn
ra. Một trong các đại biểu cho biết, thất bại của cuộc họp bị huỷ là “bia mộ của
thế giới Á-Phi.” Nhiều nước khác trong nhóm Á-Phi, như Ai Cập, Algeria,
Syria, Iraq và Ấn Độ, bắt đầu tự hướng mình về phía Liên Xô, ít nhất là về
mặt trợ giúp và các mô hình phát triển. Cuba và Nam Tư, nói rằng những người
cộng sản mặc dù có nhiều dạng khác nhau, cũng đều làm tăng ảnh hưởng của mình.
Các nước khác thuộc Thế giới thứ ba bắt đầu chú trọng đến các lợi ích kinh
tế của mình nhiều hơn, thường liên quan đến việc xuất khẩu các nguồn tài
nguyên như dầu lửa. Đối với người Mĩ, chắc chắn cảm thấy nhẹ nhỏm về
việc này. Nhưng những chiến thắng này phải được củng cố thêm lên. Robert
Komer khuyên Johnson, “Khi bày tỏ sự hài lòng của mình với ngoại trưởng và
những người khác đối với cuộc đảo chánh ở Indonesia và Ghana, tổng thống cần
nói rõ rằng chúng ta nên khai thác những thành công đó một cách nhanh chóng và
khéo léo nhất tới mức có thể được.”
Việc quay
lưng lại với những lí tưởng của Thế giới thứ ba ở châu Á và châu Phi đã làm
cho các cách tiếp cận của Mĩ ở VN và Đông Dương trở nên cứng rắn hơn. Bây
giờ nhìn lại thật dễ thấy rằng chính quyền Johnson đã rút ra những bài học
sai lầm từ khúc quanh giữa thập niên 1960. Họ cho rằng sự cương quyết của Mĩ
ở VN đã góp phần đáng kể làm cho các nơi khác rời bỏ chủ nghĩa cực đoan, mặc
dù ngay cả CIA cũng không tìm thấy bằng chứng cho điều đó. Việc thiếu óc tưởng
tượng trong chính sách của Mĩ đối với VN từ giữa những năm 1960 là nổi bật. Đối
mặt trước tình hình bất ổn chính trị tiếp diễn ở Nam VN, Ngoại trưởng Dean
Rusk kết luận vào tháng 4 năm 1966 rằng “đối với các quốc gia bị đe doạ ở châu
Á, chúng ta phải tự hỏi chính mình liệu thất bại ở VN do những khó khăn chính
trị rõ ràng là ngoài sự kiểm soát của chúng ta sẽ ít nghiêm trọng hơn thất
bại mà không có yếu tố này hay không.” Câu hỏi đặt ra là liệu có bất kì một
đường hướng phòng vệ vững chắc nào ở Đông Nam Á không nếu VN bị đổ. Ở đây,
chúng ta phải thừa nhận rằng chế độ chống cộng ở Indonesia đã là một “bước đột
phá” to lớn đối với chúng ta .... Nhưng trong một hoặc hai năm nữa cơ hội nắm
giữ phần còn lại của Đông Nam Á đều dựa trên cùng các yếu tố được đánh giá
cách đây một năm, liệu Thái lan và Lào trong trường hợp đầu tiên rồi
Malaysia, Singapore, và Miến Điện gần kề phía sau (khi đối mặt với thất bại của Hoa Kì vì bất kì lí do nào ở VN) có còn ý chí sót lại đáng kể nào trong việc chống
lại áp lực của cộng sản Trung Quốc có lẽ sẽ tác động vào lúc đó.... Thái
Lan đơn giản không thể giữ được trong tình huống này, và phần còn lại của
Đông Nam Á có lẽ sẽ theo đúng tiến trình. Nói cách khác, cục diện chiến lược ở
Đông Nam Á về cơ bản vẫn không bị bản chất chính trị của nguyên nhân thất bại ở
VN làm thay đổi. Điều tương tự gần như chắc chắn cũng đúng với những làn
sóng thần sẽ nổi lên với các quốc gia tự do khác (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, và Philippines) ở khu vực rộng lớn hơn của Đông Á.
Vì thế, Hoa
Kì đã tiếp tục chiến đấu ở VN, ngay cả khi thắng lợi dường như khó nắm bắt.
Theo lời khuyên của Lầu năm góc, chính quyền Johnson đã đổ thêm nhân lực và tài
nguyên vào đất nước này, xây dựng sân bay, cảng nước sâu, căn cứ và bệnh viện,
cộng với sự trợ giúp dân sự cho chính quyền miền Nam, có vẻ ngày càng cho
nhiều hơn cho việc đánh nhau và ngày ít hơn về khả năng tự bảo vệ. Chiến
dịch không quân Mĩ đã được mở rộng, sử dụng máy bay ném bom B-52 cho các mục
tiêu bên trong Bắc VN. Chiến lược (nếu có thể gọi
như thế) là triển
khai quân đội Hoa Kì chiến đấu ở vùng biên khu vực phòng thủ của miền Nam VN
để gây thiệt hại tối đa cho các đơn vị MTGP và Bắc VN. Quân đội Nam VN sau đó sẽ
có thể đối phó với các chiến binh MTGP trong những phần cốt lõi của Nam VN.
Lí thuyết đưa tiếp là khi số thương vong của cộng sản tăng thêm thì sẽ đi đến
điểm mà Hà Nội không còn cách nào khác ngoài việc đi đến bàn đàm phán theo các
điều kiện của Hoa Kì.
Không có yếu
tố nào trong chiến lược này có được kết quả. Quân Mĩ dưới quyền Tướng
William Westmoreland gây ra thiệt hại to lớn cho lực lượng cộng sản. Có
800 000 lính Bắc VN và MTGP đã chết trong chiến tranh, so với tổng cộng 58 000
lính Mĩ. Nhưng những chiến thắng của Mĩ trên chiến trường không thể chuyển được
thành việc giữ được lãnh thổ. Ngay sau khi người Mĩ đi tiếp, các đơn vị cộng
sản đã chuyển vào trở lại. Có nhiều khu vực ban ngày do Nam VN và người Mĩ
nắm giữ, ban đêm do MTGP kiểm soát. Sự trung thành của người dân địa phương đối
với chính quyền Sài Gòn khá mờ nhạt trên khắp đất nước. Mặc dù hầu hết nông
dân chỉ muốn thoát khỏi cuộc chiến, một số lượng đáng kể thanh niên nam nữ đã
tình nguyện chiến đấu cho cộng sản. Để khắc phục vấn đề kiểm soát, Mĩ và Nam VN
đã bắt đầu đưa nông dân vào “các ấp chiến lược”, nơi mà (bề ngoài có vẻ) họ sẽ
được lợi về chỗ ở và giáo dục tốt hơn. Trên thực tế, đó là để giữ cho nông
dân không tiếp xúc với MTGP. Nhưng kết quả của cách hoạch định xã hội thời chiến
như vậy thường là trái ngược với những gì mong muốn, vì người dân miền Nam không
hài lòng khi bị chuyển khỏi vườn đất tổ tiên và làng quê của họ.
Như trong tất
cả các cuộc xung đột trong Chiến tranh Lạnh, dân thường đã phải gánh chịu thương
đau to lớn. Khoảng 50 000 người ở Bắc VN đã chết trong các vụ đánh bom của
Mĩ. Hoa Kì đã bỏ nhiều bom ở Bắc VN hơn ở Nhật Bản trong suốt Thế chiến II.
Hơn 200 000 người đã chết trong các chiến dịch chính trị của cộng sản ở
phía bắc và phía nam. Hàng trăm nghìn người đã trở thành người tị nạn trên
chính đất nước của mình, và hàng chục ngàn người đã bị thương do việc Hoa
Kì dùng bom lửa napalm hoặc chất độc Da cam. Bây giờ có vẻ Chiến tranh VN
là một trong những biểu hiện bi thảm nhất của Chiến tranh Lạnh, đánh nhau với
số thương vong to lớn mà không có mục đích chính đáng.
Một trong những
lí do chính khiến chiến lược của Mĩ lại không có kết quả là do sự trợ giúp
của Trung Quốc và Liên Xô cho Bắc VN. Lê Duẩn đàm phán với các đồng minh
của ông cách khôn khéo. Mặc dù Moscow và Bắc Kinh có mâu thuẫn trong suốt cuộc
chiến tranh của Mĩ ở VN, nhưng Hà Nội vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ từ cả
hai, ngay cả sau khi Trung Quốc và Liên Xô gần đi tới đánh nhau vào năm 1969.
Hà Nội đã đạt được điều này một phần bằng cách biến sự trợ giúp cho Bắc VN thành
thuốc thử cho sự hết lòng quốc tế chủ nghĩa cho mục đích này và một phần
bằng cách khích cho hai cường quốc Cộng sản đua nhau về mặt trợ giúp. Cho đến
năm 1965, sự ủng hộ quân sự và dân sự của Trung Quốc đối với Bắc Việt có to
lớn hơn nhiều so với những gì đến từ Liên Xô. Bắc Kinh và Hà Nội cũng gần
gũi hơn về mặt chính trị, với các nhà lãnh đạo cộng sản VN ủng hộ việc Trung
Quốc cáo buộc Liên Xô là 'xét lại' và 'thiên hữu'. Nhưng sự cực
đoan của Mao trong cách mạng văn hoá đã làm thay đổi mối quan hệ. Bắc VN không
hài lòng vì liên tục bị nhắc nhở phải hành xử chính trị trong nước như thế
nào và phải tránh 'xúc phạm' Trung Quốc với việc nói tới viện trợ của cả Liên
Xô lẫn Trung Quốc. Vệ binh đỏ hình thành từ các cố vấn Trung Quốc đã tập
hợp ở Hà Nội và Hải Phòng để hô hào người VN lên án chủ nghĩa xét lại và học
hỏi chủ tịch Mao. Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa Mao đã chặn hàng
viện trợ quân sự của Liên Xô đến qua ngã Trung Quốc lại. Tại Bắc Kinh, chủ tịch
Mao vẫn nhấn mạnh rằng ông là người phán xét cuối cùng về việc người VN phải
tiến hành cưộc chiến như thế nào. Khi gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng và tướng
Võ Nguyên Giáp năm 1967, Mao nói với họ rằng “đánh giặc cũng giống như ăn: tốt
nhất là không cắn miếng quá to. Khi đánh nhau với quân đội Mĩ, các đồng
chí có thể cắn cỡ một trung đội, một đại đội, hoặc một tiểu đoàn. Còn
với quân đội của chế độ bù nhìn thì các đồng chí có thể có cắn cỡ một trung
đoàn. Tức là đánh nhau cũng giống như ăn uống, các đồng chí phải cắn từng
miếng một. Rốt cuộc, đánh nhau không phải là một nhiệm vụ quá khó. Cách
tiến hành nó giống y như cách ăn.”
Không có gì
đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo chính trị ở Hà Nội bị để lại ấn tượng rằng
Trung Quốc sẵn sàng đánh Mĩ tới người VN cuối cùng. Do đó, họ ngày càng quay
sang Liên Xô. Và Liên xô sẵn sàng đáp lại. Liên Xô nhìn thấy một cơ hội để làm
nhục Mĩ và trừng phạt Trung Quốc. Sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Bắc VN đã tăng
lên cao độ vào năm 1967, cả về quân sự lẫn dân sự. Nhưng cùng lúc đó, Moscow
khuyên Lê Duẩn và bộ sậu hãy đàm phán khi có cơ hội. Mục đích của Liên Xô nhằm
đảm bảo rằng cuộc chiến tranh của Mĩ ở VN đi tới chỗ tồi tệ, trong khi cho
thấy Moscow giữ vai trò là bên khuyến khich đàm phán. Dễ hiểu việc Bắc VN
quyết định cố đạt được những chiến thắng đáng kể và đột ngột trên chiến trường
để họ có thế mạnh trong quan hệ với các nhà bảo trợ của mình cũng như với
miền Nam VN và Mĩ. Những thắng lợi như vậy, theo Lê Duẩn, sẽ rất quan trọng khi
đàm phán bắt đầu. Nhưng ông cũng hi vọng có sự sụp đổ của chế độ Nam VN và chiến thắng hoàn toàn.
Cuộc tấn
công Tết Mậu Thân của Bắc VN và MTGP bắt đầu vào tháng 1 năm 1968. Hà Nội ra lệnh
tiến hành một cuộc tấn công quân sự toàn diện và tổng nổi dậy ở miền Nam.
Mặc dù không đạt được mục tiêu tối đa, cuộc tấn công đã làm rung chuyển cơ cấu
quyền lực của Nam VN và gây ra nhiều nghi ngờ về hiệu quả của cam kết của Hoa
Kì đối với chế độ tại Sài Gòn. Các đơn vị cộng sản đã tấn công khắp đất nước,
kể cả các khu vực trung tâm thủ đô. Tại đó họ vào bên trong toà đại sứ Mĩ, chiếm
đài phát thanh chính, và chiến đấu xung quanh dinh tổng thống. Những hoạt động
này và những “hoạt động ngoạn mục” tương tự khắp Nam VN trên thực tế là những
sứ mệnh tự sát, nơi mà các chiến binh Cộng sản chủ yếu bị giết trong vòng vài
giờ. Các tăng cường từ các đơn vị lớn hơn chẳng bao giờ đến, và cuộc tổng nổi
dậy đã không trở thành hiện thực. Nhưng việc đánh nhau tại Sài Gòn và các
thành phố khác đã được trình chiếu trên truyền hình Mĩ vào giờ trọng điểm, ở
đó một số phóng viên tin tức bắt đầu đặt câu hỏi về hiệu quả của chiến tranh.
Walter Cronkite của CBS, vừa từ VN trở về, nói với khán giả rằng “chúng tôi đã quá
thất vọng với sự lạc quan của các nhà lãnh đạo Mĩ, cả ở VN lẫn Washington, để
có niềm tin dài lâu hơn vào cái may trong cái rủi ro nhất ... Vì bây giờ
dường như chắc chắn hơn bao giờ hết rằng kinh nghiệm đẫm máu của VN sẽ phải kết
thúc bằng một bế tắc... Đối với phóng viên này ngày càng rõ ràng rằng cách hợp
lí duy nhất lúc đó sẽ là thương lượng, không phải với tư cách là người chiến
thắng mà là người trọng danh dự vốn đã cam kết bảo vệ dân chủ, và đã làm hết
sức mình.”
Khoảng
1 500 lính Mĩ thiệt mạng và 7 000 bị thương trong cuộc tấn công Tết
Mậu Thân. Mặc dù cộng sản có thể bị thiệt hại gấp 20 lần, nhưng ấn tượng rằng
cuộc chiến tranh không thắng được đã bắt đầu lan rộng ở Hoa Kì và trong các
đồng minh. Từ năm 1967 đã có những cuộc biểu tình quy mô lớn chống chiến tranh
trên khắp nước Mĩ, do các tổ chức sinh viên hoặc các nhóm hoạt động độc lập tổ
chức. Xảy ra cùng lúc là tinh thần đấu tranh của phong trào người Mĩ
gốc Phi cũng tăng lên, nhiều người Mĩ bắt đầu cảm thấy rằng đất nước đã mất phương
hướng và sự hỗn loạn đang đe dọa. Đối với hầu hết người biểu tình, việc chống chiến
tranh ở VN và áp bức chủng tộc tại Mĩ là một và như nhau. “Bắn họ vì cái gì?
Họ không bao giờ gọi tôi là một thằng mọi (nigger),” nhà vô địch quyền anh hạng
nặng của thế giới, Muhammad Ali nói với những người đang cố bắt ông vào lính.
Ngay cả Martin Luther King Jr., nhà lãnh đạo dân quyền chừng mực, đã tuyên bố
vào tháng 4 năm 1967 rằng “sẽ tới lúc im lặng là phản bội: thời điểm đó đã đến
cho chúng ta trong quan hệ với VN.... Chúng ta đang lấy thanh niên da đen vốn
đã bị què quặt bởi xã hội chúng ta và gửi họ tới chỗ cách xa 8 000 dặm để đảm
bảo quyền tự do ở Đông Nam Á mà quyền này lại không tìm thấy ở tây nam Georgia
và đông Harlem .... Tôi đã cố gắng dành cho họ niềm thương cảm sâu sắc nhất
trong khi vẫn duy trì niềm tin rằng thay đổi xã hội phải đến một cách có ý
nghĩa nhất thông qua đấu tranh bất bạo động. Nhưng họ hỏi, và hỏi đúng ‘Còn
VN thì sao?’ Họ hỏi nếu như nước chúng ta không sử dụng bạo lực quá liều
lượng để giải quyết các vấn đề của VN, để mang tới những thay đổi mà VN muốn.
Câu hỏi của họ đã đụng tới Mĩ và tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ cất tiếng
nói chống lại bạo lực của những người bị áp bức trong khu phố ghetto lần nữa
mà trước hết không nói rõ ràng với kẻ chuyển tải bạo lực lớn nhất thế giới
hôm nay: chính phủ của chính tôi.”
Cuộc chiến tranh ở VN hủy hoại
uy tín tổng thống của Lyndon Johnson và khiến ông quyết định không tái tranh cử
vào năm 1968. Theo nhiều cách, đó là một bi kịch: một chính quyền vốn có khát
vọng cao như vậy cho chuyển đổi trong nước Mĩ, và đã hoàn thành rất nhiều
điều, đã bị hủy hoại bởi một cuộc chiến tranh ở nước ngoài mà nó dấn vào vì
sự thiếu hiểu biết và vì lề thói của Chiến tranh Lạnh. Nhưng có thể có nhiều
sự nhất quán hơn trong cách tiếp cận thế giới của Lyndon Johnson so với mức
ông thường được ghi nhận. Đối với ông, cũng như đối với Kennedy, cải cách
trong nước và chống Chiến tranh Lạnh là đi đôi với nhau. Hoa Kì không thể thành
công trọn vẹn mặt này nếu không thành công mặt kia. Bi kịch thật sự của VN
ở Mĩ là nó đã trở thành chất xúc tác cho thất bại trên cả hai mặt này.
Johnson để đất nước của mình trở nên mất phương hướng về những gì có thể đạt
được trong nước và cảm thấy không an toàn về cách nó có thể ảnh hưởng đến
các sự kiện ở nước ngoài hơn bao giờ hết trong thế kỉ XX.
Bi kịch thật sự của VN dĩ
nhiên là bi kịch của VN. Như với Triều Tiên, VN đã bị Chiến tranh
Lạnh làm tan tác, qua sự tàn bạo lẫn các kế hoạch phát triển thất bại của Đảng cộng sản, cũng
như qua sự chiếm đóng và đánh bom của Mĩ. Sự khác biệt với Triều Tiên là cộng
sản VN hầu như độc quyền về chủ nghĩa hoạt động yêu nước, và các nhà lãnh đạo
Nam VN không bao giờ có thể thành lập được chính phủ đáng tin cậy của chính họ.
Liệu điều này có khác đi nếu như Nam VN có nhiều thời gian để tự lập? Không có
bằng chứng cho điều đó. Ngược lại, Hoa Kì đã chi nhiều tiền và công sức cho VN
hơn bất kì cuộc can thiệp nào khác trong Chiến tranh Lạnh. Việc Mĩ không
thành công không phải là do thiếu nỗ lực. Có lẽ chính vì VN không phải là chỗ
đúng cho can thiệp.
Khi chiến tranh VN chuyển dần
sang đàm phán thực sự, rõ ràng là sự can thiệp của Mĩ ở đó đồng nghĩa với
một sự giảm mạnh trong hậu thuẫn cho vai trò của Mĩ trên toàn cầu. Đó là
một điều trớ trêu đúng vào lúc phần lớn châu Phi và châu Á bắt đầu quay lưng
với đề án của Thế giới thứ ba và Cuba thất bại trong việc cách mạng hóa Mĩ
Latin, Hoa Kì đã bị mắc kẹt trong một trong số ít xung đột mà nó không thể thắng
được. Về mặt cảm tính, nó đã trả một mức giá cao cho sự điên rồ của mình.
Nhiều đồng minh Châu Âu của Hoa Kì đã kêu gọi chấm dứt vô điều kiện việc đánh
bom Bắc VN. De Gaulle của Pháp, với tính đỏng đảnh đặc trưng sau thảm họa
của chính Pháp ở Đông Dương, gọi cuộc chiến tranh này là cuộc "toàn quốc
kháng chiến" của VN chống Hoa Kì, và việc leo thang của Mĩ là "ảo tưởng" gây
khiêu khích với Trung Quốc và Liên Xô và đã bị "một số lượng lớn các dân tộc
Châu Âu, Châu Phi, Mĩ Latinh lên án và ngày càng đe dọa đến hòa bình thế giới.”
Về mặt Chiến tranh lạnh toàn cầu,
sự can thiệp của Hoa Kì vào Đông Dương đã tạo cơ hội cho Liên Xô tái khẳng định
mình như là sự thay thế phổ quát đối với sự thống trị của Mĩ và sự bóc lột
của chủ nghĩa tư bản. Tính từ cuộc nổi dậy ở Hungary đến bức tường Berlin và cuộc
khủng hoảng ở Congo, Liên Xô dường như tụt lại phía sau. Bị thách thức bởi sức
mạnh của Mĩ, cũng như bởi sự bất mãn ở Đông Âu, sự đổ vỡ với Trung Quốc, và sự
hình thành của Thế giới thứ ba, Liên Xô và hệ thống của họ có vẻ lạc điệu
với cách thế giới đang chuyển biến. VN đã cho họ một cơ hội để lấy được sức mạnh.
Việc tái khẳng định này xảy ra do những thất bại của người khác ít có liên quan
đến câu chuyện hơn là do chính họ đạt được vào thời điểm đó. Nếu nghĩ
theo cách lưỡng cực, như nhiều người đã làm trong Chiến tranh Lạnh, thì cục
diện ít nhiều không đổi khác. Cái mất
của Mĩ được coi là cái được của Liên Xô.
Mặc dù sự tập trung vào VN đã
không làm chuyển sự chú ý của Mĩ khỏi châu Âu, nơi mà NATO vẫn còn mạnh mẽ dù
de Gaulle và những người khác thách thức, nhưng có thể nó đã ngăn chính quyền
Johnson không dấn vào các cuộc khủng hoảng mới. Một trong số đó là vấn đề người
tị nạn Palestine tại Trung Đông, nơi căng thẳng lại tăng lên lần nữa.
Johnson đã tăng sự ủng hộ của Mĩ cho Israel, mà ông coi là một hòn đảo ổn định
kiểu phương Tây trong một khu vực hỗn loạn. Do Thái nhận được nhiều sự trợ giúp
dân sự hơn, cũng như tiếp cận các thiết bị quân sự như máy bay ném bom và xe
tăng. Johnson cũng cố ý nhắm mắt làm ngơ trước chương trình vũ khí hạt nhân của
Israel. Năm 1965, tổng thống nói với một trong những thành viên nội các gốc Do
thái, Abraham Ribicoff, ông coi trọng làm việc với người Do Thái đến mức
nào. “Tôi đã có một cuộc điện thoại đường dài từ [Thủ tướng Israel Levi]
Eshkol hôm qua (một cuộc
nói chuyện thật sự tốt) vào ngày
sinh nhật của tôi. Tôi đã thực sự cứu ông ta, và đã giúp ông thiết bị và các thứ.
Tôi đã thực hiện nó một cách lặng lẽ, và, tôi nghĩ, khá hiệu quả.” Người
Palestine đơn giản đã không có mặt trong phương trình.
Một sự thiếu sót khác là những
sự phát triển ở Nam Phi, nơi mà người Bồ Đào Nha bám vào đế chế đổ nát của họ
và các chế độ coi người da trắng ưu việt đang phát triển ở Nam Phi và
Rhodesia. Nam Phi là vấn đề xoá thực dân lớn cuối cùng, và Johnson đã tim
cách né tránh nó tới mức có thể. Mặc dù không nghi ngờ gì về việc ông ghê
tởm chế độ apartheid (phân biệt chủng tộc) ở Nam Phi (Johnson, xét cho cùng, là tổng thống ủng hộ dân quyền
lớn nhất trong lịch sử Hoa Kì) ông cảm thấy
rằng cần đưa cả Nam Phi và Bồ Đào Nha vào cuộc về mặt Chiến tranh Lạnh.
Robert Komer đã nêu tình huống lưỡng nan của Johnson cho ông một cách ngắn gọn:
căn cứ Azores mà Hoa Kì thuê của Bồ Đào Nha “làm cho việc chống Bồ Đào Nha trở
nên khó khăn, trong khi vốn liếng kinh tế của Anh ở Rhodesia và Nam Phi lại khiến
chúng ta miễn cưỡng để thúc đẩy họ quá mạnh... Trong chừng mực mà chúng ta
có thể đi trước những vấn đề này một ít thay vì bị lôi kéo một cách miễn cưỡng
đến những điều không tránh khỏi, chúng ta có thể giữ cho các vấn đề châu Phi
của chúng ta được sửa chữa một cách hợp lí.”
No comments:
Post a Comment