Tại sao có quá nhiều nước có yêu sách chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông?
Các yêu sách tranh chấp nhau dựa trên lịch sử, địa lí và luật pháp - nhưng sức mạnh quân sự trần trụi là con át chủ bài
(Why do so many countries have claims to territory in the South China Sea?)
Cary Huang (Hoàng Trung Thanh)
SCMP
(03/07/2016)
Tất cả các tranh chấp lãnh thổ giữa 6 nước láng giềng châu Á
ở biển Đông, rốt cuộc, liên quan đến ba ngành học: lịch sử, địa lí và luật
pháp.
Hầu hết các đảo, đá, rạn san hô và bãi cát ngầm được yêu
sách đều không có người ở và một số thậm chí nằm dưới mặt nước khi triều thấp. Toàn
bộ chúng chỉ gồm một vài cây số vuông nhưng trải rộng trên 2 triệu cây số vuông
biển bao bọc bởi “đường chín vạch” của Trung Quốc, với Trung Hoa đại lục,
Brunei, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Đài Loan đều có yêu sách chủ quyền đối
với toàn bộ hoặc một phần của nhiều chuỗi đảo và vùng biển lân cận.
Điều đó làm cho một bối cảnh phức tạp mà ngay cả một phán
quyết sắp đưa ra của Tòa Trọng tài Thường trực có thể không có khả năng giải
quyết.
Các tranh chấp không chỉ là về bản đồ và lòng tự hào dân tộc
mà còn về các quyền độc quyền của một nước đối với tài nguyên thiên nhiên ở các
vùng biển xung quanh và dưới đáy biển, và về quyền chủ quyền trong việc quản lí tàu thuyền và máy bay của các quốc gia khác đi qua khu vực này, khu vực có chứa
một số tuyến đường biển nhộn nhịp nhất và quan trọng nhất của thế giới.
Dư Mậu Xuân (Maochun Miles Yu), giáo sư lịch sử quân đội và
hải quân Đông Á tại Học viện Hải quân Hoa Kì, nói rằng tất cả các bên tranh chấp
đều sử dụng một, hai hoặc cả ba ngành học này để hậu thuẫn cho các lập luận của
họ, nhưng các tranh chấp đều thu về một câu hỏi: điều gì làm một nước đủ tiêu
chuẩn là chủ sở hữu chủ quyền đúng lẽ của một số đảo ở biển Đông.
“Đối với Trung Quốc, biện minh là những đề cập lịch sử trong
các sách vở xưa; đối với Philippines, Malaysia và những nước khác, đó là sự gần
gũi về mặt địa lí; đối với Việt Nam, đó là việc tích cực cai quản từ thế kỉ thứ
17 mà điều đó đúng ra phải cho Hà Nội quyền sở hữu các đảo này”, Dư Mậu Xuân
nói.
Trung Quốc nói rằng các đảo này đã được bàn luận từ thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên trong các sách vở xưa như Dật Chu thư, Kinh Thi, Tả truyện, và Quốc ngữ, mặc dù chúng chỉ được
mô tả một cách bao hàm như là một phần của “lãnh thổ phía Nam”.
Các nhà sử học Trung Quốc nói rằng nhiều tên khác nhau đã được
sử dụng để mô tả các đảo này từ thời nhà Đường (618-907) đến thời nhà Thanh
(1644-1912).
Trong thời kì Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ đã đưa vào bản đồ
hơn 291 đảo, đá ngầm, và các bãi cạn tiếp sau vào những khảo sát trong thập
niên 1930 và sau đó công bố một bản đồ có đường chín vạch vào năm 1947.
Sau cuộc cách mạng năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thừa
kế yêu sách do Trung Hoa Dân Quốc đưa ra. Và vào năm 1958, Bắc Kinh đã ban hành
một tuyên bố quy định lãnh hải của mình trong đường chín vạch, bao bọc quần đảo
Trường Sa. Thủ tướng Bắc Việt lúc đó là Phạm Văn Đồng, đã gửi công hàm cho Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng của Bắc Việt đối với lập trường của
Trung Quốc.
Bắc Kinh đang tiến hành một cuộc vận động ngoại giao và quan
hệ công chúng để huy động sự ủng hộ cho yêu sách của họ trước khi có phán quyết
của tòa án quốc tế dự kiến vào ngày 12/7 trong một vụ kiện chống lại Trung Quốc
do Philippines khởi xướng.
Ngày 09 Tháng 5, Trung Quốc công bố một bài viết dài, do Phó
Oánh, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Quốc hội và cựu thứ trưởng ngoại giao, và Ngô
Sĩ Tồn, chủ tịch của Viện Nghiên cứu Nam Hải (biển Đông) đồng tác giả, giải
thích lập trường của Trung Quốc. Họ viết “Các đảo ở biển Đông và vùng nước xung
quanh chúng do người Trung Quốc xưa phát hiện, đặt tên, và sử dụng đầu tiên,
cũng như được các chính phủ kế tiếp quản lí và đã được coi là lãnh thổ và vùng
biển vốn có của đất nước từ thời xa xưa, như được chứng minh trong rất nhiều hồ
sơ lịch sử, sách vở địa phương và bản đồ”.
Bài viết, công bố trên cả hai tạp chí The National Interest ở Hoa Kì và tạo chí China Newsweek, nói rằng cộng đồng quốc tế - trong đó có Mĩ - trong
lích sử đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này, cho đến gần
đây.
Nhưng Mohan Malik, giáo sư về an ninh châu Á tại Trung tâm Nghiên
cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương của Honolulu, nói rằng xét về “bằng chứng pháp
lí”, phần lớn các chuyên gia luật quốc tế đều đã kết luận rằng yêu sách của
Trung Quốc về quyền sở hữu/danh nghĩa lịch sử (historical title) đối với biển Đông,
bao hàm quyền chủ quyền trọn vẹn cùng với việc bằng lòng cho các nước khác đi
ngang qua, là không hợp lệ.
Benjamin Herscovitch, giám đốc nghiên cứu Chính sách Trung
Quốc, một công ti phân tích và tư vấn chính sách đóng ở Bắc Kinh, nói rằng Bắc
Kinh vẫn chưa làm rõ ý nghĩa của yêu sách lãnh thổ lịch sử của họ bao bọc bởi đường
chín vạch, mà ông nói là luôn không rõ ràng trong lịch sử và vẫn như vậy, dù gần
đây Bắc Kinh có nỗ lực đưa ra biện minh.
Ông hỏi “Đó là yêu sách cho toàn bộ các vùng nước bên trong đường
này hoặc chỉ đơn giản là các đảo và các thể địa lí khác? Nó liên quan đến Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà Trung Quốc là một bên kí kết, như
thế nào? Vùng nước bên trong đường chín đoạn là lãnh hải hay chỉ đơn thuần là
EEZ (vùng đặc quyền kinh tế)?”
Herscovitch, là một chuyên gia về ngoại giao châu Á và an
ninh khu vực, cho biết Việt Nam cũng sử dụng tài liệu lịch sử để làm chỗ dựa
cho yêu sách của mình, qua việc nói rằng họ có tài liệu chứng minh họ đã tích cực
cai quản cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỉ 17.
Một bên chính khác trong khu vực là Philippines, viện dẫn sự
gần gũi về địa lí đối với quần đảo Trường Sa là cơ sở chính cho yêu sách chủ
quyền đối với một phần của nhóm đảo này.
Cả Philippines lẫn Trung Quốc cũng đòi chủ quyền bãi cạn
Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) – cách Philippines hơn 160 km một
ít và cách Trung Quốc 800 km.
Malaysia và Brunei cũng đòi chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông
mà họ nói là lọt vào vùng đặc quyền kinh tế của họ, như quy định của UNCLOS.
Allen Carlson, phó giáo sư về chính quyền tại Đại học
Cornell, nói biển Đông hiện nay đã bị cuốn đi với một hỗn hợp của các yêu sách pháp lí quốc tế tương phản và nhiều câu chuyện
lịch sử, của năng lực hải quân đang phát triển và tình cảm dân tộc. Carlson nói
“Tình trạng này có vẻ đang tạo ra một cái gì đó giống như một hợp chất dễ bốc
hơi trong vùng biển này, một hợp chất mà có thể chỉ cần một chút chất xúc tác
là bùng cháy”.
Dư Mậu Xuân nói rằng lí lẽ của Trung Quốc là yếu nhất so với
các bên tranh chấp khác vì đơn giản là người ta không thể chỉ dùng những đề cập
trong sử sách về những nơi xa xôi làm biện minh chính cho các yêu sách chủ quyền
hiện nay. “Nếu không, Marco Polo từng nói về Trung Quốc cho dân Ý vào thế kỉ thứ
13, điều đó có biện minh cho Ý yêu sách chủ quyền đối với Trung Quốc được không?
Dĩ nhiên là không,” ông nói.
UNCLOS đã được tất cả các quốc gia ven biển chủ yếu có lợi
ích ở biển Đông kí kết và phê chuẩn, nó cần giúp đem lại sự chắc chắn cho khung
pháp lí áp dụng cho toàn khu vực. Tuy nhiên, các tranh chấp pháp lí và lãnh thổ
vẫn kéo dài.
Dư Mậu Xuân nói rằng luật biển quốc tế hiện đại và quyền tài
phán lãnh thổ coi trọng việc quản lí tích cực và sự gắn kết về địa lí (mở rộng
tự nhiên của thềm lục địa là một ví dụ).
Không giống như các nước khác, yêu sách của Trung Quốc không
dựa trên yêu sách đối với các đảo hoặc các thể địa lí cụ thể khác theo quy định
của luật biển năm 1982 của LHQ, mà dựa trên một bản đồ lịch sử Trung Quốc chính
thức nộp cho Liên Hiệp Quốc vào năm 2009. Bản đồ đó có đường chín vạch, tạo
thành một hình chữ U chạy xuống bờ biển phía đông của Việt Nam vòng qua phía bắc
Indonesia rồi tiếp tục chạy về phía bắc đến bờ biển phía tây của Philippines.
Nhiều chuyên gia cho rằng đường chín vạch không phù hợp với luật biển năm 1982
của LHQ, luật này không chấp nhận yêu sách dựa trên lịch sử.
Nhưng Herscovitch nói rằng luật pháp quốc tế ít quan trọng
trong tranh chấp biển Đông. Công ước của LHQ cũng vận hành hơi khác vì nó cũng chỉ
ra rằng đất đai khám phá có thể chấp nhận được nếu là terra nullius (đất không
thuộc về một quốc gia cụ thể) có nghĩa là đất mà không có quốc gia nào hành xử
chủ quyền. Do đó, người ta có thể lập luận rằng quốc gia nào thực hiện quyền kiểm
soát không bị thách thức đối với đất đai như thế thì yêu sách nó loại trừ tất cả
các quốc gia khác dựa trên việc các quốc gia này “từ bỏ” quyền thách thức của họ.
Theo quy định như vậy, không một quốc gia có thể chịu”từ bỏ” quyền của mình.
Trung Quốc kiểm soát hữu hiệu hầu hết các đảo, mặc dù là
tương đối muộn dự phần khi đến chiếm đóng lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa.
Đài Loan chiếm một đảo trong quần đảo Trường Sa trước tiên
sau Thế chiến II, và Philippines, Việt Nam và Malaysia tiếp theo sau.Theo Mira
Rapp-Hooper, nghiên cứu viên cao cấp trong chương trình an ninh châu Á-Thái
Bình Dương tại Trung tâm New American Security thì tất cả các nước này đều xây
các tiền đồn và đường băng trên lãnh thổ họ yêu sách. Bắc Kinh bắt đầu điều động
nhân sự để chiếm các rạn đá và đảo trong khu vực trong những năm 1980.
Từ năm 2012, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc, trong khi
Trung Hoa đại lục, Việt Nam, Philippines và Malaysia đều kiểm soát các đảo ở quần
đảo Trường Sa, với Đài Loan kiểm soát một đảo.
Alexander Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh
châu Á-Thái Bình Dương, cho biết trong một bài viết trên The Diplomat vào ngày
06 tháng 5 rằng Việt Nam chiếm 21 thể địa lí trong quần đảo Trường Sa,
Philippines 9, Trung Quốc 7, và Malaysia 5.
Các nhà phân tích nói rằng vấn đề chủ quyền không thể giải
quyết được theo luật pháp quốc tế, và cũng không nằm trong phạm vi thẩm quyền của
tòa [trọng tài].
Herscovitch nói rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố quyền kiểm soát trên thực tế (de facto) trên những mảng lớn của biển Đông. Ông nói “Luật pháp quốc tế có thể làm đường chín vạch và chính sách rộng lớn hơn về biển Đông của Trung Quốc thành phi pháp trong mắt của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế nói chung là bất lực khi đối mặt với quyết tâm và ưu thế về sức mạnh quân sự trần trụi của Trung Quốc.”
Herscovitch nói rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố quyền kiểm soát trên thực tế (de facto) trên những mảng lớn của biển Đông. Ông nói “Luật pháp quốc tế có thể làm đường chín vạch và chính sách rộng lớn hơn về biển Đông của Trung Quốc thành phi pháp trong mắt của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế nói chung là bất lực khi đối mặt với quyết tâm và ưu thế về sức mạnh quân sự trần trụi của Trung Quốc.”
No comments:
Post a Comment