TRANH CHẤP
BIỂN ĐÔNG: TRUNG QUỐC CHẲNG ĐƯA RA ĐƯỢC BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ NÀO NÊN HỒN
Phạm Quang Tuấn và Phan Văn Song
Đáp lại
bình luận của Bill Hayton trong bài ‘Historical
Evidence Must Be Examined’ (bản dịch TV: Quần
đảo Hoàng Sa: bằng chứng lịch sử phải được kiểm tra) trên Eurasia Review,
Giáo sư Li Dexia (Lí Đức Hà) và nhà nghiên cứu Tan Keng Tat đã đăng bài bình luận của họ ‘South
China Sea Disputes: China Has Evidence Of Historical Claims – Analysis’ (Tranh
chấp Biển Đông: Trung Quốc có bằng chứng cho các yêu sách lịch sử - Phân tích).
Hai tác
giả này cho rằng để giải quyết đầy đủ vấn đề của Hayton sẽ cần tới một chuyên
khảo dài và dùng hồ sơ kiện 4000 trang của Philippines như là một ví dụ. Do
đó, chúng ta trông đợi rằng trong bình luận ngắn đó họ sẽ chỉ chọn ra những bằng
chứng mạnh mẽ nhất trong các tài liệu lịch sử nhiều thế kỉ để hậu thuẫn cho lập
luận của họ. Chúng ta hãy xem xét một số các chứng cứ (một số trong đó đã được hai
tác giả xào xáo lại đưa vào bài viết Xisha
(Paracel) Islands: The Inconvenient Truth đăng trên Eurasia Review).
1. Li &
Tan dẫn sự kiện cuốn sách ‘Chư Phiên Chí’ thế kỉ 13 có đề cập đến những cái
tên ‘Chien li-chang-sha’ (千里 長 砂- Thiên lí Trường Sa) và ‘Wan-li-shih
Chuang’ (萬里
石床) - Vạn
lí thạch sàng), và cho rằng theo dịch giả của cuốn sách “[hai tên này] là chỉ
quần đảo Hoàng Sa.” Tuy nhiên, theo bản dịch sang
tiếng Anh quyển ‘Chư Phiên Chí” của F. Hirth và WW Rockhill (do Viện Hàn
lâm Khoa học Hoàng gia Anh xuất bản vào năm 1911) thì ‘Wan-li shih-tang’ (萬里石塘 - Vạn lí
thạch đường) chính là bãi ngầm Macclesfield[1] và ‘Wan-li-shih Chuang’ “chắc chắn cũng là bãi đó” [tức là bãi ngầm Macclesfields]
(Hirth & Rockhill, p.185). Hirth & Rockhill không xác định 'Chien-li chang-sha’
là gì mà chỉ đơn giản nói nó là “«bãi Thiên lí», ở phía đông đảo Hải Nam” (tr.
283). Không có nơi nào trong cuốn sách nói "Chien-li chang-sha" được quy
là quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, Li & Tan đã trích dẫn Hirth và Rockhill thiếu
trung thực theo cách mà giới học thuật khó thể chấp nhận.
Trọn đoạn
văn có chứa câu trích dẫn là: "Cát dương [吉陽][2] nằm ở cực (Nam) bờ biển (Hải-nan), và đất liền không vượt quá chỗ đó, nhưng bên
ngoài có hai đảo nhỏ, Ô Lí (烏 里) và Tô Cát Lãng (蘇吉 浪). Chiêm Thành [miền Trung Việt Nam
hiện nay] đối diện với nó ở phía nam và phía tây nó nhìn về Chân Lạp [miền Nam
Việt Nam hiện nay]. Phía đông (của Hải Nam) là «Thiên Lí Trường Sa» (千里 長 砂) và «Vạn Lí thạch sàng» (萬里 石床) và (bên ngoài chúng) là đại
dương bao la, chỗ biển và trời trộn lẫn màu sắc với nhau, và các tàu thuyền đi qua
chỉ bằng cách dùng la bàn - nó phải được theo dõi chặt chẽ suốt ngày đêm – vì sống
hay chết phụ thuộc vào chỉ một chút sai sót nhỏ.” Từ đoạn văn này và thật ra từ
toàn bộ cuốn sách có vẻ là không có cách nào để xác định ‘Chien-li chang-sha’
hoặc ‘Wan-li-shih Chuang’ chính là quần đảo Hoàng Sa. Không có khoảng cách tới đất
liền, còn phương hướng thì mơ hồ hoặc sai lệch, vì quần đảo Hoàng Sa ở về phía
Đông Nam của đảo Hải Nam, không phải phía Đông. Không có bằng chứng cho thấy
tác giả Triệu Nhữ Quát của Chư Phiên Chí, một thanh tra hải quan ngoại thương tỉnh
Phúc Kiến, thực sự biết những đảo đang bàn: có thể ông chỉ nghe nói về chúng từ
các thương nhân nước ngoài.
Tựa cuốn
sách "Chư Phiên Chí" (諸蕃 志), có nghĩa là "Mô tả về dân
man di", hoặc “Những ghi nhận về một số nước ngoài.” Do đó cuốn sách này
chủ yếu là nói về những người và những thứ bên ngoài Trung Quốc. Điều tương tự
cũng có thể nói cho cuốn sách của Trần Luân Quýnh (Chen Lun-Chiung) ‘Hải quốc
văn kiến lục’ (海
國 聞 見 錄 -pinyin: Hải guo wen jian lu) mà
Li & Tan cũng có nói tới. Lưu ý rằng ‘hải quốc’ có nghĩa là các nước ngoài/bên kia biển. Do đó, những đề cập đến đảo
trong những cuốn sách này khó có thể được dùng để ngụ ý rằng nó thuộc về Trung
Quốc.
2. Li
& Tan trích dẫn một vài trường hợp có người Trung Quốc tới gần hay đi ngang
qua các đảo được cho là quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa trong các triều đại
Nguyên, Minh. Chúng tôi chỉ đơn giản chỉ ra một thực tế hiển nhiên rằng đi qua
một đảo không phải là chứng cứ cho việc phát hiện ra nó đầu tiên hoặc sở hữu
nó.
3 Tương
tự, mô tả một đảo trong một cuốn sách cũng không phải là bằng chứng phát hiện
ra nó đầu tiên hoặc sở hữu nó. Xét cho cùng, hầu hết các nước có chữ viết sẽ có
các sách có mô tả các nước và các vùng lãnh thổ cách nửa vòng trái đất mà không
hề yêu sách rằng một nửa thế giới thuộc về họ. (Hi vọng rằng chúng ta sẽ không
nhìn thấy điều này xảy ra trong tương lai khi Trung Quốc ngày càng trở nên quyết
đoán hơn!)
4. Li
& Tan hỏi làm thế nào ngư dân Việt Nam có thể vượt được 250 hải lí để tới
quần đảo Hoàng Sa vào năm 1405. Chúng tôi đề nghị họ tìm hiểu thêm về lịch sử
hàng hải của Đông Nam Á. Cũng giống như các quốc gia ven biển Đông Nam Á khác
(và không giống như Trung Quốc chú tâm tới đất liền), dân Việt Nam có truyền thống
hàng hải lâu đời. Sống trên một đất nước hầu như chỉ gồm một dải đất mỏng ven
biển, họ dựa vào biển để sinh tồn. Thủy thủ Indonesia và các nước Đông Nam Á khác
từng vượt Ấn Độ Dương và đến Madagascar vào đầu thế kỉ thứ 9, đi xa hơn 800 hải
lí. Tất nhiên, thủy thủ Polynesia thực hiện các chuyến đi còn ấn tượng hơn trên
các tàu thuyền nguyên thủy hàng thiên kỉ trước đây.
5. Đáp lại
ý kiến của Hayton rằng ông không thấy “có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy
TQ đã có quan tâm chính thức tới quần đảo Hoàng Sa trước năm 1909", Li &
Tan cho rằng Công ước
năm 1887 về việc phân định biên giới giữa Bắc Kì (Tonkin) và TQ đã phân cho
TQ tất cả các đảo nằm phía đông của đường phân định trên biển, kể cả quần đảo
Hoàng Sa. Đây đúng là hoàn toàn hiểu lầm Công ước, và nếu giải thích như vậy thì
sẽ dẫn đến kết quả vô lí rằng hầu hết các đảo ven biển miền Trung Việt Nam đều thuộc
về Trung Quốc dù chúng chỉ cách đất liền Việt Nam một vài mét (vì đường phân định
đang nói, nếu kéo dài vô hạn về phía nam, sẽ cắt vào đất liền Việt Nam). Lưu ý
thêm rằng:
Thứ nhất,
hiệp ước, như tên của nó cho thấy, chỉ liên quan đến biên giới giữa Bắc Kì và
Trung Quốc. Bắc Kì là một đơn vị quản lí cách riêng biệt của Việt Nam vào lúc đó,
và chỉ kéo dài tới vĩ tuyến 20 về phía nam (gần ngang với bờ biển phía bắc của
đảo Hải Nam). Quần đảo Hoàng Sa chủ yếu nằm ở phía nam vĩ tuyến 17, cách gần
300 km về phía nam. Dù tưởng tượng hết mức cũng không thể nào hiểu ra rằng phạm
vi của hiệp ước bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa.
Đọc kĩ
lưỡng hơn trong những đoạn có liên quan của hiệp ước sẽ cho ra cách giải thích
thậm chí còn hạn chế hơn. Trong đoạn văn đó, một số khu vực tranh chấp gần thị
trấn ven biển Móng Cái được phân cho Trung Quốc, và các đảo được đề cập cụ thể
theo tên (Trà Cổ [Chagu] và Gò Tho [Go-tho]) đều là những đảo ven biển (nằm
trong phạm vi cách đất liền một vài km), cho thấy rõ ràng rằng các bên kí kết
chỉ quan tâm đến biên giới trên đất liền và các đảo ven bờ gần đó. Thật ra, bản đồ kèm theo có chữ
kí của cả hai bên cho thấy các đường phân định đang bàn chỉ kéo dài khỏi bờ biển
khoảng 10 km mà thôi.
6 Li
& Tan viện dẫn Chiu & Park (tạp chí Ocean Development and Law Journal,
1975) để hậu thuẫn cho quan điểm của họ. Tuy nhiên, lập luận do hai tác giả này
đưa ra về cơ bản là giống như những lập luận của Li & Tan (thật ra, có vẻ hai
tác giả sau viện dẫn nặng nề bài viết của Chiu & Park), mà chúng tôi đã phản
bác hoàn toàn.
7. Về
các trích dẫn từ Ung Văn Khiêm, Lê Lộc và Phạm Văn Đồng, chỉ có trích dẫn từ Phạm
Văn Đồng có thể nói là có hồ sơ lưu thích đáng. Thư Phạm Văn Đồng không đề cập
đến Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Hơn nữa quần đảo Hoàng Sa vào lúc đó đặt dưới
sự quản lí của Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), và quốc gia này đã bảo vệ mạnh
mẽ chủ quyền đối với quần đảo này.
8 Hayton
bác bỏ khẳng định của Lí rằng “sau khi Nhật
đầu hàng vào năm 1945, hai quần đảo này [Hoàng Sa và Trường Sa] được trả lại
cho Trung Quốc theo Tuyên bố Cairo và Potsdam”, qua việc chỉ ra rằng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa chẳng hề được đề cập đến trong hai tuyên bố đó. Để phản biện
Li & Tan trích dẫn câu sau đây từ Tuyên bố Cairo: “Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nước này
đã lấy được bằng bạo lực và tham lam.” Đây là một cách giải đáp không logic
và vô nghĩa vì không có chỗ nào câu này hay trong Tuyên bố Cairo lẫn Tuyên bố
Potsdam có nêu tên quần đảo Hoàng Sa hay quần đảo Trường Sa về vấn đề này [trả lại cho Trung Quốc].
Thay vì phản biện ý kiến của Hayton, Li & Tan thực ra lại góp phần biện
minh cho nó.
9. Khẳng
định của Li & Tan rằng: “Từ năm 1946 đến năm 1956 [...] Pháp và Việt Nam Cộng
Hòa đã không thách thức chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo nhỏ” là vừa
không trung thực vừa không đúng. Thứ nhất, từ năm 1946 đến 1954 Pháp phải bận rộn
với cuộc chiến tranh quy mô rộng khắp chống lại Việt Minh, còn trong hai năm
1955-1956 Việt Nam Cộng Hòa đang trong tình trạng rối rắm sau khi tiếp quản đất
nước từ tay người Pháp, với nhiều lực lượng đối đầu lẫn nhau: chính phủ, cộng sản,
Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Dù vậy, người Pháp vẫn xoay xở để tái chiếm quần
đảo Hoàng Sa vào năm 1947 và ở lại đảo Hoàng Sa và một số đảo gần đó đến năm
1956, còn Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) khẳng định chủ
quyền tại San Francisco vào năm 1951 như chính Li và Tan cũng có chỉ ra, và Việt
Nam Cộng Hòa đã tái
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào
tháng 6 năm 1956 sau một tuyên bố của Trung Quốc về vấn đề cùng tháng 5 năm
1956.
10. Như đã
nêu, Li & Tan xào xáo lại hầu hết các lập luận trên để đưa vào bài Xisha
(Paracel) Islands: The Inconvenient Truth cũng đăng trên Eurasia Review. Bài viết đó có thêm một điều thêu dệt
cần phải vạch ra thêm: đó là Nhật đã trả lại hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa
cho Trung Quốc theo điều II, Hoà ước 28 tháng 4 năm 1952. Thật ra điều này như
sau: “Thừa nhận rằng theo Điều 2 của Hiệp ước hòa bình mà Nhật Bản đã kí kết tại
thành phố San Francisco vào ngày 08 tháng 9 năm 1951 (sau đây gọi là Hiệp ước
San Francisco), Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa, và yêu sách đối với
Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Trường Sa và quần
đảo Hoàng Sa.” Điều khoản này, và Điều 2 trong Hiệp ước San Francisco mà nó nói
tới, chỉ đơn thuần nói rằng Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Không có chỗ nào trong hai điều khoản đó nói hay hàm ý rằng Nhật
Bản phải “trả lại” hai quần đảo này cho Trung Quốc.
Tóm lại,
“các bằng chứng lịch sử” mà Li & Tan đưa ra đều mơ hồ, thiếu chính xác hoặc
sai trắng trợn, dựa trên những điều không thực, thiếu logic, trích dẫn càng, diễn
giải sai và tự vẽ vời thêm. Nếu đó là bằng chứng tốt nhất mà hai nhà nghiên cứu
này có thể đưa ra được thì họ sẽ không xoay chuyển được gì nhiều cho mục đích của
họ.
------------------------------------------
Phiên bản tiếng Anh của bài này “South
China Sea Disputes: Chinese Historical Evidence Found Wanting - Analysis”
đã đăng trên Eurasia Review ngày 4/9/2014
No comments:
Post a Comment