Chương 4
Đá và những chỗ rắn khác
Biển Đông và Luật pháp quốc tế
Rocks and Other Hard
Places
The South China Sea and
International Law
Bill Hayton
Ngày 29 tháng 3 năm 1843 đoàn người
trên tàu Cyrus đang săn lùng dầu ở
Biển Đông. Đáng buồn cho họ, dầu đã lẩn đi mất. Năm ngày trước, Cyrus đã hạ thuyền phóng lao xuống và
đến gần, nhưng những con cá voi đã thoát đi, biến nhanh giữa các rạn san hô. Đó
là công việc khó khăn và nguy hiểm. Con tàu đang chạy trong một khu vực chỉ
được biết đến như là ‘khu nguy hiểm’ (dangerous ground) theo lời cảnh báo in
trên các hải đồ đầu tiên. Mặc dù có các hải đồ mới, vùng biển ngoài khơi bờ
biển phía Bắc của Borneo vẫn là nơi nguy hiểm tiềm tàng đối với người săn cá voi
- và cả cá voi. Nhưng vào ngày đó thời tiết tốt và có gió nhẹ ổn định cho phép
tàu Cyrus tiến hành tốt đẹp việc theo
đuổi con mồi.
Chiết dầu từ mỡ của cá voi chết là một quy trình độc hại.
Như Ishmael phàn nàn, trên tàu Pequod trong
quyển Moby Dick, ‘Nó có một mùi
Hindoo hoang dã không kể được, có thể như là lẫn khuất gần chỗ hỏa táng. Nó có
mùi giống linh hồn tội lỗi (phía cánh trái của ngày phán xét); nó là một đối
tượng cho xuống địa ngục (hố sâu).’ Nhưng khi đã được cho vào thùng an toàn,
dầu cá voi là hàng hóa có giá trị cao và tàu Cyrus trọng tải 281 tấn có thể chở hàng chục ngàn lít. Đây là phần
thưởng mà thuyền trưởng của nó, Richard Spratly, đang tìm kiếm. Ông rời London
16 tháng trước và sẽ chỉ quay trở lại sau 17 tháng nữa. Phải mất gần 3 năm săn
tìm mới làm cho dầu đầy chỗ chứa đủ số lượng thoả mãn chủ con tàu. Thêm vào
xương răng cá và long diên hương (từ bụng cá voi) và công việc này sẽ sinh lợi
nhiều. Spratly thực hiện tất cả bốn chuyến đi dài với tư cách là thuyền trưởng
tàu Cyrus. Mỗi chuyến được đánh dấu
bằng sự ra đời của một đứa con - dù ông chưa bao giờ thấy mặt đứa con nào trước
sinh nhật thứ hai của chúng. Vào lúc mỗi đứa chào đời, ông đã trên đường đi
chuyến tiếp theo.
Biển đã là định mệnh của Richard Spratly từ khi còn nhỏ.
Sinh ra bên bến cảng London với cha làm nghề đóng thuyền, ông học việc ở một
tàu săn cá voi vào tuổi 16. Ông chuyển sang ngành cải huấn, chuyển tù nhân Anh
và Ireland đến Australia, và ở tuổi 30 đã chỉ huy con tàu York chở tù. Hai năm
sau, năm 1834, ông quay trở lại nghề đầu của mình: đuổi theo loài thú biển có
vú khắp các vùng biển phía Nam.
Là một trong những thuyền trưởng giàu kinh nghiệm nhất trong
đội, Richard Spratly có thể vượt qua những điều kiện khắc nghiệt hơn hầu hết
thuyền trưởng khác. Sau nhiều năm trên boong ông biết rõ các vùng biển đầy lừa
lọc này và thỉnh thoảng viết thư cho nhà chức trách về việc khám phá những chỗ
đá và bãi cát ngầm nguy hiểm mà ông gặp phải. Ông thường học được qua kinh
nghiệm chua cay: vào mùa xuân năm 1842, ông nói với một thuyền trưởng bạn rằng
trong nhiều chuyến đi mà ông đã thực hiện ở các vùng biển xung quanh khu vực
bây giờ là Indonesia, Malaysia và Philippines ông ‘đã bị mắc cạn gần như ở tất
cả các rạn san hô và bãi ngầm này’ vào một lúc nào đó. Ngay cả một thập kỉ sau
đó, ông còn viết thư cho Nautical
Magazine (Tạp chí Hàng hải) phàn nàn rằng ông ‘chưa bao giờ có thể tìm thấy
một hải đồ của quần đảo phức tạp này ít ra là đáng tin vào’.
Vì vậy, có phần mỉa mai là toàn bộ Quần đảo phức tạp này nay
lại mang tên ông. Vào 9 giờ sáng Thứ Tư 29 tháng 3 năm 1843, có một tiếng la
lớn từ đỉnh cột buồm tàu Cyrus. Chòi
quan sát trên đó đã phát hiện một đảo cát thấp: 12 hải lí về phía Đông Nam.
Thuyền trưởng Spratly tin rằng đảo đó chưa được ghi nhận. Những người khác
không đồng ý, nói rằng đảo này đã được nhà khảo sát của công ti Đông Ấn, James
Horsburgh, ghi nhận nhưng có lẽ do kính trọng đối với kinh nghiệm lâu năm của
ông, Royal Navy ‘s Hydrographic Office (Phòng Thuỷ văn Hải quân Hoàng gia Anh)
đã chọn tôn vinh Spratly và kể từ năm 1881 các hải đồ của hải quân Anh đều ghi
là ‘đảo Spratly’ (Trường Sa). Đó là điều vinh dự thích hợp cho một nhà đi biển
kì cựu, nhưng có lẽ trong bối cảnh của các diễn biến sau này, tên do Horsburgh
đặt ban đầu - ‘đảo Storm (Giông Tố)’- có thể sẽ thích hợp hơn.
Spratly ắt phải là một trong hàng chục thuyền trưởng tàu
Châu Âu đã phát hiện ‘hòn đảo cát’ của mình nhưng ông là người duy nhất được
ghi nhận với phát hiện đó. Có thể là điều tình cờ đó ứng vào chính ông; nhưng
việc ông là người Anh thì ít tình cờ hơn nhiều. Anh là bá chủ toàn cầu, các nhà
vẽ bản đồ Anh đã vẽ bản đồ tốt nhất và các ban bộ của Anh đã vạch ra các quy
tắc đặt tên cho lãnh thổ. Hàng ngàn người khác có thể nhìn thấy đảo Trường Sa
trong các thiên kỉ trước, thậm chí có thể đã đặt chân lên trên đó, nhưng họ
không để lại dấu vết trong bất kì tài liệu viết nào. Ý tưởng cho rằng khoảnh
đất này, chỉ dài 750 mét và rộng 350 mét, có thể thực sự ‘thuộc’ về ai đó chưa
từng đặt ra trước năm 1877.
Không ngạc nhiên chính Anh là nước đầu tiên tuyên bố nó,
khởi đầu một quá trình cuối cùng dẫn đến các tranh chấp hiện nay. Hơn một thế
kỉ rưỡi từ đó, hết yêu sách này đến yêu sách khác đã được đưa ra với các chính
phủ lùng sụt xa về quá khứ và những ngóc ngách xa nhất trong học thuyết pháp lí
để tìm kiếm các chứng cứ và lập luận có thể làm cho hành động của họ tương
thích với luật pháp quốc tế. Thật không may, ở Biển Đông luật pháp còn xa mới
rõ ràng. Có hai bộ luật để tranh cãi: dạng cũ hơn chi phối các ‘yêu sách lịch
sử’ đối với lãnh thổ và dạng mới hơn, được xác định bởi Công ước về Luật Biển
của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS), điều chỉnh các yêu sách biển có thể được tính từ
yêu sách chủ quyền lãnh thổ. Biển Đông là nơi mà hai dạng thức này đan chéo
nhau - và có lẽ xung đột nhau.
**********
Các quy định quốc tế về yêu sách lãnh thổ đã được những
người tích cực nhất trong việc thu tóm nó vạch ra. Những nhà cai trị Châu Âu
muốn hành động của họ là hợp pháp dưới mắt của Thiên Chúa và, quan trọng hơn,
được bảo vệ khỏi bị đối thủ ăn tươi nuốt sống. Ở thế kỉ XV, Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha cần thẩm quyền của một người có thể phát biểu nhân danh Thiên Chúa.
‘Giấy phép giáo hoàng’ ('Papal Bull') năm 1455 của Giáo hoàng Nicholas V trao
quyền cho vua Alfonso của Bồ Đào Nha chinh phục các vùng đất và dân tộc ngoài
Kitô giáo và cấm các Kitô hữu khác không được ‘dây dưa’ với những gì mà Bồ Đào
Nha sở hữu. Các văn kiện tiếp theo nó, Hiệp ước Tordesillas năm 1493 và Hiệp
ước Zaragoza năm 1529, chia thế giới thành khu vực của Bồ Đào Nha và khu vực
của Tây Ban Nha. Khi người Hà Lan phá thế lưỡng quyền toàn cầu này vào thế kỉ
XVII, họ đã đề ra những quy định mới để hợp pháp hóa hành động của mình. Các
nguyên tắc đó đã phát triển thêm hơn nữa qua các cuộc chiến tranh và những cuộc
chinh phục hai thế kỉ tiếp theo cho đến, vào lúc Hội nghị Berlin năm 1884, các
cường quốc Châu Âu đã phát triển một bộ các nguyên tắc mạch lạc biện minh cho
sự thu tóm đất đai trên toàn thế giới và phân xử các tranh chấp giữa họ với
nhau.
Trong những ngày đen tối xa xưa đó, trước khi Hội Quốc Liên
thành lập, họ thừa nhận 5 cách thụ đắc lãnh thổ: chinh phục (thụ đắc bằng sức mạnh đối với lãnh thổ), chuyển nhượng (một người cai trị từ bỏ
quyền của mình thông qua một hiệp ước chính thức), chiếm đóng (thiết lập một chính quyền trong lãnh thổ không thuộc
bất kì nhà cai trị nào khác: cái được gọi là ‘đất trống’ hoặc terra nullius bất kể sự hiện diện của
‘người bản địa’), thời hiệu (công
nhận dần dần quyền một người cai trị bởi những người cai trị khác) và bồi tụ (nơi đất cát được thêm vào
lãnh thổ hiện có chẳng hạn bằng cách cải tạo biển). Trong thế kỉ XX, sau khi đã
kiếm được lãnh thổ nhiều tới mức có thể được và, tiếp theo hậu quả của hai cuộc
chiến tranh thế giới tàn phá dã man, nhận thấy rằng cái giá phải trả cho xung
đột ngày nay chắc chắn vượt quá lợi ích, các nước chiến thắng quyết định xoá
cách chinh phục khỏi danh sách này. Thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực đã bị Hiến
chương Liên Hiệp Quốc đưa ra ngoài vòng pháp luật.
Nhưng di sản của quá khứ đế quốc đó là một hệ thống pháp
luật quốc tế quy định việc phát hiện (discover) được ưu tiên hơn sự gần gũi
(proximity) khi có tranh chấp lãnh thổ. Âm thanh từ giấy phép giáo hoàng vẫn
còn vang vọng, đôi khi trong dạng ngôn ngữ của sân chơi: ‘ai tìm được thì giữ
làm của, ai thua thì chỉ khóc’ ('finders keepers, losers weepers'). Vì không có
hiến pháp toàn cầu bao quát, các nước đã đồng ý - với mức độ khác nhau - bị
ràng buộc bởi một tập hợp các tập tục và thói quen vốn được phát triển theo cơ
hội để đáp ứng với các hoàn cảnh cụ thể. Qua nhiều thế kỉ, luật pháp quốc tế đã
hợp nhất các đòi hỏi của các quốc gia có nhiều ảnh hưởng về một hệ thống có thể
hợp pháp hoá những vùng đất mà họ giành được theo các tập quán pháp lí của tòa
án dân sự Châu Âu. Vì thế hệ thống đó đòi hỏi phải có các hình thức giấy tờ,
hiệp ước và bảng biểu làm bằng chứng có thể trưng ra được - chứ không phải là ý
thức mới chớm về quyền quốc gia – kiểu như ‘các đảo này là của chúng tôi từ
thời xa xưa’. Kết quả trong tranh chấp Biển Đông xảy ra tình huống có vẻ rất vô
lí, theo đó Anh và Pháp có thể có yêu sách pháp lí đối với các đảo cũng mạnh
bằng bất kì nước nào trong số các nước tiếp giáp với biển này.
Tháng 9 năm 1877, nhà chức trách thuộc địa Anh ở Labuan (một
hòn đảo ngoài khơi bờ biển Borneo) cấp phép cho một người Mĩ tên là Graham và
hai người Anh tên là James và Simpson tuyên bố chủ quyền đảo Trường Sa và An
Bang thay mặt cho hoàng gia Anh và sau đó khai thác nhiều tấn phân chim tới mức
họ có thể mang đi trên tàu của họ. Một thông báo đã được đăng đúng hạn trên Government Gazette (Công báo).[1]
Các nước khác có thể ở gần hơn, ngư dân nước khác có thể đã đến đảo này, hải
quân các nước khác thậm chí có thể đã chạy ngang qua nó, nhưng Anh là nước đầu
tiên công bố nó trên báo chí và loại bằng chứng đó là có giá trị trước toà. Từ
khởi đầu khiêm tốn như vậy, các tuyên bố của đế quốc phát triển lên. Đó là hành
động đầu tiên về chủ quyền của một nhà nước ở nơi mà bây giờ chúng ta gọi là
Quần đảo Trường Sa. Một giấy phép khác của Anh cấp cho Công ti Central Borneo
năm 1889. Tuy nhiên, sự quan tâm của các nước lớn đối với phân chim không bao
giờ đạt đến mức độ dành cho trà, thuốc phiện hoặc cao su và lợi ích của họ tại
các đảo vẫn chủ yếu là lợi ích về việc đi lại trên biển. Tuy nhiên Anh chưa bao
giờ chính thức từ bỏ chủ quyền đối với đảo Trường Sa và An Bang.
Thật vậy, nước Anh đã kín đáo vực dậy yêu sách của mình vài
tuần sau tháng 4 năm 1930 khi nhà chức trách Pháp thông báo rằng họ đã phái một
tàu chiến, chiếc Malicieuse, chiếm
lấy đảo Trường Sa và đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các thể địa lí
khác nằm bên trong một khu vực hình chữ nhật lớn trong Biển Đông. Chính phủ hai
nước đã trao đổi công hàm ngoại giao và lập luận pháp lí trong hai năm tiếp
theo. Trước mắt họ lúc đó là mối nguy hiểm rõ ràng đặt ra cho các thuộc địa của
họ bởi sự bành trướng của đế quốc Nhật Bản vào khu vực này. Đối mặt với một kẻ
thù chung, dù không muốn từ bỏ tuyên bố của mình nhưng người Anh cũng chẳng
muốn làm suy yếu tuyên bố của Pháp. Mãi cho đến tháng 7 năm 1933, chính phủ
Pháp mới chính thức sáp nhập 6 đảo có tên là: Trường Sa hay Giông Tố (Storm),
An Bang, Ba Bình (Itu Aba), Song Tử (được biết đối với Pháp là Les Deux Iles),
Loại Ta và Thị Tứ. Một thông cáo báo chí khác đã được đặt trong tờ Journal officiel (Công báo) của chính
phủ Pháp. Thông cáo này làm dấy lên cơn kích động quốc gia ở Trung Quốc nhưng
(như chúng ta đã thấy ở Chương 2) khi mà chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng việc
đó liên quan đến Quần đảo Trường Sa chứ không phải Hoàng Sa thì sự ồn ào lắng
xuống. Trái ngược với những gì các quan chức Trung Quốc tuyên bố hiện nay, báo
chí lúc đó không có tin về các cuộc biểu tình chính thức hoặc các thông báo sáp
nhập đối địch. Người Pháp giữ lấy yêu sách của họ trên giấy tờ nhưng chẳng làm
gì nhiều trong việc thực thi nó trên hiện trường cho đến năm 1938 họ mới dựng một
trạm thời tiết trên đảo Ba Bình[2],
vốn đã bị quân Nhật chiếm đóng trong thế chiến thứ hai. Như chúng ta đã thấy,
người Nhật đã bỏ trống đảo này một lúc nào đó sau khi Mĩ ném bom vào ngày 1
tháng 5 năm 1945 và trước khi hải quân Mĩ đổ bộ lên đảo vào 18 tháng 11 năm
1945. Các thủy thủ đến kế tiếp là người Pháp, trên chiếc tàu quét mìn FR Chevreuil, vào ngày 5 tháng 10 năm
1946. Họ dựng lên một tấm bia tuyên bố chủ quyền lần nữa cho nước Pháp và làm
mới việc sáp nhập năm 1933. Chính phủ Philippines tuyên bố chủ quyền với Quần
đảo Trường Sa vào tháng 7 năm 1946 nhưng đã không làm gì để thực thi nó trong
nhiều thập kỉ.
Cho đến khi thế chiến thứ hai kết thúc, Hải quân Trung Hoa
thậm chí vẫn không có khả năng vươn tới Quần đảo Trường Sa. Chỉ khi được Hoa Kì
cung cấp tàu, bản đồ và đào tạo thì Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) mới có
khả năng tổ chức một chuyến đi và đưa ra loại yêu sách chủ quyền mà tòa án quốc
tế có thể thừa nhận. Ngày 12 tháng 12 năm 1946, hai tàu hải quân THDQ, Thái Bình [Taiping] và Trung Nghiệp [Zhongye] (tên cũ tương ứng
là USS Decker và USS LST 1056), đã đến đảo Ba Bình. Theo những tài liệu của Trung
Quốc, đoàn người này đã tháo bỏ một tấm bia của Nhật và dựng lên một bia của
Trung Quốc ở vị trí của nó. Họ dường như không để ý tới một bia của người Pháp
- hoặc không nghĩ rằng nó đáng nói. Đây là hành động chủ quyền đầu tiên, dưới
dạng tòa án quốc tế có thể thừa nhận, mà chính phủ Trung Hoa thực hiện tại Quần
đảo Trường Sa. Sau đó THDQ đóng quân cầm chừng (khi ở, khi đi) trên đảo, cho
đến khi họ rút đi vào ngày 5 tháng 5 năm 1950. Đến lúc đó thì người Pháp đã có
những ưu tiên khác: Đông Dương đang bị Hồ Chí Minh và bạn bè yêu nước của ông
tướt lấy khỏi tay của họ.
Lần theo sợi chỉ sự việc gắn bó nhau thông qua tấm thảm đan
dày những sự kiện xảy ra tiếp theo sẽ giúp các các luật sư quốc tế kiếm được
một số tiền thù lao cao. Hai thập kỉ đẫm máu tóm lược như sau: Việt Nam bị phân
đôi thành miền Bắc cộng sản và miền Nam tư bản năm 1954, người Pháp rút đi vào
năm 1956 và sau đó đất nước được thống nhất dưới chế độ cộng sản vào năm 1975.
Dù có vẻ hợp lí - vì Pháp là thế lực thực dân ở Việt Nam – khi cho rằng các
tuyên bố chủ quyền của Pháp ở Biển Đông sẽ tự động chuyển cho Việt Nam sau khi
độc lập, nhưng lập luận đó không có khả năng thoả mãn tòa án quốc tế. Cũng
giống như Anh, Pháp chưa bao giờ chính thức từ bỏ chủ quyền đối với Quần đảo
Trường Sa. Pháp tuyên bố Quần đảo này cho chính họ, không thay mặt cho Việt
Nam. (Tình huống trái ngược rõ ràng với tuyên bố trước đó của họ đối với Quần
đảo Hoàng Sa, vẻ bề ngoài tuyên bố đó được thực hiện thay mặt cho chính quyền
được bảo hộ An Nam, và sau đó chuyển cho Việt Nam). Mãi cho đến năm 1956, nước
Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) vừa được độc lập mới khẳng định chủ quyền đối
với Quần đảo Trường Sa khi phản ứng với đòi hỏi của doanh nhân người
Philippines Tomas Cloma. Đó cũng là ám hiệu để THDQ tái chiếm đảo Ba Bình.
Tình hình thậm chí trở nên phức tạp hơn khi ta tìm hiểu kĩ
tư cách pháp lí của chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Có thể có quan điểm cho
rằng nước cộng hòa này là một quốc gia bù nhìn bất hợp pháp được các thế lực đế
quốc (Pháp và Mĩ) dựng ra. Chắc chắn đây là quan điểm của các lãnh đạo Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà cộng sản (miền Bắc Việt Nam hoặc VNDCCH) vào lúc đó. VNDCCH tự
coi mình là chính phủ hợp pháp của toàn bộ đất nước, tạm thời bị giới hạn trong
một phần của lãnh thổ quốc gia bởi việc phân vùng năm 1954. Đối lại, người ta
cũng có thể coi VNDCCH (Bắc Việt Nam) và VNCH (Nam Việt Nam) là hai quốc gia
hợp pháp trên hai khu vực riêng biệt của lãnh thổ quốc gia. Trong chừng mức nào
đó lãnh đạo của VNDCCH cũng đã dùng lá bài này - họ bảo trợ Chính phủ Cách mạng
lâm thời biệt lập, chính phủ này chịu trách nhiệm chính thức về chiến tranh ở
miền Nam. Khi những người cộng sản đánh bại VNCH vào năm 1975 họ đã chính thức
lập ra một nhà nước cộng sản ở miền Nam có tư cách pháp nhân riêng trong hơn
một năm trước khi thống nhất hai nước thành nước CHXHCN Việt Nam năm 1976.
Tại sao tất cả các điều này lại có liên quan? Bởi vì bản
chất pháp lí của tòa án quốc tế sẽ đòi hỏi một quốc gia có yêu sách phải cho
thấy họ có thiết lập một yêu sách chính thức đối với một lãnh thổ, giữ lấy yêu
sách đó và sau đó khẳng định nó khi đối mặt với hành động của các bên tranh
chấp khác. Cho đến năm 1975, Bắc Việt chẳng làm gì nhiều để khẳng định yêu sách
của mình ở Biển Đông, trong khi VNCH đã làm nhiều hơn rất nhiều. Nếu VNDCCH là
chính phủ hợp pháp của cả nước thì việc thiếu hành động trước đó của nó có thể
gây tổn hại cho tư thế của mình. Nếu các hành động của VNCH được tính tới – với
tư cách một quốc gia hợp pháp bên trong lãnh thổ quốc gia Việt Nam – thì tư thế
của Việt Nam sẽ mạnh hơn rất nhiều.
Có một hành động đặc biệt do lãnh đạo Bắc Việt thực hiện đã
bị sử dụng để làm suy yếu yêu sách của Việt Nam đối với các đảo. Năm 1958 Thủ
tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, đã gửi một công thư ngắn đến Thủ tướng (cộng sản)
Trung Quốc, trong đó ông viết rằng ‘Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của chính phủ nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc’. Một lần
nữa, đây có vẻ là một lí do hơi mơ hồ để bác bỏ yêu sách của Việt Nam đối với
các đảo nhưng theo tập quán của luật pháp quốc tế nó có thể dẫn tới cái gọi là
‘estoppel’ (luật không được nói ngược).
Estoppel là một khái niệm quan trọng trong luật pháp Châu
Âu. Mục đích của nó là để ngăn chặn các bên tranh chấp nói một đàng làm một
nẽo. Chẳng hạn, nếu một bên đồng ý rằng một vụ tranh chấp đã giải quyết xong
thì sau đó họ không thể đi rút lại lời nói của mình. Nó nhằm mục đích đề cao
tính minh bạch và hành vi trung thực, và trong luật pháp quốc tế nó cũng xem là
có tác dụng như vậy. Nếu một nước công nhận tính hợp lệ của yêu sách lãnh thổ
của nước khác thì trên lí thuyết nước đó bị ‘estopped’ không được đặt vấn đề
với yêu sách đó trong tương lai. Tuy nhiên vào năm 1958, cả VNDCCH lẫn Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) đều không tham gia Tòa án Quốc tế và, với tư cách
là nước cộng sản, cả hai đều không coi trọng lắm các quy tắc ‘tư sản, đế quốc’
của cộng đồng quốc tế. Thay vào đó, họ đang ở giữa cuộc chiến tranh chống chủ
nghĩa đế quốc quốc tế chống lại các quy tắc này.
Ngày 23 tháng 8 năm 1958 quân đội CHNDTH bắt đầu nã pháo đối
thủ Quốc dân đảng của họ trên đảo Kim Môn (Jinmen) và Mã Tổ (Mazu), cả hai chỉ
cách Trung Quốc đại lục một vài cây số . Mười một ngày sau, cộng sản Trung Quốc
đã đưa ra ‘Tuyên bố về Lãnh Hải’ tuyên bố quyền sở hữu tất cả các vùng biển từ
bờ ra đến 12 hải lí ngoài khơi bao gồm cả Kim Môn và Mã Tổ. Mục đích chủ yếu là
để ngăn chặn các tàu chiến Mĩ tiếp tế hoặc bảo vệ các đảo này. Nhưng tuyên bố
này cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ đối với Đài Loan và các đảo phụ cận,
Quần đảo Hoàng Sa, bãi ngầm Macclesfield (TQ gọi là Trung Sa) và Quần đảo
Trường Sa. Trong một cử chỉ đoàn kết chống lại đế quốc Mĩ, Việt Nam cho in bản
tuyên bố trên báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản vào ngày 6 tháng 9 và sau đó, vào
ngày 14, Phạm Văn Đồng gửi công thư của ông đi. Công thư đó không đồng ý một
cách rõ ràng tuyên bố của Cộng sản Trung Quốc đối với các đảo nhưng cũng không
bác bỏ nó một cách minh bạch. Việc không đưa ra phản đối có thể là căn cứ đủ để
tòa án coi yêu sách của Việt Nam đối với các đảo bị ‘estopped’. Tuy nhiên, các
lãnh đạo Việt Nam cảm thấy nhiều hơn là chỉ phiền lòng nếu cử chỉ về tình đoàn
kết anh em của họ với nhà nước cộng sản kia trong giai đoạn mà cả hai nước đều
không quen thuộc với những chi tiết vụn vặt của luật pháp quốc tế lại được sử
dụng để làm suy yếu vị thế lãnh thổ nước mình hơn nửa thế kỉ sau đó.
Nói tóm lại, khi đặt trong khuôn khổ những quy tắc phức tạp
và tập tục của luật pháp quốc tế thì những gì có vẻ là yêu sách tự nhiên của
Việt Nam đối với Quần đảo Trường Sa ngoài khơi bờ biển của đất nước họ lại ít
mạnh mẽ hơn là nó có vẻ như vậy. Việt Nam không thể dựa vào những hành động của
đế quốc Pháp trong hai thập niên 1930 và 1940 trừ khi được chính phủ Pháp chính
thức nhượng lại tuyên bố của họ đối với Quần đảo Trường Sa. Cũng có thể có lập
luận pháp lí về việc liệu nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay có
là quốc gia thừa kế hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa cùng các hành động của quốc
gia này và liệu thư của Phạm Văn Đồng có làm suy yếu yêu sách của VNDCCH hay
không.
Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với Quần đảo Trường Sa
dựa trên các trích dẫn về quần đảo này trong tài liệu cổ xưa. Tuy nhiên, khi
đọc kĩ hơn những câu chữ đó chẳng cho thông tin nào về chính xác đảo nào đang
được nhắc đến và không có gì làm thành bằng chứng về chinh phục, chuyển nhượng,
chiếm đóng, thời hiệu hoặc bồi tụ. Thay vào đó tòa án quốc tế sẽ phải vật lộn
với lịch sử hiện đại phức tạp của Trung Quốc. THDQ tuyên bố thành lập vào tháng
1 năm 1912 và được các cường quốc lớn chính thức công nhận vào tháng 10 năm
1913. Nhưng ngay cả trước khi điều này xảy ra, 7 tỉnh phía Nam đã nổi dậy chống
lại sự kiểm soát của Bắc Kinh, mở đầu một cuộc nổi dậy dẫn đến việc Tôn Dật
Tiên và các đồng minh của ông thành lập chính phủ đối địch tách biệt tại Quảng
Châu vào năm 1917. Phải mất 11 năm chính quyền này mới có thể giành lấy được
quyền lực trên cả nước và trở thành chính phủ được quốc tế công nhận của Trung
Hoa. Trong giai đoạn đầy biến động đó, các cơ quan chức trách ở miền Nam Trung
Quốc được cho là đã thực hiện một số hành động làm thành cơ sở cho các tuyên bố
chủ quyền của Trung Quốc đối với Quần đảo Hoàng Sa.
Đặc biệt, chính quyền miền Nam đã đặt quần đảo này dưới
quyền quản lí của đảo Hải Nam trên danh nghĩa vào năm 1921 và sau đó các cấp
giấy phép cho việc khai thác phân chim. Trong hai năm 1923 và 1927 họ đã phái
tuần tra kiểm tra hoạt động của những người thu gom phân chim. (Nhà Sử học
Ulises Granados đã tìm thấy bằng chứng trong các báo cáo đương đại của tình báo
Anh rằng các giấy phép này thực sự ăn khớp với một công ti bình phong cho lợi
ích của Nhật Bản được cho là đã hứa sẽ cung cấp vũ khí và tài trợ để đổi lấy
quyền phát triển trên khu vực đảo Hải Nam và Quần đảo Hoàng Sa.[3])
Nhà chức trách Pháp (thay mặt cho nước được bảo hộ An Nam) không phản đối tất
cả điều này và sự không hành động này hiện nay được sử dụng như bằng chứng về
sự mặc nhận của Pháp đối với chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng không rõ tòa án
hiện đại sẽ coi các hành động do một chính phủ không được các cường quốc lớn
công nhận thực hiện trước năm 1928 như thế nào?
Tình hình trở nên phức tạp hơn sau khi nước CHNDTH (cộng
sản) thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 và Trung Hoa Dân Quốc bị tống sang
Đài Loan. Bắc Kinh rõ ràng không công nhận tính hợp pháp của THDQ ở Đài Loan
nhưng các quyền của quốc gia cộng sản này tại Quần đảo Trường Sa lại dựa hoàn
toàn vào tuyên bố chủ quyền đối với đảo Ba Bình do quân đội THDQ thực hiện lần
đầu tiên vào năm 1946. Nhà chức trách cộng sản ở Bắc Kinh hiện tại bênh vực
chuyến đi của tàu Taiping như là một
tuyên bố về chủ quyền được thực hiện nhân danh toàn bộ nước Trung Hoa. Tuy
nhiên, họ từng có một cái nhìn khác về con tàu này 60 năm trước đây, trong cuộc
khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất, coi nó như là một biểu tượng của đế
quốc Mĩ. Quân cộng sản đã đánh chìm tàu Taiping
ngoài khơi Quần đảo Đại Trần (Tachen) ngày 14 tháng 11 năm 1954. Sự kiện này đồ
đậm những vấn đề mà lãnh đạo Bắc Kinh có thể có trong việc xây dựng hồ sơ pháp
lí cho chủ quyền của họ đối với Quần đảo Trường Sa. Nếu nó là quốc gia thừa kế
THDQ thì nó có thể dùng các hành động của THDQ sau khi nhà nước cộng sản tuyên
bố thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 để củng cố tuyên bố của chính nó hay
không? Ví dụ, vào năm 1956 chính lực lượng hải quân của THDQ đã đuổi nhóm anh
em Cloma ra khỏi Ba Bình và Song Tử. Điều đó tỏ ra là một sự khẳng định cụ thể
về chủ quyền của THDQ - nhưng đó có là một hành động mà CHNDTH có thể coi là
của mình hay không. Nếu tới lúc nào đó mà chính phủ Đài Loan chọn cách hợp nhất
với nước CHNDTH trên lục địa thì đây sẽ là một điểm tựa cho sức bẩy to lớn.
Không một vấn đề nào trong số nêu trên đã được thử thách tại
tòa án quốc tế và, do sự phức tạp và sự không chắc chắn của những khó khăn pháp
lí đan xen, có vẻ không chắc rằng chúng sẽ có lúc được đưa ra. Từ góc độ lịch
sử, tất cả những gì chúng ta có thể nói là trong số các tuyên bố chủ quyền đối
với các đảo - dù của Anh, Pháp, THDQ, CHNDTH, Việt Nam hay, như chúng ta sẽ
thấy sau này, của Philippines, không có một tuyên bố nào có vẻ là hoàn toàn
thuyết phục. Nếu như Anh giữ cho lá cờ của mình tiếp tục tung bay trên đảo
Trường Sa và Pháp cũng làm điều tương tự trên đảo Ba Bình hoặc nếu một trong
hai nước này chính thức nhượng quyền của mình cho bên yêu sách khác thì tình
hình có thể sẽ rõ ràng hơn. Nhưng họ chưa làm điều đó, do đó, các quốc gia trên
bờ biển đã tạo ra sự kiện riêng của mình trong ‘khu nguy hiểm' thay vào.
**********
Hiện giờ ‘đảo cát’ của Richard Spratly được cư dân trên đó
gọi là Trường Sa Lớn. Lớn là tương đối. Nó là mảnh đất lớn nhất trên mặt biển
trong Quần đảo Trường Sa dưới sự kiểm soát của Việt Nam - nhưng điều đó không
nói gì nhiều. Điểm tự nhiên cao nhất của nó là 2.5 mét trên mực nước biển mặc
dù có rất ít cái là tự nhiên trên đảo Trường Sa bây giờ. Bãi biển đã được bao
bọc đằng sau một bức tường bê tông cao nhằm chắn sóng và chắn cả khách không
mời. Trên bức tường nhô lên hàng chục trụ và giá treo: đèn pha năng lượng mặt
trời, turbine gió phát điện, tháp radar và trụ điện thoại di động không lồ.
Những mái nhà đô thị chen lẫn một cách dị thường với cây cối: các toà nhà đúng
chuẩn thuộc khu vực nhà nước Việt Nam (gạch đỏ, tường màu đất son, bao lơn tân
cổ điển) được lực lượng xây dựng xã hội chủ nghĩa đưa từ đất liền ra.
Nhìn từ trên cao xuống, đảo có hình dạng như một tam giác
cân, giống như một dấu chỉ đường trỏ về quê hương cách xa 470 km. Chạy dài theo
cạnh đáy của tam giác cân và chiếm khoảng một phần tư diện tích toàn bộ đảo là
một đường băng bê tông - được quân đội VNCH xây dựng trước đây và được xây dựng
lại vào năm 2004. Một mạng lưới các con đường chạy song song và vuông góc giữa
các hàng cây từ đất liền đưa ra, tạo ra một vùng ngoại ô vườn giữa biển. Từ đáy
tam giác nhô ra biển là một cầu cảng kéo dài 75 mét nằm trên bãi san hô đầu
tiên ra đến chỗ nước đủ sâu để đón tàu đánh cá và các tàu tiếp tế thỉnh thoảng
ghé qua. Vật chướng ngại lấp đầy vùng nước xung quanh các phần còn lại của chu
vi đảo: cọc nhọn nhằm phá hỏng tàu thuyền xâm lược trước khi nó có thể tiếp cận
bờ.
Điều cốt yếu cho mục đích của Việt Nam rằng đảo này có vẻ là
một cộng đồng ổn định, sôi động về kinh tế, cho nên nhiều nỗ lực lớn đã được
thực hiện trong việc xây dựng dáng vẻ ‘bình thường’. Giống như hầu hết các làng
mạc Việt Nam, trên đảo có một ngôi chùa, một đền thờ thành hoàng (trong trường
hợp này là ‘ông bác sáng lập’ nước Việt Nam XHCN, Hồ Chí Minh) và một đài liệt
sĩ tưởng niệm các anh hùng đã ngã xuống trong cuộc chiến giải phóng dân tộc (tổ
quốc ghi công). Cũng có một ngôi trường lớn để phục vụ cho số lượng rất nhỏ trẻ
em sống trên đảo. Du khách có thể nhận được sự hiếu khách ở nhà khách Thủ Đô do
người dân Hà Nội quyên góp lập ra.
Những đóng góp ‘tự nguyện’ như vậy cùng các trợ cấp nhà nước
khác làm cho chính quyền địa phương, hay Uỷ ban nhân dân ở đây là một trong
những nơi được tài trợ trên mỗi đầu người tốt nhất trong cả nước. Vài năm
trước, Phó Chủ tịch UBND Nguyễn Đức Thiện nói với Thông tấn xã VN năm 2011, đầu
tư vào năng lượng mặt trời và gió có nghĩa là hòn đảo có một nguồn cung cấp
điện thường xuyên, xây dựng các hồ chứa nước cho phép trữ đủ nước để đáp ứng
nhu cầu và việc kết nối thông tin liên lạc đã cho truy cập vào internet.[4]
Gà vịt dạo chơi trên đảo. Nhiều luống rau nhỏ đã được thiết lập sau các màn cao
để cố chắn gió, cát và muối. Chuối và cây ăn quả khác chạy dọc theo đường. Một
dự án $ 170 000 do Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam đang cố gắng để tăng
năng suất nhưng Trường Sa Lớn khó có thể tự túc.[5] Dân
số tăng nhanh hơn thức ăn, nước uống và thậm chí cả đất đai để trồng cây cối
lên vẫn phải được tàu chuyển đến.
Không chỉ nhu cầu vật chất cần được phục vụ. Đời sống tinh
thần cũng phải được chăm sóc. Tháng 4 năm 2012 năm tu sĩ thuộc Giáo hội Phật
giáo Việt Nam chính thức (phương châm: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội) đã
theo tàu ra sống 6 tháng trên Trường Sa Lớn với sứ mệnh cải thiện cuộc sống
tinh thần của cộng đồng. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng quan ngại về tinh thần.
Ngoài các đợt thanh tra quân sự thường lệ và ngày quốc khánh, hai ngày kỉ niệm
được ghi dấu cẩn thận: ngày ‘giải phóng’ các đảo khỏi sự kiểm soát của miền Nam
Việt Nam năm 1975 và ngày mất đảo Gạc Ma năm 1988. Tại các buổi lễ này, các
chiến sĩ trẻ được khuyến khích luôn cảnh giác chống lại các âm mưu hiểm độc của
kẻ thù không nêu tên.[6]
Đảo Trường Sa không phải là một hòn đảo ‘bình thường’: đó là một bức tường
thành không thể chìm. Ẩn trong cây cối – giữa trường học, nhà nghỉ và chùa - là
công sự, doanh trại, ít nhất năm xe tăng chiến đấu, 20 ụ súng và một đơn vị trú
đóng để bảo vệ.[7]
Nhưng sống ở đó - hoặc trên một trong 21 đảo nhỏ/rạn san hô khác do Việt Nam
kiểm soát - là gian khổ. Giữ cho binh lính và thủy thủ còn đủ tinh thần là rất
quan trọng và Đảng lúc nào cũng quan tâm đến việc nuôi dưỡng tình cảm liên kết
giữa các đơn vị ngoài biển và dân chúng trong đất liền.
Đảng xuất sắc trong việc tổ chức các hoạt động đoàn kết ‘cấp
cơ sở’, khi tình cảm yêu nước tăng lên trong những năm gần đây, sự tham gia vào
các chiến dịch gây quỹ cho những người lính và thủy thủ ở trên biển đã ngày
càng trở nên tốt hơn. Các khoản tiền
liên quan là tương đối nhỏ, nằm trong định mức cho quà của chính quyền trung
ương, nhưng sức mạnh động viên trong những chiến dịch này không thể chỉ đo bằng
giá trị tiền tệ. Chúng là những công cụ mạnh mẽ giúp các lãnh đạo giành được sự
ủng hộ của nhân dân. Báo chí công khai ra sức tuyên truyền thông tin về các đảo
và các tỉnh tổ chức các cuộc tặng quà mà trong đó các nhánh san hô và đá cuội
bãi biển được đổi lấy các DVD karaoke, bàn bóng bàn, máy phát điện và thuốc lá
tặng biếu. Các chương trình truyền hình chiếu cảnh phóng viên yêu nước mặc áo
thun với dòng chữ ca ngợi những thanh niên và phụ nữ dũng cảm bảo vệ lãnh thổ
quốc gia nơi xa xôi. Một thập kỉ trước, những điều như thế này sẽ là những nghi
thức tẻ nhạt, nhưng bây giờ chúng được khán giả hâm mộ nhiệt tình theo dõi.
Việt Nam không được hưởng ‘lợi thế nước đi đầu’ trong việc
lựa chọn vị trí trong Quần đảo Trường Sa. THDQ đã chiếm đóng lại đảo Ba Bình,
đảo lớn nhất, vào năm 1956. Philippines chiếm đóng Thị Tứ (Philippines gọi là
Pagasa), VĩnhViễn (Lawak) và Bình Nguyên (Patag), và Song Tử, một lúc nào đó
trước tháng 7 năm 1971. (Họ cũng đã xét tới việc đổ bộ lên đảo Ba Bình nhưng bị
tàu Đài Loan ngăn cản.) Vào lúc Nam Việt Nam phái lính thủy đánh bộ ra đây vào
tháng 9 năm 1973, các lựa chọn trở nên hạn chế hơn. Đảo Trường Sa - Trường Sa
Lớn – là một ứng viên rõ ràng vì nó là hòn đảo thích hợp gần với đất liền Việt
Nam nhất và cũng ở bên ngoài khu vực Philippines tuyên bố chủ quyền. Họ đã học
được từ những sai lầm của Philippines nên không cố gắng để chiếm đảo Ba Bình:
đảo này đã được tăng cường mạnh mẽ vào thời điểm đó. Thay vào đó họ lẻn lên đảo
Nam Yết, phần thuộc cùng rạn san hô vòng (bãi Tizard) cách Ba Bình khoảng 20 km
qua đầm phá[8]
(xem thêm bản đồ ở Chương 3). Cũng
khoảng thời gian đó họ cũng đã chiếm lấy đảo Sinh Tồn (Sin Cowe) trên bãi Union
(đảo lớn thứ bảy) và đảo An Bang (Amboyna) ở xa hơn nữa về phía Nam.
Một phần thưởng khác lọt vào tay Việt Nam qua một sự kết hợp
giữa rượu và thời tiết xấu. Hai đảo cực Bắc của Quần đảo Trường Sa nằm ở chỗ mà
người Anh gọi là North Danger Reef (đá Nguy Hiểm Bắc). Đây là nơi mà vào tháng 10 năm 1956, Filemon Cloma đã bị Hải
quân Đài Loan buộc phải từ bỏ trò thu tóm đảo của mình. Như tên gọi của Pháp -
Les Deux Iles (Hai Đảo)- cho thấy rạn san hô này có hai thể địa lí chính: Song
Tử Đông dài 2 km (tiếng Philippines là Parola) và Song Tử Tây dài 650 mét
(tiếng Philippines là Pugad). Đầu năm 1975 quân trú đóng Philippines chiếm cả
hai đảo này và hai đơn vị thường giao lưu với nhau. Một đêm các sĩ quan và binh
lính từ Pugad được mời đến Parola dự tiệc. Theo Tướng Juancho Sabban, cựu chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy miềnTây Philippine, họ không thể trở về Pugad vì thời
tiết xấu. Thật không may cho người Philippines, thời tiết không quá xấu để ngăn
chặn quân đội Nam Việt lẻn lên đảo khi họ vắng mặt.[9]
Pugad đã bị người Việt Nam chiếm đóng từ đó và bây giờ cư dân ở đó gọi là đảo
Song Tử Tây.
Đó không phải là kết thúc của câu chuyện, như chúng ta đã
thấy trong Chương 3. Chỉ một vài tháng sau đó, trong những tuần cuối của cuộc
chiến tranh Việt Nam, Hà Nội phát động chiến dịch Biển Đông nhằm tóm lấy tất cả
các đảo đang dưới sự kiểm soát của miền Nam Việt Nam. Song Tử Tây là mục tiêu
đầu tiên của họ. Lực lượng đặc biệt đã đổ bộ lên đảo vào ngày 13 tháng 4. Sau
một cuộc đọ súng ngắn, một số trong những người bảo vệ đảo nhận ra vị thế của
họ là vô vọng và đầu hàng. Nhưng có một trung úy, phải đối mặt với triển vọng
của một trại tù cộng sản đã đặt niềm tin vào tình thân hữu tư bản. Ông lao vào
văn phòng của những người lính Philippines mà đơn vị của ông mới làm nhục gần
đây sau khi bơi 3 km qua đầm phá tìm đến sự an toàn ở Parola. May mắn cho ông
ta, người Philippines tha thứ và cho ông chỗ trú thân. Trong khi đó, những
người cộng sản tiếp tục vội vả chiếm lấy các đảo còn lại do Nam Việt Nam nắm
giữ ngay cả trước khi Sài Gòn sụp đổ.
Hiện nay, các đơn vị đóng ở đôi đảo này đang nói chuyện với
nhau. Thậm chí tốt hơn, bây giờ họ đang giao lưu thể thao. Vào tháng 3 năm
2012, các đô đốc phụ trách hải quân Việt Nam và Philippines đồng ý với nhau
rằng, như một biện pháp xây dựng lòng tin, quân đội hai nước sẽ tổ chức một
loạt các trò chơi bóng đá và bóng rổ. Trận đấu đầu tiên đã diễn ra hồi tháng 6
năm 2014. Đối với các khách Philippines đến thăm, sự tương phản giữa nơi ăn
nghỉ kham khổ của họ trên Parola với cơ sở vật chất ngày càng thoải mái trên
Đảo Song Tử Tây lộ ra quá rõ. Như ở trên Đảo Trường Sa, người Việt đã lắp đặt ở
đây các máy phát điện năng lượng mặt trời và gió, tháp radar và hải cảng nhân
tạo. Một tháp đèn biển thanh lịch cao 40 mét bên trên các ngọn cây và các cơ sở
thể thao.
Còn ở trên đảo Parola, các thành viên của đội trú đóng
Philippines sống như người sản xuất nhỏ trên đảo hoang vắng của mình: chăm sóc
các loại rau, thu hoạch dừa và đánh bắt cá. Kiếm việc để giết thời giờ là cách
tốt nhất để chống lại sự buồn chán và cô đơn trong những tháng giữa các lần tàu
tiếp tế đến. Một chiếc xe ủi đất bị hỏng bên cạnh bãi biển là một minh chứng rỉ
sét cho tham vọng chưa được hoàn thành. Đối với tướng Sabban, tình hình trên
Parola là đặc biệt thất vọng. Ông là chỉ huy ở đó trong 6 tháng vào năm 1981 và
nhớ lại những ngày mà lính thuỷ đánh bộ của ông được hưởng một tiêu chuẩn tốt
hơn nhiều so với cuộc sống các láng giềng của họ vào lúc đó, đang chịu đựng sự
thiếu thốn của chủ nghĩa xã hội nhà nước. Kể từ đó Việt Nam đã tự do hóa nền
kinh tế và tạo ra các nguồn lực để phát triển các đảo của mình. Ở Philippines,
ưu tiên khác biệt. Ngân sách quân sự đã bị cắt giảm và lính thuỷ đánh bộ đã
phải đương đầu với những hậu quả.
Hậu quả của việc cắt giảm có thể được nhìn thấy trên tất cả
các đảo do Philippines kiểm soát. Trên bãi Cỏ Mây (Philippines gọi là Ayungin,
quốc tế gọi là Second Thomas Shoal), hải quân sống trên thân tàu BRP Sierra Madre rỉ sét, một tàu đổ bộ đã cố
ý cho mắc cạn trên rạn san hô vào năm 1998. Ngay cả đi bộ trên boong chính của
tàu cũng nguy hiểm. Nhiều năm muối biển và gió lớn đã làm bong sơn để lộ kim
loại ra ngoài. Nhiều mảng lớn trên boong đã hoàn toàn bị hư hại và khách viếng
phải bước trên một tấm ván mới có thể đi qua. Năm lính thuỷ đánh bộ và hai thủy
thủ làm việc bảo vệ bãi cạn này thậm chí còn có ít điều để tự khuây khoả hơn
các bạn của họ trên Parola. ‘Cuộc sống khá khó khăn ở đây bởi vì không có cây
cối, không có mặt đất’, hạ sĩ quan bậc ba Benedicto de Castro nói với một nhà
báo đến thăm vào năm 2012. Chế độ ăn uống của họ gồm gần như chỉ là cá mà họ
bắt được. Năm 2013 cuộc sống của họ càng trở nên khó khăn hơn khi các tàu cảnh
sát biển Trung Quốc bao vây đồn của họ, buộc tàu tiếp tế phải quay về.
Khoảng mỗi ba tháng tàu BRP Laguna, một tàu đổ bộ thời Thế chiến thứ hai của Hải quân
Philippines, khởi hành cho chuyến đi ‘Log Run’- chuyến đi cung cấp hậu cần (logistical supply run) quanh tất cả 9 thể địa lí do quân đội Philippines chiếm đóng.
Đó là một chuyến đi kéo dài bảy ngày nhưng thời tiết xấu hoặc các vấn đề cơ khí
thường làm cho nó lâu hơn. Không có đảo nào trong số các đảo này có bến cảng,
cầu cảng hoặc thậm chí cầu tàu để tiếp nhận được tàu lớn, do đó đồ tiếp tế phải
được xếp lên xuồng nhỏ và chở vào bờ. Ở Đá Rizal (Commodore Reef trên các hải
đồ phương Tây) lúc triều lên đồn lính 4 người này rút vào trong ngôi nhà sàn
của mình và chơi bài cho đến khi nước xuống một lần nữa. Họ ghen tị làm sao với
đồng nghiệp của họ, chỉ cách một giờ tàu, trên Đảo Kota (Loại Ta) với đất khô
ráo và cây xanh.
Một trong những nhiệm vụ của tàu trong chuyến đi ‘Log Run’
là kiểm tra các rạn san hô và bãi ngầm mà Philippines tuyên bố chủ quyền nhưng
không đóng quân. Họ phát hiện ra ngày càng nhiều thêm bằng chứng về hoạt động
của nước ngoài. Nó có thể bắt đầu với một cái gì đó có vẻ vô hại như một phao
màu cam. Phao đó có thể chỉ là một điểm neo đậu cho một tàu đánh cá nhưng tướng
Sabban nói rằng thường đó là bước đầu tiên trong việc thu tóm đất lén lút. Ông
nói nếu không lấy phao đi thì trong vòng một vài tháng nó có thể phát triển
thành một trụ thép. Giữa năm 2011 lực lượng của ông đã phát hiện ra một phao
tại Bãi ngầm Sabina, sau đó nó đã tiến triển thành một tàu container vận chuyển
thương mại lớn neo vào bãi ngầm. Tất nhiên, đó là của Trung Quốc, ông nói. Nhớ
lại sự kiện ở Đá Vành Khăn (Mischief Reef) vào năm 1995, khi người Philippines
bị bất ngờ, các thủy thủ và lính thủy đánh bộ đã ra lệnh tháo bỏ tất cả mọi thứ
họ tìm thấy. Đó là trò chơi mèo và chuột, với Trung Quốc liên tục thử thách sự
cảnh giác của các chàng trai áo lam và áo xanh lá cây.
Các chuyến đi thường bắt đầu hoặc kết thúc ở đảo chính do
Philippines nắm giữ: Thị Tứ, hoặc Pagasa như cư dân của nó gọi. Cái tên Pagasa
– tiếng Tagalog có nghĩa là ‘hi vọng’ - là phù hợp, vì hi vọng là cái làm cộng
đồng nhỏ bé này được duy trì. Thị Tứ là một trong những đảo đầu tiên lực lượng
Philippines chiếm được và là đào lớn nhất với 37 ha. Nó lớn đủ cho một khu định
cư nhỏ nhưng không đủ cho đường băng dài 1 260 mét nhô ra hai phía của nó.
Đường băng được xây dựng vào giữa thập niên 1970 nhưng hiện nay chỉ có thể sử
dụng nếu có sự chăm sóc cật lực. Theo cách nói của tạp chí nội bộ Kanluran của
Bộ Chỉ huy miền Tây, đường băng sắp bị tách ra hoàn toàn do bị biển xói mòn.
Đầu năm 2011, một tàu hải quân Philippines mang vật liệu tới để sửa chữa đã bị
mắc cạn trên rạn san hô quanh đó. Quân đội tuyên bố họ không có các nguồn lực
hay các kĩ năng để hoàn thành công việc và kêu gọi chính phủ tài trợ để mướn
nhà thầu dân sự làm việc sửa chữa. Những cam kết đã được đưa ra nhưng sóng vẫn
đang ăn xói vào đường băng.
Năm 2001, Philippines trở thành quốc gia đầu tiên cố ý cho
thường dân định cư ở Quần đảo Trường Sa, nhưng nó đòi hỏi một thiết chế đặc
biệt khó khăn để chịu đựng các điều kiện trên Thị Tứ/Pagasa. Chính thức, theo
điều tra dân số năm 2010, đảo có dân số là 222. Trên thực tế, chỉ có khoảng 60
người sống ở đó vào một lúc bất kì nào. Đó một phần là vì trợ cấp của chính phủ
trung ương là $ 14 000 mỗi năm chỉ có thể lo đủ cái ăn cho chừng ấy người. Hầu
như tất cả mọi thứ trừ cá, muối và dừa – đều phải đưa tới bằng tàu. Không như
Việt Nam, Philippines vẫn chưa chở đất ra để làm vườn rau. Cũng có một trạm
điện thoại di động trên đảo nhưng tín hiệu được mô tả là rất ‘chập chờn’.
Thị trưởng của đảo, trên thực tế là của toàn bộ nhóm đảo
Kalayaan, là Eugenio Bito-onon. Ông là một trong những người tiên phong, chuyển
đến Thị Tứ / Pagasa vào năm 1997 để làm việc như một nhà quy hoạch thị trấn cho
thị trấn trong hi vọng này. Ông vẫn đang quy hoạch và vẫn đang hi vọng. Thị
trưởng Bito-onon mơ về một đường băng an toàn và một bến cảng hoạt động, về
khách du lịch bay tới tắm trong các hồ bơi và ở các rạn san hô nguyên sơ, về
những chiếc du thuyền tại bến đậu, về tàu đánh cá dừng lại sắm đồ tiếp tế và
một cộng đồng thịnh vượng đảm đượng được tất cả các nhu cầu của họ. Nhưng không
có gì có thể chuyển dịch nếu không được chính phủ trung ương tiêm một nguồn tài
trợ vào màchính phủ thì luôn có những ưu tiên khác. Tháng 6 năm 2012 Bito-onon
mở trường học đầu tiên ở đảo với một giáo viên, 3 bé nhà trẻ và 5 học sinh mẫu
giáo. Đó chỉ là một phòng đơn với bàn ghế vay mượn nhưng ông hi vọng nó sẽ
thuyết phục nhiều gia đình ở lại hơn. Cho đến lúc đó, trẻ em phải đi 500 km đến
Palawan, đảo lớn gần nhất, để học. Ông đang hối thúc chính phủ xây dựng một
trường học thích hợp với nhà vệ sinh và phòng học riêng biệt nhưng vẫn đang chờ
đợi nguồn tiền $ 100 000 cần có để bắt đầu.
Trung Quốc đã đưa ra phản đối ngoại giao về việc mở trường
này, lập luận rằng việc này vi phạm chủ quyền không thể tranh cãi của họ tại
Biển Đông. Đó dường như là lí do chính tại sao chi phiếu của chính phủ Manila
vẫn đóng. Cách tiếp cận - chính sách có thể là một từ quá mạnh - của họ là
tránh không để cho Trung Quốc có bất cứ lí do gì để phản đối các hoạt động trên
các đảo do Philippines đang nắm giữ và hi vọng qua đó sẽ duy trì hiện trạng.
Các đơn vị trú đóng rõ ràng là lực lượng hình thức và có thể bị đè bẹp trong
vòng vài phút bởi một kẻ thù quyết tâm. Ngay cả trên đảo Thị Tứ, việc phòng thủ
bao gồm chừng hơn hai súng phòng không 40 mm và các vũ khí cá nhân của lính thuỷ
đánh bộ. Trái ngược với tất cả các đảo có chiếm đóng khác trong Quần đảo Trường
Sa, ở đây không có vật chướng ngại chống xâm lấn từ biển vào và hầu như không
có công sự trên đất liền. Nỗ lực xây dựng bất kì thứ gì sẽ gặp phải sự phản
kháng từ Bắc Kinh và, có lẽ, sẽ lặp đi lặp lại. Việt Nam chỉ cần phớt lờ các
phản kháng như vậy nhưng Philippines xem chúng nghiêm túc hơn.
Một mảnh của công trình đã hoàn thành là một bức tượng nhỏ
của Tomas Cloma, người khai phá nhóm đảo Kalayaan. Theo một cách nào đó, Thị
trưởng Bito-onon là người thừa kế của Cloma. Ông có trách nhiệm, ít nhất trên
lí thuyết, đối với 7 đảo (Kota, Lawak, Likas, Pagasa, Panata, Parola và Patag)
cùng với Đá Rizal, Bãi Cỏ Mây, và hàng chục các thể địa lí chưa chiếm đóng cùng
các khu vực biển rộng lớn ở giữa. Thị Tứ / Pagasa có một hội trường thị trấn
nhưng không có tín hiệu điện thoại di động tốt nên khó để làm việc ở đó. Hầu
hết thời gian trong năm, chính quyền địa phương Kalayaan hoạt động ở một văn
phòng nhỏ trong một khu mua sắm bụi bặm đang phát triển ở vùng ngoại ô cảng
Puerto Princesa, thủ phủ của Palawan.
**********
Vào lúc CHNDTH bước chân vào Quần đảo Trường Sa năm 1987,
tất cả các vùng đất khô ráo trên mặt biển đều đã bị chiếm đóng. Chỉ còn các rạn
đá cằn cỗi, rõ ràng không thể duy trì việc cư trú của con người nếu không thêm
vào hàng trăm tấn bê tông, sắt thép và nguồn cung cấp từ các tàu tiếp tế thường
xuyên. Cuộc sống là đặc biệt gian khổ ở các tiền đồn. Mặc dù các báo cáo của
truyền thông Trung Quốc luôn luôn miêu tả những người cư ngụ trong những pháo
đài biển như những người hùng mặt đỏ hồng tràn đầy nhiệt huyết yêu nước và đạo
đức xã hội chủ nghĩa, đôi khi họ lại vô tình tiết lộ thêm về sự thật. Chẳng
hạn, một bài báo tháng 3 trên báo PLA
Daily (báo QĐND TQ) ca ngợi những sáng tạo của một nhóm lính cũ đóng quân
trên Đá Chữ Thập (Yongshu Jiao / Fiery Cross Reef) khi cố gắng để làm vui lên
một lính mới đến, Chen Hao. Sinh nhật Chen gần kề nhưng không có bơ hay trứng
trên rạn đá nên họ làm cho anh ta một chiếc bánh bằng đậu phụ. Phản ứng của
Chen đối với món bánh kẹo đã không được ghi lại. Tháng 6 năm 1994, đài phát
thanh Trung Quốc tường thuật rằng những người lính ở tiền đồn ‘đã từng có vết
lở trong miệng vì trong thời gian dài không ăn rau xanh’ - một triệu chứng sớm
của bệnh scurvy (thiếu vitamin C) - và mô tả những người này ở suốt trong công
sự bê tông trong hơn một năm.
Nhiều bài viết gần đây, trong khi ca ngợi các phát triển
mới, cũng nói với chúng ta điều gì đó về sự không thoả mái đang tiếp diễn của
cuộc sống. Một bài báo tháng 6 năm 2012 trên PLA Daily cổ vũ việc cung cấp các thiết bị nhà bếp có tính năng
chống ẩm và chống rỉ sét’, ‘các tấm chắn cách âm cho máy phát điện’ và các tấm
kính bảo vệ ngăn bức xạ cực tím. Điều này dường như hàm ý rằng đồ đạc bằng kim
loại đang bị han rỉ đi, rằng binh sĩ đang sống ở gần máy móc công nghiệp lớn và
bị loà mắt. Hầu như tất cả các hình ảnh chính thức của các pháo đài trên rạn đá
đều được chụp vào một ngày trời trong, yên tĩnh khi bầu trời có màu xanh tươi
sáng còn biển thì trong trẻo và yên ắng. Nhưng đối với hầu hết thời gian trong
năm thì nhiệt độ hoặc 30° C và ẩm ướt không thể chịu được, hoặc có gió mùa thổi
theo hướng này hay hướng khác. Từ tháng 10 tới tháng 1 có bão định kì - với sức
gió 200 km/h và sóng đôi khi lớn tới mức đánh cao khỏi đầu những người đóng
trên đảo.
Tại thời điểm viết sách, Trung Quốc đã có lô cốt xây trên 8
rạn san hô ở Quần đảo Trường Sa: Châu Viên (Cuarteron /Huayang Jiao [Hoa Dương
tiêu]), Chữ Thập (Fiery Cross /Yongshu Dao [Vĩnh Thử đảo]), Gaven Bắc (Nanxun
Jiao [Nam Huân tiều]) và Gaven Nam (Xinan Jiao [Tây Nam tiều]), Gạc Ma (Johnson
South /Chigua Jiao [Xích Qua tiều]), Kennan (Dongmen Jiao [Đông Môn tiều]),
Vành Khăn (Mischief /Meiji Jiao [Mĩ Tế tiều]) và Subi (Zhubi Jiao [Chử Bích
tiều]). Công việc xây dựng cũng đang được tiến hành tại rạn đá thứ chín, Eldad
Reef (Anda Jiao 安达礁 [An
Đạt tiều]). Không có công trình nào được thiết kế với tính thẩm mĩ trong đầu:
chúng là các cấu trúc để sinh tồn được xây dựng để chịu được sóng, gió và tấn
công quân sự. Một số có đủ chỗ trống để đặt một vòng bóng rổ hay một bàn bóng
bàn và luôn có một sàn đáp máy bay trực thăng cho tập tai chi (thái cực quyền) nhưng không có cơ hội cho trò chơi bóng đá
trên bất kì rạn đá nào trong số đó. Không như các đảo do Philippines kiểm soát
có thể là khu bảo tồn thiên nhiên, mục đích rõ ràng của các cấu trúc Trung Quốc
là để kiểm soát vùng biển xung quanh chúng. Chúng tua tủa với mái vòm radar,
các đĩa vệ tinh và các ụ súng.
Không có không gian để thư giãn ngoài trời, người Trung Quốc
quay vào bên trong. Máy karaoke và trò chơi video có tại chỗ cho một lúc nào đó
nhưng hiện nay kết nối vệ tinh cho binh lính truy cập vào internet - chính thức
dùng cho việc học tập trực tuyến nhưng có lẽ cũng cho các mục đích ít đòi hỏi
trí óc hơn. Trong vài năm qua, tất cả các nước tranh chấp đang tiến hành một
cuộc chiến tranh hậu cần - giữa họ với nhau và giữa các yếu tố với nhau - để
cung cấp vùng phủ sóng điện thoại di động tốt nhất ở các đảo. Việt Nam là nước
đi bước đầu tiên, lắp đặt một trạm cơ sở tháng 7 năm 2006. Kể từ đó, Trung Quốc
đã làm việc cật lực để bắt kịp. Hệ thống đầu tiên của họ ở Quần đảo Trường Sa
đã đi vào hoạt động năm 2011 và vào tháng 1 năm 2013, China Telecom tự hào
tuyên bố rằng tiền đồn lớn nhất, đá Chữ Thập, bây giờ có kết nối điện thoại di
động 3G hoạt động và họ đang bận với việc triển khai vùng phủ sóng ra cho các
đơn vị đồn trú khác. Trên khắp quần đảo binh lính và ngư dân bây giờ có được sự
lựa chọn các công ti điện thoại quốc gia cạnh tranh nhau. Philippines là nước
còn xa phía sau những nước khác, nhưng ít ra là lính Philippines trên Parola
(Northeast Cay [Song Tử Đông]) có thể vay nhờ tín hiệu từ đối thủ Việt Nam trên
đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) để gọi về nhà
.
**********
Nếu như được yêu cầu phân xử quyền sở hữu hợp pháp của Quần
đảo Trường Sa, Tòa án Quốc tế (ICJ) sẽ phải làm sáng tỏ một mạng chằng chịt các
yêu sách. Sáu quốc gia có thể sẽ hăng hái dự phần: Pháp - dựa vào phát hiện và
chiếm đóng năm 1933 và tái chiếm đóng tháng 10 năm 1946; Philippines - dựa trên
tuyên cáo của Phó Tổng thống Quirino tháng 7 năm 1946 (và có thể thêm các hoạt
động của Hoa Kì như thế lực thực dân trong thập niên 1930); THDQ (Đài Loan) dựa
trên chiếm đóng trong tháng 12 năm 1946 và các hoạt động kể từ đó (mặc dù từ
khi không còn được thừa nhận là thành viên của Liên Hiệp Quốc, họ không thể
trực tiếp trình bày vụ việc); CHNDTH - cũng dựa vào các hành động của THDQ và
quyền là quốc gia kế thừa hợp pháp của THDQ do họ tự nhận; và Việt Nam - dựa
trên việc cho mình là nhà nước kế thừa của Đông Dương thuộc Pháp và các hành
động của nó từ đó.
Điều đầu tiên tòa án sẽ cần phải quyết định sẽ là ‘ngày định
hạn’ (critical date) - thời điểm mà tại đó các sự kiện trọng yếu đều đã diễn ra
hết và các tranh chấp đã kết tụ. Việc lựa chọn ngày này thường có tính quyết
định đối với kết quả. Ví dụ, nếu như tòa án được yêu cầu phán quyết về chủ
quyền đảo Ba Bình hồi năm 1947 thì có lẽ toà sẽ có phán quyết nghiêng về Pháp
trên cở sở rằng Paris đã khẳng định rõ ràng tuyên bố của mình và chiếm đóng
(theo nghĩa pháp lí) đảo này trước bất cứ nước nào khác. Nhưng nếu hỏi câu hỏi
đó bây giờ, các thẩm phán có thể quyết định gôm nhiều sự kiện gần đây vào - đặc
biệt là việc Pháp rõ ràng không duy trì yêu sách của mình trong 60 năm qua –
điều này có lẽ sẽ có lợi cho THDQ.
Ngày định hạn còn có một ý nghĩa liên quan khác: nó cũng là
thời điểm mà sau đó hành động của các bên trong tranh chấp không có hiệu lực
trong mắt của luật pháp quốc tế. Vì tranh chấp đã kết tụ - tất cả các bên đã tỏ
rõ vị trí của mình - việc xây dựng một đường băng hoặc sáp nhập các đảo vào
tỉnh mới hay vẽ chúng trên một bản đồ mới sẽ không có chút trọng lượng nào với
các thẩm phán tại ICJ. Trong trường hợp của Biển Đông, ngày định hạn chắc chắn
sẽ rơi vào một vài thập niên trước đây. Phần cơ bản về luật học này dường như
không được các bên tranh chấp các đảo thông hiểu nên họ vẫn cứ thực hiên những
cử chỉ không thích hợp và phản đối về những cử chỉ không thích hợp do các bên
khác thực hiện mặc dù các cử chỉ này dường như không mang bất kì ý nghĩa nào trong
luật pháp quốc tế. Chúng chỉ đơn giản là một chiêu lừa đảo trong canh bạc khổng
lồ của họ.
Nếu các bên đã chọn để đặt câu hỏi thì ICJ có thể được yêu
cầu phán quyết về việc liệu một tuyên bố chủ quyền đối với đảo Ba Bình có giá
trị là một tuyên bố hợp lệ chỉ đối với một đảo, đối với các đảo liền kề xung
quanh đó hoặc đối với toàn bộ Quần đảo Trường Sa. Có các tiền lệ. Ví dụ, trong
phán quyết về tư cách của đảo Greenland Đông năm 1933, ICJ đã quyết định, thật
ra để khẳng định chủ quyền toàn bộ một đảo xa xôi cách trở một quốc gia không
cần phải chiếm đóng thực tế tất cả các phần của đảo đó. Nếu tiền lệ này được
theo thì có thể một phán quyết về chủ quyền đảo Ba Bình cũng sẽ áp dụng cho các
thể địa lí khác của đảo san hô vòng mà nó nằm trên – có tên là bãi Tizard.
Chúng bao gồm các đảo do Việt Nam chiếm đóng gồm Đảo Nam Yết (Namyit), Đá Sơn
Ca (Sand Cay) và Đá Núi Thị (Petley Reef ) và các đảo do cộng sản Trung Quốc
chiếm đóng gồm Đá Ga Ven (Nanxun Jiao [Nam Huân tiêu] và Xinan Jiao [Tây Nam
tiêu]) và Đá Eldad (Anda Jiao An Đạt tiêu]) mà tất cả đều nằm cách nhau vài
cây số. Tuy nhiên, tòa án cũng có thể phán rằng đây là những đảo riêng biệt
theo các yêu sách riêng biệt.
Câu hỏi nổ bùng hơn là liệu một phán quyết vể đảo Ba Bình sẽ
áp dụng cho tất cả các đảo khác trong Quần đảo Trường Sa hay không. Việt Nam và
cả hai nước Trung Hoa đều nói về yêu sách của mình trong khung tối đa này,
tuyên bố rằng họ có chủ quyền trên toàn bộ Quần đảo ‘Trường Sa’ hay ‘Nam Sa’
tương ứng. Philippines cũng nói tương tự, mặc dù chỉ đối với một bộ phận của
Quần đảo Trường Sa mà họ gọi là ‘nhóm đảo Kalayaan’ (gồm cả đảo Ba Bình). Nếu
tất cả các quốc gia đều giữ nguyên vị thế của họ và yêu cầu tòa án cho phán
quyết về các đảo như một toàn thể thì quyền sở hữu đảo Trường Sa, Thị Tứ và tất
cả các đảo khác có lẽ sẽ rơi vào quốc gia nào có yêu sách tốt nhất đối với đảo
Ba Bình. Do đã kiểm soát đảo này trong suốt nhất của 70 năm qua, nên kẻ chiến
thắng rất có khả năng là THDQ (Đài Loan). Khi đó CHNDTH (Bắc Kinh) sẽ cần phải
tranh luận rằng họ có quyền hợp pháp để kế thừa yêu sách của THDQ – mở nắp một
hủ dòi (một tình huống không mấy dễ chịu- ND).
Đảo Ba Bình sẽ là mục trung tâm của danh mục tài sản của bất
kì bên yêu sách nào của Biển Đông và rõ ràng được cả Trung Hoa cộng sản lẫn
Việt Nam thèm muốn. Những người trú đóng luôn chất chứa một nỗi sợ hãi bị xâm
chiếm và một cảm giác dễ bị xâm hại. Ba Bình là một dấu chấm trong đại dương
với các láng giềng thù địch bao quanh. Hành trình từ cảng Đài Loan gần nhất là
Cao Hùng (Kaohsiung) tới đó dài 1 400 km, mất ba ngày trong thời tiết tốt
và lâu hơn nữa nếu gặp bão. Chính phủ Đài Loan đã phải vật vã để tạo ra một bản
sắc vừa hòa bình trong ý định nhưng cũng vừa kiên quyết trong phòng thủ cho hòn
đảo. Không giống như đảo Trường Sa, Thị Tứ hay Phú Lâm có rất ít sự vờ vĩnh về
cuộc sống dân sự trên đảo Ba Bình: chẳng hạn không có trường cho trẻ con hoặc
khách sạn du lịch.
Năm 1999, để cố gắng xuống thang căng thẳng đang tăng ở Biển
Đông, chính phủ ở Đài Bắc thông báo rằng họ rút lính thủy đánh bộ khỏi đảo này
và thay bằng cảnh sát biển. Nhưng đó không là cảnh sát biển bình thường: họ
được vũ trang bằng súng cối 120 mm và pháo 40 mm và được huấn luyện trong quân
đội. Tháng 9 năm 2012 họ đã tổ chức tập trận bắn đạn thật để cho thấy họ sẽ
chống trả một lực lượng xâm chiếm như thế nào. Giống như hai đảo lớn nhất trong
Quần đảo Trường Sa, nét chính của đảo Ba Bình là một đường băng, chiếm
1 200 mét trong 1 400 mét chiều dài của đảo. Nó được xây
dựng chỉ trong 273 ngày và chính thức khánh thành với chuyến bay đến thăm của
Tổng thống Trần Thuỷ Biển (Chen Shuibian) một tháng trước cuộc bầu cử tổng
thống. Trần Thuỷ Biển tuyên bố cơ sở này dành cho mục đích nhân đạo - giúp đỡ
trong việc giải cứu ngư dân bị mắc nạn nhưng ít ai tin ông ta. Tranh cãi về
đường băng đã diễn ra trong 15 năm qua, ngưng đi hay bắt đầu lại mỗi khi mối
quan hệ với Bắc Kinh ấm nồng hay lạnh nhạt đi. Việc mở đường băng là một cử chỉ
chứng tỏ Trần Thuỷ Biển ủng hộ cho một Đài Loan độc lập hơn. Dù vậy nó không
giúp ông thắng cử.
Đảo này chỉ rộng 370 mét, nhưng có nguồn nước ngọt riêng và
được phủ bằng thảm thực vật tự nhiên. Rõ ràng ít nhất nó có thể phục vụ việc
sinh sống tối thiểu của con người, mặc dù đơn vị trú đóng 120 người ở đây phụ
thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ Đài Loan chuyển tới. Khu ăn ở, các ụ
phòng thủ, chỗ thu năng lượng mặt trời (nhằm giảm lượng diesel cần để chạy máy
phát điện trên đảo) và một khu vực bảo tồn cho loài rùa biển xanh đang bị đe
dọa nằm ở các dải đất hai bên đường băng.
Tóm lại, vị thế của Đài Loan trên đảo Ba Bình là an toàn. Do
đó theo ý nghĩa pháp lí, điều có thể tốt hơn cho Việt Nam và Philippines là họ
nên điều chỉnh vị thế của mình, không tiếp tục tìm kiếm chủ quyền đối với nhóm
lớn các đảo mà chỉ đối với các thể địa lí có tên cụ thể. Khi đó Việt Nam có thể
có khả năng cho thấy yêu sách mạnh mẽ nhất đối với đảo Trường Sa (Trường Sa
Lớn) và có khả năng đối với các đảo khác, còn Philippines đối với đảo Thị Tứ
(Pagasa) và cũng có khả năng đối với các đảo khác, thông qua lịch sử về chiếm
đóng và sử dụng lâu dài. Điều tương tự cũng có thể xảy ra giữa Việt Nam và
Trung Quốc cho Quần đảo Hoàng Sa - với tuyên bố của Việt Nam mạnh hơn đối với
nhóm Trăng Khuyết (Crescent) và tuyên bố của Trung Quốc mạnh hơn đối với nhóm
An Vĩnh (Amphitrite). Tuy nhiên, việc rút lại yêu sách bao gồm mọi thứ thành
yêu sách nhỏ hơn sẽ đòi hỏi bản lĩnh chính trị thật cao khi đối mặt với cơn sốt
dân tộc chủ nghĩa.
**********
Tự hào dân tộc là một trong những lí do tại sao các nước
xung quanh Biển Đông tiêu phí máu xương và của cải để chiếm các rạn san hô và
đảo nhưng cũng đã có những động cơ kinh tế ngay từ những tuyên bố đầu tiên thay
mặt người đào phân chim Anh trong thập niên 1870. Những ngày đó, ngoài phân
chim khai thác được và biến thành phân bón, những đảo này tự thân hầu như chẳng
chứa thứ gì có giá trị. Malaysia biến Đá Hoa Lau (Swallow Reef), mà họ gọi là
Layang Layang, thành khu du lịch bơi lặn với một khách sạn và hồ bơi (bên cạnh
các doanh trại, đường băng và bến cảng hải quân) nhưng đây là nơi duy nhất ở
Biển Đông đi gần tới việc chuyển ra lợi nhuận. Ngoài tầm quan trọng chiến lược
có phần đánh giá quá cao của chúng (xem Chương 8), các mỏm đá và đảo bây giờ
chỉ có giá trị nhờ các vùng biển bao quanh chúng. Đó là kết quả của khuôn khổ
mới luật pháp quốc tế mới phát triển lên trong nửa thế kỉ qua. Lần này, không
như các quy tắc điều tiết việc thu tóm lãnh thổ, không ai trong số các bên
tranh chấp có thể tranh luận rằng họ là nạn nhân của các quy tắc do các giáo
hoàng thời trung cổ hay các nước đế quốc thế kỉ XIX soạn ra.
Ngày 3 tháng 12 năm 1973 các thành viên của Liên Hiệp Quốc
ngồi ở New York để dự thảo Công ước mới về Luật Biển. Những người thừa kế John
Selden và Hugo Grotius đã dành 9 năm tiếp theo để tranh luận về việc các đại
dương thuộc về ai. Các cuộc thảo luận đã chịu dấu ấn của tình thế chính trị lúc
đó. Chiến tranh ở Việt Nam đang ở trong giai đoạn cuối cùng; CHNDTH vẫn là một
thành viên tương đối mới của Liên Hiệp Quốc; THDQ (Đài Loan) vừa mất ghế tại
Liên Hiệp Quốc. Các cuộc đàm phán UNCLOS đã trở thành nơi diễn ra các cuộc
tranh luận Chiến tranh Lạnh giữa tư bản và cộng sản, và cả giữa những nước ủng
hộ quyền tự do trên biển và những nước muốn chặn những kẻ khác ở ngoài - và
cách xa các nguồn tài nguyên ‘của họ’.
Vì các cuộc đàm phán UNCLOS kéo dài, một thỏa hiệp nổi lên
xung quanh khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và cách nó có thể được xác
định và tuyên bố. EEZ không là lãnh thổ nhưng các quốc gia ven biển sẽ có quyền
khai thác và điều tiết các nguồn tài nguyên bay trên đó, bơi lội trong đó, nằm
trên đáy biển và chôn vùi bên dưới đó. Khi các nhà ngoại giao tranh cãi, giá
dầu tăng lên và các chính phủ nắm được các tác động. Ai sở hữu đảo sẽ sở hữu
các quyền đối với tôm cá, khoáng chất và hydrocarbon xung quanh nó. Khi công
nghệ phát triển, các chính phủ đã ra nhiều hợp đồng sang nhượng dầu ngoài khơi
và các công ti thăm dò bắt đầu khảo sát và khoan ngày càng xa đất liền. UNCLOS
đã nâng giá các cổ phần trong Biển Đông lên đáng kể.
Vào thời điểm các cuộc đàm phán cuối cùng kết thúc, tại
Montego Bay ở Jamaica vào ngày 10 tháng 12 năm 1982, các chính phủ trên thế
giới đã đồng ý rằng các quốc gia ven biển có thể tuyên bố một lãnh hải rộng 12
hải lí (22 km), một EEZ ra đến 200 hải lí (370 km) và có thể một thềm lục địa
mở rộng xa hơn. Họ cũng đã phác thảo ra một số nguyên tắc chung cho những gì
được và không được tính là lãnh thổ. UNCLOS định nghĩa ba loại thể địa lí biển:
‘đảo’ (island) có thể phục vụ việc cư trú của con người hay đời sống kinh tế
riêng; ‘[đảo] đá’(rock) (kể cả bãi cát và rạn san hô trên mặt nước khi thủy
triều cao) không thể phục vụ được như đảo và ‘bãi triều thấp’ (low-tide
elevation), như tên cho thấy, chỉ khô ráo khi thuỷ triều thấp. Mặc dù định
nghĩa chính xác về việc cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng chưa xác
định, mỗi loại thể địa lí biển đã được ưu đãi với các quyền bất khả xâm phạm
nhất định. Đảo được coi như đất liền và tạo ra cả lãnh hải 12 hải lí lẫn EEZ
200 hải lí. Đảo đá tạo ra một lãnh hải 12 hải lí nhưng không có EEZ. Bãi triều
thấp không tạo ra gì cả, trừ khi nằm trong vòng 12 hải lí của một mảnh đất hay
một đảo đá, trong trường hợp đó chúng có thể được sử dụng cho việc vẽ điểm cơ
sở mà lãnh hải và EEZ có thể đo từ đó ra. Liên quan tới các tài nguyên biển, sự
khác biệt giữa đảo và đảo đá là rất lớn. Một đảo đá tạo ra một vùng lãnh hải
tiềm năng chỉ khoảng 452 hải lí vuông (≈ π × 12²). Một đảo tạo ra vùng lãnh hải
như thế mà còn thêm một vùng đặc quyền kinh tế tiềm năng ít nhất 125 600
hải lí vuông (≈ π × 200²).
Ngày 22 tháng 1 năm 2013, chính phủ Philippines đã cố gắng
thay đổi các điều kiện trong các tranh chấp ở Biển Đông qua việc loại bỏ các
lập luận đã có về quyền lịch sử đối với lãnh thổ và đi theo các lập luận mới
dựa trên UNCLOS. Thay vì tổ chức các cuộc tranh luận có tính cảm xúc về các yêu
sách đối với khu vực biển rộng lớn, họ đã cố tập trung chúng vào các mảnh biển
cụ thể dựa trên khoảng cách từ các mảnh đất cụ thể. Bộ hồ sơ 20 trang nộp cho
Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) tại The Hague nói rõ rằng Philippines không tìm
kiếm một phán quyết về các yêu sách lịch sử đối với các đảo, hoặc đối với bất
kì ranh giới biển nào mà thuần tuý đối với các thể địa lí tạo nên đảo và đảo
đá, và do đó có thể được phân loại như là ‘lãnh thổ’, và đối với những loại khu
vực biển nào có thể vẽ ra hợp pháp từ đó.[10]
Chính quyền Manila hi vọng PCA sẽ phán quyết rằng không có một thể địa lí nào
do CHNDTH chiếm đóng là đảo có khả năng duy trì việc cư trú của con người hay
đời sống kinh tế và vì thế không thể tạo ra EEZ.
Bằng cách hướng trọng tài vào những vấn đề này, Philippines
rõ ràng đã tìm cách để bất kì yêu sách lịch sử nào đối với tất cả các vùng biển
bên trong ‘đường chữ U’ dựa trên sự giải thích của Trung Quốc theo những mô
thức truyền thống của luật pháp quốc tế - đều bị phán là không hợp lệ. Bất kể
nước nào sở hữu mỗi đảo đá, quyền trên biển sẽ bị giới hạn – quá lắm là – tới
một bán kính 12 hải lí xung quanh mỗi thể địa lí. Điều này sẽ cho phép
Philippines phát triển dầu và đánh cá ở các vùng biển trong EEZ của mình, miễn là
các tài nguyên này nằm ngoài lãnh hải 12 hải lí tiềm năng của mỗi thể địa lí do
Trung Quốc chiếm đóng. Một tòa án khác có thể sẽ đưa ra phán quyết về quyền sở
hữu vào một thời điểm sau này.
Lúc Trung Quốc tham gia buổi tiệc ở Quần đảo Trường Sa vào
những năm cuối thập niên 1980, các bàn tốt nhất đã bị choán hết: chỉ còn những
chỗ ngồi rẻ tiền sót lại. Năm trong số 8 thể địa lí CHNDTH chiếm được quá lắm
chỉ là các bãi triều thấp (Vành Khăn, Kennan, Subi, Gaven Bắc và Gaven Nam). Ba
thể địa lí còn lại, hồ sơ Philippines lập luận, quá lắm chỉ là các đảo đá nên
chúng chỉ tạo ra một lãnh hải 12 hải lí và không có EEZ. UNCLOS rất rành mạch:
trên một bãi triều thấp bạn xây pháo đài lớn cỡ nào chẳng phải điều là quan
trọng; nếu như thể địa lí tự nhiên bên dưới pháo đài đó nằm dưới mặt nước khi
triều cao thì nó không tạo ra lãnh thổ biển nào. Điều này cũng đúng cho tất cả
các thể địa lí do Malaysia chiếm đóng (trong đó có Đá Hoa Lau [ Swallow
Reef]), hầu hết các thể địa lí do Việt Nam kiểm soát và ít nhất 3 trong số thể
địa lí mà Philippines sở hữu. Được xây dựng trên bãi triều thấp hoặc rạn đá,
chúng không được tính là đảo hay thậm chí là đảo đá theo UNCLOS.
Philippines, Việt Nam và THDQ (Đài Loan) đang kiểm soát một
số thể địa lí có thể được phân loại là đảo và do đó được hưởng một EEZ. Nhưng
để chứng minh với tòa án họ sẽ cần phải xác lập rằng các đảo này có thể, theo
câu chữ của UNCLOS, ‘duy trì việc cư trú của con người hay đời sống kinh tế
riêng của chính chúng’. Chính vì vậy mà cả 3 nước đều đi những bước dài trong
việc phát triển các cơ sở dân sự bất cứ nơi nào họ có thể: nhà ở và trường học
rõ ràng là hình thức cư trú của con người còn vựa cá và các kế hoạch du lịch là
những hình thức của đời sống kinh tế. Tất cả các học sinh đang học bảng cửu
chương trên đảo Thị Tứ / Pagasa, và tất cả các nhà sư đang tụng kinh cầu nguyện
trên đảo Trường Sa [Lớn], theo cách nhỏ nhoi của riêng mình, đều đang giúp tăng
trọng lượng cho yêu sách biển của đất nước họ.
Không có trẻ em đang học bất cứ điều gì trên Bãi Scarborough
nhưng trong tháng 4 năm 2007 một nhóm đàn ông trưởng thành đã dành một tuần đến
chơi trên đó. Họ là những người đam mê vô tuyến nghiệp dư - 'DXers' - những
người tranh đua phát sóng từ các địa điểm khắc nghiệt nhất. Họ từ Hồng Kông ra
đi trên một tàu hợp đồng mang theo tất cả những thứ họ sẽ cần: thiết bị vô
tuyến và dĩ nhiên có antenna nhưng cũng có cả các tấm ván, tấm gỗ, máy phát
điện, dù và áo phao. Đây là đoàn DX thứ tư đến bãi cạn này tính từ năm 1994 nên
các diễn viên này biết khá rõ những gì mong đợi. Nhưng khi đến nơi, họ hầu như
chẳng tìm thấy gì ở đó. Khi thủy triều cao, chỉ sáu mỏm đá nhô lên trên biển:
không có mỏm đá nào cao hơn hai mét, nhiều nhất, chỉ rộng ba hoặc bốn mét. Họ
bày trí để làm việc. Để thoả điều kiện cho tư cách DX, việc truyền đi phải được
thực hiện trên chính các mỏm đá nhưng không có một chỗ phẳng ở bất cứ nơi nào.
Dùng các tấm ván, họ xoay xở để dựng một sàn nhỏ trên mỗi mỏm đá - chỉ vừa đủ
cho một bàn và ghế, máy phát điện, một máy vô tuyến và một chiếc dù. Sau đó làm
việc theo ca họ phát sóng cho các đồng bạn DX trên toàn thế giới trong 5 ngày.
Đối với người ngoài cuộc, đó có vẻ là một cách tiêu phí ngày
nghỉ kì dị và khó hiểu nhưng chuyến đi là kết quả của một trận chiến lâu dài và
đầy xúc cảm có nhiều tiếng vọng của các tranh chấp địa chính trị ở Biển Đông.
Đã có nhiều tranh luận dài trong cộng đồng DX về việc liệu bãi Scarborough có
thoả điều kiện về ‘tư cách đất nước mới’ – một nhãn hiệu sẽ mở khóa một dòng lũ
ủng hộ từ những người có sở thích muốn thêm một vạch khắc vào cột giường máy
thu vô tuyến của họ. Tháng 6 năm 1995, một ủy ban của Liên đoàn tiếp vận vô
tuyến đã cố gắng áp đặt quy tắc về kích thước tối thiểu cho các đảo để loại
không xem xét Scarborough. Nó lặp lại các từ ngữ của UNCLOS, và tuyên bố rằng
đảo đá không thể duy trì việc cư trú của con người không được xét ‘tư cách nước
DXCC’. Tuy nhiên, các DX mạo hiểm đó và những người ủng hộ họ đã vận động để quyết
định đó bị đảo ngược- và 7 tháng sau đó họ đã thành công. Nhưng, như các DXer
nói trên đã chứng minh một cách thuyết phục, Bãi Scarborough hoàn toàn không có
khả năng phục vụ việc cư trú của con người. Ngay cả với gỗ, máy phát điện và dù
che nó là dứt khoát không hiếu khách nhiều hơn một vài giờ một lần. Có một quy
tắc cụ thể cho loại thể địa lí này trong UNCLOS: nó là một đảo đá, vì vậy nó sẽ
tạo ra một vùng lãnh hải 12 hải lí nhưng không có EEZ hay thềm lục địa.
Không có điều gì trong số này ngăn cản các nhà chức trách
biển Trung Quốc dừng việc tiêu phí một số lượng cực lớn công sức để giành lấy
quyền kiểm soát Bãi Scarborough từ tay Philippines trong năm 2012. Một bế tắc
bắt đầu vào ngày 10 tháng 4 khi cảnh sát biển (tuần duyên) Philippines cố ngăn không
cho 8 tàu cá Trung Quốc tóm lấy một lượng lớn san hô, trai khổng lồ và cá mập
sống. Hai tàu hải giám lớn của Trung Quốc sau đó đến ngăn chặn không để các ngư
dân này bị bắt giữ. Philippines phái tàu chiến lớn nhất, chiếc BRP Gregorio del Pilar (một tàu tuần duyên
cũ của Mĩ đóng vào năm 1965), trước khi xem xét lại quyết định và thay nó bằng
các tàu cảnh sát biển. Với một cơn bão đến gần kề, cả hai chính phủ đồng ý rút
tàu đi - nhưng chỉ có Philippines thực hiện, để cho Trung Quốc quyền kiểm soát
thực tế bãi cạn này.
Có một loại thể địa lí khác xuất hiện trong tuyên bố chủ
quyền lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông nhưng không có trong lời văn của
UNCLOS: thể địa lí ngầm. Theo UNCLOS hoàn toàn không có cơ sở để bất kì nước
nào đòi hỏi chủ quyền một bãi cạn hay bãi ngầm nằm bên dưới mặt nước khi triều
thấp: chúng đơn giản chỉ là một phần của đáy biển. Điều 5 của UNCLOS phát biểu
rằng đường cơ sở thông thường để tính vùng lãnh hải là ngấn triều thấp. Thể địa
lí ngầm, theo định nghĩa, không có ngấn triều thấp và do đó không thể có một
lãnh hải của riêng mình. Nhưng điều đó không ngăn cản Trung Quốc đưa ra tuyên
bố lãnh thổ dựa trên quyền lịch sử đối với Bãi ngầm Macclesfield và Bãi ngầm
James (Zengmu Ansha/Tăng Mẫu ám sa) - cả hai đều nằm bên dưới mặt biển. Như
chúng ta đã thấy trong Chương 2, điểm cạn nhất của Bãi ngầm James cách mặt biển
22 mét và địa vị của nó như là điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc có lẽ xuất
phát từ lỗi biên dịch của một ủy ban của chính phủ Trung Hoa năm 1935. Nó nằm
ngoài khơi cách bờ biển Borneo 107 km và cách bờ biển của đảo Hải Nam hơn
1 500 km. Nó rõ ràng nằm xa bên ngoài bất kì vùng lãnh hải nào mà Trung
Quốc có thể đòi hỏi được theo UNCLOS. Tuy nhiên, sức mạnh của tình cảm dân tộc
ngăn không cho Bắc Kinh thực hiện việc rút lui một cách cảm nhận được khỏi vị
thế vô nghĩa này. Ngay cả bây giờ, các tàu hải quân Trung Quốc trên đường tuần
tra chống hải tặc ngoài khơi Somalia vẫn đi vòng ngang qua bãi ngầm này để cho
thấy chủ quyền của Trung Quốc đối với nó. Nhưng vì không có chỗ đất khô ráo nào
để có thể dựng công trình chính thức trên đó, thay vì vậy họ phải thả chúng
xuống từ phía hông tàu. Bây giờ có một nhúm bia chủ quyền của Trung Quốc đang
nằm trên đáy biển bên dưới. Tháng 3 năm 2013 và tháng 1 năm 2014 tàu hải quân
Trung Quốc đã tổ chức diễn tập quân sự ở bãi ngầm này – đổ thêm gạch đá vụn vào
một đống hỗn độn.
Điều thú vị là, trong một tranh chấp biển khác Bắc Kinh đã
bác bỏ ý tưởng rằng thể địa lí ngầm có thể có tư cách lãnh thổ. Đá Socotra, còn
gọi là Đá Ieodo hoặc Suyan, nằm dưới mặt nước khoảng 5 mét ở Hoàng Hải, gần
cách đều hai bờ biển Trung Quốc và Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng một
trạm nghiên cứu đại dương trên đó, kích động các phản đối từ Bắc Kinh, nhưng
vào ngày 12 tháng 3 năm 2012, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng
định rằng Trung Quốc và Hàn Quốc có một sự đồng thuận về Đá Suyan, đó là đá này
không có tư cách lãnh thổ và hai bên không có tranh chấp lãnh thổ. Tuy nhiên,
sự đồng thuận này dường như không áp dụng cho Bãi ngầm James hay cho thể địa lí
ngầm lớn hơn nhiều: Bãi ngầm Macclesfield.
Bãi ngầm Macclesfield gần Trung Quốc hơn nhiều và cũng lớn
hơn rất nhiều so với Bãi ngầm James: dài khoảng 140 km và rộng 60 km. Nó cũng
gần mặt biển hơn một chút: Điểm cạn nhất của nó là chỉ có 9 mét dưới những con
sóng. Trong bảng kê tên chính thức ngăn nắp thông qua vào năm 1947, Bãi
Macclesfield là Quần đảo Cát Giữa - Zhongsha Qundao [Trung Sa Quần đảo] - để
khớp với các Quần đảo Cát Tây (Xisha [Tây Sa] hay Hoàng Sa), Cát Đông (Dongsha
[Đông Sa] hay Pratas) và Cát Nam (Nansha [Nam Sa] hay Trường Sa). Nhưng Quần
đảo Trung Sa chỉ là một công trình địa lí hư cấu. Theo cách nói chính thức của
Trung Quốc, họ gom bãi Macclesfield với một số thể địa lí ngầm khác giữa Bãi
Helen ở phía Bắc và Bãi Dreyer ở phía Nam vào thành một nhóm. Tranh cãi nhất là
họ gôm cả Bãi Scarborough ở phía Đông vào, đó là phần của duy nhất của Trung Sa
nhô lên trên mặt biển. Tuy nhiên, các bản đồ đáy biển cho thấy rõ ràng rằng khu
vực đó không có quần đảo nào theo nghĩa đã được chấp nhận của từ này: không có
chuỗi đảo nào mà chỉ có các thể địa lí ngầm tách biệt bởi khu vực biển rộng lớn
của một số trong những vùng biển sâu nhất của hành tinh. Không một thể địa lí
ngầm nào trong số đó có thể tạo ra EEZ. Chỉ có Bãi Scarborough may lắm mới có
thể tạo ra lãnh hải 12 hải lí.
Theo UNCLOS không có căn cứ nào để Trung Quốc tuyên bố chủ
quyền đối với Bãi ngầm James, Bãi ngầm Macclesfield hoặc các khu vực biển bên
ngoài 12 hải lí từ bất kì thể địa lí nổi bên trong đường chữ U. Đơn giản là
trong UNCLOS không có chỗ nào đề cập đến các quyền lịch sử, ngoại trừ liên quan
đến các khu vực trong vùng lãnh hải của một nước quần đảo - mà Trung Quốc không
phải là một nước loại này. Qua việc phê chuẩn UNCLOS - mà họ đã thực hiện năm
1996 - Trung Quốc đã kí loại đi quyền đòi hỏi quyền lợi lịch sử trong EEZ của
các nước khác - ít nhất là theo UNCLOS. Thay vào đó, một số quan chức nhà nước
Trung Quốc đã cố tranh luận dựa theo dạng truyền thống của luật quốc tế: tranh
cãi rằng các nhà thám hiểm và ngư dân Trung Quốc đã đi khắp các vùng nước của
Biển Đông trong nhiều thế kỉ và những hoạt động đó cung cấp một cơ sở để yêu
sách toàn bộ đất đai- và toàn bộ biển - trong đường chữ U. Nói cách khác, họ
đang cố gắng sử dụng một hình thức cũ của luật quốc tế để cố phủ nhận bất kì
phán quyết nào dựa trên UNCLOS. Ở mức cực đoan nhất, việc huy động lập luận này
dường như là một nỗ lực để viết lại luật quốc tế theo hướng có lợi cho Trung
Quốc và hợp pháp hóa yêu sách lãnh thổ đối với tất cả mọi thứ bên trong ‘đường
chữ U’. Hầu hết các học giả về chủ đề này đều xem lập luận này là có khe hở về
căn cứ lịch sử và hời hợt về cơ sở pháp lí nhưng nếu Tòa Trọng tài Thường trực
phán quyết ngã theo yêu cầu do Philippines nộp vào năm 2013 thì đó có thể trở
thành chỗ dựa chính cho yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông. Có nhiều hơn
về điều này trong Chương 9.
**********
Vậy tác động trên Biển Đông như một toàn thể sẽ là gì nếu,
do một liên kết bất ngờ các lực lượng địa chính trị, các yêu sách lịch sử được
đưa ra Tòa án Quốc tế và tất cả các bên đồng ý tôn trọng kết quả? Rõ ràng chúng
ta không thể biết chắc chắn, nhưng một hướng dẫn xuất sắc về kết quả có thể xảy
ra là từ giáo sư Robert Beckman của Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc gia
Singapore. Ông quan sát các tranh chấp trong một phần tư thế kỉ từ văn phòng
của mình bên cạnh vườn thực vật quốc gia và đã đi đến một số kết luận. Qua xem
xét các phán quyết trước đây của ICJ, ông thấy rằng tác động của tất cả các
việc thu tóm đảo trong vòng nửa thế kỉ qua thực sự là nhỏ nhoi một cách đáng
ngạc nhiên. ICJ thường hoài nghi đối với đòi hỏi EEZ lớn đưa ra dựa trên cơ sở
các đảo hay đảo đá nhỏ khi chúng chồng lấn với các yêu sách từ một bờ biển đất
liền hay đảo lớn hơn. Theo cách nói của Beckmans, ‘đó không chỉ đơn giản là một
câu hỏi về vẽ một trung tuyến giữa các đảo và lãnh thổ đất liền’. Ví dụ, trong
phán quyết cho tranh chấp giữa Romania và Ukraina đối với đảo có tên đáng báo
động là Rắn (Serpents) ở biển Đen, ICJ chú ý tới độ dài tương đối của các đường
bờ biển có liên quan. Nói cách khác, họ coi mấy trăm cây số bờ biển đất liền
của Romania là có nhiều ý nghĩa hơn chu vi 2 km của đảo Rắn. Biên giới quốc tế
vạch được không tính tới đảo này ngoài việc cho nó lãnh hải tiêu chuẩn 12 hải
lí. Một phán quyết khác của ICJ, vào tháng 10 năm 2012, cho một tranh chấp
tương tự đối với các đảo của Colombia ngoài khơi bờ biển Nicaragua, xác nhận
nguyên tắc cho rằng độ dài tương đối của các đường bờ biển là một yếu tố quan
trọng trong việc phân xử ranh giới biển.[11]
Tình hình ở Biển Đông phức tạp hơn ở biển Đen hoặc biển
Caribbean do số lượng của các đảo, đảo đá và các bên tranh chấp có liên quan
nhiều hơn. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể hiểu được rằng ICJ sẽ có cách tiếp cận
tương tự. Ngay cả nếu chúng ta giả định trường hợp xảy ra tình huống tồi tệ nhất
(theo mắt của các nước Đông Nam Á), - đó là mọi đảo đá và đảo trên Biển Đông
được trao cho Trung Quốc - điều đó sẽ không dẫn đến những mảng lớn EEZ của mỗi
quốc gia ven biển sẽ được trao cho Bắc Kinh. Theo Beckman có nhiều khả năng
rằng EEZ vẽ từ các đảo này sẽ mở rộng theo cách khác – hướng vào trung tâm của
biển và do đó sẽ làm giảm đi hoặc loại bỏ hoàn toàn các túi biển quốc tế nằm
giữa Biển Đông. Kết quả - trong ‘kịch bản Bắc Kinh lấy tất’ này - sẽ là một khu
vực EEZ của Trung Quốc có dạng chiếc diều chạy theo hướng tây Nam - Đông Bắc
bao quanh bởi các EEZ của tất cả các quốc gia ven biển khác. Một phán quyết hạn
chế hơn, chỉ trao đảo Ba Bình trong Quần đảo Trường Sa và trọn Quần đảo Hoàng
Sa cho một Trung Hoa hợp nhất, sẽ có một hiệu quả tương tự, dù nhỏ hơn (xem bản
đồ 3, 4 ở phần đầu cuốn sách)..
Tuy nhiên, đưa vấn đề này ra ICJ sẽ đòi hỏi sự đồng ý của
tất cả các bên tranh chấp và vì không ai có thể tin chắc vào kết quả, nên có
rất ít động lực để đồng ý. Một chính phủ ‘làm mất’ lãnh thổ theo một phán quyết
quốc tế sẽ phải chính thức nhượng quyền đối với các nguồn tài nguyên ở đó và có
thể chờ đợi để chịu cơn thịnh nộ của những bộ phận căm giận trong dân chúng.
Những rủi ro chính trị là rất lớn. Tuy nhiên, có những dấu hiệu thỏa hiệp thầm
lặng giữa các bên tranh chấp Đông Nam Á. Tháng 5 năm 2009, Malaysia và Việt Nam
nộp cho LHQ một tuyên bố chung về thềm lục địa mở rộng bỏ qua câu hỏi về đảo
nào thuộc quốc gia nào và chỉ đơn giản đo khoảng cách từ các đường bờ biển
tương ứng. Kể từ năm 2009 Philippines đã sửa đổi yêu sách dàn trãi của họ đối
với một khu vực rộng lớn của Biển Đông (nhóm đảo Kalayaan) thành yêu sách đối
với các đảo cụ thể (dựa trên tuyên bố lịch sử) và các khu vực biển cụ thể tính
từ chúng theo các quy tắc quy định trong UNCLOS. Nhưng Trung Quốc có nhiều thứ
để mất nhất từ việc điều chỉnh yêu sách của mình cho tương thích với UNCLOS vì
kết quả sẽ phân mãnh ‘đường chữ U’ thành một loạt các khu nhỏ hơn quanh các đảo
cụ thể. Trong khi chính phủ Trung Quốc như một toàn thể tiếp tục duy trì sự mơ
hồ chiến lược về việc đường này thực sự có nghĩa là gì, các thành phần chủ chốt
bên trong (quân đội, các công ti dầu mỏ và các tỉnh ven biển phía Nam) tiếp tục
hành động trên cơ sở rằng Trung Quốc vẫn duy trì yêu sách lãnh thổ lịch sử đối
với toàn bộ Biển Đông.
Tất cả các bên tranh chấp đều khẳng định yêu sách lịch sử
đối với các rạn san hô, đảo đá và đảo mà họ đang chiếm giữ và hầu hết trong số
họ (Việt Nam, Philippines và cả hai nước Trung Hoa - nhưng không có Malaysia
hay Brunei) cũng đều yêu sách toàn bộ hoặc một số thể địa lí khác. Những yêu
sách lãnh thổ này được dựa trên các chuẩn mực truyền thống của luật pháp quốc
tế: chiếm đóng, thời hiệu, chuyển nhượng và bồi tụ. Trước khi có thể bắt đầu
bất kì tiến trình giải quyết nào, các bên tham gia sẽ phải quyết định xem liệu
tòa án sẽ nghe lập luận lịch sử trước và đưa ra phán quyết rằng những đá và đảo
nào đúng lẽ thuộc về quốc gia nào hoặc liệu toà sẽ chừa lại những lập luận đó
để nghe sau và chỉ đưa ra các phán quyết dựa trên UNCLOS về các khu vực biển và
sẽ giải quyết quyền sở hữu sau này. Trong khi các kết quả của điều trước là rất
không chắc chắn, điều sau nói chung có lợi cho các bên tranh chấp Đông Nam Á
hơn là Trung Quốc. Do đó Bắc Kinh gia tăng nói về quyền lịch sử còn Đông Nam Á
nói nhiều về UNCLOS.
Từ lâu các quy tắc của luật pháp quốc tế dành ưu tiên cho
những kẻ chinh phục và khai phá của thế kỉ trước. Công ước về Luật Biển của
Liên Hiệp Quốc là một nỗ lực để khôi phục lại sự cân bằng và cho các quốc gia
ven biển quyền kiểm soát nhiều hơn các nguồn tài nguyên trong vùng biển bao
quanh họ. Nhưng địa lí trái đất không đồng đều. Sự sắp xếp của các lục địa và
biên giới quốc gia đã để cho một số nước ven biển có quyền sử dụng những khoảng
biển to lớn còn những nước khác với quyền sử dụng ít hơn nhiều. Ví dụ, EEZ của
Nhật Bản kéo dài ra Thái Bình Dương trong khi EEZ của Trung Quốc bị Nhật Bản
chắn lại, và xa về phía Nam cũng bị Philippines và Việt Nam chắn lối. Cảm giác
bất công về địa lí, bị làm trầm trọng thêm bởi nỗi uất ức dân tộc với một thế kỉ
đất nước bị làm nhục (quốc sỉ), giải thích vì sao Trung Quốc luôn đeo đuổi
‘quyền lịch sử’ ở Biển Đông. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã trở thành chuyên
gia trong việc sử dụng ngôn ngữ mập mờ trong việc thoả mãn tối thiểu các nghĩa
vụ quốc tế của mình trong khi vẫn để ngõ càng nhiều càng tốt các lựa chọn tương
lai của họ. Trung Quốc chỉ giành được lợi thế pháp lí tối thiểu từ các rạn san
hô họ chiếm giữ nhưng nếu không thực sự đặt chân ở Trường Sa thì lập luận về
lãnh thổ của họ sẽ thuần là lí thuyết. Những tiền đồn đã cho Bắc Kinh một chỗ
ngồi ở đầu bàn, chỗ mà chính trị thực dụng (realpolitk) luôn luôn là quan trọng
hơn so với luật pháp quốc tế.
Richard Spratly 170 năm trước tự do săn lùng bất cứ mảng
biển nào mà ông nghĩ rằng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Đèn và môi ở Châu Mĩ
và Châu Âu sáng lên với dầu và các thành phần mĩ phẩm mà ông và những người săn
cá voi của các nước giàu có khác thu hoạch được. Kết quả là sự suy giảm thảm
khốc của dân số cá voi. Việc tìm kiếm một loại dầu khác và nỗi lo sợ xảy ra một
cuộc đấu không quy tắc tương tự cuối cùng đã dẫn các chính phủ trên thế giới
tới việc đồng ý với các quy tắc về cách phân chia tài nguyên biển thế giới.
Nhưng ở Biển Đông việc săn lùng dầu đang còn tiếp tục là một nguồn bất ổn lâu
dài ... như chúng ta sẽ thấy kế tiếp.
Xem thêm: (bản song ngữ chương này)
Lời mở đầu
Chương 1: Từ tiền sử đến 15000
Chương 2: Bản đồ và đường vẽ: từ 1500 đến 1948
Chương 3: Nguy hiểm và ranh ma: 1946-1995
Chương 1: Từ tiền sử đến 15000
Chương 2: Bản đồ và đường vẽ: từ 1500 đến 1948
Chương 3: Nguy hiểm và ranh ma: 1946-1995
Chương 4: Biển Đông và Luật Quốc tế
Chương 5: Dầu khí ở Biển Đông
Chương 6: Chủ nghĩa dân tộc
Chương 7: Ngoại giao
Chương 8: Các vấn đề quân sự
[1] Geoffrey
Marston, ‘Abandonment of Territorial Claims: the Cases of Bouvet and Spratly
Islands’, The British Yearbook of
International Law 1986 (Oxford,
1986), 337.
[2] Letter of 16
June 1955 from General Jacquot, General Commissioner of France and Acting
Commander-in-Chief in Indochina, quoted in Monique Chemillier Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly
Islands (Leiden, 2000), Annex 40.
[3] Ulises
Granados, ‘As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the
Making’, 1902-1937, Pacific Affairs, vol. 78 (2005), 443-61.
[6] ‘Vietnam Navy
Commemorates Soldiers Killed in 1988 Clash with China’, VoV [The Voice of Vietnam], January 2012.
[7] Rommel C.
Banlaoi, Philippines-China Security
Relations: Current Issues and Emerging Concerns (Manila). ).
[8] Đảo san hô vòng này được gọi là bãi Tizard (Tizard Bank), theo tên của viên sĩ quan thứ hai trên
tàu Anh thực hiện khảo sát bãi trong thập niên1860. David Hancox and Victor
Prescott, A Geographical Description of the Spratly Islands and an Account of
Hydrographic Surveys Amongst those Islands, Maritime
Briefings, vol. 1, no. 6 (1995). Có thể xem tại https://www.dur.ac.uk/ibru/publications/view/?id=229.
[9] Tướng Juancho Sabban, phỏng vấn cá nhân ngày5/3/2O12 ở
Puerto Princesa, Philippines.
[10] ‘Notification and Statement of Claim’, Republic of
Philippines, Department of Foreign Affairs, 22 Jan 2013. Có thể xem tại http://www.dfa.gov;ph/index.php/component/dockman/doc_download/56-notification-and-statement-of-claim-on-west-philippine-sea.
2 comments:
Cảm ơn tác giả Bill Hayton và người dịch. Tôi mong đọc tiếp những phần sau. Nếu được, mong công khai tên người dịch để tôi được cảm ơn trưc tiếp
Cám ơn Chị Bình đã đọc bài dịch này, tôi đang cố gắng để hoàn thành các chương còn lại (chương 5 đã xong post ở đây: http://songphan.blogspot.com/2015/04/bill-hayton-bien-ong-chuong-5-dau-khi-o.html). Lời động viên của chị là khích lệ lớn lao đối với những người như chúng tôi rồi chi không phải làm gì thêm. PVS
Post a Comment