Hoa Kì và yêu sách đường 9 vạch của Trung Quốc
Lawfare (7/1/2015)
Tác giả: Sean Mirski
Đầu tháng trước, Bộ Ngoại giao Hoa Kì công bố
bài mới nhất trong loạt bài khảo sát “Giới hạn trong
các vùng biển” (Limits in the Seas). Các bài khảo sát này xem
xét các yêu sách biển của các nước trên thế giới và phân tích xem chúng có phù
hợp với luật pháp quốc tế hay không.
Thông thường, các báo cáo này tạo nên bài đọc hấp dẫn đối với một
cộng đồng nhỏ những người có nhiệt tâm với luật biển, nhưng chúng có xu
hướng tương đối trung tính. Tuy nhiên, bản báo cáo mới nhất không còn như thế: báo
cáo số 143 đem yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông ra xem
xét thật kĩ lưỡng về khía cạnh pháp lí và thấy các yêu sách đó thiếu cơ sở.
Báo cáo này có giá trị của riêng nó như
một công trình nghiên cứu kĩ lưỡng và chi tiết nhất về lập trường của chính phủ
Mĩ đối với các yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông. Xét cho cùng, cho tới
gần đây, chính phủ Mĩ vẫn phần nào thận trọng trong việc thông báo công khai
lập trường của mình đối với các yêu sách biển của Trung Quốc. Nhưng ngoài việc
cộng thêm một đợt chỉ trích vào cuộc công kích bắt đầu từ tháng 2 vừa qua của
Trợ lí Ngoại trưởng Daniel Russel và Đô đốc hải quân Mĩ Jonathan Greenert, bản báo cáo cũng có thể có những tác động đáng kể đối với vụ Philippines đang đưa
yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông ra toà trọng tài. Cụ thể, bàn báo cáo cho thấy một phương pháp có thể có mà tòa trọng tài có thể dùng nó để tránh
được một trong những vấn đề khó khăn nhất trong vụ kiện – hình dung một cách
chính xác yêu sách thực sự của Trung Quốc là
gì.
Theo đó, dưới dây Lawfare sẽ tóm tắt nội dung của bản báo cáo.
I. Đường 9 vạch của Trung Quốc
Bản báo cáo bắt đầu bằng việc mô tả các yêu
sách của Trung Quốc đối với nhiều phần của biển Đông theo cả quan điểm lịch sử
lẫn quan điểm địa lí. Trong những năm gần đây, yêu sách của Trung Quốc phần lớn
được hiểu bằng cách quy về đường “9 vạch” tai tiếng, đã xuất hiện trong một bản
đồ do Trung Quốc đưa ra cho cộng đồng quốc tế vào năm 2009.
Theo bản đồ năm 2009, đường 9 vạch chạy dọc bờ
biển của Việt Nam, xuyên ngang biển Đông tới bờ biển của Malaysia, và sau đó
lượn vòng lên dọc theo bờ biển Malaysia, Brunei, và Philippines trước khi kết
thúc ở phía đông của Đài Loan. Như bản báo cáo ghi nhận, đường 9 vạch tiến
rất sát bờ biển của các quốc gia láng giềng – thật ra, các vạch nói chung gần
với các bờ biển đó hơn bất kì đảo nào bên trong biển Đông.
Khi nộp bản đồ, Bắc Kinh chỉ nói đơn giản
rằng: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Đông
và các vùng biển lân cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán trên
các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đó (xem bản đồ đính
kèm)”.
II. Cơ sở của phân tích
Kế đó, bản báo cáo quay sang luật biển liên
quan như được phản ánh trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Trong hầu hết các trường hợp, các quy định tương đối đơn giản khi một quốc gia
biết thể địa lí mà từ đó họ vạch ra khu vực biển. Quốc gia ven biển được hưởng
một lãnh hải kéo dài 12 hải lí tính từ đường cơ sở ven biển của họ. Họ cũng có
quyền chủ quyền hạn chế hơn cho một vài mục đích trong vùng đặc quyền kinh tế
của họ (EEZ) – mở rộng ra tới 200 hải lí tính từ đường cơ sở ven biển – và trên
thềm lục địa, đó là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mở rộng ra từ bên
ngoài lãnh hải đến rìa ngoài của thềm lục địa hoặc xa tới 200 hải lí.
Nhưng những quy định trở nên phức tạp hơn một
chút đối với các đảo. Nói theo luật, đảo là “một khu vực đất được hình thành
một cách tự nhiên, có nước bao quanh, và nằm trên mặt nước khi triều cao”. Theo
đó, nếu một thể địa lí biển không nằm
trên mặt nước khi triều cao - nói cách khác, nếu đó là một “bãi đá triều thấp”
(low-tide elevation) hoặc thể địa lí ngầm – thì thường không được hưởng bất kì khu vực biển nào. Các thể địa lí này
được coi là phần của đáy biển và lòng đất, vì thế chúng “tuân theo chế độ quy
định của khu vực biển mà chúng nằm trong đó”.
Nhưng nếu thể địa lí biển quả có nhô
đầu lên khỏi mặt nước khi triều cao thì sẽ được tính là một đảo. Phần lớn, các đảo
được hưởng các khu vực biển (lãnh hải, EEZ, thềm lục địa…) tương tự như các
loại lãnh thổ đất liền khác. Tuy nhiên, có một ngoại lệ: nếu một đảo “không thể
duy trì sự sống của con người hay đời sống kinh tế của riêng nó”, thì nó được xếp
vào loại “[đảo] đá”. Đảo đá không sinh ra các quyền đối vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) hay thềm lục địa; nói cách khác, chúng bị giới hạn trong lãnh hải 12 hải
lí.
Một cách vắn tắt, điều tối quan trọng cho việc
định ra các khu vực biển là xem xét thể địa lí biển đó có là một đảo có thể ở
được, một đảo đá, hay một bãi đá triều thấp / bị ngập nước. (Xin mở ngoặc, sự
phân biệt này là trung tâm của việc Philippines đang đưa Trung Quốc ra trọng
tài – Philippines tuyên bố rằng bất kể ai có chủ quyền đối với các thể
địa lí biển, rất nhiều trong các thể địa lí này không phải là các đảo có thể
sinh sống được, và do đó chúng không tạo ra quyền được hưởng đối với nhiều hình
khu vực biển mà Trung Quốc dường như cho rằng họ có.)
Cuối cùng, phần này của báo cáo đề cập đến luật quốc tế liên
quan đến các vịnh và sở hữu [danh nghĩa] “lịch sử” (‘historic’ bays and titles).
Hoa Kì giữ quan điểm rằng để thiết lập sự tồn tại của loại quyền lợi biển này, bên
yêu sách phải chứng minh “(1) có thực thi thẩm quyền công khai, sáng tỏ và hiệu
quả đối với vùng nước liên quan; (2) có thực thi thẩm quyền đó liên tục; và (3)
được sự mặc nhận của các quốc gia khác trong việc thực thi thẩm quyền đó”. Có
lẽ quan trọng nhất, các vịnh và sở hữu lịch sử bị “giới hạn nghiêm ngặt về mặt
địa lí và cốt lõi là” – chúng “chỉ áp dụng đối với các vịnh và các thể dạng địa
lí tương tự gần bờ biển, chứ không phải trong các khu vực EEZ, thềm lục địa, hoặc
vùng biển công [quốc tế] (high seas) ”.
III. Phân tích
Bản báo cáo mở đầu sự phân tích bằng cách
phân biệt các yêu sách của Trung Quốc đối với lãnh thổ ở biển Đông (nói cách
khác, yêu sách chủ quyền đối với các đảo có thể sinh sống và các đảo đá) với
yêu sách của họ đối với vùng biển thuộc biển Đông. Bản báo cáo nêu rõ là không
quan tâm đến việc phân tích về yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc mà thay vào đó
chỉ tập trung vào các yêu sách biển của Trung Quốc.
Tại thời điểm này, chính phủ Mĩ gặp phải trở
ngại. Bắc Kinh chưa bao giờ làm rõ thực chất yêu sách biển của họ bên trong
đường 9 vạch; thực tế, họ đã đưa ra một loạt các thông điệp mâu thuẫn nhau, và
tuyên bố năm 2009 của họ về vấn đề này vô ích một cách đáng bực và dường như
được thiết kế để làm mờ tối hơn là làm rõ. Tuy nhiên, để tránh làn sương mù
pháp lí này, bản báo cáo khéo léo phân tích ba cách diễn giải có thể có về
yêu sách đường 9 vạch của Trung Quốc, và xét xem có cách diễn giải nào phù hợp
với luật biển quốc tế hay không. Chúng tôi sẽ lần lượt đề cập từng cách diễn
giải một.
Thứ nhất, đường 9 vạch có thể đơn giản “chỉ ra
[…] chỉ các đảo mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền”. Nếu vậy thì đường 9 vạch
không nêu lên vấn đề gì đáng chú ý theo luật biển. Thay vì vậy, Trung Quốc coi
như sẽ bị giới hạn trong yêu sách biển đối với bất cứ khu vực nào mà họ được
hưởng theo UNCLOS chứ không phải toàn bộ vùng biển bên trong đường 9
vạch.
Thứ hai, đường 9 vạch có thể được diễn giải theo
cách khác như là để chỉ một “biên giới quốc gia giữa Trung Quốc và các nước
láng giềng”. Nếu vậy thì đường 9 vạch không phù hợp với luật quốc tế. Trung
Quốc không thể đơn phương quyết định biên giới của họ ngừng ở đâu vì các quốc
gia lân cận nhau phải phân định ranh giới “theo thỏa thuận”. Hơn nữa, đường 9
vạch “thiếu những dấu chỉ quan trọng khác của một đường biên giới biển, chẳng
hạn như một danh sách công bố các tọa độ địa lí và một đường kẻ liên tục, không
gián đoạn ngăn cách khoảng biển giữa hai nước”. Và ngay cả khi đường 9 vạch
được vẽ theo quan điểm đơn phương về biên
giới phải là gì, Bắc Kinh đã không
giải thích lí do tại sao biên giới này phải được vẽ tới rất gần bờ biển của các
nước khác và cách quá xa ngay cả với các đảo ở biển Đông do Trung Quốc đòi hỏi chủ
quyền. Thêm vào đó, Bắc Kinh đã không giải thích “các câu hỏi liên quan về các
loại quyền hoặc quyền tài phán nào màTrung Quốc đang tự khẳng định cho chính
mình bên trong đường 9 vạch”, là điều sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng bởi
vì trong nhiều trường hợp, đường 9 vạch nằm xa hơn ngay cả giới hạn 200 hải lí
của EEZ từ các thể đĩa lí do Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Thứ ba và cuối cùng, đường 9 vạch có thể được
hiểu như để đánh dấu giới hạn của yêu sách “lịch sử”. Như bản báo cáo lưu ý,
“yêu sách lịch sử có thể là một dạng chủ quyền đối với vùng biển (‘vùng nước
lịch sử’ hay ‘sở hữu lịch sử’) hoặc cách khác, một số các quyền kém quan trọng
hơn (‘quyền lịch sử’) đối với vùng biển đó”.
Bản báo cáo lập luận rằng như một điều kiện
tối thiểu, Trung Quốc thậm chí chưa từng đưa ra “một tuyên bố có thể nhận ra
được về cả ‘vùng biển lịch sử’ lẫn ‘quyền lịch sử’ đối với các vùng nước ở biển
Đông bên trong đường 9 vạch”. Luật quốc tế đòi hỏi phải có “sự thừa nhận quốc
tế” (international notoriety) trong việc khẳng định một tuyên bố lịch sử để
cảnh báo cho các nước khác biết về sự tồn tại có thể có của một tuyên bố như
vậy. Vấn đề cho Bắc Kinh, “có vẻ không có điều luật, tuyên ngôn, tuyên cáo,
hoặc tuyên bố chính thức nào khác của Trung Quốc mô tả và cảnh báo cho cộng
đồng quốc tế về yêu sách lịch sử đối với vùng biển bên trong đường đứt đoạn”.
Tệ hơn nữa, yêu sách của Trung Quốc “thiếu tính chính xác, rõ ràng và nhất quán
để có thể chuyển tải bản chất và tầm mức của một yêu sách biển.” Quả vậy, Bắc
Kinh chưa bao giờ đưa ra tọa độ địa lí của bất cứ vạch nào trong 9 vạch, còn vị
trí (và kích cỡ) của các vạch dường như thay đổi từ bản đồ này sang bản đồ
khác. Những điều thiếu nhất quán này có thể rất đáng kể: ví dụ, một vạch trên
bản đồ năm 2009 có vẻ gần bờ biển Việt Nam hơn so với bản đồ năm 1947 tới 45 hải
lí.
Vị trí, độ dài, số lượng các vạch trên bản đồ 2009 (đỏ) và 1947 (trắng) không khớp nhau, thậm chí 2 vạch tương ứng gần bờ biển VN cách nhau hơn 45 hải lí (bản đồ này do ND tạo ra bằng cách chồng bản đồ 1947 và 2009 của TQ lên GE)
Nhưng ngay cả khi Bắc Kinh đưa ra một yêu sách
có thể nhận ra được thì yêu sách đó cũng sẽ vi phạm luật pháp quốc tế. Trong
trường hợp đầu tiên, “Công ước LOS hạn chế tính thích đáng của các yêu sách
lịch sử vào các vịnh và việc phân giới lãnh hải”. Trái lại, đường 9 vạch lại
bao trùm vùng biển mở cách xa bất kì đảo nào gần đó. Yêu sách đó cũng không thoả
từng yếu tố của phép thử pháp lí ba phần về vùng biển lịch sử được mô tả bên
trên: yêu sách đã không được công bố công khai hoặc rõ ràng (thật ra, tới nay nó
vẫn còn chưa rõ ràng!); Trung Quốc
chưa từng thực thi chủ quyền liên tục và hiệu quả trong các vùng biển này (ví
dụ, các quốc gia khác đã từng sử dụng các vùng biển của biển Đông); và chưa
từng có quốc gia nào thừa nhận hoặc mặc nhận đối với bất kì việc thực thi thẩm
quyền nào củaTrung Quốc tại những vùng biển này (và “bất cứ điều được cho là đồng
ý ngầm nào của các nước cũng có thể bị bác bỏ do thiếu sự công nhận có ý nghĩa
của bất kì yêu sách lịch sử của Trung Quốc”).
Tóm lại, bản báo cáo kết luận rằng “đường đứt đoạn của Trung Quốc lả không phù hợp với luật biển quốc tế trừ phi Trung Quốc làm rõ ra rằng yêu sách đường đứt đoạn chỉ phản ánh yêu sách đối với các đảo nằm trong đường đứt đoạn đó và đối với bất kì khu vực biển nào được tạo ra từ những thể đất đai đó theo đúng quy định của luật biển quốc tế, như được phản ánh trong Công ước LOS.”
---------------------------------Tóm lại, bản báo cáo kết luận rằng “đường đứt đoạn của Trung Quốc lả không phù hợp với luật biển quốc tế trừ phi Trung Quốc làm rõ ra rằng yêu sách đường đứt đoạn chỉ phản ánh yêu sách đối với các đảo nằm trong đường đứt đoạn đó và đối với bất kì khu vực biển nào được tạo ra từ những thể đất đai đó theo đúng quy định của luật biển quốc tế, như được phản ánh trong Công ước LOS.”
Bài liên quan:
1 comment:
Trung Quốc thiệt là thâm độc
p/s: Thông tin khuyen mai Viettel luôn được cập nhật,
Viettel khuyen mai thang 9 siêu khủng.
Post a Comment