Tuesday, July 30, 2013

Trung Quốc: Không đánh mà thắng

Trung Quốc: Không đánh mà thắng

Phương pháp tiếp cận láng giềng tốt bắt đầu thay đồi từ thập kỷ trước vì lãnh đạo Trung Quốc tin rằng cuối cùng thời cơ của Trung Quốc đã đến.
Theo cách Trung Quốc cướp lấy đất đai xuyên qua dãy Himalaya trong thập niên 1950 bằng việc phát động các cuộc xâm chiếm ngấm ngầm và bây giờ họ tiến hành những cuộc chiến lén lút không bắn một phát súng nào nhằm thay đổi hiện trạng trên Biển Hoa Đông và Biển Hoa Nam (Biển Đông Việt Nam), trên biên giới với Ấn Độ và trên các dòng sông quốc tế.
Mặc dù Trung Quốc từ một quốc gia nghèo trỗi dậy trở thành cường quốc kinh tế thế giới nhưng các yếu tố chính trong lãnh đạo quốc gia và học thuyết chiến lược vẫn không hề thay đổi.
Từ thời Mao Trạch Động Trung Quốc đã từng bám sát lời khuyên trong Binh pháp Tôn Tử “Không đánh mà thắng mới là cách tốt nhất.”
Trung Quốc, Philippine, biển Đông
Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản đã dùng vòi rồng để tấn công thuyền của Đài Loan khi con thuyền này đi vào vùng biển thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Phép dùng binh này liên quan đến việc đánh thắng kẻ địch bằng sự bất ngờ qua việc khai thác điểm yếu của kẻ thù và chớp lấy thời cơ cũng như qua việc ngụy trang công bằng thủ. Tôn Tử đã nói “Tất cả các cuộc chiến đều dựa trên sự lừa bịp”. Chỉ khi cuộc chiến lén lút không thể đạt được mục tiêu đề ra thì mới phát động cuộc chiến công khai.
Trung Quốc đã dàn dựng các cuộc chiến tranh quân sự công khai ngay cả khi đất nước họ còn nghèo và nội bộ còn bất ổn. Một báo cáo của Lầu Năm Góc đã nêu việc TQ tấn công phủ đầu vào các năm 1950, 1962, 1969 và 1979 như là những ví dụ về tấn công được ngụy trang bằng phòng thủ [bảo vệ]. Và cũng có thể kể thêm vào đó cuộc tấn công bằng vũ lực của Trung Quốc chiếm Quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Đá Gạc Ma (Johnson Reef) vào năm 1988, Đá Vành Khăn (Mischief Reef) vào năm 1995 và Bãi cạn Scarbourough vào năm ngoái (2012, ND).
Tuy nhiên, một  thế hệ sau khi Đặng Tiểu Bình củng cố xong quyền lực, Trung Quốc chủ động đề cao mối quan hệ láng giềng tốt với các nước Châu Á nhằm tập trung phát triển kinh tế nhanh chóng. Chiến lược này cho phép Bắc Kinh tích lũy sức bật kinh tế và chiến lược trong khi cho phép các nước láng giềng thúc đẩy kinh tế mình lên bằng cách bám theo sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc.
Phương pháp tiếp cận láng giềng tốt bắt đầu thay đồi từ thập kỷ trước vì lãnh đạo Trung Quốc tin rằng cuối cùng thời cơ của Trung Quốc đã đến.
Một trong những tín hiệu đầu tiên là sự phục hồi yêu sách âm ỉ lâu dài đòi chủ quyền bang Arunachal Pradesh vùng Đông Bắc Ấn Độ hồi năm 2006. Bằng chứng tiếp theo là việc chuyển qua cách tiếp cận “phô trương cơ bắp”, với việc TQ sẵn sàng tấn công giành lãnh thổ với nhiều nước láng giềng và mở rộng “lợi ích cốt lõi”. Và năm ngoái (2012, ND), Trung Quốc chính thức đưa yêu sách đường lưỡi bò theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển đòi chủ quyền hơn 80% Biển Đông.
Từ việc sử dụng sức mạnh thương mại để gây tổn thương đối phương tới khai thác tính độc quyền toàn cầu về sản xuất các nguồn tài nguyên sống còn như các khoáng sản dạng đất hiếm. Trung Quốc đã đóng vai trò mạnh mẽ hơn, làm tăng mối quan ngại ở Châu Á và ở phạm vi rộng lớn hơn. Thực tế, Trung Quốc càng mở cửa làm ăn kinh tế theo phương Tây thì tư tưởng chính trị càng Tầu hơn. Tầng lớp có quyền lực của Trung Quốc, bằng cách quay lưng lại với học thuyết Marxist được nhập khẩu từ Phương Tây, đang đưa chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc vào trung tâm của tính chính đáng chính trị. Kết quả là sự quyết đoán mới của Trung Quốc trở nên ngày càng gắn bó với sự đổi mới quốc gia.
Trên bối cảnh này, việc Trung Quốc gia tăng sử dụng cuộc chiến lén lút nhằm đạt được các mục tiêu chính trị và quân sự đang trở thành một nguồn bất ổn chiến lược chính ở Châu Á. Các công cụ được tận dụng rất đa dạng từ việc tiến hành các cuộc chiến tranh kinh tế tới việc tạo ra tầng lớp chiến binh lén lút mới dưới vỏ bọc là các cơ quan bán quân sự như Cục An toàn Hàng hải (the Maritime Safety Administration), Cơ quan Kiểm ngư (the Fisheries Law Enforcement Command) và Cục Hải dương Quốc gia (the State Oceanic Administration).
Các cơ quan này với sự hỗ trợ của Hải quân Trung Quốc đang trong đội quân làm thay đổi hiện trạng theo hướng có lợi cho Trung Quốc ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) và Biển Hoa Đông. Trung quốc đã đạt được một số thành công rồi và các thành công đó khuyến khích họ theo đuổi sự quyết đoán đa phương chống lại nhiều nước láng giềng cùng một lúc.
Ví dụ sau cuộc dằng co nhiều tháng với Philippines, Trung Quốc đã kiểm soát thực tế Bãi Scarborough từ năm ngoái (2012, ND) bằng cách dàn đội tầu xung quanh bãi đó và từ chối không cho đối phương tiếp cận. Ngư dân Philippines không còn có thể vào khu vực đánh bắt cá truyền thống của mình được nữa.
Với các tàu Trung Quốc nằm bao vây, Philippines đã bị đối mặt chỉ với một lựa chọn chiến lược: hoặc chấp nhận thực tế do Trung Quốc áp đặt hoặc chấp nhận nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Thậm chí khi Trung Quốc đã làm thay đổi hiện trạng trên thực tế trên hiện trường, Mỹ hầu như đã không trợ giúp gì cho đồng minh của mình là Philippines. Mỹ cứ giục hai bên kềm chế và cẩn trọng sau khi một tàu chiến của Philippines chuẩn bị tấn công vào các tàu của Trung Quốc gần bãi ngầm một năm trước, sự việc này thúc đẩy Trung Quốc tấn công Philippines trên lĩnh vực kinh tế.
Bắc Kinh đã tìm cách làm phá sản nhiều chủ vườn trồng chuối ở Philippines và tấn công vào ngành công nghiệp du lịch ở Philippines bằng cách hạn chế nhập khẩu chuối và ra khuyến cáo hạn chế du lịch tới Philippines. Bãi cạn này nằm cách xa lục địa Trung Quốc trên 800 km nhưng nằm gọn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Công ước luật biển.
Trong cuộc chiến lén lút của Trung Quốc nhằm tranh giành quyền quản lý mấy thập kỷ của Nhật Bản đối với Quần đảo Senkaku, Bắc Kinh đã giành được thành công trong bước đầu, làm cho cộng đồng quốc tế nhận biết về sự tồn tại của tranh chấp [ở đây]. Theo nghĩa đó, cuộc chiến tranh xói mòn mà Trung Quốc tiến hành chống Nhật Bản trên quần đảo Senkaku đã khuấy động lên hiện trạng tranh chấp.
Bằng cách điều các tầu tuần tiễu thường xuyên đến quấy nhiễu vùng nước xung quanh quần đảo vào mùa thu năm ngoái (2012), và bằng cách cố tinh vi phạm vùng không phận của quần đảo, Bắc Kinh đã phớt lờ nguy cơ một cuộc cuộc xô xát có thể diễn biến ngoài tầm kiểm soát kéo theo hậu quả thảm khốc. Quả thực Trung Quốc đã thực hiện hành động khiêu khích liều lĩnh vào đầu năm nay (2013) khi tầu Trung Quốc chĩa ra đa định vị mục tiêu tấn công vào một tầu Nhật Bản, một hành động tương tự với việc người bắn tỉa chỉnh chấm đỏ trong máy ngắm laser ngay vào trán của một mục tiệu chọn trước!
Cuộc chiến lén lút chống lại Nhật Bản cũng xuất hiện dưới dạng chiến tranh kinh tế, với việc Trung Quốc tẩy chay không chính thức hàng hóa của Nhật Bản dẫn đến sự giảm sút xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản tới Trung Quốc và sự suy giảm việc bán sản phẩm của Nhật sản xuất ở Trung Quốc.
Mỹ đã phản ứng gì đối với tất cả những điều này? Mỹ đã thúc giục cả đồng minh Nhật lẫn đối tác kinh tế Trung Quốc hãy làm dịu cuộc khủng hoảng chính trị đối với quần đảo không người ở này. Bộ trưởng quốc phòng Leon E. Panetta nói với các nhà báo trong chuyến viếng thăm Nhật Bản hồi tháng 9 năm 2012 rằng “Tôi quan ngại khi hai nước này dính vào các khiêu khích theo bất kỳ cách nàođối với quần đảo này và điều đó có thể làm tăng khả năng bên này hay bên kia suy xét nhầm lẫn có thể dẫn đến bạo lực và có thể tạo ra một cuộc xung đột vũ trang.”
Trung Quốc, ngoài việc muốn nắm quyền  bá chủ đối với Biển Hoa Nam và đối với phần lớn Biển Hoa Đông, còn từng bước gia tăng áp lực chiến lược lên Ấn Độ theo nhiều phương diện, bao gồm cả việc gây ra tranh chấp lãnh thổ. Không giống như Nhật Bản, Philippines và một số nước Châu Á khác ngăn cách với Trung Quốc bởi đại dương, Ấn Độ có đường biên giới trên bộ còn tranh chấp với Trung Quốc  dài nhất trên thế giới. Ví thế Ấn dễ bị sức ép quân sự trực tiếp của Trung Quốc hơn.
Bất động sản lớn nhất mà Trung Quốc đang tìm kiếm không phải ở Biển Hoa Nam hay Biển Hoa Đông mà thậm chí không phải là Đài Loan, mà là Ấn Độ, bang Arunachal Pradesh, lớn gấp ba Đài Loan và gấp đôi Thụy Sỹ. Sự căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ gia tăng với cùng lý do giống như trường hợp ở Biển Hoa Nam và Biển Hoa Đông – thực hiện các động thái phá vỡ hiện trạng.
Mặc dù Chính phủ Ấn Độ chọn cách làm nhẹ bớt hành động của Trung Quốc để không khơi dậy sự gây hấn lớn hơn, những con số theo quan sát từ 2007 cho thấy rằng số các vụ tấn công lén lút của Trung Quốc vào lãnh thổ của Ấn Độ lại gia tăng vào năm ngoái. Với vùng biên cương Himalaya rộng lớn không cư trú được và do vậy khó tuần tra đầy đủ có hiệu quả, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần lẻn qua để châm chọc Ấn Độ đồng thời có thể để dịch chuyển đường biên giới về phía nam.
Trong trường hợp mới đây nhất, một trung đội lính Trung Quốc đã lẻn qua khỏi đường biên giới 10 km xâm nhập vào trong vùng đất tranh chấp ở khu vực Ladakh thuộc bang Kashmir vào một đêm tháng tư, và lập trại ở đó. Sự xâm nhập này đã châm ngòi một cuộc đối đầu quân sự nguy hiểm làm cho Ấn Độ phải gửi gấp quân đội tới khu vực đó.
Như trong trường hợp tranh chấp lãnh thổ trên bộ và trên biển, Trung Quốc tìm cách phá vỡ hiện trạng đối với các dòng sông quốc tế chảy tới các nước láng giềng. Cũng giống như Trung Quốc đã ngấm ngầm xâm nhập vào vùng đất tranh chấp trong quá khứ để thể hiện “việc đã rồi” (fait accompli), Trung Quốc đang tìm cách thay đổi dòng chảy các con sông chảy qua biên giới các nước bằng cách tiến hành các dự án xây dựng đập một cách lén lút.
Trung Quốc đánh giá cao việc khống chế dòng chảy các con sông xuyên qua biên giới các nước trong việc thu đạt đòn bẩy kinh tế chính trị lớn hơn đối với các nước láng giềng. Sức mạnh, quyền khống chế và đòn bẩy là các yếu tố trọng tâm trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Một khi các đập ngăn nước theo kế hoạch trên các con sông liên quốc gia mà hoàn thành thì Trung Quốc sẽ giành được đòn bẩy ngấm ngầm chống lại động thái của các nước láng giềng.
Theo ánh sáng này các mối quan hệ ngày càng ngang ngạnh của Trung Quốc với các nước láng giềng và Mỹ đặc trưng bởi sự giảm sút an ninh và sa sút chuẩn mực được tạo ra để đối mặt với những thách thức mới. Thuyết phục Trung Quốc chấp nhận hiện trạng [đúng với sự thực] trở thành điều mấu chốt cho hòa bình và ổn định ở Châu Á.
Tác giả: Brahma Chellaney. Người dịch: Nguyễn Đức Hùng. Hiệu đính:Phan Song
Brahma Chellaney nhà địa chiến lược, tác giả của “Asian Juggernaut” (Tên cuồng Châu Á) (HarperCollins) và “Biển, Hòa Bình và Chiến Tranh” (Rowman & Littlefield)

Wednesday, July 24, 2013

Tại sao Trung Quốc sẽ không đưa vấn đề quần đảo Trường Sa ra Liên Hiệp Quốc

Nhân dịp các thẩm phán vụ Philippines kiện Trung Quốc vừa họp chuẩn bị  cho vụ án, xin giới thiệu bài viết của luật sư Ted Lagjuatan về phiên toà giả định tương tự như thế cách đây 2 năm (lúc Philippines chưa nộp hồ sơ kiện TQ):

Ted Laguatan (INQUIRER.net – 27/7/2011)

Dựa trên luật biển quốc tế cũng như các luật lệ có liên quan khác, Trung Quốc biết rằng nếu họ kiến nghị Tòa án Quốc tế của Liên Hiệp Quốc hay Tòa Quốc tế về Luật biển để khẳng định yêu sách mù mờ của họ đòi sở hữu tất cả mọi thứ trong biển Đông (còn gọi là biển Tây Philippines) thì cơ hội họ thắng kiện gần giống như là có tuyết rơi ở sa mạc Sahara.

Cả hai Tòa án này đều có thẩm quyền phù hợp trong giải quyết các vấn đề về chủ quyền liên quan đến lãnh thổ biển giữa các nước  - chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.

Hãy tưởng tượng điều gì có nhiều khả năng xảy ra nhất nếu quả Trung Quốc đưa vụ việc của họ ra Tòa án quốc tế và đại diện của Trung Quốc - tạm gọi ông ta là ông Lí – đang đứng trước Chánh án Chủ toạ phiên Toà. Hãy xét kịch bản sau:

Chánh án: "Ông hãy vui lòng cho Tòa biết dựa trên cơ sở nào ông đưa ra yêu sách đòi gần như toàn bộ biển Đông (còn gọi là biển Tây Philippines) hoàn toàn thuộc về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa?"

Ông Lí: "Cảm ơn Ngài. Yêu sách của chúng tôi dựa trên các sự kiện lịch sử là toàn bộ khu vực này đã thuộc về chúng tôi từ thời nhà Hán."

Chánh án: "Ông định chứng minh điều này bằng cách nào?"

Ông Lí: ". Tôi sẽ trình Tòa một bản đồ cổ gần 2000 năm của triều nhà Hán cho thấy các ranh giới của vương quốc Hán"

Chánh án: "Nhằm mục đích bàn luận hãy cùng giả sử là Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và các nước xung quanh khác là các tỉnh hoặc một phần của nhà Hán vào thời đó, thậm chí ngay cả khi bản đồ ông đang nắm thật ra có thể chỉ là một bản đồ hàng hải, không thực sự xác định các ranh giới của nhà Hán. Theo hiểu biết của tôi về lịch sử của Trung Quốc thì nhà Hán kéo dài từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220 sau Công Nguyên. Đúng thế không?"

Ông Lí: "Thưa ngài, đúng thế."

Chánh án: "Ông Lí, tôi giả định rằng ông cũng biết tới Đại đế Alexander, ông vua trẻ của Macedonia, người từng chinh phục phần lớn thế giới khi xưa."

Ông Lí: "Thưa Ngài, tôi có biết."

Chánh án: "Vào lúc ông ta mất hồi năm 323 trước Công nguyên, vương quốc của Alexander bao gồm Hy Lạp, Syria, Ba Tư nay là Iran, Ai Cập và một phần của Ấn Độ. Ông Lí, ông có biết rằng Macedonia, đất nước của Alexander - bây giờ có tên là Cộng hòa Macedonia không?"

Ông Lí: "Nếu Ngài cho biết như vậy, thưa Ngài."

Chánh án: "Được! Ông có vẻ hiểu biết lịch sử. Tôi giả định rằng ông cũng biết qua về với đế chế La Mã từng tồn tại trong hơn một ngàn năm."

Ông Lí: "Cảm ơn Ngài, tôi có đọc lịch sử."

Chánh án: "Ông Lí, thế thì chắc ông biết rằng vào lúc thịnh nhất của mình Đế chế La Mã bao gồm hầu hết châu Âu và nhiều vùng của châu Phi và châu Á."

Ông Lí: "Thưa Ngài, tôi biết."

Chánh án: "Kể từ thời Alexander, đế chế La Mã và nhà Hán đến nay– theo dòng thời gian và các sự kiện lịch sử, các nước độc lập khác nhau đã xuất hiện ở châu Âu, châu Phi và châu Á - mà bây giờ các nước đó đều có lãnh thổ riêng của chính mình . Đây là một thực tế mà tất cả chúng ta đềuphải chấp nhận, phải vậy không ông Lí?"

Ông Lí: "Chúng ta không thể phủ nhận thực tế, thưa Ngài."

Chánh án: "Này ông Lí, một thực tế không thể phủ nhận khác là đế chế của Alexander, đế chế La Mã và vương quốc Hán không còn tồn tại nữa – nhận xét đó của tôi có đúng không?

Ông Lí: " Thưa Ngài, đúng ạ."

Chánh án: "Ông Lí, bây giờ với tất cả sự trung thực, ông có nghiêm túc tin rằng nếu Cộng hòa Macedonia và chính phủ Ý đến trước Tòa này và kiến nghị chúng tôi phải khẳng định rằng họ sở hữu các vùng lãnh thổ của các quốc gia độc lập kia vì các quốc gia đó từng là một phần của đế chế của Alexander hay đế chế La Mã - rằng chúng tôi nên được thuyết phục để chấp nhận các kiến nghị đó hay không"?

Ông Lí: "Tôi hiểu những gì Ngài đang đạt tới, thưa Ngài Chánh án - nhưng hầu hết những gì chúng tôi yêu sách như là của chúng tôi đều là khu vực biển chứ không phải đất."

Chánh án: "Quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa không phải là đất sao? Dù sao, chẳng phải thực tế là Trung Quốc là một nước tham gia kí kết Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và phê duyệt Công ước này ngày 06 tháng 7 năm 1996, do đó đồng ý bị ràng buộc bởi các điều khoản của nó - và có phần trong đó quy định rằng bất cứ thứ gì trong phạm vi 200 hải lí tính từ đường cơ sở của một nước thì thuộc về nước đó sao?

Ông Lí: "Trung Quốc quả đồng ý với những quy định đó vào thời điểm mà Trung Quốc chưa nhận thức hết những hậu quả của UNCLOS đụng chạm sâu xa tới lợi ích quốc gia của mình."

Chánh án: "Tôi sẽ nói không giữ kẽ ông Lí nhé. Điều ông muốn nói là vào thời điểm đó, thế giới, trong đó có Trung Quốc, vẫn chưa biết rằng có những mỏ dầu và khí tự nhiên sẽ được tìm thấy trong phạm vi lãnh thổ của các nước láng giềng. Bây giờ, vì biết rõ điều này nên ngay cả khi Trung Quốc biết là mình xâm phạm và làm trái luật pháp quốc tế thì Trung Quốc vẫn sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nước lớn, quân sự hay những thứ khác của mình - để giật lấy những trữ lượng khổng lồ tài nguyên dầu khí từ lãnh thổ của các nước láng giềng nhỏ hơn, yếu hơn, nghèo hơn – những nước rất cần các tài sản này để cải thiện hoàn cảnh của người dân của họ.

Viết thêm: Xem xét tất cả các sự kiện và luật pháp áp dụng được hiện có, khả năng là tòa án của Liên hợp quốc sẽ tuyên bố rằng kiến nghị của Trung Quốc là không có giá trị.

Mặc dù có các yêu cầu của Philippines, các nước láng giềng và Hoa Kì đưa vấn đề chủ quyền biển Tây Philippine ra Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc đã kiên quyết từ chối làm như vậy. Thay vào đó, họ liên tục tham gia vào trò chơi cân não, sử dụng chiến thuật đe dọa, khăng khăng cho rằng tất cả mọi thứ trong toàn bộ biển Tây Philippines đều của họ và cũng cho rằng vấn đề này là không thể thương lượng.

Bằng cách đó, con rồng đói dầu khổng lồ tìm cách đánh đòn cân não các quốc gia láng giềng để buộc họ phải chấp nhận các thỏa thuận dàn xếp song phương không công bằng - không có sự tham gia Liên hợp quốc hay Hoa Kì. Philippines, Việt Nam và các nước láng giềng khác đừng để phải rơi vào cái bẫy này. Các nước này nên đoàn kết và tạo ra một liên minh và kiên quyết đòi hỏi - với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, với các biện pháp quân sự nếu cần- rằng Trung Quốc phải tôn trọng các quyền và không được đụng tới di sản quốc gia của mình.

Phần được hoan nghênh náo nhiệt nhất trong bài phát biểu về Tình hình quốc gia của Tổng thống Benigno Simeon Aquino là sự khẳng định mạnh mẽ của ông rằng những gì thuộc về Philippines vẫn là của Philippines. Tất cả mọi người đều hiểu điều ông muốn nói: Philippines sẽ kiên định chống lại chiến thuật bắt nạt của Trung Quốc và các trò chơi cân não cố để giật lấy nguồn tài nguyên  năng lượng và biển của chúng ta.

Sự khác biệt lớn làm sao khi có một vị tổng thống đáng tin cậy cung cấp sự lãnh đạo tinh thần và chăm lo lợi ích của quốc gia thay vì một người sẵn sàng bán sạch di sản của đất nước cho mục đích cá nhân.


Ghi chú: Luật sư danh dự bang California (California State Bar) Ted Laguatan là một trong những luật sư tốt nhất trong cả nước. Ông là một trong 29 luật sư Hoa Kỳ đượcchính thức công nhận liên tục trong hơn 20 năm như một chuyên gia chuyên gia về Luật Di Trú.

Monday, July 22, 2013

Chạm vào Vạn Lí Trường Thành

Chạm vào Vạn Lí Trường Thành

Posted by adminbasam on July 22nd, 2013
Hitting China's Wall (New York Times - 18/7/2013)
Tác giả: Paul Krugman
Người dịch: Huỳnh Phan
18-7-13
Tất cả các dữ liệu kinh tế quá lắm được xem như là một loại chuyện hư cấu nhàm chán khác thường, nhưng dữ liệu của Trung Quốc thậm chí còn hư cấu nhiều hơn hầu hết dữ liệu nơi khác. Lại có thêm một chính phủ bí mật, một nền báo chí kiểm soát, cùng với kích thước to lớn của đất nước này, nên sẽ khó hình dung ra cái gì đang thực sự xảy ra ở Trung Quốc so với ở bất kỳ nền kinh tế lớn nào khác.
Tuy nhiên, hiện nay có những dấu hiệu không nhầm lẫn vào đâu được: Trung Quốc đang gặp rắc rối to. Chúng tôi sẽ không nói về một số trở ngại nhỏ trên đường đi, mà về một cái gì đó cơ bản hơn. Cách làm ăn kinh tế của cả đất nước này, hệ thống kinh tế vốn thúc đẩy ba thập kỷ tăng trưởng đáng kinh ngạc, đã đạt đến giới hạn của nó. Bạn có thể nói rằng mô hình Trung Quốc sắp chạm vào Vạn Lí Trường Thành, và câu hỏi duy nhất bây giờ chỉ là sự suy sụp sẽ tệ hại đến mức nào.
Bắt đầu với các dữ liệu, không đáng tin cậy như chúng có thể là như vậy. Cái lập tức nhảy bổ vào bạn khi bạn so sánh Trung Quốc với hầu hết các nền kinh tế khác, ngoài sự phát triển nhanh chóng của nó, là sự mất cân bằng giữa tiêu dùng và đầu tư. Tất cả các nền kinh tế thành công đều dành một phần thu nhập hiện tại cho đầu tư hơn là cho tiêu thụ, để làm cho khả năng tiêu thụ trong tương lai được nhiều hơn. Tuy nhiên Trung Quốc dường như chỉ đầu tư để mở rộng khả năng đầu tư trong tương lai thậm chí nhiều hơn. Phải thừa nhận rằng Mỹ đang ở phía trên cao, dành 70 phần trăm tổng sản phẩm nội địa (GDP) cho tiêu thụ, còn Trung Quốc dù với gần một nửa GDP được đầu tư, con số chỉ bằng một nửa của Mỹ.
Làm sao mà điều đó lại có thể xảy ra chứ? Cái gì giữ cho mức tiêu thụ thấp như thế, và làm thế nào người Trung Quốc lại có thể đầu tư quá nhiều mà (cho đến nay) không đi tới việc giảm đi mạnh bạo lơi nhuận. Câu trả lời là đề tài tranh cãi dữ dội. Tuy nhiên, câu chuyện mà theo tôi có lý nhất, dựa trên cách nhìn nhận cũ của nhà kinh tế học W. Arthur Lewis, ông lập luận rằng các nước trong các giai đoạn đầu của phát triển kinh tế thường có một khu vực hiện đại nhỏ đi cạnh với một khu vực truyền thống lớn có chứa đựng một lượng “lao động dư thừa” khổng lồ- các nông dân thiếu việc làm tạo ra đóng góp biên cho sản lượng kinh tế tổng thể ở mức tốt nhât.
Đổi lại, sự tồn tại của lao động dư thừa này có hai tác dụng. Thứ nhất, trong một khoảng thời gian nhất định các nước như vậy có thể đầu tư mạnh vào các nhà máy mới, xây dựng, v.v… mà không bị đi vào việc giảm dần lợi nhuận, bởi vì họ có thể tiếp tục thu hút được lao động mới từ nông thôn. Thứ hai, sự cạnh tranh từ đội quân dự trữ lao động dư thừa này sẽ giữ mức tiền lương thấp kéo dài ngay cả khi nền kinh tế phát triển giàu có hơn lên. Thật ra, điều chính yếu làm mức tiêu thụ của Trung Quốc tiếp tục thấp dường như là việc các gia đình Trung Quốc không bao giờ nhìn thấy phần của mình trong thu nhập tạo ra bởi tăng trưởng kinh tế của đất nước. Một phần thu nhập đó chảy vào tầng lớp chủ chốt dính dáng đến chính trị, nhưng phần lớn của nó chỉ đơn giản là nằm phục trong các doanh nghiệp, mà phần lớn là doanh nghiệp nhà nước.
Điều đó quả là rất khác thường theo tiêu chuẩn của chúng ta, nhưng nó lại hoạt động được trong nhiều thập kỉ. Tuy nhiên giờ đây Trung Quốc đã chạm “điểm Lewis” – hay nói một cách nôm na, Trung Quốc không còn nông dân dư thừa.
Đó sẽ là một điều tốt. Cuối cùng, tiền lương đã tăng lên, người dânTrung Quốc bình thường đang bắt đầu chia sẻ những thành quả của tăng trưởng. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế Trung Quốc đột nhiên phải đối mặt với nhu cầu phải mạnh mẽ “tái cân bằng” – thuật ngữ ưa dùng hiện nay. Đầu tư bây giờ đi vào giảm nhanh lợi nhuận và sẽ giảm mạnh dù chính phủ có làm bất cứ điều gì, việc chi tiêu cho tiêu dùng phải tăng lên đáng kể chiếm đúng vị trí của nó. Câu hỏi đặt ra là liệu điều này có thể xảy ra đủ nhanh để tránh một cuộc suy thoái gay gắt hay không.
Và câu trả lời mỗi ngày một tăng thêm dường như là không có. Nhu cầu phải tái cân bằng là hiển nhiên trong nhiều năm qua, nhưng Trung Quốc cứ tiếp tục đưa ra những thay đổi cần thiết, thay vì thúc đẩy nền kinh tế bằng cách giữ đồng tiền dưới giá và đổ mạnh tín dụng giá rẻ vào nó. (Một người nào đó sẽ nêu lên vấn đề này: không, điều này có rất ít điểm tương đồng với chính sách của Fed – Cục Dự trữ Liên bang  Mỹ – ở đây). Các biện pháp này trì hoãn ngày phán xét, nhưng cũng đảm bảo rằng ngày này, rốt cuộc khi nó đến, sẽ càng gai góc hơn . Và bây giờ nó đã đến.
Chuyên sẽ vở lỡ to tới mức nào đối với phần thế giới của chúng ta? Theo giá thị trường – đó là những gì quan trọng đối với triển vọng toàn cầu – nền kinh tế của Trung Quốc chỉ hơi lớn hơn Nhật Bản, nó vào khoảng một nửa kích cỡ của Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Do đó, nó lớn nhưng không phải khổng lồ, và, vào những lúc bình thường, thế giới có lẽ có thể kham nổi những rắc rối của Trung Quốc lúc bị sải chân.
Thật không may, đây không phải là lúc bình thường: Trung Quốc đang chạm điểm Lewis đúng lúc các nền kinh tế phương Tây đang trải qua “thời điểm Minsky” của mình, thời điểm mà tất cả các người vay nợ quá mức đều cố co lại cùng một lúc, và khi làm như vậy sẽ kích động một tổng suy thoái. Tai ương mới của Trung Quốc là điều cuối cùng mà phần thế giới của chúng ta cần.
Rõ ràng là nhiều bạn đọc cảm nhận bị một cú đánh đòn trí tuệ nào đó. Chỉ một ngày trước, chúng ta sợ Trung Quốc. Bây giờ chúng ta lại sợ dùm họ. Nhưng tình cảnh của chúng ta cũng chẳng tốt lên hơn.
Nguồn: New York Times

Saturday, July 20, 2013

Việt Nam trên đe dưới búa

 Việt Nam trên đe dưới búa

Posted by adminbasam on July 21st, 2013
Có phải vì thất vọng với Trung Quốc mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vội vã sang Washington?
Tác giả/ hiệu đính: David Brown
Người dịch: Huỳnh Phan
18-07-2013
H1Thường phải mất nhiều tháng để tổ chức các chuyến viếng thăm cho lãnh đạo quốc gia, nhưng chuyến đi Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sắp tới chỉ được thông báo trước một thời gian rất ngắn và ngay sau cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, rõ ràng là gây sốc.  Có thể là các lãnh đạo Việt Nam đã quyết định chấp nhận cái giá mà Mỹ đòi hỏi phải trả cho quan hệ “đối tác chiến lược” chăng?
Đầu tháng 6, hai quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói với một tiểu ban Quốc hội rằng các quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam, đặc biệt là việc mua bán vũ khí, sẽ bị đình lại cho đến khi có “sự cải thiện tiếp tục, thấy được rõ ràng và vững chắc về tình trạng quyền con người”. Họ đã công khai ghi lại những điều mà các nhà ngoại giao Mỹ đã đặt ra trong các cuộc tiếp xúc riêng trong vài năm qua. Lời xác nhận của họ trước tiểu ban Quốc Hội, ngoại trừ một số bài đăng lên BBC, RFA v.v… hầu như không được các báo chú ý. 
Điều trùng hợp là công an Việt Nam bắt giữ thêm một blogger nữa là ông Phạm Viết Đào, vào ngày 13 tháng 6, truy tố ông “lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước”. Theo hãng tin AP, 43 nhà bất đồng chính kiến đã bị bắt giam trong năm nay, gấp đôi số lượng năm 2012. Hơn nữa, có bằng chứng cho thấy cục công an mạng Việt Nam (C15) đã triển khai công nghệ giám sát FinFisher – sản phảm của Gamma International (Anh) – để cấy phần mềm gián điệp vào máy tính và điện thoại thông minh của những người truy cập vào các blog bất đồng chính kiến.
Hà Nội đã không hoan nghênh những thúc đẩy chuyển đổi của Mỹ về vấn đề quyền con người ở VN. Các đảng viên bảo thủ ngậm miệng trước những đòi hỏi để Việt Nam được tự do dân chủ hơn, sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là lật đổ chế độ.
Việc đàn áp các blogger mới đây của chế độ dường như thể hiện xu hướng ngã về phía Trung Quốc, con ngáo ộp bị các nhà bất đồng chính kiến ghét cay ghét đắng. Trong nhiều năm qua, các blogger bất đồng chính kiến đã phê phán thậm tệ chế độ vì theo họ, đã không bảo vệ được quyền lợi của Việt Nam trước gã láng giềng khổng lồ phương Bắc. Bằng chứng là việc Trung Quốc từng bước củng cố tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với gần hết Biển Đông, kể cả vùng biển ngoài khơi ngay sát bờ biển của Việt Nam.
Lực lượng hải quân và không quân của Việt Nam, mặc dù không phải không đáng kể nhưng không sánh được với lực lượng của TQ. Thay vì đánh liều với nguy cơ xảy ra xung đột trong việc tranh giành các đảo đá và rạn san hô – và các mỏ dầu khí tiềm năng – các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tìm cách kìm hãm bớt đà xâm lược của Trung Quốc bằng cách huy động sự ủng hộ của các đối tác ASEAN và thiết lập “quan hệ chiến lược” với các cường quốc ngoài khu vực, nhất là Hoa Kỳ. Kết quả của những nỗ lực ngoại giao này còn khiêm tốn. Mười  thành viên của ASEAN có bàn thảo về “vị trí trọng tâm” trong các vấn đề khu vực, nhưng không lập ra được một mặt trận chung để đối phó với yêu sách lãnh thổ rộng quá đáng của Trung Quốc. Trong khi đó, cảnh giác sợ bị lôi kéo vào việc bảo vệ các đảo của Việt Nam hoặc Philippines, Hoa Kỳ đã nhắc đi nhắc lại là “không đứng về phía nào” trong các tranh chấp lãnh thổ. Cũng do lo ngại rằng siêu cường đang trỗi dậy sẽ trả đũa trong các lãnh vực khác, Washington và hầu hết những nước ASEAN đã tránh né thách thức trực tiếp tham vọng bá quyền của Bắc Kinh đối với vùng biển nằm giữa Hong Kong và Singapore.
Yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh dựa trên các ghi chép trong sử sách về các chuyến đi lại trên biển của ngư dân nhiều thế kỷ trước. Ngược lại, Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam dựa vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển và luật lệ quốc tế khác. Các chuyên gia chính sách ở Washington đồng ý rằng các yêu sách rối rắm đó phải được tháo gỡ bằng cách quy về những quy tắc pháp lý. Nhưng lập trường này bị suy yếu vì Mỹ đã lần lữa không chịu phê chuẩn UNCLOS và bốn nước ASEAN tuyến đầu vẫn chưa dàn xếp được các yêu sách mâu thuẫn giữa họ với nhau. Lập trường đó khiến khó thấy đâu là lối mà Washington sẽ theo nếu Bắc Kinh tiếp tục kiểu gặm nhắm từng chút một, tạo thành việc đã rồi.
Khi căng thẳng gia tăng, một số người ngoài Đảng và một nhóm đáng kể trong Đảng Cộng sản đã thúc giục liên minh kinh tế và quân sự trên thực tế với Hoa Kỳ. Cũng đã có những tiến bộ trong quy trình Việt Nam gia nhập vào tổ chức Quan hệ đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Mỹ đứng đầu. Mặc dù nhiều lãnh đạo đảng vẫn còn hoài nghi về ý định của Mỹ nhưng các cuộc tham vấn với quân đội Mỹ đã gia tăng rõ rệt trong bốn năm qua. Chẳng hạn, trong tháng 6, một phái đoàn cao cấp của Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam đã đi tham quan nhiều căn cứ ở Mỹ.
H2
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta thăm cảng Cam Ranh
Mùa xuân này, một lần nữa các lực lượng trên biển của Bắc Kinh lại diễu võ dương oai. Trái với thường lệ, Hà Nội hầu như không phản ứng. Hồi tháng 5, Hà Nội đã đưa ra phản đối chiếu lệ về việc Trung Quốc đối xử thô bạo với ngư dân Việt Nam, và bác bỏ một báo cáo của PetroVietnam rằng tàu Trung Quốc đã quấy rối một tàu khảo sát. Tới ngày 14 tháng 6, mọi chuyện mới rõ ràng, khi Hà Nội công bố rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ có chuyến viếng thăm Trung Quốc cấp nhà nước.
Chuyến đi ngày 19-21 tháng 6 của ông Sang, là chuyến đi đầu tiên của một nhà lãnh đạo chóp bu Việt Nam sau khi ông Tập Cận Bình được đưa lên làm chủ tịch hồi tháng 3, rầm rộ với các nghi thức và ý nghĩa tích tụ hơn ngàn năm về các phái đoàn như thế. Người Việt Nam rất tự hào về truyền thống kháng chiến chống quân xâm lược Trung Quốc. Ngoài ra trong suốt chiều dài lịch sử, họ đã thường cảm hóa Trung Quốc tôn trọng quyền tự chủ của Việt Nam qua việc tỏ vẻ phục tùng. Tháng trước, Hà Nội đã cúi đầu quy luỵ.
Việc điều phối chuyến đi của ông Sang cho thấy rằng mặc dù có những va chạm nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn hy vọng rằng lãnh đạo Trung Quốc sẽ không phản lại một Đảng cầm quyền giống như Đảng của chính họ.  Theo thông lệ, “mối quan hệ chiến lược toàn diện” của hai nước được nhấn mạnh. Một loạt thỏa thuận bình thường được đóng dấu.
Ngoài lời động viên nghe đầy tai, ông Sang dường như đã không mang về được gì nhiều từ chuyến đi Bắc Kinh. Tập Cận Bình hứa rằng Trung Quốc sẽ tích cực thực hiện “các biện pháp mạnh mẽ và hiệu quả” nhằm thu hẹp mức mất cân đối $16 tỉ trong cán cân thương mại song phương. Lời hứa như vậy đã từng được đưa ra trước đây mà chưa có hiệu quả lớn nào. Về vấn đề Biển Đông, ông Sang cũng chẳng cho thấy gì ngoài thỏa thuận về một đường dây nóng để trao đổi các sự cố liên quan đến ngư dân. Trung Quốc không chấp nhận đề cập đến UNCLOS, mà cả hai quốc gia này đều tham gia ký kết và các quy định khác của luật pháp quốc tế như là nền tảng của việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ.  Như vậy, Bắc Kinh đã bước ra khỏi các bảo đảm mà họ đã dành cho Việt Nam 20 tháng trước, khi Hà Nội đồng ý đàm phán song phương về chủ quyền khu vực quần đảo Hoàng Sa, những đảo mà Trung Quốc giành lấy từ miền Nam Việt Nam vào năm 1974.  Những cuộc đàm phán đó đã không đạt được tiến bộ có thể thấy được. Thừa nhận tới mức đó, Ông Bình và ông Sang đồng ý sẽ tăng cường các cuộc đàm phán này.
Quyết định của Bộ Chính trị cử ông Sang đi Washington cho cảm giác rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã cảm thấy lung lay bởi những điều các đồng chí Trung Quốc nói riêng với ông Sang và do vậy họ sẵn sàng để đi tới thoả thuận với Mỹ về một quan hệ quốc phòng thân thiết hơn. Hai ngày trước khi chuyến đi của ông Sang được công bố, Hà Nội đã hoãn lại phiên tòa dự định xử Lê Quốc Quân, một nhà bất đồng chính kiến được nhiều người ở Mỹ biết đến. Có thể các nhà lãnh đạo Việt Nam hy vọng rằng Tổng thống Barack Obama sẽ hài lòng với những cử chỉ hời hợt bề ngoài như vậy. Nếu quả đúng thế, có nhiều khả năng là họ đã nhầm.
Như chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận trước Quốc hội hồi tháng trước, “dân chúng Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ một sự nâng cấp nổi bật trong các quan hệ song phương nếu không có những tiến bộ thấy được về quyền con người”. Thật ra, để bảo vệ lợi ích của mình ở biển Đông, Hoa Kỳ không cần phải có quan hệ quân sự sâu xa hơn với Việt Nam. Hoa Kỳ có đủ sức để theo đuổi một quan điểm dài hạn và làm kinh ngạc những kẻ hoài nghi bằng cách kiên định về vấn đề quyền con người. Với hai cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, John Kerry và Chuck Hagel, hiện đang trông coi chính sách ngoại giao và quốc phòng thì có thể các chính sách này sẽ đúng y như những gì Mỹ sẽ làm.
David Brown là nhà báo tự do và là nhà ngoại giao Hoa Kỳ nghỉ hưu, đã từng làm việc nhiều năm tại Việt Nam.
Nguồn: Global Yale
Ghi chú: Một vài chỗ trong bài đã được tác giả làm rõ nghĩa, không hoàn toàn chính xác như bản gốc, nhưng ý nghĩa không thay đổi.

Tuesday, July 16, 2013

Cùng khai thác ở Biển Đông

TQ luôn rêu rao họ rất hào phóng, có thiện chí khi đề xuất chủ trương 'gác tranh chấp, cùng khai thác' ở Biển Đông. Nhiều học giả phương Tây nghe bùi tai, không suy xét kĩ càng cũng khuyên các nước nên làm theo chủ trương này vì thấy các tranh chấp có vẻ không có triển vọng có giải pháp trong thời gian trước mắt. Thật ra chủ trương đầy đủ của họ là ' chủ quyền thuộc về ta, gác tranh chấp, cùng khai thác' (chủ quyền thuộc ngã, các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát) và họ cũng  chẳng có ý hợp tác với các bên để xác định rõ đâu là khu vực có tranh chấp để cùng khai thác. Họ cứ nhè vùng biển thuộc quyền các nước khác mà đòi làm của mình và 'hào phóng' đề nghị khai thác chung ở đó như có người đã mỉa mai là họ theo phương châm 'cái gì của tôi là của tôi, cái gì của anh là của chúng ta'. Trong bài Biển Đông trong tầm ngắm: Xác định phạm vi tranh chấp, tác giả Gregory Polling đã đưa ra một kiểu xác định khu vực có tranh chấp rộng tối đa có thể có được theo luật lệ quốc tế và các lãnh thổ không tranh chấp của các bên. Trong bài này tác giả Dương Danh Huy dựa thêm phán quyết mới nhất của Toà án quốc tế.cũng đưa ra một cách xác định phạm vi tranh chấp khác, có vẻ hợp lí hơn. Hai bài này cho thấy đòi hỏi đường lưỡi bò của TQ là hết sức phi lí.
_________________________________________________________________________________
Dương Danh Huy
Thành viên cogitASIA (12/7/2013)


Các tranh chấp ở Biển Đông hiện vẫn còn khó giải quyết nên tìm cách quản lí chúng là vô cùng cần thiết. Trên toàn thế giới, việc cùng khai thác các khu vực còn tranh chấp đã chứng tỏ là một cách quản lí tốt cho các tranh chấp, tuy nhiên điều này vẫn tiếp tục còn xa vời với các bên tranh chấp Quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, Rạn Scarborough, và phần trung tâm của Biển Đông.

Giải quyết tranh chấp và khai thác chung thành công
Giải quyết tranh chấp và khai thác chung không phải là điều mới với các nước quanh Biển Đông. Các nước này đã thành công trong việc phân định một số ranh giới trên biển, như ranh giới Indonesia - Malaysia, Malaysia - Thái Lan, Thái Lan - Việt Nam, Trung Quốc-Việt Nam, Indonesia - Việt Nam và Brunei-Malaysia. Trong Vịnh Thái Lan, Campuchia và Việt Nam đã đồng ý về một “vùng biển lịch sử chung" từ năm 1982. Xung quanh lối vào vịnh này, Malaysia, Thái Lan, và Việt Nam đã thỏa thuận được ba khu vực hai bên hoặc ba bên cùng khai thác, trong đó khu vực đầu tiên thoả thuận được hồi năm 1979.

Joint Development
Ranh giới và khu vực khai thác chung ở phía Nam Biển Đông. Nguồn: Huy Dương, tác giả giữ bàn quyền.

Các thành công này có được là nhờ các yêu sách đối chọi được đưa ra rõ ràng và hợp lí- do đó các chỗ chồng lấn nhỏ được xác định rõ –  nhờ các bên có thiện chí trong đàm phán và cũng do không dính dáng tới vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các đảo.

Bài học cho các cuộc xung đột hiện nay
Tại sao những thành công này không  lặp lại được cho các tranh chấp ở phần trung tâm của Biển Đông?

Trước hết là vì các tranh chấp này dính dáng tới các tranh chấp chủ quyền đối với các đảo chưa được giải quyết mà các tranh chấp này chỉ góp thêm phức tạp vào các tranh chấp khu vực biển và thường chất chứa các luồng sóng ngầm chính trị và tình cảm dân tộc. Tuy nhiên, điều đó sẽ không ảnh hưởng  đối với các dàn xếp tạm thời cho khai thác chung bởi vì chính do sự tồn tại của chúng nên mới có các tranh chấp chưa giải quyết, và các dàn xếp cho việc cùng khai thác thường chỉ xác định các giới hạn cho các khu vực tranh chấp và cách thức để chia sẻ tài nguyên theo một cách đó độc lập với sức mạnh tương đối của các bên tranh chấp.

Quan trọng nhất là vì không có thoả thuận đâu là giới hạn của các khu vực tranh chấp. Không thể nào có việc cùng khai thác khu vực tranh chấp khi không có thoả thuận về giới hạn của khu vực đó.

Hành động của Trung Quốc ở các điểm khác nhau dọc theo đường chữ U gợi ra rằng họ đang tìm cách dựng ra chuyện để đòi một số quyền trong khu vực xác định bởi đường này. Khu vực đó lấn qua khỏi các đường cách đều (đường màu xanh lá cây trên Bản đồ 2) giữa các đảo tranh chấp và các vùng lãnh thổ khác, do đó lập trường này của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế, vì theo các phán quyết về phân giới biển, các vùng nước thuộc các đảo này sẽ không vươn tới đường này. Vị thế của Trung Quốc tạo ra một khu vực lớn bất đối xứng, kém xác định các yêu sách chồng lấn sẽ làm việc khai thác chung trong khu vực này bất lợi cho các bên tranh chấp khác.

Việt Nam và Philippines coi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lí kéo dài từ lãnh thổ không có tranh chấp của mình là bất khả xâm phạm và không bị EEZ mà các đảo tranh chấp có thể được hưởng ảnh hưởng tới, nhưng cả hai đều không tuyên bố liệu họ có đòi EEZ cho các đảo ở những nơi khác hay không. Malaysia không nói gì về vấn đề các đảo tranh chấp có thể được hưởng EEZ hay không. Brunei chỉ đòi rạn đá Louisa Reef và không có vẻ họ muốn đòi EEZ cho các thể địa lí khác.

So sánh tình trạng này với việc giải quyết tranh chấp và sự khai thác chung thành công ở nơi khác cho thấy những thành công đó không được lặp lại ở đây là do thiếu các yếu tố sau đây: yêu sách của tất cả các bên rõ ràng và hợp lí, thỏa thuận chỗ nào là khu vực tranh chấp,thiện chí.

Một định nghĩa khả dĩ cho những khu vực khai thác chung
Mặc dù có nhiều điều chưa biết nhưng dễ thấy là Trung Quốc sẽ tìm cách tối đa hóa khu vực tranh chấp, còn Philippines, Malaysia và Brunei có thể sẽ tìm cách giảm thiểu chúng. Việt Nam cũng tìm cách làm nhỏ bớt các khu vực tranh chấp, nhưng việc họ muốn thu hẹp chúng xuống tới khu vực lãnh hải 12 hải lí xung quanh các đảo tranh chấp có lẽ là ít gay gắt hơn so với Philippines và Malaysia. Điều này là do hầu hết các hòn đảo tranh chấp không nằm sâu trong EEZ200 hải lí tính từ lãnh thổ không có tranh chấp của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei có chung một lập trường thì sẽ có lợi hơn, vì thế quan điểm của họ có khả năng hội tụ.

Sự khác biệt lớn nhất sẽ là khác biệt giữa mong muốn muốn tối đa hóa của Trung Quốc và mong muốn làm thu hẹp bớt và tối thiểu hoá của các nước khác đối với các khu vực tranh chấp.

SCS_QuarterEEZ_620
Có thể lấy đường "khoảng cách một phần tư", in đen, làm giới hạn tối đa cho các vùng biển tranh chấp hay không? Nguồn: Huy Dương. Tác gigiữ bản  quyền.

Đối với các bên tranh chấp, một thỏa hiệp có thể xác định các khu vực khai thác chung dọc theo đường mà Toà án quốc tế đã sử dụng khi giải quyết vụ tranh chấp Nicaragua-Colombia, không cho các đảo nhỏ ngoài khơi của Colombia hưởng EEZ, và cho những đảo lớn hơn một EEZ rộng bằng một phần tư khoảng cách đến các đảo ven biển của Nicaragua. Nếu một thỏa thuận tương tự cũng được áp dụng đối với Biển Đông, thì giới hạn tối đa của các khu vực khai thác chung sẽ là đường màu đen trong Bản đồ 2, đó có vẻ là một thỏa hiệp hợp lí cho tất cả các bên.

Câu hỏi đặt ra là liệu tất cả các bên tranh chấp có đủ thiện chí để xác định các khu vực khai thác chung theo một cách hợp lí nào đó hay không.

DươngDanh Huy đóng góp bài viết về Biển Đông với một số hãng tin trong đó có BBC và VietNamNet trực tuyến của Việt Nam

Sunday, July 14, 2013

Tập Cận Bình “ Tôi biết làm thế nào?”

Xin giới thiệu bản dịch của Kiều Tỉnh bài phát biểu nội bộ của Tập Cận Bình (chưa được kiểm chứng) về nhiều vấn dề nhạy cảm của TQ đăng trên trang Viet-studies : http://viet-studies.info/kinhte/TapCanBinh_BietLamTheNao.htm
________________________________________________________________________         

          Tạp chí “Tiền Tiêu” ở Hồng Công số ra tháng 4/2013 đăng ghi âm phát biểu nội bộ vừa qua với cán bộ cấp cao Trung Quốc của Tập Cận Bình với nhan đề “Tôi biết làm thế nào?”, trong đó đề cập tới nhiều vấn đề nội bộ cũng như chính sách đối ngoại hiện nay của Trung Quốc mà ông cảm thấy nhiều khi rất khó xử trên cương vị này.

          Chúng tôi xin dịch nguyên văn làm tài liệu tham khảo.
        


           
Ngồi ghế Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước thực không dễ dàng

            Hôm nay tôi nói chuyện nội bộ, trao đổi, tâm sự với các đông chí chứ không phải phát biểu chính thức công bố ra bên ngoài. Tuy nhiên, thời đại thông tin nhanh nhạy hiện nay thì nhiều văn bản tài liệu nội bộ vẫn bị báo giới bên ngoài tiết lộ. Chẳng hạn trên mạng tin vừa qua đã đăng toàn văn cuộc trao đổi riêng của tôi với anh Đức Bình (Hồ Đức Bình, con trai Hồ Diệu Bang – ND).
           Tôi xin nói luôn không vòng vo rào trước đón sau. Chức Tổng Bí Thư (TBT) này không phải tôi cố ý giành giật lấy mà toàn đảng giáo phó cho tôi trách nhiệm này. Một lần, Đồng chí Hồ Cẩm Đào trước khi lên đường thăm Nhật Bản cũng từng nói: “Không phải tôi cố ý giành lấy chức Chủ Tịch Nước mà do toàn thể nhân dân cả nước bầu tôi”. Thực ra chức TBT cũng không phải tôi tự mình muốn làm mà cán bộ toàn đảng và quần chúng nhân dân bầu tôi làm, muốn để tôi làm. Nhận gánh trách nhiệm thực sự nặng nề, không dễ dàng. Thời thanh niên khi tôi về nông thôn sản xuất nông nghiệp ở Thiểm Tây đã thể nghiệm sâu sắc điều này. Gánh bằng đòn gánh trên vai thực sự không dễ dàng. Một bên nhẹ, một bên nặng đi không cân, nếu không giữ được thăng bằng thì bị ngã xuống mương nước. Chính vì vậy mà các đồng chí thông cảm với tôi, nên hiểu tôi.
Vì sao tôi một mặt phải nói làm việc theo pháp luật, pháp luật là trên hết, phải giữ sự tôn nghiêm của luật pháp. Nhưng mặt khác tôi vẫn phải nhấn mạnh  tinh thần cách mạng của Đ/C Mao Trạch Đông.  Lẽ nào tôi lại không hiểu cái đạo lý, sự mâu thuẫn giữa lý luận chuyên chính với trị nước bằng pháp luật. Hiểu đấy, biết đấy, nhưng vẫn phải làm như vậy. Bởi vì tôi phải giữ sự cân bằng trong nội bộ Đảng, sự cân bằng giữa các tầng lớp cũng như các luồng tư tưởng khác nhau trong nước. Hiện nay tôi phải quan tâm và chiếu cố tất cả các nơi, nếu không sẽ đắc tội với họ. Các đồng chí đừng cho rằng chức TBT của tôi nói gì cũng được, trên thực tế phải lấy lòng các bên. Họ thích gì tôi nói thế, vào miếu nào phải cúng thần miếu đó. Hịện nay có một số mâu thuẫn, một số điều gây cấn tạm thời chưa giải quyết nổi là điều dễ hiểu. Tôi phải làm vừa lòng các thế hệ lão thành, tầng lớp trung niên và thanh niên. Tôi phải nhìn trước, nhìn sau, nhìn trái nhìn phải để làm việc. Bởi vì, nó liên quan tới đại cục ổn định của toàn Đảng và đại cục ổn định ở trong nước.


Xử lý mối quan hệ giữa các Nhóm lợi ích rất khó khăn

           Mọi người đều biết, hiện nay tác phong của Đảng Cộng sản chúng ta có một số không tốt. Một số cán bộ lãnh đạo hình thành Nhóm lợi ích, nó ảnh hưởng tới quan hệ giữa Đảng với quân chúng nhân dân. Là người lãnh đạo của Đảng, đã được cán bộ đảng viên các cấp bầu lên, tôi không thể ăn nơi này, rào  nơi khác mà phải đồng đều. Nhưng nếu xâm phạm quá mức tới lợi ích của quần chúng nhân dân, rõ ràng tác động không tốt tới lợi ích lâu dài của Đảng. Bởi vậy, tôi cũng phải như vậy để vừa chiếu cố cái riêng vừa chiếu cố cái chung.
         Nói về “đánh con hổ tham nhũng” thì các đồng chí trong đảng yên tâm, đại bộ phận các đồng chí trong đảng không sao cả, nhưng chúng ta vẫn phải tuyên truyền sâu rộng, chỉ cần quần chúng nhân dân đồng lòng vỗ tay hưởng ứng, đánh giá tốt là được. Điều này có thể một số đồng chí cán bộ đảng viên cấp cơ sở không thông lắm.
         Hiện nay dư luận ngoài Đảng cho rằng Tập Cận Bình là Gorbachov của Trung Quốc. Điều này tôi có thể khẳng định với mọi người rằng, toàn Đảng bầu tôi vào chức vụ này đã giải thích và hiểu tôi, nên có thể yên tâm. Tôi không bao giờ là Gorbachov của Trung Quốc. Tuy nhiên, một số khác lại hoài nghi tôi về con đường cũ theo đường lối cực tả trước đây. Đây cũng là sự hiểu lầm. Đồng chí Đức Bình là ông anh của tôi. Cha tôi và cựu Tổng bí thư Hồ Diệu Bang là bạn thân thiết với nhau. Cựu TBT Hồ Diệu Bang trước đây chẳng đã từng tham gia cuộc vạn lý trường chinh đó sao? Tôi nghĩ, mình cần phải ôn lại lịch sử và tinh thần chiến đấu của Đảng ta trong những năm tháng đấu tranh gian khổ giành chính quyền. Chẳng lẽ cho đây là sự hoài cố hay sao? Một số người soi mói, cho rằng làm như vậy chúng ta đang có ý đồ quay về con đường cũ. Nhưng chúng ta không cần để ý tới những lời nói đó.
         Đảng chúng ta đã hơn 80 tuổi rồi, người già hay hoài cổ, nhớ lại những năm tháng trai trẻ hào hùng trước đây. Như bản thân tôi, nhiều khi vẫn nghĩ tới thời kỳ mình lao động ở vùng nông thôn Thiềm Tây trước đây. Suốt đời cha tôi không bao giờ dùng “phong trào cực tả” để chính cán bộ và tôi cũng sẽ như vậy. Hiện nay trong Đảng ta vẫn còn nhiều đồng chí sủng bái Chủ tịch Mao Trạch Đông, vì vậy tôi phải tôn trọng và thông cảm với các đồng chí đó.


Về công tác đối ngoại

         Hiện nay tình hình trong và ngoài nước mà chúng ta đang gặp phải không mấy lạc quan. Những người bạn tốt, đồng chí tốt của chúng ta trên thế giới ngày càng ít dần. Những người như Khadaphi, Chaver càng ngày càng ít.  Tình hình bán dảo Triều Tiên hiện cũng thành vấn đề. Bắc Triều Tiên đang chơi con bài thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng lại “liếc mắt đưa tình” có ý đồ bắt tay chơi với Mỹ. Trong thời đại Chủ Tịch Mao Trạch Đông trước đây, chúng ta từng có quan hệ tốt với ông anh cả Liên Xô, nhưng rồi hai bên lật mặt nhau. Trong khi đó chúng ta tiến hành ngoại giao bóng bàn với Mỹ. Kết quả chẳng bao lâu Liên Xô sụp đổ.
        Đối với Triều Tiên hiện nay, chúng ta vẫn viện trợ như trước đây, nhưng điều chúng ta lo ngại là họ bắt cá hai tay, ăn cả hai đầu. Hơn mười năm qua, chúng ta tiêu tốn rất nhiều tiền cho tuyên truyền đối ngoại, nhưng kết quả không mấy khả quan, dự luận các nước thờ ơ và chỉ trích ngày càng nhiều hơn. Về tuyên truyền đối nội,chúng ta có một đội ngũ tuyên truyền để hướng dẫn dư luận trên các trang mạng, nhưng rốt cuộc hiện nay cũng đưa lại không ít kết quả tiêu cực.
         Đối với quần đảo Điếu Ngư, như mọi người đều biết những biện pháp chúng ta áp dụng hiện nay trong tình hình không có biện pháp nào nữa. Tôi cũng muốn dựa vào tư thế sức mạnh để xác lập uy tín cho mình ở trong nước. Nhưng quân đội của chúng ta hiện có thực sự đáp ứng được không, chiến tranh nổ ra liệu có thích ứng với được với kỹ thuật và cường độ cao của chiến tranh hiện đại? Điều này không chắc chắn, nhất là cuộc chiến tranh quy mô lớn trong điều kiện kỹ thuật cao phức tạp có Mỹ tham chiến. Chúng ta làm thế nào để đối phó với sức ép và nguy cơ ở trong và ngoài nước? Điều này xin các đồng chí toàn đảng toàn quân cần nghiên cứu nghiêm túc và tính toán kỹ.


Cải cách thể chế chính trị không đơn giản

        Đối với công cuộc cải cách, nhất là cải cách thể chế chính trị rất phức tạp. Trên thực tế khái niệm này tương đối trừu tượng, không ở trong vị trí này thì khó có thể tính toán hết được. Ở mỗi vị trí khác nhau, việc xem xét vấn đề cũng khác nhau. Tôi cho rằng mọi người chúng ta cần học hỏi và rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử đánh mất chính quyền của ĐCS Liên Xô.
         Sau khi Khrushchev (Khơrupsốp) lên nắm quyền, trên các diễn đàn ông ta ra sức phê phán Stalin chuyên chế và tàn bạo. Một lần khi diễn thuyết trên diễn đàn, có người ở dưới chất vấn: “Đồng chí khi ấy đã làm gì?”.  Khrushchev liền nghiêm nét mặt nói: “Ai vừa hỏi tôi đấy, xin mời lên trên này”. Người vừa hỏi im bặt. Lúc sau, Khrushchev điềm tĩnh nói: “Khi đó tôi cũng như đồng chí vừa chất vấn”.
        Người lãnh đạo cấp cao phải quan tâm toàn diện mọi mặt, vì vậy các đồng chí cần thông cảm với tôi. Ở trên vị trí lãnh đạo này tôi phải quan tâm toàn diện các mặt. Lệch sang trái một chút, lệch sang phải một chút là lập tức thành vấn đề. Sự kiện Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh là một ví dụ. Có một số người công kích, phê phán thủ tướng Ôn Gia Bảo. Thực ra ở cương vị này của Đ/c Ôn Gia Bảo có nhiều điều khó xử. Ở cương vị của Đ/c trong thể chế của chúng ta hiện nay, thì Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng chỉ làm được như vậy thôi. Có phải chúng ta định biến Đ/c thành một “Triệu Tử Dương thứ hai” không? Vì làm như vậy thì trước tiên sẽ dẫn tới sự chia rẽ về tổ chức và ý thức hệ trong Đảng. Là một đảng viên lão thành, là người lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Đ/c Ôn Gia Bảo chỉ có thể làm được như vậy. Tôi cho rằng làm được như Đ/c Ôn Gia Bảo là quá tốt rồi.
         Nếu như tôi từ bỏ Chủ Nghĩa Mác, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông sẽ dẫn tới Đảng ta mất đi quyền phát ngôn lãnh đạo các mặt. Nếu như tôi hiện nay không công khai nói Đảng phải dựa vào luật pháp trị nước, phải tôn trọng tính quyền uy của luật pháp, thì trong con mắt nhiều người tôi đã có vấn đề. Điều này cũng không tốt đối với địa vị lãnh đạo của Đảng ta. Vậy các đồng chí nói tôi phải làm thế nào? Ở địa vị này, tôi chỉ có thể làm như vậy.
          Trước tiên chúng ta cần phải duy trì được cục diện hiện nay. Tương lai diễn biến như thế nào, hiện chúng ta chưa có sự chuẩn bị, chúng ta cũng chưa nhìn thấy cục diện thay đổi rõ rệt nào. Các đồng chí không nên cho rằng ở cương vị TBT như tôi là nói gì mọi người nghe răm rắp, có thể nắm chắc càn khôn trong tay. Kỳ thực, tôi chỉ là người duy trì sự cân bằng, quyền lực của nhóm lợi ích. Tôi chỉ là người giữ chìa khóa tủ, người chủ quầy hàng. Nếu tôi đi ngược lợi ích của Đảng, thì tôi sẽ bị hạ bệ. Hôm nay giao cho quyền lực, ngày mai có thể tước bỏ. Đảng ta từng có các đồng chí lãnh đạo tiền bối rất lý tưởng như Trần Độc Tú, Trương Văn Thiện, nhưng rồi kết cục họ trong Đảng đều không tốt, còn Đ/c Triệu Tử Dương không cần phải nói. Đ/c như một Đông Ki-Sốt dám thách thức thể chế hiện hành. Tôi sẽ không làm như vậy, toàn Đảng cũng không để tôi làm như vậy. Tôi phải làm thế nào đây?
         Bởi vậy, cải cách thể chế chính trị là vấn đề lớn, như rút giây động rừng, đụng vào tác động tới tất cả các lĩnh vực. Vì sao tôi lại nói như vậy? Chúng ta muốn uốn nắn, chấn chỉnh tác phong không tốt của Đảng thì phải điều chỉnh lại thế giới quan và quan niệm giá trị của chúng ta. Trong khi đó thuyết duy vật đã làm cho con người mất đi niềm tin chân chính, chạy theo chủ nghĩa vật chất hưởng thụ và vụ lợi. Như vậy nó sẽ tác động tới ý thức hệ và tư tưởng của Đoàn viên. Mọi người đều biết Tập Cận Bình tôi thường hay trích dẫn lời nói của Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trước đây tôi đọc thuộc làu ba bài luận văn của Mao chủ tịch,[1] trong đó có bài về “Ngu công dời núi” mà Chủ tịch Mao rất sùng bái tinh thần của ông già Ngu Công. Đảng ta đã dựa vào tinh thần “Ngu Công dời núi” thực ra không có gì cần nghiên cứu sâu. Đảng ta là chính đảng theo chủ nghĩa duy vật. Lý luận của chúng ta từ các nước phương tây dựa về, học hỏi từ người Nga, còn câu chuyện “Ngu Công dời núi” là sản phẩm văn hóa tinh thần truyền thống của Trung Quốc, nhưng nó mang tính chất duy tâm và thần thoại. Câu chuyện về “Ngu Công dời núi” thực ra không phải bản thân Ngu Công có thể dời được núi. Theo nguyên bản của câu chuyện thì tinh thần dám làm của Ngu Công đã làm động lòng Ngọc Hoàng, vì vậy Ngọc Hoàng đã sai những thần lực sĩ xuống giúp và chỉ một đêm di dời xong quả núi. Rõ ràng là duy tâm, là thần thoại. Mao Trạch Đông khi đó như một đấng cứu nhân độ thế như Ngọc Hoàng. Bây giờ chúng ta không có đấng cứu thế như vậy.
         Điều này cho thấy, bản thân lý luận của chúng ta có mâu thuẫn. Một mặt chúng ta hát quốc tế ca, chủ trương không có đấng cứu thế trên thế gian này, nhưng mặt khác chúng ta lại sùng bái Chủ tịch Mao là đấng cứu thế. Chúng ta một mặt dựa vào tinh thần “Ngu Công dời núi” để nổi dậy làm cách mạng cướp chính quyền, nhưng mặt khác chúng ta lại phủ định văn hóa và tín ngưỡng dân tộc, rõ ràng bản thân chúng ta đã mâu thuẫn hoặc là có những vấn đề mà chúng ta không hiểu biết. Chúng ta phải làm thế nào để kiên trì không mệt mỏi sự nghiệp của Đảng ta, củng cố được chính quyền mà Đảng chúng ta phải chịu bao gian khổ hy sinh mới giành được. Trong khi đó, chúng ta lại đang mất đi niềm tin vào chính lý luận và chính thể chế đang tồn tại hiện nay do chúng ta lập ra. Nhưng chúng ta hiện nay vẫn chưa tìm ra được lý luận và thể chế tốt hơn trong khi chúng ta không thể manh động thay đổi thế chế hiện nay.
Bài học kinh nghiệm về Liên Xô sụp đổ vẫn còn đó. Gorbachov đầu tiên tiến hành cải cách ý thức hệ và lý luận của Đảng, kết quả đã đụng chạm tới toàn cục và nó bung ra không thể kiểm soát nổi. Vừa rồi Đ/c Vương Kỳ Sơn có giới thiệu mọi người cuốn sách Đại cách mạng nước Pháp về những bài học lịch sử. Về cải cách thể chế chính trị, nếu chúng ta để sơ sểnh ra một chút thì sẽ sai một ly đi một dặm, rất khó kiểm soát được. Tới khi đó, chức TBT của tôi cũng như địa vị lãnh đạo của Đảng sẽ không còn nữa. Bởi vậy, không phải là tôi không muốn cải cách thể chế chính trị hiện nay, mà thực sự tôi không thể cải cách và cũng không dám nhẹ dạ cải cách. Hiện nay ai dám đứng ra đảm lãnh trách nhiệm này? Trong thời đại Đặng Tiểu Bình, Đ/c cũng đã có ý đồ cải cách thể chế chính trị, rốt cuộc đã để xảy ra vấn đề lớn. Phong trào dân chủ Thiên An Môn ngày 4/6/1989 cho tới nay vẫn là cái cớ để các thế lực phản động trong và ngoài nước công kích đảng ta. Đ/c Triệu Tử Dương cũng do đó mà bị hạ bệ và đưa lại hậu quả nghiêm trọng.
        Tình hình hiện nay của đất nước ta không bằng Thời Kỳ Đặng Tiểu Bình, chúng ta không nói tới nhân tố dư luận và sự giác ngộ của quần chúng nhân dân trong nước mà chúng ta nói tới đảng phong trong nôi bộ Đảng hiện nay không bằng trước đây. Ngay trong thời đại của mình, hai vị tổng bí thư là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cũng đã phải gác lại vấn đề này. Tôi cho rằng điều kiện hiện nay cũng giống trước kia, thời cơ vẫn chưa chín muồi. Tình hình trong và ngoài nước hiện nay chỉ cho phép chúng ta dùng “liệu pháp giữ nguyên”, hơn nữa duy trì được hiện trạng cũng là tốt lắm rồi, thực ra duy trì được cũng không phải dễ dàng. Bởi vậy, tôi chỉ có thể nhắc lại “ba tin tưởng”,[2] mà thực sự không thể đụng tới cải cách thể chế chính trị hoặc ít nhất hiện nay không được đụng tới.
         
Về lý luận và ý thức hệ của Đảng

          Lý luận và ý thức hệ của Đảng liên quan tới đường lối và chế độ của chúng ta. Chúng ta phải quản lý thông tin đại chúng, chủ trương này hiện nay không được giao động lung lay. Vừa qua dư luận cho rằng “Sự kiện thay đổi nhân sự” của tập đoàn báo chí Nam Phương[3] là do Đ/c Lưu Vân Sơn và sở báo chí tuyên truyền tỉnh Quảng Đông tiến hành, thực ra có sự chỉ đạo của bản thân tôi về cái tổ nhân sự này. Nếu chúng ta dao động, không tin tưởng vào ba vấn đề quan trọng là Ý thức hệ, Đường lối và Chế độ thì bị rối loạn và không còn làm được việc gì. Chính vì vậy mà chúng ta vẫn phải tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Lý luận ý thức hệ. Chủ nghĩa Mác và Tư tưởng Mao Trạch Đông. Nếu không, một khi vỡ lở thì sẽ bị động toàn cục và rối loạn.
         Bản thân tôi không muốn để xảy ra tình trạng này, toàn Đảng cũng không cho phép tôi để xảy ra như vậy. Vừa qua, chúng ta tuyên truyền, làm phim về một đại biểu nữa lão thành ở tỉnh Sơn Tây ca ngợi tinh thần hy sinh cống hiến đối với sự nghiệp, bất chấp một số dư luận nước ngoài và một số người ngoài Đảng chỉ trích, phê phán. Đảng Cộng sản chúng ta làm gì đều xuất phát từ lợi ích căn bản và logic của chúng ta. Chúng ta tiếp tục tuyên truyền và học tập Lôi Phong để tăng cường chủ nghĩa tập thể, đấu tranh chống chủ nghĩa tự do. Đ/c Đặng Tiểu Bình đưa ra lý luận “Mèo trắng, Mèo Đen”. Trên thực tế, từ trước tới nay chúng ta không phải nhất nhất làm theo sách vở mà dựa vào thực tiễn và chủ nghĩa hiện thực. Đương nhiên, không vì thế mà chúng ta đánh mất tầm nhìn lịch sử lâu dài, mất đi địa vị và giá trị đích thực của chúng ta.

Chống tham nhũng chưa thể trị tận gốc

        Hiện nay rất nhiều người phê phán những căn bệnh trong mô thức phát triển của chúng ta, nhất là chống tham nhũng. Trên thực tế đấu tranh chống “con Hổ tham nhũng” hiện nay chỉ là biện pháp xì hơi khi quả bóng quá căng, giống như lấy đũa khuấy nồi canh đang sôi để nước không tràn ra ngoài. Điều này có liên quan tới thể chế, ý thức hệ, lý luận và quyền lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta không thể nơi lỏng, không thỏa hiệp. Do các vấn đề lý luận, Đường lối, Chế độ không thay đổi, thì thế giới quan, quan niệm giá trị của cán bộ Đảng viên cũng không hề thay đổi. Vì vậy, tôi và Đ/c Trưởng ban kiểm tra kỷ luật trung ương Vương Kỳ Sơn đều cho rằng dù đánh “con Hổ tham nhũng nào” cũng chỉ là xì bớt hơi khi quả bóng quá căng, hay cũng giống như lấy đũa khuấy nồi canh đang sôi để nước không tràn ra ngoài. Đồng chí Vương Kỳ Sơn cũng nói hiện nay chỉ là trị ngọn chứ không trị tận gốc.
Khi nào chúng ta mới trị được tận gốc nạn tham nhũng? Có lẽ phải đợi tới khi mà lý luận, Đường lối, chế độ bắt đầu đứng trước sự điều chỉnh thực sự. Có người hỏi tới khi đó liệu có quá muộn không? Tôi cho rằng có lẽ chúng ta phải tìm câu trả lời trong cuốn sách “Chế độ cũ và Đại cách mạng” mà Đ/c Vương Kỳ Sơn giới thiệu với chúng ta. Đảng Cộng sản chúng ta kiên trì theo duy vật lịch sử, nhưng bản thân thuyết mang tính duy tâm, mang tính định mệnh. Chính vì vậy, nên ai dám chắc rằng nếu cứ tiếp tục đi theo thì liệu có phải là một quá trình thực hiện theo số mệnh không? Liệu chúng ta có vô tình lặp lại vết xe đổ diệt vong của ĐCS Liên Xô và Nhà Mãn Thanh hay không?
         Bởi vậy, vấn đề hiện nay không phải là vấn đề giữ cho lá cờ hồng bay được bao lâu mà là vấn đề bảo vệ non sông đất nước này được bao lâu. Vì vậy, quan điểm và lập trường của tôi là nhất quán. Tôi hy vọng, các đồng chí trong và ngoài đảng, các đoàn thể xã hội không nên hiểu lầm, hiểu sai, nếu không thì nguyên nhân chính là ở các đồng chí, chứ không phải do Tập Cận Bình tôi cố ý cản trở, bày đặt ra mê hồn trận.
        Liệu sau này có thay đổi không? Liệu có thách thức mới nảy sinh không? Để phòng ngừa, chúng ta cần đổi mới, sáng tạo kể cả đổi mới và sáng tạo về lý luận như Đ/c cựu TBT Hồ Cẩm Đào nói phải sáng tạo phương pháp quản lý xã hội. Tuy nhiên, một số dư luận lại cho rằng đây chỉ là chủ nghĩa kỹ trị để tăng cường tính chuyên chế, độc đoán của một Đảng. Có người nói cải cách kiểu này cũng chẳng khác gì kiểu cải cách thời Mãn Thanh. Nhưng nếu họ ở vào vị trí của chúng ta thì liệu họ có dám phê phán như vậy không? Một lần tới thăm Trường Đảng, tôi có nói, Các đồng chí không nên đưa ra các mục tiêu đốt cháy giai đoạn mà nên đưa ra mục tiêu sát thực.
Bởi lẽ, chúng ta hiện đang đứng trước rất nhiều vấn đề thực tế mới mẻ. Tôi sẽ không giống như các học giả, các nhà lý luận xem xét vấn đề sự việc một cách lý luận thuần túy. Vì vậy gần đây lớp học tập tập thể của Bộ Chính trị có đổi mới. Chúng tôi không chỉ mời các học giả, các nhà lý luận thuần túy mà chủ yếu mời các chuyên gia, các đồng chí lãnh đạo cấp cao ở các ban ngành, những người đã từng trải nghiệm qua nhiều công tác thức tế, có kinh nghiệm phong phú tới giới thiệu và giảng bài cho các đồng chí trong Bộ Chính trị.
         Hôm nay tới trao đổi với các đồng chí một số vấn đề liên quan tới quan điểm, lập trường và cách nhìn nhận của tôi như vậy, mong các đồng chí hiểu và thông cảm./             
                                                                      
                                                                                                               
Kiều Tỉnh dịch




Chú giải:

Tạp chí “Tiền Tiêu” là nguyệt san xuất bản ở Hồng Công. TBT của tạp chí này hiện nay là Lưu Đạt Văn. Các phóng viên và biên tập viên trong tòa soạn của tạp chí chủ yếu là những trí thức bất đồng chính kiến ở nước ngoài, một số là cán bộ của Trung Quốc đại lục chạy sang Hồng Công. Vì vậy, tạp chí này mang tính chống đối Trung Quốc mạnh mẽ, vì vậy Tạp chí này thuộc ấn phẩm cấm lưu hành ở Đại lục. Nội dung các bài viết trong Tạp chí này chủ yếu đề cập tới các vấn đề mâu thuẫn nội bộ trong lãnh đạo, tố cáo nạn tham nhũng của quan chức Trung Quốc. Tạp chí này lưu hành ở Hồng Công, nhưng giữ bí mật trụ sở và địa chỉ mạng.


[1] Ba bài luận văn của Mao Trạch Đông khi đó làm tài liệu học tập cho cán bộ đảng viên là: 1- Vì nhân dân phục vụ. 2- Ngu công dời núi. 3- Kỉ niệm bác sĩ Bethune.
          Henry Norman Bethune.(1890 – 1939), đảng viên ĐCS Canada. Năm 1916 tốt nghiệp Đại học y Toronto. Khi chiến tranh bùng nổ ở Tây Ban Nha ông tới giúp Tây Ban Nha, sau đó được ĐCS Canada và ĐCS Mỹ cử sang giúp Trung Quốc ở Khu căn cứ cách mạng vào tháng 1 năm 1938. Ông hy sinh trong lúc cứu chữa thương binh của Trung Quốc trên mặt trận.

[2]  “Ba tin tưởng” (Tin vào đường lối, tin vào lý luận, tin vào chế độ - ND).
Ba tin tưởng được Hồ Cẩm Đào đưa vào “Báo cáo chính trị” tại Đại hội 18 họp tháng 11/2012.

[3]  “Sự kiện tập đoàn báo chí truyền thông Nam Phương” chỉ Đảng tăng cường quản lý đối với báo chí. Theo truyền thống, nhân sự lãnh đạo do Tập đoàn này quyết định, nhưng ngày 9/4/2013 Tỉnh ủy Quảng Đông đã đột nhiên bãi chức Chủ Tịch Tập Đoàn của Dương Hưng Phong, người do Tập đoàn này đưa lên, thay vào đó đưa Dương Kiện, Phó Giám Đốc Sở báo chí tuyên truyền của tỉnh thay thế, nên đã gây chấn động dư luận báo chí Trung Quốc. Một số dư luận lên án Đảng đã can thiệp quá sâu vào nghiệp vụ báo chí.

Lên trang viet-studies ngày 14-7-13