Wednesday, March 30, 2022

Giải pháp thực tế cho tranh chấp biển Đông

 Đây có thể là cách để giải quyết các tranh chấp ở biển Đông

Bill Hayton

https://www.thinkchina.sg/might-be-way-solve-south-china-sea-disputes 


Biết rằng bằng chứng lịch sử về các hành động quản lí thực tế trên các đảo đá và rạn san hô đang tranh chấp cho thấy rằng, với một số ngoại lệ quan trọng, các bên chiếm đóng hiện tại ở mỗi thể địa lí có yêu sách tốt nhất về chủ quyền đối với nó, các quốc gia Đông Nam Á có lợi ích trong việc công nhận sự chiếm đóng trên thực tế của nhau đối  với các thể địa lí cụ thể và sau đó thể hiện một lập trường thống nhất đối với Trung Quốc. Ngay sau đó, các tổ chức phi chính phủ có thể đóng một vai trò hữu ích bằng cách thành lập "tòa lối hai" (track two tribunal) để thu thập các mẫu bằng chứng đối địch, kiểm tra lập luận pháp lí của các bên tranh chấp và trình bày các kết quả có khả năng cho bất kì phiên tòa quốc tế nào trong tương lai.


A Philippine flag flutters from BRP Sierra Madre, a dilapidated Philippine Navy ship that has been aground since 1999 and became a Philippine military detachment on the disputed Second Thomas Shoal, part of the Spratly Islands, in the South China Sea, 29 March 2014. (Erik De Castro/Reuters)Một lá Cờ Philippines phất phới trên BRP Sierra Madre, một con tàu Hải quân Philippines đổ nát mắc cạn từ năm 1999 và trở thành một đơn vị quân đội Philippines trên bãi cạn Thomas thứ hai, một phần của quần đảo Trường Sa, ở biển Đông, ngày 29 tháng 3 năm 2014. ( Erik De Castro / Reuters)

Các tranh chấp về các đảo nhỏ ở biển Đông thường được cho là khó giải quyết được. Sáu bên tranh chấp, cụ thể là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH hay Trung Quốc), Trung Hoa Dân quốc (THDQ hoặc Đài Loan), Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam, yêu sách ít nhất một trong các đảo này, và một vài đảo nhỏ được ít nhất 5 bên yêu sách.

Những yêu sách lãnh thổ đối địch này thường được cho là kết quả của lịch sử nhiều thế kỉ, và hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng việc tháo bỏ, đánh giá và cân nhắc bằng chứng cho mỗi yêu sách là chuyên bất khả. Không có ý nào trong điều này là đúng. Bây giờ, chúng ta đã có hiểu biết lịch sử biển Đông đủ để giải quyết các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh.


Vấn đề

Có hai nhóm đảo tranh chấp chính ở biển Đông: Paracels (Hoàng Sa theo tiếng Việt, Tây Sa theo tiếng Trung Quốc) ở phía bắc và Spratlys (Trường Sa theo tiếng Việt, Nam Sa theo tiếng Trung) ở phía nam. Bãi cạn Scarborough, ở phía đông, chỉ bị tranh chấp giữa Philippines, Trung Quốc và Đài Loan trong khi số phận của Pratas (Đông Sa trong tiếng Trung), ở phía đông bắc, là một câu hỏi nội bộ Trung Quốc.

Bi kịch của biển Đông là các đảo nhỏ đang tranh chấp có kích thước vừa đúng để gây ra rắc rối.

Chẳng hạn, nếu như những đảo này không tồn tại thì sẽ là một vấn đề tương đối đơn giản khi phân chia các vùng biển và tài nguyên của biển Đông theo cách mà các nước châu Âu đã làm ở biển Bắc. Nếu như những đảo lớn hơn, giống như những đảo ở Địa Trung Hải, chúng sẽ có dân cư ổn định có thể tự quyết định chủ quyền của mình trên cơ sở quyền tự quyết. Ví dụ, chúng ta biết rằng quần đảo Natuna thuộc về Indonesia vì những người sống trên đó nói như vậy. Bi kịch của biển Đông là các đảo nhỏ đang tranh chấp có kích thước vừa đúng để gây ra rắc rối.

Vấn đề khác là Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và Philippines yêu sách các nhóm đảo trên cả nhóm chứ không phải là các thể địa lí cụ thể. Trung Quốc khẳng định yêu sách đối với toàn bộ Nanhai Zhudao (Nam Hải chư đảo): mọi thể địa lí  bên trong "đường chữ U" được vẽ trên bản đồ biển Đông của Trung Quốc từ năm 1948. Đài Loan tuyên bố chủ quyền đối với từng "nhóm đảo" riêng biệt là Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa. và Trung Sa (Trung Sa thực ra là một nhóm các thể địa lí ngầm cộng với bãi cạn Scarborough). Việt Nam yêu sách Hoàng Sa và Trường Sa trong khi Philippines yêu sách bãi cạn Scarborough và "Nhóm đảo Kalayaan", bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa. Kết quả là, các yêu sách này đang chơi một trò chơi có tổng bằng không. Không thể có thỏa hiệp: hoặc được chủ quyền đối với tất cả thể địa lí trong nhóm đảo hoặc không được gì cả.

philippines

Bức ảnh này được chụp vào ngày 29 tháng 3 năm 2014 cho thấy một tàu Hải quân Philippines đã được cho nằm măc cạn từ năm 1999 để khẳng định chủ quyền của quốc gia này đối với bãi Second Thomas (bãi Cỏ Mây), một rạn san hô xa xôi ở biển Đông mà Trung Quốc cũng yêu sách. (Jay Directo / AFP)

Kết quả là Sturm und Drang (Bão tố và Căng thẳng) trong các hành lang quyền lực và trên các đường phố bên ngoài, chi tiêu khổng lồ vào khí tài quân sự và từ chối giải quyết các vấn đề cấp bách nhất ở biển Đông, đặc biệt là sự suy sụp nguồn cá.


Giải pháp

Rất may, có một giải pháp tiềm năng cho trò chơi có tổng bằng không này, và đó là một giải pháp đã được chứng minh là thành công ở Đông Nam Á: kiên trì trình bày bằng chứng có thể xác minh được cho một tòa án trung lập.

Indonesia và Malaysia đã giải quyết tranh chấp đối với các đảo Ligitan và Sipadan thông qua Tòa án Quốc tế (ICJ) vào năm 2002.

Thích đáng hơn với tranh chấp biển Đông là việc ICJ giải quyết tranh chấp giữa Malaysia và Singapore về ba bãi đá không có người ở ở eo biển Singapore vào năm 2008. ICJ có thể ra phán quyết rằng Pedra Branca thuộc về Singapore trong khi Middle Rocks thuộc về Malaysia. mặc dù cả hai chỉ cách nhau một kilomet. Toà ra phán quyết nghiêng về Singapore đối với Pedra Branca chủ yếu vì Singapore đã thực hiện các hành động quản lí thực tế ở đó, đặc biệt là qua việc xây dựng một đèn biển trên đá này. Các thẩm phán cũng đã xác định một số phận khác cho thể địa lí thứ ba, South Ledge, vì nó ở nằm dưới mặt nước khi triều cao và do đó không phải là 'lãnh thổ'. Toà phán rằng chủ quyền chỉ có thể được giải quyết sau này, một khi hai nước đã đồng ý về ranh giới của các vùng lãnh hải của họ.

ICJ bác bỏ những khẳng định mơ hồ của Malaysia rằng Pedra Branca thuộc về Vương quốc Hồi giáo Johor “từ thời xa xưa” và thay vào đó, họ đã xem xét các bằng chứng ghi chép về việc chiếm đóng và quản lí. Sau đó, toà đã đi đến kết luận dựa trên nguyên tắc pháp lí quốc tế “à titre de souverain” - hỏi xem quốc gia nào có thể chứng minh tốt hơn rằng họ đã thực thi thẩm quyền thực tế đối với thể địa lí đó.

Với việc loại bỏ những khẳng định mơ hồ về chủ quyền “từ thời xa xưa” và việc đòi hỏi bằng chứng cụ thể về các hành động quản lí thực tế, ICJ cũng cho các bên tranh chấp biển Đông một con đường thoát khỏi bế tắc.

Dù các nguyên tắc pháp lí như thế này có nguồn gốc từ châu Âu thời trung cổ, giờ đây chúng có thể được coi là của toàn cầu. Chúng đã được sử dụng để phân xử các tranh chấp trong các bối cảnh đa dạng như biển Đỏ và Caribe cũng như ở Đông Nam Á. Hoàn toàn có thể áp dụng chúng cho tất cả các đảo nhỏ đang tranh chấp ở biển Đông.

Với việc loại bỏ những tuyên bố mơ hồ về chủ quyền “từ thời xa xưa” và việc đòi hỏi bằng chứng cụ thể về các hành vi quản lí thực tế, ICJ cũng cho các bên tranh chấp biển Đông một con đường thoát khỏi bế tắc của họ. Các chính phủ và cố vấn của họ không cần kiến thức toàn diện về mọi thời kì lịch sử biển Đông để đi tới kết luận về chủ quyền. Họ chỉ cần kiểm tra bằng chứng về các hành vi chiếm đóng và quản lí thực tế của các cơ quan nhà nước khác nhau.

pedra branca

Đá Pedra Branca vào ngày 22 tháng 5 năm 2021. (SPH Media)


Bằng chứng lịch sử

Việc số hóa và việc để mở nhiều kho lưu trữ quốc gia trong hai thập kỉ qua đã cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra lại lịch sử việc đưa ra tuyên bố chủ quyền ở biển Đông một cách chi tiết hơn nhiều so với mức khả thi trong thế kỉ XX. Bây giờ có thể đưa ra một số tuyên bố có thẩm quyền về việc ai đã làm gì và khi nào.

Nhiệm vụ đã trở nên dễ dàng hơn nhiều khi các bên tranh chấp đưa ra bằng chứng để hậu thuẫn cho các tuyên bố của họ trong phạm vi công cộng. Bây giờ chúng ta có thể đánh giá liệu một số tài liệu nhất định có ý nghĩa trong các tranh chấp chủ quyền khác nhau hay không.

Dựa trên tất cả các bằng chứng này, giờ đây chúng ta có thể nói rằng trước thế kỉ XIX không có quốc gia nào thực hiện bất kì hành động chủ quyền thực tế nào đối với bất kì đảo nào trong các đảo hiện đang tranh chấp.

Các bằng chứng lưu trữ hiện có cho thấy các hành động chiếm đóng Paracels (quần đảo Hoàng Sa) sớm nhất được tiến hành bởi Đại Việt (Việt Nam) vào năm 1816, bởi Nhà Thanh (Trung Quốc) vào năm 1909 và bởi Nhật Bản vào năm 1938.

Ở Spratlys (quần đảo Trường Sa), các hành động quản lí chính thức đầu tiên được thực hiện bởi Anh vào năm 1877, bởi Pháp vào năm 1933, bởi Nhật Bản vào năm 1939, bởi THDQ vào năm 1946, bởi Việt Nam Cộng hòa (VNCH hoặc Nam Việt Nam) vào năm 1956, bởi Cộng hòa Philippines vào năm 1970 và bởi Malaysia vào năm 1978. Việc chiếm đóng lần đầu của CHNDTH diễn ra vào năm 1988. Các yêu sách của Nhật Bản đã được từ bỏ trong Hiệp ước San Francisco năm 1951 và các yêu sách của Anh và Pháp đã được phép mất hiệu lực.

Các chính phủ đã không nắm được quyền kiểm soát hoàn toàn các thể địa lí khác nhau  trước thập niên 1970 (ở Hoàng Sa) hoặc thập niên 1980 (ở Trường Sa).

Bằng chứng có ghi chép cho thấy rõ hai điểm quan trọng. Thứ nhất, nó cho chúng ta biết rằng các nước chiếm các thể địa lí khác nhau tại các thời điểm khác nhau theo cách lộn xộn. Các quốc gia tranh nhau cài cắm người hoặc công trình trên một số đảo nhỏ, nhưng đây thường chỉ là những công việc nhất thời. Chỉ vì các quan chức đặt chân đến một thể địa lí cụ thể không có nghĩa là sau đó họ duy trì sự chiếm đóng hiệu quả đối với nó. Các chính phủ đã không nắm được quyền kiểm soát hoàn toàn các thể địa lí cho đến những năm 1970 (ở Hoàng Sa) hoặc những năm 1980 (ở Trường Sa).

Thứ hai, nó cho chúng ta biết rằng các bên tranh chấp khác nhau chưa bao giờ quản lí toàn bộ quần đảo hoặc nhóm đảo, chứ chưa nói đến toàn bộ biển Đông. Chỉ vì một hành động được thực hiện trên một đảo không có nghĩa là việc chiếm đóng hiệu quả được khẳng định trên các thể địa lí khác. Các bên yêu sách thường đưa ra những yêu sách khoa trương bằng cách xuất bản bản đồ hoặc đưa ra tuyên bố, nhưng điều này hoàn toàn khác với việc thiết lập sự chiếm đóng thực sự.

Hiểu được lịch sử này dưới ánh sáng của phán quyết ICJ về Pedra Branca sẽ mở ra một hướng đi để giải quyết các tranh chấp. Thay vì xem xét các yêu sách đối địch nhau đối với toàn bộ quần đảo, ICJ hoặc một cơ quan khác nào đó được các bên yêu sách thoả thuận, chỉ cần đưa ra kết luận về các hành động quản lí thực tế trên từng thể địa lí. Hiểu biết của chúng tôi về các tài liệu lưu trữ cho chúng tôi biết rằng những hành động này chỉ xảy ra trong thời kì hiện đại.

paracel

Ảnh vệ tinh đảo Woody (Phú Lâm) đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa ở biển Đông, được chụp vào tháng 1 năm 2017. (Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS))


Phân rã các yêu sách

Điều quan trọng là phải tách biệt các yêu sách. Cũng giống như trong trường hợp Pedra Branca, về mặt lí thuyết, có thể xem xét các tuyên bố chủ quyền của từng thể địa lí ở biển Đông một cách riêng biệt. Phải thừa nhận rằng điều này sẽ dễ dàng hơn trong một số trường hợp so với những trường hợp khác. Một số thể địa lí hoàn toàn bị cô lập nhưng tại Tizard Bank, Union Reef và North Danger Reef (cụm Song Tử), các bên tranh chấp chiếm các đảo nhỏ khác nhau trên cùng một rạn san hô lớn. Mặc dù vậy, ở đây vẫn có thể gỡ rối lịch sử của chúng.

Hãy lấy rặng san hô khổng lồ ở Tizard Bank. Pháp đã đặt một cột mốc chủ quyền trên thể địa lí nổi trên mặt nước lớn nhất của nó, đảo Itu Aba (Ba Bình), vào năm 1933. Quân đội Nhật và Pháp đều đã chiếm đóng Ba Bình trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Pháp đặt một cột mốc chủ quyền khác trên Ba Bình vào tháng 10 năm 1946 và một đoàn thám hiểm của Trung Hoa Dân Quốc cũng làm như vậy vào tháng 12 năm 1946. Trung Hoa Dân Quốc duy trì sự hiện diện thực tế trên Ba Bình cho đến tháng 5 năm 1950. Tháng 5 năm 1956, một doanh nhân Philippines, Tomas Cloma, đã cố tuyên bố chủ quyền một nhóm đảo cho riêng mình, khiến THDQ chiếm đóng lại Ba Bình. Pháp, nước vừa rời khỏi các thuộc địa Đông Dương, đã khẳng định lại yêu sách trước đó của mình đối với đảo này và sau đó cả CHNDTH và VNCH mới độc lập đưa ra những yêu sách khoa trương về chủ quyền đối với cả quần đảo Trường Sa. Tháng 8 năm 1956, Quân đội VNCH đổ bộ lên đảo Trường Sa, cách 300 km về phía Tây Nam. Năm 1962, các tàu chiến của VNCH đến thăm Nam Yết, một đảo khác trên Tizard Bank, bên kia đầm phá đối diện Ba Bình, và vào năm 1972, quân đội VNCH đã chiếm đóng thực tế nó. Năm 1974, VNCH chiếm Sand Cay (Sơn Ca) trên cùng bãi đá này. Năm 1975, quân đội VNCH bị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH hay Bắc Việt Nam) đánh đuổi khỏi cả hai đảo này. Vài ngày sau, VNCH bị chính phủ Cách mạng miền Nam Việt Nam xoá tư cách quốc gia, rồi chính phủ này sáp nhập vào VNDCCH vào năm sau đó. Năm 1988, bên tranh chấp cuối cùng là CHNDTH đến chiếm đóng đá Gaven ở đầu phía tây của bãi Tizard.

Không có quốc gia nào trong số các quốc gia có yêu sách sẵn sàng đưa các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình ra một tòa án độc lập.

Để đi tới phán quyết về chủ quyền của các thể địa lí này sẽ cần phải xem xét chi tiết cả lịch sử về chiếm đóng lẫn sự kế thừa các yêu sách từ quốc gia này sang quốc gia khác. Tòa có thể chấp nhận rằng lịch sử của đảo Nam Yết, Sơn Ca và Gaven tách biệt với lịch sử của Ba Bình không? Sự chiếm đóng lâu dài của THDQ có vượt trội hơn sự chiếm đóng ngắn hơn của Pháp không? VNCH có kế thừa yêu sách của Pháp không? VNDCCH cũng kế thừa nó không? Liệu CHNDTH có kế thừa tuyên bố của THDQ  hay vấn đề đó vẫn còn tranh cãi? Đây sẽ là những câu hỏi khó trả lời, nhưng đó là mục đích của các tòa án quốc tế và ICJ đã giải quyết những câu hỏi phức tạp không kém trong quá khứ.

Rất may, hầu hết các rạn đá tranh chấp hiện chỉ có một bên chiếm đóng thực tế, điều này sẽ giúp việc đánh giá các tuyên bố chủ quyền trở nên đơn giản hơn. Dù vậy, một số đã có những bên chiếm đóng khác trong quá khứ và tòa sẽ phải phán quyết dựa trên giá trị tương đối của các yêu sách đối địch nhau. Mỗi thể địa lí có một lịch sử khác nhau, nhưng lịch sử đó có thể biết được và đánh giá được.

itu aba

Đảo Itu Aba (Ba Bình) năm 2016. (Wikimedia)

Vai trò cho người ngoài cuộc

Không có quốc gia nào trong số các quốc gia có yêu sách sẵn sàng mang các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình ra một tòa án độc lập. Có hai lí do chính cho việc này. Thứ nhất, tất cả đều không chắc chắn về sức mạnh của các yêu sách của họ và của các đối thủ của họ. Thứ hai, họ sợ những hậu quả chính trị trong nước của việc bị thua một lập luận công khai như vậy. Ví dụ, các chính trị gia Malaysia tiếp tục tranh cãi về Pedra Branca hơn một thập kỉ sau phán quyết của ICJ.

Có một vai trò ở đây đối với các cơ quan bên ngoài. Nhóm chuyên gia (think tank), các nhà nghiên cứu, luật sư và các tổ chức có thể hoạt động như một "ICJ ảo" để tranh tụng thử các lập luận mà các chính phủ có thể đưa ra trong một phiên xử thực tế. Các chuyên gia, dù độc lập hay đảng phái, có thể thu thập bằng chứng đã được các chính phủ và những người khác đưa vào phạm vi công cộng và tìm kiếm các tài liệu bổ sung. "Tòa lối hai" (track two tribunal) này có thể mời các chính phủ nộp bằng chứng nhưng vẫn có thể tiến hành dù họ có hợp tác hay không.

Kết quả sẽ là một ma trận bằng chứng: một lịch sử chi tiết về các hành vi chủ quyền khác nhau được thực hiện trên mỗi thể địa lí được nêu tên. Các luật gia chuyên gia có thể được mời để tranh luận về giá trị của các yêu sách và đưa ra các ý kiến tư vấn về yêu sách nào là mạnh hơn. Những điều này sau đó sẽ được chuyển đến tất cả các nước có yêu sách và công bố rộng rãi. Thế giới sẽ có thể hiểu được cách giải quyết có bằng chứng và công bằng về các tranh chấp ở biển Đông có thể trông như thế nào.

Điều này sau đó gợi ra cơ sở cho một giải pháp thỏa hiệp cho các tranh chấp ở biển Đông: mỗi bên yêu sách giữ nguyên những gì mình đang chiếm giữ và từ bỏ yêu sách của mình đối với các thể địa lí khác.

Giải pháp khả thi

Dựa trên các bằng chứng lịch sử đã có trong phạm vi công cộng, có khả năng là một "ICJ ảo" như vậy sẽ thấy rằng, với một số ngoại lệ quan trọng, mô thức (pattern) chiếm đóng hiện tại ở biển Đông là mô thức hợp pháp, vì nó là mô thức duy nhất đã từng tồn tại. Hai ngoại lệ chính cho điều này là:

- Nửa phía tây của quần đảo Hoàng Sa ("Nhóm Lưỡi liềm"): do Việt Nam kiểm soát cho đến khi lực lượng của họ bị Trung Quốc đánh bật ra năm 1974

- Song Tử Tây (Southwest Cay) ở Trường Sa: do Phi Luật Tân chiếm đóng cho đến khi bị VNCH trục khỏi năm 1975

Điều này sau đó gợi ra cơ sở cho một giải pháp thỏa hiệp cho các tranh chấp ở biển Đông: mỗi bên yêu sách giữ nguyên những gì mình đang chiếm giữ và từ bỏ yêu sách của mình đối với các thể địa lí khác. Có một cái tên pháp lí cho nguyên tắc này: uti possidetis, ita possideatis - đang có thì tiếp tục giữ.

Không nước nào sẽ phải chịu nhục nhã hoặc bất lợi về mặt chiến lược khi rút khỏi bất kì thể địa lí nào mà họ hiện đang chiếm giữ. Mỗi nước chỉ đơn giản là phải thừa nhận thực tế - rằng họ sẽ không bao giờ có được tất cả các đảo đá mà họ yêu sách theo cách khoa trương.

Điều này đã được hàm chứa trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) được ASEAN và CHNDTH thông qua năm 2002. Theo Điều 5, tất cả các bên kí cam kết “tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, trong đó có việc hạn chế hành động đưa người tới sinh sống trên các đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và các thể địa lí hiện nay không có người ở và xử lí những khác biệt của chúng theo cách thức xây dựng ”.

dallas reef

Đá Dallas (Suối Cát) thuộc quần đảo Trường Sa, 1999. (Wikimedia)

Thật ra, các cam kết hiện tại về không leo thang tranh chấp và không chiếm bất kì thể địa lí không có người ở nào, đã công nhận trên thực tế (de facto) việc chiếm đóng của các nước khác. Các quốc gia sẽ không phải gánh chịu bất kì hậu quả thực tế nào qua việc biến những cam kết ngầm này thành những tuyên bố chính thức hơn. Được trang bị bằng chứng lịch sử để biện minh cho quyết định của mình, các bên tranh chấp có thể tiến lên - song phương hoặc tập thể. Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể thừa nhận ra vị trí trên thực tế của nhau và từ đó giải quyết phần Đông Nam Á của câu đố. Sau đó, họ sẽ tìm kiếm sự công nhận trên thực tế tương tự từ Trung Quốc và / hoặc Đài Loan.

Sự công nhận như vậy sẽ kết thúc bất cứ mơ tưởng nào rằng Việt Nam và Philippines có thể có một ngày lấy lại Hoàng Sa và Song Tử Tây tương ứng. Nhưng đây sẽ là một cái giá đáng phải trả nếu đền bù bằng sự ổn định trong khu vực. Đối với Việt Nam, việc thừa nhận Trung Quốc sở hữu Hoàng Sa sẽ gây đau đớn nhưng nó có thể mở ra một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về đường biên giới trên biển ở cửa Vịnh Bắc Bộ và các khu vực xa hơn về phía nam. Trên thực tế, điều này sẽ chấm dứt yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc và mở rộng các vùng biển cho hoạt động thăm dò năng lượng và đánh bắt cá của Việt Nam.

Cơ bản hơn, tất cả các chính phủ liên quan - dù độc tài hay dân chủ - sẽ cần thuyết phục công chúng của mình về giá trị của sự thỏa hiệp.


Những trở ngại cần xem xét

Tất nhiên, có nhiều khó khăn về chính trị và pháp lí cần xem xét. Một vấn đề nút thắt sẽ là số phận của "các bãi triều thấp". Phán quyết năm 2008 của ICJ về South Ledge sẽ không giúp ích được nhiều ở đây. Malaysia, Việt Nam và Trung Quốc đều đã xây dựng tiền đồn trên các thể địa lí nằm dưới mặt nước khi triều cao và do đó không được coi là lãnh thổ.

Ví dụ nghiêm trọng nhất là đá Vành Khăn, bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1994. Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài biển Đông kết luận rằng các cấu trúc khổng lồ của Trung Quốc trên đá Vành Khăn được xây dựng bất hợp pháp bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines. Hàm ý của phán quyết là các công trình kiến trúc phải được phá bỏ hoặc giao cho Philippines. Trong khi đó, sẽ không kì vọng có quốc gia nào công khai thừa nhận chủ quyền của các quốc gia khác đối với các bãi triều thấp, nhưng họ có thể thừa nhận sự hiện diện trên thực tế (de facto) theo cùng tinh thần như các cam kết khác trong DOC.

Cơ bản hơn, tất cả các chính phủ liên quan - dù độc tài hay dân chủ - sẽ cần thuyết phục công chúng của họ về giá trị của sự thỏa hiệp. Lập luận mạnh mẽ nhất của họ sẽ là thỏa hiệp là một bước cần thiết trong việc theo đuổi hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Sự đóng góp của một "ICJ ảo" hoặc "tòa lối hai" sẽ củng cố những lập luận này với bằng chứng cho tính hợp pháp lịch sử của chúng, không để lại nhiều chỗ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn giận dỗi. Khi đó, các chính phủ có thể tập trung vào số phận của nghề cá và các nguồn tài nguyên xa bờ khác. 

Không còn có thể viện cớ rằng các tranh chấp ở biển Đông là quá phức tạp để giải quyết. Các bằng chứng cần thiết được công bố công khai và các nguyên tắc pháp lí tổng quát được chấp nhận rộng rãi. Trong tình hình địa chính trị hiện nay, có động cơ rõ ràng cho các chính phủ Đông Nam Á bắt đầu tiến trình chính thức công nhận việc chiếm đóng của nhau ở quần đảo Trường Sa. Sự công nhận lẫn nhau như vậy sẽ giúp củng cố các yêu sách của riêng họ và tạo điều kiện tạo ra một vị thế đàm phán rõ ràng hơn với Trung Quốc.

Một số trường hợp sẽ khó giải quyết hơn những trường hợp khác và trình tự công nhận sẽ cần phải tính đến điều này. Các tổ chức phi chính phủ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp các chính phủ vượt qua những trở ngại và cạm bẫy có thể xảy ra và tạo ra sự hậu thuẫn cho những thỏa hiệp chính trị cần thiết.


Bài báo này được ISEAS - Viện Yusof Ishak công bố lần đầu như là Quan điểm của ISEAS 2022/25 “Làm thế nào để Giải quyết Tranh chấp biển Đông”.




Sunday, March 13, 2022

Chế độ tân phong kiến ở Nga

 Chế độ phong kiến mới giải trình


Neo-Feudalism Explained (American Interest, March-April 2011)

Vladislav L. Inozemtsev



Nhiều chuyên gia phương Tây ngày nay phát hoạ Nga như là một quốc gia đang lùi theo đường xoắn ốc về chế độ độc tài, chậm rãi (hoặc không phải là quá chậm rãi) đi theo con đường của Liên Xô mà chế độ độc tài của nó sụp đổ dưới áp lực ngày càng tăng từ một xã hội dân sự đang nổi lên.  Ý kiến phổ biến quy sự quay vòng trở lại chế độ độc tài này cho bản chất của nhóm chính trị chủ chốt (elite) hiện tại của Nga.  Các thành viên của nhóm này (như lập luận của nhiều nhà phân tích phương Tây, kể cả Ian Bremmer) xuất thân một cách không tương xứng từ cái gọi là siloviye structury (cиловые структуры – cấu trúc quyền lực), đó là cơ quan thực thi pháp luật và các cục an ninh có nguồn gốc là các cơ quan mật vụ và quân đội từ thời Liên Xô.  Các giả định này kết hợp nhau cho ra cái đang cân bằng chỉ là một biểu hiện khá lạc quan về triển vọng trung tới dài hạn của Nga: Hoặc là xã hội dân sự Nga sẽ tỉnh dậy trở lại và cứu vãn ngày tàn, như nó được cho là đã làm trong các năm 1989-1991, hoặc nhóm chủ chốt hiện tại sẽ già đi và rời khỏi sân khấu. Dù theo hướng nào, thay đổi tích cực đang ló dạng ở chân trời.


Thật không may, tất cả các giả định này là sai. Nước Nga hiện tại không phải là một ứng viên để trở thành một Liên Xô phiên bản 2.0.  Nó là một quốc gia trong đó công dân có quyền truy cập không hạn chế thông tin, sỏ hữu tài sản riêng, tự do rời khỏi hay trở về nước, và phát triển doanh nghiệp tư nhân tất cả các loại. Tất nhiên, những hạn chế nghiêm trọng trong lĩnh vực chính trị vẫn được giữ nguyên, và đất nước này, như chính Tổng thống Dmitry Medvedev mới đây cho biết, "chỉ tới một mức độ nhất định, chứ chưa hoàn toàn" đáp ứng các tiêu chuẩn dân chủ.


Rõ ràng, điều sắp xếp này − tự do kinh tế đi đôi với hạn chế chính trị  − không làm hài lòng tất cả mọi người. Đối với cách nghĩ thông thường của người Mĩ, điều đó cho thấy một cái gì đó phải bị hi sinh.  Điều này cũng là sai.  Đúng là có một số người Nga có nói lên sự không hài lòng với chế độ hiện hành và sự lạm dụng quyền lực lan tràn ở các cơ quan cảnh sát, các quan chức địa phương và các đầu sỏ chính trị gắn liền với bộ máy quan liêu. Tuy nhiên, hệ thống vẫn có vẻ vững bền một cách cơ bản.  Sức mạnh của nó bắt nguồn từ một nguyên tắc cơ bản: để cho các đối tượng giải quyết các vấn đề của họ một cách riêng lẻ sẽ dễ dàng hơn là thách thức các định chế quốc gia một cách tập thể.  Bởi vì những gì mà người phương Tây gọi là tham nhũng không phải là một tai họa của hệ thống nhưng lại là nguyên tắc cơ bản cho hoạt động bình thường của nó. Tham nhũng ở Nga là một dạng chất bôi trơn trong giao dịch khi không có bất kì một cơ chế luật định hợp pháp và được chấp nhận chung thay thế.  Các giao dịch này gộp chung lại lột tả một hình thức phong kiến mới.   Điều này không quá kinh ngạc với nhận thức lịch sử, bởi vì ít hay nhiều đó là giai đoạn mà sự phát triển kinh tế - xã hội Nga đã phải đạt tới khi nó bị đông cứng trong hơn bảy mươi năm thống trị của cộng sản. Bây giờ nó đang tan.


Hệ thống vẫn hoạt động nhưng theo cách riêng của mình.  Được xây dựng dưới thời Vladimir Putin,  "quyền lực theo chiều dọc" ở Nga cho ra một cơ chế chuyển đổi tương đối đơn giản giữa quyền lực và tiền bạc. Ở mỗi  bậc của hệ thống phân cấp này một mức độ nhất định hối lộ và chủ nghĩa địa phương ăn chia (clientelist parochialism) không chỉ được bỏ qua mà còn được ngầm chấp nhận để đổi lấy lòng trung thành vô điều kiện và dành một phần lấy được cho cấp trên của mình.  Hệ thống này dựa trên sự tự do kinh tế của các công dân, nhưng những hạn chế cẩn trọng về chính trị trên các quyền tự do này tạo ra sự giàu có của những kẻ hưởng lợi lớn nhất. Có hàng loạt các sàn và trần cho các hạn chế về tự do, do đó, nó là một chế độ phong kiến với nhiều tầng bậc hơn so với loại phong kiến cũ.  Tuy nhiên, về cơ bản nó hoạt động theo cùng một cách: kẻ yếu dâng tiền "lên", và kẻ mạnh bảo hộ "xuống."


Hệ thống này của Nga không thể tồn tại nếu không có các quyền tự do kinh tế, và đó là lí do tại sao sẽ không có hệ thống thứ hai nẩy ra từ Liên Xô cũ.  Tuy nhiên, hệ thống này hết sức lo sợ các quyền tự do chính trị, các quyền này không phù hợp với quan điểm phong kiến của nó.  Do đó, nước Nga sẽ không thể nào sớm giống như bất kì quốc gia nào ở Tây Âu hoặc Bắc Mĩ.  Nó sẽ không sụp đổ, và nó sẽ không phát triển một cách triệt để.  Nó chỉ đơn giản là nó. Và hi vọng gì cho tương lai sẽ giống như chuyện châm biếm Stalin rằng chân trời là một nơi xa xôi sẽ tiếp tục lùi xa đi khi bạn tiến tới nó.


Trong thời đại này, ngay cả một hệ thống ổn định, cứ cho là như vậy, cũng cần tiến về phía trước chỉ để ở lại tại chỗ.  Vì vậy nhiều người tin rằng sư bình thường của Nga hiện nay không thể chịu đựng được lâu. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev, người chân thành kêu gọi hiện đại hoá trong những ngày này, cho chúng ta một trong các trường hợp hiếm hoi về một đánh giá đầy đủ các mối đe dọa hiện tại. Ông dường như hiểu rằng các yếu tố đảm bảo sự ổn định của Nga không có khả năng hà hơi tiếp sức vào tinh thần sáng tạo cần để tồn tại trong thời kì hỗn loạn.  Nhưng với cái bóng của Putin lơ lửng bên trên, Medvedev không  thể thuyết phục cả nhóm thân cận bên trong của bộ máy hành chính lẫn công chúng nói chung rằng các mối đe dọa mà ông đã xác định là có thật và nguy hiểm.  Không có sự ủng hộ của họ, ông không có gì và không có nơi nào để lãnh đạo.


Trong bất kì trường hợp nào, Medvedev sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng hệ thống này không thể giữ được ổn định lâu dài, thậm chí nếu ông ta đúng khi thấy rằng nó không bao giờ có thể phát triển.  Nước Nga không phải là một chế độ độc tài nhưng là một quốc gia tương đối tự do, ở đó chế độ hiện hành cai trị theo sự đồng thuận hơn là đàn áp, và ở đó dường như không có mối đe dọa nghiêm trọng đối với chế độ.  Một hệ thống không phình trên quy mô lớn vừa đủ thích hợp với các công dân Nga so với những gì họ cho là những lựa chọn thay thế có sẵn.  Nếu bảo với họ rằng hệ thống có thể sụp đổ thì họ sẽ không hoảng loạn như người ta tưởng.  Như nhà sử học Joseph Tainter từng ghi nhận, "Những gì mà  những nhà quan sát thấy như là sự suy giảm. . . không nhất thiết là như vậy đối với phần lớn dân chúng [đối với họ] sự sụp đổ vốn không phải là  một thảm họa, mà là một quá trình tiết kiệm hợp lí cũng có thể đem lợi ích cho phần lớn dân chúng."  Suy cho cùng, ngay cả trong thời phong kiến, lãnh chúa đôi khi cũng thất bại và nông dân tham gia trong việc tái phân bố tự phát của cải.


Thậm chí còn ít liên quan đến tương lai của Nga là ý tưởng cho rằng các quan chức KGB thời Xô Viết chịu trách nhiệm về những thiếu sót của hệ thống chính trị Nga hiện tại.  Những người ủng hộ quan điểm này đã bỏ qua hai sự kiện.


Trước hết, họ quên rằng chế độ chính trị gần như độc tài:”siêu tổng thống " của Nga xuất hiện trong giai đoạn" dân chủ "giữa những năm 1990, khi Boris Yeltsin, nguyên Tổng thống lúc đó, dùng sức mạnh giải tán Quốc hội hợp pháp và thúc ép thông qua một hiến pháp mới theo đó các quyền hạn của Tổng thống không được cân bằng bởi bất kì hạn chế nào. Thật vậy, tình trạng của ông giống như Fuhrer (lãnh tụ) của nước Đức như được xác định bởi Ermächtigungsgesetz (đạo luật uỷ quyền) 23 tháng 3 năm 1933.  Sau đó, nhóm thân cận của Yeltsin  dàn dựng chiến thắng của ông trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996.  Điều đó đã làm đất nước này đi chệch khỏi con đường tự nhiên về xen kẽ quyền lực giữa các chính trị gia tự do và xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên dường như đã dẫn Đông Âu đến sự phát triển thường khoắc khoải nhưng thành công của nó trong những năm 1990 và những năm 2000. Từ đó trở đi, ý tưởng rằng "không có một thay thế" cho nhà lãnh đạo hiện tại hoặc cho người kế tục được ông lựa chọn đã trở thành một phần có tính sống còn trong chính trị Nga.  Nó chẳng có dính dáng một chút gì tới những dấu tích phân nhiệm của KGB.


Thứ hai, họ quên rằng gốc gác phục vụ trong quân đội và ngành an ninh của phần lớn nhóm chủ chốt Nga không nằm trong và tự chúng không phải là những dấu hiệu của sự suy giảm dân chủ.  Nhiều người trong số những người vốn thuộc ngành an ninh là những người có năng lực và trung thực. Những người bên ngoài nước Nga đã quên rằng, trong nhiều thập kỉ quan trọng, nhóm chủ chốt trong KGB là nhóm tiến bộ nhất trong một Liên Xô đang rệu rã.  Vấn đề thực sự không phải là vấn đề do siloviki (силовики - ngành anh ninh) gây ra nhưng do "sự lựa chọn tiêu cực" −  cách mà cả những người dân chủ cũ lẫn đối thủ của họ thu nạp thành viên mới vào tầng lớp chủ chốt.


Hiện tượng Putin phản ánh thực tế rằng các nhà lãnh đạo Nga những năm 1990 thích một viên chức bình thường không có thành tích nào đáng chú ý trở thành Tổng thống mới hơn là, chẳng hạn, những người giàu kinh nghiệm nếu không nói là hoàn hảo như Yevgeny Primakov và Yuri Luzhkov, cả hai đều được nhiều người ưa chuộng vào lúc đó.  Sự nổi lên của Putin, người chỉ mới thăng tới cấp trung tá trong thời Xô Viết và sau này trở nên nổi tiếng chỉ do những vụ  tham nhũng của mình ở hội đồng thành phố St Petersburg, đã trở thành điển hình về sự lựa chọn nhân sự vào những năm 2000.  Các quan chức không hiệu quả, thậm chí những người kém năng lực hơn được tuyển dụng vào với số hàng trăm chiếm lấy những vị trí quan trọng trong các Bộ và các ủy ban, bằng lòng với hiểu biết rằng những người xoàng xĩnh như thế không thể đua tranh hoặc dời họ đi nơi khác. Kết quả là, việc quản lí nhà nước Nga ngày nay ít chịu ảnh hưởng xấu từ một chế độ độc tài kém năng lực hơn là từ một "đầu sỏ quyền lực.”


Một vài ví dụ cũng đủ để chứng minh vấn đề “lựa chọn tiêu cực" này.  Sergei Ivanov là một gián điệp chuyên nghiệp, được phái tới London công tác vào năm 1981.  Sau vài năm, ông ta đã được chuyển tới Phần Lan (không phải như một phần thưởng cho thành tích tuyệt vời như người ta có thể tưởng), và sau đó đến Kenya, nơi mà việc làm của ông ta tạo ra một sự xoá bỏ về mặt tổng thể những gì đã đạt được của mạng lưới tình báo Nga ở phía đông châu Phi.  Giờ đây, ông ta tự hào với vai trò là Phó Thủ tướng Chính phủ trong chính phủ của ông Putin.  Hoặc hãy xem Boris Gryzlov, một kĩ sư trước đây đã trở nên nổi tiếng nhờ phát minh ra bộ lọc được cho là có thể làm sạch nước do bất kì loại ô nhiễm nào, kể cả các hạt phóng xạ.  (Một điều tra của viện Hàn lâm Khoa học Nga về các bộ lọc này cho thấy sử dụng chúng chẳng có lợi lộc gì).  Năm 2001, ông ta được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, và năm 2003 ông được "bầu” làm Chủ tịch viện Duma (Ду́ма - hạ viện), nơi ông trở thành nổi tiếng với quan điểm cho rằng: "Duma không phải là nơi thích hợp cho các cuộc tranh luận."  Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hiện tại, Anatoly Serdyukov, là giám đốc của một cửa hàng đồ nội thất cho đến năm 2000 và hầu như không phân biệt nổi một tàu khu trục với một tàu kéo.  Và danh sách cứ thế tiếp tục ...


Các quan chức như vậy thường cố gắng để che giấu sự thiếu hiểu biết của họ bằng cách kiếm lấy học vị tiến sĩ hoặc giáo sư trong khi đang đương chức. Đối với người Mĩ thật khó mà tưởng tượng ra một điều như vậy, nhưng như Serdyukov, người có bằng tốt nghiệp đại học về kinh tế rồi thông qua một chương trình giáo dục từ xa vào năm 1994 kiếm được bằng tiến sĩ kinh tế vào năm 2000 và trở thành một giáo sư thực thụ vào năm 2006 trong khi đang giữ chức Bộ trưởng Thuế vụ Nga.  Ngày nay, có 71 giáo sư trong số 450 đại biểu Duma. (Không có giáo sư nào trong Hạ viện thứ 110 của Mĩ, và chỉ có ba trong Bundestag thứ 17 của Đức.)  Đặc điểm chủ yếu nhóm chủ chốt chính trị ở Nga hiện nay là một đặc điểm về sự dốt nát hoàn toàn dưới một vỏ bọc các bằng cấp khoa học, rắc rối nếu che đậy kém. Nước Nga sẽ là quá may mắn khi được đặt dưới chế độ cai trị mật vụ.


Tuy nhiên, như nó vẫn là, những kẻ không tên tuổi tiếp tục đến từ những nơi không ai biết đạt được những thành công chưa từng có và các vị trí cấp cao.  Tất cả những gì họ thực sự có năng lực để làm là ăn cắp công quỹ, nhận hối lộ và quỳ gối trước mặt các ông chủ gần như cũng không đủ năng lực như họ.  Cho đến nay nước Nga đã nâng hiện tượng lựa chọn tiêu cực lên một tầm cao vô hình. Sư kiện này, hơn bất kì cái gì khác, giải thích thành tích không dò được của nó và cho chúng ta một cơ sở nào đó để dự báo sự tiến triển của nó.



Những hệ quả

Rõ ràng, thành phần chính trị chủ chốt hiện tại của Nga kém năng lực một cách đột biến so với tầng lớp quan chức của Liên Xô cũ thường có, nhưng những dấu hiệu của sự phi-chuyên môn hoá của nó có thể được tìm thấy trong toàn xã hội. Ngày nay, chỉ có 14% những người tốt nghiệp từ các trường đại học Nga chuyên về kĩ thuật.  Ở Đức là 29%, và ở Trung Quốc gần 42%.  Do thiếu uy tín chuyên môn, các vi trí nghề nghiệp chủ yếu được sắp xếp qua các mối quan hệ cá nhân, còn kinh nghiệm và hiệu suất thực sự không quan trọng.  Giám đốc điều hành Gazprom, Alexei Miller, không có kinh nghiệm trong kinh doanh năng lượng khi ông ta được bổ nhiệm vào vị trí đứng đầu công ti. Ngay cả khi giá khí đốt tăng cao, sản lượng của Gazprom đã giảm từ 523,2 tỉ mét khối năm 2000 xuống 461,5 tỉ trong năm 2009. Giám đốc điều hành của Rosatom, cựu Thủ tướng Sergei Kirienko, không có kinh nghiệm trong lĩnh vực hạt nhân.  Chỉ có một trong 11 lò phản ứng hạt nhân mới mà ông hứa sẽ lắp đặt ở Nga khi được bổ nhiệm vào năm 2005 được đưa vào hoạt động.


Việc phi chuyên môn hoá nước đại của giới cao cấp Nga thực sự có nghĩa là gì?  Gần đây, nó có nghĩa là việc trở thành một quan chức suốt đời là cực kì phổ biến. Đó là chỗ làm ra tiền.


Việc phi-chuyên môn hoá  ở Nga trùng hợp với lưu lượng tiền mặt dồi dào đổ vào nền kinh tế Nga, phần lớn là do giá dầu tăng cao. Thu ngân sách liên bang đã tăng từ 1,2 nghìn tỉ rúp trong năm 2001 lên 8,2 nghìn tỉ rúp trong năm 2008, và đồng rúp đã tăng so với đồng đô la Mĩ từ 29,5 xuống 24,9 rúp mỗi một đô la. Điều này cho phép bộ máy quan liêu của Nga tăng thêm số lượng của cải, nó có thể chiếm đoạt thông qua hối lộ và các nguồn lợi không chính thức khác.  Theo ước tính thực hiện bởi chuyên gia Nga hàng đầu về nạn tham nhũng, Georgyi Satarov, tổng số tiền hối lộ trong nền kinh tế Nga tăng vọt từ $ 33 tỉ đến hơn $ 400 tỉ mỗi năm trong thời Putin cầm quyền.


Hai xu hướng sâu sắc theo sau tình trạng này. Xu hướng đầu là công việc trong bộ máy chính phủ đã trở nên ngày càng hấp dẫn đối với những người trẻ tuổi không nằm trong số tốt nhất và nhanh nhạy nhất của Nga.  Độ tuổi trung bình của một đại tá cảnh sát ở Nga bây giờ là 42; trong những năm cuối cùng của thời Liên Xô cũ là 57.  Độ tuổi trung bình của một sĩ quan cảnh sát thuế vụ nhỏ hơn 33. Trong số các sinh viên tốt nghiệp của một trong các trường đại học Tây hoá nhất ở Moscow là Trường Kinh tế, 88 trong số 109 sinh viên ghi danh vào các khóa học do tôi giảng dạy trong năm 2008 mơ ước về một nghề nghiệp trong bộ máy hành chính.  Điều này có nghĩa là giai cấp cầm quyền Nga rất có khả năng ngày càng trở nên bảo thủ hơn vì nó trở nên trẻ hơn và có được học vấn nhiều hơn.  Điều này bác bỏ hoàn toàn ý niệm phổ biến trong các học giả nước ngoài, cho rằng sự lão hóa của thế hệ các nhà lãnh đạo có kinh nghiệm thực tiễn chính trị thời Liên Xô cũ có thể mở đường cho các nhà lãnh đạo trẻ hơn và phóng khoáng hơn lên nắm quyền.


Xu hướng thứ hai thậm chí còn rõ ràng hơn: tiền bạc ngày nay không những có thể được "trích ra" từ lĩnh vực phục vụ công cộng mà nó còn có thể mua các vị trí có ảnh hưởng trong nhóm chủ chốt quyền lực. Ví dụ, có hơn 49 "quan chức”  giàu triệu đô và 6 “quan chức” giàu tỉ đô ngồi trong viện Duma, và 28 “quan chức” triệu đô và 5 “quan chức”  tỉ đô trong Hội đồng Liên bang.  Ngược lại, trong 15 nước EU đầu tiên chưa từng có một triệu hay tỉ phú nào ngoài tỉ phú Silvio Berlusconi thắng được một ghế trong quốc hội.  Bởi vì viện Duma và Hội đồng Liên bang gồm các đại biểu do điện Kremlin chọn lựa, người ta chẳng cần phải căng óc để tưởng tượng những tay siêu giàu kiếm được các vị trí này bằng cách nào.  Họ dâng tiền “lên" với cả bổng lộc lẫn lòng trung thành, rồi họ được bảo hộ "xuống" − một dấu hiệu của trao đổi xã hội phong kiến.  Trong lúc đó, đa số các bộ trưởng Nga đang cố gắng thuyết phục các công dân bình thường rằng thu nhập trung bình chính thức của họ ít hơn $ 100.000 một năm.  Dù có ai tin họ hay không, không có Bộ trưởng nào mắc nợ hoặc Thống đốc nào bị phá sản ở đất nước này hiện nay.


Người ta có thể thấy hai hướng phát triển thú vị trong chính trị Nga và công việc làm ăn phát sinh từ tất cả những điều này. Hướng đầu tiên là một sự chuyển đổi đều đặn bất kì doanh nghiệp thành công nào thành lập ở Nga kể từ năm 2000 thành một doanh nghiệp bán gia đình. Trong một xã hội thiếu vắng sâu đậm lòng tin xã hội, ai mà bạn có thể tin tưởng được nếu không phải là gia đình của riêng bạn?  Chế độ gia trưởng cũng thể chế hoá như chế độ phong kiến, và, như mọi lúc, chúng hỗ trợ nhau.


Mọi người đều biết rằng những lô đất tốt nhất tại Moscow đều nằm dưới sự kiểm soát vững chắc bởi doanh nhân giàu có nhất trong nước, Yelena Baturina, người đã kết hôn với cựu Thị trưởng Moscow Yury Luzhkov kể từ năm 1991.  Điều này cũng có thể nói về nước Cộng hoà Bashkortostan, Ural Rakhimov, con trai của Tổng thống phục vụ lâu năm Murtaza Rakhimov, nắm quyền kiểm soát dầu và kinh doanh xăng dầu. Vợ của cựu Bộ trưởng Y tế và Phát triển Xã hội Mikhail Zurabov sở hữu nhiều công ti chịu trách nhiệm mua các loại dược phẩm mà sau đó được phân phát miễn phí cho những người nghèo. Đa số dược phẩm được nhà nước mua với giá cao gấp từ 3 tới 5 lần giá thị trường. Người nghèo đã được phục vụ, nhưng kẻ giàu trở nên giàu đậm hơn nhiều trong quá trình này. Có một ví dụ nào tốt hơn về việc ăn nên làm ra khi làm điều tốt theo kiểu Nga không?


Toàn bộ các gia đình đang xâm nhập vào dịch vụ của chính phủ.  Ví dụ, hãy nhìn thêm trường hợp Anatoly Serdyukov, Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ đứng đầu bởi cha vợ mình, Viktor Zubkov; hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế và Phát triển xã hội hiên nay, Tatyana Golikova là vợ của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Nga Victor Khristenko.  Có những câu chuyện còn màu sắc hơn về việc thiết lập các "triều đại cầm quyền" trong các nước cộng hòa "dân tộc".  Tại Chechnya, Ramzan Kadyrov, 29 tuổi là người kế tục trên thực tế cha mình là Akhmat, ông này bị ám sát vào năm 2004.  Dagestan kể từ tháng Hai 2010 đã nằm dưới sự cai trị của Magomedsalam Magomedov, con trai của Magomedali Magomedov, thủ lĩnh của Dagestan những năm 1983-2006. Những khuôn mẫu này được lặp đi lặp lại ở tất cả các cấp chính quyền.


Nhưng có lẽ đã đủ với những câu chuyện.  Như một người nào đó đã nói, số nhiều của các giai thoại không phải là dữ liệu.  Điều quan trọng hơn nhiều là giới chủ chốt Nga thực sự cai trị quốc gia.  Họ làm điều đó trong khi làm việc với quy tắc luật pháp thể chế hoá khả thi tối thiểu, các vụ sửa đổi luật pháp không dứt và một giả định thường trực về miễn nhiễm của quan chức.  Đã có năm cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức tại Nga kể từ ngày "độc lập" với Liên bang Xô viết − mỗi cuộc bầu cử đều diễn ra theo những quy định sửa đổi.  Viện Duma phê chuẩn gần 400 luật mới mỗi năm, nhiều gấp sáu lần Quốc hội Mĩ.  Khi đại biểu không bận rộn thông qua luật mới thì họ đi sửa đổi những luật hiện có.  Về mặt này, cũng không ổn định như những điều có vẻ như ở Washington gần đây, liệu một doanh nhân người Mĩ bình thường có thể tưởng tượng nổi một luật về thuế trong đó một điều khoản quan trọng mới được thêm vào hoặc một điều khoản cũ bị sửa đổi mỗi hai tuần hay không?


Một số luật được thông qua và một số quy định được áp đặt đơn thuần chỉ để hủy diệt một doanh nghiệp cụ thể hoặc buộc chủ sở hữu phải chuyển công ti của họ cho các ông chủ mới.  Cảnh sát thuế hoặc công tố viên cáo buộc doanh nhân có một số hành vi sai trái, buộc họ phải bán doanh nghiệp hoặc đơn giản là chạy trốn khỏi đất nước là việc diễn ra phổ biến.  Sau đó, các luật sư “nhiều kinh nghiệm hơn " dễ dàng tìm thấy nguyên nhân để tranh cãi lại các quyết định của Toà án hoặc quyết định của chính phủ, từ đó mở cửa lại doanh nghiệp cho các chủ sở hữu mới.  Tương tự như vậy, nếu một doanh nhân bị phát giác phạm tội trốn thuế, vi phạm hải quan, ông ta có thể bị truy tố, nhưng người ở Sở thuế hoặc Hải quan đã kí vào tờ kê khai thuế của ông ta vẫn được miễn tố. Trong trường hợp trốn thuế nổi tiếng nhất ở Nga, Mikhail Khodorkovsky và Platon Lebedev đều đã bị kết án tù vào năm 2005 vì đã không đóng thuế đúng hạn trong các năm 2000-2003.  Không viên chức thuế vụ nào cho là có nhiệm vụ kiểm tra tờ khai thuế bị cáo buộc sai lầm của họ đã bị trừng phạt.  Tội của Khodorkovsky và Lebedev không phải là gian lận về thuế mà là tội đang tìm cách vượt quá trần (ceiling) quy định của họ trong hệ thống tầng bậc của chủ nghĩa phong kiến.



Ai sẽ đến kế tiếp?

Như vậy nước Nga ngày nay là  một kiểu "nhà nước công ti" trong đó chính trị chỉ là một loại hình kinh doanh.  Các vấn đề chính trị được giải quyết như thể chúng là các vấn đề thương mại, và các vấn đề thương mại như thể chúng là vấn đề chính trị.  Mục tiêu quan trọng nhất của giới chủ chốt là bảo tồn một hệ thống cho phép những kẻ không có năng lực nắm quyền kiểm soát của cải của đất nước.  Việc hi vọng rằng thay đổi sẽ đến khi giai cấp cầm quyền hiện nay nghỉ hưu và những người mới thay thế họ là vô vọng.


Như vậy,nhà nước Nga sẽ thừa kế loại lãnh đạo nào?  Kinh nghiệm của thập kỉ qua cho thấy rằng thậm chí nếu hệ thống hiện tại là dễ bị tổn thương đối với nhiều áp lực bên ngoài thì các nhóm xã hội có chỗ dựa đủ rộng rãi trong nước được hưởng lợi từ hệ thống này sẽ giữ cho nó được tiếp tục. Từ trước tới giờ, nhiều người dường như sẵn sàng tham gia các nhóm này để được chia phần "của họ" với sự hi sinh, nỗ lực và rủi ro tối thiểu.  Trong những điều kiện như vậy, có nhiều cách khác nhau để thu nạp các thành viên mới vào giới chủ chốt hiện tại mà không có bất kì thách thức đáng kể nào cho quyền lực của nó.


Nhiều lính mới sẽ đến từ các trường cao đẳng và đại học Nga.  Dưới đây là một số xu hướng đứng hàng đầu gần đây.  Đầu tiên, giáo dục đại học Nga ngày nay tập trung không cân xứng vào khoa học xã hội.  Điều này tự nó không phải là điều xấu, nhưng các cán bộ giảng dạy đã lỗi thời và không xứng hợp, vì vậy chất lượng của nghiên cứu rất thấp.  Đôi khi các giáo sư và trợ giáo chỉ đơn giản cung cấp cho sinh viên tầm nhìn riêng của họ về tình hình, và những quan điểm này thường có tính ý thức hệ hoặc những biểu hiện của lòng trung thành với giai cấp cầm quyền.


Hơn nữa, một số đại diện của lớp người này chưa bao giờ giảng dạy trước đây bây giờ trở thành chủ nhiệm khoa và chủ tịch các khoa và các ban mới được thành lập với số lượng đáng ngượng.  Trong các trường đại học tốt nhất của Nga, Đại học Quốc gia Lomonosov Moscow chỉ có 17 khoa khi tôi tốt nghiệp vào năm 1989.  Bây giờ có 39 khoa, và trong số những khoa mới bạn có thể tìm thấy như Khoa Chính trị thế giới, đứng đầu là đại biểu Duma Andrey Kokoshin, Khoa Hành chính, đứng đầu bởi Giám đốc Nhân viên mới của Chính phủ Vyacheslav Volodin, trường cao đẳng truyền hình, dưới sự chủ trì của nhà bình luận bảo thủ cực đoan Vitaly Tretiakov.  Dĩ nhiên, cả ba người này đều là viên chức đảng của Đảng nước Nga Thống nhất.  Nhân đây cũng nói thêm rằng Hiệu trưởng của trường đại học này là thành viên của Hội đồng đảng nước Nga Thống nhất khu vực Moscow.


Ngoài ra, hệ thống ghi danh đã thay đổi đột biến trong những năm gần đây. Thay vì các trường cao đẳng tổ chức các kì thi, hiện nay chỉ có một kì thi quốc gia thống nhất, cho phép ngay cả những người từ các tỉnh xa với điểm cao thường có xuất xứ không rõ ràng, được truy cập dễ dàng hơn các trường cao đẳng đô thị.  Những thanh niên này, hầu như đến từ giữa hư không và với một học vấn trung học rất yếu kém, phải đua tranh với các bạn đồng lứa ở các thành phố lớn có chuẩn bị tốt hơn nhiều.  Tất nhiên, ngay lập tức họ nhận ra rằng lòng trung thành chính trị có thể giúp họ trong cuộc đua tranh bất bình đẳng này, điều này dựng ra sàn diễn cho một hình thức khác của việc đổi trao phong kiến.


Ngày nay, cũng vậy, chỉ một tỉ lệ nhỏ sinh viên có thể sống nhờ vào tiền lương của cha mẹ. Phần lớn những người trẻ tuổi đều đi làm trong khi còn đi học, và họ thường làm việc trong các công ti mới của Nga tổ chức một cách thứ bậc theo phương Tây, với các truyền thống kỉ luật và hợp  lí hóa mọi chức năng (chưa nói đến một số lượng không thể tưởng tượng được thủ tục giấy tờ).  Chủ nghĩa cơ hội trong môi trường như vậy có thể có vẻ là quá trình hợp lí duy nhất.  Vì vậy, người tốt nghiệp từ một thành phố nhỏ ở xa xôi, được dạy bởi những người không chuyên nghiệp, ấn tượng sâu sắc với sự xa hoa đô thị, và  có làm việc một vài năm trong văn phòng của một công ti sản xuất thực tế hầu như không có gì, sẽ tự thấy mình là ứng viên tốt nhất có thể có cho ngành thấp nhất của giới chủ chốt Nga mới.  Với những người ở quê ra thành như thế được hệ thống "sản xuất" với số lượng lớn hàng năm, chế độ hiện hành có thể cảm thấy khá an toàn với nhận thức rằng nó có thể hấp thu hầu như tất cả những kẻ gây rối tiềm năng.


Một dự trữ nhân sự cho giới chủ chốt có thể bắt nguồn từ hàng ngũ các cơ quan “cưỡng chế” của Nga . (Chúng ta có thể gán cho các cơ quan này nhãn “thực thi pháp luật" chỉ theo nghĩa châm biếm).  Dưới thời Putin họ trở nên mạnh mẽ và được nhân bội lên.  Ngày nay, ở đất nước này có hơn 200.000 sĩ quan quân đội chuyên nghiệp đang thực hiện nhiệm vụ.  Khoảng 1,1 triệu binh sĩ phục vụ như các nhân viên của Bộ Nội vụ, hơn 300.000 phục vụ trong Cục An ninh Liên bang, khoảng 200.000 người làm việc trong các văn phòng công tố, và khoảng 150.000 khác trong các ủy ban điều tra khác nhau. Gần như cùng một số lượng như vậy làm cảnh sát thuế và hơn 100.000 phục vụ trong Hải quan và các Sở Di trú Liên bang.  Chúng tôi sẽ không đề cập đến các tổ chức nhỏ như Cục Quản  lí phòng, chống ma tuý và nhiều tổ chức khác nữa. Tổng cộng, hơn 3,4 triệu người − gần 12% lực lượng lao động nam hoạt động − làm việc trong các tổ chức gò theo các nguyên tắc tổ chức theo chiều dọc, sự phục tùng mù quáng và tham nhũng từ gốc rễ.


Những cơ quan này rất kém hiệu quả.  Không có sự sụt giảm về số lượng tội phạm ở Nga từ 2000 tới 2009, các cuộc tấn công khủng bố ở các thành phố Nga vẫn tiếp tục, và không quá 4% các loại ma tuý buôn bán ở Nga hoặc di chuyển qua lãnh thổ Nga bị ảnh sát chặn lại.  Vì vậy, các cơ quan này tìm cách che dấu trên quy mô lớn.  Hàng năm, FSB (ФСБ, Федеральная служба безопасности - cơ quan an ninh liêng bang) báo cáo trên hàng trăm vụ tấn công khủng bố bị ngăn chặn, nhưng các báo cáo này vẫn còn phân loại mật, vì vậy chúng ta không thể xác định hiệu quả thực sự của các dịch vụ an ninh.  Lưu ý rằng khoảng 89% của tất cả các trường hợp giết người và gây tổn hại nghiêm trọng đến cơ thể đã đưa đến các toà án, trong khi đối với các tội phạm kinh tế, tỉ lệ báo cáo theo số liệu thống kê chính thức chỉ là 9,8%.  Điều này cho thấy rằng phần nhiều trong các trường hợp này cuối cùng được giải quyết qua những hợp đồng tham nhũng "thân hữu" giữa cảnh sát và các nhà doanh nghiệp.  Số tiền trung bình hối lộ cho một cảnh sát giao thông hiện nay vào khoảng 2.000 rúp (khoảng $ 70).  Để có được một công việc như "người đang làm nhiệm vụ" như vậy thường phải trả tới $ 50.000 ngay cả ở thành phố thuộc tỉnh.  Thái độ phổ biến nhất của công chúng đối với cảnh sát là không tin cậy và căm ghét.  Ngay cả trong trường hợp nổi tiếng ở làng Kuschevskaya thuộc khu vực Krasnodar, nơi có 12 người bị đâm tìm thấy vào tháng 11 năm 2010 và một băng nhóm từng khủng bố và hãm hiếp người dân địa phương hơn mười năm, nhưng không ai gọi cảnh sát cầu cứu, vì một số cảnh sát và thậm chí một vài đại biểu đảng nước Nga Thống nhất nằm trong số những kẻ tình nghi là tội phạm.  Các cơ quan "cưỡng chế" được nhồi nhét với những người trẻ tuổi không xứng đáng nhưng đầy tham vọng, là nguồn kế cận mới của tầng lớp cầm quyền Nga.


Nguồn tự nhiên nhất của tầng lớp thống trị mới, như tôi đã gợi ra, là con cháu của tầng lớp hiện tại.  Các con trai và con gái của các quan chức đứng đầu tích cực len lỏi vào các cơ quan chính phủ, cũng như vào đội ngũ nhân viên của các tập đoàn lớn sở hữu nhà nước và do nhà nước kiểm soát.  Ví dụ, Dmitry Patrushev, con trai cả của Nikolay Patrushev, Giám đốc FSB từ 1999-2008, vào tháng 5 năm 2010, ở tuổi 32, được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành ngân hàng do nhà nước kiểm soát Rosselkhozbank, lớn thứ tư ở Nga.  Sergei Matvienko, con trai của Valentina Matvienko, Thống đốc St Petersburg, bây giờ là Chủ tịch của công ti VTB-Phát triển, chi nhánh bất động sản của Ngân hàng VTB thuộc sở hữu nhà nước, và là một trong những tỉ phú trẻ nhất Nga ở tuổi 37.  Sergei Ivanov, con trai của Phó Thủ tướng đã nói ở trên, chỉ mới 25 tuổi khi được bổ nhiệm làm phó chủ tịch của ngân hàng Gazprombank, chi nhánh tài chính của Gazprom, và cứ thế tiếp tục..  Người ta có thể chắc chắn rằng con cái của các quan chức hàng đầu của Nga hiện nay sẽ chiếm ít nhất một phần ba các vị trí quan trọng trong chính phủ và quản trị trong 10 đến 15 năm nữa. Và rõ ràng là không ai trong số họ sẽ có động cơ dù nhỏ nhất để thay đổi hệ thống.  Họ sẽ phản đối mạnh mẽ bất kì thay đổi nào để họ có thể làm lợi cho con cái mình.  Họ là những bá tước trong các chế độ phong kiến mới, và con cái của họ được sinh ra trong thái ấp.


Nguồn tuyển dụng ít rõ ràng nhất đến từ chiến lược mới được xây dựng về việc kết nạp các thành viên thuộc "tầng lớp trí thức" bị bỏ dở trong những năm 1990 và trong nửa đầu những năm 2000.  Cái gọi là cộng đồng chuyên gia, bao gồm các nhà kinh tế, các nhà khoa học xã hội, các sử gia và nhà báo, đã bị gãy đổ trong nhiều năm.  Phần lớn các nhà bình luận và các nhà nghiên cứu hàng đầu vẫn đứng ngoài các nhóm chuyên gia lớn được chế độ ủng hộ.  Tuy nhiên, vẫn có thể dễ dàng tuyển dụng một phần cộng đồng này vào nhiều chương trình và sáng kiến khác nhau thuộc các loại chính phủ kiểm soát nhẹ tay hơn.  Sự cám dỗ của cơ hội được trình bày quan điểm, xuất hiện trên truyền hình, tham dự các cuộc tụ họp chính thức và có thể truy cập vào các quỹ được phân phối bởi chính quyền trung ương hoặc địa phương có thể khó cưỡng lại nổi trong điều kiện thiếu thốn các lựa chọn thay thế. Từng bước một, tầng lớp thống trị có thể giảm bớt đi bất kì đối lập có thể có nào.


Còn những người tốt nhất và lanh lợi nhất của Nga thì sao? Ho có tương lai nào trong một nước Nga tân phong kiến? Trong những năm dưới thời Putin, hơn bao giờ hết các quan chức chính phủ đã làm cho giới trẻ tự do hết sức khó khăn để tham gia vào bất kì hình thức  hoạt động phản đối hợp pháp nào.  Không có đảng chính trị mới nào chính thức đăng kí tại Liên bang Nga kể từ đầu những năm 2000 (hai đảng đã đăng kí, Chỉ nước Nga [Just Russia]và Chính nghĩa [Right Cause], đại diện chỉ cho một phân bổ của các đảng nhỏ hơn tồn tại trước đó).  Muốn tổ chức một cuộc trưng cầu đòi hỏi phải thu thập được 2.000.000 chữ kí, và thậm chí nếu yêu cầu này được đáp ứng, hầu hết các chữ kí sẽ bị tuyên bố là vô hiệu. Không một hội đồng lập pháp địa phương nào mà không bị kiểm soát bởi Đảng nước Nga thống nhất.  Cùng lúc đó, chính phủ vẫn cho phép mọi người dân được rời khỏi đất nước một cách tự do.  Đây không phải là điều tình cờ.  Quy mô của dòng chảy các chuyên gia trẻ tuổi tài năng triển vọng nhất đổ ra khỏi nước Nga gần như không thể tin được.  Không biết được các con số chính xác, nhưng các ước tính cho thấy cao đến mức 40,000-45,000 mỗi năm, và có khoảng ba triệu công dân Nga ngày nay sống ở nước ngoài ở Liên minh châu Âu.


Dòng chảy này rõ ràng làm tăng “mật độ " số người xoàng xĩnh còn lại trong nước.  Tổng thống Medvedev nhận ra xu hướng này có thể trở nên nguy hiểm như thế nào và muốn ngăn chặn việc ra đi bằng cách thiết lập các trung tâm khoa học "xuyên biên giới" như Skolkovo, có thể phát triển thành một khu của Nga tương đương với Silicon Valley. Nỗ lực này có nhiều khả năng thất bại  − trước hết vì nhà chức trách Nga hiện nay cố gắng thu hút các học giả nước ngoài và những người Nga đã rời khỏi đất nước bằng cách đề nghị trả họ mức lương rất cao, không để ý đến thực tế rằng điều này cũng có thể thu hút cả những người coi khoa học như một hoạt động thương mại hơn là một nhiệm vụ cao quý.  Andre Geim, người đã được trao giải Nobel Vật  lí năm ngoái, đã cho biết rằng ông sẽ không bao giờ trở về Nga.  Đây là một dấu hiệu rất rõ ràng về những gì đang xảy ra với đất nước này.


Tất cả điều này dẫn đến hai kết luận liên quan.  Một mặt, Nga đã xây dựng nên một hệ thống trong đó việc thực thi quyền lực nhà nước đã trở thành một doanh nghiệp độc quyền.  Hệ thống này chủ yếu được điều khiển bởi các bạn bè và đồng nghiệp của người tạo ra nó là Vladimir Putin, và được vận hành một cách trung thành bởi những kẻ mới đến cần mẫn nhất nhưng với tài cán kém cỏi nhất.  Mọi doanh nghiệp quốc gia lớn đều có liên kết với các cơ quan liên bang hoặc bị chúng kiểm soát, còn các doanh nhân địa phương vẫn phải cố gắng mặc cả với bộ máy quan liêu khu vực.  Tất cả mọi của cải mới được làm ra trong những năm 2000 đều thuộc về bạn bè của Putin và những người đã giúp ông ta xây dựng “hệ thống dọc tiêu cực” này.  Vì vậy, trong những năm sắp tới, cạnh tranh bên trong giới chủ chốt sẽ giảm xuống, chất lượng quản trị sẽ tệ hại nhiều hơn nữa, và những gì còn lại của việc quản  lí hiệu quả sẽ sụp đổ.  Tuy nhiên, thay đổi các xu thế này vẫn sẽ là một bước hoàn toàn không hợp lí đối với tầng lớp chính trị này.


Cùng lúc đó, có một nhóm xã hội rất lớn muốn tham gia hệ thống này, chứ không phải chống đối nó (trái ngược với những năm cuối cùng của Liên Xô).  Điều này cũng giống như muốn tham gia vào chương trình Ponzi ở phía dưới đáy với hi vọng rằng người ta có thể không ở lại mãi phía dưới đáy, và rằng trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ  tốt hơn so với những người còn ở bên ngoài chương trình hoàn toàn.  Khi sự phi-chuyên nghiệp hoá trong chính chính phủ đi lên (cùng với "thương mại hóa" các dịch vụ nhà nước) sự cạnh tranh giữa những kẻ không chuyên nghiệp cũng sẽ tăng lên, vì nguồn cung cấp những kẻ như thế không bao giờ bị thiếu hụt.  Vì vậy, trong tương lai, nhóm chủ chốt cầm quyền ít cạnh tranh nội bộ hơn sẽ có thể cùng nhau lựa chọn bất kì một số lượng đàn em nào.


Nhóm chủ chốt Nga về cơ bản đã "băng đảng hoá" và tư nhân hóa một trong những nước giàu nhất thế giới.  Nó rất biết ơn vì đặc quyền này đến nỗi có thể nằng nì Putin quay trở lại điện Kremlin vào năm 2012 thêm 12 năm ảm đạm nữa.  Vào lúc đó, các nhóm những người trẻ phóng khoáng mà nhiều nhà phân tích phương Tây gắn hi vọng về sự thay đổi vào họ sẽ lớn lên.  Những người xoàng xĩnh trong số đó sẽ thành một phần của hệ thống.  Không chút nghi ngờ, hầu hết những người tốt nhất trong họ sẽ không còn cư trú ở Nga nữa.