Wednesday, April 27, 2016

TẬP CẬN BÌNH LÀ AI?

TẬP CẬN BÌNH LÀ AI?

Who Is Xi? (New York Review of Books 12-5-16)

Andrew J. Nathan

(bản dịch đã đăng trên viet-studies ngày 27/04/2016)


Các công trình được điểm trong bài:

Xi Zhongxun zhuan (习仲勋传: Tập Trọng Huân Truyện) [Tiểu sử Tập Trọng Huân] Ban biên tập Tiểu sử Tập Trọng Huân, Bắc Kinh: Zhongyang Wenxian Chubanshe (Trung ương văn hiến xuất bản xã), 2 tập, 1 283 trang (2013).

Xi Jinping: Red China, the Next Generation (Tập Cận Bình: Trung Quốc đỏ, thế hệ kế)
Agnès Andresy, Đại học Mỹ, 157 tr., $ 60,00

Zoubutong de “hongse diguo zhilu” [走不通的红色帝国之路”Tẩu bất thông đích “hồng sắc đế quốc chi lộ” (Đi không thông chính là “Con đường Đế quốc đỏ”], một bài viết của Lý Vĩ Đông ( 李伟东/Li Weidong), có ở www.letscorp.net/archives/56290

China’s Future (Tương lai của Trung Quốc), David Shambaugh, Polity, 203 trang, $ 59,95.; $ 19,95 (giấy)


Hơn một nửa nhiệm kỳ 5 năm đã qua với tư cách là chủ tịch Trung Quốc và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc — dự kiến là nhiệm kỳ đầu trong ít nhất hai nhiệm kỳ— việc Tập Cận Bình đàn áp lan rộng đối với xã hội dân sự và đề cao tệ sùng bái cá nhân đã làm thất vọng nhiều nhà quan sát , cả Trung Quốc lẫn nước ngoài, vốn thấy ông ta do di sản gia đình và kinh nghiệm sống nhất định phải là một nhà cải cách tự do. Nhiều người nghĩ Tập Cận Bình tất phải hiểu được sự nguy hiểm của sự độc tài của Đảng qua kinh nghiệm gia đình ông dưới thời cai trị của Mao. Cha của ông, Tập Trọng Huân (1913-2002), đã gần như bị xử tử trong một cuộc xung đột bên trong Đảng năm 1935, đã bị thanh trừng trong một cuộc đấu khác vào năm 1962, bị “lôi ra” và chịu nhục hình trong cuộc Cách mạng Văn hóa, và đã được nới lỏng cho nghỉ hưu sau một cuộc đối đầu khác trong Đảng năm 1987. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, một chị cùng cha khác mẹ của Tập Cận Bình đã bị dày vò đến mức phải tự tử. Ngay chính Tập Cận Bình, con của một “kẻ chạy theo tư bản” bị “đưa về nông thôn” để lao động cùng với nông dân. Những khó khăn gay gắt đến mức như được thuật lại rằng ông đã cố để trốn thoát, nhưng bị bắt và đưa trở lại.

Không ngạc nhiên là sau đó cả hai cha con đều cho thấy một sự hết lòng vì công cuộc cải cách trong suốt sự nghiệp của họ. Dưới thời Đặng Tiểu Bình, ông Tập cha đã tiên phong trong cải cách mở cửa ở tỉnh Quảng Đông phía nam và đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập đặc khu kinh tế Thẩm Quyến. Năm 1987, chỉ có một mình ông trong các uỷ viên Bộ Chính trị không bỏ phiếu thanh trừng nhà lãnh đạo Đảng tự do Hồ Diệu Bang. Chàng Tập con khởi nghiệp như là một nhà quản lý khiêm tốn, thực dụng, ủng hộ tăng trưởng, lúc đầu ở vùng nông thôn và sau đó ở Phúc Kiến, Chiết Giang và Thượng Hải, ba tỉnh cởi mở với thế giới bên ngoài nhất của Trung Quốc. Trong chặng cuối cùng của hành trình leo lên quyền lực, ông đã được ưu ái chọn hơn đối thủ Bạc Hy Lai, người đã đề cao các chính sách theo kiểu cách mạng Văn hoá tại siêu đô thị Trùng Khánh.

Vì tất cả những lý do này, khi thăng tiến lên vị trí chóp bu Tập Cận Bình đã được nhiều người dự kiến sẽ theo đuổi tự do hóa chính trị và cải cách thị trường. Thay vì vậy, ông đã khôi phục rất nhiều đặc điểm nguy hiểm nhất trong cách cai trị của Mao: độc tài cá nhân, tuân thủ ý thức hệ cưỡng bức, và bức hại tùy tiện.

Chìa khóa cho nghịch lý này là việc Tập Cận Bình có vẻ tôn kính một cách phi lý Mao. Quan điểm của Tập Cận Bình về Mao lộ ra trong tiểu sử chính thức của cha ông do các học giả của Đảng biên soạn, mà tập một được xuất bản khi Tập Cận Bình gần nắm được quyền tối thượng và tập hai ra sau khi ông đã trở thành Tổng bí thư đảng và Chủ tịch nước. Mô tả việc ông Tập cha gần như bị xử tử năm 1935, cuốn sách nói rằng Mao đã cứu mạng ông ta, ra lệnh thả ông ra với nhận xét rằng đầu không giống như hành lá: nếu cắt ra nó sẽ không mọc trở lại. Mao sau đó đề cử Tập Trọng Huân làm một quan chức ở Diên An và sau năm 1949 làm quan chức hàng chóp bu ở Bắc Kinh.

Đối với việc thanh trừng Tập Trọng Huân năm 1962, cuốn tiểu sử đổ lỗi cho Khang Sinh (康生/Kang Sheng), trưởng mật vụ của Mao, chứ không phải là cho chính Mao, và cho rằng Mao đã bảo vệ Tập Trọng Huân bằng cách đưa ông ta đến làm việc tại một nhà máy ở tỉnh an toàn cách xa khỏi cơn bão chính trị ở Bắc Kinh. Khi cuộc Cách mạng văn hóa nổ ra một vài năm sau đó và Hồng vệ binh “lôi” Tập Trọng Huân ra khỏi việc làm ở nhà máy này để hành hạ thể xác và “đấu tranh”, cuốn tiểu sử nói rằng thủ tướng Chu Ân Lai đã cho giam họ Tập trong một doanh trại quân đội gần Bắc Kinh như một cách để bảo vệ ông ta. Không nghi ngờ những câu chuyện này được xoa nắn lại để trình bày Mao theo cách Tập Cận Bình muốn ông ta được thấy. Nhưng chúng có căn cứ trong thực tế lịch sử và giúp giải thích sự phức tạp của mối quan hệ của Tập Cận Bình với di sản của Mao. Như Tập Cận Bình nói mấy năm sau, “Nếu Mao không cứu cha tôi thì tôi không có mặt ở đây ngày hôm nay.”

Việc Tập Cận Bình tôn thờ Mao không phải là điều dị thường riêng lẻ. Nó cũng được nhiều người trong giới quý tộc cộng sản kế thừa chia sẻ mà họ, như Agnès Andresy chỉ ra trong cuốn sách về Tập Cận Bình, vốn hình thành nên hầu hết lãnh đạo chóp bu cũng như phần lớn giới chủ chốt doanh nghiệp của Trung Quốc hiện nay. Hồi năm 1981 Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng công của Mao vượt hơn tội (trong một ý kiến không chính thức) theo“tỉ lệ 7 trên 3.” Nhưng trong thực tiễn Đặng Tiểu Bình từ bỏ gần như mọi thứ mà Mao cổ vũ. Trái ngược với sự đồng thuận của phương Tây rằng Đặng Tiểu Bình đã cứu hệ thống sau khi  gần như bị Mao làm chìm, Tập Cận Bình và rất nhiều quý tộc đỏ khác cảm thấy rằng chính Đặng Tiểu Bình đã đi gần đến chỗ huỷ diệt di sản của Mao.

Việc họ tôn thờ Mao khác biệt với những hoài niệm đơn giản của cựu các Hồng vệ binh và các thanh niên được phái xuống vốn nhớ mơ hồ về một giai đoạn của chủ nghĩa lý tưởng chưa trưởng thành. Thay vì vậy, như nhà tư tưởng ủng hộ dân chủ Lý Vĩ Đông (李伟东/Li Weidong) viết trong một bài tiểu luận trên mạng nhiều bàn luận, “Đi không thông là 'Con đường của Đế quốc Đỏ’”, con cái của các công thần sáng lập tự coi mình là người thừa kế “thiên hạ“, một thế giới rộng lớn mà cha mẹ họ đã chinh phục dưới sự lãnh đạo của Mao. Cha mẹ họ có gốc gác ở các vùng nông thôn nghèo nàn và đứng lên cai trị một đế chế. Thế hệ thứ hai hưởng đặc quyền sống trong một đất nước vốn đã “vươn dậy” và được toàn cầu tôn trọng và nể sợ. Họ không trù định làm thế hệ “đánh mất đế quốc.”

Chính logic này đã thúc đẩy Lưu Nguyên (刘源/Liu Yuan), con trai cựu chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, người bị Mao thanh trừng và đưa đến một cái chết đau khổ, hậu thuẫn Tập Cận Bình trong việc làm sống lại các ý tưởng và các biểu tượng của Mao; và cũng logic này đã chuyển con cái của nhiều nạn nhân nổi bật khác của Mao hình thành nên các nhóm tôn vinh di sản của Mao, như Hiệp hội con cái của Diên An Bắc Kinh và Hiệp hội đề cao văn hóa của những nhà sáng lập Quốc gia Bắc Kinh.[i]

Các thái tử đảng dường như đầu tư ý nghĩa sinh học theo nghĩa đen trong “huyết thống luận” về sự tinh khiết chính trị vốn phổ biến trong giới chủ chốt con cái các Hồng vệ binh trong cuộc Cách mạng văn hóa: “Nếu cha là anh hùng con sẽ là hảo hán, nếu cha là phản động con sẽ là trứng thối” (老子英雄儿好汉,老子反动儿混蛋/laozi yingxiong er haohan, laozi fandong er huaidan: Lão tử anh hùng nhân hảo hán, lão tử phản động nhân hỗn đản). Họ không thấy có chút mai mỉa khi cổ vũ Tập Cận Bình tấn công các quan chức tham nhũng dù Mao đã thanh trừng chính cha mẹ họ như là những “kẻ chạy theo tư bản nắm quyền lực.” Họ bào chữa rằng việc thanh trừng của Mao là một sai sót. Nhưng họ thấy các quan chức hiện nay đổ vào phục vụ Đảng là vì đảng đang nắm quyền lực chứ không phải vì họ được thừa hưởng tinh thần hy sinh cách mạng từ cha ông. Bọn cơ hội đó là sâu mọc đang ăn mòn di sản cách mạng.

Di sản của Mao cũng đang bị các thế lực khác đe dọa. Tập Cận Bình nắm quyền vào một thời điểm mà chế độ phải đối đầu với một loạt các thách thức gay gắt vốn đều đạt đến giai đoạn nguy cấp cùng một lúc. Chế độ phải quản lý một nền kinh tế chậm lại; phải xoa dịu hàng triệu công nhân bị sa thải; phải chuyển nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu sang tiêu thụ trong nước; phải xốc các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ hoạt động kém hiệu quả nên hình; phải xua tan một đống các khoản vay ngân hàng xấu khủng và các khoản đầu tư không hiệu quả đang treo lơ lửng; phải cải thiện tình trạng biến đổi khí hậu và sự tàn phá môi trường vốn làm lớp trung lưu mới khó chịu; và phải giảm quy mô và nâng cấp quân đội. Về mặt quốc tế, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc thấy chính mình bị buộc phải đáp ứngmột cách quả quyết áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, và các chế độ Đông Nam Á khác nhau đang cố gắng chống lại việc bảo vệ chính đáng của Trung Quốc đối với các lợi ích ở những nơi như Đài Loan, quần đảo Senkaku, và biển Đông.

Lãnh đạo nào đối mặt với rất nhiều vấn đề lớn phải cần rất nhiều quyền lực, và Mao cung cấp một mô hình về cách mà quyền lực như thế có thể được nắm giữ. Tập Cận Bình lãnh đạo Đảng, Nhà nước, và hệ thống thứ bậc quân sự qua vị trí chủ tịch ở mỗi tổ chức này. Nhưng hai người tiền nhiệm liền trước của ông, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, thực hiện các vai trò này trong hệ thống lãnh đạo tập thể, trong đó mỗi uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị phụ trách một chính sách hay tổ chức cụ thể và hướng dẫn nó mà không có sự can thiệp nhiều từ các quan chức cấp cao khác.

Mô hình này không tạo ra quyền lãnh đạo đủ quyết định để đáp ứng Tập Cận Bình và những kẻ ủng hộ ông. Vì vậy, Tập Cận Bình đã phải cho các uỷ viên khác của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, đứng bên lề ngoại trừ trưởng ban tuyên truyền Lưu Vân Sơn (刘云山/Liu Yunshan) và Trưởng ban giám sát chống tham nhũng Vương Kỳ Sơn (王岐山/Wang Qishan). Ông đã nắm vị trí chủ tịch của 7 tổ quan trọng nhất trong 22 “tổ lãnh đạo” chỉ đạo chính sách trong các lĩnh vực cụ thể, bao gồm Tổ lãnh đạo đào sâu cải cách toàn diện trung ương mới thành lập, tổ này đã loại Thủ tướng Lý Khắc Cường ra khỏi việc quản lý kinh tế. Và Tập Cận Bình đã lập ra Hội đồng An ninh Quốc gia để điều phối các vấn đề an ninh nội bộ.

Tập Cận Bình mô phỏng Mao trong việc thực hiện quyền lực thông qua một nhóm thân cận các trợ lý mà ông có thể tin cậy do họ đã chứng tỏ lòng trung thành cá nhân của họ trong những giai đoạn đầu tiên trong sự nghiệp của ông, chẳng hạn như Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), chủ nhiệm tổng văn phòng của Ủy ban Trung ương ĐCSTQ đầy quyền lực. Như học giả Lý Thành (Cheng Li) nêu trong China Leadership Monitor, Lật Chiến Thư công bố một bài báo hồi tháng 9 năm 2014, nói rằng làm việc như một trợ lý trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi “sự trung thành tuyệt đối” và rằng nhân viên trong tổng văn phòng “nên hành động và suy nghĩ theo cách phù hợp cao nhất... với các đơn đặt hàng từ Uỷ ban Trung ương do Tổng Bí thư Tập Cận Bình lãnh đạo.”[ii] Những người được Tập Cận Bình bảo trợ chiếm các vị trí trọng yếu trong bộ máy phụ trách về an ninh, giám sát công việc các quan chức, và tuyên truyền. Không giống như các nhân viên nhiều quyền lực trong chính quyền trước đây, các trợ lý của ông tránh tiếp xúc với người nước ngoài và thậm chí với các quan chức bên ngoài nhóm riêng của Tập Cận Bình.

Tập Cận Bình cũng đi theo mô hình của Mao trong việc bảo vệ quyền cai trị của mình chống lại đảo chính. Chiến dịch chống tham nhũng đã làm cho ông có rất nhiều kẻ thù, và đã có nhiều tin đồn về các âm mưu ám sát. Tuy nhiên, như James Mulvenon và Cheng Li đã chỉ ra, tương ứng, Tập Cận Bình đã thắt chặt kiểm soát trực tiếp quân đội qua cái gọi là “Chủ tịch Phụ trách chế [Quân ủy Trung ương]”, và ông kiểm soát quân đoàn bảo vệ trung ương – chịu trách nhiệm theo dõi sự an toàn của tất cả các lãnh đạo — thông qua vệ sĩ trưởng lâu năm, Vương Thiếu Quân (Wang Shaojun).[iii] Theo những cách này Tập Cận Bình kiểm soát môi trường thực tế của các lãnh đạo khác, cũng giống như Mao đã làm thông qua thuộc hạ trung thành Uông Đông Hưng.

Tập Cận Bình truyền sự tự tin kiểu Napoleon vào tầm quan trọng của nhiệm vụ của ông và sự thành công tất yếu của nó. Trong giao tiếp cá nhân ông được cho là niềm nở và thoải mái. Nhưng tính cách công cộng được chăm chút cẩn thận của ông lại đi theo Mao trong việc thể hiện sự có mặt dửng dưng và vẻ mặt bất động mà việc đó dường như để truyền dẫn sự chịu đựng hoặc sự khó xiêu lòng, tùy thuộc vào việc ông đang ngồi nghe một phát biểu nhàm chán hoặc đang đưa ra một phát biểu. Các cơ quan tuyên truyền cố sức để tạo ra một hình ảnh “Bố Tập” thấy muốn ôm ghì vào, và Tập Cận Bình có vẻ thực sự được công chúng ngưỡng mộ, mặc dù điều này đã thay đổi khi nền kinh tế chậm lại.[iv] Nhưng chiến dịch chống tham nhũng ảnh hưởng đến rất nhiều người của ông còn đang tiếp tục, giới chủ chốt trong quan chức và trí thức hàng đầu đọc biểu hiện của ông như là bí hiểm và đáng sợ.

Trên hết, Tập Cận Bình đã theo Mao trong đòi hỏi tuân thủ về ý thức hệ. Ông đã viện dẫn “Bài nói tại Diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật” của Mao trong việc giải thích lý do tại sao văn hóa và nhân viên truyền thông phải thể hiện “tính Đảng” và phục vụ như là “miệng lưỡi” của Đảng và đã sử dụng nghị quyết mà Mao đã viết cho của Hội nghị Đảng ở Cổ Điền (古田/Gutian) năm 1929 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Đảng kiểm soát của quân đội. Ông đã cảnh báo các đảng viên chống lại việc “bàn luận vô trách nhiệm” (枉议/wangyi: uổng nghị) và các học giả chống lại các “giá trị phổ quát.”Như David Shambaugh báo cáo trong cuốn sách gần đây của ông China’s Future (Tương lai của Trung Quốc):

Hiện đã có một chiến dịch đàn áp không ngừng đối với tất cả các dạng bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động xã hội; Internet và các phương tiện truyền thông xã hội đã phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn; thánh giá và nhà thờ bị phá hủy; người Duy Ngô Nhĩ và người Tây Tạng bị bức hại ngày càng lớn hơn; hàng trăm luật sư nhân quyền đã bị bắt giữ và đưa ra xét xử; tụ họp công cộng bị hạn chế; nhiều loại ấn phẩm bị kiểm duyệt; sách giáo khoa nước ngoài bị chính thức bị cấm ở các lớp học đại học; trí thức bị đặt  dưới sự giám sát chặt chẽ; các tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài và trong nước đã chịu áp lực điều tiết của chính phủ chưa từng có và nhiều tổ chức đã bị buộc phải rời khỏi Trung Quốc; các cuộc tấn công vào các “thế lực thù địch nước ngoài” diễn ra đều đặn; và bộ máy an ninh “duy trì sự ổn định” đã che kín toàn đất nước .... Trung Quốc hiện nay hà khắc hơn bất cứ lúc nào kể từ thời kỳ sau Thiên An Môn 1989-1992.

Nhưng Tập Cận Bình khác với Mao theo những cách quan trọng. Ông có thông tin chính xác hơn Mao, nhờ hệ thống tình báo và phân tích mở rộng, có tổ chức, và chuyên nghiệp, và nhờ vào những gì ông đã thu thập được trong chuyến đi trong nước và ra nước ngoài. Ông dùng kiểu toà án nội bộ Đảng và kết tội tham nhũng hơn là hò hét Hồng vệ binh và cáo buộc xét lại để thanh trừng đối thủ, và dùng công an chính trị hơn là phong trào quần chúng để đàn áp bất đồng chính kiến. Mao là một nhà tư tưởng và tác giả văn học; Tập Cận Bình có những ý tưởng tầm thường nhưng có chủ ý và phù hợp hơn trong việc ra quyết định. Thói quen cá nhân của ông có vẻ có trật tự so với cung cách hỗn loạn của Mao trong việc tiêu dùng thời gian. Sau cuộc hôn nhân thất bại ngắn ngủi đầu, Tập Cận Bình lập gia đình ổn định với Bành Lệ Viên (彭丽媛/Peng Liyuan), một ca sĩ nổi tiếng khởi nghiệp trong quân đội. Quan hệ của họ có vẻ theo ước lệ nhàm chán; thậm chí ở thành phố Bắc Kinh đầy tin đồn không có gì nổi lên cho thấy rằng ông là một kẻ ham thích sắc dục như Mao. (Cũng không có những tin đồn tạo ra những cáo buộc rằng cá nhân Tập Cận Bình là tham nhũng, mặc dù Bloomberg News cho thấy chị và anh rể của ông đã làm ra rất nhiều tiền.[v])

Và Tập Cận Bình không là nhà cách mạng. Ông không hề tìm cách đảo lộn Trung Quốc cũng không quay ngược đồng hồ trở lại thời công xã nông thôn và nền kinh tế kế hoạch. Thay vào đó, ông tuyên bố, không được phép phủ nhận “hai thời kỳ ba mươi năm” ”— tức là kỷ nguyên của Mao và thời kỳ cải cách hậu Mao sau đó. Trung Quốc phải kết hợp sự vững chắc của chủ nghĩa Mao với cải cách hiện đại hóa.

Tuy nhiên, cải cách mà ông có trong đầu khác với những gì nhiều nhà quan sát, cả Trung Quốc lẫn phương Tây, mong muốn. Sau khi tiến lên vị trí quyền lực, tuyên ngôn chính sách đầu tiên do chế độ của ông đưa ra nêu rằng “thị trường nên đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực,” nhưng đã trở nên rõ ràng rằng các lực lượng thị trường được dùng có chủ ý như là một công cụ để thêm sinh lực hơn là để huỷ diệt, các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước “vô địch quốc gia” tiếp tục được hưởng sự bảo trợ của nhà nước và chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Tập Cận Bình hiểu những tổ chức này là trụ cột của quyền lực nhà nước và sẽ không bao giờ giao quyền kiểm soát nền kinh tế cho các doanh nghiệp mà Đảng không kiểm soát.

Tập Cận Bình muốn “cai trị bằng pháp luật”, nhưng điều này có nghĩa là sử dụng các tòa án một cách tích cực để thực hiện việc đàn áp chính trị và thay đổi phong cách làm việc của bộ máy quan chức. Ông muốn cải tổ các trường đại học, không phải để tạo sự tự do học thuật kiểu phương Tây nhưng để đưa các học giả và sinh viên vào vòng kiểm soát (kể cả những người nghiên cứu ở nước ngoài). Ông đã phát động tổ chức lại toàn diện của quân đội, điều này một phần có ý định là để làm cho nó hiệu quả hơn trong chiến đấu, nhưng cũng để tái khẳng định lòng trung thành của quân đội với Đảng và cá nhân ông. Mục đích tổng thể của cải cách là để giữ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn nắm quyền lực.

Mục tiêu mà Tập Cận Bình nêu ra cho Trung Quốc là đạt được “một xã hội khá giả vừa” (小康社会/xiaokang shehui: tiểu khang xã hội) vào dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày thành lập Đảng vào năm 2021, và “một xã hội hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa” (社会主义现代化社会/shehuizhuyi xiandaihua shehui: xã hội chủ nghĩa hiện đại hoá xã hội) vào dịp kỷ niệm lần thứ 100 thành lập ngày thành lập nước CHNDTH Quốc vào năm 2049.

Những mục tiêu này nghe có vẻ khiêm tốn nhưng táo bạo. Mục tiêu cho năm 2049 được nói là bao hàm một mức GDP bình quân đầu người là US$ 30,000, và các nhà hoạch định Trung Quốc ước tính rằng nếu đạt được mục tiêu đó thì Trung Quốc sẽ tạo ra hơn 30 % GDP của thế giới trong năm đó, vào khoảng một lần rưởi hơn so với tỷ lệ do Hoa Kỳ tạo ra hiện nay. Điều đó sẽ tạo ra một quyền lực toàn cầu rất lớn. Tuy nhiên, năm 2049 vẫn là một chặng đường dài. Còn bây giờ, Tập Cận Bình sẽ không ngần ngại phản công nếu ông tin rằng “lợi ích cốt lõi” của nước này xung quanh ngoại vi của nó đang bị đe dọa, nhưng ưu tiên của ông về cơ bản vẫn là trong nước.

Tập Cận Bình đã tự làm mình mạnh mẽ hơn Đặng hay thậm chí Mao trong một số cách. Dù Đặng là người có kết luận cuối cùng về các vấn đề chính sách khó, nhưng ông ta vẫn cố gắng để tránh can dự vào chính sách hàng ngày, và khi bị buộc phải đưa ra những quyết định lớn thì trước hết ông tìm sự đồng thuận trong một nhóm nhỏ các lãnh đạo cấp cao. Mao có thể đưa ra bất kỳ quyết định nào mà ông muốn bất chấp ý chí của các lãnh đạo cấp cao khác, nhưng vào mỗi lúc ông chỉ chú ý đến một vài vấn đề. Tập Cận Bình có vẻ đang điều khiển trọn một loạt chính sách quan trọng hàng ngày mà không cần tham khảo ý kiến các lãnh đạo cấp cao khác hoặc các bậc lão thành về hưu.

Ông ta thậm chí có thể đi xa hơn nữa. Có những chỉ dấu gợi rằng ông sẽ tìm cách phá vỡ hạn định hai nhiệm kỳ 5 năm nắm quyền mới được thiết lập và sẽ ngồi tiếp một hoặc thậm chí nhiều nhiệm kỳ nữa. Ông đã tự chỉ định mình là “cốt lõi” của ban lãnh đạo, một địa vị mà Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm liền trước đã không nắm lấy cho mình. Tại thời điểm này trong nhiệm kỳ đầu lãnh đạo chúng ta mong thấy một hoặc hai chính trị gia trẻ tuổi mới nổi như người thừa kế tiềm năng hiện ra, và sẽ được tấn phong trong Đại hội Đảng 19 năm tới, nhưng chưa thấy có những dấu hiệu như vậy. Một trong những tin đồn lan truyền ở Bắc Kinh là các đội biên tập viên đang biên soạn một cuốn sách về “tư tưởng” (sixiang/思想) của Tập Cận Bình, việc này sẽ đặt ông ta lên ngang hàng với Mao như một người đóng góp cho lý thuyết Marxist của Trung Quốc, một địa vị mà chưa có người kế nhiệm nào của Mao tới giờ nhận lấy.

Việc Tập Cận Bình chú tâm vào quyền lực đặt ra mối nguy hiểm lớn cho Trung Quốc. Không ai nói lên điều đó tốt hơn Đặng Tiểu Bình, trong bài phát biểu, “về việc Cải cách hệ thống Lãnh đạo Đảng và Nhà nước,” đưa ra vào ngày 18 tháng 8 năm 1980:

Quá chú tâm vào quyền lực có khả năng làm nẩy ra quy tắc tùy ý của cá nhân với cái giá phải trả cho lãnh đạo tập thể, và nó là một nguyên nhân quan trọng của bộ máy quan chức trong tình cảnh hiện tại ... . Kiến thức, kinh nghiệm và năng lượng của bất cứ ai cũng đều có hạn. Nếu một người nắm giữ quá nhiều vị trí cùng một lúc thì khó có thể hiểu thấu hết các vấn đề trong công việc của mình và quan trọng hơn, sẽ ngán đường các đồng chí thích hợp hơn nắm các vị trí lãnh đạo.

Chính để tránh những vấn đề này mà Đặng Tiểu Bình đã xây dựng một hệ thống các chuẩn mực ngầm theo đó các lãnh đạo cao cấp bị giới hạn chỉ hai nhiệm kỳ, các uỷ viên ban Thường vụ Bộ Chính trị phân chia các vai trò lãnh đạo với nhau, và các nhà lãnh đạo cấp cao đưa ra quyết định có tham khảo ý kiến với các nhà lãnh đạo khác và những bậc lão thành đã về hưu.

Với việc đảo lộn hệ thống của Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình đang treo sự sống còn của chế độ vào khả năng của ông trong việc chịu một khối lượng công việc khổng lồ và không phạm sai lầm lớn. Ông dường như đang dọa các phương tiện truyền thông đại chúng và các quan chức ngoài nhóm thân cận không được nói với ông sự thật. Ông đang cố kìm nén sự đa dạng ngày càng tăng của các lực lượng xã hội và trí thức đang trên đà phát triển mạnh hơn. Ông có thể đang phá vỡ, thay vì xây dựng nên sự đồng thuận trong giới chủ chốt kinh tế và trí thức cũng như giới lãnh đạo chính trị về con đường phát triển của Trung Quốc. Với việc chỉ đạo khởi tố tham nhũng Chu Vĩnh Khang, cựu uỷ viên ban Thường vụ Bộ Chính trị về hưu, cùng với thuộc hạ của các quan chức cấp cao đã nghỉ hưu khác, ông đã phá vỡ quy tắc rằng các lãnh đạo về hưu sẽ an toàn một khi rời khỏi chức vụ, làm dấy lên câu hỏi liệu ông sẽ có thể an toàn khi rời khỏi chức vụ không. Khi ông tách khỏi con đường của Đặng Tiểu Bình, ông có nguy cơ phá hoại khả năng thích ứng và khả năng phục hồi mà những cải cách của Đặng Tiểu Bình đã gian khổ tạo ra cho chế độ hậu Mao.

Khi các thành viên của nhóm quý tộc đỏ quanh Tập Cận Bình bọc quanh các toa xe của họ để bảo vệ chế độ, một số công dân thu mình vào việc sùng bái tôn giáo hoặc tiêu dùng cá nhân, những người khác thì gửi tiền của và con cái ra nước ngoài, và một cảm giác sắp xảy ra khủng hoảng đang lan tỏa khắp xã hội. Không ngạc nhiên là chế độ của Tập Cận Bình hành xử như thể nó phải đối mặt với một đe dọa đang hiển hiện. Với sức mạnh và nguồn lực mà ông điều khiển, sẽ là liều lĩnh để dự đoán rằng nỗ lực củng cố sự cai trị độc tài của ông sẽ thất bại. Nhưng nỗ lực này có nguy cơ tạo ra chính cuộc khủng hoảng chính trị mà nó tìm cách ngăn ngừa.





[ii] Cheng Li, “Tập Cận Bình Jinping’s Inner Circle (Part 4: The Mishu Cluster I),” China Leadership Monitor, số 46 (Đông 2015).
[iii] James Mulvenon, “The Yuan Stops Here: Tập Cận Bình Jinping and the ‘CMC Chairman Responsibility System,”, và Cheng LiTập Cận Bình Jinping’s Inner Circle (Part 5: The Mishu Cluster II),” China Leadership Monitor, số 47 (Hè 2015).
[iv] Từ Xi Dada (习大大: Tập đại đại) sử dụng chữ “đại”.” Trong môt số tiếng địa phương nó có nghĩa là cha, ông, hoặc chú Tập Cận Bình.
[v] Xem “Xi Jinping Millionaire Relations Reveal Fortunes of Elite,” Bloomberg News, ngày 29 tháng 6, 2012.

Sunday, April 10, 2016

Bia chủ quyền xưa của TQ ở biển Đông: Nguỵ tạo bằng chứng có chủ trương

KHẢO CỔ VÀ YÊU NƯỚC: CHIẾN LƯỢC DÀI HẠN CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG[1]




François-Xavier Bonnet


 (bản dịch đã đăng trên Tuổi trẻ ngày 10/04/2016 có rút gọn đôi chút)


 "Nghệ thuật tuyệt đỉnh của chiến tranh là  chinh phục kẻ thù mà không phải đánh," Tôn Tử.

"Điều hay tuyệt đỉnh là phá vở sự kháng cự của địch mà không cần phải đánh," Tôn Tử.


Tóm tắt :

Nhiều tác giả viết về yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa nêu thời gian phái đoàn Trung Quốc chính thức đầu tiên tới quần đảo này là năm 1902. Tuy nhiên, không ai trong số những tác giả đó có thể đưa ra bất kì tài liệu nào về việc diễn ra.chuyến đi này. Trên thực tế,tư liệu của Trung Quốc lại cho thấy chuyến đi đó chẳng hề xảy ra. Thay vào đó là một chuyến đi bí mật xảy ra nhiều thập kỉ sau đó để cấy bằng chứng khảo cổ giả trên các đảo này để củng cố yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Mưu chước tương tự cũng đã được áp dụng ở quần đảo Trường Sa: các bia chủ quyền năm 1946 trên thực tế đã được đặt sau đó 10 năm, vào năm 1956.


Giới thiệu :

Giáo sư Marwyn Samuels, trong cuốn sách nổi tiếng của ông "Contest for the South China Sea” (Cuộc thi thố vì biển Đông) đã trách cứ học giả phương Tây nào nói phái đoàn Trung Quốc đầu tiên tới quần đảo Hoàng Sa xảy ra năm 1909. Thay vì vậy, ông khẳng định rằng chuyến đi đầu tiên này diễn ra vào năm 1902. Theo Samuels, chuyến đi thẩm tra đầu tiên này do Đề đốc Lí Chuẩn chỉ huy và là nỗ lực đầu tiên để thực hiện công ước Pháp - Thanh  1887, khẳng định quyền của Trung Quốc đối với các đảo này.[2] Kể từ công trình khai phá này của Samuels, việc dẫn sự kiện ‘không thể tranh cãi’ đó vào các sách báo liên quan đến các tranh chấp ở biển Đông đã biến thành chuyện thông thường. Tuy nhiên, không ai trong số các tác giả sau này có thể chứng minh đuợc nhận định này.


Chiến dịch khảo cổ thập niên 1970 và chuyện kể truờng thiên:

Từ năm 1974 đến 1979, số cuộc khảo cổ đã được quân đội Trung Quốc (PLA) và các nhà khảo cổ học tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa. Trong số các hiện vật mà những đoàn khảo cổ tìm được là đồ sứ thuộc các thời kì khác nhau, phế tích của chùa miếu và một số bia/mốc chủ quyền. Những bia này đề năm 1902, 1912 và 1921. Năm 1973, tạp chí Thập kỉ 70 (七十年代:Thất thập niên đại) ở Hong Kong,, đã đăng ảnh một bia chủ quyền khắc năm 1902 được tìm thấy trên một đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa.[3] Báo Hong Kong Standard (香港郵: Hương Cảng bưu báo) tuờng thuật những phát hiện ngày 6 tháng 3 năm 1979 trong một bài báo có tựa đề "Bia chứng minh cho chủ quyền xa xưa." Cả hai bài báo này, đều có đăng ảnh một bia năm 1902, đã trở thành nguồn thông tin duy nhất vế chuyến đi “không thể chối cãi" năm 1902 cho các học giả như Hungdau Chiu và Choon-ho Park và Marwyn Samuels vào năm 1982. Trước năm 1979, không học giả phương Tây hay Trung Quốc nào có đề cập đến sự tồn tại của chuyến đi năm 1902. Chuyến đi chính thức có ghi nhận trong lịch sử nhà Thanh là chuyến thẩm tra của Đề đốc Lí Chuẩn năm 1909.


Chuyến đi ‘ma’ trong quần đảo Hoàng Sa:

Có một lí do đơn giản vì sao không một học giả nào có thể tìm ra được tài liệu lịch sử nào về chuyến đi năm 1902: nó chẳng hề xảy ra. Thay vào đó bằng chứng về chuyến đi năm 1902 đã được nguỵ tạo ra muộn hơn nhiều: năm 1937.

Tháng 6 năm 1937, truởng khu hành chánh 9 của Trung Quốc, Hoàng Cuờng (黄强/Huang Qiang), đã được phái đến quần đảo Hoàng Sa với hai nhiệm vụ: Một là kiểm tra các báo cáo rằng người Nhật đã xâm chiếm các đảo này và hai là tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với chúng. Theo các hồ sơ về chuyến công tác này của ông đề ngày 31/7/1937, ông rời Quảng Đông vào ngày 19/6 và đến quần đảo Hoàng Sa vào ngày 23/6. Trong cùng ngày, ông đến 4 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trong nhóm An Vĩnh [Amphitrite] (đảo Phú Lâm [Woody], đảo Đá [Rocky], đảo Lincoln [Ling Zhou/玲洲: Linh Châu] và đảo Bắc [Bei/]). Ngày hôm sau, 24/6, ông quay trở lại Hải Nam.

Chuyến công tác ngắn và bí mật này đã được các nhà sử học Trung Quốc Hàn Chấn Hoa (Han Zenhua/韩振华), Lâm Kim Chi (Lin Jin Zhi/林金枝), Ngô Phượng Bân (Wu Feng Bin/吴凤斌) kể lại trong công trình chuyên đề "Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên" được xuất bản năm 1988.[4] Tuy nhiên, nếu họ có công bố báo cáo đề ngày 31/7/1937,  họ đã quên, dù có ý thức hay không, công bố phụ lục của báo cáo này. May thay, phụ lục bí mật đó đã được Ủy ban đia danh tỉnh Quảng Đông công bố năm 1987 trong một cuốn sách có tựa đề "Sưu tập tài liệu về địa danh các đảo ở biển Đông." Phụ lục này đưa ra các chi tiết về hoạt động của Hoàng Cường ở quần đảo  Hoàng Sa.[5]

Trong phụ lục này, Hoàng Cường giải thích rằng, theo kế hoạch, tàu của ông đã chở theo 30 bia chủ quyền. Trong số đó, có 4 bia thuộc thời nhà Thanh, những bia khác thuộc năm 1912 (Trung Hoa Dân Quốc tròn một tuổi) và năm 1921. Tuy nhiên, ông không mang theo bia năm 1937 do đây là chuyến công tác bí mật. Nhóm của ông tìm đuợc 4 bia thời nhà Thanh, có khắc năm 1902, tại thành phố Quảng Đông. Theo phụ lục báo cáo của ông, nhóm của ông chôn các bia này, ghi nhận tọa độ địa lí của chúng ở 4 đảo. Trên đảo Bắc, họ chôn 2 bia khắc năm 1902 và 4 bia đề năm 1912. Trên đảo Lincoln (Ling Zhou), đội chôn 1 bia khắc năm 1902, 1 bia năm 1912 và 1 bia năm 1921. Trên đảo Phú Lâm 2 bia khắc năm 1921 đã được chôn. Cuối cùng, trên đảo Đá (Shi Dao/石岛: Thạch đảo), họ chỉ đặt 1 bia khắc năm 1912.

Tóm lại, năm 1937 phái đoàn đã đặt tổng cộng 12 bia trên các đảo, trong đó có 3 bia ghi năm 1902. Các bia này đã bị quên lãng từ 1937 đến 1979 nhưng sau đó đã được các nhà khảo cổ và PLA."phát hiện ra" từ năm 1974 đến năm 1979. Điều này gần như chắc chắn là lời giải thích cho câu văn bí ẩn trong cuốn sách của Samuels khi ông viết rằng các bia năm 1902 được cho là đã bị mất trong chiến tranh thế giới II.[6]


Những bí ẩn của các dấu chủ quyền ở quần đảo Trường Sa:

Hầu hết các sách, bài viết, và tuyên bố chính thức nêu rằng Trung Quốc đã chiếm lại quần đảo Trường Sa vào năm 1946 từ tay Nhật và đã dựng các bia chủ quyền trên một số đảo. Chuyện này đã được tác giả  Đài Loan Truơng Chấn Quốc (Zhang Zhen Guo/(张振国) kể lần đầu tiên  trong cuốn sách của ông "Chuyến đi đến Nam Sa" [Nansha xing/南沙行: Nam Sa hành] được viết vào năm 1957, nhưng được xuất bản năm 1975,[7]

Trương Chấn Quốc, đội phó trong chuyến đi của THDQ tới quần đảo Trường Sa năm 1956 (đối phó với Thomas Cloma), đã viết rằng trong chuyến đi năm 1946 do tư lệnh Mạch Uẩn Du (Mai Yun Yu/麦蕴瑜) lãnh đạo, đoàn đã nắm quyền kiểm soát của 3 hòn đảo, cụ thể là đảo Taiping [太平] (đảo Itu-Aba/Ba Bình), Nam Wei [南威岛: Nam Uy] (đảo Trường Sa) và đảo Xi Yue [西月島:Tây Nguyệt] (đảo West York/Bến Lạc). Trên 3 đảo này, nhóm của Mạch Uẩn Du dựng các bia chủ quyền khắc năm 1946,[8]

Tuy nhiên, khi cuốn sách của Trương Chấn Quốc xuất bản vào năm 1975, Mạch Uẩn Du vẫn còn sống và đã đọc nó. Điều đó là một cú sốc đối với ông! Thật ra, ông nhìn nhận rằng dù nhóm của ông đã có đến đảo Ba Bình vào tháng 12 năm 1946, phá hủy các bia của Nhật và đã trồng hai bia chủ quyền (phía Bắc và Nam của đảo) nhưng họ chưa hề đi đến đảo Trường Sa và đảo Bến Lạc.

Thật ra, theo các hồ sơ chính thức, khi Thomas Cloma của Philippines tuyên bố sở hữu đối với quần đảo Trường Sa (Freedomland) vào năm 1956, Đài Loan đã có 3 lần tuần tra quần đảo này (2 tàu từ 2 tới 14 tháng 6, 3 tàu từ 29 tháng 6 đến 22 tháng 7 và 2 tàu từ 24 tháng 9 tới 5 tháng 10). Trong những lần tuần tra này, binh sĩ đã tổ chức lễ chào cờ và dựng bia chủ quyền trên 3 đảo Ba Bình, Trường Sa và Bến Lạc. Tuy nhiên, các bia này khắc năm 1946 nhưng chỉ mới đưa tới Nam Sa 10 năm sau đó, vào năm 1956, như một mưu gian.[9]


Khảo cổ và yêu nước: Tính chính trị của các bia chủ quyền

Các nhà khảo cổ có thành thật khi họ tìm thấy các cột mốc ở quần Hoàng Sa? Hoặc giả họ đã được PLA, vốn biết rõ chuyện này, kèm cặp? Chúng ta không biết đuợc. Tuy nhiên, nếu chúng ta thêm màn diễn của quần đảo Trường Sa vào, chúng ta có thể nhìn thấy một mưu đồ phức tạp và có hệ thống hơn về viêc nguỵ tạo hồ sơ. Hai màn diễn này cho thấy những hạn chế của việc dựa vào các hiện vật khảo cổ nhằm cố gắng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Vật thể có thể là đích thật (từ các bảo tàng chẳng hạn), nhưng được chôn rất trễ sau này. Trong cuộc chiến tranh tâm lí đối với các đảo ở biển Đông, thủ đoạn gian xảo này có thể trở thành thực tế. Điều này có vẻ là những gì đã xảy ra trong những vụ việc này. Các huyền thoại đã xuất hiện trong nhiều công trình viết bằng tiếng Anh và đã đi đến người đọc quốc tế. Dù vậy, có vẻ rằng những huyền thoại này sẽ được một ít nhà nghiên cứu có kiến ​​thức về tiếng phổ thông và một nhóm các chuyên gia Trung Quốc biết rất rõ. Tóm lại, điều đó gợi ra rằng ‘khảo cổ yêu nước' là lệch lạc sâu đậm và các chuyên gia nên thận trọng trước khi dựa vào nó để chuyển việc phán đoán về tranh chấp lãnh thổ.


------------------------------
 ẢNH BIA CHỦ QUYỀN  CHỦ QUYỀN 1902 

Bia triều Quang Tự (1882-1902) trên một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa

Nguồn: Thomas H. Hahn docu-Images. http://hahn.zenfolio.com/xisha/h1D468115#h1d468115.



CHUYẾN CÔNG TÁC  BÍ MẬT THÁNG 6/1937


Nguồn: Uỷ ban địa danh tỉnh Quảng Đông [Guang dong sheng di ming wei yuan hui], Sưu tập tư liệu về địa danh các đảo ở Nam Hải [Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian], Nhà xuất bản bản đồ Quảng Đông [Guangdong sheng di tu chu ban she], 1987, p.289.

-----------------------------
Về tác giả: François-Xavier Bonnet là một nhà địa lí và một nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại Pháp (Irasec). Bên cạnh nhiều bài khác, ông đã xuất bản, "“ Geopolitics of Scarborough Shoal” (Địa chính trị bãi cạn Scarborough), tài liệu thảo luận Irasec ngày 14 tháng 11 năm 2012,



[1] Bài viết này đã được trình bày tại hội nghị biển Đông Nam Á (biển Đông), Trung tâm Luật Ateneo, Makati, 27 tháng 3 năm 2015.
[2]  Samuels, Marwyn S, Contest for the South China Sea, New York: Methuen, 1982, p.53
[3] Thất thập niên đại số 3 tháng 3/1973 được Hungdah Chiu and Choon-Ho Park trích dẫn trong, Legal Status of the Paracel and Spratly islands, Ocean Development and International Law, 1975, p. 25
[4] Han Zhen Hua, Lin Jin Zhi and Wu Feng Bin (edit), Sưu tập các tài liệu lịch sử về các đảo ở Nam Hải của chúng ta [Wo guo nan hai zhu dao shi liao hui bian/我国南海诸岛史料汇编 : Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên] , Dong fang Chu ban she [東方出版社]: Đông phương xuất bản xã, 1988, p.210.
[5] Uỷ ban địa danh tình Quảng Đông [广东地名委员会/Guangdong sheng di ming wei yuan hui: Quảng Đông tỉnh địa danh uỷ viên hội], Sưu tập tư liệu về địa danh các đảo ở Nam Hải [南海诸岛地名资料汇编/Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian: Nam hải chư đảo đia danh tư liệu hối biên], Nhà xuất bản bản đồ tỉnh Quản Đông [广东省地图出版社/Guangdong sheng di tu chu ban she: Quảng Đông tỉnh địa đồ xuất bản xã], 1987,
[6] Samuels, p.53
[7] Uỷ Ban, 1987, p.290
[8] Uỷ Ban, 1987, p.290
[9]  Uỷ Ban, 1987, p.291