Saturday, August 31, 2013

Lịch sử, mắt xích yếu trong yêu sách sách biển của Bắc Kinh

The Diplomat (30/8/2013)
Mohan Malik

(Đây là phiên bản đầy đủ của bài đã đăng Bịa đặt lịch sử: Yêu sách chủ quyền biển Đông của Trung Quốc)

Yêu sách của Bắc Kinh đối với gần như toàn bộ biển Đông hiện nay được tô vẽ trong các hộ chiếu mới và bản đồ chính thức của Trung Quốc (TQ). Lãnh đạo TQ và người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh với với mức hung hăng ngày càng tăng rằng các đảo, đá, và các rạn san hô là "lãnh thổ từ thời xa xưa" của TQ. Thông thường, đối với chủ quyền và ranh giới biển thì các yêu sách lãnh thổ chồng lấn phải được giải quyết thông qua việc vận dụng kết hợp luật tập quán quốc tế, phán quyết trước Tòa án Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS). Trong khi TQ đã phê chuẩn UNCLOS và Công ước này nói chung không chấp nhận bỏ các yêu sách"dựa trên lịch sử", nhưng đó lại đúng là loại yêu sách mà Bắc Kinh đưa ra lúc này lúc khác. Hôm 4 tháng 9 năm 2012, Ngoại trưởng TQ, Dương Khiết Trì, nói với Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton rằng có "rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lí cho thấy rằng TQ có chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông và các vùng biển liền kề."

Xét về mặt "bằng chứng pháp lí", đại đa số các chuyên gia pháp lí quốc tế đều kết luận rằng yêu sách sở hữu (danh nghĩa) lịch sử của TQ đối với biển Đông, bao hàm thẩm quyền chủ quyền đầy đủ và đồng ý cho các nước khác đi ngang qua là không hợp lệ.và không hợp pháp. Các bằng chứng lịch sử, nếu có, thậm chí còn kém thuyết phục. Có nhiều mâu thuẫn trong việc TQ sử dụng lịch sử để biện minh cho yêu sách của họ đối với các đảo và rạn đá ở biển Đông, không ít trong số đó là sự khẳng định đầy tranh cãi của họ về các tương đồng với việc bành trướng đế quốc chủ nghĩa của Hoa Kì và các cường quốc châu Âu trong thế kỉ XVIII và XIX. Biện minh cho những nỗ lực của TQ mở rộng biên giới biển của họ qua việc yêu sách các đảo và rạn đá xa bờ, Cổ Khánh Quốc (Jia Qingguo), giáo sư trường Đại học Quan hệ Quốc tế Bắc Kinh, cho rằng TQ chỉ đơn thuần theo gương phương Tây. "Hoa Kì thì có đảo Guam ở châu Á ở rất xa đất Mỹ và người Pháp thì có các đảo ở Nam Thái Bình Dương, vì vậy chẳng có điều gì mới cả", Cổ Khánh Quốc nói với AFP mới đây.

Phân tích sâu xa về các "bằng chứng lịch sử" làm cơ sở cho các yêu sách của TQ cho thấy rằng lịch sử thật ra không đứng về phía TQ . Nếu có thì yêu sách của TQ đối với quần đảo Trường Sa trên cơ sở lịch sử bị mắc mứu ở chỗ là không có đế chế nào của khu vực trước đây đã thực thi chủ quyền. Ở châu Á thời tiền hiện đại, các đế chế có đặc điểm là có các đường biên giới không xác định, không được bảo vệ, và thường thay đổi. Khái niệm về quyền bá chủ (suzerainty) chiếm ưu thế. Không giống như một nhà nước - dân tộc (nation-state), biên giới của đế chế TQ vừa không được vẽ cẩn thận vừa không bố phòng mà giống như các vòng tròn hay các khu vực, giảm dần từ trung tâm của nền văn minh ra đến vùng ngoại vi của người man di xa lạ. Quan trọng hơn, trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, Bắc Kinh luôn luôn giữ lập trường cho rằng ranh giới trên bộ của họ chưa bao giờ được xác định, phân giới cắm mốc. Nhưng bây giờ, khi nói đến các đảo, bãi ngầm, và các rạn đá trong vùng biển Đông, Bắc Kinh lại tuyên bố khác đi. Nói cách khác, TQ tuyên bố rằng ranh giới trên bộ của họ chưa bao giờ được xác định và phân giới trong lịch sử trái ngược hẳn với lập trường rằng biên giới trên biển của TQ luôn luôn xác định và có phân giới rạch ròi. Mâu thuẫn cơ bản trong lập trường của TQ về biên giới trên bộ và biên giới trên biển nằm ở đây, nên nó không đứng vững được. Trên thực tế, chính những nỗ lực hồi giữa thế kỉ XX nhằm chuyển đổi các đường biên giới không xác định của các nền văn minh và vương triều xưa kia hưởng quyền bá chủ thành các đường biên giới xác định rạch ròi, giới hạn, và có phân giới của các nhà nước - dân tộc hiện đại thưc thi chủ quyền nằm ở trung tâm của các tranh chấp lãnh thổ và biển của TQ với các nước láng giềng. Nói một cách đơn giản, chủ quyền là một khái niệm hậu đế quốc gắn với nhà nước-dân tộc, không phải với các đế chế xưa kia.

Khái niệm về chủ quyền không phải là một khái niệm của TQ hoặc của châu Á mà là một khái niệm của châu Âu bắt nguồn với việc kí kết Hiệp ước Westphalia năm 1648. Nó chủ yếu là một khái niệm cho đất liền và mãi cho tới giữa thế kỉ XX mới áp dụng cho các nhà nước - dân tộc ở châu Á và châu Phi. Hệ thống nhà nước Westphalia dựa trên khái niệm về sự bình đẳng pháp lí hay chủ quyền quốc gia đối với biên giới xác định rõ ràng ngoài cùng phân biệt chính nó không những với chế độ phong kiến cũ ở châu Âu mà còn với các hình thức quyền bá chủ khác đã tồn tại vào thời điểm đó ở châu Á - Ba Tư, TQ và Ấn Độ. Trước khi có Hiệp ước Westphalia, các vương triều và đế chế ở châu Âu và các nơi khác không thể tuyên bố hoặc thực thi chủ quyền.

Lịch sử, như được biết đến, được viết bởi người chiến thắng, không phải bởi kẻ bại trận. Biên giới hiện tại của TQ phần lớn phản ánh những ranh giới được thiết lập trong thời hoàng kim của chủ nghĩa bành trướng nhà Thanh (Mãn Châu) thế kỉ XVIII, mà qua thời gian đã được kiên cố hoá thành biên giới quốc gia cố định (ngoại trừ Ngoại Mông, chủ yếu vì Liên Xô) theo sự áp đặt của hệ thống nhà nước - dân tộc Westphalia trên toàn châu Á trong thế kỉ XIX và XX. Tuy nhiên, lịch sử chính thống của TQ ngày nay thường bóp méo giai đoạn lịch sử phức tạp này, tuyên bố rằng người Mông, Tạng, Mãn, và Hán đều là người TQ, trong khi thật ra Vạn Lí Trường Thành được các triều đại TQ xây lên để bảo vệ Trung Hoa Hán tộc trước sự xâm lấn thường xuyên của người Mông Cổ và các bộ tộc Mãn Châu phía Bắc, bức tường thành này thực sự thể hiện vòng an ninh bên ngoài của đế chế Trung Hoa Hán tộc. Trong khi hầu hết các nhà sử học coi sự càn quét của các đoàn quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo trong những năm đầu thế kỉ XIII như một sự kiện phá hoại lớn đe dọa sự sống còn của các nền văn minh xưa ở Ấn Độ, Ba Tư, và các nước khác, người TQ lại cỗ võ một cách có ý thức huyền thoại cho rằng ông ta thực sự là người "TQ", và do đó tất cả các khu vực mà người Mông Cổ (nhà Nguyên) đã từng chiếm đóng hoặc chinh phục (như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) đều thuộc về TQ bằng cách vận dụng khái niệm về chủ quyền của phương Tây hồi thế kỉ XVI trở ngược lại cho châu Á thế kỉ XII. Các yêu sách của TQ đối với Đài Loan và biển Đông cũng dựa trên cơ sở là cả hai đều là bộ phận của đế chế Mãn Châu. (Trên thực tế, trong các bản đồ nhà Thanh hay Mãn Châu, chính đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được mô tả như là ranh giới cuối cùng phía nam của TQ.) Trong phiên bản lịch sử này, bất kì lãnh thổ nào bị "người TQ" chinh phục trong quá khứ vẫn cứ luôn là của TQ, bất chấp cuộc chinh phục xảy ra vào lúc nào.

Việc viết và viết lại lịch sử từ góc độ dân tộc chủ nghĩa như thế để tăng cường sự đoàn kết dân tộc và tính chính đáng của chế độ đã được các nhà lãnh đạo của TQ cả phe Quốc dân đảng lẫn Cộng sản dành ưu tiên cao nhất. Lãnh đạo Đảng Cộng sản TQ tự xử sự một cách có ý thức như là người thừa kế di sản của đế chế TQ, thường sử dụng các biểu tượng và lối ăn nói của đế chế. Từ sách giáo khoa tiểu học cho đến các bộ phim truyền hình về lịch sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát nhồi nhét các thế hệ người TQ về sự oai phong, vĩ đại của Trung Hoa đế chế. Như nhà Hán học Úc Geremie Barmé chỉ ra: "Trong nhiều thập kỉ nền giáo dục và tuyên truyền TQ đã nhấn mạnh vai trò của lịch sử trong sự phát triển của nhà nước - dân tộc TQ . . . Trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao đã bị vứt bỏ hết chỉ còn cái tên thì vai trò của lịch sử trong tương lai của TQ vẫn kiên định." Cứ như vậy đến nỗi lịch sử đã đượccác viện nghiên cứu, các phương tiện truyền thông và các cơ quan giáo dục do nhà nước điều khiển thêu dệt thành một công cụ lãnh đạo nhà nước (còn được gọi là" xâm lược bản đồ").

TQ sử dụng chuyện dân gian, thần thoại, truyền thuyết, cũng như lịch sử để cổ suý yêu sách lãnh thổ trên bộ và trên biển lớn hơn. Sách giáo khoa TQ thuyết giáo khái niệm Vương triềuTrung tâm (Trung Hoa) như là nền văn minh lâu đời nhất và tiên tiến nhất nằm ngay tại trung tâm của vũ trụ, bao quanh bởi các nước nhỏ hơn bị Hoa hoá một phần trong khu vực Đông và Đông Nam Á, các nước này phải liên tục cúi đầu thần phục họ. Phiên bản lịch sử TQ thường cố tình làm lu mờ sự phân biệt giữa những cái không gì khác hơn là ảnh hưởng bá quyền, mối quan hệ triều cống, quyền bá chủ với sự kiểm soát thực tế. Tán đồng quan điểm cho rằng những ai làm chủ được quá khứ sẽ khống chế hiện tại và vạch hướng cho tương lai, Bắc Kinh luôn luôn đặt cược rất cao vào “con bài lịch sử” (thường là một cách giải thích xét lại lịch sử) trong các nỗ lực ngoại giao của mình nhằm đạt được mục tiêu của chính sách đối ngoại, nhất là để bắt các nước khác nhượng bộ lãnh thổ và ngoại giao. Hầu như tất cả các nước tiếp giáp, lúc này hay lúc khác, đều bị sức mạnh vũ lực của TQ đụng đến - Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, và Đài Loan - và đều là đối tượng cho lịch sử xét lại của TQ. Như Martin Jacques lưu ý trong cuốn When China Rules the World (Khi TQ thống trị thế giới) "Chủ nghĩa Hoa vi trung đế quốc định hình và là nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc TQ hiện đại." Nếu không được kiểm soát, sự kiêu căng đế quốc hoặc lòng luyến tiếc quay về quá khứ có thể có những hậu quả không thể đoán trước cho hòa bình và ổn định khu vực.

Nếu ý tưởng về chủ quyền quốc gia xuất hiện ở châu Âu thế kỉ XVII và hệ thống đó bắt nguồn từ Hiệp ước Westphalia, thì ý tưởng về chủ quyền trên biển chủ yếu là khái niệm do Mỹ đặt ra giữa thế kỉ XX mà TQ đã vơ vào để mở rộng biên giới biển của mình. Như Jacques lưu ý, "Ý tưởng về chủ quyền trên biển là một phát minh tương đối gần đây, bắt đầu từ năm 1945 khi Hoa Kì tuyên bố rằng họ có ý định thực hiện chủ quyền đối với lãnh hải của họ." Trong thực tế, Công ước LHQ về Luật Biển thể hiện nỗ lực quốc tế nổi trội nhất nhằm áp dụng các khái niệm về chủ quyền trên đất liền vào lĩnh vực biển trên toàn thế giới - tuy vậy điều quan trọng là nó bác bỏ ý tưởng biện minh bằng quyền lịch sử. Vì vậy, mặc dù Bắc Kinh yêu sách khoảng 80% biển Đông là "vùng nước lịch sử" (và hiện đang tìm cách nâng yêu sách này lên thành một "lợi ích cốt lõi" ngang với các yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan và Tây Tạng), nói theo lịch sử, nếu TQ có quyền yêu sách biển Đông tới mức nào thì Mexico cũng có quyền yêu sách sử dụng độc quyền vịnh Mexico, hoặc Iran đòi Vịnh Ba Tư, hay Ấn Độ đòi Ấn Độ Dương đến mức đó. Nói cách khác, chẳng có chủ quyền gì cả. Theo quan điểm pháp lí, "việc tên gọi 'biển Nam Trung Hoa’ được sử dụng nhiều không [có ý] trao chủ quyền lịch sử cho TQ." Các nước sử dụng lịch sử để yêu sách chủ quyền đối với các đảo đều có sự đồng ý của nước khác và có cách giải thích lịch sử được các bên chấp nhận - cả hai yếu tố này đều không có ở Biển Đông

Các đế chế xưa hoặc giành được quyền kiểm soát vùng lãnh thổ thông qua xâm lược, thôn tính hay đồng hóa hoặc để mất chúng vào tay đối thủ có binh lực hoặc khả năng cai quản nhà nước ưu việt hơn. Mở rộng và thu hẹp lãnh thổ là chuẩn mực, được xác định bởi sự hùng mạnh hay sự suy yếu của một vương triều hay đế chế. Ý tưởng "lãnh thổ thiêng liêng" là phi lịch sử bởi vì việc kiểm soát lãnh thổ thì dựa trên việc nước nào tóm được hoặc lấy cắp những gì thuộc nước khác cuối cùng. Biên giới của nhà Tần, Hán, Đường, Tống, Minh khi nở khi co suốt trong lịch sử. Một Trung Hoa đế chế hùng mạnh, giống như nước Nga Sa hoàng, là kẻ bành trướng ở vùng Nội Á và Đông Dương mỗi khi cơ hội xuất hiện và sức mạnh cho phép. Việc bành trướng lãnh thổ dần dần qua nhiều thế kỉ dưới hai triều đại không Trung Hoa là Mông Cổ và Mãn Châu mở rộng sự kiểm soát của triều đình TQ đối với Tây Tạng và nhiều vùng đất ở Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan và Đông Nam Á. Trên thực tế, TQ hiện đại là một "nhà nước-đế chế" đội lốt một nhà nước-dân tộc.

Ngay cả khi người ta phải chấp nhận lập luận "yêu sách lịch sử" của Bắc Kinh cho một thời điểm thì vấn đề lại là đế chế Trung Hoa không phải là đế chế duy nhất ở châu Á thời tiền hiện đại và trên thế giới. Còn có các đế chế và vương triều khác nữa. Nhiều nước có thể đưa ra " yêu sách lịch sử" có cùng giá trị như thế đối với những vùng đất hiện nay không phải là phần lãnh thổ của họ mà đang đặt dưới sự kiểm soát của TQ (ví dụ , vùng Cam Đa (Gando) ở tỉnh Cát Lâm, TQ thuộc về Triều Tiên) . Trước thế kỉ XX, ở châu Á không có nhà nước - dân tộc có chủ quyền với biên giới thuộc thẩm quyền và trong tầm kiểm soát được xác định về mặt pháp lí rõ ràng. Nếu các yêu sách của TQ biện minh được trên cơ sở lịch sử, thì các yêu sách lịch sử của Việt Nam và Philippines dựa trên lịch sử cũng biện minh được. Ví dụ, các sinh viên lịch sử châu Á đều biết rằng dân MaLaysia có liên hệ đến người Philippines hiện nay nên yêu sách của họ đối với Đài Loan sẽ thuyết phục hơn nhiều so với Bắc Kinh. Bởi vì Đài Loan ban đầu được định cư bởi con cháu những người Malay-Polynesian - tổ tiên của các nhóm thổ dân ngày nay – họ từng sống ở vùng đồng bằng thấp ven biển. Nhà quan sát Châu Á nổi bật Philip Bowring lập luận rằng "[s]ự kiện TQ có những ghi chép lịch sử lâu dài không làm mất hiệu lực lịch sử các quốc gia khác thể hiện qua các hiện vật, ngôn ngữ, dòng giống và các quan hệ di truyền, các bằng chứng về giao thương và đi lại."

Trừ khi tán đồng khái niệm về ngoại lệ của TQ, "yêu sách lịch sử" của TQ đế chế có giá trị giống như những vương triều và đế chế khác trong khu vực Đông Nam và Nam Á. Vấn đề với lịch sử là vạch ra lằn ranh ở đâu, lúc nào, tại sao thế, và quan trọng hơn là phiên bản lịch sử của nước nào là chính xác. TQ đưa ra yêu sách về quyền sở hữu đối với thuộc địa của đế chế Mông Cổ và Mãn Châu sẽ tương tự như Ấn Độ đưa ra yêu sách đối với Afghanistan, Bangladesh, Miến Điện, Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan và Sri Lanka trên cơ sở rằng tất cả các nước này đều bộ phận hoặc của đế chế Maurya, Chola hoặc của đế chế Moghul và đế quốc Ấn Độ thuộc Anh. Suốt từ thể kỉ X tới thế kỷ XIII, một số vị vua của Pallava và Chola ở miền nam Ấn Độ đã tập hợp lực lượng hải quân và quân đội lớn lật đổ các vương triều lân cận và thực hiện các cuộc tấn công trừng phạt đối với các nước trong khu vực vịnh Bengal . Họ cũng đã ra biển để chinh phục nhiều khu vực thuộc những vùng đất mà bây giờ là Sri Lanka, Malaysia và Indonesia. Trong nghiên cứu về văn hóa chiến lược Ấn Độ, George Tanham nhận xét: "Trong cái thực sự là một cuộc chiến về thương mại giữa TQ, Ấn Độ và châu Âu, người Cholas đã khá thành công trong các can dự cả về hải quân lẫn đất đai và đã cai trị nhiều phần của Đông Nam Á trong một thời gian ngắn."

Các yêu sách của TQ ở biển Đông cũng đánh dấu một sự chuyển đổi lớn khỏi định hướng địa chính trị lâu đời đối với cường quốc lục địa. Với việc tuyên bố có một truyền thống mạnh mẽ về đi biển, TQ đề cập nhiều cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và Châu Phi đầu thế kỉ XV. Nhưng, như Bowring chỉ ra rằng "Trong lĩnh vực hàng hải bên ngoài vùng nước ven biển thì người TQ thực sự là kẻ đi sau. Trong nhiều thế kỉ, các bậc thầy của các đại dương là dân Malay-Polynesian, những người từng thuộc địa hoá phần lớn thế giới, từ Đài Loan đến New Zealand và Hawaii về phía nam và phía đông , rồi Madagascar về phía tây . Các chum đồng đã được giao thương với Palawan, ngay phía nam của Scarborough vào thời của Khổng Tử. Khi những nhà tu Phật giáo TQ như Pháp Hiển (Faxian) đi Sri Lanka và Ấn Độ vào thế kỉ V, họ đã đi trên tàu do người MaLaysia sở hữu và điều khiển. Tàu từ vùng mà nay là Philippines đã giao thương với Phù Nam, một nước hiện nay là miền Nam Việt Nam, cả ngàn năm trước nhà Nguyên".

Và cuối cùng, cái gọi là "yêu sách lịch sử" của TQ đối với biển Đông thực sự không phải là "hàng thế kỉ." Các yêu sách này chỉ bắt đầu từ năm 1947, lúc chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẽ ra cái gọi là "đường 11 đoạn" trên bản đồ biển Đông của TQ, bao quanh quần đảo Trường Sa và các chuỗi đảo khác mà Quốc Dân Đảng cầm quyền tuyên bố thuộc chủ quyền TQ. Chính Tưởng Giới Thạch, khi nói rằng đã xem phát xít Đức như một mô hình cho TQ, đã bị cuốn hút bởi ý tưởng Nazi (Quốc xã) về một Lebensraum ("không gian sống") mở rộng cho dân tộc Trung Hoa. Ông đã không có cơ hội để tự mình thành kẻ theo chủ nghĩa bành trướng bởi vì người Nhật buộc ông vào thế phòng thủ, nhưng những người vẽ bản đồ của chế độ Quốc dân đảng đã vẽ đường chữ U 11 đoạn trong cố gắng để mở rộng "không gian sống" của TQ ở biển Đông chẳng bao lâu sau khi Nhật thua trận trong Thế chiến II. Rõ ràng, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng đã tức giận về các bản đồ thời Thế chiến II của Nhật Bản cho thấy toàn bộ biển Đông như một cái hồ của Nhật Bản. Lần đầu tiên chính phủ TQ cho tàu hoạt động đi vào vùng biển Đông là vào năm 1947 với chuyến đi của các tàu Trung Hoa Dân Quốc Trung Kiện (Zhongjian), Trung Nghiệp (Zhongye) Thái Bình (Taiping) và Vĩnh Hưng (Yongxing.) Mãi đến nhiều năm sau đó họ mới bắt đầu việc khảo sát.Sau khi Đảng Cộng sản TQ chiến thắng trong cuộc nội chiến vào năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiếp nhận cú xâm lược bản đồ này, chỉnh lại khái niệm của Tưởng Giới Thạch thành "đường 9 đoạn" sau khi xóa hai đoạn ở Vịnh Bắc Bộ năm 1953 thể hiện cả những chỗ mà chính phủ THDQ chưa từng đến. Cho mãi tới năm 2005 , bản đồ bãi cạn Scarborough do Hải quân PLA công bố chỉ là một bản sao y từng chi tiết một của bản đồ Hải quân Mĩ (cảm ơn Barney Moreland vì đã cung cấp cho tác giả thông tin này).

Từ khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, TQ đã vẽ lại bản đồ của họ, xác định lại biên giới, tạo dựng bằng chứng lịch sử, sử dụng vũ lực để tạo ra các thực thể lãnh thổ mới, đặt tên lại các đảo, và tìm cách áp đặt phiên bản lịch sử của mình lên các vùng biển trong khu vực. Nặm 1972 họ thông qua "Luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải", tuyên bố chủ quyền 4/5 biển Đông, tiếp sau là những cuộc đụng độ vũ trang với hải quân Philippines và Việt Nam trong suốt những năm 1990. Gần đây hơn, họ phái một số lượng lớn tàu cá và tàu hải giám đến vùng biển tranh chấp theo cái tương tự như cuộc "chiến tranh nhân dân trên vùng biển quốc tế" đã làm tăng căng thẳng nhiều hơn. Trích lời bình luận Sujit Dutta, "chủ thuyết phục hồi lãnh thổ không suy giảm của TQ dựa trên . . . lí thuyết rằng vùng ngoại vi phải được chiếm cứ để đảm bảo an toàn cho vùng lõi. [Điều này] là một khái niệm cơ bản thời đế chế đã được phe dân tộc chủ nghĩa TQ - cả Quốc Dân Đảng lẫn Cộng sản - quốc tế hóa. Những nỗ lực của chế độ [hiện nay] để vươn tới biên giới địa lí theo họ tưởng tượng thường có cơ sở lịch sử ít ỏi và tiếp tục có hậu quả chiến lược bất ổn cao."

Rõ ràng, một lí do mà dân Đông Nam Á cảm thấy khó chấp nhận yêu sách lãnh thổ của TQ là điều đó sẽ có nghĩa là chấp nhận ý niệm về sự ưu việt của chủng tộc Hán hơn các chủng tộc và đế chế châu Á khác. Jay Batongbacal thuộc trường Đại học luật Philippines nói: "Một cách trực giác, chấp nhận đường 9 đoạn là một sự chối bỏ tương ứng về bản sắc và lịch sử thật sự của tổ tiên người Việt Nam, Philippines, và Malaysia, thực chất đó là việc hồi sinh trong thời hiện đại sự phỉ báng các sắc dân không TQ là 'man di’ không được hưởng sự tôn trọng và phẩm giá ngang bằng với tư cách là các dân tộc."

Tóm lại, các đế chế và vương triều không bao giờ thực thi chủ quyền. "Vấn đề lịch sử" là rất phức tạp và không thừa nhận cách giải thích dễ dãi. Nếu yêu sách lịch sử có giá trị nào đó thì Mông Cổ có thể yêu sách tất cả các khu vực của châu Á đơn giản là vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này. Hoàn toàn không có cơ sở lịch sử để hậu thuẫn bất cứ yêu sách nào trong những yêu sách đường nhiều đoạn đó, nhất là xét rằng các vùng lãnh thổ của đế chế TQ chưa bao giờ được phân định biên giới kĩ càng như các nhà nước - dân tộc mà chỉ tồn tại như các vùng ảnh hưởng từ một trung tâm văn minh giảm dần đi. Đây là lập trường mà TQ đương đại bắt đầu xác lập vào thập niên 1960 khi đàm phán biên giới trên trên bộ với nhiều láng giềng. Nhưng đó không phải là lập trường của họ hiện nay trong các cuộc chạm trán về bản đồ, ngoại giao và quân sự mức thấp để xác định biên giới.

Việc diễn giải lại liên tục lịch sử để đẩy mạnh các yêu sách chính trị, lãnh thổ trên bộ và trên biển hiện đại, kết hợp với khả năng của giới lãnh đạo Cộng sản kích động hay dập tắt "các cao trào dân tộc chủ nghĩa" giống như tắt mở một khoá nước trong những thời điểm có căng thẳng với Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Philippines, khiến Bắc Kinh khó trấn an các nước láng giềng rằng "sự trỗi dậy hòa bình" của họ là hoàn toàn hòa bình. Chấp nhận phiên bản lịch sử của TQ được xem như tương đương với chối bỏ lịch sử của các nước khác và ý niệm bình đẳng về chủ quyền của các nhà nước - dân tộc. Do có sáu bên yêu sách các đảo san hô vòng, đảo thường, đảo đá, và các mỏ dầu ở biển Đông, các tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, tự bản chất, là những tranh chấp đa phương đòi hỏi phân xử qua trọng tài quốc tế. Nhưng việc Bắc Kinh một mực đòi theo cách tiếp cận song phương để giải quyết tranh chấp chủ yếu dựa vào niềm tin rằng Bắc Kinh có thể thành công do sức mạnh tương đối lấn lướt của TQ và sự chia rẻ của ASEAN. Tuyên bố của TQ về "chủ quyền không thể tranh cãi đối với biển Đông" có nguồn gốc vào cuối thập niên 1940 – chứ không phải trong lịch sử xa xưa - đặt ra một thách thức đối với tất cả các quốc gia biển.

Mohan Malik là giáo sư tại Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương về Nghiên cứu An ninh, Honolulu. Đây là những quan điểm cá nhân của tác giả và không phản ánh quan điểm của Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương. Một phiên bản trước, ngắn hơn xuất hiện trong World Affairs, tháng5 / 6 năm 2013. Gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Carleton Cramer, Carlyle Thayer, Justin Nankivell, Denny Roy và Barney Moreland vì nhừng  ý kiến  và góp ý vô giá.
---------------------------------------
Bản dịch này cũng đã đăng ở đây: http://basam.info/2013/09/01/2009-lich-su-mac-xich-yeu-trong-yeu-sach-sach-bien-cua-bac-kinh/

Thursday, August 29, 2013

Lắc léo của Điều 4

Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp

Posted by basamnews on August 30th, 2013
Hoàng Xuân Phú
 cũng chỉ là con dân
mà xưng là thiên tử
 Có lẽ không điều khoản nào của Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lại được bàn cãi nhiều bằng Điều 4. Một bên thì cương quyết bảo lưu, bên kia lại muốn loại bỏ nó ra khỏi Hiến pháp. Nội dung mà hai bên thường đề cập làduy trì hay không việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nhưng đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Để tìm hiểu thêm phần tiềm ẩn, ta hãy đọc lại Điều 4 Hiến pháp 1992 và cùng nhau suy ngẫm:
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
“Đội tiên phong” là gì vậy? Nghe mãi đâm quen, thấy oai oai, nhưng thực ra nó là cái gì? Trong ngôn ngữ thông dụng, cái từ này thường chỉ “đạo quân ở vị trí đi đầu để ra mặt trận”. Thời xa xưa, khi còn đánh nhau bằng cơ bắp và vũ khí thô sơ, cả đạo quân ngàn vạn người cũng chỉ trông cậy vào võ nghệ của mấy vị tướng đầu quân, thì cả tướng lẫn quân của “đội tiên phong” cũng chỉ là thuộc hạ để nhà vua sai bảo. Ngày nay, lãnh đạo cao nhất lại càng cố thủ ở hậu phương, chứ không “tiên phong” ra mặt trận. Nếu vậy thì oai cái nỗi gì, mà lại gán cho đảng cái cương vị hạng hai, hạng ba, mà đôi lúc còn bị dùng để “thí tốt”?
 Nếu cố gán cho từ “đội tiên phong” nội dung “thành phần ưu tú, đóng vai trò đầu đàn, đưa đường chỉ lối”, thì lại nảy sinhcâu hỏi: Một đảng mà đa số đảng viên và hầu hết lãnh đạo cấp cao đều không phải là công nhân, thì có thể coi là “đội tiên phong của giai cấp công nhân” hay không? Người của giai cấp công nhân – vốn được lý luận chính thống của ĐCSVN ngợi ca là ưu tú và cách mạng nhất – đi đâu cả, mà lại để cho cái hội thuộc giai cấp hay tầng lớp kém tiến bộ hơn xông vào choán hết “đội tiên phong” của mình?
 Không chỉ được mệnh danh là “đội tiên phong”, ĐCSVN còn được coi là đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”Tại sao lại ghi những thứ đó vào Hiến pháp? Hiến pháp là văn bản pháp lý gốc của cả Nước, của toàn bộ Nhân dân, để hiến định các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, chứ đâu phải là cuốn sử ca của riêng ĐCSVN để ghi vào đó những lời tự phụ?
Vấn đề đáng bàn hơn là: Liệu những khẳng định kiểu đó có đúng hay không? Dù hào phóng giả định rằng hiện tại chúng đang đúng, thì lấy gì để đảm bảo rằng trong tương lai chúng vẫn còn đúng? Đã là Hiến pháp thì phải có hiệu lực lâu dài. Cho dù không tin vào sức sống của sản phẩm do mình tạo ra, thì chắc hẳn các tác giả Hiến pháp cũng hy vọng rằng nó sẽ tồn tại được vài chục năm. Vậy thì tại sao lại tùy tiện khẳng định hay liều lĩnh bảo lãnh phẩm giá của cả đội ngũ cầm quyền mấy mươi năm sau, những người mà các tác giả Hiến pháp không thể đoán trước sẽ là ai, sẽ cầm quyền thế nào và trong hoàn cảnh ra sao?
 Cho đến nay, biết bao sự kiện bí ẩn và hành xử khó hiểu đã và đang xảy ra, đặc biệt là trong quan hệ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với tệ nạn tham nhũng và cướp đất tràn lan, khiến nhiều người phải đặt ra câu hỏi: ĐCSVN (nói chính xác hơn là lãnh đạo của ĐCSVN) có còn trung thành với quyền lợi của Nhân dân và Dân tộc nữa hay không?Đối với không ít người thì câu hỏi cũng chính là câu trả lời. Nếu muốn, giới cầm quyền có thể thông qua hành động thực tế để xóa bỏ nghi ngờ và chứng minh điều ngược lại. Thế nhưng, tại sao lại lạm dụng Hiến pháp để “công chứng” cho cái phẩm hạnh đang bị nghi vấn, và bắt Nhân dân phải mặc nhiên thừa nhận lòng trung thành của giới cầm quyền hôm nay và cả mai sau?
 Giả sử ĐCSVN luôn thực sự là “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…”, thì điều đó đã đủ để Nhân dân trao quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” hay chưa? Vẫn còn có nhiều “đại biểu trung thành” khác, thì tại sao lại chỉ trao quyền lãnh đạo cho một đại biểu duy nhất? Hơn nữa, giữa quyền lãnh đạo và tính tiên phong cộng với lòng trung thành là một khoảng cách xa vời, hai cái đó không nhất thiết là hệ quả của nhau. Chẳng hạn như Cún con, khi ra đường thì hay lon ton lên trước (nghĩa là rất “tiên phong”), và ít ai trung thành với chủ hơn Cún, nhưng chẳng vì thế mà Cún lại được chủ trao choquyền lãnh đạo… gia đình. Rõ ràng, hai mệnh đề nhầm chỗ đó không đủ để biện minh cho quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN. Ngược lại, cái “hư hư thực thực”“hư” đến mức bất chấp cả “thực”, đã làm suy giảm tính nghiêm túc và tính hợp lý của Hiến pháp. Vậy thì cưỡng nạp những mệnh đề vu vơ ấy vào Hiến pháp để làm gì?
 *
*      *
 Nếu quan niệm rằng hai đặc tính “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…” là đòi hỏi, là điều kiện cần cho quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thì Điều 4 cần được hiệu chỉnh cho chuẩn xác về mặt lô-gíc, chẳng hạn như sau:
“Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, … thì mới là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Hoặc hoán vị đoạn cuối lên đầu và dùng chữ “để” thay cho hai chữ “thì mới”:
Để là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…”
Đó là hai phương án hiệu chỉnh lô-gíc kinh tế nhất, chỉ thêm ba hoặc bốn chữ và giữ nguyên các thành phần khác. Kể cả trong trường hợp thừa nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN như một thứ đương nhiên, bất chấp hiện trạng của đảng, thì cũng nên viết lại như sau:
“Đảng cộng sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.”
Dù chọn phương án nào thì cũng cần thêm chữ phải, để nhấn mạnh rằng: Đó là đòi hỏi mang tính pháp lý mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Liệu giới cầm quyền có muốn viết như vậy hay không? Chắc là không! Vậy thì nội dung về“đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…” trong Điều 4 không phải là đòi hỏi, mà mang ý nghĩa ”thừa nhận một thực trạng đã, đang và sẽ mãi tồn tại”, tức là một hình thức “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”.
 Vấn đề tương tự được đặt ra với khoản tiếp theo của Điều 4, viết rằng:
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Đây có phải là một yêu cầu, một đòi hỏi hay không? Nếu là đòi hỏi thì cần bổ sung một chữ phải“ như sau:
“Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Câu hỏi nảy sinh là: Tại sao lại thiếu chữ “phải” tại vị trí quan trọng như vậy? Có phải do vô tình hay không?
Muốn hiểu được ý tứ của các tác giả, hãy điểm mặt 39 chữ phải trong Hiến pháp 1992 để nhận ra rằng: Từ phải là một trong những thuật ngữ đặc trưng trong Hiến pháp, thường được dùng để chỉ những điều bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ:
Điều 51 … Công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội…”
Điều 76  Công dân phải trung thành với Tổ quốc…”
Điều 77 … Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.”
Điều 100  Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…”
Điều 122  Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn… Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định…”
 Tại sao không viết tương tự, mà lại tránh dùng chữ phải trong Điều 4? Nếu quan niệm rằng chỉ cần viết
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
là đã hàm chứa chữ phải, do đó có thể lược bỏ nó, thì sao không bỏ nốt chữ phải trong những trường hợp cũng “đã hàm chứa” tương tự? Chẳng hạn, sao không bỏ chữ phải trong hai điều khoản sau đây:
Điều 115  … Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.”
Điều 124  … Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số…”
 Để hiểu hết thâm ý chứa trong Điều 4, nên so sánh nó với điều khoản sau:
Điều 12  … Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Vâng, không chỉ “các… tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân”, mà cả “các cơ quan Nhà nước” đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”. Nhưng ĐCSVN và các tổ chức của đảng thì không bị liệt kê trong Điều 12, tức là chúng không nằm trong diện phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”.
 Điều 4 chỉ viết là: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Khi đã ngăn chặn việc ban hành luật về các đảng chính trị hay luật dành riêng cho ĐCSVN, thì chẳng hề tồn tại “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”nào có thể khống chế và ràng buộc đảng. Vậy là ĐCSVN được mặc sức tung hoành. Hơn nữa, giả sử có ràng buộc pháp luật nào đó liên quan, thì ĐCSVN cũng không nhất thiết phải tuân theo, bởi vì câu hiến định “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” không nhất thiết là một đòi hỏi, mà ngược lại, rất có thế là một hình thức“công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, cũng tương tự như việc “công chứng” cho đặc tính “đội tiên phong…”và “đại biểu trung thành…” mà thôi.
 Hẳn là đạo diễn của Hiến pháp 1992 đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, và cố tình không cho “diễn viên” tên phải lạc vào “màn kịch” Điều 4, để tạo ra một “hoạt cảnh thực thực hư hư”“nói dzậy mà không phải dzậy”. Cái tinh vi ấy được kế thừa trọn vẹn trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013) và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, ngày 17/05/2013). Chưa thỏa mãn với đặc quyền vô biên đã có, người ta đã sửa câu
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
trong Hiến pháp 1992 thành
Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Hạ cấp từ chữ “Mọi” xuống chữ “Các”, phải chăng là cố chừa ra thế lực bất khả xâm phạm? Tuy trong phương án sửa đổi có bổ sung thêm đối tượng “đảng viên”, nhưng đó là “đảng viên thường”. Còn các vị lãnh đạo đảng là “siêu đảng viên”, và cá nhân họ cũng không phải là “tổ chức”, vì vậy có thể hoàn toàn tự do “ngoài vòng Hiến pháp và pháp luật.
 Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày 16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) đã phân tích và kiến nghị như sau:
“Về Điều 4, hiện nay về Đảng thì chúng ta có 3 chủ thể: Thứ nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam; Thứ hai là các tổ chức của Đảng; Thứ ba là đảng viên. Nhưng khi thiết kế Điều 4 thì chúng ta bỏ quên chủ thể quan trọng nhất là Đảng cho nên chúng ta chỉ quy định các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều 4 tôi chỉ xin thêm một từ ở đằng trước, tức là ‘Đảng, các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật’.”
Đề nghị của Luật sư Trương Trọng Nghĩa là rất hợp lý, để loại trừ khả năng biện hộ rằng: “Đảng không phải là một tổ chức của Đảng, nên Đảng không phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nếu thực tâm muốn tôn trọngkhuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, thì chẳng tiếc gì mà không thêm chữ “Đảng” vào đầu câu như ông Nghĩa đề xuất.Thế nhưng, đề nghị ấy đã không được chấp nhận. Phải chăng việc khước từ đó càng thể hiện rõ hơn động cơ của đạo diễn và bản chất của Điều 4?
 Một nét mới của Điều 4 trong phiên bản 2 và phiên bản 3 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là khoản sau đây được chèn thêm vào giữa:
“Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Câu này đã khiến một số người hâm mộ đảng hân hoan ca ngợi. Nhưng thực ra có gì là mới ở đây hay không? Thế nào là gắn bó mật thiết”? “Gắn bó” như hiện nay đã đủ hay đã quá “mật thiết” hay chưa? “Phục vụ nhân dân” thế nào thì bấy lâu đã rõ, xin kiếu, xin kiếu! “Chịu sự giám sát” hay “đành chịu sự giám sát”? Nhân dân “giám sát” thế nào, khi mọi chuyện tày đình đều diễn ra ở những nơi kín cổng cao tường, được súng ống bảo vệ nghiêm ngặt? Giả sử bằng cách nào đó mà biết được chút chuyện “thâm cung”, thì đành ngậm miệng, hay nông nổi phát ngôn, để rồi có thể bị khép vào “tội cố ý”hay “tội vô tình làm lộ bí mật nhà nước” (Điều 263 và Điều 264 Bộ luật hình sự)? Và “giám sát” để làm gì? Nếu được phép“giám sát”, nhưng khi phát hiện ra điều sai trái thì cũng chỉ có thể bó tay bất lực và thêm ấm ức, thì “quyền giám sát đảng”có hơn gì so với “quyền được tò mò, nhòm ngó chuyện riêng của nhà hàng xóm”? Thế nào là “chịu trách nhiệm trước nhân dân”? Ăn chán, phá chán cũng chỉ cần buông một câu “xin chịu trách nhiệm” là xong, vậy thì tội gì mà không ăn, không phá? Toàn là mỹ từ chung chung, vô định, phù hợp với mục đích tuyên huấn, nhằm mê hoặc và ru ngủ người đọc, chứ không thể dùng để diễn đạt các ràng buộc pháp lý.
Những băn khoăn vừa kể chỉ có ý nghĩa khi khoản mới bổ sung vào Điều 4 là đòi hỏi mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Nhưng lấy gì để đảm bảo rằng đó thực sự là đòi hỏi, chứ không phải là tái diễn hình thức ”công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”? Nếu quả là đòi hỏi, thì cần thêm bốn chữ phải như sau:
“Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân, phảichịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Hoặc ít nhất cũng bổ sung một chữ phải để áp chung cho cả bốn nghĩa vụ:
“Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Như vậy không phải là quá máy móc, mà cũng chỉ hiến định giống như hai điều khoản sau đây của Hiến pháp 1992, cũng về quan hệ với Nhân dân:
Điều 8  Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
Điều 97  … Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri…”
Quan sát kỹ sẽ nhận ra sự khác nhau “tinh tế” giữa yêu cầu đối với Nhà nước trong Hiến pháp 1992 và yêu cầu đối vớiĐCSVN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Các cơ quan Nhà nước ”phải tôn trọng nhân dân” và “lắng nghe ý kiến… của nhân dân”, còn đảng thì không “phải tôn trọng nhân dân” và cũng không phải ”lắng nghe…nhân dân”; các cơ quan Nhà nước phải tận tụy phục vụ nhân dân”, còn đảng thì cũng “phục vụ nhân dân” nhưng không cần phải ”tận tụy. Thế cũng đã là tiến bộ vượt bậc rồi, bởi Hiến pháp 1992 còn không hề nhắc đến quan hệ của đảng đối với Nhân dân.
 Có lẽ để “cởi trói” cho Nhà nước, nên “Các cơ quan Nhà nước” được giải phóng khỏi Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2:
Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân…”
Sau đó, không hiểu do sức ép nào mà người ta lại đành chịu để cho “Các cơ quan Nhà nước” tái hiện trong Điều 8 củaDự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3:
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
*
*      *
 Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 và phiên bản 3, số lần xuất hiện của chữ phải ít hơn so với trong Hiến pháp 1992. Vì sao như vậy? Một số chữ phải biến tướng thành thuật ngữ khác, như “có trách nhiệm”“có nghĩa vụ”… Chẳng hạn, đoạn
công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội
tại Điều 51 Hiến pháp 1992 biến thành đoạn
Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội
tại Điều 20 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Một số chữ phải thì biến mất hẳn, vì một số điều khoản được bãi bỏ. Ví dụ, quy định
 Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…”
tại Điều 100 Hiến pháp 1992 biến khỏi cả hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. (Chả trách mà một số đại biểu Quốc hội say sưa ca ngợi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.)
Có một ưu ái đặc biệt mà Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” dành cho Dân trong Hiến pháp 1992, đó là“vinh danh” Dân hai lần trong mối quan hệ với pháp luật:
Điều 12  … mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Điều 79  Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật…”
Các tác giả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 đã kết hợp nhuần nhuyễn tính kế thừa với tính sáng tạo, và thu được kết quả tương ứng như sau:
Điều 8  … cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
Điều 49  Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
Trong Điều 8, từ “cá nhân” được dùng để thay thế cho từ “mọi công dân” ở Điều 12 Hiến pháp 1992. Nghĩa là Dân vẫn được “vinh danh” hai lần: Một lần dưới danh nghĩa “công dân” và một lần dưới danh nghĩa “cá nhân”“Chu đáo” với Dân đến thế là cùng.
Trong khi đó, họ lại “sơ suất” đánh mất hai chữ “Nhà nước” trong đòi hỏi phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Quy định
Điều 12  … Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
trong Hiến pháp 1992 được sửa thành
Điều 8 
1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Khoản 1 Điều 8 học theo phong cách của Điều 4 Hiến pháp 1992, không hề sử dụng từ phải hay thuật ngữ tương đương, nên cũng không rõ đó là đòi hỏi hay ghi nhận (tức là ”công chứng”). Nếu đó là đòi hỏi thì Nhà nước cũng chỉ cần hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”. “Theo” được bao nhiêu thì “theo”, chứ không bắt buộc phải nghiêm chỉnh chấp hành…”. Nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành…” trong Khoản 3 Điều 8 chỉ áp vào Cơ quan, tổ chức” chung chung, mà thường chỉ được hiểu là “cấp dưới”.  Rồi đến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3Điều 8 chỉ giữ lại cái Khoản 1 mập mờ, còn Khoản 3 thì hoàn toàn biến mất, do đó cả Cơ quan, tổ chức”chung chung cũng không còn bị đòi hỏi phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật” nữa.
 Chưa hết, cái quy định
“Ủy ban nhân dân … chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân”
tại Điều 123 Hiến pháp 1992 cũng bị xóa khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Có lẽ họ đã kịp nhận ra như vậy cũng không ổn lắm: Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì không thành vấn đề, nhưng nếu bỏ cả quy định “chấp hành … các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên”, ngộ nhỡ địa phương không chịu nghe theo trung ương nữa thì sao? Cho nên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, họ đã đưa ra hai phương án: Với phương án 1 thì Ủy ban nhân dân vẫn không bị nhắc nhở là phải chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật…”; phương án 2 khôi phục nguyên văn quy định của Điều 123 Hiến pháp 1992. Nếu phương án 1 được thông qua, thì không chỉ các cơ quan của đảng, mà cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều được “giải phóng” khỏitrách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật”. Còn nếu phương án 2 được thông qua thì chỉ Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương phải ”chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật” mà thôi. Dù bất cứ phương án nào của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 được chọn, thì công dân cũng vẫn được “chăm sóc chu đáo”, không bị bỏ sót, bởi:
Điều 49  Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật…”
Hóa ra, nghĩa vụ Nhà nước chỉ nhất thời, nghĩa vụ Dân mới vạn đại.
*
*      *
 Để hiểu rõ hơn Điều 4 Hiến pháp 1992 và các phiên bản biến dạng của nó, ta đã lan man sang một số điều khoản khác của Hiến pháp. Đấy không phải là lạc đề, mà để có được tầm quan sát bao quát hơn, nhằm thấu hiểu hơn bản chất và ý nghĩa của Điều 4. Phải so sánh với cách cư xử mà họ dành cho Dân, thì mới nhận ra mức độ ưu ái mà thế lực cầm quyền dành riêng cho mình. Thế mới biết, trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại trên đất Việt, thì nguyên lýMọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52 Hiến pháp 1992) cần được hiểu như thế nào. Vâng, “mọi công dân đều bình đẳng…”, nhưng giới cầm quyền còn “bình đẳng hơn”, và lãnh đạo cấp cao nhất thì tất nhiên phải được “bình đẳng nhất”. Có lẽ vì cái không gian dân chủ xã hội chủ nghĩa quá chật hẹp, nên giới cầm quyền phải đứng ngoài khuôn khổ pháp luật, phải đứng trên hiến pháp, để… “nhường chỗ cho Dân”.
Các điều khoản đã trích dẫn ở trên cho thấy: Chỗ nào thấy cần thì các tác giả Hiến pháp đều nhớ dùng từ phải hoặc những từ đồng nghĩa để nhấn mạnh sự “đòi hỏi”. Họ chỉ cố tình ”quên” dùng từ ”phải“ ở Điều 4 mà thôi. Nhờ thế, Hiến pháp trao cho ĐCSVN quyền lực lãnh đạo tối cao vô biên, nhưng lại không đòi hỏi ĐCSVN phải thực hiện bất cứ điều gì, kể cả việc nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”, như quy định ở Điều 12 đối với các thành phần còn lại của xã hội. Hơn nữa, bất luận thực tế tốt xấu ra sao, thì ĐCSVN cũng được công chứng” trong Hiến pháp là đã ”tiên phong…”, đã ”trung thành…”, đã ”hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, và đã ”gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
 Lối viết lấp lửng tạo cho người đọc ảo tưởng rằng lãnh đạo đảng đã tự giác đặt mình vào khuôn phép, nhưng vẫn đảm bảo cho “đấng tối cao” chẳng phải chịu bất kỳ ràng buộc pháp lý nào cả, và bất kể thế nào thì cũng vẫn được vinh danh.
 Liệu đó có phải là thâm ý của những người đã ấn định nội dung Điều 4 trong Hiến pháp 1992 và hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hay không?
 Điều 4 như vậy có hợp lý không?
Viết ra và tung hô một điều như vậy có phải là tử tế không?
Chúng ta có thể nhắm mắt mà chấp nhận một điều hiến định như thế hay không?
 H.X.P.

Đừng gây thêm nữa tội ác với dân tộc, với lịch sử

ĐỪNG GÂY THÊM NỮA TỘI ÁC VỚI DÂN TỘC, VỚI LỊCH SỬ

Posted by basamnews on August 27th, 2013
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
1.  BÓNG ĐEN NHỮNG VỤ ÁN CHÍNH TRỊ Ô NHỤC TRONG QUÁ KHỨ ĐANG TRỞ LẠI
 Đọc những bài viết phê phán ông Lê Hiếu Đằng trên báo Quân Đội Nhân Dân, báo Nhân Dân, báo Đại Đoàn Kết, báo Công An Nhân Dân, báo Sài Gòn Giải Phóng .  .  . tôi lại nhớ đến những bài viết rầm rộ, đồng loạt, tới tấp đánh NVGP (Nhân Văn Giai Phẩm) trên các báo ở miền Bắc hồi những năm 1956, 1957.
Những bài viết phê phán ông Lê Hiếu Đằng sao giống khẩu khí, giọng điệu, giống cả thái độ quyền uy lấn lướt, giống cả sư hằn học nhỏ nhen, muốn làm sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng thời đánh NVGP đến thế. Chỉ khác chút ít về độ nóng và qui mô.
Đánh NVGP lệnh công khai phát ra từ chót vót trên cao. Những bài viết và nói nảy lửa của ông Tố Hữu phát ra từ cung đình nhà Đỏ như phát súng lệnh. Đồng loạt các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ ào ào nhảy vào đánh túi bụi những mục tiêu đã được chỉ định. Đánh để cố tách xa mình ra khỏi NVGP, để bày tỏ lòng trung thành với đảng, để lập công với đảng nên không thiếu một tên tuổi nào, không sót một tờ báo nào trong cuộc đánh hội đồng này.
Ngày nay mượn cớ đánh bài Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh của ông Lê Hiếu Đằng để đánh phá cả phong trào đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước mà chỉ có dăm tờ báo với vài người viết tên tuổi lạ hoắc có thể coi là vô danh. Có thể họ có tên tuổi đấy nhưng phải núp dưới cái tên xa lạ thì cũng coi như vô danh. Báo Nhân Dân còn bắt kẻ vô danh đó phải đeo thêm vòng lá ngụy trang rậm rì là người Mĩ gốc Việt Amari TX. Chỉ có một giáo sư cung đình, giáo sư của đảng xung trận. Càng thấy sự yếu thế, sự bất chính, không có lẽ phải trong trận đánh phá, răn đe tiếng nói rất chính đáng của người dân, tiếng nói rất bình thường của cuộc sống trong một xã hội dân sự.
Mức độ có khác, qui mô và khí thế có khác nhưng nội dung thì hoàn toàn là sự tái hiện lại vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét Lại Chống Đảng trong quá khứ, là quyền uy độc tài đánh phá ngăn chặn đòi hỏi tự do dân chủ, là lực lượng chuyên chính về tư tưởng bảo vệ quyền uy, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của Nhà nước đảng trị chống trả lại tiếng nói vì dân vì nước.
Đúng như nhìn nhận của ông Nguyễn Hữu Đang, một trong những nhân vật hàng đầu của NVGP, phong trào NVGP thực chất là:
“Chống lại sự biến chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ chế độ chuyên chính thông thường đã bắt đầu có xu hướng cực quyền, còn gọi là toàn trị, tiếng Pháp là totalitarisme, tiếng Anh là totalitarian, trong đó con người bị cưỡng bức toàn diện, triệt để nhiều khi tàn nhẫn đến vô nhân đạo, phi nhân văn, biến con người bị trị thành nô lệ của một tập đoàn thống trị ít người và duy ý chí, tuy nhân danh cách mạng mà hành động, nhưng hiệu quả khách quan của hành động lại phản tiến hóa. Sự biến chất này do ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao Trạch Đông, cả hai đều tự nhận là chủ nghĩa Mác-Lênin! Rất tiếc là lúc ấy Đảng Cộng sản Việt Nam tin là như thế.” (Phạm Xuân Nguyên. Ông Đang. Talawas. 12. 02. 2007)
NVGP chỉ là tiếng nói của trí thức, nghệ sĩ đòi tự do sáng tạo trong một xã hội dân chủ. Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam, lúc đó còn có tên là đảng Lao động Việt Nam, và những người có đặc quyền, đặc lợi trong đảng sợ mất vị trí độc tôn liền vu cho NVGP là một tổ chức phản động chống đảng và lật đổ Nhà nước Cộng sản. Ông Tố Hữu khi đó là Ủy viên Trung ương đảng Lao động Việt Nam, đặc trách công tác văn hóa, văn nghệ, truy chụp:
“Lật bộ áo Nhân Văn – Giai Phẩm thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, Trốt kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm .  .  .” (T.9. Sách “Qua Cuộc Đấu Tranh Chống Nhóm Phá Hoại Nhân Văn Giai Phẩm Trên Mặt Trận Văn Nghệ.”. Tố Hữu. Nhà xuất bản Văn Hóa. Hà Nội. 1958).
“Trong cái công ty phản động Nhân Văn – Giai Phẩm ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn Trốt kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ.” (T. 17. Sách đã dẫn)
Cuộc đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất diễn ra ở bãi đấu tố trên cánh đồng. Ở đó người đấu tố càng tỏ ra sôi sục căm thù vạch ra được nhiều tội ác của địa chủ càng được đánh giá là có giác ngộ giai cấp, càng được đảng tin cậy, cất nhắc. Vì thế người đấu tố phải cố lên gân lập trường giai cấp, phải tưởng tượng ra đủ các tội vu oan giá họa làm cho một nông dân hiền lành chỉ nhờ biết tổ chức làm ăn, chịu khó cần cù khuya sớm và tằn tiện ki cóp mà có đủ ruộng cày cấy và có cuộc sống tạm đủ ăn cũng trở thành địa chủ cường hào gian ác phải nhận bản án tử hình.
Cuộc đấu tố NVGP diễn ra trên mặt báo, trên trang sách cũng đòi hỏi người đấu tố phải lên gân lập trường giai cấp và giàu sức tưởng tượng như bần cố nông đấu tố địa chủ. Vì thế những tiếng nói chỉ đòi dân chủ xã hội, đòi tự do sáng tác của những trí thức nghệ sĩ chân chính muốn được sáng tạo cũng trở thành “một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, Trốt kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm.  .  .”
Bài viết Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh của ông Lê Hiếu Đằng chỉ là tiếp nối tiếng nói NVGP nửa thế kỉ trước đòi tự do dân chủ:
“Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo.
Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.
Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ.” (Lê Hiếu Đằng. Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh).
Trước sự tha hóa trong quyền lực không thể cứu vãn của đảng Cộng sản Việt Nam nếu cứ độc đảng, ông Lê Hiếu Đằng đề xuất: “Tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi đảng, hoặc không còn sinh hoạt đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi đảng và thành lập một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân Chủ, Xã Hội, những đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị đảng Cộng sản bức tử phải tự giải tán”
Đề xuất đó là lời nhắc nhở nghiêm khắc cho đảng Cộng sản Việt Nam phải sửa mình, cất mình lên thoát khỏi sự trượt dài trong tha hóa vì quyền lực, tạo cơ hội cho đảng Cộng sản Việt Nam có chính danh lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong cuộc cạnh tranh chính trị lành mạnh: “Các đảng, các tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với đảng Cộng sản trong cuộc bầu cử hợp pháp .  .  .” Đó là thiện chí Lê Hiếu Đằng. Đó cũng là trung thực Lê Hiếu Đằng, đảng tính Lê Hiếu Đằng.
Nhưng như đỉa phải vôi, ông Trọng Đức trên báo Quân Đội Nhân Dân ngày 18. 08. 2013 giật mình, hốt hoảng la lối: “Thực chất các lời khuyên “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” đưa ra gần đây một cách rất “tâm huyết”, chẳng qua chỉ nhằm tước bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà thôi.”
Ông Linh Nghĩa trên báo Công An Nhân Dân ngày 24. 08. 2013 truy chụp: “Vấn đề nghiêm trọng hơn là ở chỗ ông Lê Hiếu Đằng thách thức pháp luật và kêu gọi xóa bỏ chế độ hiện hữu, bao gồm cả vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam”.
Còn ông người Mĩ gốc Việt Amari TX thì ngày 22. 08. 2013 lên báo Nhân Dân vu vạ: “Ðọc bài của một “nhà bất đồng chính kiến” công bố gần đây, tôi không ngạc nhiên và cũng không bất ngờ về nhân vật mà các phần tử cơ hội, bất mãn đang ra sức tung hứng như “ngọn cờ” để chống phá Ðảng Cộng sản Việt Nam (ÐCS Việt Nam) và Nhà nước CHXHCN Việt Nam.”, “Bài viết của ông là sự thóa mạ chủ nghĩa Mác, mạt sát ÐCS Việt Nam và chế độ chính trị – xã hội hiện nay ở Việt Nam, đòi thay đổi chính trị bằng cách thành lập một đảng phái khác.” (Ngôn từ, khẩu khí, thái độ và lối mòn tư duy thâm căn cố đế của ông Amari TX làm người đọc cứ ngờ ngợ rằng ông người Mĩ gốc Việt này như đang sống và đã sống hàng năm hàng đời trong căn hộ khu tập thể nào đó được Nhà nước cấp cho cán bộ ở Trung Tự, Kim Liên, Đội Cấn, Hà Nội).
Đúng là tiếng hô hoán, giọng truy chụp quyền uy và vu vạ chính trị ngày nào để tạo dựng lên vụ NVGP ô nhục!
2.  NHỮNG CHIÊU TRÒ DỰNG TỘI
Coi thường người dân, lừa dối người dân là một bài bản của những người tạo ra vụ NVGP. Bài bản nhẫn tâm và bất lương đó đến nay vẫn được sử dụng khi ông Trọng Đức viết: “Tại Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, vừa có quyền lập hiến, lập pháp, vừa có quyền giám sát tối cao, vừa có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Nếu nhìn vào cơ cấu đại biểu Quốc hội sẽ thấy, các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã hội đều có đại diện của mình trong Quốc hội. Quốc hội Việt Nam do toàn thể nhân dân Việt Nam bầu ra để thay mình thực hiện quyền lực Nhà nước. Do vậy, quyết định của Quốc hội thể hiện tâm tư, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Việc duy trì Điều 4 Hiến pháp năm 1992 theo quyết định của Quốc hội, do vậy, cũng thể hiện đúng nguyện vọng của nhân dân.”
Quyết định của Quốc hội thể hiện tâm tư nguyện vọng của tuyệt đại đại số nhân dân mà khi Quốc hội vừa đòi thảo luận có nên sát nhập Hà Tây vào Hà Nội không thì ông Ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là Chủ tịch Quốc hội liền gạt phắt: “Việc sát nhập Hà Tây vào Hà Nội, Bộ Chính trị đã quyết định rồi!” Các đại biểu Quốc hội đành cúi mặt câm lặng rồi răm rắp giơ tay biểu quyết theo quyết định của đảng!
Hơn chín mươi phần trăm đại biểu Quốc hội là đảng viên Cộng sản thì đảng muốn gì chả được, đảng bảo sao Quốc hội cũng phải nghe. Vì thế Hiến pháp mới có điều 4 ngang nhiên tước đoạt quyền công dân của người dân. Vì thế bộ luật tố tụng hình sự mới có điều 79, điều 88, điều 258 trắng trơn vi phạm Hiến pháp.
Hơn chín mươi phần trăm đại biểu Quốc hội là đảng viên của đảng tham nhũng mà ông Trọng Đức bảo Quốc hội đó “thể hiện tâm tư, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân” thì đó là sự miệt thị, xỉ nhục dân đấy, ông Trọng Đức ạ!
Thần linh hóa, tôn giáo hóa đảng Cộng sản Việt Nam. Bất biến, định mệnh hóa, tuyệt đối hóa sự cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam, ai động đến sự cai trị đó, đòi pháp luật hóa, chính danh hóa sự cai trị đó là nhảy thách lên mang chuyên chính tư tưởng ra trấn áp. Đó là khởi sự của vụ NVGP và cũng là khởi sự của vụ việc hôm nay. 
 Một ông người Mĩ gốc Việt ở tận bên kia Thái Bình Dương mà hùng hồn tuyên bố về sự lãnh đạo bất biến của đảng Cộng sản Việt Nam như một định mệnh nghiệt ngã đối với dân tộc Việt Nam: “Sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước đã trở thành nguyên tắc nhất quán. Nguyên tắc “bất biến” là vừa phải giữ vững quyền lãnh đạo chính trị của Ðảng với Nhà nước, vừa phải bảo đảm sự lãnh đạo của Nhà nước, làm cho Nhà nước trở thành một nhà nước dân chủ mới. (Amari TX. Vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố khách quan. Báo Nhân Dân 22. 08. 2013).
3.  ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỰC TẾ LỊCH SỬ 
Những nhà viết lịch sử đảng, những nhà lí luận, những cán bộ tuyên huấn của đảng suốt mấy chục năm qua đều một giọng cường điệu hóa, anh hùng ca hóa công tích của đảng Cộng sản Việt Nam mà không chịu nhìn vào thực tế là những sai lầm liên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác. 
Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.
Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội. Những cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân đang làm ăn có lãi và đang phát triển mạnh mẽ khi chuyển vào tay Nhà nước xã hội chủ nghĩa liền thua lỗ rồi tan hoang. Cải tạo tư sản đã hủy hoại, xóa sổ cả một nền sản xuất công nghiệp tự chủ đang lớn mạnh của người dân, của đất nước.
Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lương ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển. 
Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu Cộng!
Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!
Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi.
Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam.
Thảm họa trách nhiệm. Ở các nước dân chủ, bằng lá phiếu và bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí, người dân thực sự có vai trò quyết định đến việc chấp chính của đảng cầm quyền và người cầm quyền. Chỉ một đổ vỡ nhỏ trong đời sống xã hội hoặc đời sống kinh tế đất nước, người cầm quyền phải đứng ra nhận trách nhiệm bằng việc từ chức, đảng cầm quyền cũng mất quyền lãnh đạo. Chỉ vì quyết liệt hạn chế gia tăng dân số không được lòng dân mà đảng Quốc Đại đương quyền ở Ấn Độ không nhận đủ số phiếu bầu của người dân để tiếp tục cầm quyền và bà Thủ tướng lừng lẫy công lao với đất nước Ấn Độ Indira Gandhi cũng mất chức Thủ tướng. Có dân chủ, đổ vỡ khó tái diễn và không thể có đổ vỡ dây chuyền, đổ vỡ lan rộng trong tất cả các mặt đời sống xã hội. Ở ta những thảm họa lớn gây chết chóc hàng trăm ngàn người dân như thảm họa cải cách ruộng đất, giết chết cả nền văn học nghệ thuật như thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, làm đình đốn cả nền kinh tế như thảm họa Vinashin nhưng những người cầm quyền không ai chịu trách nhiệm, không ai rời vị trí quyền lực, cùng lắm là luân chuyển từ vị trí này sang vị trí khác như sau thảm họa cải cách ruộng đất. Đảng độc quyền thì cứ bình thản cầm quyền. Người yếu kém và có tội cứ thản nhiên nắm quyền. Thảm họa cứ tiếp diễn và lan rộng ra cả xã hội. Xã hội Việt Nam hôm nay thực sự là thảm họa đối với dân tộc Việt Nam văn hiến.
4.  ĐỐI THOẠI VỚI NHỮNG TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Một đảng như vậy mà ông người Mĩ gốc Việt, Amari TX, ông người Việt gốc Đảng, Trọng Đức và ông giáo sư của đảng, Hoàng Chí Bảo, huyền thoại hóa:
“Trong khi một loạt nước xã hội chủ nghĩa có lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội dài hơn lần lượt sụp đổ, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đứng vững và nhờ đổi mới đúng đắn, nhân dân còn đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được rất nhiều nước ca ngợi. Ðiều đó chứng tỏ ÐCS Việt Nam không chỉ tài tình trong lãnh đạo toàn dân chống chiến tranh xâm lược, mà còn thật sự xứng đáng là người lãnh đạo xây dựng đất nước trong thời bình, ngay cả khi bối cảnh quốc tế có những biến động khôn lường.” (Amari TX. Bài đã dẫn)
“Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đem lại những quyền lợi cơ bản cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. (Trọng Đức. Đôi điều với tác giả “Viết trên giường bệnh”. Báo Quân đội Nhân dân. 18. 08. 2013).
“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện với lịch sử vẻ vang hơn 80 năm, trong đó đã cầm quyền liên tục gần 70 năm nay, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, đã tồn tại và hoạt động chỉ vì Dân và Dân tộc. Đảng ta không có mục đích nào khác ngoài mục đích phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phấn đấu hy sinh để đem lại lợi quyền cho dân, để dân là chủ và làm chủ. Dân ủy thác cho Đảng trọng trách. Sứ mệnh, địa vị và trọng trách của Đảng là sự lựa chọn của dân, là sự tin cậy mà dân dành cho Đảng, đòi hỏi Đảng phải thực thi tốt nhất để không phụ lòng tin của dân.” ( GS. TS. Hoàng Chí Bảo. Trọng sự thật và chân lí để hành động có trách nhiệm. Quân đội Nhân dân 25. 08. 2013).
Ông giáo sư của đảng, Hoàng Chí Bảo, giật tít bài viết là “Trọng sự thật và chân lí để hành động có trách nhiệm” nhưng chính ông Hoàng Chí Bảo đã viết những điều hoàn toàn không có sự thật, lại càng xa vắng chân lí và ông giáo sư của đảng đang hành động hoàn toàn vô trách nhiệm với đất nước, với dân tộc và với lịch sử. Đọc những điều ông giáo sư của đảng viết tôi cứ nghĩ đến con chim cảnh được chăm bẵm trơn lông mượt da suốt ngày véo von hót làm đẹp lòng người nuôi chim.
Đọc những điều ông giáo sư của đảng viết, tôi lại nhớ đến bài thơ Cường Quốc Dân Oan của ông bạn nhà báo Lê Phú Khải đã đăng trên nhiều trang báo mạng năm trước: “Những ngày tôi đang sống / Sử gia sẽ viết gì? / Đàn ông uống thuốc rầy giữ đất / Đàn bà cởi truồng chống đảng / Thuốc trừ sâu pha đậm / Thành nghị quyết trung ương / Đất đai là sở hữu toàn dân / Giao cho cha con Bá Kiến / Tự do cưỡng chế thu hồi / Từ Cà Mau đến tận Hà Giang” Và một bài mới gần đây cũng của nhà báo Lê Phú Khải: “Đất nước nghèo như cọng cỏ, cọng rơm / Đi ô sin khắp năm châu bốn biển / Nhưng ra đường là gặp tướng / Ra đường là gặp dân oan”. Ông giáo sư của đảng véo von rằng “Dân ủy thác cho đảng trọng trách”. Người đàn ông thân cô thế cô phải uống thuốc rầy giữ đất ủy thác cho đảng làm luật đất đai là sở hữu toàn dân để lũ quan tham nhân danh Nhà nước đến cướp đất của người dân thân cô ư? Những người đàn bà Việt Nam nghèo khổ phải đi làm ô sin khắp thiên hạ lấy tiền gửi về nuôi gia đình, những cô gái phải mang thân gái hơ hớ tuổi hai mươi đi làm vợ ông già tật nguyền, làm nô lệ tình dục cho người thiểu năng trí não xứ người kiếm sống ủy thác cho đảng cứ tham nhũng làm cho người dân khốn cùng ư?
Thưa ông người Mĩ gốc Việt Amari, ông có biết sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã mang lại hạnh phúc lớn lao như thế nào cho người dân các nước đó không? Nước Đông Đức Xã hội chủ nghĩa là nước phát triển nhất, có đời sống cao nhất trong các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ, Đông Đức sát nhập với Tây Đức thì Đông Đức chỉ là vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển và nghèo khổ của nước Đức thống nhất. Tây Đức phải san sẻ, dồn của cải tiền bạc vào vực dậy miền Đông để nước Đức trở thành nền kinh tế lớn nhất châu Âu như hôm nay. Niềm hạnh phúc được thể hiện mình, được đóng góp cho đất nước và sự thành đạt của bà Angela Merkel, một công dân bình thường Đông Đức nay là Thủ tướng nước Đức thống nhất chính là hình ảnh người dân Đông Đức khi thoát khỏi chủ nghĩa xã hội mất tính người đấy, thưa ông Amari.
Bất hạnh thay người dân Việt Nam không có được hạnh phúc đó vì lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam không thoát ra được học thuyết giai cấp hư vô để trở về với dân tộc có thật, không có được sự đồng cảm chia sẻ với nỗi đau khổ mất mát của người dân sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, không nắm lấy cơ hội giải thoát cho nhân dân mà lại đưa đất nước, đưa dân tộc ra làm mồi cho nước lớn Tàu Cộng đổi lấy sự bảo trợ của nước lớn Tàu Cộng để duy trì chủ nghĩa xã hội, duy trì đặc quyền đặc lợi của đảng nên khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ thì lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vội vã hốt hoảng sang Thành Đô gặp lãnh đạo đảng Cộng sản Tàu Cộng. Cho đến nay đến Quốc hội Việt Nam vẫn không được biết tí gì về những kí kết ở Thành Đô liên quan đến vận mệnh đất nước Việt Nam, liên quan đến số phận dân tộc Việt Nam.
Người dân lo lắng cho vận nước chỉ biết rằng: Tháng 9. 1990 kí kết Thành Đô giữa lãnh đạo hai đảng Cộng sản Việt – Trung. Từ đó hàng năm đến ngày tưởng niệm đồng bào chiến sĩ ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc năm 1979, các báo chính thống đều phải câm lặng không được viết một chữ về sự kiện bi tráng này. Từ đó quan hệ Việt – Trung là quan hệ bất bình đẳng mà phần thua thiệt, tủi nhục thuộc về Việt Nam. Tàu Cộng ngang nhiên cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam. Tàu đánh cá Tàu Cộng tràn vào biển Việt Nam. Tàu chiến Tàu Cộng lùng xục tuần tra trên biển Việt Nam, cướp bóc, bắn giết dân Việt Nam. Chủ quyền đất nước bị xâm phạm, tính mạng và nguồn sống của người dân bị mất, danh dự dân tộc bị làm nhục nhưng chỉ có người phát ngôn bộ Ngoại giao tuyên bố phản đối lấy lệ. Còn lực lượng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thì hoàn toàn khoanh tay đứng nhìn! Tháng 12. 1999, kí kết hiệp định biên giới với Tàu Cộng, Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã cắt nhượng cho Tàu Cộng hàng ngàn kilomet vuông đất đai của tổ tiên trong đó có điểm cao 1509 ở Hà Giang, nửa thác Bản Giốc ở Cao Bằng, cả tòa thành cổng nước ở Lạng Sơn.
Giáo sư của đảng, ông Hoàng Chí Bảo viết: “Việc tuyên truyền lập một Đảng mới, một Đảng khác, lại kêu gọi đa nguyên đa đảng để xây dựng dân chủ, coi đó là quyền công dân chính đáng, kêu gọi những ai đang muốn ra khỏi Đảng hoặc không còn sinh hoạt Đảng nữa hãy cùng tham gia thành lập đảng mới như các ông Lê Hiếu Đằng, Hồ Ngọc Nhuận gần đây đưa ra là điều không thể chấp nhận.” Không chấp nhận có một đảng khác bên cạnh đảng Cộng sản không phải chỉ là tiếng nói của riêng ông Hoàng Chí Bảo mà là tiếng nói chung của những người đang có nhiều đặc quyền, đặc lợi trong đảng Cộng sản đương quyền.
Nhưng bài viết của ông Lê Hiếu Đằng Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh cũng là tiếng nói chung của hàng chục triệu người Việt Nam thức tỉnh không chấp nhận sự tiếp tục độc quyền thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Một đảng đã vay nợ của nhân dân Việt Nam quá nhiều máu. Một đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác. Một đảng đã cắt cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên sang nhượng cho nước đàn anh cùng ý thức hệ. Một đảng đang lún sâu trong tham nhũng không phương cứu chữa.
Dùng bạo lực chuyên chính vô sản bóp chết những tiếng nói chính đáng đòi tự do dân chủ của trí thức, văn nghệ sĩ trong vụ NVGP đã giết chết cả một nền khoa học và văn học nghệ thuật, biến lao động sáng tạo của những trí tuệ và tâm hồn chỉ còn biết ăn theo, nói leo chính trị, kìm hãm sự phát triển của xã hội, của đất nước. Đó là một tội ác! Những tội đó còn ghi khắc mãi trong lịch sử đau thương của đất nước này. Đừng gây thêm tội ác nữa với dân tộc, với lịch sử Việt Nam.
27. 08. 2013
PĐT