Monday, May 26, 2014

Quân độiTrung Quốc là con rồng giấy

Quân độiTrung Quốc là con rồng giấy

(

Tham nhũng, láng giềng xấu, lạm phát và bom nổ chậm dân số - đó chỉ là một vài trong số nhiều tai hoạ của Bắc Kinh

Bề ngoài thì nó rất hùng mạnh, nhưng trên thực tế nó chẳng là thứ gì để sợ - nó là con cọp giấy. - Mao Trạch Đông nói về Hoa Kì, năm 1956


Sự trỗi dậy củaTrung Quốc (TQ) trong 30 năm qua đã không có thứ gì mà không ngoạn mục.

Sau nhiều thập niên tăng trưởng với hai chữ số, hiện nay TQ là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và có một quân đội ngày càngcó tính kĩ thuật cao, đó là một trong những quân đội mạnh nhất hành tinh. Mặc dù TQ giáp với một số nước thiếu ổn định nhưng biên giới của họ lại an toàn.

Điều đó không phải luôn luôn là như vậy. Trong 2 000 năm, TQ đã phải chịu xâm lược, cách mạnglàm nhục bởi thế giới bên ngoài – cộng với những cuộc nổi loạn trong nước. Nó đã bị hành hạ, chinh phục và chiếm làm thuộc địa.

Không còn những điều đó nữa. Chi tiêu quốc phòng TQ đã tăng gấp 10 lần trong vòng 25 năm. Bắc Kinh đang xây dựng một lực lượng hải quân biển xanh hùng mạnh, phát triển máy bay chiến đấu tàng hình và cẩn thận thử nghiệm các hoạt động gìn giữ hòa bình và các nhiệm vụ ở nu71c ngoài.

Việc phát triển quân đội của TQ, cùng với chính sách đối ngoại hung hăng, đã gợi ra từ một số khá lớn báo động ở phương Tây. Một số nhà hoạch định chính sách Mĩ coi Bắc Kinh là "đối thủ cạnh tranh gần ngang tầm" của Washington - nói cách khác, nước duy nhất có quân đội có thể thực sự đánh bại quân đội Mĩ trong một số trường hợp.

Nhưng họ đã sai. Thậm chí sau nhiều thập niên tái vũ trang tốn kém, TQ vẫn là con rồng giấy - nói theo cách Mao Trạch Đông nhận định sai về Hoa Kì ... vào năm 1956.

Ngân sách quân sự của TQ đã tăng trưởng hai chữ số năm này qua năm khác, nhưng lạm phát đã ăn mòn các gia tăng này. Quân đội, hải quân, không quân và đội quân tên lửa của TQ đang bị tàn phá bởi tham nhũng và vũ khí của họ, nói chung, vẫn còn rất thấp kém hơn vũ khí tương đương của phương Tây.

Vâng, Quân đội Giải phóng nhân dân (PLA) đang dần trở thành tiên tiến về công nghệ hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là Bắc Kinh có thể huy động lực lượng vũ trang cho các sứ mạng toàn cầu. Không giống như các cường quốc có khả năng thực hiện sứ mệnh ở nước ngoài chủ yếu của thế giới – như Hoa Kì và Vương quốc Anh, chỉ nêu ra hai tên – TQ bị bao quanh bởi những kẻ thù tiềm năng.

Nga, Nhật Bản và Ấn Độ đều là các nước láng giềng... đồng thời là kẻ thù lịch sử. Chính sách đối ngoại hung hăng của TQ nhắm vào các nước nhỏ hơn không khuyến khích sự tuân phục mà là sự kháng cự, chẳng hạn các nước như Philippines và Việt Nam liên minh với Hoa Kì, Nhật Bản và Ấn Độ.

Các láng giềng khác của TQ là những nước yếu kém hoặc thất bại, như Pakistan và Bắc Triều Tiên. Sự thiếu ổn định - hoặc sự hoàn toàn sụp đổ của họ - có thể có ảnh hưởng an ninh nghiêm trọng cho TQ, và giúp giải thích tại sao Bắc Kinh phung phí nhiều vốn liếng vào các lực lượng vũ trang của họ.



Trật tự của cuộc chiến
Trung Quốc có quân đội lớn nhất thế giới, với không ít hơn 2,3 triệu nam nữ mặc đồng phục. 800.000 người khác phục vụ trong lực lượng dân quân và dự bị của TQ.

Các lực lượng trên bộ của PLA lên tới 1,25 triệu lính nam nữ chia thành 18 quân khu, mỗi quân khu tương tự như một quân đoàn của  Mĩ. Mỗi quân khu gồm 3-5 sư đoàn bộ binh và cơ giới - TQ chỉ có một sư đoàn xe tăng.

Các lực lượng trên bộ chủ yếu là cho phòng thủ đất nước. Để triển khai sức mạnh ra bên ngoài biên giới, TQ có ba sư đoàn không quân, hai sư đoàn lính thuỷ đánh bộ và ba lữ đoàn hải quân. Thiết bị chính bao gồm hơn 7 000 xe tăng và 8 000 khẩu pháo.

Hải quân TQ chỉ huy 255 000 lính thủy và 10 000 lính thuỷ đánh bộ. Hải quân Quân đội Giải phóng nhân dân (PLAN) được chia thành ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải, có tổng cộng một tàu sân bay, 23 tàu khu trục, 52 tàu khu trục, 49 tàu ngầm tấn công động cơ diesel và 5 tàu ngầm tấn công hạt nhân.TQ có ít nhất ba tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Tấn (Jin –class), tiêu biểu cho rào cản hạt nhân của Bắc Kinh trên biển.

Không quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAAF) có 330 000 nhân viên hoạt động trải ra trên 150 căn cứ không quân và hải không quân. PLAAF và cánh tay hải không quân của PLAN có tất cả 1 321 máy bay chiến đấu và máy bay tấn công, bao gồm hàng trăm J -7 - cộng với 134 máy bay ném bom hạng nặng và chở dầu và 20 máy bay cảnh báo sớm trên không. TQ cũng vận hành hơn 700 máy bay trực thăng chiến đấu.

Độc nhất đối với quân đội TQ là Quân đoàn pháo binh thứ hai, một nhánh biệt lập của quân đội phụ trách tên lửa thông thường và hạt nhân trên đất liền. Quân đoàn pháo binh thứ hai có từ 90 000 đến 120 000 nhân viên chia thành 6 lữ đoàn tên lửa.

Quân đoàn pháo binh thứ hai có hơn 1 100 tên lửa đạn đạo tầm ngắn thông thường với tầm bắn 1 000 km hoặc gần hơn, khoảng 300 tên lửa đạn đạo tầm trung thông thường khác và khoảng 120 tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm xa.

Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm ước tính ngân sách quốc phòng của TQ năm 2013 là $ 188 tỉ. Con số đó bằng khoảng 9 % chi phí quân sự toàn cầu và gần một nửa của toàn bộ chi tiêu ở châu Á. Cùng năm đó, Mĩ đã chi $ 640 tỉ về quốc phòng, Nga $ 88 tỉ, Ấn Độ $ 47 tỉ và Nhật Bản $ 48 tỉ đồng.

Vâng, chi tiêu của TQ có vẻ như rất nhiều. Nhưng không như vậy, thật thế– nhất là xét về góc độ TQ có thể nguy hiểm đến mức nào.


Vị trí không thể ganh tị

Có thể là khó khăn để đi bộ qua khu phố thịnh vượng nhất của Bắc Kinh hay đường phố lấp lánh của Thượng Hải và hiểu rằng bạn đang ở trong một quốc gia giáp ranh với ba trong những nơi bất ổn nhất trên thế giới - Pakistan, Afghanistan và Bắc Triều Tiên.

Sau hàng ngàn năm bị xâm nhập và xâm lược, TQ cuối cùng đã xây dựng biên giới vững mạnh. Bắc Kinh đang làm tốt công việc duy trì hòa bình và thịnh vượng tương đối trong một khu lân cận nghèo nàn, hỗn độn.

"Biên giới đất liền của TQ chưa bao giờ được an toàn như bây giờ," M. Taylor Fravel, giáo sư khoa học chính trị tại Viện Công nghệ Massachusetts, nói với War is Boring.

"Mặc dù tranh chấp với Bhutan và Ấn Độ vẫn còn đó, TQ không còn phải đối mặt với viễn cảnh của một mối đe dọa lớn trên đất liền," Fravel tiếp tục. "Các vụ đụng độ có thể xảy ra trên biên giới với Ấn Độ, nhưng chúng sẽ bị kềm chế bởi địa lí và khó có khả năng leo thang thành một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn."

Điều đó không phải lúc nào cũng như vậy. Bị xâm chiếm bởi Mông Cổ, Nga, thực dân phương Tây và gần đây nhất là Nhật Bản, TQ phải chịu đau khổ rất nhiều dưới bàn tay của người ngoài cả thiên kỷ. Trong điều kiện lịch sử như thế, việc Bắc Kinh muốn quốc phòng mạnh mẽ là điều hiểu được.

Việt Nam đã đánh nhau với TQ vào năm 1979 và làm thiệt mạng 9 000 lính PLA chỉ trong một tháng. Nhật Bản chiếm đóng TQ trong những năm 1930 và 40 đã giết chết hàng triệu người TQ. Ấn Độ đã đánh nhau với TQ gần đây nhất là năm 1962. TQ và Nga tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố ngắn vào năm 1969.

Trung Quốc giáp ranh 14 nước, với Nga bao bọc hầu hết vùng biên. Nhưng trong khi nhiều nước láng giềng của Nga là hòa bình - Estonia, Phần Lan, Na Uy và Latvia…- TQ giáp ranh với Afghanistan, Bắc Triều Tiên, Myanmar và Pakistan. Hai trong số các quốc gia này lại có vũ khí hạt nhân.

Bắc Triều Tiên là đặc biệt nguy hiểm. Không những họ tiến hành ngoại giao qua bạo lực bốc đồng mà lại còn có vũ khí hạt nhân. Không ai biết khi nào hoặc liệu - chính phủ Bắc Triều Tiên sẽ sụp đổ hay không, nhưng ý tưởng về 24 triệu người đói khổ ở đó đột nhiên thấy mình không có chính quyền là một trong những đáng sợ đối với Bắc Kinh.

Năm ngoái chúng tôi phát hiện TQ có kế hoạch dự phòng để đối phó với một Bắc Triều Tiên sau sụp đổ. Điều đó có khả năng sẽ liên quan đến việc quân đội TQ tiến vào Bắc Triều Tiên để thiết lập một vùng đệm. Có lẽ để phản ứng đối với việc tiết lộ này, Bình Nhưỡng mô tả Bắc Kinh như một "tên tráo trở, một kẻ thù."

Trung Quốc đang trải qua một thời kì dài hòa bình và thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử hiện đại của nó. Đồng thời, các cơn đau đầu về láng giềng cũng nhiều hơn bao giờ hết. Đó là một lí do chính đáng cho ngân sách quân sự của TQ là $ 188 tỉ một năm và tăng lên.

Tàu chiến Nga và TQ chuẩn bị cho tập trận hải quân chung 

Hoàn toàn đơn độc
Đồng thời, TQ đang thiếu đáng kể đồng minh thực sự, đáng tin cậy.Chỉ riêng ở Thái Bình Dương, Hoa Kì có thể trông cậy Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Hàn Quốc, New Zealand và Philippines như là những đồng minh thân cận - và duy trì quan hệ thân mật với các nước khác trong đó có Malaysia, Việt Nam và Indonesia.

Trái lại, danh sách các đồng minh ở Thái Bình Dương của TQ rất ngắn ngủi. Chỉ là Nga. Trên toàn cầu, đồng minh của TQ có Pakistan, Zimbabwe, Venezuela và các nước thuộc Tổ chức Hợp tác Thượng Hải  - Pakistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Tất cả đều là những nước chuyên chế hoặc gần chuyên chế, nhiều nước không ổn định và nhiều nước có hồ sơ dài về vi phạm nhân quyền.

Bắc Kinh bảo bọc các láng giềng tồi tệ nhất một phần là để giữ họ trong vòng kiểm soát. Điều này có hiệu quả với Pakistan, nhưng không thành công với Bắc Triều Tiên. Tại Miến Điện, TQ nồng ấm lên với chế độ quân sự áp bức chỉ vì nó đột nhiên mở ra và tìm kiếm các mối quan hệ với phương Tây và Nhật Bản. Cái ‘được’ của TQ là nhiều năm bị lên án vì ủng hộ cho chính quyền quân sự - đó thật ra là chỉ lỗ nặng.

Tuy nhiên, chỗ mà TQ thực sự thất bại chỉ đơn giản là không thuận thảo được với các nước lân cận. Trước cuộc đối đầu gần đây với Philippines ở Ayungin Shoal (bãi Cỏ Mây), mối quan hệ giữa Manila và Bắc Kinh chưa lúc nào tốt ra. Điều tương tự cũng xảy ra cho phần lớn khu vực Đông Nam Á trước khi TQ tuyên bố chủ quyền đối với 90 % biển Đông.

Thậm chí quan hệ với Nhật Bản, kẻ thù lịch sử củaTQ, chỉ nồng ấm nếu phẳng lặng.

Vào khoảng năm 2010, Bắc Kinh đã quyết định ngừng chơi đẹp.TQ bắt đầu theo đuổi các yêu sách lãnh thổ nằm yên đã lâu và cố hết sức mình để tách rời liên minh giữa Nhật Bản và Mĩ. Quan hệ củaTQ với khá nhiều nước trong khu vực Đông và Đông Nam Á đã thành lạnh nhạt.

Thật khó để nói TQ thật sự muốn đạt được. điều gì. Một số người cho rằng TQ đang cố để "Phần Lan hoá" các nước châu Á nhỏ hơn - nghĩa là, đe dọa họ bàytỏ sự trung lập để chối bỏ họ đối với người Mĩ. Những người khác lập luận rằng TQ muốn lấy những vùng lãnh thổ tranh chấp đó mà về cơ bản còn có vấn đề với việc đối xử các nước khác như những nước bình đẳng.

Dù như thế nào, hành động gần đây của TQ đã khiến cho nó hầu như không có bạn bè. Hiệm nay những mối quan hệ quan trọng nhất của TQ với các nước khác trên thực chất chỉ là về kinh tế.

Điều này có tác động rõ ràng đối với tư thế quân sự của TQ. Trong khi Hải quân Hoa Kì có thể đi khắp Thái Bình Dương và thực tế ghé vào hàng chục cảng, thì tàu chiến của TQ chỉ có thể chạy bên ngoài lãnh hải của họ, và ngoài cảng Vladivostok của Nga ra không có nơi nào khác để đi.

Điều này đặt TQ vào thế bất lợi chiến lược to lớn. Bắc Kinh không có đồng minh để cung cấp căn cứ, chia sẻ gánh nặng, trao đổi tình báo, trợ giúp tinh thần.



Chạy đua với lạm phát

Từ năm 1990, chi tiêu quốc phòng củaTQ đã tăng lên ít nhất 10 % mỗi năm, kết quả của một sự gia tăng ngân sách tổng thể gấp 10 lần chỉ trong 24 năm. Một số nhà quan sát trỏ vào chi tiêu quân sự dường như rất lớn củaTQ như là bằng chứng về ý định nham hiểm.

Nhưng sự gia tăng ngân sách gần như không lớn như nó có vẻ.

Tăng trưởng kinh tế củaTQ trong hai thập kỉ rưỡi qua là đột biến, và đã cho phép nước chi tiêu nhiều hơn cho một quân đội hiện đại. Nhưng khi xét như là một tỉ lệ của nền kinh tế, ngân sách quốc phòng của TQ là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.

Và nếu để ý tới thêm lạm phát, gia tăng thực tế của TQ trong chi tiêu quốc phòng thực sự là chỉ theo một chữ số mỗi năm - khó là một khối lượng lớn tiền mặt như những người hay lo lắng la lên.

Điều quan trọng là xem chi phí vũ khí của TQ trong bối cảnh lịch sử. Một phần tư thế kỉ trước, quân đội của Bắc Kinh lớn và công nghệ thấp. Năm 1989, quân đội TQ đã có 3,9 triệu người trên sổ lương – phần lớn bộ binh thiếu xe cộ và vũ khí tinh vi. Xe tăng chính của quân đội là một phiên bản của kiểu T-55 Liên Xô, một thiết kế thời những năm đầu thập niên 1950.

Không quân và hải quân chỉ có khả năng bảo vệ bờ biển.TQ đã có một tàu ngầm tên lửa hạt nhân duy nhất, mà theo lời đồn đại đã bốc cháy và chìm tại cảng.

Trung Quốc là một nước nghèo. GDP là $ 451tỉ. So sánh với GDP của Mĩ năm 1989 là $ 8,84 tỉ. Năm đó, Bắc Kinh chi $ 18,33 tỉ cho quốc phòng. So sánh cùng năm đó, Nhật Bản chi $ 46,5 tỉ và New Zealand nhỏ bé chi $ 1,8 tỉ.

Ngân sách quốc phòng của TQ năm 1989 lên tới mức chi tiêu $ 4 615 cho mỗi người lính. Cùng lúc đó, Mĩ chi 246 000 $ cho mỗi cá nhân thành viên quân đội.

Trong những năm cuối thập niên 80, học thuyết quân sự TQ vẫn nhấn mạnh: "Chiến tranh nhân dân", một chiến lược phòng thủ lôi kéo kẻ địch vào sâu bên trong TQ và sau đó hủy diệt với chiến tranh thông thường và du kích. Điều đó được dựa trên kinh nghiệm chiến tranh củaTQ... và hoàn toàn không còn thích hợp.

Năm 1991, Bắc Kinh ngắm nhìn trong cơn sốc và kinh khiếp khi liên minh do Mĩ dẫn đầu dễ dàng đập tan quân đội Iraq của Saddam Hussein và tống nó ra khỏi Kuwait. Một chiến dịch không quân kéo dài vài tuần và một cuộc tấn công trên bộ chỉ kéo dài 100 giờ đã hủy diệt một lực lượng Iraq vượt trội về số lượng.

Đột nhiên, quân đội to lớn nghèo nàn của TQ trông giống như một gánh nặng.

Bắc Kinh đã có rất nhiều việc phải làm trong việc cải cách lực lượng vũ trang. Điều đó đòi hỏi tiền của. Tin tốt cho TQ là nhờ vào một nền kinh tế đang bùng nổ nên thật ra không phải dành một tỉ lệ lớn hơn trong sản lượng quốc gia cho quốc phòng để đầu tư nhiều hơn cho quân lính có năng lực và các loại vũ khí hiện đại.

Một cách để nhìn vào chi tiêu quốc phòng là xem dưới dạng như là một tỉ lệ phần trăm GDP. Các láng giềng chính của TQ, ngoại trừ Nhật Bản, phân bổ nhiều hơn cho quân đội của họ như là một tỉ lệ phần trăm của GDP tương ứng. Ấn Độ dành ra 2,5 %, Hàn Quốc 2,8 % và Nga 4,1 %. Hoa Kì, với quân đội trang bị tốt nhất trên hành tinh, dành 3,8 % GDP cho quốc phòng.

Nghịch lí ngân sách quân sự của TQ là chi tiêu vẫn tăng lên ngay cả khi phần chia cho quốc phòng trong nền kinh tế giảm xuống. Như là một tỉ lệ phần trăm của nền kinh tế, chi tiêu vũ khí của TQ thật ra đã giảm hơn 20 % một ít. Bắc Kinh đã chi 2,6 % GDP cho quốc phòng trong năm 1989. Từ năm 2002 đến năm 2010, họ dành trung bình là 2,1 %. Trong năm 2013, ngân sách quân sự của TQ chỉ chiếm 2 % GDP.

Phần của chiếc bánh kinh tế mà quân đội TQ nhận được nhỏ hơn. Chỉ có điều là tự chiếc bánh đã lớn, lớn hơn rất nhiều so với 25 năm trước đây.


An ninh công cộng

Theo một số tính toán, năm 2013 TQ đã chi cho "an ninh công cộng" - kiểm duyệt Internet, thực thi pháp luật và Cảnh sát bán quân sự vũ trang nhiều hơn chi cho phòng vệ bên ngoài. Ngân sách an ninh nội bộ của TQ trong năm 2014 là một bí mật, dẫn đến suy đoán rằng một lần nữa, Đảng Cộng sản TQ đang chi tiêu nhiều hơn để tự bảo vệ trước người dân của chính họ hơn là chống lại các nước khác.

Đảng biết họ đang làm gì. Nhiều người TQ không hài lòng sống dưới một chế độ độc tài toàn trị. Thiệt hại môi trường, lạm dụng lao động, tham nhũngthu tóm đất đai có thể - và dễ nhanh chóng leo thang thành bạo loạn.

Bên trên những điều đó,TQ còn phải đấu tranh với tình trạng bất ổn ở mức độ thấp ở tỉnh Tân Cương ở xa về phía tây - nơi dân Duy Ngô Nhĩ phẫn nộ bị phần còn lại của TQ thực dân hoá và ở Tây Tạng cũng vậy.

Theo hiện trạng, TQ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải chi tiêu thật nhiều cho an ninh công cộng. Dù điều đó là xấu cho người dân TQ, nhưng lại thật sự là điều tốt cho khu vực. Phần lớn sức mạnh quân sự mà Bắc Kinh mua sắm mỗi năm được hướng vào bên trong và chưa bao giờ triển khai ra bên ngoài.

Muốn sánh được với chi tiêu quân sự của Mĩ như là một tỉ lệ phần trăm của GDP sẽ đòi hỏi TQ dành 5,8 % cho việc phòng vệ trong nước và bên ngoài. Đó chỉ là một viễn cảnh không thực tế. Chỉ có ba quốc gia dành mức nhiều như thế của nền kinh tế cho quân đội là Ả - rập Xê-út, Oman và Nam Sudan.

Hơn nữa, những đôla mà TQ chi tiêu cho lực lượng quân sự bên ngoài không kéo dãn quá xa như hầu hết các nhà quan sát giả định. "Trong suốt nhiều thời kì đổi mới sau năm 1978, những hiệu quả thực tế trong chi tiêu quốc phòng của TQ trên danh nghĩa đã bị giảm thiểu rất nhiều bởi lạm phát tràn lan, Andrew Erickson, một giáo sư tại trường Naval War College Mĩ đã viết.

Năm 2008, TQ chi cho quốc phòng hơn năm 2007 là 14,9 % . Nhưng tỉ lệ 14,9 % tăng đó trùng hợp với lạm phát 7,8 %, kết quả là gia tăng ngân sách quân sự ròng chỉ 7,1 %. Năm 2010, chi tiêu quốc phòng tăng 7,8 % và đã bị nuốt chửng bởi một tỉ lệ lạm phát 6,7 %, cho gia tăng ròng chỉ 1,1 %.

Điều chỉnh theo lạm phát, từ năm 2004 đến năm 2014, chi tiêu quốc phòng của TQ tăng trung bình 8,3 % theo giá trị thực. Đó là vẫn là khoản tiền rất lớn, đặc biệt là khi chi tiêu quốc phòng ở hầu hết các nước phương Tây đã giảm xuống. Nhưng ngân sách của PLA không thật sự gia tăng hai chữ số như nhiều người hoang mang nêu ra.


'Công ti' PLA, và 'nhà máy sản xuất cấp bậc'

Tham nhũng là một vấn đề rất lớn và phần lớn là không thấy được đối với quân đội TQ. Các quan chức bán tài sản chính phủ để thu lợi nhuận riêng. Nhà thầu thu phí tăng cao cho công việc dưới tiêu chuẩn. Ô dù, thân quen gây nên tình trạng đề bạt người không đủ chuẩn.
Trong nhiều năm qua, quân đội TQ tạo ra thu nhập thêm – qua việc canh tác và chăn nuôi riêng. Khi nền kinh tế củaTQ cất cánh, những nỗ lực còn tồn tại này phát triển thành doanh nghiệp. Cùng với canh tác và chăn nuôi, PLA mở thêm khách sạn, rạp chiếu phim và quán bar - lợi nhuận từ đó thường là lọt vào túi riêng các sĩ quan trên cùng.

Năm 1998, Đảng Cộng sản TQ đã ra lệnh cho quân đội TQ cắt đứt quan hệ với các doanh nghiệp thương mại nhằm nâng cao tính sẵn sàng của quân đội. Một đơn vị bộ binh không cần phải nuôi lợn riêng cho mình nữa - ngân sách quốc phòng có thể đáp ứng nhu cầu thực phẩm của quân lính. Các đơn vị có thể tiếp tục làm tốt công việc lính tráng.

Nhưng thay vì kết thúc chúng, các lãnh đạo quân sự tham nhũng chỉ việc che dấu các liên doanh sinh lợi của họ.

Kinh doanh bán bất hợp pháp các bảng số xe quân sự cho dân thường giàu có đã là một trong những ngành kinh doanh đặc biệt hấp dẫn. Người mua bảng số xe – thường là những dân thường chỉ có quan hệ hời hợt với PLA – gắn đèn hiệu đỏ và còi báo động trên xe ô tô của họ để giúp họ dễ dàng di chuyển trên đường phố. Những người có bảng số này thường được xăng miễn phí.

Tình hình trở nên tồi tệ đến mức vào năm 2013, quân đội TQ cấm các xe nhập khẩu đắt tiền - Mercedes- Benz, BMW, Porsche và Bentley - có bảng số quân đội.

Bắc Kinh thỉnh thoảng cũng trừng trị các cán bộ tham nhũng. Năm 2007, một quan toà đã ra một án tử hình treo cho Phó Đô đốc Vương Thủ Nghiệp (Wang Shouye) vì biển thủ $ 25 triệu trong quỹ PLA.

Là phó giám đốc của Tổng cục Hậu cần của PLA từ năm 1997 đến năm 2001, Wang đã ở chức vị phê duyệt nhà ở mới cho quân đội. Chính phủ cáo buộc Wang nhận lại quả từ các nhà thầu.

Cảnh sát bắt giữ Wang năm 2006 sau khi phó đô đốc từ chối thư tống tiền của một trong nhiều tình nhân. Các nhà điều tra tìm được hơn $ 8 giấu trong lò vi sóng và tủ lạnh trong nhà của Wang tại Bắc Kinh và Nam Kinh,và $ 2.5 triệu nữa trong máy giặt. Có bằng chứng thêm $ 8 triệu nữa trong các quỹ đánh cắp được nằm trong tài khoản ngân hàng của Wang.

Tháng 3, công an bắt giữ Từ Tài Hậu (Xu Caihou), một vị tướng đã nghỉ hưu và cựu uỷ viên Quân Ủy Trung ương đầy quyền lực, bị cáo buộc đã làm ra hàng triệu đô la qua việc bán chức trong quân đội. Xu phụ trách việc thăng chức cấp cao trong quân đội từ năm 2004 đến 2013.

Chúng ta không biết chính xác Xu đã làm ra bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, thuộc hạ của tướng này là Cốc Tuấn Sơn (Gu Junshan) - cũng đang bị giam giữ và điều tra – đã cho con gái Xu một thẻ ngân hàng (debit card) trị giá $ 3,2 như quà cưới.

Gu đã bán "hàng trăm" chức. "Nếu một đại tá [không nằm trong diện đề bạt] muốn trở thành một thiếu tướng, ông đã phải trả tới $ 4,8 triệu," một nguồn tin nói với Reuters.

Đó là một số tiền lớn. Trong hầu hết các đội quân chuyên nghiệp, hối lộ như vậy sẽ không đáng giá. Nhưng trong quân đội TQ, một chi trả như thế là một khoản đầu tư. Cấp bậc của một sĩ quan càng cao thì càng có nhiều cơ hội làm giàu.

Daniel Hartnett, một nhà phân tích về TQ tại Tổng công ty CNA, nói War is Boring rằng tham nhũng có thể làm hỏng khả năng quân sự của quân đội TQ, ít nhất bằng "việc cản trở khả năng của quân đội TQ phát triển sĩ quan của mình."

"Nếu sĩ quan đang mua chức, như những cáo buộc gần đây, điều có thể có nghĩa là những người cần được thăng chức do tài đức có thể đã không được đề bạt. Và những người đang được nâng chức, không nhất thiết phải là có tài" Hartnett nói.

Hối lộ có thể làm tổn thương PLA theo những cách khác, Hartnett giải thích. "Mặc dù quá trình mua sắm PLA thường là một hộp đen, sẽ là một kết luận hợp lí rằng một số - thậm chí có thể nhiều - quyết định mua sắm không nhất thiết được thực hiện với lợi ích tốt nhất của PLA trong đầu. Mua mặt hàng này, và nhận được một lại quả, ngay cả khi mặc hàng đó là kém chất lượng hoặc không nhất thiết cần tới. "

Tham nhũng cũng có thể tạo ra một vết nứt rộng giữa người dânTQ và PLA. " Nếu quân đội được coi là một tổ chức tham nhũng, như nó là vậy trong những năm đầu thập niên 1980 ở TQ, ủng hộ tổng thể cho quân đội TQ có thể bị suy giảm," Hartnett nói. "Điều này là quá nặng nề so với những lời tán tụng của quân đội rằng họ là kẻ gìn giữ danh dự và tính toàn vẹn cho TQ, rằng họ đã làm việc rất cật lực để phát triển trong hơn hai thập niên vừa qua."

Tinh thần trong các sĩ quan PLA đã giảm mạnh trong bối cảnh vụ bê bối Cốc Tuấn Sơn. Theo Reuters. "Nhiều người sợ bị trừng phạt. Những người có thể đi qua nhờ lên chức thì bất mãn."

Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2013, Chủ tịch TQ Tập Cận Bình đã nhiều lần được đưa tin qua việc thúc giục quân độiTQ "chuẩn bị cho chiến đấu." Điều đó có thể có vẻ hiếu chiến, nhưng nhìn dưới ánh sáng của vấn đề tham nhũng của PLA, Tập Cận Bình có thể nói với các sĩ quan ngưng việc kiếm tiền và hãy làm công việc của mình.

" Không một quốc gia nào có thể đánh bại TQ, " một chính ủy PLA hàng đầu đã được trích dẫn khi nói trên tạp chí Foreign Policy (Chính sách đối ngoại). "Chỉ có tham nhũng của chính chúng ta mới có thể tiêu diệt chúng ta và khiến lực lượng vũ trang của chúng ta bị thua mà không qua đánh nhau."


Đồ trong nhà bảo tàng

Mặc dù ngân sách quốc phòng ngày càng tăng, kho vũ khí của TQ vẫn tràn ngập thiết bị lạc hậu. PLA đang có 7 580 xe tăng chiến đấu chủ lực – nhiều hơn so với quân đội Mĩ. Nhưng chỉ có 450 chiếc trong số xe tăng này thuộc loại 98A và loại  99 - là gần hiện đại, với súng 125 mm, vỏ giáp composite, hệ thống nhúng hiện đại và hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến.

Tất cả trong khoảng 5 000 xe tăng M-1 của Mĩ đều hiện đại.

7,130 xe tăng khác của TQ- một vài trong số đó có hình ở đây – đều cùng là thế hệ sau của loại xe Liên Xô T- 55 tạo thành lực lượng thiết giáp của Bắc Kinh vào những năm cuối thập niên 1980... và đã lỗi thời thậm chí ngay lúc đó.

Trung Quốc cũng có rất nhiều máy bay chiến đấu. Giữa lực lượng không quân Quân đội nhân dân và cánh không quân của Hải quân Quân đội Giải phóng nhân dân, TQ tự hào có không ít hơn 1 321 máy bay chiến đấu, một đội máy bay chỉ hơi nhỏ hơn đội của Mĩ.

Nhưng lực lượng không quân của TQ tương tự như vậy vẫn duy trì máy bay phản lực chủ yếu là lỗi thời. Trong số 1 321 máy bay chiến đấu, chỉ có 502 chiếc là hiện đại -296 chiếc là biến thể của Su-27 của Nga và 206 chiếc J-10 thuộc thiết kế bản địa. Còn lại 819 máy bay chiến đấu – hầu hết là J-7, J- 8 và Q -5 – thuộc thiết kế thập niên 1960 được xây dựng trong thập niên 1970. Các máy bay này sẽ không thọ lâu trong một cuộc chiến tranh nóng.

Lực lượng hải quân là trong tình trạng tốt nhất, nhưng điều đó không nói lên gì nhiều. Tàu khu trục của PLAN và tàu khu trục nhỏ là khá mới, nhưng tàu sân bay đầu tiên Liêu Ninh là một tàu cũ của Liên Xô đóng lại từ những năm 1980. Sau một đợt tái trang bị 9 năm, Liêu Ninh bắt đầu chạy thử nghiệm trên biển năm 2011.

Liêu Ninh có kích thước bằng một nửa kích thước của tàu sân bay Nimitz hạng siêu của Mĩ và sức chở máy bay chỉ bằng một nửa. Vì Liêu Ninh thiếu một máy phóng nên máy bay chiến đấu J -15 của hải quân TQ phải sử dụng một đoạn đường trượt để cất cánh và điều đó làm giới hạn tải trọng và tầm hoạt động của chúng. Liêu Ninh thiếu radar và máy bay tiếp nhiên liệu, những thứ cho phép các tàu mặt bằng của Mĩ sức mạnh chiến đấu tầm xa.

Tàu ngầm là một lãnh vực có vấn đề khác của PLAN. Hơn một nửa trong số 54 tàu ngầm của TQ hiện đại có nghĩa là, được đóng trong vòng 20 năm qua. Hạm đội ngầm hiện đại của Bắc Kinh bao gồm các lớp Thương (Shang), Hán (Han), Nguyên (Yuan) và Tống (Song). Tất cả bốn lớp đểu do người TQ đóng. Tất cả đều thua kém rõ rệt so với thiết kế phương Tây.

Các tàu ngầm còn lại củaTQ, đặc biệt là những tàu cổ điển lớp Minh của thập niên 1980 là hoàn toàn lỗi thời.

PLAN đã ngưng sản xuất lớp Thương năng lượng hạt nhân sau khi chỉ đóng ba chiếc - một dấu hiệu đáng ngại. Hơn nữa, Bắc Kinh đã đặt hàng với Nga đến bốn tàu ngầm lớp Kalina, báo hiệu một sự thiếu tin cậy vào các thiết kế tại chỗ.


Nhiều ẩn số chưa biết

Một trong những dấu hiệu dễ thấy nhất của sức mạnh quân sự của TQ là tất cả thiết bị (hardware) đều mới, thiết kế và sản xuất tại chỗ. Bắc Kinh đang xây dựng tàu, máy bay, máy bay không người lái và xe tăng mới mà vẻ bên ngoài, dường như sánh được với vũ khí của phương Tây. Nhưng chúng ta biết rất ít về các loại vũ khí tự chế của TQ. Cụ thể, chúng ta không biết liệu có thứ nào trong đó thực sự sử dụng được hay không.

Trong một nỗ lực sớm để hiện đại hóa quân đội TQ, trong thập niên 1980 TQ tăng cường quan hệ với các nhà thầu quốc phòng phương Tây. Bắc Kinh đã mua máy bay trực thăng, máy bay, động cơ, thiết bị điện tử hải quân và đạn dược. Sau đó, vào năm 1989, chính phủ TQ sát hại sinh viên ủng hộ dân chủ gần quảng trường Thiên An Môn ở trung tâm Bắc Kinh. Mĩ và châu Âu nhanh chóng áp đặt lệnh cấm vận vũ khí.

Trung Quốc quay sang Nga, nhưng Nga lại muốn bán thành phẩm sang TQ hơn là giúp nước láng giềng này tự phát triển ngành công nghiệp đó. Bắc Kinh nhận ra họ sẽ phải hoàn toàn tự mình phát triển vũ khí.

Điều đó không phải là dễ dàng. Trên toàn thế giới, chỉ có Hoa Kì vẫn có công nghệ, chuyên môn và năng lực công nghiệp để tự mình làm ra tất cả các thiết bị quân sự. Điều này vô cùng tốn kém.

Nhiều vũ khí "mới" của TQ thật ra là thiết kế của nước ngoài mà các công ty nhà nước của Bắc Kinh đã được cấp phép, đánh cắp hoặc dầy công phân tích cấu tạo. Máy bay trực thăng Trường Hà Z-8 (Changhe Z -8) có gốc là chiếc Super Frelon của Pháp. Máy bay trực thăng trinh sát Cáp Nhĩ Tân Z -9 (Harbin Z-9) vốn là trực thăng Dauphin của châu Âu. Xe tăng loại 99 là một kiểu cập nhật kiểu T-72 của Liên Xô.

Chắc chắn, không phải tất cả các thiết bị mới của PLA đều là một điều vượt trội. Nhưng "tự chế" không nhất thiết đồng nghĩa với "tốt." Trong nhiều trường hợp, chúng ta chỉ có thể đoán chất lượng của vũ khí. Nói cho cùng, TQ không có tự do báo chí.

Chẳng hạn, nguyên mẫu máy bay chiến đấu tàng hình J- 20, đã bay thử nghiệm vài chục lần kể từ khi xuất hiện lần đầu vào cuối năm 2010. Máy bay lớn góc cạnh này có vẻ nâng tầm hoạt động xa và tải trọng lớn, nhưng tính tàng hình của nó khó mà đánh giá. Hệ thống điều khiển điện tử, khí động học, vũ khí và thiết bị cảm biến và đặc biệt là động cơ của nó - đều có vấn đề.

Thiết kế J -20 có vẻ phải chờ động cơ mới do TQ phát triển để thay thế cho nguyên mẫu AL- 31N do Nga sản xuất .TQ đang tiến hành công việc cho những động cơ này, nhưng chưa có thành công thấy được, kể từ đầu những năm 1990.

Điều quan trọng là nên nhớ rằng máy bay chiến đấu phối hợp mới nhất F-35 (Joint Strike Fighter) của Mĩ bay lần đầu tiên vào năm 2006 và vẫn chưa sẵn sàng cho chiến đấu cho đến năm 2016. Hoa Kì có kinh nghiệm phát triển máy bay chiến đấu tàng hình. TQ thì không. Nếu chúng ta cũng cứ cho TQ 10 năm tính từ chuyến bay đầu tiên tới lúc sẵn sàng cho đánh trận, J- 20 sẽ chưa phải là một máy bay chiến đấu ở tuyến đầu cho đến năm 2021. Đó là mức sớm nhất.

Thông số kĩ thuật của tàu khu trục phòng không loại 052C/D của PLAN cho thấy chúng có vẻ rất giống với tàu chiến phương Tây, chẳng hạn như chiếc Darings của Vương quốc Anh hoặc chiếc Arleigh Burkes của Mĩ. Nhưng chúng ta không biết các tàu này xây dựng khó khăn mức nào, hệ thống phòng không làm việc kết hợp với radar theo từng mảng pha tốt đến cỡ nào hoặc các tên lửa của tàu đó chính xác và đáng tin cậy thế nào.

Khi nói đến phát triển vũ khí, TQ bắt đầu sau Nga và phương Tây rất xa và đang phải vật lộn để bắt kịp. Và chúng ta không được quên rằng chính cái chính phủ đang phát triển tất cả các thiết bị này cũng là nguồn duy nhất cho thông tin về thiết bị mới đó. Vào lúc này, hoài nghi về các loại vũ khí của TQ là khôn ngoan.
 

Hàng xóm canh chừng

Hành vi hung hăng của TQ ở biển Hoa Đông và biển Đông đã thúc đẩy nhiều nước láng giềng kết nhóm với nhau hoặc tìm kiếm sự hậu thuẫn của các đồng minh lớn mạnh hơn. Nhật Bản là trung tâm cho rất nhiều thỏa thuận hợp tác.

Bị giới hạn về chính trị và hiến pháp trong những loại hành động trực tiếp nào mà họ có thể thực hiện để đối phó với TQ, Nhật Bản đang xây dựng mối quan hệ với các nước láng giềng bất mãn khác của TQ và với các nước phương Tây. Tokyo hiện đang đàm phán với Úc, Anh, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Việt Nam, Canada và Hoa Kì.


Việt Nam, một cừu địch từ xa xưa của TQ, đã bắt đầu xây dựng một quân đội theo hướng chống lại quân đội TQ. Họ đã mua máy bay chiến đấu Su-27 và Su-30 của Nga và bốn tàu khu trục Gepard. Việt Nam thậm chí còn mua tàu ngầm lần đầu - 6 chiếc Kilo diesel - điện cải tiến của Nga loại tân tiến hơn các chiếc Kilo của chính hải quânTQ.

Hà Nội tăng cường quan hệ nước ngoài. Ấn Độ sẽ đào tạo thủy thủ tàu ngầm cho Việt Nam. Việt Nam cũng đã gợi ý để cho các tàu nước ngoài sử dụng cảng tại Vịnh Cam Ranh, nhưng có khả năng rút lại vì điều đó sẽ là một hành động khiêu khích nghiêm trọng đối với TQ.

Philippines, bị khóa trong một cuộc giằng co với TQ ở bãi Cỏ Mây (Ayungin Shoal), đã bắt đầu xây dựng lại hải quân và không quân, đã mua tàu tuần duyên cũ của Mĩ cho hải quân và hàng chục máy bay chiến đấu nhẹ TA- 50 của Hàn Quốc cho không quân. Manila đã đồng ý cho Mĩ sử dụng và đóng quân tại các căn cứ quân sự của họ.

Châu Á có thể sẽ không tập hợp lại thành một liên minh mới kiểu NATO trong tương lai gần. Các đối thủ của TQ chưa sẵn lòng chấp nhận một sự hội nhập quân đội chặt chẽ như vậy. Hầu hết đều không sẵn sàng để chiến đấu vì nước khác. Nhiều nước trong số đó, dù cảnh giác với sự xâm lược của TQ, vẫn còn có quan hệ kinh tế mạnh mẽ đến Bắc Kinh.

Tuy nhiên, mức độ hợp tác sẽ làm phức tạp bất kì động thái quân sự nào của TQ. Không nhất thiết rằng Bắc Kinh có ý định xâm lược... bất cứ ai. Bao giờ hết. Sức mạnh quân sự, ngoại giao và kinh tế là lực lượng hoà quyện nhau cho phép một chính phủ định hình môi trường của mình một cách hòa bình chống lại ý chí của đối thủ.

Câu hỏi lớn là, khi nào thì TQ bắt kịp Mĩ về quân sự?

Sẽ chẳng bao giờ.

"TQ sẽ già trước khi giàu”, bây giờ là một sáo ngữ trong các nhà quan sát TQ. Nhưng đó là sự thật. Làn sóng nhân khẩu học từng trao cho TQ một nguồn lao động phong phú cũng sẽ sớm chuyển đổi đất nước này thành nhà nghỉ hưu lớn nhất thế giới.

Chính sách "một con" của Bắc Kinh càng làm xu hướng này thêm gay gắt. Hiện nay TQ có 16 người về hưu trên 100 người đi làm. Dự phóng cho thấy số đó tăng thành 64 người về hưu trên 100 đi làm vào năm 2050, kết quả là dân số xám xịt hơn nhiều so với ở Mĩ.

Điều này có tác động gián tiếp - nhưng nghiêm trọng - đối với quốc phòng của TQ. Hầu hết người dân TQ không có lương hưu trí và ở tuổi già họ phải dựa vào tiết kiệm cá nhân hoặc gia đình ... một mệnh đề khó khăn khi chỉ có một con để chăm lo cho hai cha mẹ.

Nếu Bắc Kinh muốn duy trì tiết kiệm và năng suất gia đình thì sẽ phải xây dựng một loại hệ thống phúc lợi xã hội nào đó. Và điều đó có nghĩa là thực hiện một số lựa chọn khó khăn.

Biên giới củaTQ là an toàn. Mĩ, Nhật Bản và Ấn Độ không thể lật đổ TQ. Nhưng hàng chục triệu gia đình tuyệt vọng TQ có thể làm như vậy và rất có thể, nếu Bắc Kinh không thể tìm ra một cách nào đó để chăm sóc cho họ khi có tuổi.

Trung Quốc có vũ khí hạt nhân. Nó được cai trị bởi một chế độ độc tài, dân tộc chủ nghĩa sâu sắc với một lịch sử đối xử tàn tệ đối với chính công dân của mình. Họ có nhiều yêu sách lãnh thổ xung đột với các nước khác và một ngân sách quốc phòng tăng 8 % mỗi năm. Theo dõi thận trọng TQ là sáng suốt.

Tuy nhiên, TQ là một tên khổng lồ khập khiễng có nhiều vấn đề sâu rộng và có tính hệ thống. Một vài vấn đề trong số đó, đặc biệt là vấn đề công nghệ - là có thể giải quyết được. Vấn đề nhân khẩu học thì không như vậy. Và đó là lí do lớn nhất mà con rồng giấy không tạo ra một mối đe dọa lớn với phần còn lại của thế giới trong dài hạn.

Wednesday, May 14, 2014

Chỉ có cách đưa Trung Quốc ra toà

Biện pháp đối phó với vụ Trung Quốc mang giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
(Bài đã đăng trên Tia Sáng http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7496 15/05/2013 với tựa như trên) 

Trong vụ Trung Quốc (TQ) mang giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (VN), thử xét cơ sở lập luận của mỗi bên để chúng ta có thể có biện pháp đối phó thích đáng.

1.      Theo TTX Việt Nam trong vụ TQ đưa giàn khoan khủng tới gần đảo Tri Tôn, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định "Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan HD-981 nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lí. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982."
Phát biểu này dựa trên cơ sở là vị trí điểm đặt giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lí của Việt Nam (cụ thể, như bản đồ cho thấy, cách đảo Lí Sơn khoảng 119 hải lí và cách đường ranh EEZ khoảng 80 hải lí).

HD-981c.JPG
(Bản đồ tạo từ file kmz có thể tải về máycá nhân để mở trên Google Earth ở đây: https://www.dropbox.com/s/67521dpzdihe0wz/HD-981.kmz)

Lưu ý thêm rằng đường ranh giới EEZ 200 hải lí của VN (đường màu hường) đã được vẽ theo đúng các toạ độ nêu trong hồ sơ VN nộp Uỷ ban ranh giới thềm lục địa LHQ ngày 6/5/2009. Đường này dừng lại ở điểm cách đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa lần lượt khoảng 60, 70 hải lí. Do đó, có vẻ quan điểm của chính phủ VN là các đảo ở đây không được hưởng hoặc chỉ hưởng một phần hiệu lực EEZ về phía VN hay TQ. Nếu trường hợp sau là đúng thì phần sau của phát biểu trên có thể hàm ý rằng vị trí đó còn nằm trong vùng biển mà Việt Nam có thể được hưởng theo quy định của Công ước về luật biển (UNCLOS) từ một[/nhiều] đảo/đá của quần đảo Hoàng Sa và do quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam (cụ thể là nằm trong EEZ của đảo Hoàng Sa hay đảo Phú Lâm - hai đảo có tiềm năng thoả định nghĩa đảo theo UNCLOS[1] nhất).

2.      Trong khi đó, theo VN Express, để biện hộ cho việc triển khai giàn khoan 981 người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng “[c]ác công việc liên quan đang nằm hoàn toàn trong khu vực thuộc quần đảo Tây Sa."

Trước nhất, lưu ý rằng TQ đã tuyên bố đường cơ sở của quần đảo Hoàng Sa (đường đa giác màu hường nhạt) khi phê chuẩn UNCLOS ngày 15/5/1996, và từ giữa thập niên 1980 sau khi chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa khá lâu (hơn 10 năm) TQ có vẻ tự tin là quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về họ[2]. Theo đó, có nhiều khả năng là phát biểu của Hoa Xuân Oánh dựa trên cơ sở là vị trí giàn khoan (cách đảo Tri Tôn khoảng 17 hải lí) nằm bên trong EEZ của quần đảo Hoàng Sa theo cách tính của họ cũng từ đường cơ sở này và hơn nữa không vượt quá trung tuyến của Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa như VLIZ (Viện nghiên cứu biển Flanders – Bỉ) vẽ ra trong bản đồ trên[3] (với giả định là cả hai phía đều có EEZ và có hiệu lực như nhau). Tuy nhiên, cơ sở này có tiền đề không vững vì đường cơ sở thẳng mà họ vạch ra không phù hợp UNCLOS do TQ không phải là nước quần đảo.[4]

Thứ hai, cũng có khả năng TQ tin rằng với những thay đổi nhân tạo mà họ đã thực hiện trên quần đảo Hoàng Sa, đặc biệt là ở đảo Phú Lâm thì ít ra đảo này đã thoả đầy đủ điều kiện theo định nghĩa của điều 121 UNCLOS, tức là có EEZ và EEZ này có hiệu lực đủ[5] để bao gồm luôn vị trí đặt giàn khoan 981 (cách nó khoảng 103 hải lí). Do đó, đây có thể là một cơ sở vững hơn cho tuyên bố của họ dù tính chất đảo của Phú Lâm vẫn còn là nghi vấn.
Thứ ba, chắc chắn họ cũng đã thấy vị trí giàn khoan cách đảo Hải Nam khoảng 183 hải lí, tức là cũng nằm trong EEZ 200 hải lí và thềm lục địa của đảo này. Đây là một cơ sở vững vàng nhất theo UNCLOS. Tuy nhiên, họ chưa nói ra có thể vì vị trí giàn khoan chỉ cách Lí Sơn khoảng 119 hải lí và bờ biển VN khoảng 132 hải lí, tức là dù tính từ Lí Sơn hay từ bờ biển VN thì điểm đó vẫn nằm trong sâu trong EEZ của VN hơn nhiều so với trong EEZ của Hải Nam. Do đó, nếu nêu điều này ra họ sẽ bị thất lợi vì vị trí giàn khoan rõ ràng đã vượt quá trung tuyến[6] vào EEZ phía VN, và hơn nữa họ cũng bỏ lỡ dịp để khẳng định lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và đường cơ sở trái phép của họ.

Ngoài ra, để ý rằng vị trí giàn khoan cũng nằm hoàn toàn trong đường ‘lưỡi bò’ và tiến sĩ Ian Storey, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore có bình luận trên BBC rằng "Việc TQ cho đặt giàn khoan trên thềm lục địa của VN là chỉ dấu rằng Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của quốc gia khác hay không." Tuy nhiên, chúng ta không thấy họ đá động gì tới đường này dù từ trước tới nay họ vẫn tuyên bố TQ có chủ quyền không tranh cãi đối với các đảo/đá và các vùng biển liên quan bên trong đường này. Điều này có thể do họ không muốn công luận đào sâu ĐLB có nhiều vấn đề này vốn đã bị rất nhiều học giả phê phán.
3.      Để ý rằng hiện nay hai nước chưa có thoả thuận về phân giới biển bên ngoài vịnh Bắc Bộ nên dĩ nhiên bên nào cũng có quyền yêu sách tối đa quyền được hưởng của mình.[7] Theo phân tích trên, dù có dựa vào chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay không thì tuyên bố của bên nào cũng có vẻ đã theo UNCLOS (dù khác nhau về mức độ hợp lí và công bằng). Như vậy, thuần tuý về mặt pháp lí thì vị trí giàn khoan nằm trong vùng chồng lấn, ít ra về EEZ của hai bên, tức là nằm trong khu vực tranh chấp theo như tuyên bố của hai bên. Theo luật quốc tế thì không bên nào được thực hiện các hoạt động thăm dò, khai thác kinh tế trong các khu vực có tranh chấp. Vì thế, nếu TQ không rút giàn khoan ra ngoài và hai bên không thương lượng được về cách phân giới biển ở đây thì với thực tế là nước nhỏ, VN chỉ còn có cách là đưa vụ việc ra trọng tài quốc tế phân xử và nhân cơ hội tranh thủ tìm cách giải quyết vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 của UNCLOS để tránh việc áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho một số loại tranh chấp nên trọng tài UNCLOS không có thẩm quyền để phán quyết vùng biển đó thuộc về bờ biển hay đảo nào. Dù vậy, trọng tài vẫn có thẩm quyền công nhận có tồn tại tranh chấp trong khu vực đó bất chấp vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, tính chất các đảo đá, hiệu lực được hưởng…như thế nào. Khi đó, TQ sẽ không được đơn phương khoan dầu khí ở đó. Từ đó, với sức ép ngoại giao và công luận quốc tế, hi vọng họ sẽ rút giàn khoan ra khỏi khu vực và không tái diễn hành động ngang ngược này trong tương lai.
Dĩ nhiên, đây chỉ là một biện pháp trước mắt để trục giàn khoan TQ ra khỏi EEZ của VN và hiệu lực còn tuỳ vào thái độ của TQ. Tuy nhiên, đây cũng là một bước tiến tích cực trong vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vì khu vực này được chính thức công nhận là có tranh chấp mà TQ không thể chối bỏ như hiện nay.Điều này có thể có tác dụng ngăn ngừa các hành động ‘thực thi chủ quyền’ tương tự của TQ, kể cả các hành động như quấy rối ngư dân, tàu thuyền, đơn phương cấm đánh bắt cá... trong khu vực này trong tương lai.

Phan Văn Song (CTV Quỹ NCBĐ)
Bài viết được ý kiến đóng góp của ông Dương Danh Huy (TV Quỹ NCBĐ)




[1] Điều 121 Công ước LHQ về Luật biển quy định về đảo và đảo đá như sau:
1.       Đảo (island) là một vùng đất hình thành tự nhiên có nước bao bọc xung quanh, nổi trên mặt nước khi triều cao.
2.       Ngoại trừ [trường hợp] như quy định trong điểm 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo được xác định theo đúng các quy định trong Công ước cho lãnh thổ đất liền khác.
3.        Đảo đá (rock) không thích hợp cho việc cư trú của con người và không có đời sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa..
[2] Từ năm 1980 trở về trước, TQ còn đưa ra các tuyên bố, tài liệu chứng minh chủ quyền Hoàng Sa thuộc về họ, cụ thể như tài liệu  CHINA’S INDISPUTABLE SOVEREIGNTY OVER THE XISHA AND NANSHA ISLANDS công bố ngày 30/1/1980… Sau đó thì họ chỉ còn thừa nhận có tranh chấp ở quần đảo Trường Sa và phủ nhận có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa.
[3] Thật ra, quần đảo Hoàng Sa khó có thể được hưởng EEZ theo UNCLOS, thậm chí các đảo có tiềm năng là đảo theo định nghĩa UNCLOS như Phú Lâm, Hoàng Sa có được EEZ hay không và nếu có thì hiệu lực tới mức nào vẫn là các câu hỏi không dễ trả lời.
[4] Theo Quy định của UNCLOS thì những quốc gia quần đảo (như Philippines, Indonesia…) mới có thể vẽ đường cơ sở bằng cách nối những điểm nằm ngoài cùng trên cáo đảo/đá xa nhất lại với nhau (theo một số ràng buộc nhất định).
[5] Theo các án lệ từ trước tới nay việc phân giới biển giữa đất liền và đảo nhỏ thường dùng trung tuyến có điều chỉnh (chú ý tới độ dài hai bờ biển đối diện và các yếu tố có ảnh hưởng khác) ví dụ trong vụ Nicaragua kiện Columbia, toà dùng tỉ lệ 3:1 giữa các điểm cơ sở của hai bên. Do đó, việc đảo Phú Lâm được hưởng thậm chí  ½ hiệu lực (nếu quả là đảo theo UNCLOS) cũng là điều rất đáng ngờ.
[6] Trong trường hợp các nướccó bờ biển liền kề hay đối diện có vùng biển được hưởng chồng lấn thì theo thông lệ quốc tế cũng như các án lệ đã có, người ta dùng trung tuyến làm đường phân giới.
[7] Thật ra, điểm 1 điều 74 UNCLOS có quy định: “Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.” Chính Luật về EEZ và thềm lục địa của TQ ngày 26/6/1998 (đoạn 3 trong điểu 2) cũng có nêu: “Các mâu thuẫn liên quan đến EEZ và thềm lục địa của nước CHNDTH và các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề sẽ được giải quyết, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng, bởi một hiệp định phân định cho các khu vực tuyên bố.” Do đó, đòi hỏi tối đa 200 hải lí ở vùng chồng lấn là đi ngược với luật pháp QT và của chínhTQ

Tuesday, May 13, 2014

"Chạy"


  "Chạy"

  Tùy bút

 Thiện Tùng

-----------------------------------------------

                             (nguồn: http://viet-studies.info/kinhte/ThienTung_Chay.htm)

LỜI TÁC GIẢ

 Sau 30/4/1975, người ta đặt tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội” (CNXH), tôi chỉ đáp ứng được một trong hai yêu cầu ấy nên vội chạy.

Đối với CNXH, tôi đã chạm trán với nó ít nhất cũng hiệp đầu chớ không phải chạy khi vừa thấy mặt nó – tức là không phải chạy mặt.

Tôi chạy nó (CNXH) vì sự quái dị, tính quái ác và phản dân chủ của nó.

“Yêu nước là yêu CNXH” – một sự gán ghép chết người. Không phải vậy sao? – Nếu không yêu CNXH vô hình trung là không yêu nước chớ gì? Nhưng, nếu yêu thêm CNXH thì đất nước, dân tộc nầy tránh sao khỏi tang hoang cùng khổ?! Thôi thì thà tôi đành mang danh không yêu nước để khỏi phải góp phần gây tang tóc, đau thương cho đất nước và dân tộc.

Nhờ có tiếp cận, tôi sẽ kể đúng nhưng không thể đủ về sự “diễu võ vươn oai” của nó ở Nam Việt Nam.

Muốn biết tôi là ai để chủi rủa… hay tranh luận, hãy xem lai lịch của tôi ghi rõ ở cuối bài viết nầy.

 

1- Thống nhất đất nước, chuyển giai đoạn cách mạng


Ai sống ở Việt Nam (VN) thời 1940-1975 đều nghe nói đến cuộc Cách mạng “Dân tộc Dân chủ” (DTDC) do Hồ Chí Minh phát động chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Cuộc Cách mạng DTDC hàm chứa 2 nội dung: Dân tộc là loại ngoại xâm, Dân chủ là xây dựng Nhà nước “Dân chủ Pháp quyền” của dân, do dân, vì dân . 12 giờ 30/4/1975, coi như đã hoàn thành vế 1 (DT). Lẽ ra phải tiếp tục thực hiện vế 2 (DC) để hoàn thành trọn vẹn cuộc Cách mạng DTDC như đã thệ ước với nhân dân. Nhưng sau 30/4/1975, các vị lãnh đạo Đảng Lao Động VN và Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa “bỏ bót” đổ xô vào Nam VN để thị sát và bàn việc thống nhứt đất nước.
Ai cũng ngỡ rằng, việc thống nhất đất nước sẽ thực hiện dân chủ trên tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, không ngờ Đảng Lao Động VN áp đặt thống nhứt theo nội dung nhứt thống:
Cho mình là người thắng cuộc, cấp bách tiến hành “Cải tạo Ngụy quân, Ngụy quyền” với tên gọi X.1: Gọi tất cả Sĩ quan, Công chức thuộc Việt Nam Cộng hòa, khoảng nửa triệu người, còn ở lại VN ra trình diện rồi đưa vào các trại cải tạo – cải tạo thời gian ngắn hay dài tùy theo cấp chức. Việc làm nầy gây ngỡ ngàng không những đối với những người “thua cuộc”, vì về cơ bản, nó trái với chính sách “Hòa giải Hòa hợp Dân tộc” do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam công bố vào những tháng cuối cuộc chiến. Phải nói, nhờ chính sách Hòa giải Hòa hợp Dân tộc mà Tổng thống Dương Văn Minh và nhiều vị có thiện ý hòa bình trong Chính quyền và Quân đội phía VNCH làm cơ sở chiêu hòa đối với thuộc hạ của mình, tháo được ngòi nổ, kết thúc cuộc chiến êm đẹp, trọn vẹn, cả 2 bên tham chiến đều thở phào nhẹ nhõm, chấm dứt cảnh huynh đệ tương tàn.
Chủ trương cải tạo Ngụy quân, Ngụy quyền khiến người ta cảm thấy như có sự kiêu binh, ỷ thế cậy quyền, bội ước, tạo căng thẳng, chuốc oán không cần thiết.
Tuyên bố đã hoàn thành cuộc Cách mạng DTDC, chuyển sang Cách mạng “Xã hôi Chủ nghĩa” (XHCN) trên toàn cõi VN – không đá động gì đến vế 2 (DC).
- Lẽ ra, phải tổ chức rình rang việc hiệp thương thống nhứt đất nuốc, đàng nầy, người ta âm thầm phủ định không thương tiếc những tổ chức Cách mạng vang danh một thời ở miền Nam như: Chính phủ “Cộng hòa Miền Nam” do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát lãnh đạo; “Măt Trận Dân tộc Giải Miền Nam” do luật sư Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo; “Mặt trận Liên minh các Dân tộc vì hoà bình” do luật sư Trịnh Đình Thảo lãnh đạo. Đồng thời phủ định lá cờ nửa đỏ nửa xanh, có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, một biểu tượng cho các tổ chức kháng chiến ở miền Nam. Những nhân sĩ, trí thức trong 3 tổ chức vừa kể coi như “hết hạn sử dụng”, tạm thời giao cho họ những chức vụ hư danh, chờ sắp xếp nghỉ hưu. Họ bị cướp công, bị khinh thường, bị bạc đãi, lâm vào cảnh như những con nai vàng ngơ ngác trên hoang mạc.
Trước thực trạng, một số cán bộ miền Nam lén rỉ tai nhau: “Nếu nói Trung quốc là Đại Hán thì Miền Bắc VN là Tiểu Hán”.
- Sáp nhập gần nửa triệu đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam vào Đảng Lao động VN.
- Để độc đảng, độc tôn…, Đảng CS VN “thuyết phục” 2 chiến hữu là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội “tự nguyện” giaỉ tán, được xem như cái chết tự chọn.
- Đổi tên Đảng, từ Đảng Lao động VN thành Đảng Cộng sản VN.
Sáp nhập Đoàn Thanh niên Cách mạng Miền Nam vào Đoàn Thanh niên Cộng sản VN.
- Sáp nhập Quân Giải phóng Miền Nam vào Quân đội Nhân Dân VN.
- Sáp nhập Ban và lực lượng An ninh Miền Nam vào Công an Nhân dân VN.
- Ồ ạt đưa cán bộ miền Bắc vào “chi viện” cho các tỉnh miền Nam xem như những cố vấn.
- Cho sĩ quan Quân đội gốc Miền Nam ra quân, thay vao đó là những sĩ quan miền Bắc. “Tăng viện” Công an, Cảnh sát miền Bắc cho các thành phố lớn ở miền Nam.
- Đổi tên nước, từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN.
- Đảng CSVN tự cơ cấu nhân sự rồi cổ võ nhân dân bầu ra Quốc hội nước Công hòa XHCN VN – coi như cơ quan Lập pháp rồi từ đó cử ra Hành pháp và Tư pháp cấp Trung ương. Tiếp theo, cũng do Đảng CS VN cơ cấu nhân sự, tổ chức cho dân bầu ra các Hội đồng Nhân dân, rồi cũng từ các Hội đồng ấy cử ra các Ủy ban Nhân dân các cấp ở địa phương và cơ sở. Thế là Đảng CS VN đã hình thành bộ máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản từ Trung ương cho đến cơ sở, đó là cánh tay nối dài của Đảng CS VN.
- Song song với bộ máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản, Đảng CS VN còn tổ chức riêng cho mình bộ máy gồm: Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra, Ban Khoa giáo, Ban Dân vận, Ban Nội Chính, Ban Kinh tế Tài Chính..v.v… Đồng thời, Đảng CS VN cũng hình thành cho riêng mình hệ thống Trường Đảng và hệ thống Báo chí Đảng từ Trung ương cho tới các Địa phương. Những Ban bệ và những phương tiện nầy, ngoài giám sát bộ máy Chính quyền, phải đảm bảo toàn xã hội đồng thuận với Đảng về ý chí và hành động.
- Hình thành và hoàn thiện từng bước các tổ chức quần chúng của Đảng do Nhà nước trả lương như: Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên…, được xem như những Bộ Tư lịnh binh chủng.
- Quân đội và Công an khi thành lập đã xác định trách nhiệm “Trung với nước, hiếu với dân”, nay Đảng CS VN bảo đổi lại “Trung với Đảng, hiếu với dân”.
Lễ tục hàng năm, hễ Tết đến, chữ “Mừng Xuân” xuất hiện ở khắp nơi, giờ đây, Đảng CS VN chỉ đạo trên toàn cõi VN phải thêm 2 từ nữa“Mừng Đảng, Mừng xuân”.
Nếu chưa quen hãy tập cho quen: gọi “Đảng ta” cho gọn, gọi Đảng CS VN chi cho dài dòng.
Đưa nội dung “Đảng CS VN là Đảng duy nhứt lãnh đạo Nhà nước và Xã hội…   vào điều 4 Hiến pháp 1980.
Đảng CS VN đưa ra cơ chế chính trị bao trùm (cơ chế mẹ) “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”.
Đảng CS VN đề ra tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu CNXH” – Một sự gán ghép chết người. Không phải vậy sao? – Nếu ai không yêu CNXH là người ấy không yêu nước chớ còn gì nữa?! Nếu không yêu nước vô hình trung là phản nước, là kẻ thù…!.
Thế là Đảng CS VN, chỉ trong thời gian ngắn, đã tạo cho mình thế đứng thượng phong, độc tôn, toàn trị. Với cánh tay nối dài: Có bộ máy chính quyền Chuyên chính Vô sản; Có các Ban bệ của Đảng được tổ chức song trùng với Ban bộ của chính quyền; Có Mặt trận và cac Đoàn thể quần chúng; Có Quân đội và Công an hùng mạnh, một lòng một dạ trung với Đảng; Có hàng triệu Đoàn viên Cộng sản là những “Ấu chúa”, làm lực lượng hậu bị cho Đảng .v.v... Rõ ràng, Đảng CS VN đã bày binh bố trận không còn kẽ hở?! Có lẽ, Đảng CS VN căn cứ vào thế trận vững như bàn thạch, tự sướng, tung ra câu “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm”.
                                                      

2 - Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa

“Để đuổi kịp miền Bắc”, năm 1976, Đảng CS VN chủ trương cả miền Nam tiến hành cải tạo XHCN, chuyển nền kinh tế thị trường ở miền Nam sang kinh tế XHCN. Đảng CS VN không dùng 2 từ tước đoạt mà dùng cụm từ “Công hữu hóa và tập thể hóa về tư liệu sản xuất” - Giải thích: Tất cả những gì thuộc đối tượng để người lao động tác động vào tạo ra của cải vật chất… được xem là tư liệu sản xuất (TLSX), chẳng hạn như nhà máy, hầm mỏ, ruộng đất… và những cơ sở dịch vụ khác. 
Cuộc cải tạo XHCN diễn ra theo trình tự :
Đánh Tư sản mại bản: Bao gồm những nhà Tư sản kinh doanh có dinh líu với nước ngoài và những nhà Tư sản dính hoặc dựa chế độ cũ (Việt Nam Cộng hòa).
Sau bước điều tra lập danh sách, mở chiến dịch mang tên X.2, bất thần, đồng loạt đột nhập các mục tiêu, kiểm kê, tịch thu cả nhà lẫn tài sản của họ, gây hoang mang, hỗn loạn. Tài sản tịch thu “đổ tháo” rất khó kiểm tra. Vàng mà cho phép được ghi kim loại màu vàng, nên vàng thật cũng có thể  đổi thành vàng giả - miễn màu vàng là được.
Đoàn tham gia chiến dịch X.2 ở Sài gòn, khi nghỉ trưa, một người nói: “Kỳ nầy đánh đổ Tư sản thật rồi”. Một cán bộ kỳ cựu đỡ lời “Không, đánh đổi Tư sản !”.
Cải tạo Công và Thương nghiệp: Các cơ sở Công, thương nghiệp, dịch vụ… hoặc hiến cho Nhà nước hoặc vào làm ăn tập thể hoặc ngưng hoạt động.
Không bao lâu, bằng cách nầy hay cách nọ, nếu không thuộc về Quốc doanh hay tập thể thì đều phải đóng cửa. Chỉ thời gian ngắn, Quốc doanh và Tập thể chiếm toàn bộ thị phần. Tư nhân nếu còn chỉ hoạt động chui, bắt được là tới số.
Người Việt gốc Hoa ở Sài gòn, nhìn thực tế thấy sao đó, nói: “Sợ Cộng sản không ăn, chớ họ chịu ăn thì không có gì phải sợ”. Thế là tư nhân hành nghề dịch vụ nhỏ lai rai “lọt lưới”.
Cải tạo Nông nghiệpKhi va vào như vướng phải khối bầy nhầy, mới thấm thía câu “nhứt hậu hôn, nhì điền thổ”.
Cùng một thời điểm, triển khai chủ trương cải tạo Nông nghiệp trên toàn cõi Nam VN (từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau). Nhưng Trung ương chọn tỉnh Tiền Giang làm trước 1 bước. Tỉnh Tiền Giang chọn xã Tân Hội – xã Anh hùng trong chiến tranh, làm Hợp Tác Xã (HTX) thí điểm của tỉnh. Cách tiến hành theo mẫu miền Bắc.
Nông dân ở xã Tân Hội nầy, hầu như ai cũng có công ít nhiều với Cách mạng. Khi đụng vào ruộng đất của họ, họ chẳng sợ gì ai, phản ứng không chừa cặn.
Ngoài cố vấn từ miền Bắc kè bên, cán bộ tỉnh, huyện đều là võ tướng, văn tướng quầng như trâu đạp lúa mà chẳng ăn thua. Sau “hội chẩn”, Tỉnh ủy Tiền Giang quyết định dời thí điểm đến ấp Phú Quới, xã Yên Luông, huyện Gò Công – Vùng trọng điểm Bình định của Việt Nam Cộng hòa trước đây, giao cho tôi trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Có lẽ Tỉnh ủy nghĩ rằng, dân vùng địch hậu họ sợ, sẽ ngoan ngoãn vâng theo. Chẳng biết có phải do họ sợ không, vận động họ đưa đất vào HTX nông nghiệp làm ăn tập thể không mấy khó, nhưng với lý nầy, cớ nọ, họ lao động chiếu lệ, sau một mùa vụ cũng đổ vỡ.
Gò Công ngưng làm HTX nông nghiệp, tiến hành làm đại trà Tổ Đoàn Kết Sản xuất Nông nghiệp, ổn định được đời sống nông dân, đủ sản phẩm nông nghiệp giao nộp cho Nhà nước theo qui định. Thấy huyện Gò Công vùng đất nhiểm mặn mà “ăn nên làm ra”, ông Võ văn Kiệt, Bí thư đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đến Gò Công đến tham quan, ông hỏi tôi: “Đoàn kết sản xuất là làm thế nào?”. Tôi trà lời: “Thì củng bắt chước các anh làm Vần Đổi Công thời kháng Pháp”. Ông Kiệt vỗ vai tôi nói: “Thì ra…”.
Có lẽ để nung các địa phương khác, tỉnh Tiền Giang làm HTX nông nghiệp chẳng ra hồn gì, thế mà Trung ương chỉ đạo tỉnh Tiền Giang mở Đại hội công bố hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp. Khách mời gồm những đoàn đại biểu các Tỉnh, Thành thuộc khu vực phía Nam, có Báo giới, Văn giới và 6 Ủy viên Trung ương Đảng CS VN đến tụ hội. Làm chẳng ra đâu, nhưng tổng kết nghe cũng khá, từng hồi từng chập pháo tay nổ giòn. Do “sinh non”, những “đứa con” nào ra trước chết trước…, không lâu sau, chúng chết phủi tay.
Có thể nói, trong chiến tranh Nông dân nhiệt tình đi theo Đảng bao nhiêu thì giờ đây họ nhiệt tình chống lại chủ trương Hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng bấy nhiêu – từng nơi, từng lúc, họ phản ứng gần như tử thủ, thí mạng cùi giữ đất như người điên loạn. 
Có lẽ thấy không ổn, Đảng CS VN xuống thang, chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, có tên là “khoán 100” – có nghĩa là trả 100% đất lại cho xã viên, rồi căn cứ chất lượng đất, giao khoán sản phẩm trên đầu mẫu (ha)- có lẽ vừa để xả căng, vừa khắc phục nạn thiếu lương thực trầm trọng.
Ấy thế, lúc bấy giờ, ông Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, còn nói trên diễn đàn: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là bước thụt lùi cần thiết”. Khi nghe ông Thọ nói thế, tôi liên tưởng đến vở “Tiếng Trống Mê Linh”, lúc tướng Tàu thách thi bắn tên, các nữ tướng hăng hái vào cuộc thi. Trưng Trắc nhắc khéo các nữ tướng : “Con Hổ trước khi vồ mồi nó thu hình lại”. Vậy có phải ý ông Thọ nói lùi để tiến bạo hơn chớ không phải lùi luôn?. Nếu vậy, ông Thọ ngầm nhắc nhở mọi người kiên định lập trường XHCN chớ gi?.
Nói khoán sản phẩm chớ khoán cái nỗi gì, sản xuất nông nghiệp bao giờ cũng phụ thuộc ngoại cảnh như thời tiết, sâu rầy chẳng hạn, kiểm tra sản lượng được giao chi cho mất công, nếu họ làm không đạt sản lượng theo giao kèo, bằng lý nầy cớ nọ , họ đổ lỗi khách quan thì rầy rà hay phạt vạ gì họ được?, chỉ còn cách thu mua sản phẩm nông nghiệp, nhất là 2 mặt hàng Lúa và Heo. Lúa thì qui định để laị cho mỗi khẩu nông nghiệp 15 giạ, Heo thì bán hết cho Nhà nước (cấm giết mổ). Giá lúa và heo do Nhà nước qui định – mua như ăn cướp, bán lại như cho. Để đối phó với sự bất công ấy, nông dân khai gian sản lượng, tìm cách bán chui (lậu) nông sản. Để ngăn chặn việc mua lùi bán lậu nông sản, Nhà nước chủ trương mở nhiều trạm kiểm soát trên các tuyến đường. Nông sản không lưu thông được, tạo mất cân đối về lương thực, thực phẩm giữa các vùng, nhất là giữa thành thị và nông thôn, gây rối loạn. Về lương thực, thực phẩm ở nông thôn cung lớn hơn cầu, ở thành thị cầu lớn hơn cung. Công nghiệp và nông nghiệp không còn là thị trường của nhau. Công Nông liên minh vốn có lâu đời giờ đây bị rạn nứt, giữa họ với nhau không còn khắn khít.
Tôi xin đưa vào đây chuyện thật như đùa, xem coi nên cười hay mếu:
Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (chức Thủ tướng sau nầy), ông Đỗ Mười, công du Tây Nam bộ về, trên xe có chở 1 bao gạo, trạm xét, lôi bao gạo xuống xe. Lái xe nói: “Gạo người ta cho ông Đỗ Mười đang ngồi đàng trước”. Người ở trạm cười nói: “Đỗ Mười Một chúng tôi cũng tịch thu”.

                                    

3 - Bí lối, xé rào


Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa 5, những vị trí chớp bu hầu như đều là người miền miền Bắc, độc đoán, giáo điều, bảo thủ… Người miền Nam có vào TW Đảng cũng trở về làm tư lịnh địa phương làm lái lúa, lái lính, lái lợn. Mọi chủ trương chính sách do cơ quan đầu não ban ra, các địa phương có phận sự thi hành. 
Gánh miền Nam nghiêng về dân tộc, mặn kinh tế thị trường; gánh miền Bắc nghiêng về giai cấp, mặn kinh tế XHCN theo cơ chế tập trung bao cấp. 
Gánh miền Bắc ngầm xem gánh miền Nam mất lập trường giai cấp, theo chủ nghĩa xét lại – xét lại chủ nghĩa Mác Lê Mao. Gánh miền Nam ngầm xem gánh miền Bắc phong kiến, bảo thủ, giáo điều… 
Trước thực trạng, ngoài khan hiếm hàng tiêu dùng, nạn thiếu lương thực phải nhập bo bo để cầm hơi, một số vị lãnh đạo địa phương miền Nam xé rào. Chẳng hạn: 
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) chủ trương phân tán dân thành phố đến những vùng có nhiều lúa gạo làm mướn sinh sống. Đồng thời ông xúi bà Ba Thi dùng công xa đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ mua chui gạo với giá thỏa thuận về bán lại (không lãi) cho dân TP Hồ Chí Minh. Ông Sáu Kiệt kể việc này cho tôi nghe: Tao bảo cô Thi dùng công xa đi mua gạo chui, làm được ít chuyến cô ấy than: Làm kiểu này chắc có ngày em đi tù quá anh Sáu! Tao nói: Nếu cô ở tù tôi đem cơm. Thế là cô ấy vui vẻ đi tiếp và làm được việc, gỡ được nạn đói cho thành phố đông dân nhất nước này”. 
Ở tỉnh Long An, Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính (9 Cần) chủ trương bù giá vào lương rồi thực hiện thuận mua vừa bán, từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp. Việc làm này ngoài gây hưng phấn đối với mọi người, còn tăng nguồn thu đáng kể cho địa phương tỉnh Long An. 
Ở các tỉnh khác, dần dần xóa bỏ việc cấm chợ ngăn sông, xếp dần các trạm kiểm soát trên các trục giao thông. Nhờ vậy, hàng hóa công nông dần dần đến được với người tiêu dùng theo cơ chế thuận mua vừa bán
Biết được việc xé rào này, TW phái những đoàn kiểm tra, thanh tra vào cuộc. Biết rõ cớ sự, TW kết luận: Đây là những việc làm sai trái, nhưng đã lỡ làm, giải quyết được những khó khăn trước mắt, tạm thời không truy cứu, nhưng xem đây là thí điểm”. 
Được nước, các địa phương bắt chước làm theo, diện mỗi ngày một rộng ra không đợi Trung ương cho phép. Đã chịu bung thì chẳng khác vỡ đê, không lực nào có thể cản nổi. Hơn nữa, cản là trái với quy luật, đi ngược lại lòng dân – đố dám. Hàng hóa lưu thông dễ dàng, được bán theo giá thỏa thuận, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ phát triển, không mấy chốc hình thành cơ chế thị trường trên phạm vi ngày một rộng. 
Một kiểu lạm phát cố tình, đúng hơn là kiểu ăn gian lộ liễu: Trung ương chỉ đạo cả nước thực hiện Giá, Lương, Tiền bằng cách đổi tiền (lần 2), đổi theo tỷ lệ 1 mới đổi 10 cũ, rồi cũng liền sau đó Trung ương chủ trương tăng giá hàng hóa lên 10 lần – thế là bằng không (0), giá trị đồng bạc mới như đồng bạc cũ trước khi đổi. Việc làm này gây rối loạn thị trường, lòng dân oán thán. Đã thế mà không nhận sai, còn toáng lên: Bọn gian thương đang đầu cơ phá giá thị trường...
Có dịp ra Hà Nội, Ông Chín Tố Hữu, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng rủ tôi và anh Ba Dần tối lại nhà ông chơi. Tôi và anh Dần tới. Trong những chuyện bao đồng qua lại với nhau, ông Tố Hữu than: 
- “Giá cả vọt lên quá…!” 
Tôi hỏi lại ngay: 
- “Giá lên hay tiền xuống? – Xe chạy, người ngồi trên xe nhìn xuống đường thấy đường chạy ngược chiều xe rồi nói đường chạy là thầy chạy! Thử dừng xe lại xem. Vậy giá lên hay tiền xuống?Tiền in phát ra đầy đàng, hàng vắng bóng. Bắt mạch không đúng trị ẩu là chết người. Chính ông và ông Trần Phương bày ra vụ Giá, Lương, Tiền, còn than cái nỗi gì !?” 
Ông Tố Hữu không rầy tôi nhưng ông không vui. Tôi thấy mình nói thẳng như thế là bất kính, phạm thượng, xin cáo lui. 
Trước rối loạn về kinh tế, một ai đó nói: “Đổi mới hay là chết”!
Dầu cố nhưng không thể che giấu những bất đồng quan điểm ở cấp cao: phái cấp tiến đa phần ở miền Nam muốn làm cái gì đó khác hơn cái hiện tại để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng về mọi mặt. Phái bảo thủ, đa phần ở miền Bắc, cố vị, bám lấy học thuyết Mác Lê Mao, tranh giành quyền lực. Cả 2 phái bằng mặt chớ không bằng lòng, những cuộc tranh luận gay gắt thường diễn ra bằng khẩu chiến, bút chiến, hoặc “cấm vận” - cho ngồi chơi xơi nước như 5 ông họTrần: Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Văn Trà , Trần Xuân Bách, Trần Độ chẳng hạn. 
Gánh miền Nam nghi ngờ có ai đó đứng đằng sau nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm 1984 – 1985, Tuấn cho ra đời 3 tiểu thuyết: Đứng trước biển”, “Những khoảng cách còn lại”, “ Cù lao tràm. Ba tiểu thuyết này được phương tiện truyền thông Nhà nước loan truyền rộng rãi. Cả 3 tiểu thuyết này đều có nội dung đề cao miền Bắc, đả kích thậm tệ miền Nam. Đặc biệt hơn cả, tiểu thuyết Cù lao tràm cho đăng tải trên báo Nhân dân của Trung ương Đảng Cộng Sản, và nghe đâu người ta định chuyển thể nó thành phim, thành kịch. Tiểu thuyết Cù lao tràm dài 697 trang sách, đâu đâu suốt tập truyện đều có chôm chỉa, châm chích cán bộ miền Nam, nhất là phủ định công lao của họ trong thời điểm kết thúc cuộc chiến. Phần cuối truyện, tác giả câu khách bằng một đoạn: Thế là tôi đã hoàn thành việc đưa đến tay bạn đọc câu chuyện có thật 99% ở một cù lao miền Tây Nam bộ, còn 1% hư cấu theo yêu cầu của những người trong cuộc”. 
Thử hỏi sự thật chiếm đến 99% thì sao gọi là tiểu thuyết được? Mà gọi thể ký nào đó mới đúng? Đọc qua tiểu thuyết này, đối chiếu với thực tế thì ngược lại – 99% là hư cấu, 1% là sự thật. Chính từ đó mới gây xôn xao trong dư luận xã hội, khiến cho đông đảo cán bộ miền Nam không còn nhịn được nữa. Có người ức quá nói: “Bộ thằng Tuấn này muốn Bắc kỳ hóa Ban Chấp hành TW khóa 6 hay sao?!” 
Cuối năm 1985, trước thềm Đại hội Đảng CSVN lần thứ 6, tỉnh Hậu Giang đăng cai mở Hội thảo tác phẩm Cù lao tràm. Đến dự có gần 300 nhà văn, nhà chính trị – trong đó có tôi. Suốt 2 ngày, gần như tất cả các tham luận đều lên án tác phẩm này, đến mức có một ít ngừơi muốn ủng hộ nó nhưng không dám lên diễn đàn. Đài phát thanh, truyền hình tỉnh Hậu Giang phát đi phát lại cuộc Hội thảo này. Cuộc Hội thảo này gây chấn động cả nước, khiến lãnh đạo Trung ương Đảng CSVN phải vào Sài Gòn tổ chức cuộc họp cấp cao với các tỉnh miền Nam để “thanh minh, thanh nga”, và nói sẽ lệnh cho thu hồi tác phẩm Cù lao tràm này. Ông Lê Phước Thọ (6 Hậu), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hậu Giang nói: Không thể và không cần thu hồi nó, chúng tôi sẽ cho đăng và phát hành rộng rãi những tham luận trong cuộc Hội thảo về nó. Thế rồi liên tiếp suốt mấy tháng trời, báo Hậu Giang cho đăng tải các tham luận của nhiều cá nhân đã phát trong cuộc Hội thảo về tiểu thuyết Cù lao tràm của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Sau đó, ông Lê PhướcThọ rời tỉnh Hậu Giang ra Hà Nội nhậm chức trưởng Ban Tổ Chức Trung ương Đảng.

4 - Đổi mới 

Không nói đổi mới cái gì, thứ gì, khiến người ta hiểu đổi mới toàn diện mạng nội dung cải tổ. Ứng nghĩa với cải tổ là Pérestroika. Theo thuật ngữ của người Hy Lạp, Pérestroika là xây dựng lại cái đã xây dựng không còn phù hợp, kể cả con người.
Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương không đổi mới toàn diện (cải tổ) mà chỉ đổi mới về kinh tế – từ kinh tế XHCN tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Người ta lấy làm lạ là từ nền kinh tế thị trường vốn có ở Nam Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam chê nó, cải tạo nó thành nền kinh tế XHCN dẫn đến thất bại, giờ đây trở lại kinh tế thị trường rồi gọi là đổi mới, thật là kỳ lạ – Đổi cũ mới đúng chớ?
Người ta cũng ngạc nhiên: Đã là kinh tế thị trường còn định hướng XHCN – đã là đĩ mà nói còn trinh! Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chủ trương không có đích đến, bởi vì mặt này chế ngự mặt kia? Nói nôm na: kinh tế thị trường là chia, kinh tế XHCN là cộng, chúng trái ngược nhau – đi đàng Tây mà nói sẽ tới đàng Đông, hoang đường hết chỗ nói?! Đi đến CNXH ư? – Còn lâu. Đi đến Tư bản hiện đại ư? – Không bao giờ. Có chăng đến Tư bản hoang dã. Thứ nửa nạc nửa mỡ này rất khó xơi!
Nguyên lý: Tồn tại quyết định ý thức hay nói cách khác Hạ tầng quyết định thượng tầng. Hạ tầng là kinh tế thị trường thì thượng tầng không thể là CNCS được – phải là CNTB mới đồng bộ. Chủ nghĩa Cộng sản không thể đứng vững trên cái nền (thị trường) không phải của nó – Tồn tại nào phải ý thức ấy? Đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị là không đồng nhất, trái với nguyên lý, sẽ rối loạn.
Phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam kéo thòng cái đuôi định hướng XHCN để đỡ sỉ diện, duy trì quyền lực và kéo dài sự sống của kinh tế Quốc doanh nhằm vụ lợi băng nhóm? – nếu lỗ lấy công quỹ (tiền thuế của dân) bù, lời thì chia chác nhau như tập đoàn Vinashin hay tập đoàn Dầu khí chẳng hạn?
Thử đặt vấn đề: Đảng Cộng Sản Việt Nam có dám xóa kinh tế thị trường để trở lại con đường XHCN (tập trung bao cấp) cho đồng bộ hay không? – Ai cũng có thể trả lời rằng không. Bởi vì: đó là Con đường đau khổ mà nhân dân Việt Nam nói chung đã hứng chịu nhiều năm và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng hú vía vì nó?
Vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm thế nào để hạ tầng và thượng tầng đồng bộ? Theo thiển nghĩ của tôi có 2 cách: Một, cải tổ chính trị, thực hiện dân chủ, đa nguyên chính trị, thiết lập Nhà nước Dân chủ pháp quyền: của dân, vì dân, do dân thay cho Nhà nước Đảng trị: của Đảng, do Dảng vì Đảng hiện nay. Hai, những người lãnh đạo tiếp tục lợi dụng chức quyền vun vén cho đầy túi tham, sớm trở thành những nhà tư sản đỏ. Khi thấy không còn vét gì được nữa, hô đằng sau quay là xong chuyện. Khi ấy con họ đi học nước ngoài thành tài về, có sẵn vốn mà cha mẹ chúng dày công tích góp được, cùng nhau đổi màu thành những nhà tư sản có vốn tư bản kết xù tha hồ mà chạy đua với thiên hạ, mặc cho những Đảng viên ngu trung, những người dân ngu muội ngã ngửa, coi như việc đã rồi, đành vậy!
 Thiển nghĩ này của tôi, chắc cũng còn ai đó cho là suy luận mò, chẳng lẽ lãnh đạo mà chơi trò hèn hạ thế? Tôi sẽ nói thêm rằng, suy nghĩ của tôi là có cơ sở bởi vì: Suốt 30 năm, hàng mấy triệu người chết và bị thương cho cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ, vừa hoàn thành vế Dân tộc thì người ta không thực hiện vế Dân chủ, dám xây ngang cướp công, cướp quyền, xưng hùng xưng bá một thời thì việc này có gì mà không dám? – Hãy đợi đấy! Đoạn văn dần lân sau đây ngẫm cũng thú vị:
Chế độ cộng sản,
Kinh tế tư bản,
Hàng hóa nhập cảng,
Cán bộ tư sản,
Nhân viên chán nản,
Nhân dân di tản.
Bao giờ ông Võ Văn Kiệt cũng xem tôi là thằng em có tật gợi suy. Khi ông làm Thủ tướng, tôi nói vui với ông ấy: Nếu người nào đó hỏi tôi “Những ai chống Cộng bạo nhất?” . Tôi sẽ trả lời: “Những người chủ trương làm kinh tế thị trường”. Ông Kiệt vò đầu tôi cười nói: “Khéo gợi suy”. Cũng dễ hiểu thôi, vì tôi là quan mà không có quyền, đàng sau câu nói thường đặt dấu chấm hỏi (?) mang tính chất tham khảo.
Khi công cuộc đổi mới vào đà phát triển, cuộc sống người dân từng bước ổn định, nâng cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tâng công: Nhờ Đảng sáng suốt đổi mới…
Nếu nói Đảng Cộng Sản Việt Nam sáng suốt chủ trương đổi mới – tức là Cởi trói làm cho nền kinh tế phát triển, nhân dân thoát khỏi đói khổ… thì chúng ta thử đặt lại vấn đề: Trước đó ai chủ trương trói và trói bằng cách nào? Xin thưa rằng cũng chính Đảng Cộng Sản Việt Nam trói và trói bằng cách cải tạo XHCN, gây khốn khổ cho nhân dân, kéo lùi sự phát triển đất nước? Trước sự phản ứng gay gắt của nhân dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam buộc phải (không tự giác) đổi mới – tức là trở lại con đường cũ kinh tế thị trường. Nếu nói cởi trói (đổi mới) là sáng suốt thì trói là mù quáng? Đảng trói, Đảng mở đó là Đảng sửa sai. Để cho vui cửa vui nhà, nhân dân xem hành động đó của Đảng là lấy công chuộc tội – huề. Nghiêm khắc hơn, không dừng ở đó, phải truy cứu trách nhiệm của Đảng: Do Đảng sai lầm trong chủ trương cải tạo XHCN (trói) làm cho nhân dân đói khổ, kéo lùi sự phát triển đất nước suốt 10 năm (1976 – 1986) – công ít, tội nhiều.
Được Đảng Cộng Sản Việt Nam tha mạng cởi trói, dân cố tự bươi để có mổ và góp phần thuế má chớ Đảng có giúp gì đáng nói cho họ đâu?.
Việc xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là do tiền thuế của nhân dân góp vào và 50.7 tỷ USD vay của quốc tế đến nay chưa trả được. Đáng nói tiền thuế dân góp và khoảng nợ 50.7 tỷ USD ấy Đảng quản lý hời hợt để lọt vào túi riêng, đó cũng là cái lỗi của Đảng? Đảng giành cho mình quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối thì Đảng cũng phải chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối?. Đảng phải chữa ngay cố tật:
“Thất mùa đổ tại thiên tai,
Được mùa do bởi thiên tài Đảng ta”.

5 - Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do

Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do là những đôi từ, xét về mặt ngữ nghĩa, chúng rộng hẹp khác nhau. Giải thích cho rạch ròi về chúng, đó là công việc của những nhà ngôn ngữ, nhà sử, nhà giáo… Người viết bài nầy thiên về góc độ chính trị, chỉ đá động đến chúng khi thấy cần. 
Tổ chức chính trị gồm đảng nầy, phái nọ…, hình thành trong mỗi cộng đồng dân tộc ở mỗi quốc gia. Chúng chỉ là những bộ phận của dân tộc. 
Thấy gì những khác nhau giữa các Đảng ở  Mỹ và Đảng CS VN? 
Ở Mỹ, đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa… đó là những danh xưng như những cái mác (made) để phân biệt khi ra tranh và bầu cử. Đảng nhất định bầu chọn đại biểu của mình đưa ra tranh cử với đại biểu đảng bạn. Cử tri bỏ phiếu bầu trực tiếp. Người nào đắc cử làm Tổng thống. Tổng thống được quyền tổ chức lại chính phủ để thực thi những gì mình đã hứa với cử tri khi ra tranh cử. Tổng thống chỉ được tại vị không quá 8 năm của 2 nhiệm kỳ. Khi đắc cử làm Tổng thống phải vượt ra khỏi khuôn khổ cục bộ của đảng mình, nhân danh đại diện dân tộc mà lo việc nước, việc dân. Do dân chủ thật sự “từ dưới lên, từ dân mà ra rồi trở về với nhân dân”, nên việc chuyển giao quyền lực êm thắm. 
Ở Việt Nam ta hiện nay chỉ có 1 đảng CS VN, theo chủ thuyết Cộng sản. Đảng cầm quyền không phải do dân cử mà do đảng CS VN đấu tranh giành và chiếm quyền. Do vậy, Đảng CS VN quyết không chia sớt quyền cho bất cứ ai (độc quyền). Đảng CS VN cầm quyền không niên hạn – cầm quyền vĩnh viễn nếu không bị thế lực nào đó lật đổ. Cầm đầu đảng cũng không có niên hạn, nếu cần thay thì Đại hội hoặc Hội nghị Trung ương đảng quyết. Độc đảng, độc quyền, đảng trị bắt nguồn từ đảng tự tạo quyền cho mình chớ không phải do dân giao như ở Mỹ. Từ đó, đảng CS VN nắm trọn quyền sinh át, ban phát quyền cho bên dưới theo hảo tâm. Do dân chủ hình thức, ban phát “từ trên xuống” theo kiểu độc tài đảng trị, mang sắc thái Phong kiến, nên việc chuyển giao quyền lực thường “nẹt lửa”. 
Quyền do giành và chiếm được, đảng CS VN luôn ám ảnh có ai hoặc tổ chức nào đó đang rình rập giựt lại quyền – nằm mơ cũng thấy kẻ thù. Họ mang tư tưởng cục bộ, cá nhân, luôn tranh giành quyền lực với nhau, thích tâng bốc, đố kỵ phản biện, đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích đảng, đặt lợi ích đảng trên lợi ích dân tộc. Họ sẵn sàng hợp tác với bất kỳ thế lực nào, không phân biệt trong ngoài nước, miễn sao đảng họ, cá nhân họ được thủ vai toàn trị. 
Nhân quyền do tạo hóa ban, dân quyền do dân ban, dân chủ ở VN do đảng CS VN ban. 
Đảng CS VN không thích nói đến nhân quyền hay dân quyền, họ chỉ nói đến 2 từ Dân chủ. Chủ mà không có quyền thì coi như trớt lớt?. Không phải người viết cố tình chơi chữ đâu, thực tế nước VN ta đã và đang như vậy. 
Đấu tranh đòi nhân quyền không thể nhân nhượng, nếu nhượng sẽ mất quyền làm người, sẽ rơi vào hàng động vật hạ đẳng. 
Thà chết sướng hơn nếu độc lập mà không được tự do, đó chẳng khác con vật bị nhốt trong chuồng, tha hồ mà tự do ăn uống, ỉa đái… trong phạm vi cái chuồng đó?. 
Đất nước độc lập thống nhất đã 37 năm (1975 – 2012), sao mà nơi nầy nơi nọ, người ta cứ đòi dân chủ mãi?! - Như đã nói, 30/4/1975 mới hoàn thành vế Dân tộc   của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ , tức là mới loại được ngoại xâm. Lẽ ra phải thực hiện tiếp vế Dân chủ, có nghĩa là thiết lập Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đàng nầy, đảng CS VN nhận lớp bước Dân chủ, thành lập bộ máy chính quyền Chuyên chính vô sản – một nhà nước Đảng quyền: “Của đảng, do đảng, vì đảng” cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Vậy là đảng CS VN còn nợ nhân dân VN món nợ dân chủ - một vế của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ đầy máu, mồ hôi và nước mắt của cả dân tộc suốt 35 năm (1940 – 1975). 
Đòi dân chủ tự do như thế có quá đáng không?. Hãy xét xem: Các nước phát triển Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức… họ có dân chủ đâu, còn ở VN ta nào là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, độc lập tự do hạnh phúc”. Đó là chưa nói Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đều đầy ắp: Tự do chính kiến, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do thân thể, tự do hành nghề, tự do biểu tình theo luật định… như thế còn chưa đủ sao (?!). 
Xin thưa rằng, về hình thức, như thế đã quá đủ. Nhưng xét về nội dung thì rỗng. Bởi vì, dân chủ ở VN ta là dân chủ XHCN, tức là dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, nằm trong cơ chế bao trùm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Đảng CS VN đã đưa quyền của mình vào điều 4 Hiến pháp: “Đảng CS VN là đảng duy nhất, lãnh đạo Nhà nước và Xã hội một cách trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối”. 
Riêng về việc nầy, Đảng CS VN đã nói và làm một cách triệt để: Ngay từ đầu, đảng nhanh chóng thành lập Nhà nước Đảng quyền theo thể thức “Đảng chọn Dân bầu” – Đảng chọn (cơ cấu nhân sự) gần như toàn bộ là đảng viên của mình ra ứng cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, làm động tác giả, đưa sang Mặt trận đánh bóng một chập mới đưa ra dân bầu. Khi bầu, buộc cử tri phải bầu theo nguyên tắc “bầu đúng, bầu đủ” – đúng là đúng người có đức có tài, đủ là đủ số lượng theo quy định. Ôi trời, số người đưa ra thì hạn hẹp, toàn là “bầu eo bí sượng”, đức hèn, tài mọn, cấp bằng học vị của họ phần lớn là bằng thật học giả, đa phần là bằng chính trị…. Phận làm dân, thôi thì bầu đại cho qua chuyện !. Thế là kẻ cơ hội thất đức, bất tài có cơ hội chui vào bộ máy công quyền tha hồ mà tác oai tác quái. Họ có làm bậy, cư tri cũng không có quyền bãi miễn họ, vì đảng chọn và đưa họ vào ghế quan chớ đâu phải cử tri. Họ như quan Thừa sai thời Pháp thuộc được cử đến cai trị đám dân đen. Tiền đồ của họ thế nào đều do đảng cấp trên họ định, họ chỉ ngán cấp trên của ho thôi, họ xem cử tri như những thảo dân thấp kém. Nếu dân chịu không xiết kêu than về họ thì đảng đổ: Cũng do mấy người bầu ra đó chớ ai?!
Về việc bầu bán nầy, nếu dân chủ thật sự thì cử tri có quyền tất cả các khâu: đề cử, ứng cử, bầu cử và bãi miễn. 
Trước thực trạng dân chủ ở nước ta như vậy, xin cho phép người viết thủ vai trọng tài để nhìn xuống nói rằng: Cương lĩnh của đảng CS VN và Hiến pháp nước CHXHCN VN đã khẳng định dân chủ ở nước VN ta là dân chủ XHCN – Dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, đảng cho gì nhận nấy theo kiểu xin – cho. Không xin, chưa cho mà làm ẩu liệu hồn. Hãy nhìn vào bảng to trước trụ sở Công an 44 Yết Kiêu Hà nội thấy câu “Công an chỉ biết còn Đảng, còn mình”. Thế là Công an đã tự nhận mình không còn là Công an Nhân dân, mà là Công an của đảng. Công an đang kiên quyết bảo vệ Chuyên chính Vô sản. Có lẽ từ đó, trong dân gian xuất hiện câu “Công an vì đảng quên Dân, vì thân phục vụ”. Ngước lên nói rằng: Người ta đang đòi nợ máu, nước mắt, mồ hôi… đã đổ trong công cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ suốt 35 năm (1940 – 1975). Đảng CS VN nhận lớp Dân chủ, có nghĩa là đảng CS VN còn thiếu nhân dân món nợ ấy. Xin hãy nhìn vào những nghĩa trang và những người thương binh tật nguyền ngoài xã hội để tính giá trị món nợ ấy: 
Biết bao người đi rồi đi mãi, 
Biết bao người tật nguyền đang sống với chuỗi ngày dầu dãi nắng sương, 
Không ít người đang bị cầm giam trong bốn bức tường, bởi can tội đòi dân chủ. – Nợ thì phải trả, không xù được đâu?
Thử đặt vấn đề: Ai đưa ra cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”?. Ai cũng có thể trả lời, đó là Đảng CS VN. Ấy thế, sao mọi bê bối trong xã hội, Đảng CS VN đều đổ cho cơ chế?. Cơ chế ấy đã và đang gây khốn khổ cho nhiều người, tại sao Đảng CS VN chưa chịu từ bỏ nó?. Cũng dễ giải thích thôi, vì nó gây khổ cho nhiều người chớ phải đâu cho mọi người. 
Có lẽ nhìn vào sự vận hành của cơ chế và thể chế chính trị của Đảng CS VN, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu khắc họa: 
Đảng chỉ tay 
Quốc hội giơ tay 
Mặt trận vỗ tay 
Chính phủ khoanh tay 
Quốc doanh ngửa tay 
Tội phạm ngoặc tay 
Công an còng tay 
Trí thức phẩy tay 
Quan chức đầy tay 
Dân trắng tay. 
Ông Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước VN, cán bộ cao cấp của Đảng CS VN khẳng định: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Ông Triết nói thế có nghĩa: Đảng CS VN muốn tồn tại chỉ còn mỗi cách là “phải tiếp tục chuyên chế?”. Nếu vậy thì Đảng CS VN cố duy trì quyền lực để tồn tại trong nỗi bất hạnh của người dân?!. 
               
6 - Những biểu hiện tiêu cực trong thể chế độc tài Đảng trị

Mọi trì trệ người ta đều đổ do cơ chế. Vậy cơ chế hiện nay là gì? từ đâu ra? nếu bất lợi sao còn giữ mãi nó?...
Cơ chế là một thiết chế do giai cấp đang thống trị đặt ra nhằm giữ thế thượng phong cho giai cấp ấy. Như mọi người ít nhất một lần nghe đến, cơ chế chính trị bao trùm ở VN hiện nay là đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ. Nó ra đời cùng thời với thể chế chính trị độc tôn, toàn trị của Đảng CSVN. Người ta cố giữ nó với bất cứ giá nào là vì lợi thế, lợi ích của Đảng, của phe nhóm người ta, đó là điều dễ hiểu. Còn có chấp nhận nó hay không đó là việc của cộng đồng dân tộc.
Để giữ thế độc tôn, toàn trị, từ Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, các bộ ở Trung ương đến lãnh đạo các địa phương đều do Đảng CSVN cơ cấu đảng viên của mình ra ứng cử, theo thể thức “Đảng chọn Dân bầu”. Từ đó, họ có làm bậy dân cũng không có quyền bãi miễn. Cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành… đều là đảng viên. Họ ngồi vào ghế quan do đảng, họ được thăng quan tiến chức do đảng… Họ chỉ sợ đảng cấp trên của họ. Đối với cấp dưới và dân, họ như những ông vua con, tha hồ mà tác oai tác quái. Đảng là trừu tượng, như một cơ thể; đảng viên là cụ thể, như những tế bào. Đảng bảo vệ đảng viên là bảo vệ tế bào của bản thân mình, đó là điều dễ hiểu. Đảng giết đảng viên khác nào tự sát. Rõ mối liên hệ chung riêng ấy, đảng viên mới dám làm những điểu mà người ngoài đảng không hề dám. Người ta đánh giá đảng qua đảng viên, đảng viên tốt thì đảng mới tốt và ngược lại.
Nói con số tròn, dân số Việt Nam hiện nay gần 90 triệu, trong đó có khoảng non 4 triệu đảng viên. Những vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện, vụ nào cũng có ít nhất bốn phần năm (4/5) can phạm là đảng viên – một tỷ lệ hư hỏng trong đảng đang cầm quyền đã báo động đỏ. Tế bào (đảng viên) hư nhiều như vậy, cơ thể (đảng) nếu không vào nhà thương nhờ danh y dùng thuốc đặc trị, tử vong là cầm chắc?.
Tại sao lúc đầu dùng cụm từ chống tiêu cực, nhưng ít lâu sau thay nó bằng cụm từ chống tham nhũng?  Có lẽ Trung ương Đảng thấy vi khuẩn đã thâm nhập vào não bộ. Tham thì có thể bất cứ ai, còn nhũng phải người có quyền. Chống tham nhũng là chống người có quyền mà tham. Người không quyền mà bảo chống người có quyền ai mà dám !. Thật khôi hài: “Lãnh đạo mà ở dơ rồi bảo người bị lãnh đạo tắm, vị bụng người ta tắm cho rồi đạp người ta…” Hơn nữa, những người làm bậy ấy do đảng cơ cấu họ vào ghế quan, họ là tế bào của đảng, tốt hơn hết để đảng tự xử cho tròn trách nhiệm với dân. Nếu không tự xử được, hãy dẹp qua một bên, đừng chàng ràng ở đó chướng mắt, khiến cho người đời thêm tâm và khẩu đều không phục.
Tôi về nông thôn dự giỗ, một lão nông vốn quen biết hồi còn chiến tranh, ông xề lại gần tôi nói: “Hồi đó tao đánh giá tụi bây tốt là sai…”Tôi đáp lại: “Hồi đó ông đánh giá chúng tôi tốt là đúng, giờ đây ông xem chúng tôi vẫn tốt như xưa là sai.” Ông vỗ vai tôi mấy cái, nói:“Sám hối như thế còn có thể chơi được”.
Trong tiệc cưới ở nhà hàng, hai người khách ngồi gần nhau, một người chỉ người mới vào cửa nói: “Thằng đó tuy đảng viên nhưng nó tốt”- Vậy là sao?.
Trong chiến tranh, vào đảng là vào đội tiên phong chiến đấu, ngày nay vào đảng như
vào dân Tây. Được thẻ đảng là được ghế quan. Thẻ đảng có giá trị hơn bằng Đại học, có bằng Đại học đôi khi thất nghiệp, có thẻ đảng thì chắc ăn như bắp. Do vậy, kẻ thất đức, bất tài bằng mọi cách luồn lách để được vào đảng, được đảng cơ cấu làm quan. Hễ quan thì có quyền, hễ có quyền thì có lợi: Ngoài việc ăn trên ngồi trước, ít nhất cũng có lương khá; có phương tiện công đi lại; được ưu đãi trong trị bịnh; con cái được ưu tiên trong học hành và làm việc; có chế độ tiếp khách; chữ ký bán rất có giá trị; làm quấy nếu bị phát hiện có đảng binh, xử lý nội bộ; lộ liễu quá không thể che được phải ra tòa thì được tòa xử theo chỉ thị của đảng; kẹt lắm phải vào tù thì ở tù cha và sẽ được tha vào kỳ ân xá gần nhất v.v Càng về sau, cán bộ đảng viên chất lượng càng kém, dễ tha hóa biến chất. Từ thực tế đó, dân gian mai mỉa:
“Đảng là mẹ, Bác là cha
Từ khi Bác mất, Đảng ta tái chồng
Sanh ra một lũ con đông
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều”.[1]
Ở Việt Nam, từ cán bộ dùng ám chỉ cho các hạng quan chức nói chung, cửa quan là cửa quyền. Cũng ở VN, xưa nay đều rêu rao “Cán bộ là đày tớ nhân dân”, nhưng thực chất thì hoàn toàn ngược lại “Dân là đày tớ cho cán bộ”. Vì vậy mới có chuyện mua quan bán chức lan tràn, cán bộ là đích đến của mọi tham vọng. Việc mua quan bán chức nhìn vào chóng mặt. Quan chức mà không biết làm gì (chủ trương) và chẳng biết làm thế nào (thực hiện). Họ giỏi nói phét, tham nhũng, nhậu, tán gái…Cả nước nói chung, đặc biệt ở Sài Gòn và Hà Nội nói riêng, phần đông cán bộ cao cấp đều có mướn “Osin”, gọi hoa mỹ là “người giúp việc”, nói trắng ra là người “đày tớ” không hơn không kém. Vậy, nói một cách chính xác: Người giúp việc là đày tớ thật, còn người thuê người giúp việc (cán bộ) là đày tớ giả.
Nếu cán bộ thực sự là đày tớ nhân dân thì ít ai chịu làm bán bộ. Làm cán bộ ở VN thời nay sướng chưa từng thấy. Tôi mô tả cái sướng của họ bằng bài thơ “Sống, chết như Ông” :
Làm việc như Ông (bà) sướng bậc tiên:
Việc gì cũng có trợ lý riêng
Xe đưa, xe rước trưa, chiều, sớm
Trần thế khác gì chốn non tiên?.

Tiếp khách kiểu Ông sướng quá tay:
Bao nhiêu phí tổn cứ chi xài
Kê chung phiếu đỏ đưa Ông ký
Công quỹ phải nào của riêng ai?

Nằm viện như Ông sướng bậc cha:
Nhân viên nuôi bịnh chia thành ca
Ông sai Ông khiển như đày tớ
Lựng bựng coi chừng Ông thải ra.

Đám táng của Ông lớn quá trời:
Ngày đêm phúng điếu chẳng giờ ngơi
Tiễn đưa Ông đến nơi an nghỉ
Xe nối đuôi dài đếm hụt hơi.
Đâu chỉ thế, còn chôn trước chôn sau, mả lớn mả nhỏ theo tôn ty trật tự Phong kiến. Trường, đường không đủ cho ngài chia nhau đặt tê để “lưu danh” cho muôn đời sau!  
Người ta biến ê kíp thành cánh hẩu (nhóm lợi ích). Hễ hẩu thì hảo (gôm vào), hễ bất hẩu thì bất hảo (thải ra). Tội phạm cộng với quyền lực thành băng nhóm ma-phi-a: Mầy ăn, tao ăn, nó ăn = chúng ta cùng ăn. Phải rạch ròi: Cái nào ăn thì ăn, cái nào cúng thì cúng, cái nào kiếng thì kiếng. Phải giữ kín cho nhau, thực thi luật giang hồ “Mi không đánh ta, ta không đánh mi”, ngăn ngừa lây lan “bịt khẩu” là thượng sách.   Bọn cơ hội, tham nhũng thường dùng thủ thuật “Tạo rồi biến cái nhược của người thành cái lợi thế cho mình”...
Đã là đảng thì tất phải có đảng trưởng (đầu đảng). Đảng trưởng là nhân vật tối thượng, có nhiều lợi quyền nhất. Trong một quốc gia, nếu độc đảng toàn trị, Đảng trưởng như một ông vua, đảng viên là quần thần, còn lại là đám thảo dân. Đảng CSVN hiện nay là đứa con lai tạp chủng, giống cha nhiều hơn giống mẹ, cha là ông Phong (Phong kiến), mẹ là bà Tư (Tư bản), đang hưởng di sản cha mẹ mà không thừa nhận cha mẹ. Đứa con lai nầy rất xảo trá, khó nhận dạng - nó nhưng không phải là nó: Phong kiến thì chỉ có 1 vua, còn nó thì nhiều vua (vua tập thể), vua ở từng cấp từ cao đến thấp – vua của vua. Nói một đàng làm một nẻo, theo kiểu “treo đầu Dê bán thịt chó”. Làm kinh tế thị trường còn định hướng XHCN. Nó núp dưới dạng thể chế Dân chủ cho hợp thời, đưa ra luật pháp có đủ “đầu đuôi thủ vĩ ”, nhưng hành xử thực chất là “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”.
Đã là đảng thì sớm muộn gì cũng sẽ chia phái. Phái nầy đấu đá với phái kia để tranh quyền đạt lợi. Nếu có liên minh các phái với nhau, đó cũng là sự liên minh ma quỷ:  khi hạ gục đối phương rồi thì quay lại thanh toán với trong phái để giành quyền làm đảng trưởng. Trong thể chế Độc tài Toàn trị, giới cầm quyền như một đàn Khỉ, con khỉ đực nào mạnh nhứt thời nó nhăn d…tất cả những con khỉ đực khác để độc chiếm…., giống như vua chúa ngày xưa, thiến tất cả đàn ông phục vụ nội cung. Cuộc đấu đá tranh giành ngôi thứ dưới thể chế Độc tài không bao giờ kết thúc, xã hộ luôn bất an, không loại trừ nội chiến .
Muốn chấm dứt việc đấu đá tranh giành quyền lực nầy chỉ có con đường duy nhất là thực hiện Dân chủ Đa nguyên, thiết lập Nhà nước Dân chù Pháp quyền, bằng cách: để cho dân chọn người đứng ra quản lý xã hội, phúc quyết Hiến pháp và các luật cơ bản…  
Bọn tham nhũng chống chế ghê gớm đối với bất cứ ai chống lại chúng. Cũng dễ hiểu, nếu để bị bóc vỏ thì mất hết, nếu không mất mạng thì mất quyền, mất cả những gì mà họ dày công vung vén, và mất uy tín đối với xã hội. Chúng rất sợ báo chí phanh phui việc làm sai trái của chúng, nếu để đổ bể ra chết chùm hoặc ít nhất cũng “đội quần” trước công chúng. Làm động tác giả chi cho hao hơi tốn sức, không cần sắm ra Ban nầy, Bộ nọ chi cho hao tài tốn của ,chỉ cần ông TổngTrọng, Chủ Sang, Thủ Dũng… bật đèn cho truyền thông đại chúng đưa ra công khai những việc tiêu cực, tham nhũng trong xã hội thì sẽ hạn chế đến mức thấp nhứt những tệ nạn nầy. Tham nhũng cũng được đôn lên, cũng được hạ cánh an toàn thì dại gì mà không hốt của khi có điều kiện? .  
Ai cũng thấy, cũng nói tham nhũng trở thành quốc nạn. Vì lý do nầy nọ, không diệt được chúng từ trong trứng nước, giờ đây nó sinh con đẻ cháu đầy đàng, cày cắm khắp mỗi cấp, mỗi ngành, mọi nơi, phần lớn họ là đảng viên (tế bào) nên được đảng (cơ thể) bảo vệ. Chỉ còn mỗi cách, đảng chấp nhận đau đớn làm cuộc “đại phẫu thuật” mới may ra sống sót với hình hài dị dạng.
Việt Nam đang trong thực trạng tiền và quyền cấu kết với nhau: Tiền nhờ Quyền giúp đỡ, che chắn trong làm ăn; Quyền nhờ Tiền xây cơ lập nghiệp, biến đổi thành phần từ Vô sản thành thành Tư sản. Họ đã và đang cấu kết với nhau, xem tiền là tất cả:
Tiền là Tiên là Phật
 -     là sức bật tuổi trẻ
 -    là sức khỏe ông già
 -    là cái đà danh vọng
 -   là cái lộng che thân
 -   là cán cân công lý
-    là tình đồng chí
-    hết ý cuộc đời...
Dưới cái cơ chế của tiền và quyền quấn quít với nhau, các quan chức cơ cấu con cháu họ vào, bất cần nó có đức tài hay không. Họ cơ cấu theo huyết thống (theo dòng máu), cha truyền con nối “Con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa”, họ cố lờ đi vế sau: “Đến khi binh lửa can qua, con vua thất thế phải ra quét chùa”.
Quan chức thích kết thông gia với nhau: Con anh dâu tôi, con tôi rễ anh, chúng ta có trách nhiệm lo cho chúng có cuộc sống đàng hoàng, có vị thế xã hội xứng đáng. Người ta thường nói “nhứt thân, nhì thế”. Họ quen thân nhau và đều có thế, chơi trò: “Anh nhận con tôi, tôi nhận con anh; anh chiếu cố con tôi, tôi chiếu cố con anh ; anh đuổi con tôi, tôi đuổi con anh”.
“Chủ nghĩa lý lịch theo kiểu cha truyền con nối, ngoài cản trở việc kén chọn nhân tài, nó còn là nguồn gốc của nạn tham nhũng, tiêu cực xã hội. Thử lấy người đương nhiệm làm trung tâm để xét xem: Có khi nào họ mạnh tay đánh vào sai trái của hậu duệ?. Có khi nào họ mạnh dạn truy cứu lỗi lầm của người tiền nhiệm? – Tiền nhiệm, đương nhiệm và hậu duệ cùng dòng tộc với nhau họ nở nào?. Đã thế thì họ yên tâm “quậy”, quậy cũng được “đôn”, cũng được “hạ cánh an toàn” thì dại gì. Vậy, “Chủ nghĩa lý lịch” không những là tội đồ, mà còn là tôi đầu – nơi khởi nguồn tội lỗi.
Có người hỏi tôi:
“Vì sao con em cán bộ học dở, không có cấp bằng học vị, kém tài đức mà được trọng dụng, còn không ít con em dân thường có cấp bằng học vị, có đức độ mà nhà nước không trọng dụng?”
Tôi trả lời:
“Vô duyên, sao không tìm Đảng và Nhà nước hỏi mà hỏi tôi?!. Còn về đức độ thế nào thì tôi không rõ, nhìn vào danh sách ứng cử, người nào cũng có cấp băng học vị, một số không ít, nếu không  bằng thật học giả , thì cũng bằng chính trị . Nhưng mà anh ơi, thời bấy giờ, kẻ có thân thế thì :
Bằng có người lo
Chức to có người bầu
Đi đâu có xe chở
Nói dở có người nghe
Đe có người sợ
Làm dở có người khen
Hèn có người giấu
Nhậu có người bao
Đau có người bóp
Họp có người ghi
Chi có người bù
Tù có người chạy... “.
Trong buổi trà đàm, một người bạn hỏi tôi:
Theo anh có độc quyền yêu nước không?”.
 Một câu hỏi hóc búa thật, đắn đo một hồi rồi một chữ cũng thi, hai chữ cũng thi, tôi nói: - Suy cho cùng chẳng có đâu, yêu nước phải vì dân, xả thân không vụ lợi . Thời nay chẳng mấy ai chịu làm như thế, giành quyền yêu nước thì có thật:. Họ nhân danh gì có thể nhân danh, lợi dụng gì có thể lợi dụng theo kiểu ăn mày dĩ vãng. Đến mức, hết năm nầy sang năm nọ, người ta đem Hồ Chí Minh ra “thế chấp” thì không còn gì để nói. Họ cho mình là người yêu nước hơn cả, và là con cháu Cụ Hồ, thử đụng đến họ khắc biết, sẽ bị chụp cho cái mũ “thế lực thù địch”, tù mụt gông.
Người ngồi cạnh xía vô: Giao thông, Giáo dục, Y tế ngày một tệ, theo anh đến bao giờ mới có thể cải thiện?
-  Khi nào trên 3 cùng với dưới.
-  Nghĩa là sao?
-  Hiện tại cấp trên dùng phương tiện riêng đi lại, đi đến đâu có cảnh sát mở đường. Phần lớn con các vị cấp cao cho đi học ở nước ngoài. Trong nước các vị có nhà thương riêng, nếu bịnh nặng ra nước ngoài trị. Vậy thì ngày nào lãnh đạo cấp trên chưa: cùng đi, cùng học, cùng trị bịnh chung với dưới thì ngày đó Giao thông, Giáo dục, Y tế còn trì trệ.
Kê khai tài sản, kiểm tra thu nhập trong cán bộ là một chủ trương lớn của Đảng CSVN, nhưng thực tế nó không mang lại kết quả mà đem lại hậu quả là thêm mất lòng tin trong nhân dân. Thử hỏi, kê khai mà không công khai thì người ngoại cuộc biết đâu mà có ý kiến?!. Nếu để người trong diện phải kê khai giám sát lẫn nhau thì chặng lẽ lươn chê lịch,[2] thôi thì “Mi không đánh ta, ta không đánh mi” thì huề cả làng? Chủ trương ấy chắc có lẽ cốt để giải nhiệt, làm thiệt chết chùm làm sao? Nhìn chung, cán bộ lãnh đạo quận, huyện, tỉnh, thành và trung ương nói chung, những ngành kinh tế Hải quan, Công an, Tài chính, Thuế vụ, Sổ số… nói riêng, hầu như tuyệt đại đa số họ đã là đại gia. Tài sản ngầm của họ cỡ nào khó mà biết được, chớ nhà cửa, cơ ngơi làm ăn của họ sờ sờ ra đó còn giấu được ai. Muốn biết cơ ngơi, cơ sở làm ăn của họ cụ thể thế nào vào mạng Internet gõ “CLB NOKIA.Wordpress.com” (Câu lạc bộ Nó Kìa) thì rõ họ là những ai.
Có người thắc mắc: Họ tham nhũng giàu quá rồi sao mà vẫn tiếp tục tham nhũng? Tôi nói: Họ giàu như thế không quá đâu, thử ước tính các khoản cần chi của họ:
Chi cho xây dựng cơ ngơi hiện đại
Chi cho đi lại cao sang
Chi cho ăn uống như ông Hoàng
Chi boa cho những cô nàng bồ nhí
Chi cho cô cậu Tí đi học nước ngoài
Chi cho Ngài trị bịnh ngoại quốc
Chi cho xây cất từ đường
Chi cho sắm sẵn hàng rương, nhà mộ
Chi cho hối lộ lúc lâm nguy…..
Tính lại suy đi biết bao là đủ?
Đôi lời nhắn nhủ:
Hãy tận thu cho đủ để có mà chi.
Hiện nay, người tốt, người xấu rất khó phân biệt. Hiện tượng và bản chất những kẻ xấu không đồng nhất vói nhau, họ lớn tiếng hô hào chống tham nhũng, nhưng họ lại là chúa chổm tham nhũng không chừng. Hãy xem họ làm, đừng tin họ nói. Nhìn chung có vẻ phức tạp như vậy, nhưng chung quy chỉ có 3 nhóm người:
- Nhóm thấy đúng bảo vệ, thấy sai đấu tranh, họ chỉ sợ lẽ phải chớ không sợ bạo lực cường quyền. Đó là những chính nhân quân tử, đáng nể trọng.
- Nhóm thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, họ sợ bạo lực cường quyền hơn sợ lẽ phải. Đó là những người cơ hội xu thời, nhu nhược, theo đốm ăn tàn[3]…, đáng chê trách.
- Nhóm bất chấp phải trái, ỷ thế cậy quyền…, họ không sợ lẽ phải, chỉ biết dựa và dùng bạo lực cường quyền để mưu danh đoạt lợi… Đó là những kẻ không nhân cách (không có tính người) hoặc cho điểm an ủi là “tiểu nhân” đáng khinh bỉ .


 7 - Đất đai đang là điểm nóng gây nhiều tranh cãi

Người ta trụ được nhờ có đất. Mất đất là mất chỗ trụ để ở và mưu sinh khi còn sống, mất chỗ cất mớ xương tàn khi chết.
Đảng CS VN đưa ra luật đất đai với nội dung “Công hữu toàn bộ đất”, tạo ra sự bất an thường trực đối với bất cứ người dân ở nông thôn cũng như thành thị.
An sao được, đất ở, đất canh tác từ lâu thuộc sở hữu của mỗi hộ, giờ đây luật đất đai tước đi quyền sở hữu tư nhân, chỉ cho họ quyền sử dụng có thời hạn và phải nộp thuế.
Người ta tự dự thảo luật đất đai rồi đưa ra Quốc hội cũng của người ta thông qua thành luật. Đã là luật được Quốc hội thông qua, có ăn gan Trời hay uống hàng xâu mật Gấu cũng không dám thỏ thẻ, mặc cho số phận đẩy đưa ! .
Cái gì đến đã đến, khi nắm quyền đất trong tay, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, chính quyền các cấp thấy chỗ nào đất tốt, tiện lợi khoanh những vùng quy hoạch, chẳng cần tham khảo ý kiến người dân tại chỗ. Biết rằng, muốn phát triển đất nước phải xây dựng, muốn xây dựng phải có đất, nhưng xây dựng ở đâu, với quy mô nào, giải quyết việc sinh sống của người tại chỗ ra sao… nên đưa ra bàn bạc với dân sở tại, ít nhất cũng làm cho họ mát dạ trước khi nhìn sản vật, mồ mả người thân… vốn có từ lâu bị ủi phá tan hoang.
Quy hoạch làm ngay thì áp tới đền bù, giải tỏa. Nhà nước đã là chủ đất, đền bù chỉ tính giá trị sản vật hiện có trên mặt đất. Nhà nước nói giá nào người bị giải tỏa phải chấp nhận giá đó và lập tức di đi, nếu không thì bị cưỡng chế.     
Để những hộ bị giải tỏa trắng có nơi cất nhà ở, nhà nước lại quy hoạch ở một nơi nào đó, cũng bằng cách giải tỏa đền bù để lấy đất lập ra khu tái định cư cho số bị giải tỏa trước. Từ gây bất ổn ở nơi nầy dẫn đến gây bất ổn ở nơi khác, làm mất an cư của người dân.
Để khỏi đền bù nhiều khi giải tỏa, áng chừng những việc sẽ làm, nhà nước phóng tay lập những dự án rồi chọn vùng quy hoạch treo. Những hộ lọt trong khu vực treo nầy không được sang nhượng đất, không được xây dựng mới, không được trồng cây lâu năm, không được chôn người chết...., chỉ được "tản cư" càng sớm càng tốt xương cốt người thân đã chôn ở đây ra khỏi khu vực. Người sống hãy ở đó chờ, nếu có mọc râu thì cạo, nếu chết tự do tìm chỗ trước mắt chưa quy hoạch mà chôn hay đem đi đốt tùy ý.
Quy hoạch xây dựng những công trình công cộng mới, nhà nước có định giá thấp đôi chút, dân có thể chấp nhận, coi như góp chút phần nhỏ của mình cho công ích. Còn quy hoạch để rồi cho tư nhân xây dựng gì đó, lẽ ra để cho tư nhân ấy thương lượng giá trực tiếp với người bị giải tỏa, đàng nầy, nhà nước cử người đứng ra làm , định giá đền bù thì thấp, cho tư nhân thuê lại thì cao, vôi ra số tiền không nhỏ tha hồ mà nhậu. Cần đất cho công trình 1, quy hoạch giải tỏa bằng 2 chẳng hạn, số đất vôi ra thành đắt địa rồi chia nhau xơi..  Đủ cách, xúm nhau ăn trên đầu trên cổ ông nội cha người ta, dân không buồn mới là lạ?.
Thương thay cho dân nghèo thành thị bị giải tỏa trắng, họ vốn sống bằng nghề mua bán, lao động dịch vụ, nhà như ổ chuột, bồi thường sản vật trên mặt đất có là bao. Đến vùng tái định cư, không hành nghề cũ được, thất nghiệp, với số tiền ít ỏi vừa được đền bù, mua đất cất cái nhà tạm bợ đủ che nắng che mưa. Họ phải sống sao đây, chẳng lẽ đợi tối rủ nhau ngữa mặt lên trời hứng sương mà sống !?.
Từ những bất hợp lý, bất công như đã nói, người dân khiếu nại, tố cáo, biểu tình về nhà đất ngày một tăng là lẽ đương nhiên. Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản, Thủ Thiêm, Cái Răng .w… là những vụ người dân đấu tranh giữ đất gay  gắt và quyết liệt nhứt. Nếu ở Tiên Lãng người dân chống cưỡng chế bằng  bạo lục với vũ khi thô sơ tự tạo , thì ở Cái Răng người dân chống cưỡng chế bằng bất lực: gia đình có 3 người, 1 nam uống thuốc độc đang sống dở chết dở, 2 nữ tự tuột áo quần trần truồng không còn mảnh vải che thân, đứng dang tay ngăn chặn lực lượng cưỡng chế giữa thanh thiên bạch nhựt, trước bàn dân thiên hạ, thử hỏi còn cảnh đau xót nào hơn?!. Họ bị đàn áp chỉ vì “cái tội giữ đất cha ông để lại cho nhu cầu mưu sinh”. Lột tả vụ cưỡng chế tàn bạo nầy, Bà Lê Hiền Đức đặt câu hỏi không cần lời đáp rất sắc "cưỡng chế hay cưỡng dâm?".
Đã là kinh tế thị trường thì "đèn nhà ai nấy sáng", tức là mọi người tự lo cuộc sống cho mình. Cớ sao đảng CSVN chủ trương làm kinh tế thị trường mà không công nhận quyền sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu về đất đai, thử hỏi người dân tự sống bằng cách nào?!.
Người dân, đặc biệt là nông dân, không thể sống thiếu đất. Họ dám thay phiên nhau đổ máu để bảo vệ đất nước để làm gì chẳng lẽ đảng CSVN không biết?!

Lai lịch người viết bài “CHẠY”

Tôi đã kể khá nhiều sự đời, có lẽ đã đến lúc người đọc muốn biết gã viết bài CHẠY nầy là ai, ở đâu, đang làm gì…?.
Thưa rằng: Tôi Đào Văn Tùng, bút danh Thiện Tùng, sinh năm 1939 ở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; đang ngụ tại __ TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; Điện thoại: ___ (viet-studies xin phép tác giả không đăng những thông tin này)
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, huyện Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre gần như Pháp không thể chiếm đóng, là nơi nghỉ, nhận và luyện quân của Vệ Quốc Đoàn.  Mỗi năm, Pháp mở vài cuộc ruồng bố vào đây. Chúng đi đến đâu giết sạch, đốt sạch, phá sạch. Khiến cho người dân ở đây rạch ròi: địch và taViệt Minh và Việt Gian.
Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, học trường làng, thầy giáo Phạm Hữu Hỷ rót vào tai chúng tôi những án văn lay động lòng người. Chẳng hạn:
“…Đã đứng dậy bao lần thất bại
Trong căm hờn trong uất hận vô biên
Ngày lại ngày như suối chảy triền miên
Chuông đã đánh, âm thanh vang khởi nghĩa
Nguồn u uất vùng lên trong nghĩa địa
trong nấm mồ Tổ quốc rêu xanh
trong bao nhiêu xương máu của dân lành
trong nước mắt mồ hôi nhân loại…”.
Đâu chỉ thế, hàng ngay chúng tôi còn ngân nga những bài hát gợi cảm gợi suy. Chẳng hạn:
“ Làm sao khắp chúng dân được tự do?
Làm sao khắp muôn dân đầy cơm áo?
Làm sao khắp thiên hạ hưởng hòa bình?
Bao nhiêu năm đói rách và lầm than !
Bao nhiêu lần cạn nước mắt, đẫm máu xương !
Đứng lên đều, tung gông cùm giam đời sống !
Cùng nhau ra sức đấu tranh, cùng nhau quyết xây đời mới.
Nào nề tan nát thân mình, nào nề cực khổ gian lao
Ôi, muôn dân khóc than
Ôi, muôn dân nát lòng
Ôi, muôn dân căm hờn vì đời bất công
Vùng lên đem hết máu xương, vùng lên quyết tranh cưộc sống
Tự do hạnh phúc kia rồi
Hòa bình no ấm đang chờ đón ta”
 .
Phải nói, xin cám ơn những ai đó hướng cho tuổi trẻ chúng tôi sớm vào con đường yêu nước, thương dân, ngưỡng mộ các bậc tiền nhân yêu nươc thương nòi. Giáo dục yêu nước thương dân cho chúng tôi như thế đã đủ độ, chỉ có điều tuổi tác còn quá nhỏ, chúng tôi phải nán đợi chờ.
Pháp vẫn không chiếm đóng huyện Thạnh Phú, chúng chỉ cho máy bay thường xuyên dội bom vào những chỗ đông người. Khi 12 tuổi, tôi thoát ly gia đình, rày đây mai đó, theo làm tạp vụ cho cán bộ Việt Minh làm cuộc “Cách mạng Dân tộc Dân chủ”. Phần lớn cán bộ tôi theo phục vụ là những người có học, họ mang theo bên mình tài liệu chính trị, còn tôi thì mang theo sách giáo khoa. Khi rảnh họ kềm cặp cho tôi học văn hóa, ấn định mỗi năm lên 1 lớp . Đến mùa thi, các anh móc với cơ sở đưa tôi ra thành thi cử đàng hoàng – Bao năm liền, tôi chẳng những thi đậu mà còn đậu hạng ưu, có 2 năm được cấp học bổng.
Năm 1954, sau khi ký kết hiệp định Genève, người ta lớn tuổi, có nhiều công cán được đi tập kết ra Bắc, còn tôi ở lại với số cán bộ năm vùng. Công việc hàng ngày của tôi, nếu không chạy thư thì “hái rau bắt ốc”, cơm nước để cán bộ rảnh lo việc lớn.
Cuối năm 1955, Mỹ thay Pháp, Ngô Đình Diệm thay Bảo Đại thông qua cái gọi là “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại.
Bắt đầu từ 1956, Ngô Đình Diệm vừa củng cố bộ máy cai trị, vừa đôn quân, bắt lính chuẩn bị Bắc tiến.
Đầu năm 1957, tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh Lao (Đoàn Thanh niên Lao động), ngoài chuyện chạy vặt, cán bộ còn phân công cho tôi vận động nhân dân biểu tình đòi hiệp thương thông nhứt đất nước theo tinh thần hiệp định Genève 1954.
Anh em ông Ngô Đình Diệm làm cuộc chiến tranh đơn phương chông các phe phái đối lập như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và đưa ra luật 10/59 truy sát những người kháng chiến cũ. Diệm bắt giết và cầm tù nhiều cán bộ Cách mạng.
Cuối năm 1959, tôi xin và được chấp nhận cho vào Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) để đủ tư cách bổ khuyết vào một trong những chỗ đảng viên bị giết hoặc bị bắt.
Không còn nhịn được nữa, miền Nam VN làm cuộc Đồng khởi. Năm 1960, tôi tham gia phong trào Đồng khởi ở tỉnh Bến Tre. Cuộc chiến tranh ở Nam VN từ đơn phương thành song phương.
Đầu năm 1961, chị Nguyễn thị Định (Ba Định), Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, rút tôi và Hòa thượng Thích Thiện Hào cùng chị về khu Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ). Trên đường đi, Hòa thượng Thích Thiện Hào nói vui với tôi: 
-  Để đừng lộn Tùng nầy với Tùng khác, ta đặt cho mi tên Thiện Tùng có chịu hay không? . 
-  Nghe sặc mùi Phật !” –  tôi đáp.
- Vậy chớ có ý nghĩa lắm – thiện mới tùng – Ông Hào lý giải.
Đó là chuyện vui qua đường, nhưng khi tham gia viết báo, viết văn, tôi hoài cổ, nhớ Hòa thượng Thích Thiện Hào, lấy bút danh Thiện Tùng. Từ đó dường như tôi mắc lời thề “quyết không tùng ác”
Từ năm 1961 – 1975, tôi công tác ở Ban Tuyên Huấn (BTH) khu Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ) với những chức việc:
- Trưởng Văn phòng  (1961 – 1962).
- Trưởng đơn vị  Điện đài Minh ngữ (1963 – 1964).
- Trở lại làm Trưởng Văn phòng (1965).
- Khi sư 9 Mỹ vào Mỹ Tho, tôi được BTH Khu phân công phụ trách Đội TuyênTuyền Xung Phong (Đội T2XP) đến hoạt động ở tỉnh Mỹ Tho (1966 – 1968).
- Ngày 8/3/1968, tôi bị trọng thương, trị thương hết  năm 1968.
- Năm  1969 – 1970  , tôi được BTH Khu phân công làm cán bộ công tác phong trào ở địa bàn tỉnh Mỹ Tho.
- Năm 1971, khi Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tôi được BTH Khu phân công theo Trung đoàn 3 mở chiến dịch Nam Cao Lãnh nhằm khống chế không cho quân Mỹ và VNCH dùng Lộ 30 và Sông Tiền sang Campuchia.
- Cuối năm 1971 đến tháng 6/1972, tôi được điều sang tham gia chiến dịch Bắc Mỹ An nhằm mở đường tiếp vận Hậu cần cho các tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre và đưa quân trở lại chiến trường trọng điểm Mỹ Tho.
- Sau khi kết thúc chiến dịch Bắc Mỹ An, tháng 7/1972, tôi được BTH Khu phân công theo đỡ đầu cho Trung đoàn 24 xuống tỉnh Gò Công – vùng trọng điểm bình định của Mỹ và VNCH, nhằm tạo thế lực mới nơi đây trước khi ký kết hiệp định Paris.
- Tháng 5/1973, BTH Khu rút tôi về phân công phụ trách trường Tuyên Huấn Khu ở Vùng 4 Kiến Tường  (ở Đồng Tháp Mười).
- Cuối năm 1974, tôi nhận lịnh đi học trường Nguyễn Ái Quốc. Khi đến địa phận tỉnh Tây Ninh, tôi bị sốt rét phải vào trạm xá điều trị , trể chuyến không đi được.
- Trưa 30/4/1975, tôi chủ trương và cùng 3 anh em khácchuyển hàng tiếp quản do Trung ương Cục cấp cho Khu Trung Nam Bộ đến bắc Bến Sỏi,  thuê chiếc xe chở khoảng 4 tấn hàng được cấp nầy theo sau bộ đội ra thị xã Tây Ninh, đi Sài Gòn rồi về đến Mỹ Tho vào lúc l8giờ 30/4/1975.
- Cuối năm 1975, khi giải thể Khu, nhập Tỉnh, tôi được biệt phái đến Gò Công làm trưởng BTH. Đầu năm 1980, tôi được điều động về làm phó trưởng BTH tỉnh Tiền Giang, phụ trách 2 phòng Tuyên truyền và Báo Cáo viên.
Ngoài được đi học lấy bằng đỏ trường Nguyễn Ái Quốc, tôi còn được tỉnh nâng lương 4 lần trong 6 năm (1980 – 1986). Nếu không có việc gì riêng, các cuộc họp cấp cao của tỉnh, các anh chị đều gọi tôi dự. Phải nói, tôi là một trong những người được tỉnh trọng dụng và ưu ái.
Năm 1986, khi 47 tuổi, tôi đi giám định Y khoa rồi lấy cớ thương tật từ nhiệm. Ông Lê văn Phẩm, Bí thư Tỉnh ủy, ông Phan Lương Trực, Tỉnh đội trưởng tỉnh Tiền Giang gọi tôi đến khuyên: Ráng làm thêm nhiệm kỳ 5 năm nữa. Tôi nói: Bộ Thương binh và Xã hội cho phép tỷ lệ thương tật 61% trở lên có quyền nghỉ theo ý muốn, tôi tỷ lệ thương tật 71%, tôi được quyền nghỉ, cho là lịch sự, không cho tôi cũng nghỉ. Tôi nhất quyết như thế, hai anh không vui, nhưng đành vậy. Thú thật, nếu làm việc gì đó không phải làm Tuyên Huấn thì tôi có thể ráng thêm, làm Tuyên Huấn thời giờ phải ăn theo nó theo, chẳng khác thằng chuyên môn lừa đảo chính trị.
Có lần tôi bị phân công làm diễn giả, thuyết về Nam Kỳ Khởi Nghĩa cho hơn 300 cử tọa gồm những trưởng phó đầu ngành tỉnh, huyện. Phần lớn đầu họ đã bạc, tuổi đời, tuổi Đảng của họ ít ai thấp hơn tôi. Thế mà tôi nói, họ cố cặm cụi ghi. Giờ giải lao, các anh chị tụ tập quanh tôi chuyện trò vui vẻ. Tôi ứng khẩu: “Có khi nào các anh chị thấy mình như tín đồ ngoan đạo không?”. Anh Bảy Điện, giám đốc sở Bưu Điện trừng mắt hỏi vặn tôi: “Chú mầy nói thế là ý gì?”. Tôi cười đáp: “Tôi sinh năm 1939, Nam kỳ Khởi nghĩa năm 1940, tôi có biết Ất Giáp gì về khởi nghĩa ấy đâu, chẳng qua dựa vào sách mà nói. Thế mà, tôi nói các anh chị cặm cụi ghi, đúng là “múa rìu qua mắt thợ” thật xấu hổ?!”. Anh Điện ký nhẹ vào đầu tôi rồi xúm nhau cười.
Trước khi rời nhiệm sở, tôi gọi anh Đoàn văn Bảy, trưởng Văn phòng BTH tỉnh Tiền Giang giao tài liệu, súng ngắn rồi tự bỏ nhiệm sở. Có lẽ thương tình, các anh lãnh đạo tỉnh chỉ đạo cơ quan Xã hội và Thương binh lập sổ hưu cho tôi sau đó.
 Năm 1991, tôi trả thẻ Đảng, viết kèm theo mấy dòng: “Năm 1959 tôi xin vào Đảng Lao Động VN làm cuộc Cách mạng Dân tộc Dân chủ. Tôi không hề xin vào Đảng Cộng sản Việt Nam – đó là lý do tôi trả thẻ Đảng”. Thẻ Đảng và mấy dòng thư tôi cho vào bao gởi gián tiếp cho Phường Ủy.
Mấy tháng sau khi tôi trả thẻ Đảng, Phường mở Đại hội Đảng bộ Phường, có anh Huỳnh văn Niềm, Bí thư Tỉnh ủy Tỉnh Tiền Giang dự. Phường 2 lần cử người mời tôi dự nhưng tôi từ chối. Sau Đại hội Đảng bộ Phường, chị Trần thị Thắng, Bí thư Thành ủy Mỹ Tho gặp trực tiếp tôi, chị nói: “Ông Ba Niềm bảo tôi nói với anh nhận lại thẻ Đảng…”. Tôi trả lời: “Cám ơn các anh chị quan tâm đến tôi, nhưng tôi đã quyết không thể thay đổi”. Khoảng nửa tháng sau, Ban Tổ chức Thành ủy ra quyết định xóa Đảng tịch tôi. Mấy ngày sau, tỉnh cấp cho tôi 2 sổ  khám chữa bịnh: một của Ban Bảo Vệ Sức Khỏe tỉnh Tiền Giang, một của bịnh viện Thống Nhứt thuộc Trung ương đóng tại Sài Gòn.. Đến nay (2010), khi cần tôi đến 2 nơi ấy khám chữa bịnh.
Tôi kể về tôi đã quá nhiều, nói nhiều như thế không phải để khoe khoang gì về mình, mà để nói rằng: Vì đại nghĩa tôi dấn thân không màng gian lao nguy hiểm. Tôi yêu nước chớ không yêu CNXH. Không yêu “ly dị” là chuyện bình thường. Tôi mặn mấy câu thơ của Phùng Quán:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dầu ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Dầu ai ngon ngọt nuôn chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.

Tiền Giang, 10/10/2010
          Thiện Tùng


 

[1] Chuyện truyền thuyết: Thạch Sanh và Lý Thông là hai anh em kết nghĩa. Thạch Sanh tử tế, Lý Thông gian manh
[2] Con Lươn và con Lịch cả 2 đều là loại da trơn và đều có nhớt.
[3] Ám chỉ loài động vật không khả năng săn mồi, chỉ mò theo đốm lửa khi thợ săn nướng thịt để ăn những thứ người ta chê bỏ lại.

 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 11-5-14