Saturday, March 28, 2015

Sự đổ vỡ đang tới của Trung Quốc

Sự đổ vỡ đang tới của Trung Quốc


Ngày tàn của chế độ cộng sản ở Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp tàn nhẫn của Tập Cận Bình chỉ đưa nước này tới đổ vỡ sớm hơn

 The Coming Chinese Crackup

DAVID SHAMBAUGH

(Bản dịch đã đăng trên trang anhbasam ngày 28/3/2015)

Lời giới thiệu của ông David Brown

Bài phân tích của GS David Shambaugh đăng ngày 6 tháng 3 trên báo Wall Street Journal, một tờ báo lớn của Mỹ, quan trọng không chỉ về nội dung của nó mà còn ở chỗ tác giả là một ‘ngôi sao nhạc rock’ trong số các học giả Trung Quốc. Được biết, một cuộc thăm dò của các học giả Trung Quốc đánh giá Shambaugh là một chuyên gia nước ngoài về Trung Quốc có tầm ảnh hưởng nhất, được xếp vào hàng thứ hai.

Chuyên ngành của GS Shambaugh là chính sách đối ngoại của Trung Quốc và các vấn đề chính trị nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông là người tư vấn thường xuyên cho Bộ Ngoại giao Mỹ và một tác giả có nhiều bài viết.

Tiến sĩ Shambaugh lưu ý rằng các học giả Trung Quốc khác đã từng tiên đoán sự sụp đổ của ĐCS TQ, nhưng điều đó đã không xảy ra, ít nhất là chưa xảy ra. Vì sao bây giờ ông lại nhảy vào chủ đề ‘sự sụp đổ của Trung Quốc’? Rõ ràng là Shambaugh xem sự cải cách chính trị hạn chế của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là những bước xây dựng có thể giúp “hệ thống này mở ra”. Shambaugh lập luận rằng, bây giờ Tập Cận Bình đã bác bỏ những cải cách và kết quả đó, điều này chỉ có thể dẫn tới sự sụp đổ – có thể rất là hỗn độn – của chế độ Cộng sản Trung Quốc.
-----------------------------------------------

Chinese President Xi Jinping, front center, and other Chinese leaders attend the opening meeting on Thursday of the third session of the National People’s Congress at the Great Hall of the People in Beijing.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, giữa phía trước, và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc tham dự phiên khai mạc kì họp thứ ba Quốc hội hôm Thứ Năm tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh.
Ảnh: XINHUA / ZUMA PRESS


Hôm Thứ Năm, Quốc hội Trung Quốc họp tại Bắc Kinh theo nghi thức đã trở nên quen thuộc hàng năm. Khoảng 3000 đại biểu "được bầu" từ khắp nơi trên đất nước - từ nhóm sắc tộc ít người, ăn mặc sặc sỡ cho đến các tỉ phú trang nhã--sẽ họp một tuần để thảo luận về tình trạng đất nước và tham gia vào việc làm chính trị giả vờ.

Một số người coi việc tụ tập đầy ấn tượng này là một dấu hiệu về sức mạnh của hệ thống chính trị Trung Quốc - nhưng nó che đậy nhiều điểm yếu nghiêm trọng. Chính trị Trung Quốc luôn luôn khoát vỏ bọc màu mè, với các sự kiện được trình diễn như hội nghị nhằm phô trương uy quyền và sự ổn định của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quan chức cũng như công dân đều biết rằng họ buộc phải tuân theo những nghi thức này, vui vẻ tham gia và lặp lại như vẹt các khẩu hiệu chính thức. Hành vi này trong tiếng Trung được gọi là biaotai (表态: biểu thái), "biểu lộ thái độ/lập trường", nhưng nó chỉ hơn hành động tuân thủ hình thức một ít.

Mặc dù vẻ bề ngoài, hệ thống chính trị của Trung Quốc đang đổ vỡ tệ hại, và không ai biết điều đó rõ hơn chính Đảng Cộng sản. Người đầy quyền lực của Trung Quốc, Tập Cận Bình, đang hy vọng rằng việc truy dẹp bất đồng chính kiến và tham nhũng sẽ củng cố sự cai trị của đảng. Ông cương quyết tránh trở thành một Mikhail Gorbachev của Trung Quốc, ngồi điều khiển sự sụp đổ của đảng. Nhưng thay vì là phản đề của Gorbachev, Tập Cận Bình rốt cuộc có thể đi tới cùng hậu quả. Sự chuyên quyền của ông đang đè nén nghiêm trọng hệ thống và xã hội Trung Quốc - và đưa nó tới gần chỗ đổ vỡ hơn

Dự đoán sự sụp đổ của các chế độ độc tài là một việc đầy rủi ro. Vài chuyên gia phương Tây dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết trước khi nó xảy ra vào năm 1991; CIA hoàn toàn bỏ qua điều đó. Hai năm trước khi nó xảy ra, việc sụp đổ của của các nước cộng sản Đông Âu bị miệt thị là mơ tưởng của những người chống cộng. Các cuộc “cách mạng màu” hậu Xô Viết ở Georgia, Ukraine và Kyrgyzstan từ 2003 đến 2005, cũng như các cuộc nổi dậy mùa xuân Ả Rập năm 2011, đều nổ ra ngoài dự đoán.

The Gate of Heavenly Peace in Beijing’s Tiananmen Square, the site of pro-democracy demonstrations in 1989. 
Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, chỗ xảy ra cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ vào năm 1989.
Ảnh: NATIONAL GEOGRAPHIC/GETTY IMAGES

Các nhà quan sát tình hình Trung Quốc đã cảnh giác cao đối với những dấu hiệu mục ruỗng và xuống dốc của chế độ từ trãi nghiệm kề miệng hố của chế độ tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989. Kể từ đó, nhiều nhà Trung Hoa học dày dạn đã đánh cược uy tín nghề nghiệp qua việc khẳng định rằng sự sụp đổ quyền cai trị của ĐCSTQ là không thể tránh khỏi. Những người khác thì thận trọng hơn, trong đó có tôi. Nhưng thời thế ở Trung Quốc thay đổi nên phân tích của chúng ta cũng phải thay đổi theo.

Tôi tin rằng ngày tàn của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và điều đó đã diễn tiến xa hơn nhiều người nghĩ. Tất nhiên chúng ta không biết con đường từ nay cho đến lúc kết thúc sẽ như thế nào. Có lẽ sẽ hết sức bất ổn và lộn xộn. Nhưng cho đến khi hệ thống bắt đầu rã ra theo cách rõ rệt nào đó thì những yếu tố bên trong sẽ diễn trò theo – do đó cùng-góp phần làm bộ mặt ổn định.

Việc cai tri của cộng sản ở Trung Quốc khó có vẻ sẽ kết thúc thầm lặng. Một sự kiện đơn lẻ khó có khả năng kích thích làm nổ tan chế độ một cách hoà bình. Sự sụp đổ của nó có khả năng sẽ kéo dài, lộn xộn và bạo lực. Tôi không loại trừ khả năng Tập Cận Bình sẽ bị lật đổ trong một cuộc đấu tranh quyền lực hoặc đảo chính. Với chiến dịch chống tham nhũng hùng hổ - một trọng tâm của Quốc Hội trong tuần này - ông đang dùng quá mức sở đoản của mình, gây hoang mang các cử tri đảng, nhà nước, quân sự và thương mại then chốt.

Người Trung Quốc có một câu tục ngữ, waiying, neiruan (外硬内软: ngoại ngạnh, nội nhuyễn [cứng bề ngoài, mềm bên trong]). Tập Cận Bình là một nhà cai trị thực sự cứng rắn, lộ rõ sự tự tin và thuyết phục. Nhưng nhân cách cứng rắn này là biểu hiện trái ngược bề ngoài của hệ thống đảng và chính trị vốn vô cùng mong manh bên trong.

Hãy xét năm chỉ dấu phô lộ về các chỗ nhược của chế độ và những yếu kém mang tính hệ thống của đảng.

Thứ nhất, giới chủ chốt kinh tế của Trung Quốc đang 'chân trong, chân ngoài', và họ sẵn sàng bỏ đi hàng loạt nếu hệ thống thực sự bắt đầu sụp đổ. Năm 2014, Viện nghiên cứu Hồ Nhuận (Hurun) Thượng Hải chuyên nghiên cứu về giới giàu có Trung Quốc, phát hiện ra rằng 64% các “cá nhân có lợi tức ròng cao” mà họ thăm dò (393 triệu phú và tỉ phú) thì hoặc đang di cư hoặc đang có kế hoạch di cư. Giới nhà giàu Trung Quốc gửi con đi du học với con số kỉ lục (bản thân điều này là một cáo trạng về chất lượng của hệ thống giáo dục đại học Trung Quốc).

Tạp chí này tường thuật ngay trong tuần này rằng các nhân viên liên bang đã lục soát nhiều địa điểm ở Nam California mà chính quyền Mỹ cho là có liên hệ tới “hoạt động kinh doanh du lịch sinh con trị giá nhiều triệu đô la đã đưa hàng ngàn phụ nữ Trung Quốc sang đây du lịch rồi trở về với con vừa mới sinh là công dân Hoa Kì." Giới giàu có Trung Quốc cũng đang mua bất động sản ở nước ngoài ở mức độ và giá cả kỉ lục, và họ cũng đang chuyển tài sản ra nước ngoài, thường ở những nơi dễ trốn thuế và các công ti vỏ bọc.

Trong khi đó, Bắc Kinh đang cố tìm cách giải về nước một số lượng lớn những kẻ trốn chạy đem tiền ra sống ở nước ngoài. Khi giới ưu tú của một đất nước- trong đó nhiều người là đảng viên - trốn chạy với số lượng lớn như vậy, đó là một dấu hiệu rõ ràng của sự thiếu niềm tin vào chế độ và tương lai của đất nước.

Thứ hai, từ khi nắm quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã tăng cường mạnh mẽ đàn áp chính trị vốn bao trùm khắp Trung Quốc từ năm 2009. Mục tiêu nhắm vào bao gồm báo chí, truyền thông xã hội, phim ảnh, nghệ thuật và văn học, các nhóm tôn giáo, Internet, trí thức, người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ, bất đồng chính kiến, luật sư, tổ chức phi chính phủ, sinh viên đại học và sách giáo khoa. Ban Chấp Hành Trung Ương đã ra một chỉ thị hà khắc đưa xuống cấp dưới vào năm 2013 gọi là văn bản số 9, yêu cầu tất cả các đơn vị phải tìm ra mọi biểu hiện có vẻ tán đồng "các giá trị phổ quát" của phương Tây - gồm dân chủ lập hiến, xã hội dân sự, tự do báo chí và kinh tế tân tự do.

Một chính phủ vững vàng và tự tin sẽ không tiến hành đàn áp khốc liệt như vậy. Đó là triệu chứng lo âu và bất an sâu đậm của lãnh đạo đảng.

A protester is pushed to the ground by a paramilitary policeman March 5, 2014, in Beijing before the opening of the National People’s Congress nearby.
Một người biểu tình bị cảnh sát quật xuống đất ngày 5 tháng 3 năm 2014, tại Bắc Kinh trước khi Quốc Hội khai mạc gần đó.

Thứ ba, ngay cả nhiều người trung thành với chế độ cũng chỉ hành động xu thời. Thật khó có thể bỏ qua những biểu hiện diễn kịch giả tạo đã thấm đẩm khắp bộ máy chính trị Trung Quốc trong vài năm qua. Mùa hè năm ngoái, tôi là một trong số ít người nước ngoài (và là người Mĩ duy nhất) tham dự hội thảo về "Giấc mơ Trung Quốc", một ý tưởng mang dấu ấn của Tập Cận Bình, tại một nhóm nghiên cứu trực thuộc đảng CS ở Bắc Kinh. Chúng tôi ngồi suốt hai ngày mệt óc, nghe hơn hai chục diễn giả đảng trình bày liên tục -  nhưng mặt họ lạnh lùng vô cảm, ngôn ngữ điệu bộ khô cứng, và nỗi chán nản của họ là hiển hiện. Họ giả vờ tuân thủ theo đảng và các câu thần chú mới nhất của lãnh đạo đảng. Nhưng rõ ràng là công tác tuyên truyền đã mất đi sức mạnh, và hoàng đế chẳng có quần áo trên người.

Tháng 12, tôi trở lại Bắc Kinh dự hội nghị tại trường Đảng Trung Ương, cơ quan cao nhất lo việc dạy dỗ chủ thuyết của đảng, và một lần nữa, các quan chức chóp bu và chuyên gia chính sách đối ngoại lại đọcthuộc lòng các khẩu hiệu đúng từng lời. Trong giờ ăn trưa một ngày nọ, tôi đến gian hàng sách của trường - luôn luôn là một điểm dừng quan trọng để tôi có thể tự cập nhật những thứ cán bộ lãnh đạo Trung Quốc đang được dạy. Những tập sách trên các kệ của cửa hàng từ "tuyển tập" của Lenin đến hồi ký của Condoleezza Rice, và một cái bàn ở lối vào chất đầy các cuốn sách nhỏ của Tập Cận Bình về chiến dịch đề cao "đường lối quần chúng" của ông – tức về liên hệ giữa đảng với quần chúng. Tôi hỏi nhân viên bán hàng "Sách này bán thế nào?" Cô trả lời. "Ô, không. Chúng tôi chỉ biếu không." Chồng sách còn cao nghệu cho thấy nó khó có thể là sách đắt hàng.

Thứ tư, tệ tham nhũng lan tràn trong nhà nước độc đảng và quân đội cũng thâm nhập vào toàn xã hội Trung Quốc nói chung. Chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình dai dẳng và khốc liệt hơn so với các chiến dịch trước đó, nhưng không có chiến dịch nào có thể khử hết được vấn nạn này. Nó có cội rể sâu trong hệ thống độc đảng, mạng lưới đỡ đầu - đàn em, nền kinh tế hoàn toàn thiếu minh bạch, phương tiện truyền thông nhà nước kiểm soát và sự vắng mặt của nền pháp trị (rule of law).

Hơn nữa, chiến dịch của Tập Cận Bình ít nhất đang biến thành một cuộc thanh trừng chọn lọc không kém hơn một chiến dịch bài trừ tham nhũng. Nhiều người trong số các mục tiêu nó nhắm tới cho đến nay là các tay em và các đồng minh chính trị của cựu lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân. Hiện 88 tuổi, ông ta vẫn là một thế lực bảo trợ chính trị ở Trung Quốc. Truy theo mạng lưới bảo trợ của Giang Trạch Dân khi ông vẫn còn đang sống là điều rất nguy hiểm cho Tập Cận Bình, đặc biệt là vì ông có vẻ chưa tập hợp được phe nhóm dưới tay trung thành khi lên vị trí cầm quyền. Một vấn đề khác nữa là Tập Cận Bình, con của thế hệ cách mạng chủ chốt đầu tiên của Trung Quốc, là một trong những "thái tử đảng", nên các mối quan hệ chính trị của ông chủ yếu chỉ mở rộng đến các thái tử đảng khác. Thế hệ hưởng lộc (silver spoon) này đang bị chửi rủa cùng khắp trong xã hội Trung Quốc.

Cuối cùng, nền kinh tế của Trung Quốc – theo các quan điểm phương Tây như là một lực kéo áp đảo (juggernaut) không dừng được, bị mắc kẹt trong một loạt các bẫy hệ thống không có lối thoát dễ dàng. Tháng 11 năm 2013, Tập Cận Bình  chủ trì Hội Nghị Trung Ương 3 của đảng, công bố một gói đồ sộ các đề xuất cải cách kinh tế, nhưng cho đến nay, vẫn còn trên bệ phóng. Vâng, chi cho tiêu dùng có tăng lên, tệ lót tay cửa quyền có giảm xuống, và một số cải cách tài chính đã được đưa vào, nhưng trên tổng thể, các mục tiêu đầy tham vọng của Tập Cận Bình đã chết yểu. Gói cải cách này thách thức các nhóm lợi ích đầy quyền lực có gốc rể sâu xa trong hệ thống - như các doanh nghiệp nhà nước và các cán bộ đảng địa phương - và họ đang thẳng thừng ngăn chặn việc thực hiện nó.

Năm vết nứt ngày càng hiện rõ này trong việc kiểm soát chế độ chỉ có thể chỉnh sửa thông qua cải cách chính trị. Cho đến khi và trừ khi có sự nới lỏng kiểm soát chính trị hà khắc, Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành một xã hội sáng tạo và một "nền kinh tế tri thức" – một mục tiêu chính của các cải cách của Hội Nghị 3. Hệ thống chính trị đã trở thành những trở ngại chính cho các cải cách kinh tế và xã hội cần thiết của Trung Quốc. Nếu Tập Cận Bình và các lãnh đạo đảng không nới lỏng quyền kiểm soát thì họ có thể phải đối mặt với kết cục định sẵn mà họ muốn tránh.

Trong nhiều thập kỉ kể từ khi Liên Xô sụp đổ, giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc luôn bị ám ảnh về sự sụp đổ của nước cộng sản anh em khổng lồ này. Hàng trăm phân tích hậu nghiệm ở Trung Quốc đã mổ xẻ những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.

"Giấc mơ Trung Quốc" thực của Tập Cận Bình phải tránh cơn ác mộng Liên Xô. Chỉ một vài tháng lên cầm quyền, ông đã đưa ra một bài phát biểu nội bộ dè biểu sự sụp đổ của Liên Xô và than phiền Gorbachev phản bội, cho rằng Moscow đã thiếu một "người đàn ông đích thực" dám đứng lên chống lại nhà lãnh đạo cải cách cuối cùng. Làn sóng đàn áp hiện nay của Tập Cận Bình làm điều trái ngược với perestroika (cải tổ) và glasnost (cởi mở) của Gorbachev. Thay vì cởi mở, Tập Cận Bình lại tăng sự kiểm soát đối với bất đồng chính kiến, nền kinh tế và thậm chí cả các đối thủ trong đảng lên gấp đôi.

Nhưng phản ứng lại và đàn áp không phải là lựa chọn duy nhất của Tập Cận Bình. Các tiền nhiệm của ông, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, đã rút ra những bài học rất khác từ sự sụp đổ của Liên Xô. Từ năm 2000 đến năm 2008, hai ông đã thể chế hoá nhiềuchính sách nhằm mở cửa hệ thống với các cải cách chính trị có giới hạn một cách cẩn thận.

Hai ông đã tăng cường các cấp uỷ đảng địa phương và thử nghiệm việc bầu cho bí thư với nhiều ứng cử viên. Hai ông thu nhận vào đảng nhiều doanh nhân và trí thức. Hai ông đã mở rộng tham vấn với các nhóm ngoài đảng và làm cho các thủ tục làm việc của Bộ Chính trị minh bạch hơn. Hai ông đã cải thiện cơ chế phản hồi trong đảng, áp dụng tiêu chí tài đức nhiều hơn cho việc đánh giá và đề bạt, và tạo ra hệ thống bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc cho toàn bộ 45 triệu cán bộ đảng và nhà nước. Cả hai đã đưa vào thực hiện các đòi hỏi về hưu trí và luân chuyển công tác của cán bộ, sĩ quan cứ mỗi vài năm.

Trên thực tế, trong một quảng thời gian Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đã tìm cách quản lý sự thay đổi chứ không phải chống lại nó. Tuy nhiên, Tập Cận Bình không thích điều nào trong số này. Từ năm 2009 (khi mà ngay cả Hồ Cẩm Đào trước đây cởi mở cũng đã chuyển hướng và bắt đầu kiểm soát chặt chẽ), chế độ ngày càng bất an đã rút lại tất cả các những cải cách chính trị (trừ hệ thống huấn luyện cán bộ). Những cải cách này do cánh tay chính trị đắc lực của Giang Trạch Dân, cựu phó chủ tịch Tăng Khánh Hồng đạo diễn, ông đã nghỉ hưu vào năm 2008 và hiện nay đang bị nghi ngờ trong chiến dịch chống tham nhũng - thêm một dấu hiệu về sự thù địch của Tập Cận Bình với các biện pháp có thể làm dịu những căn bệnh của hệ thống đang phân rả.

Một số chuyên gia cho rằng chiến thuật hà khắc của Tập Cận Bình thực ra có thể báo trước một hướng cởi mở hơn và cải cách về sau trong nhiệm kì của ông. Tôi không đồng tình điều này. Nhà lãnh đạo và chế độ này xem chính trị như cuộc chơi có tổng zero: Theo quan điểm của họ, nới lỏng kiểm soát chắc chắn là một bước hướng tới sự huỷ diệt của hệ thống và sự sụp đổ của chính họ. Họ cũng có cách nhìn theo thuyết âm mưu rằng Hoa Kì đang tích cực hành động để lật đổ Đảng Cộng Sản. Không có điều nào trong gợi mở này cho thấy rằng các cải cách sâu rộng sắp quay trở lại.

Chúng ta không thể dự đoán cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ lúc nào, nhưng không khó để kết luận rằng chúng ta đang chứng kiến giai đoạn cuối cùng của nó. ĐCSTQ là chế độ cầm quyền lâu thứ hai trên thế giới (chỉ sau Bắc Triều Tiên), và không có một đảng nào có thể thống trị mãi mãi.

Nhìn về phía trước, các nhà theo dõi Trung Quốc nên để mắt vào các công cụ kiểm soát của chế độ và vào những người được phân công sử dụng những công cụ này. Một số lượng lớn các công dân lẫn đảng viên đã bỏ phiếu bằng chân rời bỏ đất nước hoặc thể hiện sự thiếu thành thật bằng cách giả vờ tuân theo mệnh lệnh của đảng.

Chúng ta cần quan sát ngày mà các nhân viên tuyên truyền và bộ máy an ninh nội bộ của chế độ bắt đầu trở nên lỏng lẻo trong việc thực thi mệnh lệnh của đảng - hoặc khi họ bắt đầu coi mình như bất đồng chính kiến, giống như nhân viên Stasi (an ninh) của Đông Đức trong  phim "The Lives of Others" (Mãnh đời của nhưng kẻ khác), anh đã thông cảm với các đối tượng bị theo dõi. Khi sự đồng cảm của con người bắt đầu chiến thắng bộ máy cầm quyền cứng nhắc thì ngày tàn của cộng sản Trung Quốc sẽ thực sự đã bắt đầu.


Tiến Sĩ Shambaugh là giáo sư về vấn đề quốc tế và là giám đốc Chương Trình Chính Sách Trung Quốc tại Đại Học George Washington, cộng tác viên cao cấp tại Viện Brookings. Sách của ông gồm có "China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation" (ĐCS Trung Quốc: hao mòn và thích ứng”), và gần đây nhất, "China Goes Global: The Partial Power." (Trung Quốc vươn lên toàn cầu: một thế lực cục bộ)

Sunday, March 1, 2015

Đường chín đoạn của Trung Quốc vẫn vi phạm luật quốc tế [liên quan đến quyền đánh cá]

Đường chín đoạn của Trung Quốc vẫn vi phạm luật quốc tế [liên quan đến quyền đánh cá]


East Asia Forum (27/2/2015)
Dương Danh Huy và Phạm Quang Tuấn

Những ý kiến rằng Trung Quốc có thể đòi hỏi quyền đánh cá lịch sử nằm trong đường chín đoạn đã diễn dịch sai luật pháp quốc tế. Lập luận của Sourabh Gupta, nêu trong một bài báo gần đây trên Diễn đàn này, liên quan đến Điều 62 và 123 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đã bị bài bác ở nơi khác. Trong bài này chúng tôi cho rằng lập luận của ông liên quan đến Điều 56 cũng sai lầm.

 

Một tàu công vụ của Trung Quốc đuổi theo một tàu Cảnh sát biển Việt Nam với các phóng viên trên tàu ở Biển Đông vào ngày 15 tháng 7, năm 2014.
(Ảnh: AAP)

Chế độ vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được nêu ở Điều 56 UNCLOS, chỉ ra rằng một nước có ‘quyền chủ quyền cho mục đích thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý [...] nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong EEZ của mình’. UNCLOS và các giải thích tiếp theo hàm ý rằng quyền khai thác này là độc quyền đúng như tên gọi: các nước khác có thể tham gia vào việc khai thác trong EEZ của nước đó chỉ khi được nước chủ nhà thỏa thuận. Khi một quốc gia trở thành một bên kí kết UNCLOS tức là quốc gia đó từ bỏ mọi yêu sách đối với quyền đánh cá trong EEZ của nước khác, bất kể có các hoạt động đánh cá trong lịch sử. Đổi lại đất nước đó được độc quyền đánh cá trong EEZ của chính mình.

Gupta diễn giải sai phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực (PCA) vụ tranh chấp Eritrea-Yemen về lãnh thổ biển, coi đó như là ủng hộ quan điểm  rằng một bên kí kết UNCLOS có quyền tiếp tục các hoạt động đánh bắt cá truyền thống trong EEZ của nước khác. Khi PCA trao chủ quyền đối với một số đảo cho Yemen nhưng cũng để các ngư dân Eritrea tiếp tục chế độ đánh cá truyền thống trong vùng lân cận, phán quyết này liên quan đến chủ quyền đối với các đảo đó chứ không phải đối với EEZ. Trong luật pháp quốc tế, việc thụ đắc chủ quyền và quyền đối với các tài nguyên bên trong EEZ của một quốc gia được điều chỉnh bởi hai chế độ pháp lí khác nhau.

PCA đã xét tới ‘truyền thống Hồi giáo’, ‘truyền thống pháp lí khu vực’, ‘hệ thống luật pháp quốc tế Hồi giáo’, thực tế là các đảo này từng có đặc điểm của một res communis (khu vực chung không thuộc sở hữu pháp lí của bất kì nước nào) trong nhiều thế kỉ, và mãi đến cuối thế kỉ 20 thì Yemen mới nắm lấy chủ quyền. Khi PCA trao chủ quyền các đảo này cho Yemen nhưng đồng thời cũng đã cho ngư dân đánh cá kiểu thủ công Eritrea được quyền tiếp cận tự do vùng biển xung quanh, đó là một phán quyết phù hợp với lịch sử cụ thể về chủ quyền trên những vùng lãnh thổ này. Đó không phải là một quy tắc chung của luật pháp quốc tế. PCA không bị buộc phải áp dụng đúng khái niệm về chủ quyền vốn chủ yếu là một sáng tạo của phương Tây.

Việc tạo ra chế độ EEZ hoàn toàn khác với việc thụ đắc chủ quyền của Yemen đối với các đảo này. Chế độ này không phải là một sáng tạo của phương Tây mà do thương lượng của cộng đồng quốc tế mà có. Trung Quốc tự nguyện đăng kí với nó khi phê chuẩn UNCLOS. Do đó, khó có khả năng tòa án quốc tế sẽ đồng lòng với quan điểm cho rằng Trung Quốc có quyền đơn phương đánh cá trong EEZ của nước khác. Hơn hết, họ sẽ không cho bất cứ nước nào có quyền đánh cá trong EEZ của nước khác trừ khi có một thỏa thuận giữa các nước đó với nhau về mặt này.

Bài học cho Biển Đông là gì? Nếu một tòa án quốc tế được yêu cầu giải quyết các tranh chấp thì toà có thể sẽ trao chủ quyền của các đảo khác nhau cho các nước khác nhau cùng các điều khoản trao quyền cho ngư dân đánh cá kiểu thủ công từ các nước khác tiếp cận các đảo này và lãnh hải 12 hải lí của chúng. Nhưng rất khó có khả năng toà sẽ cho Trung Quốc quyền đánh cá trong toàn bộ khu vựcbên trong đường chín đoạn và cũng rất khó mà cho rằng kĩ nghệ đánh cá hiện đại trong Biển Đông là đánh cá kiểu thủ công.

Chính Trung Quốc có lẽ cũng không chia sẻ quan điểm của Gupta. Khi Trung Quốc tuyên bố có quyền đơn phương đánh cá do lịch sử trong vòng khoảng 50 hải lí từ bờ biển không tranh chấp của các nước khác, liệu họ có chấp nhận rằng các nước đó cũng có quyền hành xử như vậy trong vòng 50 hải lí từ bờ biển không tranh chấp của Trung Quốc hay không? Điều đáng nói là kể từ năm 2009 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để tống ngư dân Việt ra khỏi ngư trường truyền thống của mình xung quanh quần đảo Hoàng Sa vẫn còn đang tranh chấp.

Lập luận về ‘quyền đánh cá lịch sử’ thực tế là một lập luận thêm thắt sau, không liên quan đến mục đích ban đầu của đường chín đoạn. Theo Tổng thống Đài Loan Ma Ying-jeou (Mã Anh Cửu), khi Chính Phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc công bố bản đồ đường mười một đoạn, mà sau này trở thành đường chín đoạn, đó chỉ là một yêu sách đối với các đảo bên trong nó, chứ không phải quyền đối với khu vực biển trong đó.

Nhưng khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên sau cải cách của Đặng Tiểu Bình, tham vọng của họ ở Biển Đông cũng tăng theo. Điều này làm dậy lên quan điểm cho rằng đường này không chỉ là một yêu sách đối với các đảo mà còn là một yêu sách về quyền đối với vùng biển được nó bao quanh. Vấn đề là, theo luật quốc tế về phân giới biển, đường này không thể nào là một yêu sách hợp lệ về EEZ.

Đối mặt với điều này, các học giả Trung Quốc đã lập luận rằng ‘quyền lịch sử’ là cơ sở để Trung Quốc đưa ra yêu sách biển vượt ngoài khuôn khổ luật về phân định EEZ. Tuy nhiên, các học giả quốc tế hàng đầu đã chỉ ra một cách thuyết phục rằng lập luận đó là sai sót. Quan điểm của Bộ Ngoại giao Mĩ về vấn đề này thuyết phục hơn nhiều. Các hoạt động đánh bắt cá lịch sử của các dân tộc quanh Biển Đông ở những vùng lúc đó là biển quốc tế không thể nào cho Trung Quốc quyền đánh cá trong EEZ của nước khác hiện nay.

Một trong những con đường tốt nhất có thể có cho công bằng và ổn định ở Biển Đông là Trung Quốc thừa nhận ý nghĩa của bản đồ đường chín đoạn như Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu đã giải thích rõ. Họ phải thừa nhận rằng những đảo nằm bên trong đó là đối tượng tranh chấp lãnh thổ, và phải đàm phán EEZ thuộc các đảo này với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Dịch: Phan Văn Song
Hiệu đính: Phạm Quang Tuấn, Lê Vĩnh Trương

CÁCH TRUNG QUỐC KHAI THÁC KẼ HỞ TRONG LUẬT QUỐC ĐỂ HÙNG BÁ Ở ĐÔNG Á

CÁCH TRUNG QUỐC KHAI THÁC KẼ HỞ TRONG LUẬT QUỐC ĐỂ HÙNG BÁ Ở ĐÔNG Á

HOW CHINA EXPLOITS A LOOPHOLE IN INTERNATIONAL LAW IN PURSUIT OF HEGEMONY IN EAST ASIA

James Kraska
FPRI (1/2015)

Dịch: Phan Văn Song
Hiệu đính: Lê Vĩnh Trương

James Kraska là một Thành viên Cao cấp trong Chương trình về An ninh Quốc gia của FPRI. Ông là Giáo sư Luật và Chính sách Đại dương tại Trung tâm Nghiên cứu về Luật quốc tế Stockton tại US Naval War College; Nghiên cứu viên ưu tú tại Viện Luật Biển, trường Luật Berkeley Đại học California; Thành viên Cao cấp Trung tâm Luật và Chính sách Đại dương tại trường Luật Đại học Virginia; và Thành viên Cao cấp tại Trung tâm Luật và An ninh Quốc gia tại trường Luật Đại học Virginia.


Ai "quan tâm tới kẽ hỡ" ở Biển Đông? Kẽ hở, được tạo ra trong luật pháp quốc tế liên quan đến việc dùng vũ lực hay cưỡng ép và quyền tự vệ của các quốc gia nạn nhân. Trung Quốc khai thác lỗ hổng này trong luật pháp quốc tế về việc sử dụng vũ lực để buộc các nước láng giềng chấp nhận quyền bá chủ của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Với việc sử dụng các lực lượng trên biển không đối xứng (chủ yếu là các tàu cá và tàu hải cảnh), Trung Quốc thôn tính Biển Đông và Biển Hoa Đông một cách chậm và chắc. Bằng cách khai thác kẽ hở trong luật pháp quốc tế do Tòa án Quốc tế (ICJ) tạo ra, họ đã tiến hành việc này khiến các quốc gia trong khu vực khó có thể phản ứng một cách hiệu quả. Phương diện pháp lí này của chính trị quốc tế về các tranh chấp biển ở Đông Á không được nhiều người hiểu biết, nhưng đó là cốt lõi của chiến lược của Trung Quốc trong khu vực.

Chiến lược của Trung Quốc

Trong mưu đồ lớn này, Trung Quốc phải vượt qua kháng cự từ ba nhóm đối kháng. Thứ nhất, Trung Quốc phải áp đảo Nhật Bản và Hàn Quốc ở Biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Kế hoạch: chia để chinh phục. Phải chắc chắn rằng Nhật Bản và Hàn Quốc ghét nhau nhiều hơn là họ ghét Trung Quốc. Chừng nào mà Nhật và Hàn còn ấp ủ nỗi đau lịch sử thì Trung Quốc còn thủ lợi.

Thứ hai, Bắc Kinh phải “Phần Lan hoá” các quốc gia xung quanh Biển Đông bằng cách đưa vùng biển nửa kín này vào quỹ đạo của nó. Kế hoạch: sử dụng một bộ cà rốt và gậy để đưa các “bạn ngoài mặt” (frenemies) yếu hơn nhiều -–như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei vào vòng thần phục. Tương tự như vậy, chia rẽ trong nhà ASEAN làm lợi cho Trung Quốc. Chiến lược này tự thân là một tiếp cận mạnh mẽ, và 150 năm đầu Mỹ gieo rắc thống trị và chia rẽ ở Nam Mĩ đã mở ra một con đường tuyệt vời cho một đế quốc đang hình thành tiếp bước.

Cuối cùng, Bắc Kinh phải thủ thế để ngăn ngừa khả năng can thiệp và ngăn trở của hai cường quốc biển lớn bên ngoài khu vực. Chỉ có Hoa Kì và Ấn Độ là ở trong vị thế cản phá tham vọng của Trung Quốc. Kế hoạch: gây sức ép trong khu vực mà không liều tới mức biến thành chiến tranh trên biển giữa các cường quốc. Đặc biệt, tránh né sự cố dễ kích hoạt các thỏa thuận an ninh của Mĩ với Nhật Bản, Hàn Quốc, hoặc Philippines.[1] Trong mưu đồ 3 kế hoạch này, Trung Quốc gây sức ép qua hết các thang bậc của cưỡng ép mức thấp, song cẩn thận không đến mức bị xem là “tấn công vũ trang” trong luật pháp quốc tế, và do đó mở đường cho quyền tự vệ của cá nhân và tập thể.

Ví dụ, bắt đầu vào năm 1999, Trung Quốc tuyên bố “lệnh cấm đánh bắt cá” theo mùa khắp Biển Đông, dù họ không có thẩm quyền pháp lí để quy định việc đánh cá ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí (EEZ) của mình. Chỗ xa nhất mà lệnh cấm của Trung Quốc vươn tới cách mũi phía nam của đảo Hải Nam hơn 1000 hải lí. Lệnh cấm đánh bắt cá nhằm quản lí nguồn cá trong vùng EEZ của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và Brunei. Hãy tưởng tượng điều tương tự nếu như Hoa Kì bắt đầu kiểm soát các tàu đánh cá và các giàn khoan dầu trong EEZ của Mexico.

Trung Quốc cũng đã không ngơi nghỉ đề cao quyền lịch sử đối với các đảo và các thể địa lí, và hầu như tất cả các vùng biển, của toàn bộ Biển Đông. Thế giới đều mất kiên nhẫn với yêu sách ngoan cố và ngạo mạn của Trung Quốc về “vùng nước lịch sử” ở Biển Đông. Yêu sách biển được dựa trên các nguyên tắc được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (LOSC) mà Trung Quốc tham gia năm 1996. Tuy nhiên, yêu sách quá mức của Bắc Kinh dựa trên đường 9 (bây giờ 10) đoạn vốn được Trung Hoa Dân Quốc công bố năm 1947. Dù một quy tắc cơ bản của các nguồn của pháp luật quốc tế là cái “mới nhất chiếm ưu thế,” Trung Quốc vẫn trắng trợn nêu ra yêu sách đường nhiều đoạn như con bài át chủ bài để bỏ qua nghĩa vụ pháp lí trong Công ước Luật biển.[2] Trung Quốc cũng đã làm mới yêu sách lịch sử ở Biển Hoa Đông đối với quần đảo Senkaku, và ở Hoàng Hải. Yêu sách biển tạo thành “lỗi tự gây ra” (unforced error) lớn nhất của Trung Quốc trong khi mạo nhận rằng mình là nước lớn “đang trỗi dậy một cách hoà bình”.


Chiến thuật của Trung Quốc

Bắc Kinh triển khai nhiều loại ở số lượng đáng kinh ngạc  các tàu và máy bay chấp pháp dân sự và thương mại nhằm áp đặt yêu sách của mình và hù dọa nước khác. Tàu đánh cá và ngư chính là đội tiên phong của chính sách này, dẫn đến các cuộc đụng độ thường xuyên với tàu tuần tra an ninh biển trong EEZ của các nước láng giềng.[3] Defense News gọi đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc là những “kẻ thực thi chân gỗ” (proxy enforcer) hoạt động phối hợp với Hải Cảnh và Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) để “khoanh vùng một khu vực tranh chấp tranh giành hoặc tạo ra một hàng rào phong tỏa” đối với lực lượng hải quân của các đối thủ. Chẳng hạn, tàu Hải giám Trung Quốc đã đóng kín hoàn toàn lối vào đầm phá rộng lớn của bãi ngầm Scarborough, nằm bên trong EEZ của Philippines và cách Tây Philippines 125 hải lí. Đôi khi, những sự cố này biến thành chết người. Ví dụ như trong tháng 12 năm 2011, một ngư dân Trung Quốc giết chết một hải cảnh Hàn Quốc khi anh này cố tìm cách bắt giữ tàu Trung Quốc vì đánh cá bất hợp pháp.

Đoàn tàu đánh cá là “đám phản đối mướn” (rent-a-mobs) trên biển, tuy nhiên chúng đặt ra một tình thế lưỡng nan nhạy cảm đối với các nước trong khu vực. Nếu tàu đánh cá bị lực lượng thực thi pháp luật biển của các nước láng giềng hạch hỏi đuổi đi thì có vẻ như ngư dân TQ đang bị đối xử nặng tay. Yếu tố chính trị này cũng hâm nóng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc. Mặt khác, nếu các quốc gia ven biển im lặng đối với những hoạt động của các tàu đánh cá thì có nghĩa họ nhường thẩm quyền và quyền chủ quyền trong EEZ của mình cho TQ.

Trung Quốc bắt đầu sử dụng tàu cá làm lực lượng không chính quy lần đầu tiên vào đầu thập niên 1990 cho hai đảo Mã Tổ (Matsu) và Kim Môn (Jinmen) để tạo sức ép lên Đài Loan trong những lúc có căng thẳng chính trị.[4] Hiện nay Trung Quốc sử dụng chiến thuật này chống Nhật ở Biển Hoa Đông và chống lại Philippines, Việt Nam và Malaysia ở Biển Đông. Trung Quốc cũng sử dụng các đoàn tàu cá đối với Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Năm 2009, lúc đối đầu với tàu đặc nhiệm USNS Impeccable khi tàu này tiến hành khảo sát quân sự cách Đảo Hải Nam 75 hải lí, Trung Quốc đã sử dụng một đội tàu gồm một tàu tình báo hải quân, một tàu ngư chính, một tàu hải dương học và hai tàu chở hàng nhỏ hoặc tàu đánh cá. Một số tàu có vẻ được bố trí với người thuộc lực lượng đặc biệt Trung Quốc.[5]

Nhằm hun đúc sự thống nhất các nỗ lực mạnh mẽ hơn trong chính phủ, Bắc Kinh nhập năm cơ quan riêng biệt thành một lực lượng Hải Cảnh duy nhất hồi tháng 3 năm 2013. “Năm con rồng” đó là Tuần duyên TQ thuộc Công an Biên phòng, Cục An toàn Hàng hải TQ thuộc Bộ Giao thông vận tải, Hải giám TQ thuộc Cục Quản lí Đại dương Quốc gia, Lực lượng Ngư chính TQ thuộc Bộ Nông nghiệp và lực lượng thuế trên biển thuộc Tổng cục Hải quan.

Năm ngoái, Trung Quốc nhét thêm giàn khoan dầu vào rọ các lực lượng bán quân sự trên biển khi giàn khoan HD 981 thuộc Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia TQ (CNOOC) đặt gần quần đảo Hoàng Sa trong EEZ của Việt Nam. Giàn khoan này đã được bảo vệ với một đoàn khoảng 30 tàu đánh cá, tàu bán quân sự, tàu chiến của PLAN cho đến khi nó rút đi một tháng sau đó. Sự cố giàn khoan dầu đưa quan hệ Trung-Việt xuống điểm thấp nhất tính từ năm 1979. Lực lượng Việt Nam bị thủy quân lục chiến Trung Quốc đẩy khỏi quần đảo Hoàng Sa trong cuộc xâm lược đẫm máu năm 1974.

Khi khu vực này đang chờ phán quyết của trọng tài theo đơn kiện của Philippine để bảo tồn quyền chủ quyền trong EEZ của mình, việc TQ phiêu lưu trên biển trong khu vực xeo một lỗ hổng trong luật nhân đạo quốc tế do một số luật gia hàng đầu thế giới tạo ra trong vụ kiện trước ICJ 1986 về các hoạt động quân sự và bán quân sự chống lại Nicaragua (Nicaragua kiện Hoa Kì).


Trung Quốc “lưu tâm đến kẽ hở” trong Luật quốc tế

Để cho chiến lược của mình có tác động, Trung Quốc phải ép buộc dần các nước láng giềng chấp nhận bá quyền của Bắc Kinh, nhưng tránh đối đầu quân sự. Trung Quốc sử dụng vũ lực thông qua các tàu hải cảnh, tàu đánh cá, và bây giờ cả giàn khoan để thay đổi cảnh quan chính trị và pháp lí trên biển ở Đông Á, nhưng họ vẫn có ý giữ tàu hải quân xa ngoài chân trời để tránh nguy cơ kích động chiến tranh.

Hiến chương của Liên Hiệp Quốc điều chỉnh luật về việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là nhằm ngăn chặn “các hành vi xâm lược và vi phạm hoà bình khác.”[4] Trong khi Hiệp ước Kellogg-Briand 1928 nổi tiếng đặt ngoài vòng pháp luật các hành vi “chiến tranh”, và thỏa thuận này bây giờ được coi là đỉnh cao của sự ngây thơ giữa hai cuộc chiến, việc ngăn cấm võ lực trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc thậm chí còn rộng hơn. Theo Điều 2 (4) của Hiến chương, “tấn công vũ trang” (hay chính xác hơn, xâm lược vũ trang hoặc aggression armée trong bản dịch tiếng Pháp chính thức) là trái pháp luật. Điều 2 (4) cũng nói rằng đe dọa sử dụng vũ lực cũng là vi phạm như chính việc sử dụng vũ lực.

Các quốc gia có thể làm gì nếu họ bị tấn công vũ trang hoặc xâm lược vũ trang? Điều 51 của Điều lệ công nhận quyền tự thân về tự vệ cá nhân và tập thể của tất cả các nước để đối phó với một cuộc tấn công. Cho đến nay điều này vẫn ổn - bất kì việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp nào đều được coi là tấn công vũ trang, và tấn công vũ trang kích hoạt quyền tự vệ của nước bị thương tổn, đúng thế không? Sai, ít nhất là theo Tòa án Công lí Quốc tế. Phán quyết trong vụ Nicaragua kiện ở toà ICJ năm 1985 mở ra một “kẽ hở” giữa việc tấn công vũ trang của một nước và quyền tự vệ của nước nạn nhân.

Vụ kiện phát sinh từ các cuộc chiến tranh ở Trung Mĩ trong thập niên 1980. Chế độ Sandinista ở Nicaragua nắm quyền vào năm 1979, và bắt tay vào một chiến dịch Marxist “giải phóng” Honduras, El Salvador và Costa Rica. Nicaragua yểm trợ phong trào kháng chiến manh mún ở El Salvador với vũ khí, đạn dược, tiền bạc, đào tạo, tình báo, chỉ huy và kiểm soát, cũng như cung cấp nơi trú ẩn ngoài biên giới. Với sự trợ giúp này, lực lượng du kích làm tê liệt nền kinh tế El Salvador và biến bất mãn của thiểu số thành một cuộc nổi dậy toàn diện. Dân chúng trong vùng gánh chịu đau khổ, và cả hai bên đều phạm các hành vi tàn bạo.

Để ổn định El Salvador, Tổng thống Ronald Reagan đã kí Chỉ thị Quyết nghị an ninh quốc gia 17 (NSSD 17) vào ngày 23 tháng 11, 1981. NSSD 17 cho phép CIA xây dựng lực lượng phiến quân Contra tiến hành hành động bí mật để lật đổ chế độ Sandinista ở Nicaragua. Viện trợ quân sự đổ vào Honduras và El Salvador để giúp họ chống lại phiến quân cộng sản. Quyết định này phản ánh một trong những chương trình đầu tiên của chủ thuyết Reagan đối lại việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô.

Năm 1984, Chính phủ Nicaragua đã khởi kiện Hoa Kì trước ICJ, lập luận rằng các hoạt động bí mật của Mĩ chống Nicaragua, bao gồm việc trang bị vũ khí cho phiến quân Contra và thả mìn các cảng của Nicaragua, là vi phạm chủ quyền của Nicaragua. Hoa Kì phản biện rằng các hoạt động của Mĩ là thực hành quyền tự vệ cố hữu của cá nhân và tập thể theo theo Điều 51 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Duarte của El Salvador nói với giới truyền thông vào ngày 27 tháng 7 năm 1984:
Cái mà tôi đã nói, theo quan điểm của Salvador, là chúng tôi đứng trước vấn đề bị xâm lược bởi một nước tên là Nicaragua bên trong El Salvador, rằng bọn họ đang đưa vũ khí, huấn luyện, con người, đạn dược và và bao nhiêu thứ nữa vào El Salvador. Tôi nói rằng, ngay vào giờ phút này họ đang sử dụng tàu đánh cá ngụy trang, đưa vũ khí vào El Salvador vào ban đêm.

Trước tình hình này, El Salvador phải tìm cách ngăn chặn. Phe Contra ... đang tạo ra một loại rào cản ngăn chặn không để Nicaragua tiếp tục đưa những thứ đó vào El Salvador qua đường bộ

Họ thay thế bằng cách chuyển hàng vào bằng đường biển, và thâm nhập được qua ngã Monte Cristo, El Coco, và El Bepino.[7]

Tòa đã bác bỏ lập luận của Mĩ và El Salvador về tự vệ chống lại tấn công vũ trang của Nicaragua. Trong một quyết định tạm thời về vụ kiện này, ICJ phán quyết với số phiếu 15-0 rằng Hoa Kì phải “ngay lập tức ngừng và từ bỏ mọi hành động hạn chế, phong tỏa, hoặc gây nguy hiểm cho việc ra vào các cảng của Nicaragua ....” Trong phán quyết cuối cùng dựa trên chứng lí (ruling on Merits) , qua một cuộc bỏ phiếu 14-1 ICJ khẳng định rằng quyền chủ quyền của Nicaragua không được hủy hoại bởi các hoạt động bán quân sự của Mĩ. Huấn luyện, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, và tiếp tế cho Contra là vi phạm luật pháp quốc tế, và không phải là một biện pháp tự vệ tập thể hợp pháp mà Hoa Kì và các đồng minh thực hiện trong khu vực của mình để đối phó với sự xâm lăng của Nicaragua.

ICJ phán rằng cưỡng ép mức thấp hoặc can thiệp, như “việc đưa các nhóm/toán vũ trang, không chính quy, hoặc lính đánh thuê thay mặt cho hoặc từ cho một nước ” vào một nước khác cấu thành một “cuộc tấn công vũ trang”, nhưng quyền tự vệ chỉ được kích hoạt khi sự can thiệp như thế đạt tới “quy mô và hậu quả” hay có “trọng lựợng” tới mức như một cuộc xâm lược. Không có quyền sử dụng tự vệ chống lại cưỡng ép hoặc tấn công vũ trang mức thấp bằng quân chính quy hay quân nổi dậy khi chưa tăng lên đến ngưỡng trọng lực hay quy mô và hậu quả.

Trong khi cả Nicaragua lẫn Hoa Kì đều đã tài trợ cho quân du kích và tham gia vào các hành vi làm mất ổn định khu vực, sự phân biệt của ICJ mở ra khái niệm “kiểm soát hiệu quả”. Nicaragua được Toà xác định là chưa có “kiểm soát hiệu quả” đối với những người nổi dậy lật đổ chính phủ ở El Salvador và Honduras, trong khi Hoa Kì được coi là thực hiện “kiểm soát hiệu quả” đối với việc thả mìn các cảng Nicaragua và quân Contra.

Tòa án không cho El Salvador cơ hội can thiệp vào vụ kiện, đảm bảo chuyện ông Thiện đối đầu với ông Ác (David chống Goliath). ICJ cũng chấp nhận phiên bản của Sandinista về các sự kiện và bỏ qua việc Nicaragua xâm lược vũ trang chống các nước láng giềng.[8] Thẩm phán Schwebel, một người Mĩ trong Tòa án, đưa ra phát biểu bất đồng duy nhất: “Nói vắn tắt Tòa có vẻ cung cấp – gần như cho không - một đơn thuốc để các chính phủ hung bạo lật đổ các chính phủ yếu trong khi từ chối không cho các nạn nhân tiềm năng ... nguồn hi vọng duy nhất để tồn tại.” Vụ kiện tiêu biểu cho một trong những mảng sơ suất lớn nhất của luật pháp quốc tế trong lịch sử và không đáng ngạc nhiên rằng phán quyết này bây giờ hậu thuẫn việc xâm lấn trên biển của Trung Quốc (cũng như các hành vi tai quái của Nga tại các nước láng giềng từ Georgia đến Ukraine đến vùng Baltic - nhưng đó là một câu chuyện khác).

Dù vụ kiện của Nicaragua có là nỗ lực nhằm đánh bại Mỹ về tố tụng, hoặc một nỗ lực trí tuệ cao nhưng định hướng yếu về mặt công bằng trong cộng đồng quốc tế (như tôi đã gợi ra ở đây) hay không, kết quả là một lỗ hổng mở ra giữa xâm lược vũ trang và quyền tự vệ. Bằng cách sử dụng cưỡng ép ở mức thấp thông quanhiều hành vi nhỏ nhưng không có hành vi nào trong đó đủ để kích hoạt quyền tự vệ, những kẻ xâm lược được thưởng. Nhận thức rõ về mặt pháp lí và mặt chính trị vụ Nicaragua, Trung Quốc đang kiếm được nhiều điều lợi chiến lược trên biển với cái giá các nước láng giềng phải trả mà không tạo nguy cơ làm nổ ra chiến tranh.

Hơn nữa, việc Trung Quốc sử dụng có tính chiến lược đội tàu đánh cá như là một thành phần của “chiến tranh pháp lí” vượt khỏi việc khai thác lỗ hổng giữa sử dụng vũ lực và tự vệ trong luật về sử dụng vũ lực (jus ad bellum); điều đó cũng ảnh hưởng đến luật trong chiến tranh (jus in bello). Tàu cá có khả năng sẽ được sử dụng làm các tàu chiến trong bất kì cuộc chiến tranh khu vực nào. Một số người nghi ngờ Trung Quốc đang trang bị máy dò sonar cho hàng ngàn tàu đánh cá để tích hợp chúng vào các hoạt động tác chiến chống tàu ngầm của hải quân vốn có nhiệm vụ tìm và đánh chìm tàu ngầm của Mĩ và đồng minh.

Kể từ vụ kiện có tính cột mốc Paquette Habana 1990, phát sinh từ việc Hoa Kì bắt giữ tàu đánh cá Cuba trong cuộc chiến Mĩ-Tây Ban Nha, tàu đánh cá ven biển và ngư dân được loại ra khỏi mục tiêu tấn công hoặc miễn bị bắt giữ trong xung đột vũ trang. Với việc đặt máy dò sonar trên tàu đánh cá như một phép nhân tăng lực lượng cho các hoạt động chống tàu ngầm, Bắc Kinh ngay lập tức có nguy cơ làm các tàu này bị coi là mục tiêu hợp pháp trong các sự cố xung đột. Nhưng cáp quang của Hải quân Mĩ làm chìm tàu đánh cá Trung Quốc là tuyên truyền thực hiện theo đơn đặt hàng. Trong mọi sự cố, Sam Tangredi, một chiến lược gia có tiếng tự nhủ Hải quân Mĩ sẽ dám xài bao nhiêu ngư lôi trong số có hạn khi mà số lượng tàu đánh cá là rất lớn.

Vậy phản ứng đối với tất cả điều này có thể là gì? Nhiều nước từ lâu đã sử dụng các cuộc tấn công không đối xứng bay dưới tầm radar. Cái khác biệt hiện nay là chiến tranh không chính quy được dùng như một công cụ của kẻ mạnh chứ không phải kẻ yếu để thay đổi hệ thống an ninh khu vực. Hơn nữa, các khía cạnh pháp lí quốc tế của tình thế hiện tại phải quen với lợi thế của Trung Quốc. Do đó, rủi ro hệ thống là lớn tới mức đó và chỉ có thể so sánh với chiến dịch Liên Xô gây bất ổn định các nước thời Chiến tranh Lạnh. Ai nói luật pháp quốc tế là chẳng có gì quan trọng?


FPRI, 1528 Walnut Street, Suite 610, Philadelphia, PA 19102-3684 Để biết thêm thông tin, liên hệ với Eli Gilman tại 215-732-3774, ext. 103, email fpri@fpri.org, hoặc viếng chúng tôi tại www.fpri.org


[1] Hoa Kì có thoả thuận quốc phòng với 5 nước ASEAN: Thailand, Philippines, Japan, South Korea, và  Australia. Một số trong các thoả thuận này và Đạo luật về quan hệ với Đài Loan là chủ đề của một pod cast của FPRI năm ngoái, có thể truy cập ở đây: http://www.fpri.org/multimedia/2014/06/us-security-commitments-asias-changing-strategicenvironment-look-japan-taiwan-korea-and-philippines-audio.
[2] Những nước có yêu sách đánh cá lịch sử thể tìm kiếm quyền truy cập từ các quốc gia ven biển quản lí những khu vực đó theo Điều 62 của Công ước Luật Biển.
[3] Lyle J. Goldstein, “Chinese fisheries enforcement: Environmental and strategic implications,” 40 Marine Policy 187 (2013).
[4] Wendell Minnick, Fishing Vessels in China Serve as Proxy Enforcers, Defense News, August 18, 2014, p. 15.
[5 Một số “ngư dân” có vẻ không là ngư dân làm ăn chân chính- trẻ, ăn mặc đàng hoàng, thể thao, liên tục trên biển trong khu vực Đông Nam Á mà da không bị rám nắng, và không thể vận hành thiết bị đánh cá (!). Quan sát này đã được một cựu đô đốc 2 sao ở Đông Nam Á và một trưởng Hải quân đã nghỉ hưu của một trong những quốc gia xung quanh Biển Đông cho tôi biết.
[6] Điều 1(1), Hiến chương LHQ.
[7] Họp báo của Tổng thống Duarte, Sam Salvador Radio Cadena YSKL (tiếng Tây Ban Nha) 1735 GMT 27 July 1984 in San Salvador (July 27, 1984) reprinted in FBIS Daily Reports Latin America, 1, 4 (July 30, 1984). 8 See, e.g. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987).
[8] Xem, chẳng hạn. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987). John Norton Moore từng là Phó Đại diện của Hoa Kì vào giai đoạn pháp lí của vụ án. Hoa Kì đã không tham gia trong giai đoạn đối chứng (Merits phase) của vụ kiện. Toàn văn tiết lộ: Tôi thực hiện nghiên cứu tiến sĩ dưới hướng dẫn của John Norton Moore tại School of Law Đại học Virginia, ở đó tôi cũng làm việc với tư cách Nghiên cứu viên cao cấp. Giáo sư Moore đã viết rất nhiều về những thiếu sót của pháp luật trong vụ này trong John Norton Moore, Jus Ad Bellum before the International Court of Justice, 52 Virginia Tạp chí Luật quốc tế 903, 919-935 (Hè 2012).