Tuesday, July 31, 2012

Quan hệ về kế thừa chủ quyền biển Đông của các nước liên quan

QUAN HỆ QUYỀN KẾ THỪA BIỂN ĐÔNG



Biểu đồ 1 cho thấy đến đời Thanh thì ít ra có 4 nước (Thanh, VN, Brunei và Philippines thuộc TBN) cùng chia sẻ chủ quyền đối với biển Đông. Còn theo biểu đồ 2 thì có thể có tới 7 bên chia sẻ chủ quyền đối với biển Đông. Dù có thể còn một vài chỗ tranh cãi như ở mục 3 và 5 (ở biểu đồ 1) hoặc mục 10 và 11 (biểu đồ 2), nhưng nhìn chung tác giả có vẻ đã có cách tiếp cận đúng. Đặc biệt theo quan điểm của tác giả, TQ hiện nay không phải là quốc gia kế thừa chính thống nhà Nguyên (Mông Cổ mới là quốc gia kế thừa chính thống). Theo đó, việc TQ hiện nay đòi hỏi các phần lãnh thổ của nhà Nguyên mở rộng do xâm lược giống như Turkey viện dẫn rằng mình là nước kế thừa đế quốc La Mã (thủ đô Istanbul từng là thủ đô Constantinople của La Mã khi xưa), mà nước Anh (ít ra phần phía Nam) từng thuộc La Mã, vậy Turkey có quyền đòi hỏi chủ quyền đối với Anh(?!) (tác giả dùng ví dụ giả định Úc đòi chủ quyền Canada vì cho mình là nước “kế thừa” đế quốc Anh thay vì ví dụ như trên).



Biều đồ 1 (từ xa xưa cho tới nhà Thanh)

  1. 214 TCN, Tần chinh phục Bách Việt ở Lĩnh Nam.
  2. 207 TCN, nước Nam Việt độc lập (Triệu Đà).
  3. 111 TCN, nhà Hán tiêu diệt Nam Việt.
  4. 544, nước Vạn Xuân độc lập (Lí Bí/Bôn).
  5. 601, nhà Tuỳ tiêu diệt nước Vạn Xuân.
  6. 968, Đại Việt độc lập với Nam Hán.
  7. 971, Nam Hán bị nhà Tống tiêu diệt.
  8. 1279, Mông Cổ (Nguyên) chinh phục Tống.
  9. 1368, nhà Minh đánh đuổi Mông Cổ khỏi Trung Quốc.
  10. 1644, nhà Thanh thay thế nhà Minh.
  11. 192, nước Champa thành lập.
  12. 1692, Việt Nam tiêu diệt Champa.
  13. thế kỉ 1 AD, nước Phù Nam thành lập.
  14. 550, Phù Nam chinh phục Chân Lạp thành chư hầu. Năm 628, Chân Lạp cuối cùng mất nước.
  15. thế kỉ 18, Việt Nam chiếm khu vực đồng bằng sông Cửu Long (sau này là Nam Kì) của Cao Miên (Campuchia).
  16. thế kỉ 15, Vương quốc Hồi giáo Brunei thành lập.
  17. 1571, Tây Ban Nha chinh phục vùng Bắc và Trung Philippines, thành lập nước Philippines thuộc Tây.
(theo The sovereignty inheritance relationship of coastal States in the South China Sea in the ancien times  trên blog của Níbó Lónggēn Guāténg 尼伯龙根·蜗藤)

Biểu đồ 2 (Từ cuối nhà Thanh cho đến nay)
    



1.      1911, Trung Quốc Dân quốc (THDQ) thay thế triều đại nhà Thanh

2.      1917, Chính phủ miền Nam được thành lập

3.      1927, Chính phủ miền Nam đánh dep Bắc thành công, thống nhất Trung Quốc.

4.   1937, Nhật xâm lược toàn TQ. 1942 phát động chiến tranh Thái Bình Dương, lần lượt chiếm các nước ven biển Đông. 1945, Nhật Bản bị đánh bại. Chủ quyền của Nhật Bản đối với biển Đông là do xâm lược, và do đó nói giao lại sau chiến tranh (biểu thị bằng đường chấm chấm) là không công bằng.

5.      1945, THDQ khôi phục kiểm soát toàn bộ Trung Quốc.
6.      1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại Quốc Dân Đảng, Quốc Dân Đảng rút về Đài Loan. Trung Quốc cùng một lúc có hai chế độ ở Bắc Kinh và Đài Bắc.
7.      1885, Việt Nam bị Pháp đưa vào chế độ vào bảo hộ.
8.      1946, Pháp lấy lại thuộc địa Đông Dương.
9.      1954, theo hiệp định Genève, Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam chia thành miền Bắc Việt và Nam Việt ở vĩ tuyến 17 độ Bắc. Về quyền lợi trên biển, Nam Việt Nam sở hữu quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Bắc Việt sở hữu Vịnh Bắc Bộ.
10.   1955, Việt Nam Cộng Hoà thay thế nước Việt Nam, nắm quyền chế độ miền Nam Việt Nam.
11.  1975, Việt Nam Cộng Hoà bị Mặt trận giải phóng miền Nam và Bắc Việt Nam tiêu diệt, lập ra nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
12.  1976, miền Nam Việt Nam và Bắc Việt Nam kết hợp, thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
13.   giữa thế kỉ 19 Vương quốc Hồi giáo Brunei bắt đầu nhường lại đất đai, lập ra Sarawak và Sabah thuộc Anh.
14.  1888, Vương quốc Anh và Brunei, Sarawak và Sabah đã ký một thỏa thuận để biến chúng thành nước bị bảo hộ, hình thành nên Bắc Borneo thuộc Anh.
15.  1945, Vương quốc Anh lấy lại Bắc Borneo thuộc Anh.
16.  1967, Sarawak và Sabah độc lập cùng với Malaysia và Singapore sớm hình thành Liên bang Malaysia. Brunei vẫn tiếp tục là lãnh thổ ở nước ngoài của Anh.
17.  1984, Brunei độc lập.
18.  1898, Tây Ban Nha thất bại trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mĩ, nhượng lại Philippines cho Hoa Kì, Philippines thuộc Tây Ban Nha thành Philippines thuộc Mĩ.
19.  1946, Philippines độc lập.
20.  Từ giữa cho đến cuối thế kỉ 19, Hà Lan thôn tính dần dần của Vương quốc Hồi giáo Nam Borneo sáp nhập vào Đông Ấn thuộc Hà Lan.
21.  1945, Hà Lan nỗ lực để khôi phục lại sự cai trị Đông Ấn thuộc Hà Lan đi đến chiến tranh với các lực lượng độc lập.
22.  1949, Hà Lan công nhận độc lập của Indonesia.

(theo Sovereign inheritance relationship of the relevant countries of the South China Sea in modern times trên blog của Níbó Lónggēn Guāténg尼伯龙根·蜗藤)
-------------------------


Sunday, July 22, 2012

Suy nghĩ vượt khung: Vấn đề biển Đông và Công ước LHQ về Luật Biển


Suy nghĩ vượt khung: Vấn đề biển Đông và Công ước LHQ về Luật Biển (Các lựa chọn, hạn chế và triển vọng)

Thinking Outside the Box: The South China Sea Issue and the United Nations Convention on the Law of the Sea (Options, Limitations and Prospects)
Lowell B. Batista* (Philippine Law Journal Vol. 81- 2006)


........................................................

B. Đánh giá các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ theo quy định của Luật quốc tế

Tuyên bố chủ quyền của TQ đối với toàn bộ biển Đông dựa chủ yếu vào các ghi chép lịch sử quá lắm chỉ là bằng chứng của quyền sở hữu mới chớm. Mặc dù không thể tranh cãi rằng TQ đã có những tiếp xúc đầu tiên với các hòn đảo của biển Đông, nhưng TQ đã không viện ra được bằng chứng cho thấy họ đã thực thực thi việc chiếm cứ hiệu quả, hòa bình và liên tục với chứng cứ thuyết phục.

Tuyên bố chủ quyền của Đài Loan, chủ yếu cũng tương tự như của TQ, cũng dựa trên cùng bằng chứng lịch sử. Do đó, yêu sách của họ cũng có cùng một điểm yếu trên. Tuy nhiên, việc chiếm cứ liên tục và hòa bình của Đài Loan ở đảo Ba Bình từ năm 1956 tạo nên một thực thi chủ quyền có hiệu quả có thể làm thành cơ sở trong luật quốc tế.

Yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa bị các điểm yếu sau đây: thứ nhất, các cơ sở lịch sử tuyên bố của mình còn lửng lơ, thứ hai, vấn đề kế tục tuyên bố của Pháp là mong manh; thứ ba, có những gián đoạn trong sự kiểm soát của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa; và thứ tư, các phát biểu của chính phủ Bắc Việt Nam trước đây ủng hộ yêu sách của TQ làm suy yếu đáng kể yêu sách hiện tại của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.

Yêu sách của Philippines xoay quanh tiền đề rằng những đảo này là đất vô chủ (terra nullius) hoặc chưa có ai tuyên bố và bỏ trống vào thời điểm Cloma phát hiện. Dường như có hai lỗ hổng trong tuyên bố này: thứ nhất, lập luận rằng các đảo terra nullius là mong manh và không thể tìm được chỗ dựa trong thực tế, thứ hai, lập luận rằng chính phủ Philippines đã kế tục tuyên bố của Cloma, một cá nhân hành động theo năng lực cá nhân, là đáng nghi vấn. Tuy nhiên, thực tế Philippines đã thực thi chủ quyền và chiếm cứ hòa bình 8 trong số các đảo trong biển Đông từ năm 1978, điều đó có thể có ưu thế trong luật pháp quốc tế.

Tuyên bố của Malaysia chủ yếu dựa trên một sự hiểu sai Công ước LOS. Chế độ của thềm lục địa theo quy định theo Điều 76 của Công ước LOS chỉ đơn thuần cho các quốc gia ven biển có quyền yêu sách các nguồn tài nguyên dưới đáy biển thuộc về nó, nhưng không ủng hộ pháp lí một tuyên bố chủ quyền đối với các đảo nằm ở thềm lục địa của nó. Tuy nhiên, yêu sách của Malaysia vẫn có thể có ưu thế áp dụng theo quy định của luật quốc tế, bằng cách dựa theo một tiêu chuẩn pháp lí khác. Lí lẽ cho điều này là Malaysia chiếm cứ hòa bình và liên tục của các đảo mà họ yêu sách mà không có nước nào khác yêu sách hoặc bị bất kì nước đang yêu sách quần đảo Trường Sa chiếm cứ.

Brunei tuyên bố chủ quyền rạn san hô Louisa, đó là một thể địa lí ngầm dưới mặt biển có thể có ưu thế áp dụng chính đáng theo luật quốc tế trên cơ sở Điều 76 của Công ước LOS. Tuy nhiên, Brunei phải chứng minh rằng các rạn san hô này nằm bên trong phần mở rộng của thềm lục địa của họ. Mặt khác, Brunei tuyên bố chủ quyền bãi ngầm Ba Kè, cũng khẳng định tương tự trên cơ sở các nguyên tắc thềm lục địa mở rộng, có thể không thoả đòi hỏi của Công ước LOS vì Vùng trũng East Palawan chia tách bãi ngầm Ba Kè với Brunei và ngắt ngang sự kéo dài tự nhiên thêm lục địa của họ.
............

Saturday, July 21, 2012

Con đường giải quyết tranh chấp ở Nam Hải - Quốc tế hóa vấn đề Nam Hải



Con đường giải quyết tranh chấp ở Nam Hải - Quốc tế hóa vấn đề Nam Hải

-----------------------------------------------------------------------------------------
Hu Zi dịch
Chu Phương(周方)

Chủ nghĩa yêu nước cũng cần phải thực sự cầu thị (dựa vào thực tế giải quyết), nếu không cũng chỉ là mong ước viển vông, không ai phục tùng cái dâm ý đó cả. Nam Hải là lãnh hải của Trung Quốc hay là vùng biển quốc tế (công hải)? Vấn đề này cần phải dựa vào thực tế để giải quyết, trong lịch sử loài người, chỉ có một quốc gia đã từng ôm trọn đại dương mà không có ai tranh chấp cùng, đó chính là cường quốc đã từng huy hoàng ngang dọc qua khắp các lục địa Âu - Á - Phi, ôm cả Địa Trung Hải, đó chính là đế quốc La Mã. Đáng tiếc là cái thời này đã một đi không trở lại rồi. Bất luận là Trung Quốc hay là nước nào khác, muốn độc chiếm Nam Hải là không thể nào. Cho dù là thông qua chiến tranh chiếm được trong chốc lát, trong tương lai sẽ là chiến tranh và đổ máu qua lại không ngừng nghỉ. Chiến tranh không thể là phương hướng phát triển cho một thế giới văn minh trong tương lai. Ngày nay, nếu Trung Quốc muốn khống chế Nam Hải mà không bị các quốc gia xung quanh can thiệp, phản ứng lại thì cách duy nhất là đoạt lấy nó thông qua các thủ đoạn kinh tế “chinh phục” các quốc gia xung quanh, kiến lập nên một vòng cung ôm lấy xung quanh Nam Hải “đế quốc kinh tế La Ma". Nếu không làm như vầy, tranh chấp Nam Hải sẽ không có biện pháp nào giải quyết rốt ráo cả.

Những người cộng sản thường ở trong mâu thuẫn “dành cả đời đấu tranh chống lại cường hào ác bá, cuối cùng lại biến thành địa chủ ác ôn” dành cả cuộc đời hô hào “Giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” , tiến tới xây dựng “đất nước cộng sản” thường cầm gươm súng đứng lên. Đều thường tự khen mình là người vĩ đại đối với chủ nghĩa quốc tế, nhưng lại chỉ vì một miếng đất bé tí teo hay là vì cái gọi là “quốc bảo” mà oánh nhau sứt đầu mẻ trán. Từ trước tới nay đều là từ ngữ đao to búa lớn “với giai cấp phong kiến như thủy hỏa bất dung” , trong thực tế thì cái mộng tưởng kế tục toàn bộ địa bàn bị những di sản “lãnh thổ” bị lãng quên phá hỏng.

Trước mắt, cái gọi là “Tam Sa Thị” mới thành lập lại chứng minh đầu óc không được tỉnh táo của người “nước lạ” nào đó, đồng thời dẫn sự cảnh giác không cần thiết của những nước láng giền và cả công luận quốc tế. thành phố Tam Sa với tổng diện tích hơn 2.6 triệu km2 là một con số kinh nhânngười vẽ ra cái thành phố Tam Sa này còn ngây thơ hồn nhiên tới mức mang cả toàn bộ Nam Hải” quy hoạch” thành một cái thành phố địa cấp. Làm như thế này có thực tế không? Có khả năng thành hiện thực không? Có tin cậy không? Mày đọc xong có tin là thật không?

Về vấn đề Nam Hải, cho dù chúng ta cam tâm tình nguyện bảo vệ cũng chắc gì đã được quốc tế công nhận. trên thực tế không hề tồn tại cái gọi là “đường biên giới” và cả cái gọi là “chủ quyền” “toàn vẹn lãnh thổ” nào cả. Cho dù có một số ít người nêu lên câu hỏi cơ bản nhất cũng là đơn giản nhất: Nam Hải là lãnh hải của Trung Quốc hay là vùng biển quốc tế (công hải) ? Nếu không làm cho rõ vấn đề này, chẵng những vấn đề tranh chấp trên biển không thể giải quyết được, người dân trong nước cũng mơ mơ hồ hồ về vấn đề lãnh thổ của quốc gia, cứ tiếp tục thế thì chiến tranh là cái đích của chúng ta!

Đầu tiên, bất luận là từ lịch sử hay trên thực tế thì Nam Hải trước nay không phải là lãnh hải của Trung Quốc, sau này cũng không có khả năng. Không những thế, trong thực tế Trung Quốc trước nay chưa hề có những hành động thực thi chủ quyền trên toàn bộ Nam Hải. Điều đáng cười là thứ duy nhất mà có thể biểu thị cái quyền làm chủ đó của Trung Quốc chính là cái “bản đồ Trung Quốc” mà chúng ta in ra nhưng lại không được chấp nhận bởi quốc tế. Chúng ta từ hồi nhỏ ngày ngày xem cái bản đồ này mà lớn lên, hầu như trước nay chẳng có hoài nghi nào đối với những vùng bên trong cái vạch màu đỏ đỏ được xưng danh “biên giới” trên biển kia có thực sự thuộc về chúng ta hay không. Cái thành phố Tam Sa mới đẻ ra kia lại một lần nữa cưỡng hóa ấn tượng đối với chúng ta – một ấn tượng sai lầm và tai hại về cái “biên giới Trung Quốc” không tồn tại kia. Nguyên nhân là vì cái Nam Hải này trước nay chưa từng thuộc về Trung Quốc.

Thành phố Tam Sa thành lập rồi, vấn đề phát sinh cũng theo đó mà tới: theo như ý nghĩ của người vẽ ra Tam Sa, cả cái Nam Hải rộng lớn đều thuộc về Tam Sa Thị, tự nhiên cũng thuộc tỉnh Hải Nam, tất cả cũng là thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tất cả những điều này có thực tế không???

Giả sử Nam Hải là lãnh hải Trung Quốc, Trung Quốc sao lại có thể “vui mừng” cho phép tàu thuyền nước ngoài không thông qua sự cho phép của chính phủ Trung Quốc lại tự do đi lại trong “Trung Quốc Nam Hải” ? Giả sử chính phủ chúng ta cho rằng có quyền đối với toàn bộ “Trung Quốc Nam Hải” “Chủ quyền không thể tranh cãi” và đồng thời với nguyên nhân sức mạnh quốc gia hay một nguyên nhân bất khả kháng nào đó, ít nhất cũng phải có một âm thanh phản đối kháng nghị với tàu thuyền các nước đi qua chứ?

Giả sử nếu chính phủ chúng ta có toàn quyền đối với Nam Hải, vậy thì bây giờ động võ đuổi hết những kẻ chiếm đóng thì cũng có thể xem là hợp với lẽ trời chính đáng chứ? Thậm chí tàu đánh cá cũng không được phép bén mảng tới.
Vốn cho rằng đối với vấn đề Nam Hải, chỉ có lòng yêu nước thôi là không bao giờ đủ cả. Cần phải có cả tinh thần thực tế lẫn pháp luật. Nói cho cùng thì Trung Quốc là một thành viên của cộng đồng quốc tế, cần phải giống như tuyệt đại đa số các nước khác tuân theo lệ quốc tế hay những chuẩn mực mà quốc tế công nhận để quy chuẩn và điều chỉnh những vấn đề mang tiếng quốc tế. Trên bình diện quốc tế, Trung Quốc tuyệt đối không thể học tập Bắc Hàn, làm thế chỉ có nước trở thành kẻ bị xa lánh, rơi vào bốn bề đối diên với địch, nguy cơ trùng trùng.

Đối với vấn đề xác định lãnh hải, lãnh thổ thì luật quốc tế có quy định rất rõ ràng. Đem Nam Hải ra bàn, rõ ràn xung quanh nơi này không phải chỉ có duy nhất Trung Quốc, Nam Hải không phải được bao quanh bởi lãnh thổ Trung Quốc, Nam Hải không thể là nội hải của Trung Quốc được. Đã không phải là nội hải, lẽ đương nhiên càng không phải là Trung Quốc lãnh hải.
Trong thực tế, xung quanh Nam Hải ngoài Trung Quốc còn có các quốc gia khác, đây là sự thật mà chúng ta cần chấp nhận. Trừ phi chúng ta không thừa nhận Việt Nam, Philippin và các quốc gia xung quanh khác không phải là quốc gia, chi bằng dùng vũ lực “thu hồi” , cái này thì tao không có ý kiến ý cò gì.
Nam Hải đã không phải là nội hải và lãnh hải của Trung Quốc, vấn đề Nam Hải sẽ dính dáng lien quan tới các quốc gia khác, dính dáng tới quan hệ quốc tế phức tạp. Như vậy thì vấn đề Nam Hải chính xác là một vấn đề quốc tế. Đã là “quốc gia không phân lớn nhỏ, nhất luật bình đẳng” là một nguyên tắc được quốc tế công nhận rộng rãi, bao gồm cả Trung Quốc bên trong, vậy thì Trung Quốc đối với việc xử lí vấn đề Nam Hải cũng phải tính đến quyền lợi hợp pháp của các quốc gia láng giềng. Cái lối suy nghĩ cứng nhắc đánh chết cũng không thừa nhận đây là vấn đề quốc tế chỉ làm trò cười cho dư luận quốc tế, càng đừng nói tới chuyện phá nổi thế kẹt hiện nay.
Đồng dạng như thế, về chuyện giải quyết vấn đề Nam Hải, nếu như Trung Quốc cố ý độc hành với quan điểm và cách hành xử từ xưa đến nay để giải quyết các tranh chấp quốc tếvấn đề Nam Hải vĩnh viễn không có giải quyết được.

Nói như vậy, Trung Quốc đầu tiên phải nhìn vào thực tế, thừa nhân Nam Hải là một vấn đề quốc tế, cần phải tiếp thu ý kiến kí cò của dư luận quốc tế, cần phải tôn trọng luật pháp quốc tế và dùng nó để giải quyết tranh chấp.
Có một vấn đề cần nói rõ chính là người Trung Quốc chúng ta khi nói đến vấn đề” lãnh thổ” thường là nói mê nói sảng lung tung tùng phèo thời cổ đại và đương đại với nhau. Mỗi khi nhắc đến lãnh thổ Trung Quốc, có rất nhiều người đều kích động nhớ lại thời nảo thời nào thì chính quyền Trung Hoa đã thực thi quyền làm chủ của mình đối với một vùng đất nào đó, và có vẻ như cho đó là minh chứng hợp pháp cho đòi hỏi của chính quyền Trung Quốc hiện nay đối với nơi đó với luận điệu” chủ quyền không thể chối cãi”.
Có thể bạn không biết chứ Trung Hoa cổ đại và Trung Quốc hiện nay không phải là một . Giữa hai thực thể này ngoài việc kế thừa ở một chừng mực nhất định nào đó về văn hóa ra, căn bản không có tí liên hệ nào cả(nguyên văn là “không có một hào một xu nào quan hệ cả”). Nếu nói một cách nghiêm túc, Trung Quốc đương đại và Trung Quốc hiện đại không những quan hệ xa cách cả dặm, càng cách xa Trung Quốc cổ đại như là lông bò với lông ngựa.
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện tại chúng ta có thể khống chế vùng lãnh thổ chính là lãnh thổ của chúng ta, muốn nhiều hơn nữa thì chỉ có thể thông qua kể chuyện, đàm phán, đấu tranh chính trị hay thậm chí là chiến tranh. Cái đó thì phải trông vào bản lĩnh kể chuyện cũng như sức mạnh về kinh tế và quân sự của bọn mày rồi.

Vấn đề là: Thế giới hiện nay có cần thiết phải dùng biện pháp chiến tranh để tranh giành lãnh thổ? Có cần thiết phải dùng vũ lực để phát triển?

Tôi sợ nhất là có bọn nào đó thích mang chuyện triều nhà Nguyên ra để nói, bọn họ cũng không dừng lại tí mà nghĩ, vào thời Nguyên thì Trung Quốc ở đâu? Vào triều Nguyên thì Trung Quốc chỉ là một “quốc thổ” trong “Tứ đại khu vực” .
Tôi khâm phục nhất là một vị tài xế người dân tộc Mông Cổ có trò chuyện qua với tôi, năm kia đi Nội Mông Cổ chơi, ngồi trong xe việt dã do người lái xe dân tộc Mông Cổ lái, trên đường chúng tôi trò chuyện thoải mái với nhau, tôi có vô ý hỏi một câu này: “Mấy năm nay các phong trào hoạt động đòi độc lập cho Tân Cương, Tây Tạng hoạt động mạnh, hình như không thấy có phong trào đòi độc lập cho Nội Mông?”

Tài xế trả lời làm cho tôi phải kính nể “chúng tao đã từng thống trị Trung Quốc, còn muốn độc lập cái gì nữa”. Đúng vậy, một dân tộc đã từng để dẫm một nửa thế giới dưới gót giày thì quả nhiên có khí độ to lớn.
Lấy một ví dụ nữa thời nhà Nguyên. Có một dạo nói về vấn đề Tây Tạng, luôn có người thích lấy Văn Thành công chúa lên Tây Tạng ra nói. Sau đó sao lại không có ai nhắc tới nữa vậy? nguyên nhân rất đơn giản, có người đặt nghi vấn: “nếu như nói Văn Thành công chúa tiến vào Tây Tạng làm cột mốc cho Trung Quốc bắt đầu thực thi chủ quyền ở Tây Tạng, thì Văn Thành công chúa chỉ là vợ của Tùng Tán Can Bố, vợ lớn của ông ta là công chúa Nepal, vậy thì công chúa Nepal vào Tây Tạng có ý nghĩa gì?”
Như vậy vấn đề Tây Tạng có thể nói trong câu “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Tây Tạng (Datlai Lama cũng không phủ nhận ở điểm này)” (đây là lời thằng viết nhá, chứ mềnh ko nghĩ thế) . Những thứ khác đều là vứt đi, không có giá trị gì, nếu có bản lĩnh thì vác súng tới mà cướp!

Quay lại vấn đề chính, nhìn lại làm sao để giải quyết vấn đề tranh chấp nóng bỏng trước mắt ở Nam Hải.

Tàu thuyền nước ngoài tự do đi lại ở Nam Hải, các nước láng giềng chiếm giữ hầu hết các đảo và đá ngầm, ngư dân các nước từ đời đời kiếp kiếp đều đánh cá ở các ngư trường này, gần đây thì các nước tha hồ hút dầu khí….Những cái này nói lên điều gì??? Nói lên rằng Trung Quốc không thể và cũng không có khả năng làm chủ toàn bộ vùng biển Nam Hải, trước mắt cũng không thể” thu hồi” toàn bộ “lãnh thổ bị chiếm đóng” . Mang toàn bộ Nam Hải để vào trong cái thành phố Tam Sa mới đẻ cũng chả có tác dụng gì. Có bản lĩnh thì mày thử mang cả Thái Bình Dương vẽ vào trong bản đồ đi xem nào (há há câu này hay)

Vậy thì, muốn thực hiện việc giải quyết vấn đề Nam Hải một cách hòa bình thì phải làm thế nào? Chỉ có thể dùng biện pháp hòa bình, thông qua con đường đàm phán hòa bình, hoan nghênh sự tham gia của dự luận quốc tế. Nam Hải đã không phải là nội hải và lãnh hải của Trung Quốc, vậy thì cùng quốc tế khai thác Nam Hải là một lựa chọn tất yếu. Mọi ý đồ thông qua vũ lực và biện pháp chiến tranh để giải quyết vấn đề Nam Hải đều là tư duy cũ, là một hành động đi lùi lại.
Hiện nay âm thanh kêu gọi chiến tranh ở trong và ngoài nước có vẻ như rất mạnh, đến độ điếc cả tai. Nghe kĩ một chút thì ngoài một số mù quáng ăn theo ra, hò hét to mồm nhất là những kẻ có ý đồ hay những đại diện của các tập đoàn lợi ích. Nước nào cũng vậy cả thôi

Làm cái tàu sân bay đi, sản xuất hàng loạt J-20 nào, tích cực đầu tư phát triển tên lửa tầm xa thôi… Đối với những người không thể phát tài nhờ chiến tranh hay những người không thích chiến tranh, tôi chỉ nói một câu “đừng có mở mồm hò hét theo nữa, lo mà xem nhà chúng mày không bị dỡ ra là may rồi.” Phát triển quân sự, chuẩn bị chiến tranh đối với nhân dân không bao giờ là chuyện tốt cả, những kẻ kiếm tiền nhờ chiến tranh vĩnh viễn là kẻ thù của nhân dân.

Nói một câu, con đường giải quyết tranh chấp Nam Hải trong tương lai chỉ có thể là Trung Quốc và các nước trên thế giới hòa bình phát triển kết hợp với nhau. Các nước xung quanh Nam Hải cũng như các thế lực khác, quốc gia có năng lực cùng nắm tay nhau khai thác Nam Hải, bảo vệ hòa bình cũng như môi trường sinh thái Nam Hải.

Từ xưa, Trung Quốc luôn lập quốc bằng văn hóa, cho đến ngày nay, Trung Quốc mới lần đầu dùng ý định vừa tiếp tục bảo vệ nền văn hóa truyền thống, đồng thời đầu tư phát triển kinh tế, học cách dùng kinh tế để giao hảo với dư luận thế giới. Giả như Trung Quốc và các nước xung quanh Nam Hải dùng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bắt tay nhau hợp tác, cùng nhau phát triển, tương lai với hạt nhân là Trung Quốc, cùng với các nước xung quanh Nam Hải là những đối tác hợp tác thân thiết, Nam Hải biến thành “nội hải” của “đế quốc kinh tế La Mã” – Khu vực kinh tế vùng Nam Hải” hoặc là “Cộng đồng kinh tế Nam Hải” (giống kiểu EU) cũng không phải là mơ tưởng không có thực. Trên thực tế, hiệp ước các nước Đông Nam Á còn cách mục tyêu này không xa. Tất nhiên điều đầu tiên là Trung Quốc không thể đối đầu với họ, nếu không thì không còn gì để nói cả.

Có thể có người nói rằng tôi thuộc loại người theo chủ nghĩa lí tưởng. Tuy nhiên thế giới hòa bình phát triển là mong ước cao nhất của nhân loại. Có người nào lại suốt ngày chỉ mơ ước chiến tranh? Trừ phi đó là con bệnh nghiện chiến tranh hay những kẻ mưu lợi vào chiến tranh.
Cũng cần phải cảnh giác với một số kẻ muốn đưa Trug Quốc vào cuộc chạy đua vũ trang, nhảy vào chiến tranh để những kẻ này bán vũ khí. “Mối đe dọa Trung Quốc” cũng được, mang chiêu bài Trung Quốc cũng xong, những nước này đều có mục tiêu là làm yếu Trung Quốc, đạt được mục đích riêng của bọn họ. Mọi lời kêu gọi vũ lực từ dân chúng chỉ càng là đổ thêm củi lửa vào màn kịch “yêu ma hóa Trung Quốc” của những thế lực nước ngoài.

Một số người ở nước ngoài đối với tương lai họ nhìn thấy rất rõ. Họ lo lắng Trung Quốc sẽ mang cả cách thức phát triển như hiện tại để đi tới tương lai, sẽ có ngày trở thành số 1 thế giới. Nhưng bọn họ có một điểm không thể hiểu rõ, đó chính là Trung Quốc tự cổ chí kim đều không phải dùng vũ lực để chinh phục các quốc gia và dân tộc khác. Trong một thời gian dài, thủ đoạn chinh phục duy nhất của Trung Quốc đó chính là dùng văn hóa, bây giờ có thêm kinh tế, nhưng sẽ không bao giờ là quân sự. Bởi vì quan niệm truyền thống của Trung Quốc không cho phép, đạo lí Khổng Mạnh không cho phép. Bản tính của người Trung Quốc cũng không cho phép.

Mỗi lần tôi lái xe trên đường cao tốc đi qua Sơn Đông, đều nhớ rõ câu danh ngôn  “Sơn Đông hiếu khách đón chào bạn!” Sơn Đông là nơi của lễ nghĩa, thậm chí người Sơn Đông còn được xưng là người kế thừa kiểu mẫu của văn hóa Trung Hoa, Sự hiếu khách của Sơn Đông cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của Trung Quốc. Trung Quốc hiếu khách làm cho chiến tranh tránh xa.

Có thể có người nói sự khoan dung, nhẫn nhịn của Trung Quốc chỉ làm cho các nước láng giềng càng ngang ngược, đến hiếp đáp Trung Quốc. Sự thật là thế này? Chúng ta chỉ nhìn thấy tàu thuyền của quân đội Hoa Kỳ đi khăp nới trên thế giới quản chuyện nhà người, thế chúng mày đã nhìn thấy tàu thuyền của Trung Quốc đi tranh chấp không ngừng với các nước xung quanh chưa? Nước Mỹ có suốt ngày yêu cầu các nước lân bang tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không?

Có thể nói, mấu chốt là Trung Quốc chúng ta cần phải phát triển, cần phải hùng mạnh, có đủ sức mạnh mới đủ sức chấn nhiếp và bảo vệ quyền lợi của bản thân. Nước Mỹ có thể có cả trăm điều làm người ta chán ghét, nhưng sức mạnh Mỹ thì người ta không thể không nể phục. Nước Mỹ đáng để cho Trung Quốc học tập nhất chính là nắm bắt mọi cơ hội để phát triển vươn lên hùng mạnh. Bí mật giàu mạnh của nước Mỹ không nằm ở chiến tranh mà ở kì tích bảo vệ nền hòa bình kéo dài trên trăm năm ngay trên chính nước Mỹ. Trên thế giới nào có siêu cường nào được may mắn như thế không? Có lẽ là không có.
Hòa bình phát triển luôn tốt hơn chiến tranh phá hoại, hòa bình càng có lợi hơn đối với sự phát triển và tiến bộ của nhân loại.

Thursday, July 5, 2012

Đường ‘lưỡi bò’ là cơ sở cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc?



Đường ‘lưỡi bò’ là cơ sở cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc?


Không đòi hỏi phải có kiến thức luật pháp, cũng không cần phải đo đạc chi tiết, bất cứ người bình thường nào không quá hời hợt trong suy nghĩ đều thấy rõ đường ‘lưỡi bò’ (còn được gọi là đường chữ U, đường 9 vạch / đoạn / điểm – cửu đoạn tuyến) khó có thể là đường biên giới trên biển của Trung Quốc (TQ) vì sự vô lí hiển nhiên của nó.


Đó là một phần chia lấy được của kẻ mạnh1 của TQ đối với Biển Đông (xem hình 1). Ngay cả một số học giả TQ cũng không đồng ý điều này và thậm chí vào năm 2002 giáo sư Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing) đã dự đoán rằng TQ sẽ sớm từ bỏ nó2.


Trong "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề tranh chấp trên biển”3giữa TQ và Việt Nam mới kí ngày 11/10/2011, điều 2 có nêu rằng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên sẽ là căn cứ để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Nếu tuân thủ theo điều này thì ĐLB của TQ hoàn toàn không có cơ sở pháp lí vì vượt quá trung tuyến, xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước láng giềng theo quy định của UNCLOS. Tuy nhiên, điều 2 lại mở đầu với ý “xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử …”. Ngoài ra, tuy kí kết UNCLOS nhưng TQ lại đưa ra những bảo lưu trong đó có các quyền lịch sử4. Thêm vào đó, một số học giả TQ như Vương Hàn Lĩnh (Wang Hanling) lại cho rằng đường lưỡi bò có từ năm 1947, trong khi UNCLOS chỉ mới có từ năm 1982, nên không thể áp dụng cho tranh chấp Biển Đông5. Điều này tạo ra mối quan ngại TQ sẽ dùng đường lưỡi bò làm cơ sở để biện giải yêu sách chủ quyền của họ trong các tranh chấp. Bài viết này là một nỗ lực nhằm góp phần làm sáng tỏ điều này dựa trên các thông tin trên truyền thông quốc tế.
Trước hết, xin được điểm qua đôi nét về gốc gác của bản đồ có ĐLB này.
Theo hai tác giả Lí Kim Minh và Lí Đức Hà, Đại học Hạ Môn, Phúc Kiến6 thì tiền thân bản đồ ‘lưỡi bò’ hiện nay là Bản đồ vị trí của các đảo Biển Đông (南海诸岛位置图 - Nanhai zhudao weizhi tu – Nam hải chư đảo vị trí đồ) kèm theo Bản đồ hành chính khu vực Trung Hoa Dân Quốc (中 華 民 國 行 政 區 域 圖 - Zhonghua minguo xingzheng quyu tu - Trung hoa dân quốc hành chánh khu vực đồ) do Cục Địa lí Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) chính thức công bố vào tháng 2 năm1948. Các bản đồ này do Phó Giác Kim (Fu Jiaojin) hiệu đính và do Vương Tích Quang (Wang Xiguang) cùng những người khác biên soạn. Riêng bản đồ vị trí đính kèm này đã được Cục Địa lí Bộ Nội Chính in vào năm 1947, trong đó có sử dụng đường 11 vạch giới hạn các đảo ở Biển Đông. Sau đó chính phủ Tưởng Giới Thạch bị lật đổ và nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) được thành lập vào năm 1949, chính phủ mới vẫn dùng bản đồ cũ với đường 11 vạch. Đến năm 1953, Thủ tướng Chu Ân Lai phê duyệt bỏ đi phần hai vạch của đường này trong Vịnh Bắc Bộ. Từ đó trở đi, bản đồ với đường 9 vạch trong Biển Đông được TQ sử dụng cho tới bây giờ.

Còn theo giáo sư Du Kiếm Hồng Peter (俞劍鴻/Peter Kien-Hong Yu), Đại học Minh Truyền (Ming Chuan), Đài Loan7 thì ĐLB được một người làm bản đồ tên là Hồ Tấn Tiếp (胡晋接/Hu Jinjie) phác hoạ đầu tiên vào năm 1914 sau khi Trung Hoa chiếm lại Pratas từ tay Nhật vào năm 1909. Cũng lưu ý rằng ĐLB của Hồ Tấn Tiếp là một đường liên tục chạy từ biên giới đất liền của TQ và VN vòng xuống bao lấy Hoàng Sa (với điểm tận cùng phía Nam khoảng 15°, 16° vĩ bắc) sau đó vòng lên bọc lấy Pratas, chạy xuyên qua eo biển Đài Loan và cuối cùng kết thúc ở đường ranh giữa biển Hoa Đông và Hoàng Hải.8 Như vậy, ĐLB của Hồ Tấn Tiếp không chứa Đài Loan (lúc đó còn trong tay Nhật) và Trường Sa. Các bản đồ có liên quan sau đó đều dựa theo bản đồ của Hồ Tấn Tiếp9. Đến tháng 12 năm 1947 ĐLB mới được một viên chức của chính phủ THDQ tên Bạch Mi Sơ (白眉初/Bai Meichu) chính thức vẽ vào vùng Biển Đông nhưng tác giả không nêu rõ trong bản đồ nào. Lí do để viên chức họ Bạch vẽ đường này cũng chưa thật rõ ràng10, tuy nhiên ông này đã từng hiệu đính bản đồ có ĐLB tương tự trong tập Bản đồ Kiến thiết Trung Hoa mới (中 國 建 設 新 地 圖 - Zhongguo Jianshe xin ditu - Trung quốc kiến thiết tân địa đồ) in vào giữa những năm 193011. Chính trong bản đồ này ĐLB lại mở rộng thêm lần nữa tới tận 4° vĩ bắc, bao luôn cả bãi cạn James (xem tài liệu ở chú thích 10).

Tài liệu của tác giả họ Du không có kèm bản đồ, còn tài liệu của hai tác giả họ Lí có đưa vào bản đồ 9 vạch nhưng không phải từ bản đồ gốc năm1947 hay 1953 mà lấy nguồn từ nước ngoài (Hasjim Djalal, “Conflicting Territorial and Jurisdictional Claims in South China Sea,” The Indonesian Quarterly, vol. 7, no. 1 (1979), 36 at 52). Nguồn từ trang mạng www.nansha.org.cn cũng có đưa ra bản đồ 11 vạch năm 1947 (hình 2) với tên bản đồ này là “Nam hải chư đảo vị trí lược đồ” (南海诸岛位置略图), tuy nhiên tên trên bản đồ (có vẻ mới dán chồng lên) chỉ là “Nam hải chư đảo vị trí đồ”, không có từ “lược” (南海诸岛位置图 - Nanhai zhudao weizhi tu)12 giống như hai tác giả họ Lí trình bày. Bài'Bản đồ chữ U : nguồn gốc và địa vị pháp lí’ (Nam hải "cửu đoạn tuyến" đích lịch sử do lai hòa pháp luật địa vị - 南海“九段線”的歷史由來和法律地位)13 trên trang mạng Hoàn cầu của nhà nước TQ cũng ghi là “Nam hải chư đảo vị trí lược đồ”.




Hình 1: Bản đồ ĐLB 9 vạch đính kèm theo công hàm TQ gửi

Liên Hiệp Quốc năm 2009

 Hình 2:Bản đồ ĐLB 11 vạch “
Nam hải chư đảo vị trí đồ”
1947 trên www.nansha.org.cn

Gần đây, các tác giả TQ khi viết bài gửi đăng trên các tạp chí quốc tế như Journal of Geographical Sciences (Tháng tám 2010),Nature (Tháng chín 2010), Science (Tháng bảy 2011), Waste Management (Tháng tám 2011), and Journal of Petroleum Science and Engineering(Tháng tám 2011)… cũng kèm theo bản đồ ĐLB. Chẳng hạn, ĐLB kèm theo bài báo của nhóm Jun Tai, Weiqian Zhang, Yue Che, Di Feng đăng trên tập san Waste Management gồm 11 vạch bao luôn quần đảo Đài Loan (hình 3). Trên bản đồ Google, phiên bản tiếng Anh, có lẽ lấy nguồn từ TQ, cũng có bản đồ ‘lưỡi bò’ 10 vạch (hình 4). Bản đồ này có vẻ suy từ bản đồ 9 vạch 2009 bằng cách thêm 1 vạch phía quần đảo Đài Loan.
Nhân đây cũng lưu ý thêm rằng, khó có thể nói là vô tình khi chính quyền TQ đã để các tổ chức và công dân TQ nguỵ tạo ra các bản đồ, như trên trang mạng www.spratlys.org có phổ biến các bản đồ đời Minh, Nguyên, Tống… và thậm chí trước nữa. Ở góc mỗi bản đồ này đều có đính bản đồ ‘lưỡi bò’ nhỏ ra vẻ như ĐLB đã có từ các thời xa xưa đó14 trong khi theo các nghiên cứu chính thức đã nêu thì bản đồ này chỉ có từ 1947.

Hình 3: Bản đồ ĐLB 11 vạch của
học giả TQ đăng trên tạp chí
Waste Management
 


Hình 4: Bản đồ ĐLB 10 vạch trên google maps - phiên bản tiếng Trung

Mặc dù nguồn gốc của ĐLB theo các tư liệu trên có một số chi tiết chưa thật rõ ràng và chưa nhất quán nhưng phần trình bày trên có thể cho thấy khá rõ mấy điều sau đây:
(i)    TQ chỉ chính thức công bố với thế giới bản đồ ĐLB 9 vạch vào tháng 5/2009 khi họ kèm bản đồ này vào công hàm gửi LHQ. Bản đồ này có thể là một bản sao của bản đồ Chu Ân Lai duyệt vào năm 1953. Tất cả các bản đồ có ĐLB trước đó đều chỉ công bố trong nước và các bản đồ có ĐLB khác (10 vạch, 11 vạch, gần liền nét …) do đó, đều không chính thức về mặt ngoại giao nên chỉ có tính tham khảo.

(ii)    Bản đồ ĐLB 11 vạch có sớm nhất là vào năm 1947 và sau khi qua phê duyệt của Chu Ân Lai năm 1953, ĐLB trong các bản đồ sau đó chỉ còn 9 vạch.
(iii)    Đường ‘lưỡi bò’ không phải là chủ trươngchính thức của các chính phủ Trung Quốc, ít nhất là ngay từ lúc xuất hiện mà có nhiều khả năng chỉ xuất phát từ quan điểm cá nhân (Hồ Tấn Tiếp, Bạch Mi Sơ, Vương Tích Quang… ) hoặc một tập thể nhỏ (Cục Địa lí Bộ Nội Chính THDQ). Việc mời Bạch Mi Sơ về Bắc Kinh năm 1990 để tìm hiểu lí do cho việc vẽ đường này15 là một minh chứng hùng hồn cho thấy TQ không có hồ sơ lịch sử nào của nhà nước về đường này.
(iv)    Bản đồ ĐLB ban đầu không phải là bản đồ để phân ranh chủ quyền các đảo và càng không phải phân ranh các vùng nước trong biển Đông: Tên của bản đồ là “Nam hải chư đảo vị trí đồ” cho thấy nó chỉ là bản đồ cho biết vị trí các đảo (chư đảo) trong Biển Đông (Nam hải) không phải là bản đồ chính trị mặc dù được kèm theo Bản đồ hành chánh khu vực THDQ tháng 2/1948. 

Với nguồn gốc ấy, bản đồ 9 vạch 2009 không thể nào là một cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của TQ đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Xin đơn cử các phân tích sau đây:

1.    Giả định rằng bản đồ 9 vạch 2009 là bản sao của bản đồ 9 vạch 1953, vốn có tiền thân là bản đồ 11 vạch 1947. Chúng ta có thể bắt đầu phân tích từ bản đồ cũ này. Như nêu ở (iv), bản đồ 11 vạch năm 1947 chỉ là bản đồ cho biết vị trí các đảo ở Biển Đông (như tên của nó), chưa kể đây chỉ là lược đồ (theo hai tác giả họ Lí và bài trên trang mạng Hoàn cầu đã dẫn) chứ không phải là bản đồ chi tiết (tinh đồ). Lưu ý rằng việc định vị các đảo trên biển không nhất thiết là một hành động thể hiện chủ quyền vì bất cứ tổ chức hay cá nhân cũng có thể làm điều đó theo các mục đích riêng của mình (đi lại, giao dịch, phổ biến kiến thức…). Ví dụ, các nhà hàng hải Hà Lan, Tây Ban Nha đã từng vẽ bản đồ Biển Đông và chú thích các đảo của Trường Sa, [Hoàng Sa] là của VN16. (chứ không ghi là của Hà Lan hoặc là của Tây Ban Nha).

Bản đồ 11 vạch này kèm theo bản đồ hành chính khu vực của THDQ tháng 2 năm 1948 với ý đồ gia tăng tính chính thức hơn nhưng tên gọi vẫn không đổi và không có thêm chi tiết nào chứng tỏ các đảo hay vùng nước trong ĐLB đó thuộc một đơn vị hành chánh nào đó của THDQ. Do vậy, giá trị nó vẫn như cũ. Một số học giả và tác giả bài ‘Bản đồ chữ U: nguồn gốc và địa vị pháp lí’ lập luận rằng TQ đã từng đặt tên và đổi tên các đảo từ những năm 1930 coi như hành động thực hiện chủ quyền. Đây cũng chỉ là một lập luận không vững chắc vì việc đặt/thay tên không nhất thiết là một hành động thể hiện chủ quyền, chẳng hạn năm 1843 tàu săn cá voi Anh the Cyrus "khám phá" đảo Trường Sa, Bộ Hải quân Anh lấy tên thuyền trường tàu này để đặt tên cho nó là "Spratly Island"17, nhưng Trường Sa đang dưới sự quản lí của triều đình VN lúc đó và cũng đã có tên. Còn bản đồ 1953 thực chất là bản đồ 1947 bỏ bớt 2 vạch và bản đồ 2009 chỉ kèm theo công hàm mà không có giải thích gì thêm về 9 vạch chèn vào nên cũng không làm sáng tỏ gì hơn về mặt chủ quyền.

2.    Như nêu ở (i), các bản đồ này chỉ dùng trong nội bộ TQ chưa bao giờ công bố cho thế giới hoặc ít ra là các nước liên quan (láng giềng, các nước đi biển…) một cách chính thức cho tới tháng 5 năm2009. Với tư cách là một thành viên sáng lập chủ chốt Liên Hiệp Quốc (LHQ) từ năm 1945, nếu muốn giành lấy gần trọn Biển Đông theo bản đồ này thì THDQ phải công bố nó ít ra là cho các thành viên LHQ khác biết sau khi nó được vẽ ra một thời gian ngắn sau đó. Hơn nữa, TQ nói chung (THDQ trước 1971 và CHNDTH sau đó) còn là thành viên thường Hội đồng bảo an LHQ thì họ càng phải làm điều này sớm hơn, không phải đến tháng 5 năm 2009. Đây là một điều khó chấp nhận cho một quốc gia, huống hồ quốc gia đó lại còn là thành viên thường trực HĐBA LHQ. Cách hành xử của một quốc gia lớn trên thế giới lại kém xa một cá nhân, chẳng hạn như Tomás Cloma của Philippines. Khi muốn sở hữu một số đảo và vùng biển của Trường Sa mà theo ông là vô chủ, Tomás Cloma đã thông báo rõ ràng cho thế giới biết với "Tuyên Ngôn cho toàn thế giới" (Proclamation to the Whole World) vào ngày 15/5/1956 nêu rõ đòi hỏi của mình18. Một cá nhân hành xử dù ngay trên đất thuộc quyền sở hữu của mình mà có thể ảnh hưởng tới sinh hoạt của láng giềng vẫn cần thông báo cho xung quanh biết. Huống hồ đây là một vùng biển chung của hơn 10 nước và xa hơn là của toàn thế giới19, nhưng TQ mập mờ tuyên bố như là vùng biển của riêng mình ngoài sự nhận biết của cả thế giới. Nếu TQ đòi hỏi các nước phải công nhận những bản đồ, tài liệu do TQ đưa ra mà không công bố cho thế giới, TQ cũng phải công nhận các bản đồ, tải liệu của tất cả các nước, trong đó có các bản đồ cổ của VN nêu rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của VN!

3.    Bàn về biên giới quốc gia (tự nhiên / nhân tạo), bao giờ đó cũng là một đường kín, liên tục và không hề có quan niệm ranh giới quốc gia là một đường mở. (Có thể dùng đường không liên tục để thể hiện đường ranh giới trên bản đồ, nhưng đường không liên tục đó có thể nối thành đường liên tục theo một cách không tranh cãi nhờ một hệ thống toạ độ tối thiểu nào đó.) Còn ‘ba biển’ như người TQ quan niệm [Hoàng Hải, Đông Hải, Nam Hải (Biển Đông)] chỉ là cách gọi để hình dung vị trí địa lí của các vùng biển này, nhưng khi nhìn tổng thể thì ba biển này chỉ là một vùng nước liền lạc thuộc Thái Bình Dương ở về phía Đông và Đông Nam lãnh thổ đất liền của TQ. Trên thực tế, Thái Bình Dương cũng là một vùng nước nằm trong một vùng nước liên thông lớn hơn của của trái đất – không kể các vùng nước nhỏ hơn như ao hồ và các biển kín trong các đại lục. 

Do đó, ngay cả khi bỏ qua điều gây tranh cãi là làm sao nối các vạch này thành một đường liên tục20(xem hình 5) cũng như giả định rằng vạch cuối cùng phía VN có thể nối một cách hợp lí vào biên giới trên đất liền của TQ và Việt Nam thì TQ cũng không thể nào thuyết phục rằng ĐLB đó là một đường biên giới biển của họ. Lí do đơn giản là TQ không có một tài liệu hay bản đồ nào khác cho thấy ĐLB này sẽ kéo dài tiếp tới biên giới đất liền của TQ với Bắc Triều Tiên (chỗ tiếp giáp với Hoàng Hải ở tỉnh Liêu Ninh, Mãn Châu) để tạo thành một đường biên giới biển kín và liên tục theo đúng nghĩa. Nếu có, chắc chắn họ đã đem ra để tranh cãi với Nhật trong việc tranh chấp quần đảo Senkaku (Tiêm Các/Điếu ngư).
Cũng lưu ý thêm rằng ngay cả khi TQ kéo dài ĐLB thành đường kín, liên tục và điều chỉnh nó đúng theo UNCLOS thì đường đó cũng không phải là đường biên giới theo nghĩa tuyệt đối như trên đất liền. Bởi vì đối vùng nước nằm giữa đường này và lãnh hải 12 hải lí, họ không được toàn quyền (và trách nhiệm) như với lãnh thổ trên đất hay lãnh hải, ví dụ tàu bè nước khác có thể qua lại vô hại, nghiên cứu khoa học…trong đó. Hơn nữa, nếu quy về năm 1947 thì quan niệm phổ biến về biên giới biển chỉ là ranh giới tự nhiên (bờ biển) hay đường biên của lãnh hải mà bề rộng theo luật quốc tế lúc đó không rộng quá 3 hải lí. Do đó, một ĐLB mù mờ với bề rộng cả ngàn hải lí lại in trên bản đồ vị trí các đảo (mà chủ quyền của họ đối với chúng cũng còn tranh cãi) thì không thể nào quan niệm đó là đường biên giới biển. Nếu TQ quan niệm khác thì phải công bố và giải thích rõ ràng cho cả thế giới chứ không phải chỉ in bản đồ phổ biến nội bộ rồi đòi hỏi các nước khác phải quan niệm và hiểu như mình.

Nguồn: US Energy Information Administration Nguồn: http://www.ellentordesillas.com
Hình 5: Dù ĐLB 1947 và 2009 có sai biệt lớn (xem hình 6) nhưng 2 ĐLB liên tục này sai biệt quá mức

4.    Đối với TQ chủ quyền đất nước bao giờ cũng là thiêng liêng, dù một tấc đất/biển cũng không từ bỏ. Do đó,ngay cả giả sử rằng TQ quả thật có một đường biên giới biển cho vùng “ba biển”( mở rộng của ĐLB 9 vạch) thì không thể không thắc mắc về câu trả lời của Bộ trưởng ngoại giao Tiền Kì Tham cho Indonesia hồi năm 1993 và thái độ của chính phủ TQ sau đó. Khi đó, Indonesia thắc mắc về việc “luật Lãnh hải và các vùng tiếp giáp” năm 1992 của TQ có đưa vào ĐLB và đường này có vẻ lấn vào quần đảo Natuna. Tiền Kì Tham nói rằng đảo Natuna đông dân cư và quan trọng về kinh tế sẽ không bị TQ đòi giành chủ quyền đâu (lí do không xác đáng theo quan điểm chủ quyền lãnh thổ nêu trên). Sau đó TQ chưa bao giờ xác nhận chính thức điều này21 (biên giới phải rõ ràng không thể mù mờ đến nỗi không thể trả lời ổn thoả cho láng giềng được). Cứ cho đây là một câu trả lời bị động thì cũng khó có thể giải thích việc thủ tướng TQ Chu Ân Lai loại bỏ hai vạch trong vịnh Bắc bộ vào năm 1953. ĐLB 11 vạch vốn không rõ ràng, bỏ đi hai vạch làm nó càng mù mờ hơn. Hãy thử so sánh, nếu như trên các bản đồ đất liền, Chu Ân Lai xoá đi một khoảng trên đường biên giới Trung – Xô rồi cho công bố thì liệu người TQ (và cả Liên Xô) có chấp nhận hay không. Ngoài ra, cũng không thể giải thích được sự im lặng quá lâu của TQ trong việc công bố đường này với thế giới. Lí do bận nội chiến (từ 1948 đến1949) hay củng cố nội bộ (từ 1949 đến 2009) khó có thể biện minh cho việc chậm công bố này. Chỉ có thể có một cách giải thích cho đường chữ U, đó chính là sự tùy tiện áp đặt của các nhà vẽ bản đồ Trung quốc khiến cho giới cầm quyền tranh thủ cơ hội mở rộng yêu sách mà thôi.

5.    Khi so sánh các bản đồ ở hình 1, hình 2 (cho rằng bản này sao từ bản gốc), hình 3 và hình 4 ta dễ thấy có sự tuỳ tiện và ngày càng lấn tới hơn trong quá trình biên soạn. Các vạch của bản đồ 2009 không những không trùng với các vạch trong bản đồ 1947 mà còn có khuynh hướng làm cho mơ hồ hơn (các vạch ngắn hơn, thưa ra) và tham lam hơn (các vạch gần với bờ biển của các nước láng giểng hơn). Điển hình nhất cho sự tham lam và mơ hồ là việc bố trí lại các vạch ở đầu ‘lưỡi bò’ trong bản đồ 2009 so với bản đồ 1947. Vạch ngăn cách ‘lưỡi bò’ với quần đảo Natuna của Indonesia bị dời về phía Việt Nam và làm ngắn lại, còn vạch cạnh bờ biển Malaysia bị làm ngắn đi thành gần như đoạn thẳng (xem hình 5). Vì thề chúng trở nên mơ hồ hơn và từ đó TQ có thể tuỳ nghi giải thích ‘lưỡi bò này có ‘liếm’ trọn quần đảo Natuna hay không tuỳ theo cuồng vọng và sức mạnh của họ.

Bản đồ 3, mặc dù xuất hiện sau bản đồ 2 (bản đồ TQ công bố chính thức với thế giới) có vẻ quyết đoán hơn, có thêm haivạch nữa lên tới ngang Hạ Môn (Xiamen) ‘bao’ luôn cả Đài Loan. Hơn nữa, vị trí các vạch của bản đồ này có vẻ có nhiều khác biệt với 9 vạch trong bản đồ 2009 và cũng không giống 11 vạch của bản đồ 1947. Còn bản đồ 4 nhát gừng hơn, giảm bớt một vạch so với bản đồ 3 nên chỉ bao một phần đảo Đài Loan22. Cũng lưu ý thêm, có lẽ để tạo vẻ hợp lí nhằm mà mắt thế giới, 1 hay 2 vạch thêm này đã được vẽ khá gần Đài Loan. Điều này rõ ràng không nhất quán với sự tham lam về độ xa của 9 vạch gốc23 và logic của cách giải thích về biên giới biển của TQ24: 1 hay 2 vạch thêm này đáng lẽ phải cách xa Đài Loan hơn chứ không phải chỉ mấy chục hải lí như họ đã vẽ. (Đài Loan là đảo có nền kinh tế riêng nên theo UNCLOS được hưởng gần như mọi quy chế của đất liền.)

Ngoài ra, việc đưa ĐLB vào các bản đồ google, tài nguyên biển (như bản đồ của CNOOC ở hình 7)… hoặc chèn các bản đồ có ĐLB vào các công trình khoa học (chưa kể có phù hợp hay không) cho thấy TQ càng tuỳ tiện. Lòng tham chiếm trọn biển Đông làm TQ mờ mắt không nhớ rằng họ còn các vùng biển/đảo ở biển Hoa Đông và Hoàng Hải cũng cần phải thể hiện/giành phần (với Nhật và 2 nước Hàn) trên bản đồ. Hãy tưởng tượng nếu như Mĩ vẽ bản đồ tài nguyên biển hay bản đồ liên quan tới các công trình nghiên cứu cho toàn nước Mĩ mà chỉ đề cập đến phần biển ở vùng vịnh Mexico và ‘quên’ không đá động gì đến phần ở Đại Tây Dương (cũng như các phần ở Thái Bình Dương ngoài bờ biền phía California,Hawaii và Alaska và phần ở Bắc Băng Dương) thì sẽ phi lí dường nào.. Chỉ có một cách giải thích duy nhất cho việc này là lòng tham đối vời Biển Đông đã làm TQ quên mất những lẽ phải và logic thông thường. Như vậy rõ ràng rằng nếu ĐLB là một bộ phận của đường biên giới biển của TQ thì các vạch sẽ có toạ độ rõ ràng và do đó sẽ không có những tuỳ tiện/sai biệt quá đáng và các điều phi lí nêu trên.


Hình 6: ĐLB 9 vạch mơ hồ và tham lam hơn ĐLB 11 vạch (tô thêm màu vàng)

[Hình 6 được tạo bằng cách chồng
bản đồ 2009 lên trên bản đồ 1947] 
Hình 7: “Tham quá mất khôn”, ĐLB trong bản đồ của CNOOC không dám giành dầu với Nhật và Hàn Quốc ở Đông Hải và Hoàng Hải

6.    Tuyên bố về lãnh hải của TQ năm 1958, TQ cho biết rằng giữa đất liền và các quần đảo ở Biển Đông có một số khu vực là các vùng biển quốc tế (high seas)25. Điều này có nghĩa là ‘bên trong’ có những phần không thuộc TQ do đó càng cho thấy ĐLB không thể là biên giới biển của TQ. Ngoài ra, luật về lãnh hải và thềm lục địa 1998 của TQ có quy định vẽ đường cơ sở cho quần đảo Hoàng Sadựa theo UNCLOS (nhưng không vẽ cho Trường Sa). Vì thế, nếu nhà nước TQ đã coi đường lưỡi bò là biên giới biển thì việc vẽ đường cơ sở cho Hoàng Sa là thừa thãi và không cần thiết. Lập luận này được nhiều học giả quốc tế cũng như của chính TQ phân tích.26 Có tác giả, như Du Kiếm Hồng Peter tìm cách chống chế rằng việc vẽ đường cơ sở cho Hoàng Sa là một hình thức bảo hiểm kép. Một khi có bảo hiểm kép tức là người tuyên bố đã không có một sự chính xác xác quyết về chân lý của mình! Nếu TQ không giành được sự ủng hộ về vùng nước lịch sử (‘bên trong’ ĐLB) thì họ vẫn còn đường cơ sở và có thể EEZ và thềm lục địa cho Hoàng Sa. Đây là một hình thức tự bộc lộ chân tướng, vì như đã nói ở trên chủ quyền là thiêng liêng không thể có việc nhân nhượng. Trong khi TQ rào đón trong ngoài đối với những đường tự nghĩ ra và cách biệt của bản vẽ mỗi lần mỗi gia tăng! Ngoài ra, nếu chấp nhận ĐLB là ranh giới ‘vùng biển lịch sử’ của TQ ở Biển Đông thì tại sao ở biển Hoa Đông, Hoàng Hải ngay ‘mặt tiền’ của TQ, hẳn là họ phải đi lại thường xuyên và lâu đời hơn lại không có ranh giới cho các ‘vùng biển lịch sử’27 dù chỉ một phần nhỏ diện tích của hai biển này Với sự vô lí như thế, ĐLB không thể nào tạo ra được một tiền lệ về ‘vùng biển lịch sử’ hay ‘quyền lịch sử’ ngoài lãnh hải, những khái niệm chỉ dành cho vùng biển gần bờ.

7.    Như nêu ở (iii) TQ không có một chủ trương chính thức rõ ràng về ĐLB. Có thể vì thế mà TQ chưa bao giờ xác định rõ TQ đòi hỏi điều gì với ĐLB. Ngay cả khi TQ chính thức công bố ĐLB thì chỉ kèm vào công hàm một bản đồ thô không có bất cứ giải thích nào thêm. Lưu ý rằng, ngay sau khi TQ nộp bản đồ, Indonesia cũng đã chính thức gửi công hàm cho LHQ phản bác bản đồ này nhưng TQ vẫn không lên tiếng. Họ cũng không dám chấp nhận thách thức các nước cùng nhờ Toà án quốc tế phân giải. Cũng có chứng cớ cho thấy TQ có vẻ đã ép các học giả của họ đưa ĐLB vào các bài báo khoa học gửi đăng trên các tạp chí quốc tế28 với ý đồ lợi dụng uy tín của các tạp chí này nhằm chính thức hoá bản đồ không hợp lẽ này. Nếu thật sự họ có một biên giới biển thì các công trình khoa học tương ứng của nước họ phải bao gồm toàn bộ vùng lãnh thổ đất liền và lãnh thổ trên cả ‘ba biển’ của họ chứ không phải chỉ một cái ‘lưỡi bò’ hở, lơ lửng ở một mình Biển Đông như trong bản đồ hình 4. Tất cả điều này có thể vừa là hậu quả vừa là chứng cớ của sự thiếu thốn về chủ trương nói trên. 

8.    Những tuyên bố theo từng thời gian của TQ cũng cho thấy sự bất nhất của họ trong tuyên bố chủ quyền:
Vào năm 1947 luật quốc tế chỉ cho phép lãnh hải 3 HL, cho nên nếu ĐLB là nhằm để đòi biển thì đó là một đòi hỏi phi pháp và không có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố lãnh hải 1958 của TQ đòi lãnh hải 12 HL,và công nhận bên ngoài đó là biển quốc tế. Vậy thì hà cớ gì lại đòi thêm nữa? Có phải là vừa tùy tiện vừa bất nhất?
TQ phê chuẩn UNCLOS, tức là chấp nhận bỏ những gì vi phạm UNCLOS. Đường lưỡi bò là một sản phẩm không có một lập luận nào liên quan UNCLOS cả. 

Tóm lại, bản đồ ‘lưỡi bò’ vốn là sản phẩm của cá nhân được nhà nước TQ thổi phồng thành của quốc gia nên họ không thê có đủ chứng lí để thuyết phục thế giới. Chính vì vậy, TQ luôn luôn luôn mập mờ về bản đồ này, lời nói và hành đông của họ mâu thuẫn và thiếu nhất quán với nhau và thậm chí họ dùng cả các thủ đoạn ma mãnh, cách thức vô nhân đạo như cấm đánh bắt cá, giết hại và xâm phạm ngư cụ ngư dân, thao dượt quân sự, cắm cờ đáy biển… để cố làm bản đồ này thành chính thức như đã phân tích bên trên. Vì vậy, bản đố ĐLB, dù phiên bản nào cũng đều không chính danh, không thuận nghĩa, không hợp lẽ và nhất là không đúng lí để làm cơ sở cho các tuyên bố chủ quyền của TQ. Chính TQ cũng đã thấy rõ sự vô lí của mình nên đã thú nhận và lơ lửng, lấp liếm trong bài trên mạng Hoàn cầu đã dẫn rằng “Mặc dù chính phủ Trung Quốc xưa nay chưa từng giải thích và thuyết minh gì về “đường 9 đoạn”, song đường này đã được các ban ngành của chính phủ Trung Quốc đề xuất và thẩm định, đã được đánh dấu trên bản đồ xuất bản chính thức, nên cần được coi là một lập trường và chủ trương nào đó của chính phủ Trung Quốc”  (người viết nhấn mạnh). Và đặc biệt trong công hàm 14/4/2011phản đối lại công hàm của Philippines phản đối đường 9 vạch, họ không đề cập gì nữa đến đường này mà chủ yếu chỉ dùng những khái niệm có trong UNCLOS. Tổng hợp lại, có thể khẳng định với độ chắc chắn cao rằng ĐLB không thể là cơ sở lịch sử hay pháp lí cho tuyên bố chủ quyền của TQ tại Biển Đông!

Bài viết này được các ý kiến đóng góp quý báu của Dương Danh Huy 
-----------------
Chú thích:
1. “Lion’s share” theo ngụ ngôn Aesop
2. Xem Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing), What China Exactly Claims in the South China Sea, Australian Royal Navy Sea Power Centre, April 2002 (TQ thực sự muốn gì trên Biển Đông): Vì các tuyên bố về đường chín vạch và vùng nước lịch sử không phù hợp với quy định của UNCLOS, dự kiến rằng TQ sẽ từ bỏ chúng trong những năm tới. Việc TQ bỏ các điều này sẽ có tác dụng như là một bước đột phá cho tiến trình dàn xếp tranh chấp.
3. Xem http://thongtinbiendong.blogspot.com/2011/10/thoa-thuan-viet-trung-ve-nhung-nguyen.html
4. Xem Marvin C. Ott Deep Danger: Competing Claims in the South China Sea, bản dịch tiếng Việt ở http://www.seasfoundation.org/articles/from-members/1434-yeu-sach-mau-thun--bin-ong-nhng-him-ha-khon-lng và tài liệu ờ chú thích 8.
5. Dĩ nhiên, đây chỉ là việc ‘cãi chày cãi cối’ như giáo sư Ngô Vĩnh Long nhận xét trong bài phỏng vấn ở http://www.viet-studies.info/kinhte/NgoVinhLong_VuongHanLinh_RFI.htm, vì một khi đã kí và phê chuẩn UNCLOS thì theo luật hiệp ước TQ phải điều chỉnh lại luật lệ và cách hành xử của mình cho phù hợp với hiệp ước.
6. Li Jinming & Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note, The School of Southeast Asian Studies Xiamen University Xiamen, Fujian, China, 2002.
7. Peter Kien-Hong Yu, The Chinese U-shaped line in the South China Sea: points, lines, and zones, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS), 2003
8. Xem Zou Keyuan, South China Sea Studies in China: Achievements, Constraints and Prospects, Singapore Year Book of International Law and Contributors, 2006.
9. Thật ra, sau khi Pháp thay mặt VN thực thi tiếp tục chủ quyền ở trên 9 đảo ở Trường Sa năm1933, TQ mở rộng lưỡi bò xuống tới giữa vĩ tuyến 7° và 9° bắc, xem tài liệu nói ở chú thích 10.
10. Theo Huang Yi and Wet Jingfen, "The Legal Status of the South China Sea," in Taiwan on the Move, edited by Jeh-hang Lai and George T. Yu (Taiwan: National Central University, October 1998), p. 213. Hè năm 1990 Bạch Mi Sơ được mời tới Bắc Kinh để giải thích lí do vẽ đường lưỡi bò. Khi đó ông ta đã trên 80 nên vì tuổi già ông ta không nói được chính xác lí do cho hành động của mình lúc đó. Tuy nhiên, ông ta có nói “daoyu guishu xian” (岛 屿 归 属 线 - đảo dữ quy thuộc tuyến – các đảo quy vào trong đường đó [thuộcTQ]).
11. Bài viết của 2 tác giả họ Lí nêu chính xác năm xuất bản là 1936 và cho biết đường này có dạng như đường biên giới nằm trong Bản đồ biên giới biển mở rộng phía Nam của Trung Quốc (海 疆 南 展 后 之 中国 全 图 - Haijiang nan zhan hou zhi Zhongguo quantu - Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ) và là bản đồ thứ hai trong tập bản đồ kiến thiết nói trên.
12. Xem http://www.nansha.org.cn/islandsdatabase/4/South_China_Sea_Islands_Names.html
13. Xem http://v.huanqiu.com/history/201107/20110701221442.shtml, bản dịch tiếng Việt “Nguyên do lịch sử và địa vị pháp lí của ‘đường 9 đoạn’”
14. Xem http://www.spratlys.org/maps/5.htm
15. Xem chú thích 12.
16. Xem Todd L. Kelly: Vietnam Claims to the Truong Sa Archipelago, University of Hawaii,1999. Bản dịch tiếng Việt ở http://seasfoundation.org/articles/from-members/1344-tuyen-b-ch-quyn-ca-vit-nam-i-vi-qun-o-trng-sa.
17. Xem Hydrographic Office, The Admiralti, The China Sea Directory, Vol. ii, [London: J. D. Potter, 1889], 83
18. Như chú thích 18.
19. Của các nước tiếp giáp với nó (Brunei, Indonesia, Malaya, Philippines, Việt Nam…) và của các nước thế giới từng có tàu bè qua lại trên đó (Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Mĩ, Nhật, Pháp…) từ lâu đời. Cũng xem Carlyle A. Thayer, South China Sea: A Commons for China Only?, YaleGlobal Online, 7 July 201, Bản dịch tiếng Việt: Biển Đông: Vùng biển chung dành riêng cho Trung Quốc!
20. Thật ra, Peter Kien-Hong Yu (chú thích 9) lại còn nêu ra quan điểm rằng các khoảng trống giữa các vạch của ‘lưỡi bò’ là các ‘khoảng trống để thở’ (breathing spaces) hay các ‘cổng vào’ (entrances) mà tàu bè có thể ra vào không cản trở, thậm chí còn đưa thêm ý tưởng đặt các trạm thu phí (toll booth) ở những chỗ đó nữa!
21. Xem Dana Dillon, Countering Beijing in The South China Sea, Policy Review, June-July 2011. Bản dịch tiếng Việt Đối phó với Bắc Kinh trong ở Biển Đông
22. Bản đồ các lô dầu của CNOOC (Công ti quốc gia dâu khí ngoài khơi TQ) năm 2010, 2011 cũng có vạch bao ngoài Đài Loan nửa vời gần giống bản đố của google, xem http://en.cnooc.com.cn/data/upload/month_201105/Coordinatesen_czxmgr.jpg và http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2010-05-07/english/301292.html
23. 9 vạch cũ có vạch cách đảo Hải Nam cả ngàn hải lí hoặc các đảo TQ tuyên bố có chủ quyền hàng trăm hải lí trong khi 2 vạch mới chỉ các Đài Loan vài chục hải lí.
24. TQ cho rằng họ không những có quyền về kinh tế mà cả quyền tài phán trên EEZ, thực tế là coi EEZ như lãnh hải của họ.
25. Điều 1 trong Tuyên bố lãnh hải của TQ 1958 có nêu “…và các đảo khác của TQ ngăn cách với đất liền bởi các vùng biển công.” Xem http://www.state.gov/documents/organization/58832.pdf.
26. Xem Cát Quốc Hưng (Ji Guoxing): “TQ thực sự muốn gì trên Biển Đông” hoặc M.. Taylor Fravel, “China‘s Behavior in Its Territorial Disputes: Past, Present, and Future” hoặc Zou Keyuan, "Chinese Traditional Martime Boundary Line in the South China Sea: Legal Implications for the Spratly Islands Dispute," EAI Background Brief no. 14 (Singapore), 7 May 1998, p.2.
27. Thật ra, trong tuyên bố lãnh hải năm 1958, TQ cũng có nêu vịnh Bột Hải (gần như một vịnh kín vây bọc bởi bán đảo Liêu Đông ăn thông với Hoàng Hải bằng eo biển Bột Hải) và eo biển Quỳnh Châu (phần nằm giữa bờ nam bán đảo Lôi Châu của tỉnh Quảng Đông và bờ bắc đảo Hải Nam) là các vùng biển lịch sử của họ. Điều này hầu như không gây ra sự phản đối của cộng đồng quốc tế do vị trí tương đối hợp lí của chúng và trong UNCLOS cũng có khái niệm ‘vịnh lịch sử’ (historic bay).
28. Xem David Cyranoski http://www.nature.com/news/2011/111019/full/478293a.html (The Nature). Bản dịch tiếng Việt “Khi khoa học trở thành công cụ tuyên truyền”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=110&CategoryID=36&News=452
29. Xem chú thích 15.