Saturday, June 21, 2014

Trung Quốc cấy đảo trong vùng biển tranh chấp để củng cố yêu sách của mình

Trung Quốc cấy đảo trong vùng biển tranh chấp để củng cố yêu sách của mình
(Bài đã đăng trên Tia Sáng ngày 10/06/2014)
Theo The New York Times
Edward Wong và Jonathan Ansfield

 

Ảnh thám sát của Philippines cho thấy Trung Quốc đã và đang chuyển cát tới các rạn san hô và bãi cát ngầm để làm tăng thêm một số đảo mới cho quần đảo Trường Sa (ảnh bên), trong cái mà các quan chức ngoại giao gọi là một nỗ lực mới để mở rộng dấu chân của Trung Quốc ở biển Đông.

Các quan chức này nói rằng các đảo đó sẽ có thể cho phép dựng các tòa nhà lớn, thiết bị giám sát, kể cả radar và việc cư trú của con người.

Việc xây dựng đảo đã báo động Việt Nam, Philippines và các nước Đông Nam Á khác cũng có yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Từ tháng 4, Philippines đã đưa đơn phản đối việc TQ cải tạo đất tại hai rạn san hô. Tháng này, Tổng thống Philippines, Benigno S. Aquino III, chỉ trích các di chuyển của tàu TQ mà ông nói có thể dính dáng vào việc xây dựng đảo tại hai địa điểm khác.



Hành động của TQ cũng làm các quan chức cấp cao của Hoa Kì lo ngại. Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel trách TQ về "các hoạt động cải tạo đất tại nhiều địa điểm" trong biển Đông tại một hội nghị an ninh gây tranh cãi ở Singapore vào cuối tháng 5.

Những người chỉ trích nói rằng các đảo này sẽ cho phép TQ đặt các trạm công nghệ giám sát và tiếp tế tốt hơn cho các tàu của chính phủ. Một số nhà phân tích nói rằng quân đội TQ đang nhắm đến một bàn đạp trong quần đảo Trường Sa như là một phần của chiến lược dài hạn triển khai sức mạnh xuyên suốt Tây Thái Bình Dương.

Từ tháng Giêng năm 2014, TQ đã xây dựng ba hoặc bốn đảo, dự đoán là khoảng 20-40 acre (1 acre ≈ 4048 m²) mỗi đảo, một quan chức phương Tây cho biết. Ông nói thêm rằng dường như có ít nhất một cơ sở dành cho mục đích quân sự, và các đảo mới này có thể được sử dụng để tiếp tế cho tàu bè, kể cả các tàu tuần tra biển của TQ.
Có lẽ cũng quan trọng không kém, các đảo mới này có thể cho phép TQ yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí cho mỗi đảo, điều này được quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Philippines đã lập luận tại tòa án quốc tế rằng TQ chỉ chiếm đóng các đảo đá và rạn san hô chứ không phải các đảo thực sự có đủ tiêu chuẩn hưởng vùng đặc quyền kinh tế.


"Bằng cách tạo ra dáng vẻ của một đảo, TQ có thể đang tìm cách tăng cường giá trị các yêu sách của mình," M. Taylor Fravel, một nhà khoa học chính trị tại Viện Công nghệ Massachusetts nói.

TQ nói rằng họ có quyền xây dựng trong quần đảo Trường Sa vì đó là lãnh thổ của TQ. "TQ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa", phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao, Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) nói hồi tháng trước, dùng tên tiếng Trung cho quần đảo Trường Sa. Các quan chức TQ cũng cho rằng Việt Nam và Philippines đã xây dựng nhiều kiến trúc trong khu vực tranh chấp hơn TQ, vì vậy TQ cũng tự do theo đuổi các dự án của mình.

Nhưng các nhà phân tích lưu ý rằng các nước kia không xây dựng đảo, mà nói chung họ chỉ dựng các kiến trúc trước năm 2002, năm TQ và 9 nước Đông Nam Á kí Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông. Một điều khoản trong Tuyên bố này nói rằng các bên phải "thực hành tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động" có thể làm leo thang căng thẳng và phải ngưng đưa người tới sinh sống ở bất kì thể địa lí nào đang không có người ở.

Mặc dù thỏa thuận này là không ràng buộc và không nói rõ ra là cấm xây dựng trên các đảo hoặc tạo ra những đảo mới, một số nhà phân tích nói rằng các hoạt động này cũng bao hàm trong đó.

"Họ đang làm thay đổi hiện trạng," Carlyle A. Thayer, giáo sư danh dự về chính trị tại Đại học New South Wales ở Australia nói. "Họ chỉ làm tăng căng thẳng."

Từ tháng Giêng năm 2014, TQ đã xây dựng ba hoặc bốn đảo, dự đoán là khoảng 20-40 acre (1 acre ≈ 4048 m²) mỗi đảo, một quan chức phương Tây cho biết. Ông nói thêm rằng dường như có ít nhất một cơ sở dành cho mục đích quân sự, và các đảo mới này có thể được sử dụng để tiếp tế cho tàu bè, kể cả các tàu tuần tra biển của TQ.

Tháng trước, các bản phác kĩ thuật số của các cấu trúc dự kiến cho quần đảo Trường Sa được lưu hành trên các trang web tin tức của TQ, kể cả trên trang thời báo Hoàn Cầu (Global Times), tờ báo trực thuộc tờ Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản. Các bản phác thảo, dưới nhãn là một nghiên cứu, cho thấy một đảo mới với các bến chuyển hàng, bãi đỗ xe và một sân bay với đường băng, máy bay và nhà chứa máy bay.
Tháng trước, TQ khiến khu vực và Washington báo động khi một công ti dầu nhà nước đặt giàn khoan dầu thăm dò ở về phía bắc trong vùng biển Đông, cạnh quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp gần Việt Nam. Giàn khoan kích động xung đột ngoại giao và các cuộc biểu tình bạo lực chống TQ tại Việt Nam.


Nhưng việc xây dựng đảo "thì lớn hơn giàn khoan dầu nhiều", một quan chức phương Tây, đề nghị giấu tên để tránh các cuộc thảo luận ngoại giao khó chịu nói. "Những đảo này mọc ra rồi nằm luôn ở đấy."

Các quan chức nói rằng đá Gạc Ma (Johnson South Reef), nơi TQ chiếm lấy vào năm 1988, là chỗ phát triển nhất trong quần đảo này cho đến nay. "Bây giờ đó là đảo Gạc Ma; không còn là đá Gạc Ma nữa", quan chức phương Tây nói. Các quan chức Philippines công bố không ảnh hồi tháng trước cho thấy nhiều kiến trúc và một con tàu lớn.

Lê Hải Bình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, cho biết trong một tuyên bố bằng email rằng Việt Nam có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và rằng "TQ đã và đang thực hiện các hoạt động mở rộng và xây dựng bất hợp pháp" xung quanh đá Gạc Ma và các địa điểm khác thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Ông nói Việt Nam yêu cầu TQ "ngưng ngay lập tức các hoạt động mở rộng và xây dựng bất hợp pháp" trên rạn san hô này và "rút tàu và các phương tiện ra khỏi khu vực đó."

Quần đảo Trường Sa bao gồm hàng trăm rạn san hô, đá, bãi cát và đảo san hô nhỏ trải rộng trên 160 000 dặm vuông. Sáu chính phủ có yêu sách chồng lấn trong khu vực. TQ và Việt Nam cũng có yêu sách chủ quyền mâu thuẫn đối với quần đảo Hoàng Sa, ở khu vựcchỗ giàn khoan dầu TQ đang đặt. Cả hai khu vực đều có nhiều hải sản và trữ lượng lớn dầu mỏ và khí đốt.

Kim Xán Vinh (Jin Canrong), giáo sư nghiên cứu quốc tế tại Đại học Nhân Dân TQ, cho biết ông tin rằng việc xây dựng trên đá Gạc Ma là "một thử nghiệm kỹ thuật, để xem những điều như thế có thể được thực hiện hay không." Ông nói nếu TQ muốn thử xây dựng đảo trên quy mô lớn hơn thì một lựa chọn hợp lí sẽ là đá Chữ Thập, khoảng 90 dặm về phía tây đá Gạc Ma.

Tháng trước, các bản phác kĩ thuật số của các cấu trúc dự kiến cho quần đảo Trường Sa được lưu hành trên các trang web tin tức của TQ, kể cả trên trang thời báo Hoàn Cầu (Global Times), tờ báo trực thuộc tờ Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản. Các bản phác thảo, dưới nhãn là một nghiên cứu, cho thấy một đảo mới với các bến chuyển hàng, bãi đỗ xe và một sân bay với đường băng, máy bay và nhà chứa máy bay. Các bài báo cho biết những ảnh này có nguồn từ Công ti Kĩ thuật đóng tàu NDRI tại Thượng Hải. Khi được hỏi về những bản phác thảo qua điện thoại, một phụ nữ tại công ti này cho biết các ảnh này "rất nhạy cảm" và đã bị rút xuống khỏi trang web của công ti. Cô ta từ chối bình luận thêm.

Ngô Sĩ Tồn (Wu Shicun), chủ tịch Viện Nghiên cứu biển Đông, một nhóm nghiên cứu liên kết với chính phủ trên đảo Hải Nam, cho biết TQ xây dựng chủ yếu với ý định tăng cường quản lí thủy sản và năng lực cứu trợ nhân đạo của nước này, chứ không nhằm mục đích quân sự.

"Các cơ sở của chúng tôi còn tệ hơn nhiều so với Philippines lẫn Việt Nam", ông nói. "Bạn thấy rằng Việt Nam thậm chí còn có cả một sân bóng đá nữa." Lính hải quân Việt Nam và Philippines chơi bóng đá trong ngày 08 tháng 6 trên đảo Song Tử Tây (Southwest Cay), đảo này do Việt Nam kiểm soát. Ông Tồn nói “Điều này rõ ràng có nghĩa là chọc giận TQ".

Christopher K. Johnson, nhà phân tích chính về TQ tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, nói rằng các động thái gần đây của TQ một phần là để bù đắp cho thực tế rằng trong hơn một thập kỉ quân đội TQ tập trung chủ yếu vào Đài Loan trong khi Việt Nam và Philippines phát triển các cơ sở trên bãi ngầm và các rạn san hô mà họ kiểm soát. Ông cho biết các quan chức quân đội TQ đã nói trong những năm gần đây về việc xây dựng một lực lượng hải quân có thể hoạt động xa hơn cái thường được gọi là "chuỗi đảo thứ nhất" (những đảo gần với đất liền châu Á bao gồm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) để thâm nhập vào "chuỗi đảo thứ hai", bao gồm Guam và các vùng lãnh thổ xa hơn khác về phía đông

Tuesday, June 17, 2014

Giàn khoan 981 không nằm trong vùng biển Việt Nam?

Giàn khoan 981 không nằm trong vùng biển Việt Nam?

(Bài đã đăng trên Boxit Viet Nam ngày 17/06/2014 và trên Dân Luận ngày 18/06/2014)

Ngày 08/06/2014, trang web của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đăng bài “Giàn khoan 981 tiến hành hoạt động tác nghiệp: Hành vi khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc”[1] nhằm biện hộ cho hành động ngang ngược của mình đồng thời vu cáo Việt Nam trước công luận thế giới. Bài viết đó đưa ra nhiều luận điểm sai trái, nhưng trước mắt chúng tôi chỉ tập trung phân tích luận điểm chính trong mục III cho rằng khu vực đặt giàn khoan không thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của VN.

Cụ thể là theo Bộ Ngoại giao TQ “Giữa quần đảo Tây Sa của Trung Quốc và bờ biển Việt Nam tồn tại vấn đề phân định ranh giới, cho đến thời điểm này, hai bên vẫn chưa phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại vùng biển này. Hai bên đều có quyền đưa ra chủ trương về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Song, bất cứ phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.”

Mặc dù Việt Nam có nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lí để chứng minh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (mà TQ gọi là Tây Sa) nhưng để thấy lập luận của Bộ Ngoại giao TQ sai trái, bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế đến mức nào tạm thời thử giả định quần đảo Hoàng Sa (HS) là của TQ như họ nói. Sau đó, thử xét việc phân giới giữa HS và bờ biển VN theo luật lệ quốc tế xem có đúng là dù “phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam” hay không.

Cơ sở cho việc phân định sẽ là các điều khoản liên quan trong Công ước LHQ về luật biển (UNCLOS) mà cả TQ và VN đều là thành viên cũng như các án lệ quốc tế có liên quan.

Cơ sở từ UNCLOS là Điều 74 [83], đoạn 1 quy định:
“Việc phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế [thềm lục địa] giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng (người viết nhấn mạnh).”

Để đi đến một giải pháp công bằng theo quy định này phải xét đến nhiều yếu tố, điều kiện cụ thể liên quan đến độ dài và hình dạng bờ biển, vị trí và tính chất các đảo, vấn đề kinh tế-xã hội, an ninh, tài nguyên… Tập quán quốc tế và nhiều án lệ từ trước tới nay thường dùng độ dài bờ biển tương ứng làm tiêu chuẩn chính để kiểm tra và điều chỉnh cho tính công bằng. Theo đó, đường phân giới thường là trung tuyến [cách đều] có điều chỉnh theo tỉ lệ thích hợp dựa trên độ dài hai bờ biển tương ứng (tỉ lệ khoảng cách từ điểm trên đường phân giới tới điểm cơ sở của đảo và tới điểm cơ sở của bờ biển đất liền bằng tỉ lệ điều chỉnh) và sau đó có thể tinh chỉnh theo các yếu tố thích đáng khác hay đơn giản hoá cho dễ thực hiện. Do độ dài bờ biển đất liền nói chung lớn nhiều lần so với độ dài bờ biển các đảo nhỏ nên tỉ lệ này thường nghiêng về bờ biển đất liền.

Thông lệ quốc tế cho ta nhiều ví dụ về việc điều này (các đảo chỉ được cho một phần hiệu lực hoặc thậm chí không có được hiệu lực) trong các hiệp định phân giới biển giữa Indonesia và Singapore, Iran và Qatar, Bahrain và Saudi Arabia, Iran và the United Arab Emirates, Canada và Denmark (Greenland).[2] Đặc biệt, hiệp định phân giới vịnh Bắc Bộ năm 2000, chính TQ cũng thoả thuận với VN chỉ cho đảo Bạch Long Vĩ của VN một phần tư hiệu lực. (Xem H.1)

H.1: Đảo Bạch Long Vĩ được hưởng khoảng ¼ hiệu lực (tỉ lệ 15 hl:55hl ≈ 1:3,7)

Đối với các vụ đã đưa ra toà án quốc tế xảy ra trước UNCLOS hoặc trước khi UNCLOS có hiệu lực thì cũng cho ta nhiều ví dụ. Vụ Tunisia - Libya năm 1982 thì đảo Kerkennah (180 km², 15 000 dân) chỉ được cho một phần hiệu lực do có kích thước nhỏ so với bờ biển của Lybya. Vụ Libya - Malta năm 1985, đảo chính của Malta (122 km², 350 000 dân) cũng chỉ được cho nửa hiệu lực. Vụ Pháp - Anh năm 1977, trong 48 đảo/đá của quần đảo Scilly thì trọng tài chỉ cho 6 đảo có người ở phân nửa hiệu lực và đặc biệt là các đảo/đá nằm sai phía của trung tuyến không ảnh hưởng đến việc phân giới... Đặc biệt, vụ Nicaragua - Colombia sau khi UNCLOS có hiệu lực, mới được phân xử vào năm 2012 khá tương tự với trường hợp HS của VN thì Toà trọng tài dùng tỉ lệ 1:3[3] (xem H.2). Tuy nhiên, trước nhất lưu ý rằng trong vụ này quần đảo San Andrés, Providencia và Santa hoàn toàn thuộc Colombia, không có vấn đề tranh chấp chủ quyền. Hơn nữa, đó là một quần đảo lớn có diện tích đất tổng cộng khoảng 52,5 km² và cư dân tại chỗ hơn 75 ngàn người.[4] Dù vậy, chỉ các đảo lớn thoả đúng định nghĩa ở điều 121 UNCLOS như Providencia / Santa Catalina (18 km²), San Andrés (26 km²), Albuquerque mới được Toà trọng tài xem xét tới EEZ với tư cách từng đảo riêng. Các điểm cơ sở đều nằm trên các đảo này, không có điểm cơ sở nào trên các thể địa lí không phải là đảo theo nghĩa của UNCLOS như bãi Quitasueño hoặc đảo [đá] Serrana… Hoàn toàn không có đường cơ sở thẳng chung lạ lùng như TQ tự vẽ cho HS để làm cơ sở cho việc phân định ranh giới biển. Ngay cả trong vụ Qatar – Bahrain năm 2002, dù Bahrain trên thực tế là một quần đảo vốn được phép có đường cơ sở thẳng theo UNCLOS[5] nhưng toà vẫn không chấp nhập đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo đá của quần đảo. Lí do là vì Bahrain đã không đưa vào hồ sơ của mình.

Trong khi đó, HS có chủ quyền đang tranh chấp (thuộc VN nhưng đang bị TQ kiểm soát) chỉ gồm những đảo/ đá nhỏ rải rác với diện tích đất tổng cộng chỉ khoảng 7,75 km² (bé hơn quần đảo San Andrés, Providencia và Santa khoảng 7 lần) còn cư dân thì chỉ độ 1 000 người do TQ đưa tới để thể hiện chủ quyền như chính Tiêu Tiệp (Xiao Jie/肖捷), Thị trưởng Tam Sa thú nhận "Ở đây không có đất trồng trọt. Mục tiêu chính là để bảo vệ chủ quyền trên biển của đất nước chúng tôi."[6] Đặc biệt lưu ý rằng TQ không phải là nước quần đảo và trong quần đảo HS may ra chỉ có đảo Phú Lâm mới có thể là đảo không phải đảo đá theo điều 121 UNCLOS[7]. Như vậy, ngay cả khi giả định TQ có chủ quyền đối với HS là đúng thì so với những điều vừa trình bày, khó có thể có toà án quốc tế nào chấp nhận đường cơ sở thẳng mà TQ tự vẽ cho HS. Do đó, dù vị trí giàn khoan có gần với đường đó bao nhiêu cũng đều vô nghĩa.

H. 2: Đường phân giới (màu đỏ) giữa quần đảo San Andrés, Providencia và Santa Nicaragua được điều chỉnh theo tỉ lệ 1:3 và được đơn giản hoá chứ không phải là trung tuyến [cách đều]
Hai đảo [đá] Quitasueño Serrana chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lí

Nếu vận dụng luật pháp và thông lệ quốc tế như vừa trình bày vào từng đảo cụ thể thì cũng chẳng cải thiện thêm điều gì về giá trị của tuyên bố nói trên của TQ. Trước nhất, hãy xét đảo Tri Tôn là đảo gần giàn khoan nhất. Theo những nghiên cứu về địa pháp lí thì đảo Tri Tôn không thể là một đảo theo điều 121 UNCLOS mà chỉ là đảo đá. Do đó, nó chỉ có lãnh hải 12 hải lí, không được hưởng EEZ lẫn thềm lục địa . Do đó, dù giàn khoan 981 ở gần đảo Tri Tôn (17 hải lí và 25 hải lí), nó vẫn nằm ngoài vùng biển mà đảo này có thể được hưởng theo UNCLOS, tức là vẫn nằm trong EEZ của VN (xem H.3)
Ngoài đảo này ra, trong quần đảo HS chỉ có đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 2,13 km² (tính luôn phần TQ mới mở rộng thêm) là có khả năng tạm coi là một đảo theo UNCLOS như đã nêu. Tuy nhiên, nếu chú ý tới tỉ lệ khoảng cách từ vị trí giàn khoan 981 tới bờ biển VN và tới đảo này là 103 hl:132 hl (≈1:1,3) và 88 hl:153 hl (≈1:1,74) thì hai tỉ lệ này quá lớn so với tỉ lệ 1:3 trong vụ Nicaragua và Colombia vừa nêu. Đặc biệt 2 tỉ lệ này cũng lớn hơn nhiều so tỉ lệ điều chỉnh 15 hl:55 hl (≈1:3.7)[8] dành cho đảo Bạch Long Vĩ (có diện tích tương đương với Phú Lâm và nhất là thoả mản chế độ đảo của theo điều 121 UNCLOS) mà VN và TQ đã thoả thuận năm 2000. [9] Ngoài ra, đáng lưu ý rằng đảo Phú Lâm không có nước ngọt, phải nhờ vào việc tích trữ nước mưa và nước ngọt đưa từ Hải Nam tới để sinh hoạt[10] cùng với điều kiện đất trồng thiếu thốn và cư dân tạm bợ như thị trưởng Tam Sa thú nhận như đã nêu. Do đó, khó có cơ sở để cho rằng nó có thể ‘duy trì được sự cư trú của con người và có đời sống kinh tế riêng’ để được hưởng quy chế đảo như quy định trong điều 121 UNCLOS như chúng ta giả định. Như vậy, khá chắn chắn để nói rằng theo UNCLOS, tập quán và các án lệ quốc tế thì chỗ TQ đặt giàn khoan 981 (trước và sau) đều nằm trong EEZ của VN.

H.3: tỉ lệ khoảng cách từ 981 đến Phú Lâm và đến bờ biển đất liền VN 88:153 (hay tới đảo Lí Sơn 88:141) khó cho phép giàn khoan nằm trong EEZ, nếu có của đảo Phú Lâm.

Theo phân tích trên, rõ ràng TQ đã hết sức hồ đồ khi nói rằng dù “phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.” Họ đã hoàn toàn phớt lờ luật pháp, thông lệ quốc tế và ngay cả luật pháp của chính họ[11]. Nếu TQ tin chắc rằng câu phát biểu này là đúng thì hãy rút lại tuyên bố ngày 25/8/2006 vể việc không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp theo quy định của điều 298 UNCLOS[12], gác vấn đề chủ quyền để giải quyết sau và cùng VN ra toà án quốc tế nhờ phân xử về hiệu lực của quần đảo HS để làm sáng tỏ ‘chính nghĩa’ của mình. Liệu TQ có dám thực hiện điều này không?

Phan Văn Song (CTV Quỹ NCBĐ)
Bài viết được sự góp ý của Dương Danh Huy (TV Quỹ NCBĐ)





[1] Xem BNG TQ http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1163264.shtml (tiếng Anh) hoặc Tiếng hát hữu nghị http://vietnamese.cri.cn/481/2014/06/09/1s199588.htm (tiếng Việt)
[2] Xem Jayewardene, Hiran W. The Regime of Islands in International Law, Dordrecht: Martinus Nijhoff (1990).
[3] Tỉ lệ độ dài bờ biển tương ứng là 65 km:531 km ≈ 1:8,2. Các thể địa lí ở HS đều nhỏ hơn nhiều và chỉ có một số ít có thể được tính nên tỉ lệ bờ biển của HS với độ dài bờ biển VN tương ứng có nhiều khả năng cũng không chênh lệch lớn với tỉ lệ này.
[5] Theo điều 47 UNCLOS thì các quốc gia quần đảo như Philippines, Indonesia… có thể vẽ đường cơ sở thẳng cho quần đảo.
[6] Xem Geoff A. Dyer, “A line with nine dashes” http://www.viet-studies.info/kinhte/LineWithNineDashes_Dyer.htm,  bản dịch tiếng Việt ở đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7384
[7] Điều 121 Công ước LHQ về Luật biển quy định về Chế độ đảo như sau:
1.        Đảo (island) là một vùng đất hình thành tự nhiên có nước bao bọc xung quanh, nổi trên mặt nước khi triều cao.
2.        Ngoại trừ [trường hợp] như quy định trong điểm 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo được xác định theo đúng các quy định trong Công ước cho lãnh thổ đất liền khác.
3.         Đảo đá (rock) không thích hợp cho việc cư trú của con người và không có đời sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa..
[8] Theo các thông tin chính thức đảo Bạch Long Vĩ được 25% hiệu lực hay tỉ lệ điều chỉnh là 1:3 (có thể do đo đạc chưa thật chính xác hoặc muốn cho thấy rằng thoả thuận này là khá công bằng).
[9] Nếu dùng khoảng cách từ giàn khoan tới đảo Lí Sơn (như trong vụ Nicaragua và Colombia) thì các tỉ lệ có được còn lớn hơn nhiều nữa (103 hl:119 hl ≈ 1:1,15 và .88 hl:141 hl ≈  1:1,6).
[10] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Woody_Island_(South_China_Sea) (phần Ecology and resources).
[11] Đoạn 3 Điều 2 của luật trong luật về EEZ và CS của TQ năm 1998 nêu: “Các yêu sách mâu thuẫn liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề sẽ được giải quyết, trên cơ sở luật pháp quốc tếphù hợp với các nguyên tắc công bằng (người viết nhấn mạnh), bởi một hiệp định phân định cho các khu vực yêu sách đó.”

Sunday, June 15, 2014

Những toan tính mới của Trung Quốc ở biển Đông

Những toan tính mới của Trung Quốc ở biển Đông


(bài đã đăng trên Thanh Niên 16/06/2014)

Trong những tháng gần đây, hành động đơn phương của Trung Quốc khẳng định yêu sách chủ quyền trong biển Đông đã đưa căng thẳng khu vực lên tầm cao mới. Động thái có tính toán này của Trung Quốc được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.

Những toan tính mới của Trung Quốc ở biển Đông
Giàn khoan Hải dương Thạch du -981 (Haiyang-Shiyou-981) hạ đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam - Ảnh: Reuters
Chúng bao gồm cả việc nâng cao uy tín và quyền lực của chủ tịch Tập Cận Bình cho chương trình cải cách trong nước của ông, cùng với giả định rằng rất ít có khả năng Hoa Kỳ sẽ can thiệp đúng lúc vào thời điểm này.
Khác với các hành động công khai khẳng định chủ quyền ở biển Đông, các tuyên bố chính thức và phân tích nghiên cứu pháp lí từ bên trong Trung Quốc cũng phản ánh một quyết tâm được hiệu chỉnh nhằm duy trì đường chín đoạn đầy tranh cãi của họ ở biển Đông.
Theo góc nhìn của Trung Quốc, cách giải thích minh bạch và trực tiếp nhất cho sự quyết đoán gia tăng của Trung Quốc ở biển Đông là đơn giản: Trung Quốc tin rằng việc họ đơn phương kiềm chế trong quá khứ chẳng giúp cải thiện vị trí của họ trong tranh chấp ở biển Đông và thực tế việc họ không hành động đã khiến các bên tranh chấp khác tăng cường hiện diện và yêu sách.
Vì vậy, đối với Trung Quốc để cải thiện vị trí của mình trong tình thế hiện tại hoặc cho các đàm phán trong tương lai, trước nhất họ phải thay đổi hiện trạng (status quo) bằng mọi phương tiện cần thiết sẵn có.
Trung Quốc muốn dùng phương thức dân sự và bán quân sự hơn nhưng cũng không loại bỏ hành động cưỡng chế quân sự nếu cần. Vị thế thuận lợi và đặc quyền nhất định ở biển Đông đều được cho là điều không thể thiếu cho khát vọng trở thành một "cường quốc hải quân lớn", một "nhiệm vụ then chốt" của Trung Quốc được Đại hội Đảng lần thứ 18 vào năm 2012 vạch ra và là một chính sách do chinh Tập Cận Bình chuẩn nhận.
Trong khi khát vọng về một "Hải quân biển xanh" (hải quân có khả năng hoạt đông ở vùng biển sâu khắp các đại dương - ND) và mở rộng hải quân của Trung Quốc phải đối mặt với nhiều điểm nghẹn dọc theo bờ biển phía đông từ Nhật Bản xuống tới Philippines, biển Đông được coi là nơi cung cấp cho Trung Quốc một khu vực biển lớn hơn nhiều và ít hạn chế hơn cho họ diễn tập hải quân.
Dù chính sách làm thay đổi hiện trạng và theo đuổi địa vị cường quốc hải quân đã xuất hiện trong một vài năm qua, việc định lịch cụ thể cho các hành động gần đây nhất của Trung Quốc có liên quan chặt chẽ với chính trị nội bộ Trung Quốc - Chủ tịch Tập Cận Bình cần một tư thế đối ngoại mạnh để tăng quyền lực trong nước của mình.
Chương trình cải cách đang tiếp diễn của Tập Cận Bình kể từ khi nhậm chức vào năm 2013, bao gồm "cải cách kinh tế sâu sắc" và một chiến dịch "chống tham nhũng" mạnh mẽ, đã đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm liên quan đến các nhóm lợi ích hiện có và chính trị lãnh đạo ở Trung Quốc.
Vì vậy, Tập Cận Bình cần càng nhiều uy tín trong chính sách đối ngoại càng tốt để xây dựng hình ảnh của một người hùng và xoa dịu những lời chỉ trích nội bộ về các chương trình trong nước khác nhau của ông. Điều này không hẳn gợi ra hoặc cho thấy bản thân Tập Cận Bình không chấp nhận một chính sách đối ngoại quyết đoán, nhưng chắc chắn đã có phần tác động mạnh mẽ vào nội dung ngoại trị của ông ta.
Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, Trung Quốc đang hành xử quyết đoán ở Biển Đông vì họ tin rằng họ có thể làm như vậy. Đánh giá này không chỉ dựa trên năng lực  quân sự đang tăng của Trung Quốc vốn làm thấp xuống năng lực quân sự của tất cả các nước  Đông Nam Á có yêu sách khác gộp lại, mà còn dựa vào một niềm tin mạnh mẽ của Trung Quốc rằng Hoa Kỳ sẽ không sử dụng sức mạnh cứng để chống lại các hành động của họ.
Trung Quốc đã theo dõi chặt chẽ sự do dự của Mĩ về việc can thiệp quân sự ở Syria, Ukraine, và rút ra kết luận rằng chính quyền Obama không muốn dính vào một cuộc xung đột quân sự. Họ tin tưởng mạnh mẽ rằng chính quyền Obama không mặn mà gì với di sản đối ngoại bao gồm một cuộc xung đột với Trung Quốc.
Khi phát ngôn như vậy, Trung Quốc không nhận ra sự khác biệt giữa Ukraina, vốn không phải là một thành viên của NATO, và Philippines, vốn là một đồng minh của Mĩ. Tuy nhiên, khi Trung Quốc nắm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough vào năm 2012, Hoa Kỳ đã không làm gì.
Hơn nữa, bà Phó Oánh (Fu Ying), Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Trung Quốc, chỉ ra gần đây tại hội nghị Shangri-La, tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam "không có dính dáng gì với Mĩ." Thông điệp hàm trong đó là Việt Nam thậm chí không phải là một đồng minh của Mĩ và khả năng can thiệp quân sự của Mĩ vì Việt Nam là rất xa vời, nếu không nói là không thể có.
Khác với việc thực hiện những hành động đơn phương để thay đổi hiện trạng, Trung Quốc cũng đang tăng cường các lập luận đằng sau "đường chín đoạn" đầy tranh cãi của họ ở biển Đông. Phó Tham mưu trưởng PLA, tướng Vương Quán Trung (Wang Guanzhong) đưa ra một lập luận chưa từng có gồm sáu điểm về tính hợp pháp của đường chín đoạn tại Đối thoại Shangri-La, một dấu hiệu rõ ràng về quyết tâm của Bắc Kinh nhằm duy trì yêu sách gây tranh cãi này.
Điều này trái ngược hẳn với một vài năm trước, lúc đó cộng đồng pháp lí và chính sách đối ngoại của TQ vẫn còn tranh luận về tính hợp lệ của đường chín đoạn. Bây giờ các nhà phân tích Trung Quốc gần như nhất trí cho rằng Bắc Kinh nên đơn phương bám chặt vào yêu sách gây tranh cãi này.
Trung Quốc hiểu rất rõ những mâu thuẫn giữa đường chín đoạn và công ước UNCLOS, và đã đầu tư đáng kể trong nghiên cứu pháp lí để chứng minh lập luận về "quyền lịch sử". Một số chuyên gia Trung Quốc đã tìm thấy cách biện minh trong chính UNCLOS, cho rằng công ước là "không rõ ràng" và "còn lửng lơ" về vấn đề danh nghĩa/sở hữu lịch sử. Vì vậy, theo quan điểm của họ, vấn đề quyền lịch sử chưa được giải quyết bởi UNCLOS và vẫn còn tiếp tục thảo luận mở.
Các chuyên gia Trung Quốc khác lại cho rằng đường chín đoạn sẽ không tìm thấy được chỗ dựa nào từ UNCLOS. Thay vào đó, họ cố gắng khai thác các cách biện minh khác vượt ra ngoài UNCLOS từ luật tập quán quốc tế hoặc quy tắc thông dụng khác.
Cả hai trường phái đều cho rằng vì đường chín đoạn có trước UNCLOS bốn thập kỉ và quyền lịch sử của Trung Quốc có trước UNCLOS còn lâu hơn nữa, do đó không thể áp dụng hồi tố UNCLOS áp đặt lên chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền quản trị biển của Trung Quốc đã được hình thành qua lịch sử.
Trung Quốc cũng đang cẩn thận cân nhắc sẽ yêu sách cái gì trong phạm vi đường chín đoạn. Lí do của "sự mập mờ chiến lược" cố ý của họ là rõ ràng: chừa ra khoảng trống và sự linh hoạt cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Hầu hết các nhà phân tích Trung Quốc có xu hướng coi vùng biển bên trong đường chín đoạn là vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, mặc dù chính phủ Trung Quốc vẫn chưa công khai xác nhận lập trường đó.
Nhiều người trong cộng đồng chính sách Trung Quốc hiểu rõ những điểm yếu của những lập luận pháp lý này. Tuy nhiên, có cách biện minh yếu nhưng hợp pháp vẫn tốt hơn là không có cách biện minh nào cả, đặc biệt là khi lập trường như vậy được sức mạnh quốc gia to lớn hậu thuẫn và sẵn sàng để sử dụng nó. Trong khi đó, họ cho rằng phí tổn về tai tiếng là kiểm soát được.
Trên thực tế, trong phân tích thiệt-hơn của Trung Quốc, những lợi ích thực sự của hành động cưỡng chế vượt trội hơn hẳn thiệt hại. Xét cho cùng, Trung Quốc có những cách khác (chủ yếu là kinh tế) để cải thiện quan hệ với Đông Nam Á trong khi yêu sách của họ ở biển Đông khó có thể đạt được thông qua bất kì phương pháp nào khác ngoài cưỡng chế.
Ngoài ra, Trung Quốc không chấp nhận cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của UNCLOS. Vì vậy, ngay cả khi tòa án quốc tế ủng hộ yêu sách của Philippines, Trung Quốc sẽ không chấp nhận kết quả và sẽ rất khó khăn, nếu không nói là hoàn toàn không thể, cho tòa án thực thi phán quyết của mình.
Dù những nước khác có thích hay không, Trung Quốc đang có được những gì họ muốn. Những phát triển mới trong tính toán và lập trường của Trung Quốc đáng được thông tỏ và ứng phó kịp thời từ các nước trong khu vực, đặc biệt là Hoa Kì.
Tôn Vận (Yun Sun) (*)
Phan Văn Song - Nguyển Thái Linh (dịch)
(*) Tôn Vận là một nhà nghiên cứu Đông Á tại Trung tâm Stimson, Mỹ

Thursday, June 12, 2014

“CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG”: Góp ý về việc giải thích

“CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG”: Góp ý về việc giải thích

Cao Huy Thuần
12-06-2014
Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Ngoại trưởng Chu Ân Lai ngày 14-9-1958 tạo lý lẽ pháp lý cho phía Trung Quốc để quả quyết rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Bắc Kinh trên Hoàng Sa và Trường Sa. Lý lẽ pháp lý căn bản để Việt Nam bác bỏ luận điệu của Trung Quốc là : nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có tư cách pháp lý để nhường cho Trung Quốc một quyền mà mình không có ở thời điểm 1958. Ở thời điểm ấy, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục lịch sử chiếm giữ từ bao đời và hành xử chủ quyền toàn vẹn trên hai đảo ấy. Lý lẽ rất xác đáng này, nhiều người đã nói rồi, tôi không nhắc lại ở đây nữa. Ở đây, tôi chỉ góp thêm chút ít ý về những vấn đề phụ, để bổ túc cho lý lẽ chính vừa nói ở trên.
Trước khi đi vào những chi tiết lịch sử và những lập luận pháp lý rườm rà, tôi bắt buộc phải làm cái chuyện rườm rà đầu tiên là đăng lại nguyên văn bức thư mà ngày nay người ta thường gọi là « công hàm Phạm Văn Đồng ». Bức thư rất đơn giản, nhưng chính vì đơn giản mà phải giải thích, hơn thua nhau trong vụ kiện là tùy thuộc lớn vào việc giải thích này. Tôi không dám làm công việc rất khó khăn này của luật sư chuyên nghiệp, đòi hỏi một kiến thức về học thuyết và án lệ quốc tế thấu đáo hơn, cập nhật hơn, chỉ xin nhắc lại là cốt góp thêm chút ý mà thôi. Góp thêm chút ý mà cũng đã khó khăn rồi, vì phía Trung Quốc còn đưa ra thêm nhiều bằng chứng khác, nào bản đồ của Bộ Quốc Phòng, của Phủ Thủ Tướng, nào báo Nhân Dân, nào sách giáo khoa, để làm vững chắc hơn nữa lý luận của họ. Mong rằng chính quyền Việt Nam thu thập được thêm bằng chứng để phản bác. Chỉ có chính quyền mới làm được việc này thôi. Không có trong tay những bằng chứng khác, lý luận duy nhất trên một « công hàm » là không đủ tý nào. Nhưng biết làm sao !
Đây là nguyên văn bức thư, và vấn đề pháp lý đặt ra là giải thích bức thư :
« Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ :
Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung-Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
   Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958 »
I. Theo ngôn ngữ của luật quốc tế, bức thư đó được gọi là một « hành vi đơn phương », tiếng Pháp là một « acte unilatéral ». Vấn đề pháp lý tổng quát đầu tiên đặt ra là : một hành vi đơn phương có giá trị pháp lý quốc tế không ? Có tính cách ràng buộc không ? Có phải là một nguồn gốc của luật quốc tế không ?
Điều 38 của Quy chế Tòa Án Tài phán quốc tế ghi rõ ba nguồn gốc : hiệp ước quốc tế, tập tục quốc tế, và những nguyên tắc luật pháp tổng quát được các nước văn minh chấp nhận. Ngoài ba nguồn gốc chính ấy, còn có thêm một nguồn gốc bổ túc thứ tư : các quyết định tài phán và học thuyết của các luật gia được công nhận là có thẩm quyền. Vậy, những « hành vi đơn phương » thì sao ? Điều 38 không nói, nhưng trong thực tế của đời sống quốc tế, các hành vi này càng ngày càng nhiều, càng đa dạng, cho nên rốt cuộc, án lệ cũng như học thuyết đều công nhận giá trị pháp lý. Trong 5 loại « hành vi đơn phương » được liệt kê, lời hứa là loại liên quan đến vấn đề đặt ra ở đây. Lời hứa là một cam kết đơn phương có hiệu lực ràng buộc tác giả của nó. Như vậy, đứng trên mặt lý thuyết tổng quát, phía Trung Quốc có lý do để buộc ta phải công nhận tính cách ràng buộc của « công hàm Phạm Văn Đồng ». Ta phản ứng thế nào ?
Trước hết, học thuyết buộc phải hiểu chữ « lời hứa » một cách hạn chế, phải siết chặt từ ấy một cách chính xác 1. Nghĩa là : phải định nghĩa chính xác thế nào là một lời hứa có giá trị pháp lý. Thế nào ? Học thuyết trả lời : đó phải là một lời hứa xuất phát từ một ý muốn tạo ra hậu quả pháp lý, chứ không phải chỉ là một lời tuyên bố hàm chứa một ý định chính trị 2. Làm sao phân biệt thế nào là « ý muốn tạo ra luật », thế nào là không phải ? Không thể có tiêu chuẩn tổng quát, mỗi hành vi đơn phương phải xét riêng từng trường hợp để giải thích. Và việc giải thích này tuân theo những nguyên tắc được áp dụng cho việc giải thích các hiệp ước, trong đó hai nguyên tắc chính là : phải thực lòng (bonne foi) và phải chú ý đến đối tượng và mục đích của hiệp ước. Thực lòng, nghĩa là phải tìm xem hai bên ký hiệp ước muốn nói gì thực sự. Đây là yếu tố tâm lý và đạo đức khó tìm vì nằm trong nội tâm. Cho nên phải làm sáng tỏ ra bằng cách tìm hiểu đối tượng và mục đích, nghĩa là những yếu tố bên ngoài dễ thấy hơn. Điều 31 và 32 của Công ước Vienne về việc giải thích hiệp ước nói rõ như thế : « Hiệp ước phải được giải thích theo thực lòng với nghĩa thông thường mà các từ trong đó thường được hiểu, và trong bối cảnh và ánh sáng của đối tượng và mục đích của hiệp ước » 3. Nhiều án lệ đã căn cứ trên nguyên tắc này.
Áp dụng nguyên tắc trên vào việc giải thích các hành vi đơn phương, học thuyết nhấn mạnh : phải tìm ý định của tác giả lời hứa, hơn thế nữa, phải đặt ưu tiên trên giải thích ít có hại nhất cho tác giả ấy 4.
Đó là nguyên tắc tổng quát. Còn về phương pháp giải thích, học thuyết cũng như án lệ đều nhấn mạnh trên sự cần thiết phải xét kỹ bối cảnh, ngữ cảnh, cho rằng đó là cách hiệu nghiệm nhất để tìm ra ý định thực sự 5. Án lệ đi rất xa trong phương pháp tìm kiếm này, đề nghị : 1. phải căn cứ trên toàn câu để giải thích một chữ trong đó ; 2. phải căn cứ trên nhiều đoạn để giải thích một điều khoản ; 3. phải căn cứ trên một phần của hiệp ước trong đó có điều khoản phải giải thích ; 4. phải căn cứ trên toàn thể hiệp ước ; 5. phải căn cứ trên lời mở đầu ; 6. phải căn cứ trên một loạt hiệp ước tùy thuộc lẫn nhau. Kể rườm rà như vậy để thấy rằng bối cảnh, ngữ cảnh là vô cùng cần thiết để tìm hiểu ý định thực sự, dù là để giải thích hiệp ước hay là để giải thích một hành vi đơn phương. Nhiều lần, án lệ của Tòa án Tài phán quốc tế thường trực, tiền thân của Tòa án Tài phán quốc tế hiện nay, đã chú trọng đến hậu trường, nghĩa là bối cảnh đằng sau của việc ký kết hiệp ước, về mặt pháp lý, chính trị, xã hội, đặt hiệp ước vào không khí của thuở soạn thảo, để nắm bắt thấu đáo hơn ý tưởng đầu tiên và khám phá ra những hoàn cảnh thực tế trong đó ý tưởng được bày tỏ 6.
Tòa án Tài phán quốc tế hiện tại cũng lấy cùng một thái độ như vậy. Hậu ý của hai bên ký kết hiệp ước hoặc những quan tâm chính trị của họ lắm khi cũng khác với mục đích nêu ra trên giấy tờ, nhất là khi hiệp ước có nội dung chính trị 7.
II. Vậy thì, áp dụng những quy tắc trên, hãy đặt « công hàm Phạm Văn Đồng » vào ngữ cảnh của bức thư và bối cảnh chính trị và lịch sử khi thư được gửi đi để giải thích mục đích và ý định thực sự của tác giả.
Trước hết là bối cảnh. Cho đến bây giờ, độc giả Việt Nam chỉ thấy thư của Phạm Văn Đồng đáp lại tuyên bố của Chu Ân Lai mà chẳng thấy tuyên bố của Trung Quốc là thế nào, tuy rằng đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa đầu tiên. Vậy, xin bắt đầu nói đến bối cảnh của tuyên bố ấy, về mặt pháp lý rồi về mặt chính trị, quân sự.
Về mặt pháp lý, cho đến khi thành lập Cộng Hòa năm 1911, Trung Hoa không có nhận định gì rõ ràng về vấn đề hải phận cũng như hải lý. Bắt đầu quan tâm thực sự đến vấn đề từ 1912, lập trường chính thức của Trung Hoa Dân Quốc vẫn là 3 hải lý. Phái đoàn Trung Hoa đề nghị 3 hải lý tại Hội nghị Hague về san định luật quốc tế năm 1930. Như ai có chút kiến thức về luật biển đều biết, ấn định hải phận là vấn đề nóng bỏng của luật quốc tế sau khi các nước trong Thế giới thứ ba bành trướng ảnh hưởng và xác nhận tư cách độc lập của mình. Nhiều nước, nhất là ở châu Mỹ La tinh, nới độ rộng của hải phận (tính từ bờ) một cách vô độ, có khi đến cả 200 hải lý. Theo chiều hướng đó, phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, trong buổi họp thứ 308 của Ủy Ban Luật quốc tế của LHQ, đòi nới độ rộng của hải phận ra 12 hải lý. Trớ trêu thay, đề nghị đó trái ngược với lập trường của Mỹ (3 hải lý) mà Trung Hoa là đồng minh, lại trùng hợp với lập trưởng của Liên Xô (12 hải lý) mà Trung Hoa là thù nghịch. Bị anh cả nhắc nhở, phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, trong buổi họp thứ 361 (1956) của Ủy Ban vừa nói, đề nghị một tu chính mềm dẻo về điều 3 của công ước đang soạn thảo :
« 1. Hải phận có thể do mỗi quốc gia cận bờ biển ấn định phù hợp với nhu cầu kinh tế và chiến lược trong giới hạn từ 3 đến 12 hải lý ; điều này phải được các quốc gia chủ trương một hải phận hẹp hơn chấp nhận.
2. Trong trường hợp bất đồng ý kiến, vấn đề sẽ được đưa ra trọng tài ».
Tu chính đó bị bác bỏ trong phiên họp lần thứ 363 (8-6-1956) với một tỷ số phiếu chống rất cao : 9 chống, 3 thuận, 2 không bỏ phiếu.
Vậy là trong lần họp năm 1956, vấn đề hải lý không được giải quyết. Ủy Ban kết luận một cách lừng khừng : « Luật quốc tế không cho phép nới rộng hải phận quá 12 hải lý ».
Hai năm sau, tại Hội nghị Genève về luật biển, họp từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1958, phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc không đưa ra một đề nghị nào nữa về hải phận. Trung Quốc lục địa không được mời tham dự, nhưng theo dõi rất kỹ. Bằng chứng là chỉ vài tháng sau, Bắc Kinh lấy một thái độ dứt khoát, trái ngược với Đài Loan.
Rườm rà như trên là để nhấn mạnh bối cảnh lịch sử quan trọng của năm 1958. Trước đó, ngay cả Trung Quốc cộng sản cũng không có lập trường rõ ràng về hải lý. Một quyển sách giáo khoa về hình luật xuất bản năm 1957 hãy còn nói một cách tổng quát rằng độ rộng của hải phận có thể là 3 hoặc 12 hải lý. Mãi cho đến đầu 1958, các tác giả Trung Quốc mới bắt đầu hoài nghi về sự khôn ngoan của quan điểm 3 hải lý chật hẹp. Chỉ bắt đầu từ đó, họ mới chỉ trích kịch liệt lập trường của Mỹ và Anh mà họ cho là « hoàn toàn vô căn cứ ». Nhưng đó là các bài viết của giới luật gia. Chính quyền Trung Quốc chưa có lập trường chính thức lúc Hội nghị Genève kết thúc.
Năm tháng sau, ngày 23 tháng 8 năm 1958, Trung Quốc thình lình mở một trận pháo kích dữ dội, với yểm trợ của không quân và hải quân, vào đảo Kim Môn do Đài Loan chiếm giữ, ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Mỹ trợ giúp hậu cần cho đồng minh bằng cách hộ tống các tàu tiếp tế của Đài Loan cho đến giới hạn 3 hải lý ngoài khơi Kim Môn. Ngày 4-9-1958, đài Bắc Kinh loan báo một « Tuyên Bố về hải phận Trung Quốc » nguyên văn như sau, chỉ trích những đoạn có liên quan đến vấn đề và dịch từ tiếng Anh :
« 1. Độ rộng của hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, gồm lục địa Trung Hoa và đảo cận bờ biển của lục địa, cũng như cho Đài Loan và các đảo bao quanh, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và tất cả các đảo khác thuộc về Trung Hoa mà đại dương chia cách khỏi lục địa và các đảo cận bờ biển của lục địa.
4 § 2. Vùng Đài Loan và Bành Hồ hãy còn bị Mỹ chiếm giữ bằng vũ lực. Đó là vi phạm bất hợp pháp sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan, Bành Hồ và những vùng khác như thế sẽ được thu hồi lại, và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền thu hồi những vùng ấy bằng mọi biện pháp thích hợp vào thời điểm thích hợp. Đây là nội bộ của Trung Quốc, không can thiệp nào ở bên ngoài được dung thứ ».
 Bản « Tuyên Bố » thâu trọn gói, đặt tất cả các đảo do Đài Loan chiếm giữ và Hoàng Sa, Trường Sa vào hải phận Trung Quốc. Mỹ bác bỏ việc gia tăng hải phận của Bắc Kinh, cho đó là « âm mưu che giấu những mục tiêu xâm lược ». Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ nhắc lại lập trường cố hữu của Mỹ, « đã có từ thời tổng thống Jefferson, và lập trường ấy là 3 hải lý ». Ngày 7-9-1958, hải quân Mỹ tiếp tục hộ tống như thế các tàu tiếp tế của Đài Loan. Bắc Kinh cảnh cáo nghiêm khắc : « một hành động như vậy, xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, là nguy hiểm ». Ngày 6-10, bộ trướng quốc phòng Bành Đức Hoài ra một công bố cho « đồng bào Đài Loan », cho biết Trung Quốc sẽ ngưng nã pháo trong một thời gian 7 ngày, với điều kiện Mỹ chấm dứt hộ tống tàu tiếp tế đến Kim Môn. Ngày 13-10, Trung Quốc gia hạn việc ngưng pháo kích thêm 2 tuần nữa. Ngày 20-10, hôm trước khi ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles viếng thăm Đài Bắc, Trung Quốc lại nã pháo, viện cớ Đài Loan cho phép hải quân Mỹ hộ tống vào « vùng biển » của Kim Môn. Sau đó, ngày 25-10, Bắc Kinh tuyên bố « ngưng chiến vào ngày chẵn ». Khủng hoảng dần dần kết thúc 8.
Cần nói thêm lý lẽ pháp lý mà Mỹ đã viện dẫn để bác bỏ « tuyên bố » của Trung Quốc, không phải vì có gì mới, mà là để thấy rằng các phản ứng tiếp theo quyết định của Bắc Kinh đều liên quan đến vấn đề 12 hải lý là chủ yếu. Trong một bài diễn văn đọc trước Hiệp hội luật sư ngày 20-11-1958, Phụ tá cố vấn pháp lý của Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao, ông Maurer, nói : « Huống nữa, Hoa Kỳ chủ trương rằng luật quốc tế chỉ thừa nhận giới hạn 3 hải lý; một quốc gia không thể bằng hành động đơn phương, quyết định đâu là sở hữu chung của tất cả mọi quốc gia ; điều đó lại còn vi phạm nguyên tắc đã được quốc tế công nhận về tự do lưu thông trên biển. Quan điểm của Hoa Kỳ đặt cơ sở trên báo cáo của Ủy Ban luật quốc tế của LHQ, báo cáo ấy nói rằng ‘luật quốc tế không đòi hỏi các quốc gia phải nhận một giới hạn hải phận vượt quá 3 hải lý’ » 9.
Cũng vậy, tiếp theo bác bỏ của Mỹ là bác bỏ của Bộ Ngoại giao Anh, cũng liên quan đến con số 12, chỉ sau Mỹ một ngày, ngày 6-9-1958. Xin nhắc lại một lần nữa : vấn đề nóng bỏng lúc đó là vấn đề 12 hải lý.
Phe tư bản phản ứng đi, tất nhiên phe cộng sản phản ứng lại. Như một tiếng dội. Như một luật chơi của chiến tranh lạnh. Và cũng trên vấn đề 12 hải lý. Liên Xô tức tốc gửi một công hàm đến Bắc Kinh, tuyên bố « hoàn toàn tôn trọng quyết định của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa » và « đã chỉ thị cho các cơ quan liên hệ của Liên Xô triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa » 10. Hãy so sánh ngữ văn này của Liên Xô với « công hàm Phạm Văn Đồng » : chữ nào chữ nấy gần như bản chính với bản sao. Đây là một điểm quan trọng góp phần vào việc giải thích bản văn của Hà Nội.
Tất cả những chi tiết rườm rà kể ra ở trên là cốt đưa đến mấy nhận xét sau:
1. Phải phân biệt cho rõ hai vấn đề mà Trung Quốc muốn cột vào với nhau nhưng bối cảnh của năm 1958 về luật biển buộc phải tách riêng ra : vấn đề hải phận và vấn đề chủ quyền. Vấn đề hải phận là pháp lý. Vấn đề chủ quyền là chính trị. Tranh chấp không giải quyết được tại Hội nghị Genève 1958 là tranh chấp trên vấn đề hải phận. Bác bỏ hay tán thành tuyên bố của Trung Quốc là bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý ấy, một chuyện pháp lý nóng bỏng vào thời buổi ấy. Không phải vì bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý là bắt buộc phải bao hàm việc bác bỏ hay tán thành cái chuyện chủ quyền — chuyện này ở bên lề, hạ hồi phân giải. Nguyên tắc giải thích một cách hạn chế, chặt chẽ, buộc phải gạt cái gì thừa thãi ra, cái thừa thãi ở đây là chủ quyền.
2. Nguyên tắc thực lòng cũng bắt buộc như vậy. Cái chuyện tranh chấp chủ quyền đã xảy ra từ 1909 về Hoàng Sa và từ những năm 1930 về Trường Sa. Sau thế chiến 1945, hễ có chính quyền là chính quyền nào ở Việt Nam cũng đều khẳng định hai quần đảo ấy là thuộc chủ quyền Việt Nam. Thủ tướng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại chẳng hạn đã long trọng tuyên bố như thế năm 1951 tại Hội nghị San Francisco11. Một chính quyền chưa hoàn toàn độc lập đối với Pháp mà còn cương quyết như thế, lẽ nào, thực lòng, một chính quyền đã hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền như chính quyền Phạm Văn Đồng, lại có thể từ khước chủ quyền một cách dễ dàng như vậy trong một bức thư ? Cả hai phía, Việt Nam và Trung Quốc, đều coi lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, làm sao, với thực lòng, có thể nghĩ rằng ý định thực sự của ông Phạm Văn Đồng là nhường đảo cho Trung Quốc ? Với thực lòng, làm sao phía Trung Quốc có thể đọc bức thư mà nghĩ rằng thế là xong, mọi tranh chấp chủ quyền gay go từ hơn một thế kỷ đã xóa sạch trong mấy hàng chữ của một bức thư ?
3. Thêm nữa, mới đây, phía Việt Nam viện dẫn Bị Vong Lục của Trung Quốc (12-5-1988) trong đó, sau khi lặp đi lặp lại luận điệu « Trung Quốc có đầy đủ tài liệu chứng minh quần đảo Tây Sa và Nam Sa từ xưa đến nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc », đã nói thêm rằng « với nguyên tắc thông qua hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, đã tỏ ý sau này có thể đàm phán ». Câu ấy là của chính miệng Đặng Tiểu Bình nói ra với bí thư thứ nhất Lê Duẩn khi ông Lê Duẩn thăm viếng Bắc Kinh ngày 14 tháng 9 năm 1975. Phía Việt Nam nói rõ : năm 1958, Đặng Tiểu Bình là bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn to hơn cả Chu Ân Lai, biết rõ sự việc liên hệ, vậy mà còn xác nhận « bất đồng » và « đàm phán », thế thì, với thực lòng, sao chính quyền Trung Quốc bây giờ lại đọc ngược bức thư Phạm Văn Đồng theo nghĩa là không còn vấn đề chủ quyền gì nữa để bàn cãi ? 12. Thực lòng ở đâu ?
4. Thực lòng ở về phía Việt Nam. Bởi vì ý định thực sự của bức thư lại còn rõ ràng hơn nữa khi đặt vào hai bối cảnh lịch sử đặc biệt : bối cảnh của chiến tranh lạnh nói chung và bối cảnh pháo kích ở Kim Môn nói riêng.
Về chiến tranh lạnh, việc ủng hộ lập trường của Liên Xô hay Trung Quốc khi lập trường này chống lại lập trường của khối « thế giới tự do » dưới sự lãnh đạo của Mỹ là một thái độ chính trị quá thông thường trong suốt thời gian lịch sử ấy. Phía Mỹ đã cứng rắn giữ nguyên lập trường 3 hải lý (ngay cả Đài Loan cũng không dám làm trái ý) thì phía Liên Xô hầu như đương nhiên hỗ trợ Trung Quốc trong lập trường 12 hải lý. Chính yếu, đây là một ủng hộ chính trị. Sự việc thư Phạm Văn Đồng lặp lại nguyên văn công hàm của Liên Xô chứng tỏ điều đó. Hai bức công hàm phải được hiểu trong cùng một tinh thần ấy.
Huống hồ, bối cảnh chính trị ấy lại càng nổi bật hơn nữa với việc pháo kích Kim Môn. Miền Bắc lúc ấy đang sợ Mỹ can thiệp. Mà chiến hạm Mỹ công khai vượt qua hải phận 12 hải lý để tiến vào vùng biển chỉ cách Kim Môn 3 hải lý. Bênh vực lập trường 12 hải lý của Trung Quốc là chuyện quá dễ hiểu giữa hai « đồng chí ». Miền Bắc cũng không muốn hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương xé rào 12 hải lý để tiến vào sát bờ biển miền Nam như tiến vào sát Kim Môn.
Bối cảnh quân sự và chính trị này, ngay cả các tác giả người Hoa cũng đều nêu rõ. Chỉ trích một ví dụ thôi : « Trung Hoa cộng sản ra một tuyên bố chính thức về hải phận lúc khủng hoảng 1958 trên Kim Môn và Mã Tổ lên đến cao độ ; như thế rõ ràng rằng những biến cố ấy đã phát động ảnh hưởng trên bản tuyên bố » 13. Ai cũng thấy, lúc đó Mỹ là kẻ thù chung, làm sao, với thực lòng, không thấy rằng văn thư của Hà Nội nhắm việc chống kẻ thù chung ? Trong bối cảnh quân sự và chính trị của năm 1958, chống Mỹ tức là ủng hộ 12 hải lý. Đông Đức ủng hộ, Rumania ủng hộ tiếp theo Liên Xô 14. Công hàm Phạm Văn Đồng cũng ủng hộ như vậy thôi. Nếu muốn tìm đối tượng, mục tiêu đích thực của hành vi đơn phương này, thì bối cảnh ấy cho đủ ánh sáng.
Bài viết nhỏ này được viết trong thời gian tác giả nằm trong bệnh viện, không có phương tiện tìm thêm tư liệu ở các thư viện. Với mục đích nhỏ bé là làm sáng tỏ những gì đã nói từ lâu bằng một ngôn ngữ và một lập luận pháp lý, tác giả không mong gì hơn là được bạn bè có thẩm quyền chỉnh sửa và bổ túc thêm.

CAO HUY THUẦN

1 Charles Rousseau, Droit international public, Tome 1, Paris, Sirey, 1970, trang 423.
2 Nguyen Quoc Dinh, Droit international public, Paris, LGDJ, 1975, trang 325 ; Charles Rousseau, sđd, từ trang 418.
3 Charles de Visscher, Théories et Réalités en Droit international public, A. Pedone, 4è édition, 1970, trang 281.
4 Charles Rousseau, sđd, trang 424, dẫn Carbone, Promessa e affidamento nel diritto internazinale, Milan, 1967.
5 Charles Rousseau, sđd, trang 284.
6 Cùng tác giả, trang 291, trích nhiều án lệ.
7 Charles de Visscher, sđd, trang 282.
8 Tất cả lịch sử kể ở mục này là lấy từ Hungdah Chiu, China and the Question of Territorial Sea, Maryland Journal of International Law, Vol. 1, N° 1, 1975.
9 Tao Cheng, Communist China and the Law of the Sea, The American Journal of International Law, Vol. 13, N° 1, Jan. 1969.
10 Tao Cheng, như trên.
11 Tất cả lịch sử về vấn đề này được giải thích rất rõ trong Lê Minh Nghĩa, Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng, Kỷ Yếu Hội Thảo phát triển khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và tranh chấp biển Đông, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000, từ trang 300. (có thể đọc toàn văn bài này trên mạng Thời Đại Mới )
12 Nội dung cung cấp cho phóng viên tại Họp báo ngày 23-5-2014.
13 Tao Cheng, đã dẫn.
14 Như trên.

==========================
Tuyên bố đầy đủ về lãnh hải của TQ (không có trong bài của gs CHT) như sau:

Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc ngày 04/09/1958

(dịch lại từ bản tiếng Anh theo báo cáo của CIA Mĩ có tham khảo với bản tiếng Trung trên trang Bách Khoa của TQ):

Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là mười hai hải lí. Quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm đại lục Trung Hoa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, nhóm đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi vùng biển quốc tế (high seas).[i]

2) Lãnh hải của Trung Quốc dọc theo đất liền và các đảo ven bờ có đường cơ sở là đường bao gồm các đường thẳng nối các điểm cơ sở trên bờ biển đất liền và trên chỗ ngoài cùng của các đảo ven bờ; vùng nước từ đường cơ sở kéo dài mười hai hải lí ra phía ngoài là lãnh hải của Trung Quốc. Các vùng nước bên trong đường cơ sở, bao gồm Vịnh Bột Hải, eo biển Quỳnh Châu là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, bao gồm cả đảo Đông Dẫn (东引), đảo Cao Đăng (高登), nhóm đảo Mã Tổ (马祖), nhóm đảo Bạch Khuyển (), đảo Ô Nhạc (乌岳), đảo Kim Môn(金门) lớn và nhỏ, đảo Đại Đam (大担), đảo Nhị Đam (二担) và đảo Đông Đĩnh (东碇) là các đảo trong nội hải của Trung Quốc.

3) Tàu thuyền cùng máy bay quân dụng nước ngoài không thể vào lãnh hải của Trung Quốc và vùng không gian phía trên nó mà không có sự cho phép của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trong khi di chuyển trong lãnh hải Trung Quốc mọi tàu bè phải tuân thủ luật pháp và các quy định có liên quan của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

4) Các nguyên tắc quy định tại các điểm 2) và 3 ) cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, nhóm đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa , quần đảo Trung Sa (Maclesfield Bank), quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Hai khu vực Đài Loan và Bành Hồ hiện còn bị lực lượng vũ trang Hoa Kì chiếm đóng. Đó là việc xâm pham phi pháp sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan, Bành Hồ cũng như những khu vực như thế vẫn chưa được thu hồi, và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền thu hồi các khu vực này bằng mọi phương tiện thích hợp vào một thời điểm thích hợp. Đây là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, không chấp nhận sự can thiệp của nước ngoài.




[i] Lưu ý rằng trong bản tiếng Anh của CIA, Hoàng Sa và Trường Sa chỉ được đề cập ở điều 4 chứ không có nói gì trong điều 1 như nhiều tài liệu TQ viết. Chúng tôi tìm được bản tiếng Trung trên trang ‘Bách Khoa’ thì HS và TS cũng được nói đến trong điều 1 một cách nhất quán như điều 4. Do đó, có khả năng bản của CIA không thật chính xác hoặc cũng có khả năng nhỏ hơn là TQ điều chỉnh lại bản gốc sau khi công bố. Khi dịch chúng tôi đã điều chỉnh lại điểm 1 theo bản tiếng Trung.