Wednesday, February 26, 2014

Bản kiểm điểm của ông Tống Văn Công

BẢN KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU

TỐNG VĂN CÔNG


   Ngày 14-2- 2014, tôi được Đảng ủy mời họp tại văn phòng đảng ủy phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM,  để nghe  chỉ đạo  tự kiểm điểm về những khuyết điểm của mình. Do  không được trao văn bản, tôi đã ghi chép mấy điểm chính: Từ năm 2009 đã viết hơn 30 bài trái quan điểm của Đảng, đưa lên mạng gây tác động xấu; Có 15 cuộc kiểm điểm góp ý mà không sửa chữa. Có những bài chống Trung Quốc,  gây chia rẽ  hai Đảng, hai nước xã hội chủ nghĩa; Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; Tự diễn biến hòa bình suy thoái chính trị: Cổ vũ tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng, vi phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm theo Quyết định 47- QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đồng chí Công phải viết bản tự kiểm điểm và tự nhận một hình thức kỷ luật của Đảng.


VÌ SAO TÔI VIẾT BÀI “ĐỔI MỚI ĐẢNG TRÁNH NGUY CƠ SỤP ĐỔ” ?

 Tháng 9 năm 2009 tôi viết bài trên với mở đầu bằng câu “Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm”.
 Từ 2005, Trung Quốc bắt đầu bắn giết đuổi bắt ngư dân đòi tiền chuộc. Ngày 9-1-2005, chúng bắn chết 9 ngư dân Hoằng Hóa, Thanh Hóa, bắn bị thương 9 người, bắt sống 9 người đòi tiền chuộc mỗi người hơn 100 triệu đồng. Các hãng tin nước ngoài đưa tin, ta im lặng. Sau 4 ngày, người phát ngôn Trung Quốc Khổng Tuyền tuyên bố “Qua 55 năm quan hệ ngoại giao hai nước đã bước qua giai đoạn phát triển mới vô cùng tốt đẹp”. Tiếp theo Bộ Quốc phòng cử đoàn cán bộ quân sự cao cấp sang Trung Quốc học tập chính trị. Nhưng không vì thế mà Trung quốc giảm bớt các hành động bắn giết, đuổi bắt ngư dân. Tháng 6 năm ngoái (2013), trong khi người dân bức xúc vì liên tiếp 2 tàu cá Quảng Ngãi, bị bắn chìm, một ngư dân chết thỉ báo chí đưa tin ngày 6-6-2013, Bộ Quốc phòng cử 22 cán bộ cao cấp sang Trung Quốc học chính trị, đây là đợt thứ 6.
 Năm 2009 còn có chuyện mở đầu thực hiện với Trung Quốc khai thác bô xit Tây Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi liên tiếp 3 thư yêu cầu ngưng dự án này với 2 lý do: Tây nguyên là địa bàn an ninh quốc phòng, không nên đưa nước ngoài khai thác; Hai là không có hiệu quả kinh tế. Các nhà khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị giống như Đại tướng, có nêu thêm cảnh báo sẽ có hàng vạn tấn bùn đỏ trên cao hơn 1000 mét có thể đổ ụp xuống làm miền Đông và Sài Gòn chết khát. Nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên trì thực hiện thông cáo chung đã được TBT Nông Đức Mạnh cam kết với Đảng bạn. Năm 2013, nhà máy Tân Rai đã cho ra sản phẩm. Trung Quốc mua dưới giá thành. Tính ra mỗi năm lỗ khoảng 100 triệu đô la. Những vị có trách nhiệm xin miễn giảm thuế và cam kết từ năm 2020 sẽ lãi to! 
 Về hiểm họa nội xâm: Tham nhũng tỏ ra bất trị, cứ tăng nhanh từng năm, tháng. Tại Hội nghị Trung ương 3, năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Là một đảng viên sao có thể vô cảm trước “sự sống còn” ghê gớm ấy? Tuy nhiên dù rất nhiều cảnh báo góp ý, 6 năm sau, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 4 sáng ngày 26 tháng 12 năm 2011 có đoạn như sau: “Đặc biệt có một câu hỏi lớn rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là chỗ nào?”
 Như vậy là dù 30 năm với rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, tham nhũng vẫn không lùi nhưng Tổng bí thư vẫn cho rằng Nghị quyết, chỉ thị rất đúng!
Sau một năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, Tổ chức Minh Bạch thế giới xếp hạng Việt Nam tụt 11 bậc về kết quả chống tham nhũng. Nhân loại tiến bộ đã rút ra bài học thực tế rất ngắn gọn về tham nhũng như sau: Tham nhũng là do Nhà cầm quyền độc tài, quyền quyết định của viên chức quá rộng, thiếu công khai minh bạch và quyền tư pháp không độc lập, do đó không kiểm soát được quyền lực.
 Lẽ ra những người lãnh đạo của Đảng cầm quyền sau hàng chục năm với nhiều nghị quyết vẫn không chống được tham nhũng thì phải hiểu rằng các nghị quyết ấy sai, hoặc chưa đầy đủ, phải học cách làm của những quốc gia chống tham nhũng thành công đặt ra cho mình những câu hỏỉ từ bài học của nhân loại.
 Quan liêu, độc quyền đẻ ra tham nhũng, làm suy thoái Đảng cầm quyền, gây ra khủng hoảng chính trị. Lịch sử 84 năm của Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có chuyện Tổng bí thư thay mặt Bộ chính trị đề cử 2 người vào Bộ Chính trị mà bị bác bỏ cả hai và bầu 2 người khác. Chưa bao giờ có tình trạng các nhà lãnh đạo công kích nhau trước nhân dân. Chưa bao giờ trong một cuộc họp báo công khai mà ông nói gà, bà nói vịt. (Họp báo đầu năm ngày 7-2, Đinh Thế Huynh nói, báo chí thông tin, bình luận phải có lương tâm và trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận, không được phép nói trái làm phân tâm các véc tơ phát triển. Sau đó, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói: “Tạo đồng thuận không phải là khen xuôi chiều mà phải phát hiện phê phán với tinh thần xây dựng”). Chưa bao giờ có tình trạng nhiều đảng viên tuyên bố bỏ Đảng như bây giờ!
 Từ khủng hoảng chính trị đã gây ra khủng hoảng toàn diện cho đất nước. Chỉ xin nêu sơ lược vài nét:
+   Nền kinh tế được hi vọng sẽ sớm xuất hiện “con rồng Việt Nam” đã lâm vào khủng hoảng 2 năm trước khủng hoảng của thế giới, đến nay theo Viện trưởng quản lý kinh tế Trần Đình Thiên, “kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam thì còn ở dưới đáy, bởi nợ xấu, sở hữu chéo, đề án tái cơ cấu tiếp tục nằm trên giấy. “ (Tại Hội thảo mùa Thu ở Huế)
+  Nông dân kéo đi khiếu kiện vượt cấp hàng chục năm, tới lúc dùng súng chống cưỡng chế. Nguyên chủ tịch tỉnh lúa An Giang Nguyễn Minh Nhị nói: “Bao nhiêu năm theo Đảng giành độc lập, có độc lập rồi thì mất quyền sở hữu ruộng đất, dắt díu nhau lên các khu công nghiệp tìm sống với đồng lương bèo bọt” (báo Nông nghiệp Việt Nam Têt Tân Mão).
 +  Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình. Nhưng họ đang trong tình trạng cùng khổ chưa từng có. Giống như giai cấp công nhân ở thế kỷ 19 mà Marx – Engels đã mô tả, nhưng còn khổ hơn vì không được phép đình công. Theo Tổng Liên đoàn Lao động lương tối thiểu của họ chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu, có 94% phải tăng ca, tăng giờ. Họ đã tự tổ chức hơn 5000 cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp vì không được công đoàn lãnh đạo! Trước đây công nhân còn cử ban đại diện ra đối thoại với chủ, nhưng từ 2013 không còn ai dám đứng ra làm đại diện nữa, vì sau khi tình hình ổn định thì người đại diện bị chủ sa thải, hoặc bị bắt về tội kích động đình công.
 + Năm 2013 Công ty tư vấn tài sản WealthX và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS thông báo: “Mặc cho kinh tế khó khăn, số người “siêu giàu” ở Việt Nam (có tài sản 30 triệu USD) đã tăng 15%, trong khi đó có 8,1 triệu người nghèo đói”. Có thể nêu tên 2 người nghèo phải tìm cái chết đã được đăng báo là: Chị Lê thị Ngọc Nhãn ở Cà Mau trước khi tự tử đã gửi thư cho Trung tá Diện “Sau khi cháu chết rồi xin chú giúp các con của cháu được vào trại mồ côi. Cháu đội ơn chú đời đời”. Chị Nguyễn thị Mỹ Nhân cũng ở Cà Mau tự tử để được công nhận diện nghèo, đã gửi thư cho Đảng ủy xã: “Xin thấu hiểu hoàn cảnh không lối ra của gia đình tôi, sau khi tôi chết, đồng ý cấp sổ nghèo cho chồng con tôi được sống.”
 + Đạo đức xã hội băng hoại chưa từng thấy. Một dân tộc sống theo phương châm “thương người như thể thương thân”, những năm kháng chiến nhà nhà đêm không gài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Sau 38 năm sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa sao biến đổi ghê gớm như vậy? Con đánh giết cha mẹ, cháu đánh giết ông bà, vợ đốt chồng. Thanh niên ném đá lên ô tô tàu hỏa làm vui. Thợ vá xe rắc đinh bẫy người đi mô tô. Đi lao động nước ngoài thì trộm cắp và bỏ trốn để sống bất hợp pháp. Các báo mới đưa tin thày trò đánh nhau giữa lớp. Chuyện thầy gạ tình cho điểm, ép mua dâm học trò vị thành niên liên tục xảy ra. Điều tra của Trung tâm xã hội học cho hay: Học sinh cấp 1 có tỉ lệ nói dối 22%, cấp 2 tăng lên 50%, cấp 3 64%, đại học 80 %. Chúng ta sắp có lớp trí thức mới nói dối nhất thế giới. Nguyên Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thị Bình nói “Giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào” (Trên báo Giáo Dục).
  Cũng chính vì không chịu đổi mới chính trị, khư khư ý thức hệ giáo điều mà không có một sách lược đối ngoại đúng đắn nhất là đối với Trung Quốc, bị họ lòe bịp “16 chữ vàng” và “4 tốt”. Trung Quốc chưa bao giờ là nước xã hội chủ nghĩa, và ngày càng tỏ ra là một nước phát xít. Sau giải phóng họ bắt đầu thôn tính Tây Tạng, Tân Cương, đàn áp, không ghê tay, sau đó tấn công biên giới Ấn Độ, Liên Xô… Họ dùng 2 thủ đoạn xảo trá để buộc chúng ta khuất phục: Một là kể công ơn đã giúp ta; Hai là đề cao cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, phải cùng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch phương Tây. Họ khuyên ta cử cán bộ sang nghe họ giảng dạy về bảo đảm an ninh chính trị, chống âm mưu diễn biến hòa bình và ta đã làm theo.
  Nên biết, ngày xưa họ giúp ta chỉ vì sách lược dùng máu Việt Nam để mặc cả với Mỹ và phương Tây và để có điều kiện thao túng ta. Năm 1954, họ ép ta nhận sự chia đôi đất nước. Năm 1972 họ bắt tay Nixon bán đứng ta, để chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1975 họ nhờ tướng Pháp Vanuxem khuyên Dương Văn Minh lên tiếng cầu cứu, Bắc Kinh sẽ cứu Việt Nam Cộng hòa, bị tướng Minh từ chối. Năm 1979, họ xui Pôn Pốt đánh ta, rồi cho rằng ta bị kẹt ở Campuchia, họ đưa 600.000 quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, giết hàng vạn dân thường, đập phá từng cái nồi, hãm hiếp, giết chết đàn bà con trẻ ném xuống giếng. Bị thua đau, họ rút quân, nhưng vẫn chiếm giữ nhiều vùng núi hiểm trở. Năm 1988 họ tấn công đảo Gạc Ma và các đảo ở Trường Sa, xả súng giết 74 hải quân ta. Mỗi dịp kỷ niệm ngày hải quân họ đưa phim này ra chiếu. Hiện nay họ vẫn tuyên bố toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông là của họ, việc đánh chiếm chỉ là chờ thời cơ.
Nhiều đảng viên cộng sản dẫn đầu biểu tình phản đối tội ác của chúng đã bị đuổi bắt. Nhà văn Nguyên Ngọc đi biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn đã bị Đài truyền hình Hà Nội gọi là bọn phản động, ông kiện, tòa trả lại hồ sơ không xử. Tôi và đồng chí giáo sư Tương Lai trên đường đi dự cuộc mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược tại Nhà hát Thành phố (ngày hôm trước đã báo với ông Lê Minh Trí Phó chủ tịch UBND TP HCM) đã bị hơn chục xe cảnh sát bao vây buộc phải vào đồn.
Quá bức xúc trước tình trạng khốn khổ của ngư dân, anh André Menras tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết, người từng treo cờ Mặt trận giải phóng trước Nghị viện Sài Gòn, bị Chính quyền Sài Gòn bỏ tù, đã xin Chủ tịch Nguyễn Minh Triết cho phép làm bộ phim “Hoàng Sa- Việt Nam, nỗi đau mất mát”. Anh bỏ tiền dành dụm nghỉ hưu đem làm phim. Phim làm xong được duyệt, nhưng cho tới nay vẫn cấm chiếu. Một lần họp mặt với bạn tù thời chống Mỹ ông đem phim ra chiếu đã bị cảnh sát giải tán. Hồ Cương Quyết búc xúc kêu ”Bác Hồ ơi, Bác sống lại mà coi!”
Nhân đây tôi muốn nhắc lại trong cuộc kiểm điểm tôi về bài viết ”Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, có chi ủy viên đã nói ”Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa. Ta nói của ta. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Đồng chí Công nói vậy là gây chia rẻ hai Đảng và hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Lãnh đạo các cấp ủy không ai có ý kiến gì. Tôi không chê trách các đồng chí mà chỉ băn khoăn lo lắng, vì sao Đảng lãnh đạo không quan tâm giáo dục cho đảng viên và nhân dân hiểu lời của đức Trần Nhân Tông “Các ngươi phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay giặc”. Tháng trước, Thủ tướng chỉ đạo phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa, báo vừa đăng lên đã bị gở xuống. Quan hệ với Trung Quốc gây thiệt hại về phía Việt Nam chưa thể lường hết. Qua 20 năm, FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% nhưng Trung Quốc lại trúng thầu hơn 90% các công trình điện, khai khoáng, luyện kim, hóa chất. Họ đưa cho ta thiết bị lỗi thời. Mấy năm qua ngành mía đường cứ kêu bị đường nhập lậu đánh bại là do thiết bị Trung Quốc cũ kĩ, tiêu hao năng lượng, lao động nhiều, giá thành cao, chất lượng kém. Sau đường là xi măng và nhiều thứ khác. Các công trình trúng thầu, họ đưa lao động cơ bắp người Trung Quốc sang xây nhà ở, lập nhà hàng, lấy vợ sinh con, mua đất đứng tên vợ. Các làng Trung Quốc hình thành khắp nơi từ Mông Cái, đến Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Khánh Hòa…. Thương lái Trung Quốc gây khó từ Lạng Sơn tới tận Cà Mau, họ hợp đồng mua rể hồi, móng trâu, khoai lang, đỉa, ốc bưu vàng, lá vải… ít lâu thì họ biến mất.
   Chúng ta đã lập quan hệ hữu nghị hợp tác với những “kẻ thù cũ” Pháp, Mỹ, đặc biệt đã đưa Tổng thống Pháp Mitterand đi thăm chiến trường xưa Điện Biên Phủ nơi họ bị bắt sống 17.000 quân nhục nhã. Suốt hơn nửa thế kỷ chúng ta vẫn long trọng tổ chức những ngày kỷ niệm chiến thắng. Thậm chí hàng ngày báo chí, đài tuyền hình phát thanh còn ra rả chửi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng không vì thế mà họ gây khó khăn cho ta, thậm chí họ vẫn viện trợ, tạo điều kiện cho ta phát triển. Cuộc chiến chống xâm lược biên giới phía Bắc từng được báo Nhân Dân bình luận với tựa đề “Chiến công hiển hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc”, thế nhưng sau khi lập lại quan hệ bình thường với Trung Quốc thì dường như bị buộc phải quên chiến công hiển hách ấy đi? Tại sao với Trung Quốc chúng ta không dám đòi bình đẳng như các quốc gia khác? Rất tệ hại là chủ trương đục bỏ bia chiến thắng ở Cầu Chánh Khê, bôi xóa tên liệt sĩ Hoàng thị Hồng Chiêm trên tượng đài của chị và đổi tên trường trung học mang tên chị thành trường Bình Ngọc (thuộc Mông Cái). Ở tận núi Quyết, thành phố Vinh Nghệ An, người ta còn đập bỏ tấm bia của Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi Quang Trung vì có hai chữ “giặc tầu”. Bài thơ như sau:
 “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
 “Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
 “Ông đà chí cả, mưu cao,
 “ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
 “Cho nên Tàu dẫu làm hung,
 “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà”.

Cách xử lý như trên cùng với việc cho cảnh sát đuổi bắt, ném lên xe những đảng viên và nhân dân đi biểu tình mỗi lần Trung Quốc gây hấn vô lý, có phải là sách lược sáng suốt hay không?  Một Đảng trong sạch không tham nhũng, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời không khuất phục trước kẻ thù hung bạo là hai điều kiện quyết định để có thể đứng vững và tồn tại.
    Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài nói sau ngày chiến thắng biên giới phía Bắc năm 1979 có đại ý: Trung Quốc từ lâu có âm mưu bành trướng xuống phía Nam. Khi chúng có điều kiện thực hiện thì đầu tiên sẽ là xâm lược Việt Nam. Muốn không bị xâm lược chúng ta phải mạnh lên, cả nước đoàn kết một lòng. Chúng ta không thù hằn Trung Quốc, coi nhân dân Trung Quốc là anh em. Bọn phản động cầm quyền chỉ là một bè lũ. Ý kiến của ông vẫn còn nguyên giá trị thời sự!
    Nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây khủng hoảng và hèn yếu trước ngoại bang là do Đảng không đổi mới chính trị tương ứng với đổi mới kinh tế. Thế nào là đổi mới chính trị? Nội dung chủ yếu đã có trong hai câu mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945 trích từ Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hơn 60 năm qua Liên Hiệp Quốc đã lần lượt ban hành nhiều Tuyên ngôn, Công ước cụ thể hóa các quyền tự do của con người. Nhà nước Việt Nam cũng đã ký cam kêt thực hiện nhiều công ước quan trọng.
Các quyền tự do gồm có: Quyền sở hữu tài sản riêng, quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do đi lại và cư trú, quyền tham gia quản lý đất nước trực tiếp, hoặc thông qua lựa chọn người đại diện bằng cuộc tự do bầu cử thường kỳ, chân thực, bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Các quyền tự do nói trên đều được ghi vào Hiến pháp, nhưng suốt 70 năm chưa được thực hiện hoặc thực hiện một cách hình thức. Cho nên nhân dân có câu “Đảng cử dân bầu”. Quyền lập hội chỉ là vào các hội, đoàn do Đảng lập ra. Quyền tự do báo chí là viết báo của Đảng, nhà nước. Hồ Chủ tịch từng nói, báo nhà nước lập ra không phải là báo chí tự do (sách Hồ Chủ tịch với báo chí, do Hội nhà báo TP HCM xuất bản 1980, trang 9). Đó là trái với các Công ước mà nhà nước ta đã ký kết.
Để các quyền tự do của con người trở thành hiện thực thì phải có một chế độ dân chủ để thực thi. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do của con người bằng một bản hiến pháp đảm bảo pháp quyền, thể hiện trung thực ý chí chính trị của nhân dân.Theo bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã nói ở trên, điêù 16 có nội dung như sau: ”Một xã hội mà trong đó các quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng, thì hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Tức là phải có nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập thì mới có thể đảm bảo quyền tự do của con người. ( Nga và các nước Đông Âu ngày nay đều ghi “tam quyền phân lập” trong hiến pháp của họ). Thông điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại” là có ý nghĩa như vậy. Nhà nước dân chủ phải là nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập. Nhà nước dân chủ phải tôn trọng đời sống của một xã hội dân sự, nội dung phong phú của nó đã được ghi đầy đủ trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà nhà nước Việt Nam đã ký cam kết thực hiện từ ngày 24 -9-1982, nhưng sau 30 năm hầu như chưa thực hiện được gì đáng kể!

TẠI SAO TỰ DIỄN BIẾN ?

Cuộc sống luôn luôn biến động. Cái hôm qua cho là đúng hôm nay không còn thích hợp. Cho nên chống “tự diễn biến”, chống “diễn biến hòa bình” tức là chống lại sự thay đổi, chống tinh thần sáng tạo tìm những điều thích hợp trong hoàn cảnh mới, chống trào lưu tiến bộ, cố ôm giữ mớ giáo điều mà ngay những nhà mác xít trước đây cũng không chấp nhận. Phép biện chứng cho rằng, mọi sự vật đều tiệm tiến dần dần đi tới đột biến. Tôi xin ôn lại về sự “tự diễn biến” của chính hai ông tổ khai sáng chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx và F. Engels. 
Năm 1848 Marx và Engels công bố Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, cơ sở lý luận của Quốc tế cộng sản thứ nhất. Trong đó có những luận điểm về đấu tranh giai cấp, cho rằng giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó, cách mạng vô sản sẽ lật đổ nhà nước tư sản, thực hiện chuyên chính vô sản, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ thị trường, xóa bỏ cả tôn giáo… Từ thập niên 60 thế kỷ 19 hai ông bắt đầu thấy có sự biến đổi trong chủ nghĩa tư bản và chủ trương đấu tranh hợp pháp, không làm cách mạng để lật đổ nhà nước tư bản. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1866, Các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời làm thay đổi cơ cấu xã hội của chủ nghĩa tư bản. Marx nhận xét, vậy là nhà tư bản “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của chủ nghĩa tư bản họ chỉ còn là chủ cổ phần của xí nghiệp”. Do đó, phát biểu với quần chúng ngày 8-9-1872 ở Amsterdam (Hà Lan) Marx công nhận các nước như Mỹ, Anh, Hà Lan… công nhân có thể đạt được mục đích của mình bằng biện pháp hòa bình.. Hai ông tán thành quan điểm của Ferdinand Lassalle lãnh tụ Đảng Xã hội – Dân chủ Đức chủ trương hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tan rã quốc tế thứ nhất năm 1876, hai ông không tìm cách khôi phục lại mà bắt đầu soạn thảo Cương lĩnh chuẩn bị ra đời Quốc tế thứ 2. Năm 1883 Marx qua đời, do đó Engels là người chủ trì Đại hội quốc tế của những người lao động xã hội chủ nghĩa tại Pari từ 14 đến 21 tháng 7 năm 1889 thành lập Quốc tế thứ 2 mà nội dung của nó hoàn toàn khác với Tuyên ngôn cộng sản năm 1948 ở những điểm lớn sau đây:  
-  Đảng và công đoàn đấu tranh bênh vực,bảo vệ quyền lợi mọi mặt của công nhân lao động.
-  Không dùng bạo lực cách mạng lật đổ nhà nước tư sản mà đấu tranh nghị trường đa nguyên đa đảng, chấp nhận thể chế đại nghị, cử đại diện tham gia bầu cử, nếu thắng cử thì nắm quyền chính trị thực hiện chế độ xã hội - dân chủ.
- Trong Đảng không lấy lập trường, quan điểm ý thức hệ sát phạt nhau mà tự do tư tưởng, và tất cả thượng tôn pháp luật.
 Ngày 6-3-1895, Engels viết lời tựa cho quyển sách “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, trong đó có đoạn như sau: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 đã lỗi thời về mọi mặt”.
 Lê nin không chấp nhận đường lối của Quốc tế thứ 2. Do đó không thể xem ông là người kế tục Marx và Engels. Ông kế thừa chủ nghĩa Blanqui, phái bạo lực trong Quốc tế thứ 1, cho rằng, chỉ cần dựa vào cách mạng bạo lực là có thể sáng tạo được một thế giới mới không có bóc lột và áp bức.
Do Lê nin chống Quốc tế 2, Đảng Xã hội Dân chủ Nga chia ra thành 2 phái đối lập nhau, phái theo Lê nin chiếm đa số nên gọi là bonsevich. Trái với dự đoán của Marx – Engels là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ thành công ở nước tư bản phát triển nhất như Đức, Lê nin lãnh đạo Cách mạng tháng mười thành công ở nước Nga nông nghiệp lạc hậu. Điều này đã làm cho ông tự tin rằng mình không kém Marx, mà còn đúng hơn Marx! Ông đề ra các nguyên lý về chuyên chính vô sản không phải là chuyên chính của cả giai cấp mà là chuyên chính của Đảng độc quyền, không còn bảo đảm “sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng cộng sản), ông đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ, …
Ngay sau cách mạng Tháng 10 thắng lợi đã có nhiều nhà cách mạng Nga và thế giới không đồng ý với các quan điểm của Lê nin như Plekhanov, Kausky, Rosa Luxemburg … Trong đó, bà Luxemburg được Franz Mehring người viết tiểu sử của Marx cho là “khối óc tốt nhất đứng sau Marx”, bà nhân định “chuyên chính vô sản của Lê nin đối lập với dân chủ”.
Các ý kiến phản đối cho rằng Lê nin sẽ làm chế độ cách mạng Liên Xô đi tới chỗ sụp đổ đã được nhà nghiên cứu xã hội John Reed ghi lại trong quyển “Mười ngày rung chuyển thế giới” (Việt Nam đã dịch và xuất bản 2 lần năm 1960 và 1977). Lê nin đọc sách này một cách hứng thú, ông đã viết thư cỗ vũ nhà xuất bản in sách, chấp nhận công khai các lời chỉ trích nói trên đối với ông. Do đó, sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều nhà bình luận cho rằng chính Lê nin mới là người gieo mầm cho Liên Xô bị tan rả 70 năm sau.
 Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu có uy tín đều cho rằng chính các Đảng xã hội - dân chủ mới là những Đảng thừa kế đúng đắn tư tưởng của Marx và Engel. Nhiều nước Bắc Âu vận dụng tư tưởng này đã giành thắng lợi lớn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, nhưng luôn giành thắng lợi trên nghị trường, xây dựng nhà nước phúc lợi, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là công nhân lao động, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, tham nhũng hầu như không có.
Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, chấp nhận đa nguyên, dựa vào người lao động, đấu tranh nghị trường;. Có thời gian rất dài Đảng liên tục cầm quyền 44 năm, đưa nước Thụy Điển nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước giàu bật nhất, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, hầu như không có tham nhũng, ổn định nhất thế giới. Năm 2013 Cộng hòa Liên Bang Đức nước giàu mạnh nhất Châu Âu kỷ niệm 150 năm Đảng dân chủ - xã hội Đức, một Đảng theo đường lối của Quốc tế 2 lâu đời và vững mạnh vào bậc nhất. Nhân dịp này Tổng thống Joachim Gauck có bài diễn văn ca ngợi Đảng có lịch sử lâu dài dám xả thân vì niềm tin của mình: “Đó là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập”. Quan điểm đúng đắn đã thắng thế trong Đảng, đó là: Không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào”, “dân chủ phải vừa là phương tiện vừa là mục tiêu”, “đấu tranh cho cải cách chứ không phải cho việc làm cách mạng”, ” can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản”; “cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu xa vời không tưởng”. Do đó, Đảng kế thừa tư tưởng của Marx, Engels, Lassalle vững mạnh suốt 150 năm làm choTây Đức có thu nhập cao gấp 4 lần Đông Đức xã hội chủ nghĩa theo chuyên chính vô sản của Lê nin khi thống nhất!
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam cũng tỏ rõ một quá trình tự diễn biến rất gian nan, có lúc nhanh, lúc chậm, có lúc đúng, lúc sai và nhiều lần sai rất nghiêm trọng và kéo dài.  Khoảng 1930- 1931 khẩu hiệu vang dội của Đảng là “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể”. Năm 1945 đảo ngược lại hoàn toàn: Đoàn kết mọi người yêu nước, không phân biệt, đảng phái, giai cấp… Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Khoảng năm 1950 bắt đầu nói “Đoàn kết công, nông, binh”. Còn hiện nay thì nói “ Liên minh công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng”.
Sau năm 1975, Đại hội 4, Đại hội 5 đều đặt nhiệm vụ lớn nhất là “Thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước” và “Nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng”. Nội dung của nó là tiếp tục đấu tranh giai cấp, tiêu diệt mầm móng bóc lột, giải quyết triệt để “vấn đề ai thắng ai”. Ngày nay hầu như những chữ “chuyên chính vô sản” và “ai thắng ai” đã biến mất mà Nghị quyết bắt đầu nói “ con người là trung tâm”, và “phải thực hiện quyền con người”. Nghị quyết Đại hội 4 và 5 đều có chủ trương lớn là cải tạo xã hội chủ nghĩa về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Về công nghiệp không để một xí nghiệp tư nhân nào. Nông dân phải vào hợp tác xã. Cửa hàng tạp hóa của tiểu thương cũng không còn. Nghị quyết Đại hội 4 ghi “Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công thông qua xây dựng có ý thức, có kế hoạch. Vì vậy kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.” Hiện nay, nghị quyết bảo phải vận dụng đầy đủ quy luật thị trường. Đại hội 4 và Đại hội 5 đều quyết định “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn nói “thời kỳ quá độ kéo dài khoảng 20 năm”. Năm 2013, tại Quốc hội Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chưa biết đến hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa. Đại hội 6 nhận định nền kinh tế đạt kết quả không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Nguyên nhân là do “Mười năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và về quản lý kinh tế”. Đại hội 6 cho sai lầm là do “duy ý chí” không nhìn đúng sự thật và đưa ra khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội quyết định Đổi mới toàn diện, bắt đầu là đổi mới kinh tế. Đại hội 9 cho phép doanh nhân (tên mới của nhà tư sản) được thuê công nhân với số lượng không hạn chế. Đại hội 11 chủ trương kết nạp doanh nhân vào Đảng cộng sản, tức là nhà tư sản được đứng vào đội tham mưu của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. (Điều này ông Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ chính trị, giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc kiên trì cực lực phản đối vì cho rằng như vậy không còn gì là chủ nghĩa xã hội!).
    Lược qua ở trên đã cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn tự diễn biến hòa bình. Nhờ đó mà Đảng thoát khỏi những tai ương cho mình và tai họa cho dân tộc như: cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bỏ tù hàng loạt cán bộ cao cấp gọi là “ nhóm chống Đảng”. Diễn biến hòa bình lớn nhất là Đổi mới của Đại hội 6, quyết định bỏ một nửa, nhưng là một nửa quan trọng nhất lý thuyết xã hội chủ nghĩa của Lê nin, Stalin. Quan trọng nhất là nói theo Marx: cơ sở kinh tế quyết định đối với thượng tầng kiến trúc. Nhờ đó mà dư luận quốc tế hi vọng sẽ sớm xuất hiện “ Con rồng Việt Nam”. Nhưng sau gần 30 năm đã làm người ta thất vọng. Thành tích đổi mới kinh tế đã làm cho những người lãnh đạo chủ quan cho rằng có thể không cần đổi mới chính trị. Thực ra những người lãnh đạo sợ rằng đổi mới chính trị sẽ đe dọa sự tồn tại vị trí cầm quyền của Đảng. Những người sáng suốt nhất, dũng cảm nhất của Đảng như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ …đề nghị đổi mới chính trị đều bị sa thảỉ.

TẠI SAO TÁN THÀNH TAM QUYỀN PHÂN LẬP?

Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lê nin đều không có nhà nước pháp quyền mà chỉ có nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập là của nền dân chủ phương Tây. Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1946 là nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập. Các Hiến pháp sau này khác Hiến pháp 1946 chính là ở đó. Sau Đổi mới, đến Đại Hội 7 TBT Đỗ Mười là người có sáng kiến đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có định nghĩa như hiện nay.
 Các nhà tuyên huấn của Đảng giải thích: Quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân thì không thể chia cắt ( chuyên viên cao cấp của Ban tuyên giáo Trung ương giảng về Hiến pháp 2013 ở đảng bộ phường Tân Kiểng). Lý lẽ đó không chính xác. Nhà nước là công cụ của nhân dân. Nhân dân có quyền phân chia các quyền tư pháp, hành pháp, tư pháp như thế nào để có hiệu quả nhất cho phát triển và chống tham nhũng. Phân quyền của nhà nước pháp quyền, chứ đâu phải là phân chia nhân dân! Còn có lý lẽ thứ 2, “tam quyền phân lập” là của phương Tây của tư sản không thích hợp cho phương Đông và nước xã hội chủ nghĩa. Về điều này có thể lấy ý kiến của Tôn Trung Sơn nhà cách mạng vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cao. Ông nói trong bài phát biểu năm 1927 trước quốc dân: “Dân chủ dân quyền thì phải học Phương Tây. Bởi vì Phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền”. Việt Nam ta cũng theo “quân quyền” cho đến 1945.
Xin trích hai ý kiến cách nhau hơn 2000 năm về ‘tam quyền phân lập” mà cho đến nay vẫn được cả nhân loại truyền tụng làm theo.
Triết gia vĩ đại thời cổ đại, Aristote nói “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy sự cứu thoát của nhà nước”.
Một triết gia Pháp vĩ đại của thế kỷ 19 là Montesquieu nói: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì không còn gì là tự do nữa. Người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy, chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền hành pháp và lập pháp. Nếu như quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do cuả công dân. Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức nắm cả ba quyền thì tất cả đều mất hết”.
Ngày nay các nước dân chủ đều thực hiện nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập để: Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ quyền con người. Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có câu “Người dân có quyền làm tất cả những điều gì luật pháp không cấm và sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”
Đó là những ý kiến rất đúng đắn nhưng không thể thực hiện được nếu như không có nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập! Vì sao? Bởi vì ở Điều 2 của Hiến pháp ghi ”Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cá quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quốc hội là cơ quan lập pháp, nhưng thực ra gồm có đủ mặt những người của hành pháp và tư pháp. Điều đó gây hậu quả đúng như Montesquieu cảnh báo như trên. Quyền tư pháp độc lập không thể thực hiện theo “sự phân công phối hợp” được. Do đó nó đẻ ra điều người gọi là “án bỏ túi”. Án oan sai nhiều không kể xiết, rất đáng lo là nhiếu oan sai tới mức án tử hình. Rất nhiều vụ án xét xử kéo dài hàng chục năm như vụ án “vườn đào”, vụ án “ăn trộm dê”… Nghị quyết 49/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 không có đề ra việc thực hiện quyền Tư pháp độc lập. Do đó, mỗi năm đều họp bàn mà suốt 10 năm vẫn không có nền Tư pháp trong sạch vững mạnh như mục tiêu đề ra!
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến quyền tư pháp không thể độc lập là do Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy “quyền lực nhà nước là thống nhất…” nhưng cuối cùng cả 3 quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tức là Đảng có quyền đứng trên quyền tư pháp, đứng trên pháp luật.
Một số nhà nghiên cứu pháp luật là đảng viên đã hơn chục năm nay kiên trì góp ý rằng: Đảng đã lãnh đạo xây dựng Hiến pháp cụ thể hóa Cương lĩnh của Đảng rồi thì không nên trực tiếp lãnh đạo quyền tư pháp. Phải để quyền tư pháp đứng trên thì mới ngăn chặn được tham nhũng. Đảng đang lâm vào tình trạng tham nhũng suốt hơn 30 năm, càng ngày càng nghiêm trọng, nếu không dũng cảm chấp nhận tư pháp độc lập thì không khác nào người bị bệnh nặng mà cứ giành quyền chỉ đạo thầy thuốc!

TẠI SAO ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN LẠI TÁN THÀNH ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG?

Như vậy là tạo điều kiện cho các đảng đối lập giành quyền lãnh đạo của Đảng mình? Hậu thuẩn cho câu hỏi này là lập luận: Trong thời kháng chiến gian khổ, tại sao các đảng đối lập không nhảy ra tranh với Đảng cộng sản về sự hi sinh, nay sau khi đất nước hòa bình phát triển lại muốn nhảy ra tranh phần? Cách nghĩ như vậy giống như đòi chia “quả thực” trong cải cách ruộng đất, ai “đấu tố” mạnh thì phải được chia phần nhiều hơn; hoặc giống như một Công ty cổ phần bàn chuyện chia lãi, chứ không giống một Đảng cách mạng từng tuyên bố “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân” (giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Trong hạnh phúc của nhân dân có quyền tự do, mà chủ tịch Hồ Chí Minh có câu thơ rất hay “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do”. Trong các quyền tự do có quyền tự do chính trị. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt Nam ký kết từ 24-9-1982 ở Lời nói đầu có ghi “Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị không bị sợ hãi…” và ở Điều 1 ghi nhận “quyền quyết định thể chế chính trị”. Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền:” Tự do tổ chức và hội họp”. Các Hiến Pháp sau này đều có ghi nhận tất cả các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, nhưng đã mắc nợ nhân dân suốt 70 năm không được thực hiện. Mặc dù Hiến pháp và Luật đều không điều nào cấm lập đảng, lập hội, nhưng thực tế thì không cho phép. Và như phần trên đã nói, từ 1866 Marx và Engels đã chấp nhận đa đảng. Thật ra ngay từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ở chương 4 về “Thái độ đối với các đảng đối lập” (trang 99) hai ông đã dạy những người cộng sản cách sống chung với các đảng tư sản. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, cứ tưởng sẽ tốt, có lợi cho Đảng cầm quyền, bởi vì không sợ ai tranh giành với mình. Nhưng theo bài học rất sơ đẳng thì chính đó lại là tự giết mình. Đó là bài học từ sự sụp đổ của các Đảng cộng sản Liên Xô, Đông Âu. Bởi vì độc quyền thì sinh ra quan liêu, quan liêu sinh tham nhũng, tham nhũng lũng đoạn mọi mặt sẽ làm bại hoại mục ruỗng cả Đảng và cả dân tộc. Chấp nhận đa nguyên đa đảng là học bài học trường tồn một cách đường đường chính chính của các Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, Na Uy, Đức …Nguyên ủy viên Bộ chính trị, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trong bài nói ngày 7-12-2010 trên Tuần Việt Nam, cho rằng tình trạng suy thoái của Đảng như hiện nay, “không phải là do bị diễn biến hòa bình … Chính những đảng viên cộng sản chân chính, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng, cũng không muốn bảo vệ sự độc quyền của một Đảng biến chất, thoái hóa, tham nhũng. Đảng đã thành vua tập thể”. Ông vua phong kiến thì chẳng sao, dù cho ông ta có 3000 cung nữ, dù cho đất đai cả nước là của vua. Nhưng Đảng thì lại khác, bởi Đảng phải nói và làm theo chủ tịch Hồ Chí Minh “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là nhân dân, vì dân là chủ”. Và người dân luôn luôn so sánh lời nói với việc làm của đảng viên có đi đôi hay không.

TẠI SAO VI PHẠM 19 ĐIỀU CẤM THEO QUYẾT ĐỊNH 47/QĐ/TW?

Mấy mươi năm trước đảng viên chỉ thực hịên Điều lệ, Nghị quyết Đảng và pháp luật mà nói chung rất tốt. Hơn 10 năm qua có thêm quy định các điều cấm không được làm, nhưng tình hình cứ xấu đi. Quyết định 47/ QĐ/TW ghi là “Căn cứ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Nhưng Hiến pháp Việt Nam có ghi các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, biểu tình thì Quyết định 47/QĐ/TW ở Điều 6 cấm “biểu tình tập trung đông người gây mất an ninh trật tự”. Quy định này không rõ, bao nhiêu người thì gọi là đông người, và nếu đông người mà không gây mất trật tự thì có được phép hay không? Như trên tôi đã kể, chúng tôi mới trên đường đi thì đã bị vây bắt rồi, làm gì đã gây ra mất an ninh!
Và nói trái nghị quyết cũng là một khái niệm rất khó xác định. Mọi đảng viên đều phải bình đẳng, vậy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói ở Vĩnh Phú, phê phán các đảng viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc là suy thoái chính trị có đúng Nghị quyết Đảng và Hiến pháp không? Ông nói “hết thế kỷ này cũng chưa chắc có chủ nghĩa xã hội” có đúng Nghị quyết không? Ông nói Hồ Chủ tịch viết trong Di chúc “Đảng ta là Đảng cầm quyền là hơi hẹp, đúng ra phải nói Đảng ta là Đảng lãnh đạo có đúng nghị quyết không? Có xúc phạm lãnh tụ không?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nhiều phát biểu rất đúng, nhưng tôi e rằng nếu là người khác nói thì rất có thể sẽ bị quy là trái Nghị quyết: Ví như ông lên tiếng giữa Quốc hội đòi Hoàng Sa, phê phán Trung Quốc ở Shangri-la làm cho họ cáu giận, và Thông điệp đầu năm 2014 của ông đưa ra nhiều khái niệm đúng đắn về dân chủ giống như của phương Tây mà các Nghị quyết của Đảng đều chưa hề ghi nhận? Chẳng lẽ trong Đảng không có bình đẳng về phát ngôn? Cấp trên muốn nói gì cũng được còn cấp dưới thì không?
 Tôi cho rằng Quyết định 47/QĐ/TW hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. “Nghị quyết gì mà người dân nói là không đúng thì để họ để nghị sửa lại”
 “Quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý” và “Dân chủ là người dân được mở mồm ra nói”. Chẳng lẽ đảng viên cũng là công dân lại không được mở mồm như người dân? Cách quy định những điều cấm như thế qua hơn 10 năm đã chứng tỏ nó không làm Đảng mạnh và tốt lên, trái lại, bêu riếu sự lạc hậu trong thời đại bùng nổ thông tin. Thời đại ngày nay các đảng chính trị đều thực hiện dân chủ nội bộ và thực hiện công khai minh bạch không chỉ trong nội bộ mà trước toàn dân. Chỉ có như vậy mới không tái diễn chuyện “khoán chui” và “xé rào”. Tuy vậy, tôi cũng đã nhiều lần định không đưa bài góp ý lên mạng mà chỉ gửi cho Đảng và các báo, các mạng của Đảng, nhưng các báo đều không đăng, Đảng thì không bao giờ hồi âm!
 Thưa các đồng chí nhiều khi tôi quá bức xúc, đau lòng, cảm thấý dường như Đảng ngày nay không phải là Đảng mà ngày xưa mà tôi giơ tay thề hi sinh đến giọt máu cuối cùng vì Đảng ấy “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng.” Hình như có những kẻ muốn biến Đảng thành công cụ của các “nhóm lợi ích” giúp họ giữ ghế và làm giàu! Là một nhà báo có 35 năm theo dõi phong trào công nhân lao động, cho nên bức xúc nhất của tôi là nhìn thân phận khốn cùng của giai cấp công nhân hôm nay.Tôi vô cùng bức xúc khi cảm nhận rằng hai giai cấp lớn nhất, có công đóng góp lớn nhất cho thắng lợi của cách mạng và kháng chiến là công nhân và nông dân đã bị phản bội bằng nhiều chính sách quá bất công đối với họ. 
 Có lẽ bản kiểm điểm của tôi không đáp ứng được yêu cầu của các đồng chí chỉ đạo cuộc kiểm điểm. Nhưng biết làm sao, khi đó là nhận thức thành thật của tôi, một đảng viên sau hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, ngoài 80 tuổi còn ký kết hợp đồng viết bài cho báo Lao Động và lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, lại là kẻ suy thoái chính trị ư? Không! Tôi cho rằng chính những người bảo thủ, giáo điều, không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng, trở thành một Đảng suy thoái tham nhũng, họ mới chính là kẻ suy thoái chính trị. Do đó, tôi không nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên gọi là suy thoái tư tưởng chính trị. Nhưng tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì như vậy, tôi sẽ được yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó từ ngày mai tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn bức xúc cứ muốn viết bài góp ý, xây dựng Đảng.
                                                                Ngày 22-2-2014
                                                                Tống Văn Công


Tác giả gởi cho viet-studies ngày 26-2-14

LỜI CHIA TAY VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

LỜI CHIA TAY VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tống Văn Công

                           
Trong bản tự kiểm điểm ngày 22-2, ở phần “tự nhận một hình thức kỷ luật”, tôi đã viết:
Là  một đảng viên hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, 82 tuổi còn làm việc hợp đồng, lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, tôi nghĩ rằng, tôi không phải thuộc số không nhỏ đảng viên thoái hóa chính trị mà chính những người bảo thủ, giáo điều không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng trong sự nghiệp giải phóng, nay trở thành một Đảng độc đoán, tham nhũng mới đúng là những kẻ suy thoái chính trị. Do đó tôi không thể nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên là suy thoái tư tưởng chính trị.
Tuy vậy, tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì làm như vậy, tôi sẽ yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó mà mai kia tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn quá bức xúc cứ muốn góp ý xây dựng.
Ngày 24 tháng 2 năm 2014, tôi nhận được văn thư của đảng ủy cho rằng tự kiểm điểm của tôi “chưa đạt yêu cầu”, phải “nghiêm túc viết lại bản tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật”. Cùng với văn thư trên, có bản gợi ý nêu ra ba trường hợp mà theo Quyết định 47 -QĐ/TW là phải khai trừ: “Có quan điểm ủng hộ hoặc tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng; công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác -Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.”
Tôi hiểu, Ban chỉ đạo muốn bảo rằng: Khuyết điểm của tôi là phải tự nhận hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Không làm như vậy thì tôi gây khó cho tổ chức Đảng. Nhưng làm như vậy thì thật là khó cho tôi. Bởi vì cho đến nay, tôi vẫn tự hào về cái ngày là anh lính vệ quốc đoàn, viết đơn xin vào Đảng để được noi gương các đảng viên trong giờ phút gay go của chiến dịch Cầu Kè năm 1950 (Trà Vinh) đã hô to “Các đảng viên cộng sản! Xung phong!” Tôi vẫn tự hào ngày được vào Đảng, giơ tay thề hy sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất, dân chủ cho nhân dân. Còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì thì, thú thật không chỉ tôi mà cả các bậc đàn anh cũng chẳng hiểu!
Càng tự hào về lý tưởng cao cả mà mình đã bỏ cả đời để phục vụ, tôi càng day dứt, xấu hổ vì sự thoái hóa, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ những người trong guồng máy lãnh đạo, khiến Đảng cầm quyền phạm nhiều sai lầm, làm mất hết niềm tin của nhân dân, làm khoảng cách tụt hậu của đất nước càng ngày càng xa so với các nước khu vực. Những người lúc nào cũng hô hào kiên trì ý thức hệ lỗi thời, cấm không được tự diễn biến, thực ra, họ chỉ nhằm duy trì quyền lực, khai thác “lợi ích nhóm”, làm giàu cho bản thân, bất chấp thiệt hại của nhân dân lao động và đất nước. Giặc “nội xâm” bao giờ cũng là chỗ dựạ của giặc “ngoại xâm”. Bất kể bọn bành trướng hung hăng ra rả khẳng định toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, cả “lưỡi bò” biển Đông là của Trung Quốc, lời họ đáp lại chủ yếu vẫn là kiên trì “16 chữ vàng” và “bốn tốt”, vì đây là “đồng chí cùng chung ý thức hệ”, cùng chống lại các thế lực thù địch phương Tây. Truyền thống bất khuất, lòng tự tôn dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng, làm mất dần sự đồng thuận xã hội trước hiểm họa đe dọa sự tồn vong của dân tộc, mà thực ra cũng là sự tồn vong của chính Đảng cộng sản Việt Nam.
Vì những lẽ đó mà thời gian qua, tôi hết sức tự kiềm chế, cố gắng tiếp tục đứng trong hàng ngũ Đảng để cùng với các đảng viên chân chính trực tiếp đấu tranh, góp ý xây dựng Đảng, hi vọng những người lãnh đạo nhận ra sai lầm,vứt bỏ ý thức hệ lạc hậu, tiến tới một Đại hội Đảng đổi mới lần 2: Đổi mới chính trị, thực hiện nhà nước pháp quyền đúng như các thể chế chính trị hiện đại. Từ đó mà vực dậy niềm tin đang cùng kiệt của nhân dân, tiếp tục sứ mệnh mà đảng viên và nhân dân giao cho.
Hôm nay, con đường ấy đã bị chặn lại. Đau lòng lắm, nhưng phải đành vậy thôi! Từ giờ phút này, từ ngày hôm nay, 25-2-2014, tôi xin nói lời chia tay với Đảng Cộng sản Việt Nam.
                                                                            Ngày 25 tháng 2 năm 2014
                                                                                    Tống văn Công


----------------------------------
Còn đây là:
Gợi ý
Những nội dung cần kiểm điểm đối với đảng viên

1- Nội dung sai phạm:
Từ năm 2009 đến 01/2013 đảng viên Tống Văn Công đã có nhiều bài viết trên mạng internet, được các trang mạng xã hội tán phát, nội dung chủ yếu là phủ nhận quan điểm, đường lối của đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phân tích có ý xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, ủng hộ và cổ xúy “đa nguyên chính trị, đa đảng, Nhà nước tam quyền phân lập, xã hội dân sự dân chủ, tự do báo chí theo phương Tây …”
- Sau khi phát hiện sai phạm, Chi bộ, đảng ủy và Tổ công tác của ban Thường vụ Quận ủy đã tổ chức trên 15 cuộc họp, tiếp xúc, giáo dục, đấu tranh, thuyết phục đảng viên Tống Văn Công, tranh thủ ý kiến của các đảng viên lớn tuổi quen biết để tác động, thuyết phục.Tuy nhiên, sau khi hứa, cam kết với cấp ủy các cấp, đảng viên Tống Văn Công vẫn tiếp tục có các bài viết nội dung trái với quan điểm đường lối của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước hiện nay, cụ thể từ tháng 1/2013 đến tháng 1/2014, đảng viên Tống Văn Công tiếp tục viết bài “Kính gởi Hội nghị Trung ương 8: đất nước đòi hỏi phải đổi mới chính trị”, đăng trên mạng viet-studies ngày 30/9/2013, bài “Kìa cái tất yếu đang lừng lững đi tới”, đăng trên Diễn đàn xã hội dân sự 18/12/2013, đặc biệt tham gia cùng giáo sư Tương Lai, luật sư Lê đức Tiết viết một số bài có nội dung phản động trong tác phẩm Thực tiễn Thanh Văn và tầm nhìn đoàn kết do trung tâm Sena phát hành trái phép tháng 1/2014.
Như vậy những quan điểm sai trái nêu trên là biểu hiện rất rõ đảng viên Tống Văn Công đã suy thoái tư tưởng chính trị “tự diễn biến”, ”tự chuyển hóa” nói và làm trái với những điều cơ bản của đảng về quan điểm, đường lối và hoàn toàn mất niềm tin đối với đảng và chủ nghĩa xã hội, vi phạm nghiêm trọng điều 1, điều 2 Quy định số 47-QD/TW ngày 01/11/2011 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm, không còn đủ tư cách đảng viên.
2-  Căn cứ để xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên Tống Văn Công
- Vi phạm điều lệ đảng tại điều 1, điều 2
- Vi phạm quy định 47-QD/TW, ngày 1 tháng 1 năm 2011 của Ban chấp hành trung ương về những điều đảng viên không được làm tại điều 1, điều 2.
- Căn cứ khoản 3, điều 6, quy định số 181-QD/TW ngày 30/3/2013 của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên: những trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2. Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:
a/ Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của đảng và nhân dân.
b/ Có quan điểm ủng hộ hay tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng, công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng.
c/ Xuyên tạc đường lối, chính sách của đảng, Nhà nước, bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo đảng, Nhà nước, truyền thống của dân tộc, của đảng và Nhà nước.

Tuesday, February 25, 2014

Mĩ không có giải đáp cho sách lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc

Mĩ không có giải đáp cho sách lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc
Robert Haddick
(bài dịch đã đăng trên Tia Sáng 25/2/2014)

John Mearsheimer gần đây cho rằng Trung Quốc (TQ) đang theo đuổi ở châu Á đìều mà Hoa Kì đã thực hiện ở châu Mĩ Latinh: bá chủ khu vực. Khi theo đuổi mục tiêu đó, TQ tiếp tục cố gặm nhấm từng chút một lãnh thổ ở biển Hoa Đông và biển Đông, kiểu làm này, được gọi cắt từng miếng salami-slicing [hay như ta diễn đạt là ‘tằm ăn dâu’].

Sách lược ‘tằm ăn dâu’ của TQ đã tăng tốc trong vài năm qua. Trong năm 2012, TQ thành lập "thành phố Tam Sa" trên đảo Phú Lâm, một hòn đảo trong chuỗi đảo Hoàng Sa mà TQ chiếm đoạt của Việt Nam Cộng Hoà bằng vũ lực vào năm 1974. TQ tuyên bố rằng thành phố Tam Sa sẽ là trung tâm hành chính của toàn bộ khu vực biển đảo họ yêu sách ở Biển Đông, kể cả các yêu sách trong nhóm đảo Trường Sa. Các cơ sở quân sự và bán quân sự nhỏ trên đảo Phú Lâm củng cố hình ảnh chính đáng về chủ quyền mà TQ đang cố lập - một hình ảnh mà các nước láng giềng như Việt Nam và Philippines thiếu các nguồn lực để làm theo. Chỉ mới tháng trước, TQ đã cho một tàu tuần tra bán quân sự 5000 tấn trú đóng thường trực ở đảo Phú Lâm.
Sách lược ‘tằm ăn dâu’ nhắm vào lãnh thổ Philippines cũng đang tỏ ra có kết quả. Vào tháng 4/2012, hải giám TQ và các tàu tuần duyên Philippines đã bắt đầu một cuộc dằng co giành bãi cạn Scarborough nằm cách Luzon khoảng 230 km mà cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền. Thiếu nguồn lực vật chất để duy trì sự hiện diện liên tục, tuần duyên Philippines cuối cùng đã rút lui để TQ nắm quyền kiểm soát rạn san hô này. Chính quyền TQ sau đó căng dây rào rạn san hô và  ngăn chặn ngư dân Philippines quay trở lại.

Với bãi cạn Scarborough bị chiếm giữ, cuộc thi thố không cân sức giữa TQ và Philippines đã di chuyển đến đảo Ayungin (bãi Cỏ Mây) trong quần đảo Trường Sa, còn được gọi bãi ngầmThomas II. Một bài báo tháng 10/2013 trong tạp chí New York Times mô tả cuộc dằng co giữa một đội tàu hải giám hiện đại TQ và một đội lính thuỷ đánh bộ Philippines. Tám lính thuỷ đánh bộ bám trụ gần như trong điều kiện sau thảm hoạ, sống lây lất như “Mad Max” trên con tàu đổ bộ rỉ sét, hư hỏng thời thế chiến mà Philippines cố ủi mắc cạn trên đảo để làm chỗ đặt chân cuối cùng cho Philippines, trong vòng vây TQ.

Trong cuộc phỏng vấn tháng 5/2013 trên truyền hình TQ, Thiếu tướng Trương Triệu Trung (Zhang Zhaozhong) của Quân đội Giải phóng Nhân dân TQ đã mô tả "chiến lược cải bắp" mà TQ đang sử dụng trong biển Đông. Theo tướng Zhang, chiến lược cải bắp gồm việc bao vây một hòn đảo đang tranh chấp với vòng trong vòng ngoài tàu đánh cá , tàu ngư chính, tàu hải giám, và tàu chiến của TQ sao cho "hòn đảo bị bao bọc hết lớp này tới lớp khác như một bắp cải." Về việc giành lãnh thổ của Philippines, tướng Zhang nói chúng ta nên làm những điều như vậy nhiều hơn trong tương lai. Đối với những đảo nhỏ này, chỉ có một vài binh bính có thể đóng chốt trên mỗi đảo, nhưng ở đó không có thức ăn hoặc ngay cả nước uống cũng không có. Nếu chúng ta thực hiện chiến lược cải bắp, thì không thể chuyển thức ăn và nước uống tới đảo được. Nếu không được cung ứng một hoặc hai tuần, lính đóng quân sẽ tự rời khỏi đảo. Một khi họ đã rời đi, họ sẽ không bao giờ có thể quay trở lại.

Ở biển Hoa Đông, va chạm giữa TQ và Nhật Bản trong tranh chấp đảo Senkaku / Điếu Ngư đang nóng lên trong nhiều năm qua. Theo Bộ Quốc phòng Nhật Bản, các cuộc xâm nhập của tàu chính phủ TQ trong vùng lãnh hải của Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku đã bắt đầu tăng tốc vào cuối năm 2012 và trung bình có khoảng 5 lần xâm nhập mỗi tháng trong khoảng thời gian đầu năm 2013.

Tháng 11/2013 đã có tuyên bố đột ngột của TQ về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên phần lớn biển Hoa Đông, kể cả trên quần đảo Senkaku. Một vài ngày sau đó, ở biển Đông, một tàu chiến TQ gần như đụng phải tàu tuần dương tên lửa có hướng dẫn USS Cowpens, một tín hiệu bất bình với việc tàu tuần dương này dòm ngó tàu sân bay mới của TQ đang chạy thử nghiệm. USS Cowpens sau đó rút đi, người Mĩ hẳn không muốn liều lĩnh để thành một cuộc chạm trán. Cuối cùng, vào tháng 1/2014, một cơ quan địa phương TQ ở Hải Nam đã ban hành lệnh đòi hỏi các tàu đánh cá nước ngoài hoạt động trong biển Đông (cách xa vùng đặc quyền kinh tế của TQ) trước hết phải có giấy phép đánh bắt của họ.

Một ví dụ khác về cố gắng của TQ để thiết lập nhận thức về chủ quyền ở biển Đông là nỗ lực phát triển kinh tế trong khu vực. Tháng 8/2012, Tổng công ti quốc gia dầu khí ngoài khơi TQ (CNOOC), công ty quốc doanh khai thác dầu khổng lồ mời các các công ti khoan dầu khí nước ngoài đấu thầu các lô ở biển Đông nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ). Thật ra, trước đây Việt Nam đã từng hợp đồng cho thuê một số trong các lô này. Tương tự như vậy, TQ và Philippines cũng từng đụng độ về dầu khí ven đảo Palawan.

Hàng loạt trò ‘tằm ăn dâu’ dù chưa liệt kê đủ cho thấy TQ đang gắng hoàn tất ba mục tiêu:
1.    TQ sử dụng lợi thế vật chất về tàu dân sự, bán quân sự, và quân sự để tạo ra một hình ảnh hiện diện vượt trội và lâu bền, so với các đối thủ yếu hơn như Việt Nam và Philippines. Mục tiêu là tạo ấn tượng về tính hợp pháp duy nhất và đúng lúc về chủ quyền.
2.    TQ hi vọng tạo dựng được các chỉ dấu truyền thống về thẩm quyền nhà nước. Các chỉ dấu này bao gồm việc các tàu hải giám bán quân sự và tàu hải quân tuần tra liên tục, lập Văn phòng Chính phủ ở những nơi như đảo Phú Lâm, lập cơ sở và đơn vị trú đóng bán quân sự và quân sự, ban hành lệnh và quy định hành chánh, và thiết lập các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước như CNOOC.

3.    Các sự kiện như việc thành lập ADIZ ở biển Hoa Đông và việc gần như đụng tàu sân bay USS Cowpens được bày vẽ để cố tình làm tăng thêm rủi ro cho các hoạt động của Mĩ và đồng minh trong khu vực, với mục tiêu làm cho những hoạt động đó tốn kém hơn và thưa dần đi. Khi mức độ hiện diện của Mĩ và đồng minh giảm xuống, ảnh hưởng của TQ và tính chính đáng của yêu sách của họ sẽ tăng lên.

Phản ứng của Mĩ
Chính phủ Mĩ không có phản ứng rõ rệt đối với sách lược ‘tằm ăn dâu’ của TQ. Các quan chức Mĩ, trong đó có Đô đốc Harry Harris, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mĩ, Đô đốc Samuel Locklear, chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kì đã bày tỏ sự hối tiếc về tuyên bố ADIZ của TQ, và khẳng định ý định tiếp tục các hoạt động quân sự thông thường của Mĩ trong vùng nhận dạng đó và các nơi khác trong khu vực. Tuy nhiên, TQ đã không phải chịu trừng phạt nào cho hàng loạt các hành động của họ. Liên quan đến các yêu sách tranh chấp nhau ở hai biển này, chính sách chính thức của Washington là các nước láng giềng của TQ tự lo liệu - Hoa Kì sẽ không đứng về phía nào trong các tranh chấp lãnh thổ. Hoa Kì cũng phản đối việc sử dụng cưỡng chế trong giải quyết tranh chấp. Nhưng mỗi hành động ‘tằm ăn dâu’ riêng lẻ của TQ đều được hiệu chỉnh cẩn thận để lọt xuống dưới ngưỡng mà hầu hết các nhà quan sát bên ngoài sẽ xem như là cưỡng chế công khai.

Không vấp phải phản kháng nào đối với hành động của mình, TQ chắc chắn sẽ tiếp tục sách lược ‘tằm ăn dâu’. Phần lá dâu gặm nhấm tương lai của TQ có thể bao gồm:

•    Máy bay thám sát không người lái TQ tuần tra trên quần đảo Senkaku

•    TQ đổ bộ dân phản kháng lên quần đảo Senkaku

•    Máy bay chiến đấu TQ ngăn chặn và hộ tống các máy bay Nhật Bản quá cảnh vùng ADIZ của TQ ở biển Hoa Đông.

•    Tuyên bố ADIZ của TQ ở một số phần của biển Đông

•    Khám xét, bắt giữ tàu đánh cá Việt Nam hoặc Philippines vì không tuân thủ chính sách đánh bắt cá của TQ

•    Ngăn chặn việc tiếp tế hoặc thay thế các đơn vị trú đóng Philippines trên bãi Cỏ Mây hoặc đơn vị trú quân khác trong quần đảo Trường Sa

•    Máy bay và tàu TQ tạo thêm các quấy rối với tàu chiến và máy bay tuần tra Mĩ và Nhật Bản.

Với những hành động kiểu này, TQ hi vọng sẽ từng bước tạo ra "các sự kiện mới trên thực địa" và tăng nhận thức về nguy cơ trong tâm trí của những nhà ra quyết định của Mĩ và đồng minh, tất cả đều được tính toán để xảy ra mà không gây ra cuộc đối đầu nào.

Lí thuyết về thành công của Mĩ cho đến nay
Người ta sẽ nghĩ rằng hành động ‘tằm ăn dâu’ tiếp nữa của TQ sẽ kéo căng sự kiên nhẫn của các nhà hoạch định chính sách Mĩ và đồng minh. Tuy nhiên, kiên nhẫn vẫn đang là chính sách bề nổi của Hoa Kì. Theo Kurt Campbell, trợ lí Ngoại trưởng Mĩ về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương trong nhiệm kì đầu của chính phủ Obama bằng cách lôi kéoTQ vào hệ thống quốc tế hiện hành, một hệ thống mà từ vẻ bề ngoài TQ hưởng lợi lớn trong ba thập kỉ qua, TQ sẽ chấp nhận và hậu thuẫn hệ thống đó (G. John Ikenberry, một giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Princeton, bênh vực cho vị thế này trong một tiểu luận về Ngoại giao. Trớ trêu thay, tiểu luận này xuất hiện năm 2008, đúng ngay khi sách lược ‘tằm ăn dâu’ của TQ bắt đầu tăng tốc). Ngoài ra, Campbell giả định rằng các nhà lãnh đạo TQ sẽ thấy rằng Mĩ và các nước láng giềng của TQ, thông qua cách thức nhẹ nhàng và nhẫn nại của họ, không đặt ra một mối đe dọa an ninh cho TQ. Và có lúc họ nhận ra rằng, hành động ‘tằm ăn dâu’ của TQ sẽ kết thúc.

Thái độ quyết đoán của TQ rõ ràng đang khơi mào một phản ứng an ninh mạnh mẽ toàn khu vực.Hợp tác an ninh đang phát triển nhanh chóng, từ Ấn Độ qua Đông Nam Á và Úc, và lên đến Nhật, nhằm cân bằng sức mạnh quân sự của TQ. Chi tiêu và mua sắm của quân đội các nước khác trong khu vực dự kiến sẽ nhảy vọt tương tự nhau trong 5 năm tới. Các quan chức Mĩ có thể kết luận rằng hoạt động như vậy càng xảy ra, gánh nặng an ninh của Mĩ trong khu vực càng nhẹ đi. 

Với nhẫn nhịn, các nhà hoạch định chính sách Mĩ đã cố gắng tránh những nan đề an ninh tồi tệ trong đó các quan ngại về an ninh sẽ khiến hai hay nhiều cường quốc thành đối thủ cạnh tranh nhau, với hậu quả là chạy đua vũ trang tăng tốc và lãng phí. Sự nhẫn nhịn của Mĩ có thể là một nỗ lực có ý tốt để tránh một hậu quả như vậy ở Đông Á. Nhưng khi mà TQ cứ tiến tới trong hiện đại hoá quân đội và ‘sách lược tằm ăn dâu’, các nhà hoạch định chính sách Mĩ sẽ sớm phải đối mặt với việc buộc phải thừa nhận TQ là một cường quốc ở châu Á và rằng sách lược nhẫn nhịn đã thất bại, rõ ràng sẽ có nghĩa là quay trở lại việc răn đe và trông cậy vào tính hữu ích của sức mạnh quân sự của Mĩ và đồng minh để duy trì sự ổn định. Các quan chức Mĩ sẽ bào chữa rằng họ không bao giờ từ bỏ răn đe như là một chính sách - họ sẽ trỏ vào việc tái cân bằng châu Á và cam kết đưa 60 % lực lượng không hải quân Mĩ đóng trong khu vực làm bằng chứng. 

Phục hồi biện pháp răn đe sẽ đòi hỏi Đô đốc Locklear và Harris và các cấp trên dân sự của họ phải thẳng thắn hơn với quân đội, đồng minh, và bản thân họ đối với mục đích và nhiệm vụ cụ thể của lực lượng trú đóng ở đó của họ cũng như những thiết bị, huấn luyện cần thiết cho công việc của họ là gì. Hiện nay, Hoa Kì chưa có giải đáp cho sách lược ‘tằm ăn dâu’ của TQ. Phải có thay đổi nào đó!

Robert Haddick là nhà nghiên cứu độc lập hợp đồng cho Sở chỉ huy các hoạt động đặc biệt của Hoa Kì. Ông viết ở đây với tư cách cá nhân. Vào tháng 9/2014, Nhà in học viện Hải quân Mĩ sẽ xuất bản cuốn sách của Haddick về sự trỗi dậy thành cường quốc quân sự của TQ và chiến lược của Mĩ ở Đông Á.Dịch: Phan Văn Song
Hiệu đính: Lê Vĩnh Trương

Monday, February 17, 2014

Nỗi buồn Hồ Gươm sáng 16-2-2014

Nỗi buồn Hồ Gươm sáng 16-2-2014

Posted by News on February 17th, 2014
Võ Văn Tạo
Cứ nghĩ suốt 35 năm qua, thái độ vong ơn, bạc bẽo đến tội lỗi của người ta đối với vong linh của hàng vạn đồng bào, chiến sĩ ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống 60 vạn quân xâm lược bành trướng Trung Quốc ở biên giới phía Bắc (khởi sự ồ ạt ngày 17-2-1979, kéo dài gần 10 năm), đã là quá đủ!
Cứ ngỡ, giờ đây, sau liên tiếp các sự kiện: Trung Quốc đánh cướp vùng biển đảo Trường Sa của Việt Nam, sát hại 64 chiến sĩ ta ngày 14-3-1988, khởi sự âm mưu tháng 11-2007 và chính thức phê chuẩn ngày 21-6-2012 về việc thành lập cái gọi là TP. Tam Sa (trắng trợn “ôm” các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), “sự cố” tàu Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp thăm dò dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngày 26-5-2011 ngay tại thềm lục địa của ta, tuyên bố không thể tham lam, ngược ngạo và lố bịch hơn của Trung Quốc ở trụ sở Liên Hiệp Quốc (ngày 7-5-2009) về cái gọi là “đường lưỡi bò” nuốt trọn Biển Đông, hàng trăm vụ lính Trung Quốc bắt bớ, cướp bóc trắng trợn ngư cụ, tôm cá, bắn giết tàn bạo ngư dân Việt Nam ở ngư trường truyền thống của ta trên Biển Đông suốt bao năm qua… Dù muộn màng, cuối cùng người ta cũng phải sáng mắt sáng lòng.
Cứ ngỡ, những ngày này năm nay, người ta đủ lương tri tối thiểu để có những hoạt động đại loại: cử đại diện chop bu lên các nghĩa trang biên giới phía Bắc, hoặc chí ít cũng đến Đài Liệt sĩ vô danh ở Thủ đô để đặt vòng hoa, thắp hương, cúi đầu sám hối, tổ chức hội thảo khoa học lịch sử, thăm viếng tri ân gia đình liệt sĩ cuộc chiến biên giới… như những biểu hiện hoàn lương.
Cứ ngỡ, dù chót vót ngôi cao, bổng lậu ngất trời làm cho mờ mắt vô tâm, huyết quản họ vẫn còn chút ít dòng máu Việt.
Cứ ngỡ…
*
Sáng 14-2-2014, hàng triệu con tim mang dòng máu Lạc Hồng hướng về Hồ Gươm – nơi vua Lê hoàn lại thần Kim quy thanh gươm báu sau sự nghiệp phục quốc – ngóng tin các nhân sĩ trí thức và đồng bào Thủ đô yêu nước “tự phát” tổ chức lễ tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ bỏ mình vì nước 35 năm trước. Những tin, mọi chuyện rồi sẽ suôn sẻ (thôi thì, người ta chưa làm được thì chí ít cũng để dân làm).
Nào ngờ, lại những trò cũ đã diễn sáng 19-1-2014, có “cải biên” đôi chút. Thay vì cho “côn an” giả dạng thợ xẻ đá mù mịt đinh tai nhức óc ở sân tượng đài Lý Thái Tổ, người ta lại bày trò “thi công” sân khấu, đưa các cặp đôi nam nữ đến nhảy nhót nhăng nhố trước hoạt động mang nghĩa cử thiêng liêng, trầm mặc của khoảng 300 nhân sĩ, trí thức khả kính và người dân – tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ vị quốc vong thân!
Tổ chức vui chơi giải trí ngay nơi diễn ra hoạt động tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ ngã xuống? Có cái “sáng kiến” làm giỗ nào táng tận lương tâm hơn thế?!
*
Nhưng cũng trong buổi sáng 16-2-2014 này ở Hồ Gươm, có tình tiết khác lạ. Tham gia lễ tưởng niệm, TS Nguyễn Xuân Diện cho biết, không thấy “côn an” chìm nổi, “dân phòng” giả dạng hung hăng chen lấn, xô đẩy, cản phá, cướp giật băng rôn, bắt bớ đánh đập, khủng bố “nguội” hèn hạ đủ kiểu như nhiều lần trước. Không biết có phải người ta bắt đầu bước những bước ngập ngừng đầu tiên trên con đường hoàn lương?
Dẫu sao, mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ non sông đất Việt (từ cả nghìn năm trước đến gần đây) đều được người ta không quên tổ chức kỷ niệm rình rang, chỉ trừ các cuộc chiến từ 1979 chống kẻ thù truyền kiếp là chủ nghĩa Đại Hán bành trướng tham tàn ở phương Bắc, cũng là điều chẳng thể vui.
Dẫu sao, mọi người có lương tri đều hy vọng dịp tưởng niệm Liệt sĩ trận chiến Trường Sa 14-3 tới đây, người ta sẽ chấm dứt những trò nhăng nhố tương tự.

Để kết, xin mượn ý câu thơ Tố Hữu ngày nào:
“Tôi kể ngày nay chuyện Mác – Lê
Giáo điều lầm chỗ để trên đầu
Chủ quyền cố ý trao tay giặc
Sao khỏi cơ đồ đắm biển sâu?”

(nguyên tác trong bài Tâm sự của Tố Hữu:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thấn vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”)

V.V.T.

Sunday, February 16, 2014

MỘT TẤC ĐẤT KHÔNG THÈM

MỘT TẤC ĐẤT KHÔNG THÈM

Hồ Ngọc Nhuận

(Bài đã đăng trên nhật báo Tin Sáng Tp Hồ Chí Minh, ngày 24/3/1979) 
Một tấc đất không thèm…
Đặng Tiểu Bình và bè lũ đã giỡ giọng này tại Bắc Kinh, sau khi hô quân rút chạy khỏi Việt Nam.
Trần Sở, tên đại sứ của hắn, cũng đã khua môi như thế tại Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc.
Một tấc đất không thèm…
Giọng lưỡi này, trong suốt thời kỳ ta dựng nước, tính đến ngày nay, người Việt Nam ta hẳn đã có chán chê kinh nghiệm, qua 11 lần Trung Quốc xua quân ong kiến xâm chiếm nước ta.
Giọng lưỡi này, toàn bộ lịch sử dân tộc ta cũng đã từng “ghi nhận”, khi từng trang lịch sử ấy chính là từng trang lịch sử chống quân Trung Quốc xâm lược, cho tới tận hậu bán thế kỷ thứ 20 này.
Một tấc đất không thèm…
Giọng lưỡi ấy ông cha ta đã từng nghe từ triều Tần, triều Tống… Giọng lưỡi ấy cha anh ta đã từng phát hiện ra mùi hăng hắc ngay từ trong đám quân Tàu Tưởng 18 vạn tên ốm đói kéo vào vơ vét các tỉnh phía bắc nước ta, khi phát-xít Nhật bại trận đầu hàng đồng minh, và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ra lệnh tống cổ đuổi đi.
Giọng lưỡi ấy xác nhận một đặc tính di truyền bất di bất dịch và không thể nghi ngờ giữa tất cả các triều đại trị vì Trung Quốc xưa và nay, từ bọn phong kiến Trung Quốc xâm lược nước ta trước kia đến bọn phản động Trung Quốc xâm lược nước ta bây giờ, giữa cái mồm hạm nhà Tần, nhà Minh ngày trước và cái hàm sói của họ Đặng và bọn cầm quyền Trung Quốc hiện nay.
Một tấc đất không thèm…
Thế là trẻ con Bắc Kinhvà  Trung Quốc ngày nay lại có thêm một bài học về đạo lýTrung Quốc để bổ sung cho bài học về địa lý Trung quốc mà chúng đã buộc phải học trước đây, với bức “dư đồ” Trung Quốc, gồm hàng triệu, hàng tỉ tấc đất của Ấn Độ, của Nê Pan, của Mông Cổ,của Miến Điện, của Triều Tiên, của Nhật Bản, của toàn bộ vùng Đông Nam Châu Á…Đạo lý đó là: Một tấc đất không thèm, nhưng toàn bộ nước Việt Nam thì thèm, toàn bộ Đông Dương thì thèm, thèm lắm.
Một tấc đất không thèm…
Nhưng hơn 700 hecta ruộng đất màu mỡ của ta ở xã Trinh Tường – Quảng Ninh, hơn 300 hecta rẫy lúa phì nhiêu của ta ở xã Nậm Chảy – Hoàng Liên Sơn, hàng vạn hecta hoa màu của ta trên hàng 100 địa điểm sát vùng biên giới Việt – Trung như xã Tà Lùng ở Hà Tuyên, xã Khâm Khau ở Cao Bằng, xã Thanh Lòa ở Lạng Sơn, v.v. thì chúng rất thèm nên cả đàn cả lũ đã kéo sang xâm canh xâm cư, gấp rút xây dựng cơ sở vật chất, lén lút thủ tiêu hay dời cột mốc biên giới rồi ngang nhiên xâm chiếm làm đất Trung Quốc từ nhiều chục năm nay.
Một tấc đất không thèm…
Nhưng hơn 316 mét đường sắt  ở khu vực Hữu Nghị Quan – Lạng Sơn rõ ràng không chỉ bằng đất nên không nằm trong qui luật ấy. Các cầu ngầm Hoành Mô, Pò Hèn  thuộc tỉnh Quảng Ninh, cầu Pa Nậm Cúm tại Lai Châu, đập Ái Cảnh ở Cao Bằng không làm  bằng đất mà bằng bê tông nên chúng không thể không thèm. Còn mỏ măngan trong khu vực  Phia Un, mỏ than chì ở Trà Mần – Suối Lũng, còn thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong ở Cao Bằng thì làm sao không “thiếm xực”?
Và làm sao không “thiếm xực” nguồn lợi dầu lửa trên hải đảo và thềm lục địa nước ta mà không bán linh hồn cho quỉ đế quốc để xua quân xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta ngay trong khi ta còn bận tay đánh Mỹ?
Làm sao một tấc đất có thể đong đầy lòng tham bành trướng không cùng của bọn phản động theo Mao, rặc nòi Nam Hán, khi chính khẩu hiệu trước sau của chúng là “Với 500 triệu bần nông xua quân xuống Đông Nam Á làm chiến tranh thế giới”? Khi nước Lào đất rộng người thưa dồi dào tài nguyên khoáng sản là mục tiêu di dân lý tưởng mà chúng hằng ôm ấp và không hề che giấu? Khi chúng chủ trương  cho bọn phản động cầm quyền có máu Trung Quốc Pôn Pốt – Iêng Xari đập đầu hằng triệu nhân dân Campuchia, đưa vào nước Campuchia hàng kho vũ khí còn lớn hơn số dân Campuchia chúng giết, để rồi đưa dân Trung Quốc lấp vào lỗ trống, đội lốt nhân dân Campuchia, cầm lấy vũ khí ấy mà kéo đi giành đất cho Trung Quốc.
Ông cha ta quả đã không có chút mơ hồ, các bậc phụ lão của ta ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên,Lai Châu… quả đã có những băn khoăn hợp lý về lòng tráo trở của bọn cầm quyền Bắc Kinh ngay khi ta còn cùng dựa lưng với chúng vì nhu cầu thiết yếu đánh Mỹ xâm lược.
Đồng bào ta ở vùng biên giới quả đã có lòng cảnh giác ở độ cao liên tục từ đời này sang đời khác khi nâng kỷ thuật xây cất nhà cửa kiên cố như công sự chiến đấu, như pháo đài, thành nghệ thuật kiến trúc truyền thống, hầu chống lại các phường thổ phỉ từ phương bắc thường xuyên sang cướp phá nước ta.
Không kể chuyện cũ, chỉ tính từ ngày chúng chiếm Hoàng Sa của chúng ta, năm 1974, cho đến trước ngày chúng xua quân ồ ạt tiến đánh nước ta, bọn Trung Quốc cướp nước đã tiến hành hơn 5.000 vụ lấn chiếm đất đai tại các tỉnh biên giới phía bắc nước ta (1).
Và đã hơn một lần máu đồng bào ta tại các vùng biên giới đã đổ. Anh Lê Đình Chinh của chúng ta ở Lạng Sơn cũng đã ngã xuống vì tham vọng lấn chiếm của Trung Quốc.
Một tấc đất không thèm…
Có thể đúng thật… vì con thú dữ to xác  ở sát nách ta cần đất không bằng cần máu: máu của hàng trăm trẻ thơ vô tội bị xé xác ở Lào Cai, ở Đồng Đăng, ở Phố Lu…, máu của các cụ già và phụ nữ đồng bào ruột thịt  của ta.
Một tấc đất không thèm.
Láo thật!
Của chìm của nổi của ta trên tấc đất ấy, công lao mồ hôi nước mắt của ta trên tấc đất ấy, tài nguyên thiên nhiên phong phú của ta trên tấc đất ấy há đã không làm cho chúng, từ đời nầy sang đời khác, rỏ dãi ra sao? Ngay cả những gì  ta thải ra trên ấy ắt chúng cũng không chừa, chúng vốn chuyên về môn bón phân bắc.
Một tấc đất không thèm…
Nhưng hài cốt của bọn cướp nước, ông cha chúng bị quân dân ta vùi thây trên tấc đất ấy thì chúng thèm. Chúng vốn chuyên nghề địa lý, huyệt mả và không bao giờ chúng từ bỏmộng tranh bá đồ vương truyền kiếp.
Kinh nghiệm ngàn năm qua,kinh nghiệm máu xương vừa rồi khẳng  định rằng con thú dữ Bắc Kinh vừa rất thèm đất, vừa rất khát máu.
Ngày nào còn bọn chúng, ngày nào còn Đặng và bè lũ phản động cầm quyền ở Bắc Kinh, ngày ấy cho dù một tấc đất của ông cha , ta cũng phải giữ cho bằng được.
Đó là mệnh lệnh thiêng liêng của Tổ Quốc.
(24-3-1979, Hồ Ngọc Nhuận tự Hồ Đắc, chủ bút nhật báo Tin Sáng, Thành phố Hồ Chí Minh).
(1)   : 1974 : 179 vụ
1975  : 294 vụ
1976 : 812 vụ
1977 : 873 vụ
1978 : 2175 vụ
H.N.N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN