Thursday, December 24, 2015

Đi tới dân chủ: Những bài học từ các cuộc chuyển đổi thành công

Đi tới dân chủ: Những bài học từ các cuộc chuyển đổi thành công

(Getting to Democracy: Lessons From Successful Transitions)

FOREIGN AFFAIRS (tháng 1/2 năm 2016)
Abraham F. Lowenthal và Sergio Bitar
ABRAHAM F. Lowenthal là một Senior Fellow tại Viện Brookings và Giám đốc sáng lập Đối thoại Liên Mỹ.
Sergio BITAR là Chủ tịch Quỹ Chile vì Dân chủ và là Uỷ viên cao cấp tại Đối thoại Liên Mỹ. Ông là nghị sĩ quốc hội Chile từ năm 1994 đến 2002.
Hai ông là đồng biên tập viên của quyển Các cuộc chuyển đổi dân chủ: trò chuyện với các lãnh đạo thế giới (Johns Hopkins University Press và IDEA International, 2015), bài viết này được chuyển thể từ đó.

(Bản dịch này đã đăng trên anhbasam 25/12/2015, bản song ngữ ở đây)

Nguồn ảnh: Bettmann/ Corbis
Nguồn ảnh: Bettmann/ Corbis

Gần 5 năm trước, các cuộc biểu tình quần chúng[1] đã quét chế độ chuyên quyền Hosni Mubarak ra khỏi quyền lực ở Ai Cập[2]. Hầu hết các nhà quan sát trong và ngoài Ai Cập đều  tin rằng nước này đang trên đường đi đến một tương lai dân chủ; thậm chí một số còn tuyên bố rằng dân chủ đã đến. Nhưng cuộc bầu cử Mohamed Morsi và Đảng Tự do và Công lí của Nhóm Anh Em Hồi giáo (Muslim Brotherhood) đã dẫn đến phân cực và bạo lực, và vào năm 2013, sau nhiều cuộc biểu tình, Tướng Abdel Fattah el-Sisi đã nắm quyền[3] trong một cuộc đảo chính quân sự. Kể từ đó, chế độ Sisi đã giết chết hơn 1 000 dân thường, bỏ tù hàng chục nghìn người khác, và xiết chặt phương tiện truyền thông và xã hội dân sự.

Tunisia gần bên, trong tình trạng tốt hơn[4]. Làn sóng nổi dậy Ả Rập bắt đầu ở đó vào năm 2010, và chính phủ dân chủ mà cuộc cách mạng Tunisia mở ra đến nay vẫn còn tồn tại. Nó đã thành công ở một trong những nhiệm vụ quyết định của cuộc chuyển đổi: đồng ý về một hiến pháp mới, một thành tựu được Ủy ban Nobel công nhận khi trao giải Nobel Hòa bình cho bốn tổ chức xã hội dân sự tích cực trong cuộc chuyển đổi của Tunisia. Nhưng nền dân chủ của Tunisia vẫn còn mong manh, bị đe dọa bởi bạo lực chính trị, đàn áp bất đồng chính kiến, và vi phạm nhân quyền. Ở Cuba, cũng vậy, cuối cùng đã có những hi vọng về một tương lai dân chủ, khi các nhà cai trị độc tài già cỗi bắt đầu bước vào cải cách. Và ở Myanmar (còn được gọi là Miến Điện), việc chuyển đổi chậm không đều từ nền cai trị quân sự sang nền quản trị toàn diện đang diễn ra, nhưng vẫn còn đầy khó khăn.

Điều gì quyết định để các nỗ lực lúc chuyển đổi dân chủ sẽ thành công? Kinh nghiệm đã có cho ta một số hiểu biết. Chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn sâu rộng với 12 cựu tổng thống và một cựu thủ tướng từng đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chuyển đổi dân chủ thành công ở Brazil, Chile, Ghana, Indonesia, Mexico, Philippines, Ba Lan, Nam Phi, và Tây Ban Nha. Một số từng là lãnh đạo trong các chế độ độc tài nhưng vẫn giúp vào việc lèo lái đất nước về hướng nền dân chủ có hiệu quả. FW de Klerk, trong cương vị tổng thống Nam Phi, đã đàm phán với Nelson Mandela và Đại hội Dân tộc Phi (ANC) dẫn đến việc chấm dứt chủ trương apartheid (phân biệt chủng tộc). BJ Habibie, Phó Tổng thống dưới quyền nhà cầm quyền độc tài lâu năm Indonesia, Suharto, trở thành tổng thống sau khi Suharto từ chức[5] khi đối mặt với các cuộc biểu tình lớn. Habibie sau đó đã thả các tù chính trị, hợp pháp hoá công đoàn, chấm dứt kiểm duyệt báo chí, cho phép thành lập các đảng chính trị mới, và cải tiến các quy định chính trị ở Indonesia, mở đường cho nền dân chủ lập hiến.

Các nhà lãnh đạo khác từng nổi bật trong phong trào đối lập đã mang đến sự kết thúc của nền cai trị độc tài và sau đó giúp xây dựng nền dân chủ ổn định. Patricio Aylwin, lãnh đạo phe đối lập với Tướng Augusto Pinochet, nhà độc tài cầm quyền lâu năm của Chile, trở thành tổng thống dân cử đầu tiên của đất nước mình sau khi nền dân chủ khôi phục vào năm 1990. Tadeusz Mazowiecki, nhà trí thức công giáo và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, trở thành Thủ tướng đầu tiên của Ba Lan sau cộng sản.

Chúng tôi cũng có phỏng vấn những khuôn mặt cầu nối: những lãnh đạo vốn trãi qua hai chế độ chuyên chế và dân chủ, như Aleksander Kwasniewski, một bộ trưởng trong chính phủ cộng sản Ba Lan đã tham gia vào các cuộc thảo luận bàn tròn dẫn đến việc mở cửa dân chủ ở Ba Lan[6]. Sau đó, trong cương vị tổng thống, ông đã xây dựng thể chế dân chủ của Ba Lan. Fidel Ramos, một quan chức quân sự cấp cao Philippines dưới chế độ độc tài Ferdinand Marcos, tham gia phe đối lập trong các cuộc biểu tình Sức mạnh Nhân dân (People Power) lớn vào năm 1986. Sau đó, ông giữ chức bộ trưởng quốc phòng và tiếp đó là tổng thống thứ hai của nền dân chủ hậu Marcos.

Mặc dù các lực lượng xã hội, dân sự và chính trị rộng lớn đóng vai trò quan trọng, các nhà lãnh đạo này là chìa khóa cho cuộc chuyển đổi thành công ở đất nước họ. Họ đã giúp đưa đến sự chấm dứt chế độ độc tài và xây dựng nền dân chủ lập hiến thay vào, thể chế hoá thông qua các cuộc bầu cử thường xuyên, công bằng hợp lí, kết hợp với những ràng buộc có ý nghĩa trên quyền hành pháp và các bảo đảm thực tế cho các quyền chính trị thiết yếu và không một cuộc chuyển đổi nào trong số này đã bị đảo ngược. Dân chủ vẫn là một công việc đang tiến triển ở một số nước này, nhưng các cuộc chuyển đổi trên cơ bản đã thay đổi sự phân bố quyền lực và thực hành chính trị.

Tất nhiên, không có một mô-hình-thích-hợp-cho-mọi-thứ cho sự thay đổi dân chủ. Tuy nhiên, các cuộc chuyển đổi đã qua cho ra một số bài học áp dụng rộng rãi được. Các nhà cải cách dân chủ phải sẵn sàng thoả hiệp khi họ đặt ưu tiên cho tiến bộ từng bước nhỏ (incremental) lên trên các giải pháp toàn diện. Họ phải xây dựng các liên minh, tìm cách với tới một số người trong chế độ mà họ tìm cách lật đổ, và vật lộn với câu hỏi về công lí và trừng phạt. Và họ phải đặt quân đội dưới sự kiểm soát dân sự. Những ai quan tâm đến việc xây dựng nền dân chủ từ đống đổ nát của chế độ độc tài có thể cải thiện những điều khuyết nhược bằng cách làm theo các thực hành tốt nhất này.


CHUẨN BỊ NỀN MÓNG

Một cuộc chuyển đổi dân chủ thành công bắt đầu trước khi các chính trị gia được bầu nắm quyền rất lâu. Phe đối lập trước hết phải giành được đủ sự ủng hộ của công chúng trong việc thách thức khả năng cai trị của chế độ và định vị chính họ như là một ứng viên cầm quyền thích đáng. Lãnh đạo phe đối lập phải huy động các cuộc biểu tình, tố cáo việc bỏ tù, tra tấn, trục xuất người bất đồng chính kiến; và làm xói mòn tính hợp pháp của chế độ bên trong nước và trên trường quốc tế.

Điều này thường đòi hỏi phải tìm cách thu hẹp những bất đồng sâu sắc trong phe đối lập về mục tiêu, lãnh đạo, chiến lược, và chiến thuật. Hầu hết các nhà lãnh đạo chuyển đổi mà chúng tôi phỏng vấn đã làm việc cần mẫn không kể giờ giấc để vượt qua những chia rẽ như thế và xây dựng liên minh rộng lớn các lực lượng đối lập, tập hợp các đảng chính trị, các phong trào xã hội, công nhân, sinh viên, các tổ chức tôn giáo, và các nhóm lợi ích doanh nghiệp chủ chốt xung quanh một chương trình hành động chung. Ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết đã làm việc chặt chẽ với các tổ chức sinh viên, trí thức, và các thành phần của Giáo Hội Công Giáo. Phong trào đối lập của Brazil đã thuyết phục các nhà công nghiệp ở São Paulo ủng hộ mục tiêu của họ. Tại Tây Ban Nha, các nhóm đối lập giải quyết phần lớn các khác biệt của họ trong các cuộc đàm phán dẫn đến hiệp ước Moncloa năm 1977, trong đó họ đã đồng ý về cách điều hành nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi.

Ngược lại, ở nơi nào mà phe đối lập không đoàn kết được với nhau, triển vọng cho nền dân chủ bị thiệt hại. Tại Venezuela, những chia rẽ nghiêm trọng về việc đối dầu với chính quyền đến mức nào đã khiến phe đối lập không lợi dụng được đầy đủ việc quản lí kinh tế yếu kém của chế độ cho đến nay.


Ở Serbia, Slobodan Milosevic đã có thể cai trị một cách ngày càng độc tài sau khi lên nắm quyền vào năm 1989 một phần nhờ vào sự bất lực của phe đối lập Serbia trong việc thể hiện một mặt trận thống nhất. Ở Ukraine, cuộc Cách mạng Cam năm 2004-5[7] lật ngược kết quả bầu cử bị rất nhiều người coi như đã được sắp xếp. Nhưng những chia rẽ giữa các nhà cải cách sau đó đã kềm giữ các tổ chức dân chủ và các quy định pháp luật tiến triển xa hơn, dẫn đến một thập kỷ cầm quyền của thiểu số đầu xỏ và tham nhũng chính trị.

Phong trào đối lập dân chủ cũng cần phải xây dựng các cầu nối với những người trong quá khứ đã từng hợp tác với chế độ nhưng bây giờ có thể sẵn sàng ủng hộ dân chủ hóa. Chú trọng vào những bất bình trong quá khứ dễ gây phản tác dụng, thay vào đó các nhà cải cách dân chủ nên luôn thể hiện một tầm nhìn tích cực và nhìn về phía trước về cuộc chuyển đổi để chống lại nỗi sợ hãi phổ biến mà các chế độ độc tài tiêm cấy. Đồng thời, họ nên tìm cách cách li những người không chịu từ bỏ bạo lực hoặc những người khăng khăng với những đòi hỏi về quyền tự chủ khu vực, dân tộc hay tông phái.

Nhưng đoàn kết phe đối lập là chưa đủ; lực lượng dân chủ cũng phải hiểu và khai thác sự chia rẽ trong chế độ hiện hành. Để thuyết phục các phần tử trong chế độ cởi mở với thay đổi, các nhà cải cách phải đề ra các đảm bảo đáng tin cậy rằng họ sẽ không tìm cách trả thù hoặc tịch thu tài sản của người trong chế độ. Phong trào đối lập nên phấn đấu hết sức để trở thành người đối thoại hữu hiệu đối với những người trong chế độ độc đoán đang mong muốn một chiến lược thoát ra, trong khi cô lập những người vẫn còn khư khư cố thủ. Ví dụ, chiến lược cốt lõi của nhà cải cách Fernando Henrique Cardoso của Brazil[8] là dẫn dụ các phần tử trong quân đội vươn tới việc tìm kiếm một lối thoát ra.

Đối lại, những ai đương quyền mà nhận ra sự cần thiết phải từ bỏ chế độ độc tài phải tìm mọi cách để duy trì sự ủng hộ của cử tri cốt lõi của họ trong khi đàm phán với các nhóm đối lập. Những lần “rút lui vào rừng” mà de Klerk tổ chức cùng với các thành viên trong nội các của ông vào năm 1989 và 1990 là một mô hình cho điều này. Trong những lần trao đổi đó, ông đã xây dựng một sự đồng thuận bí mật trong nội các của ông cho các bước đi đột biến mà ông sẽ tuyên bố: hợp pháp hóa ANC, trả tự do cho Mandela cùng các tù chính trị khác, và mở các cuộc đàm phán chính thức.

Tiếp xúc trực tiếp giữa phe đối lập và chế độ có thể diễn ra bí mật lúc đầu, nếu cần, như đã xảy ra trong các tiếp xúc ban đầu giữa các quan chức chính phủ và đại diện ANC, vốn được tổ chức bên ngoài Nam Phi vào giữa những năm 1980. Các cuộc đối thoại không chính thức, chẳng hạn như các cuộc thảo luận bàn tròn tại Ba Lan, có thể giúp các thành viên của chế độ và phe dân chủ đối lập hiểu nhau, vượt qua những định kiến, và xây dựng các mối quan hệ cộng tác. Như de Klerk nhận xét, "không thể nào giải quyết xung đột nếu các bên có liên quan không nói chuyện với nhau…. Để đàm phán thành công, bạn cần phải đặt mình vào vị trí của bên kia. Ta phải suy nghĩ cặn kẽ trường hợp của họ và xác định. . . đòi hỏi tối thiểu [của bên kia] để đảm bảo có sự tham gia mang tính hợp tác và xây dựng của họ trong quá trình đàm phán." Trong suốt quá trình này, các nhà cải cách phải gây sức ép lên chế độ và chấp nhận liều lĩnh để đạt được tiến bộ liên tục, ngay cả khi tiến bộ đó chỉ là từ từ và từng chút một. Họ phải sẵn sàng để thực hiện các thỏa hiệp, ngay cả khi các thỏa hiệp này khiến một vài mục tiêu có tính sống còn chỉ đạt được một phần và làm một số người ủng hộ quan trọng thất vọng. Từ bỏ vị thế tối đa thường đòi hỏi sự can đảm chính trị hơn là bám chặt vào những nguyên tắc hấp dẫn nhưng không thực tế. Làm nên sự chuyển đổi không phải là một nhiệm vụ cho kẻ giáo điều.

Chẳng hạn ở Ghana, John Kufuor, lãnh tụ của Đảng Yêu nước mới, không chấp nhận việc đảng ông tẩy chay cuộc bầu cử năm 1992, cho rằng đảng nên tham gia vào cuộc bầu cử năm 1996, dù có thể bị thua. Chiến thắng của Kufuor sau đó trong cuộc bầu cử năm 2000 đã dẫn đến việc chuyển giao quyền lực hòa bình thông qua lá phiếu, một mô hình tiếp tục trong 15 năm. Và ở Mexico, Ernesto Zedillo, dù là một thành viên nổi bật của Đảng Cách mạng (PRI) cầm quyền lâu năm, đã ủng hộ những cải cách từng chút một[9] trong thủ tục bầu cử đàm phán được với phe đối lập tại một thời điểm mà PRI, sau bảy thập kỷ cầm quyền, dường như khó có khả năng nhượng lại quyền kiểm soát. Sau đó, khi là tổng thống, ông đã đồng ý với các thay đổi sâu xa hơn liên quan đến tài chính cho vận động tranh cử và ủng hộ cải cách về củng cố các cơ quan chức bầu cử đã giúp mở đường cho việc chuyển giao quyền lực chưa từng có từ PRI sang phe đối lập vào năm 2000.

Những nguy hiểm nằm trong việc không chấp nhận thỏa hiệp là rõ ràng trong trường hợp Ai Cập. Trong thời ngự trị ngắn ngủi của Muslim Brotherhood, nhóm này nhấn mạnh vào một chương trình hành động Hồi giáo khi họ soạn thảo hiến pháp mới, và điều này xa lạ với nhiều khối lớn dân chúng. Tại Chile, các thành viên cực tả của phe đối lập ủng hộ “mọi hình thức đấu tranh,” kể cả bạo lực, chống lại chế độ Pinochet. Đến năm 1986, đa số người trong phong trào đối lập hiểu rằng họ không thể lật đổ chế độ độc tài bằng vũ lực và việc liên kết với nhóm cực tả làm họ bị hoen ố. Thay vào đó họ quay trở lại việc đấu tranh hòa bình và cam kết xây dựng một “tổ quốc cho mọi người.” Cách tiếp cận này đã giúp phe đối lập thắng Augusto Pinochet trong cuộc trưng cầu ý dân năm 1988, một cuộc bỏ phiếu mà nhiều người trong phe đối lập lúc đầu muốn tẩy chay.


CHÍNH QUYỀN DÂN SỰ VÀ AN NINH

Lật đổ chế độ độc đoán là một chuyện; quản trị đất nước lại là chuyện rất khác. Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi thường xuyên phải đối mặt với áp lực phải dọn sạch toàn bộ bộ máy và làm lại từ đầu, nhưng họ nên cưỡng lại điều đó: quản trị đòi hỏi tầm nhìn, nhân sự, và các kĩ năng vốn khá khác biệt với những thứ cần khi ở thế đối lập. Một khi phe đối lập nắm quyền, bước quan trọng nhất là chấm dứt bạo lực và lập lại trật tự trong khi đảm bảo rằng tất cả các lực lượng an ninh phải hoạt động trong phạm vi pháp luật. Các cuộc phỏng vấn của chúng tôi cung cấp những ghi nhận hấp dẫn về các thách thức kéo dài do mối quan hệ dân sự-quân sự đặt ra. Các nhà cải cách phải đưa tất cả các cơ quan an ninh dưới sự kiểm soát dân sự dân chủ càng sớm càng tốt, đồng thời với việc công nhận và tôn trọng vai trò hợp pháp của các cơ quan này, cung cấp cho họ đủ tài nguyên và bảo vệ các lãnh đạo của họ không bị trả thù không phân biệt vì các đàn áp trong quá khứ.

Để thực hiện việc này, cảnh sát và các cơ quan tình báo trong nước nên được tách ra khỏi quân đội. Các nhà lãnh đạo cần làm cho lực lượng cảnh sát nhận thức rõ về thái độ mới đối với người dân nói chung bằng cách nhấn mạnh trách nhiệm của lực lượng an ninh là bảo vệ thường dân chứ không phải là đàn áp họ, mà không làm giảm khả năng của lực lượng này đối với việc triệt phá các nhóm bạo lực. Các nhà cải cách cần loại bỏ các sĩ quan cao cấp đảm trách việc tra tấn và đàn áp thô bạo, đặt các chỉ huy quân đội cấp cao thuộc thẩm quyền trực tiếp của Bộ trưởng quốc phòng dân sự, và nhấn mạnh rằng các sĩ quan quân đội đang làm nhiệm vụ ngưng hoàn toàn việc dính dáng vào chính trị.

Những bước đi đó kê ra dễ hơn là đưa vào hành động, và việc thực hiện chúng đòi hỏi sự phán xét chính trị nhạy bén và long can đảm. Trong một số trường hợp, những bước này có thể giải quyết sớm được; trong những trường hợp khác, sẽ cần rất nhiều thời gian. Nhưng chúng cần đượcđặt ưu tiên cao ngay từ đầu, cũng như duy trì cảnh giác. Như Habibie giải thích, khi bàn luận về quan hệ dân sự-quân sự tại Indonesia, “Những người lãnh đạo cuộc chuyển đổi. . . phải cho thấy, không phải bằng lời nói hay lời văn mà bằng hành động, về tầm quan trọng của kiểm soát dân sự.” Các quan chức dân sự cấp cao chịu trách nhiệm giám sát các lực lượng an ninh cần phải có kiến thức về các vấn đề an ninh và được sự tôn trọng của những người ngang cấp trong quân đội, cảnh sát, và các cơ quan tình báo. Điều này có thể khó khăn ở những nơi mà phong trào dân chủ từng đụng độ mạnh bạo với các cơ quan an ninh, nơi ngờ vực lẫn nhau vẫn còn kéo dài, và ở những nơi thiếu sự tôn trọng đối với chuyên gia dân sự trong các vấn đề quân sự.

Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi cũng phải cân bằng mong muốn cứu xét trách nhiệm của chế độ cũ với sự cần thiết phải giữ gìn kỷ luật và tinh thần chiến đấu của các lực lượng an ninh. Họ phải vun bồi việc chấp nhận hòa bình với nhau giữa các kẻ trước đây thù địch nhau gay gắt -không phải là vấn đề dễ dàng. Chỉ khi đó người dân mới bắt đầu tin tưởng vào nhà nước mà có nhiều người đã không chấp nhận vì, có thể hiểu được, cho là bất hợp pháp và thù địch, và chỉ khi đó lực lượng an ninh mới hợp tác đầy đủ với những công dân mà trước đây họ đã coi là phá hoại/lật đổ.

Đặt các cơ quan an ninh dưới quyền kiểm soát dân sự là một trong những thách thức kéo dài nhất mà các nền dân chủ mới phải đối mặt. Ưu thế[10] mà quân đội Ai Cập tiếp tục có được trên bất kỳ tổ chức dân cử nào là nguyên nhân trung tâm của cuộc chuyển đổi dân chủ thất bại của Ai Cập. Và ở nhiều nước khác nhau như Gambia, Myanmar và Thái Lan, việc chính quyền dân sự thiếu thẩm quyền đối với lực lượng an ninh vẫn là trở ngại quan trọng nhất đối với sự thành công của cuộc chuyển đổi dân chủ.


THÁCH THỨC VỀ LẬP HIẾN

Đưa quân đội dưới sự kiểm soát dân sự có thể giúp các nhà lãnh đạo chuyển đổi truyền tải niềm tin trong nước và tính hợp pháp quốc tế. Vì thế, việc phát triển các thủ tục bầu cử phản ánh ý chí của đa số và bảo đảm cho những người bị thất cử rằng những quan tâm cốt lõi của họ sẽ được tôn trọng trong nền pháp trị (rule of law). Ở hầu hết các nước, việc soạn thảo hiến pháp mới là cốt yếu, dù Indonesia giữ lại hiến pháp năm 1945 của mình với một số điều có sửa đổi và Ba Lan chỉ chấp nhận toàn bộ bản hiến pháp mới nhiều năm sau khichủ nghĩa cộng sản kết thúc.

Việc soạn thảo hiến pháp nên có đông đảo thành phần tham gia và cố giải quyết những quan tâm chính yếu của các khu vực chủ chốt, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải chấp nhận, ít ra là tạm thời, các thủ tục hạn chế dân chủ. Hãy xét hệ thống bầu cử thiên lệch còn duy trì ở Chile[11] trong 25 năm sau khi chế độ Pinochet kết thúc nhằm xoa dịu quân đội và các nhóm bảo thủ hay việc trao chức vụ phó tổng thống cho lãnh tụ đối lập ở Nam Phi. Xây dựng sự ủng hộ rộng rãi cho hiến pháp mới cũng có thể còn đòi hỏi phải lồng ghép vào những khát vọng cao xa mà về sau cần phải được hạ xuống hoặc phải thực hiện theo từng bước, chẳng hạn như các quy định đầy tham vọng kinh tế xã hội trong Hiến pháp năm 1988 của Brazil, đòi hỏi về quyền lao động rộng rãi, cải cách ruộng đất, và chăm sóc y tế toàn dân.

Mặc dù lời lẽ chính xác của hiến pháp là quan trọng, việc hiến pháp được thông qua như thế nào, khi nào và do ai có thể quan trọng hơn. Những người soạn thảo hiến pháp phải đạt được sự đồng thuận rộng rãi và bảo đảm rằng không quá dễ mà cũng không phải không có cách thực tế nào để sửa đổi hiến pháp khi điều kiện cho phép.

Nhiều người chỉ trích công thức của  Aylwin rằng ủy ban sự thật ở Chile chỉ có thể cung cấp công lí "tới mức có thể được" - nhưng cái  có thể được lại được mở rộng năm này qua năm khác. Mục đích chủ yếu nên là tạo ra sự chấp nhận rộng rãi các quy tắc cơ bản của việc tham gia dân chủ. Như Thabo Mbeki[12], tổng thống thứ hai của Nam Phi hậu apartheid, nhận xét: “Điều quan trọng là bản hiến pháp do toàn thể người dân Nam Phi sở hữu và do đó quá trình lập hiến pháp phải có tính bao gồm (inclusive)." Quá trình này phải bao gồm những người ủng hộ chế độ cũ, những người sẽ cần các đảm bảo rằng các quyền của họ sẽ được tôn trọng dưới nền pháp trị. Việc truy tố tập thể không phân biệt các quan chức cũ là thiếu khôn ngoan. Thay vào đó. các nhà lãnh đạo mới phải thiết lập các quy trình pháp lí minh bạch để tìm kiếm sự thật về những lạm dụng trong quá khứ, đưa ra việc thừa nhận và có lẽ việc sửa chữa cho các nạn nhân, và, nếu khả thi, đưa các thủ phạm chính ra trước công lí. Mặc dù hòa giải hoàn toàn có thể là điều bất khả, khoan dung lẫn nhau là một mục tiêu quan trọng. Thỏa hiệp, một lần nữa, là điều có tính sống còn.


CÂN BẰNG HÀNH ĐỘNG

Khi cuộc chuyển đổi dân chủ chựng lại, công chúng thường đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo dân chủ - và đôi khi cho chính nền dân chủ-- do không đáp ứng kỳ vọng về kinh tế hoặc chính trị. Chính quyền mới thường phải kế thừa các cách thức tham nhũng và sự kém hiệu quả đã ăn sâu. Các phong trào từng đoàn kết nhau trong phản kháng chế độ độc tài có thể bị phân mảnh. Các tổ chức xã hội dân sự đóng góp cho phong trào đối lập chống độc tài đôi khi phân rã hoặc chuyển qua vị trí gây rối, đặc biệt là sau khi nhiều nhà lãnh đạo tài năng nhất của họ đi vào chính phủ hay chính trị đảng phái.

Xây dựng mối quan hệ có tính xây dựng giữa chính phủ mới và phe đối lập mới là một thách thức kéo dài. Cạnh tranh giữa chính phủ và phe đối lập là lành mạnh cho dân chủ, nhưng sự gàn cản hoàn toàn của phe đối lập hoặc sự đàn áp của chính phủ đối với mọi chỉ trích có thể nhanh chóng tiêu diệt sự cạnh tranh đó. Tư pháp độc lập để giữ cho hành pháp có trách nhiệm mà không ngăn chặn quá nhiều sáng kiến mới cùng với truyền thông tự do và có trách nhiệm có thể giúp củng cố nền dân chủ bền vững.

Các đảng chính trị cũng đóng một vai trò quan trọng chừng nào mà chúng không đơn thuần trở thành phương tiện của các cá nhân nào đó và phe nhóm của họ. Các đảng dân chủ có chương trình hành động và tổ chức tốt là phương tiện tốt nhất để thu hút mọi tầng lớp dân chúng, huy động sức ép hiệu quả, tổ chức hậu thuẫn bền vững cho các chính sách, chuyển hướng các nhu cầu công cộng, cũng như nhận diện và đề cử các nhà lãnh đạo có kĩ năng cao. Sự phát triển của các đảng phái mạnh đòi hỏi chú ý kĩ càng đến các thủ tục và các điều an toàn liên quan tới việc lựa chọn ứng cử viên, tài chính cho vận động tranh cử và tiếp cận với truyền thông. Nhiều thách thức đang tiếp diễn đối với việc quản trị dân chủ ở Ghana, Indonesia, và Philippines một phần là do các đảng chính trị còn yếu kém.

Dù các cuộc chuyển đổi này thường do các nguyên nhân chính trị hơn là kinh tế kích động, những thách thức kinh tế sớm trở thành ưu tiên cho các chính phủ mới. Giảm nghèo và thất nghiệp có thể xung đột với các cải cách kinh tế cần để thúc đẩy việc tăng trưởng dài hạn và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Trước khi sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân bị xói mòn, chính phủ cần thực hiện các biện pháp xã hội làm giảm nhẹ những khó khăn cho những người dễ bị ảnh hưởng nhất phải chịu đựng, nhưng chính phủ cũng cần phải thực hiện trách nhiệm tài chính. Các nhà lãnh đạo của mọi cuộc chuyển đổi mà chúng tôi nghiên cứu đều áp dụng cách tiếp cận định hướng theo thị trường và chính sách tiền tệ và tài chính kinh tế vĩ mô thận trọng, nhưng hầu hết đã làm một cách rất thận trọng để tránh thổi bùng nỗi lo sợ của công chúng rằng lợi ích công cộng đã bị bán rẻ cho những kẻ đặc quyền. Ngay cả những người lúc đầu thù địch với thị trường tự do cũng chấp nhận rằng thị trường là cần thiết trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, cùng với các chính sách xã hội mạnh mẽ vốn có thể tạo ra sự phát triển kinh tế công bằng hơn.

Như lịch sử gần đây về các can thiệp của phương Tây ở Trung Đông cho thấy một cách dư thừa, dân chủ không phải là một món hàng xuất khẩu. Nhưng diễn viên bên ngoài, chính phủ và phi chính phủ, có thể trợ giúp có hiệu quả các cuộc chuyển đổi dân chủ nếu họ tôn trọng các lực lượng bên trong và tham gia theo lời mời của họ. Đôi khi, họ có thể cung cấp các điều kiện cần thiết cho việc đối thoại thầm lặng giữa các lãnh đạo đối lập và giữa phe đối lập với đại diện của chế độ. Họ có thể đưa ra tư vấn về nhiều vấn đề thực tiễn, từ cách tiến hành một chiến dịch tranh cử tới cách sử dụng hiệu quả phương tiện truyền thông, và cuối cùng là cách giám sát bầu cử. Trừng phạt kinh tế có thể giúp kiềm chế đàn áp, như họ đã làm ở Ba Lan và Nam Phi. Và nước ngoài có thể cung cấp viện trợ và đầu tư để trợ giúp các cuộc chuyển đổi dân chủ, như họ đã làm ở Ghana, Philippines, và Ba Lan. Giúp đỡ kinh tế của quốc tế trong quá trình chuyển đổi có thể tạo chỗ cho cải cách chính trị khi thực hiện để đáp ứng các ưu tiên của địa phương và phối hợp với các nhà hoạt động tại chỗ.

Tuy nhiên, can thiệp của quốc tế không thể thay thế cho các sáng kiến trong nước. Các diễn viên bên ngoài có nhiều khả năng tác động có hiệu quả khi họ biết lắng nghe, đề ra những câu hỏi phát sinh từ kinh nghiệm trong những thách thức tương tự, và khuyến khích những người tham gia tại chỗ xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.


THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI

Các diễn viên mới, công nghệ, áp lực kinh tế, động lực địa chính trị đã làm thay đổi bối cảnh mà các cuộc chuyển đổi dân chủ hiện nay sẽ diễn ra trong đó. Bây giờ bất cứ ai với một chiếc điện thoại di động đều có thể châm ngòi cho các cuộc biểu tình quần chúng bằng cách thu lại hành động bạo lực của cảnh sát. Truyền thông xã hội có thể nhanh chóng định hình lại công luận và cho phép các nhà tổ chức tập hợp một số lượng lớn người theo dõi. Nhưng các công nghệ mới này không thể thay cho công việc đầy khó khăn là xây dựng các tổ chức. Như Cardoso, nhà cải cách Brazil sau trở thành tổng thống, nhận xét, “Vấn đề ở chỗ là huy động để phá bỏ thì rất dễ nhưng để xây dựng lại thì khó hơn rất nhiều. Các công nghệ mới tự chúng không đủ để thực hiện bước tiến kế tiếp. Các tổ chức là cần thiết, cùng với khả năng thông hiểu, xử lí, và thực hành quyền lãnh đạo được duy trì mọi lúc.” Như Kufuor nêu: “Quần chúng không thể xây dựng các tổ chức. Chính vì thế lãnh đạo là quan trọng.” Trong những năm trước mắt, các phong trào xã hội và các tổ chức xã hội dân sự, tăng cường bởi mạng kĩ thuật số, có lẽ sẽ gây sức ép các chế độ chuyên quyền thường xuyên hơn và hiệu quả hơn so với trước đây. Tuy nhiên, những phong trào này không thể thay thế các đảng chính trị và các nhà lãnh đạo. Chính những diễn viên này cuối cùng phải xây dựng các tổ chức, xây dựng các liên minh bầu cử và quản trị, giành được sự ủng hộ của công chúng, chuẩn bị và thực hiện các chính sách, khêu gợi những hy sinh vì lợi ích chung, khêu gợi cho mọi người tin rằng dân chủ là có thể thực hiện được, và quản trị một cách hiệu quả.

Thật khó để xây dựng nền dân chủ bền vững và hoạt động trơn tru ở các nước vốn không có kinh nghiệm về chính quyền của chính họ gần đây, nơi mà các tổ chức xã hội và dân sự là mong manh, và nơi mà các tổ chức nhà nước yếu kém không có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh đầy đủ. Dân chủ cũng có thể khó thiết lập ở những nước với sự chia rẽ sắc tộc, tông phái, hoặc vùng miền mạnh mẽ. Và dù sao đi nữa các chính phủ dân chủ được bầu một cách dân chủ không thể cai trị độc đoán bằng cách bỏ qua, làm suy yếu, hoặc chỉ đồng ý trên đầu môi với những ràng buộc về lập pháp và tư pháp mà việc quản trị dân chủ đòi hỏi. Tuy nhiên, chính tất cả các nước này lại cần có thay đổi dân chủ cấp bách nhất. Ví dụ của Ghana, Indonesia, Philippines, Nam Phi, và Tây Ban Nha cho thấy những thách thức này có thể đáp ứng được trong nhiều điều kiện khác nhau, thậm chí ở các nước bị chia rẽ sâu sắc.

Ngày nay hơn bao giờ hết có thể huy động nhiều người trẻ có học thức hơn tham gia biểu tình cho dân chủ ở các quảng trường công cộng, đặc biệt là ở những nơi việc làm hiếm hoi. Tuy nhiên, đưa họ can dự trong việc xây dựng các đảng chính trị lâu bền và các tổ chức khác trên cơ sở đang diễn tiến là thách thức lớn.

Dân chủ không xuất hiện trực tiếp hoặc đương nhiên từ các đám đông trên đường phố. Việc xây dựng các nền dân chủ đòi hỏi tầm nhìn, đàm phán và thỏa hiệp, nổ lực, kiên trì, kĩ năng, tài lãnh đạo - và cơ may nào đó. Tuy nhiên, dù có tất cả mọi chướng ngại, nhiều cuộc chuyển đổi dân chủ đã thành công trong quá khứ. Học tập và áp dụng những bài học của những kinh nghiệm thành công đó có thể giúp loại bỏ các chế độ chuyên quyền và hình thành các nền dân chủ bền vững thay vào.



Monday, December 7, 2015

Tiến trình Xây dựng lòng tin mới cho Biển Đông?

Tiến trình Xây dựng lòng tin mới cho Biển Đông?

(bản dịch đã đăng trên adminbasam ngày 06/12/2015)
Bill Hayton
26-11-2015
Ảnh: Ken Banks/ Flickr
Ảnh: Ken Banks/ Flickr
Xây dựng lòng tin trên Biển Đông không dễ, nhưng cuộc họp gần đây ở Việt Nam cho thấy rằng có thể làm được việc đó.
Cuộc họp nửa ngày ở Việt Nam hôm thứ Tư có thể đánh dấu sự khởi đầu của một tiến trình xây dựng lòng tin mới ở Biển Đông. Cuộc họp được tổ chức tại thành phố dầu khí Vũng Tàu của Việt Nam, các đại biểu tham gia và quan sát viên thuộc tất cả các bên tranh chấp, gồm cả Trung Quốc, Đài Loan và Brunei, quốc gia ít được nhắc tới.
Mặc dù cuộc họp được tổ chức bên trong những cách cửa đóng kín, chương trình nghị sự đã được đưa ra công khai. Các đại biểu đã thảo luận các bước thực tế hướng tới thực hiện các sáng kiến đã được đồng ý hơn một thập niên trước đây trong “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” giữa Trung Quốc và Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Thời gian được dành cho các chủ đề về tự do hàng hải, bảo vệ môi trường, phát triển chung, và liên kết trên biển. Có lẽ điều thú vị nhất, buổi họp cuối cùng thảo luận “những thoả thuận mang tính thể chế cho việc tư vấn / đàm phán và thực hiện các hoạt động hợp tác”.
Sự kiện này được Học viện Ngoại giao Việt Nam – nhóm chuyên gia tư vấn của Bộ Ngoại giao – tổ chức bên lề hội nghị Biển Đông hàng năm của họ. Những người tham gia gồm các quan chức chính phủ từ Malaysia, Indonesia, Đài Loan và Việt Nam, cũng như các nhà ngoại giao tại chỗ của Brunei, Đài Loan, và Indonesia. Không có đại biểu của chính phủ Trung Quốc hay Philippines nhưng một số học giả cấp cao có quan hệ trực tiếp với các bộ của cả hai nước này cũng đã tham gia.
Như có thể dự đoán, Việt Nam đã có đại diện đầy đủ. Các quan chức cấp cao của các bộ ngoại giao, ngư nghiệp, và quốc phòng đã tham gia cùng với các sĩ quan hải quân và cảnh sát biển. Đoàn đại biểu mạnh này cho thấy Việt Nam đang thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để tạo ra và thể chế hóa tiến trình thiết thực xây dựng lòng tin ở Biển Đông. Câu hỏi đặt ra là liệu các bên tranh chấp khác có muốn làm như vậy hay không.
Bên ngoài phòng họp, Việt Nam và Philippines đã đi vào các hoạt động hợp tác thực tế. Các cuộc thi đấu thể thao giữa các đơn vị trú đóng trên đảo của họ diễn ra năm ngoái và năm nay chỉ là những dấu hiệu dễ thấy nhất của việc thắt chặt các liên kết, điều đó cũng bao gồm chuyến viếng thăm của hải quân Việt đến Manila và việc ký kết thoả thuận đối tác chiến lược giữa hai nước.
Ít rầm rộ bằng nhưng có ý nghĩa hơn là việc tạo dựng lại từ các mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh sau việc Trung Quốc triển khai tai hại giàn khoan dầu HS981 ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa năm ngoái. Điều đó tạo ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao dài sáu tháng – từ lúc triển khai giàn khoan hồi tháng 5 cho đến khi nối lại các cuộc họp song phương bình thường giữa hai bên vào tháng 10.
Trong 24 năm kể từ khi hai bên nối lại quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Trung Quốc đã thể chế hoá mối quan hệ khập khiễng của họ thông qua các thỏa thuận giữa hai chính phủ lẫn các thoả thuận giữa hai đảng. Brantly Womack thuộc Đại học Virginia đã mô tả kỹ thuật ghép đôi, điều mà ông gọi là “trung tính hoá các tranh chấp và nghi thức hoá các mối quan hệ”. Các vấn đề khó khăn được giải quyết trong các kênh đặc biệt, cho phép các thành phần khác của các mối quan hệ vẫn tiếp tục với ít trở ngại. Các quan chức Việt Nam thể hiện sự thần phục (deference) phải có và Trung Quốc đáp lại với việc tôn trọng quyền tự chủ của Việt Nam.
Không rõ liệu Trung Quốc có sẵn sàng tham gia vào bất kỳ tiến trình xây dựng lòng tin thuộc loại được thảo luận tại Vũng Tàu hay không. Có thể là điều đó quá “đa phương”, khi biết Bắc Kinh chuộng thương thảo riêng lẻ với từng nước tranh chấp hơn. Trung Quốc cũng có thể thấy rằng họ cho Đài Loan thể hiện quá nhiều.
Và sau đó còn có câu hỏi về việc liệu các bên tranh chấp khác ở Đông Nam Á – Brunei, Malaysia, và Indonesia (có vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với yêu sách ‘đường lưỡi bò’ của Trung Quốc) – có sẵn sàng góp vào các nỗ lực và các nguồn lực cần thiết để làm cho tiến trình khả thi hay không. Các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc trong hai năm qua đã kích động các quan chức ở Brunei, Kuala Lumpur và Jakarta vào một trạng thái cảnh giác mới. Duy trì hợp tác vốn đã khó trong quá khứ và không phải ngay lập tức rõ ràng là lần này sẽ khác đi.
Nhưng có lẽ điều mà cuộc họp này cho thấy là các nhóm nhỏ của các nước làm việc với nhau có thể thúc đẩy việc hợp tác thiết thực dễ dàng hơn nhiều so với việc cố dồn cả Hiệp hội các nước Đông Nam Á vào hành động tập thể. Mặc dù tất cả các nước trong khu vực hứa bám theo “tính trung lập của ASEAN”, các khó khăn gần đây trong việc tạo nên sự đồng thuận trong tổ chức gợi ra rằng tương lai nằm trong những gì người châu Âu gọi là “linh hoạt” (variable geometry: mượn thuật ngữ hàng không- cánh cụp vào/ xoè ra tuỳ theo tốc độ).
Bill Hayton là một Fellow Associate thuộc Chương trình châu Á của Chatham House. Bài viềt mới của ông về “Việt Nam và Hoa Kỳ: Quan hệ đối tác an ninh mới nổi” đã được Trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Sydney công bố tại đây.

Wednesday, November 18, 2015

Những diễn tiến ở Biển Đông

Những diễn tiến ở Biển Đông


Góc nhìn về Philippines, Malaysia, và xa hơn

(Developments in the South China Sea
Perspectives on the Philippines, Malaysia, and Beyond)

Bill Hayton

Bài báo cáo trong Hội nghị của CSIS tháng 9/2015

(Bản dịch đã đăng trên anhbasam ngày 18/11/2015)



Tốt nhất là bắt đầu với những gì bài viết này không chú trọng tới: cụ thể là các cuộc thảo luận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) -China. Các cuộc đàm phán đã và đang diễn ra trong nhiều vỏ bọc khác nhau từ năm 1995, sau khi Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Cho đến nay ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí Bản Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, hình thành Nhóm Công tác chung ASEAN-Trung Quốc đưa vào thực hiện DOC trong 2004,[1] và gần đây nhất, Hướng dẫn thực hiện DOC vào tháng 7 năm 2011.

Tuy nhiên dù trãi qua 20 năm đàm phán, hai bên vẫn chưa thể tìm ra thỏa thuận về các biện pháp cụ thể để kiểm soát các hoạt động ở Biển Đông. Tóm gọn là Trung Quốc sẽ không đồng ý với bất cứ điều gì hạn chế sự tự do hành động của họ và chẳng có ý nghĩa gì để  ASEAN đồng ý với bất cứ điều gì không hạn chế sự tự do hành động của Trung Quốc. Vì vậy, có ba kết quả có thể có cho các cuộc đàm phán đang diễn ra: gãy đổ, dẫn đến một mảnh giấy vô nghĩa, hoặc kéo dài mãi—cấp khách sạn sang trọng của Đông Nam Á cho  các nước rất cần tới. Điều tốt nhất có thể nói cho quá trình này, diễn đạt lại câu nói của Winston Churchill, là "đấu mồm tốt hơn đấu súng” (jaw-jaw is better than war-war).

Bài viết này cũng không khai phá sâu Sáng kiến Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21 của Trung Quốc. Cho đến nay, ít nhất đối với Đông Nam Á, đó có vẻ là một ví dụ khác về đấu võ mồm. Từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình công bố sáng kiến này đến nay đã gần 2 năm ​​và điều duy nhất thấy được tới giò này vẫn là nhiều tài trợ cho khách sạn sang trọng: một vài hội nghị và tiệc chiêu đãi nhưng chẳng có đầu tư bất cứ nơi nào bên ngoài Trung Quốc, dù chỉ một nhân dân tệ. Sáng kiến ​​cụ thể duy nhất hiện lên trong đề mục này là việc kí kết các thư bày tỏ ý định giữa cơ quan quản lí Cảng Klang trước đây đầy rẫy tham nhũng của Malaysia và 5 cảng Trung Quốc. Dù chắc chắn rằng hầu hết các nước ASEAN hết sức cần đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng vẫn chưa rõ rằng Con đường Tơ lụa trên biển sẽ cung cấp điều đó không.

Chừng nào mà ASEAN còn thấy các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông là đe dọa thì các nước thành viên vẫn có khả năng sẽ xử sự thận trọng với những sáng kiến như thế ​​này. Năm 2014 Trung Quốc đã đề xuất đưa năm 2015 thành năm của Hợp tác về biển của Trung Quốc-ASEAN, và tháng 3 năm [Hợp tác] đã được chính thức ra mắt bên lề Diễn Đàn Bác Ngao (Boao Forum).[2] Kể từ đó chỉ toàn im lặng. Quỹ Hợp tác Biển Trung Quốc-ASEAN đã được công bố rất đình đám tại hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN lần thứ 14 vào tháng 11 năm 2011 với một ngân sách $ 500 triệu nhưng dường như chưa giải ngân được bất kì khoản tiền đáng kể nào bên ngoài Trung Quốc. Quan hệ Đối tác biển Trung Quốc-ASEAN đã được Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN lần thứ 15 năm sau.[3]  Một lần nữa, không có gì từ đó ra cả . ASEAN đã từ chối tham gia; không có hợp tác.

Thay vào đó, bài viết này tập trung vào việc phân tích làm thế nào mà các sự kiện năm ngoái — đặc biệt là phản ứng quốc tế đối với việc Trung Quốc xây dựng 7 đảo nhân tạo và việc Tòa Trọng tài Thường trực bắt đầu tiến trình xét xử — đã tạo ra một cơ hội cho hòa bình ở Biển Đông. Vâng, hòa bình.

Như thường được hiểu, có hai dạng tranh chấp ở Biển Đông. Có những tranh cãi nhỏ về việc nước nào cắm cờ trước tiên trên đảo hoặc rạn đá nào. Và có những tranh cãi to về việc liệu các nước có nên bám vào chế độ luật pháp quốc tế vốn đã tạo ra kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng nhất trong lịch sử thế giới trong hơn 70 năm qua hay không. Giải pháp cho cả hai đều nằm trong tầm tay, nếu các bên chọn cách với tới chúng.

Trước khi giải thích về việc làm thế nào, điều đáng lưu ý là mối quan ngại về những tác động rộng lớn hơn của tình hình Biển Đông đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ hiện có đang lan rộng. Ngay cả Liên minh Châu Âu —mặc dù có rất nhiều vấn đề khác phải giải quyết vào lúc này—cũng nêu lên quan ngại của mình. Tại Đối thoại Shangri-La năm 2015, đại diện cấp cao về đối ngoại, Federica Mogherini, nói tới một cách cụ thể một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS):

Chúng ta cần phải duy trì một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển. Chúng ta không đi vào tính hợp pháp của các yêu sách cụ thể, nhưng với tư cách người Châu Âu chúng tôi kiên quyết đối với việc chúng phải được giải quyết NHƯ THẾ NÀO, đó là, theo cách hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa vũ lực.[4]

Với Liên minh Châu Âu, Hoa Kì, Nhật Bản và đều cùng quan ngại về những vấn đề này, không có gì ngạc nhiên khi Nhóm G7, cũng đã bàn tới chúng.[5] Vào tháng 4 Nhóm công bố lần đầu tiên “Tuyên bố về an ninh trên biển," trong đó có chỗ đề cập cụ thể về Biển Hoa  Đông và Biển Đông và một phát biểu của nhóm như sau:

quan ngại bởi bất kì hành động đơn phương nào, chẳng hạn như bồi tạo đất quy mô lớn, làm thay đổi nguyên trạng và làm tăng căng thẳng. Chúng tôi cực lực phản đối bất kì nỗ lực nào khẳng định các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ hoặc biển thông qua việc sử dụng đe dọa, cưỡng ép hoặc vũ lực.[6]

Tuy nhiên, tuyên bố không nêu tên bất kì nước nào.

Bộ trưởng Quốc phòng Australia, Kevin Andrews, cũng sử dụng Đối thoại Shangri-La để làm cho rõ việc chính phủ ông "phản đối bất kì hành động cưỡng chế hoặc đơn phương làm thay đổi hiện trạng ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, [kể cả] hoạt động bồi tạo đất quy mô lớn nào".[7] Và Canberra đã biểu lộ sự không hài lòng của mình qua việc mời quân đội Nhật Bản tham gia cuộc tập trận  Talisman Sabre hàng năm Mĩ-Úc. Trong hai năm 2014 và 2015 Úc cũng đều đã tham gia cuộc tập trận Balikatan hàng năm Mĩ-Phi. Úc đang sắp chuyển giao cho Philippines hai tàu chở tăng đổ bộ.

Hoàn thành mạng tam giác, Philippines và Nhật Bản tổ chức tập trận hải quân chung lần đầu ở Biển Đông vào giữa tháng 5 năm 2015, sau một thỏa thuận giữa hai nước ký kết hồi tháng 1.[8] Nhật Bản đang cung cấp 10 tàu tuần tra cho tuần duyên Philippines và cam kết nâng cấp năng lực giám sát và phòng thủ của Manila. Hồi tháng 6, hai nước đã chính thức hóa quan hệ đối tác chiến lược của họ.[9]

Ấn Độ cũng đã trở nên can dự nhiều hơn. Tháng 9 năm 2014 tuyên bố chung Ấn-Mĩ, đặc biệt đã đề cập Biển Đông lần đầu tiên. Tổng thống Barack Obama và Thủ tướng Narendra Modi kêu gọi nên giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và biển, "phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận của luật pháp quốc tế, gồm cả UNCLOS."[10]

Ấn Độ đã phớt lờ phản đối của Trung Quốc và một lần nữa mời Nhật Bản tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar hàng năm của mình với Hoa Kì trong tháng 10 năm 2015. Ấn Độ, Nhật Bản, và Hoa Kì cũng sẽ tổ chức các cuộc đối thoại ba bên ở cấp Bộ trưởng lần đầu bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm 2015. Cũng có những cuộc tập trận hải quân Ấn-Nhật riêng biệt.

Trên khắp khu vực, các thỏa thuận an ninh thường được mô tả như hệ thống ổ trục và nan hoa—với Hoa Kì trong vai trò ổ trục—cũng đang trở thành hệ thống đồng bạn (peer to peer). Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Việt Nam, và những nước khác đang từng bước xây dựng các quan hệ an ninh và ngoại giao mới trực tiếp với nhau. Có một vài ngoại lệ — chẳng hạn, chỉ có "I" (India: Ấn) trong BRICS lên tiếng— nhưng hầu như tất cả các nước lớn khác đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng đảo và đưa ra những lời kêu gọi cụ thể cho việc áp dụng các nguyên tắc của UNCLOS.[11]

Điều này dẫn chúng ta đến The Hague, Hà Lan, và Cung Hòa bình—trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực—nơi các buổi tranh tụng đầu tiên trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã diễn ra vào đầu tháng 7 năm 2015.[12] Trước hết, Toà phải quyết định xem có quyền phân xử vụ kiện hay không, thực ra đó là câu hỏi liệu Toà có nghĩ rằng các tranh chấp lãnh thổ cần được giải quyết trước khi Toà có thể đưa ra phán quyết về loại khu vực biển nào mà mỗi thể địa lí có thể yêu sách được có dựa trên UNCLOS. Giả sử Tòa quyết định xét xử vụ án—và sẽ đáng ngạc nhiên nếu họ nói không—thì dự kiến có thể Philippines ​​sẽ thắng hầu hết tất cả các điều khiếu kiện.

Trong 7 thể địa lí do Trung Quốc chiếm đóng ở Trường Sa, 4 chứa các mỏm đá vẫn còn ở trên mặt nước khi triều cao và 3 nằm chìm dưới nước trong trạng thái tự nhiên. Các thể địa lí này lẫn Bãi cạn Scarborough đều không thể phục vụ cho việc cư trú của con người. Do đó, nhiều nhất chúng chỉ tạo ra lãnh hải 12 hải lí, và tuyệt nhiên không có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nào cả.

Vì vậy, rất có khả năng ảnh hưởng vụ kiện của Philippines sẽ cho tòa phán quyết  đường chữ U, hoặc chín đoạn của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhiều người đã hỏi, "Thế thì đã sao? Trung Quốc sẽ chỉ việc phớt lờ phán quyết." Nhưng hãy nghĩ về tình huống này.

Philippines cần khai thác nguồn dự trữ khí tự nhiên mới để thay mỏ Malampaya ngoài khơi bờ biển Palawan. Malampaya, do Shell điều hành trong khuôn khổ quan hệ đối tác với Chevron và Công ty dầu quốc gia Philippines (PNOC), hiện đang cung cấp khoảng một phần ba lượng điện sử dụng trên đảo Luzon bao gồm cả thủ đô Manila. Các bản tin trên truyền thông Philippines gợi cho thấy mỏ này sẽ cạn kiệt vào năm 2024.[13]

Khảo sát địa chấn cho thấy câu trả lời nằm bên dưới Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) vốn nằm bên trong đường chín đoạn. Khảo sát do Forum Energy thực hiện dự phóng trữ lượng khí đốt ở đó là 8,8 nghìn tỉ feet khối—lớn hơn Malampaya.[14] Từ kinh nghiệm phải mất 6 năm để phát triển dự án Malampaya gốc (từ lúc phát hiện trữ lượng khí đốt có kích cỡ thương mại vào năm 1995 cho đến khi bắt đầu dự án năm 2001), yêu cầu bắt đầu khoan và xây dựng đường ống dẫn là cấp bách nếu thủ đô Philippines muốn tránh tình trạng thiếu điện trong vòng ít  hơn một thập kỉ tới. Tuy nhiên, hồi tháng 3, Forum Energy thông báo rằng chính phủ Philippines đã từ chối không cho phép khoan vì có phản đối từ phía Trung Quốc. Kể từ đó Forum Energy đã buộc phải rút việc niêm yết cổ phiếu khỏi Thị trường Chứng khoán London (London Stock Exchange).[15]

Tuy nhiên, nếu như Toà Trọng tài Thường trực phán quyết rằng Trung Quốc không có yêu sách EEZ hợp pháp đối với các nguồn tài nguyên ở Bãi Cỏ Rong thì Philippines sẽ có thể lập luận rằng bất kì hoạt động khai thác khí đốt nào của Forum Energy, hoặc một công ti khác hoạt động theo giấy phép của Philippines, là hoàn toàn hợp pháp. Nếu Trung Quốc cố tìm cách gây cản trở hoạt động hợp pháp như vậy thì sẽ dễ dàng cho các nhà phê bình quy hành động của họ là vi phạm luật pháp quốc tế. Đây sẽ là cơ hội hoàn hảo để Hoa Kì, nếu muốn, vẽ một lằn ranh trên biển.

Sẽ có vấn đề cần làm rõ liên quan tới phạm vi địa lí trong các cam kết của Hoa Kì đối với việc bảo vệ Philippines theo Hiệp ước tương trợ Quốc phòng Mĩ-Philippines, nhưng vì Điều V của Hiệp ước có nói tới "lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay công cộng ở Thái Bình Dương," nên không khó để các luật sư của chính phủ tranh luận rằng nó bao hàm cả Biển Đông.[16] Đây cũng có thể là cơ hội khi các nước khác cùng chọn cách nói lên sự ủng hộ trật tự trên biển hiện có đi tới việc bảo vệ UNCLOS cũng như tăng thêm sự ủng hộ về ngoại giao và về các mặt khác đối với những nỗ lực của Hoa Kì và Philippines. Đây sẽ là thời điểm nguy hiểm — Trung Quốc và Hoa Kì, và có khả năng nhiều nước khác, có thể đối đầu trực diện nhau quanh Bãi Cỏ Rong. Nhưng vào lúc này, Trung Quốc sẽ có thể phải do dự. Họ khó có khả năng an lành thoát ra khỏi một cuộc đối đầu như vậy.

Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc có sẵn sàng đánh liều về những hậu quả của cuộc đối đầu đó, vốn có thể xảy ra chỉ trong hai năm nữa, hay bây giờ họ có thể thấy đuợc những gì sắp xảy ra và bắt đầu thực hiện các bước để ngăn chặn truớc. Về cốt lõi câu hỏi là như thế này: lãnh đạo chính trị của Trung Quốc có coi lợi ích của họ ở Biển Đông là quan trọng đến mức đáng để hi sinh các quan hệ quốc tế khác của họ hay không? Nếu không thì có thể lợi ích trung tâm của đảng-nhà nước Trung Quốc như một tổng thể vuợt trội hơn lợi ích của các cơ quan nhà nước khác nhau—quân đội, cảnh sát biển, các công ti dầu, các nhóm vận động hành lang nghề cá, và các tỉnh ven biển— với các chương trình hành động quan liêu để vuơn lên của chính họ hay không?

Nguyên nhân gốc rễ của những hành động của các bộ phận này ở Biển Đông là phiên bản lịch sử vốn đã trở thành chính thống trong các trường học và các học viện Đảng Cộng sản Trung Quốc, theo đó Biển Đông đã thuộc thẩm quyền của Trung Quốc "từ thời xa xưa." Tôi cho rằng có quá nhiều bài phân tích về các tranh chấp này dành sự chú ý quá ít cho mức độ nghiêm trọng mà Trung Quốc đặt để cho yêu sách lịch sử của họ. Tôi đã lập luận ở những nơi khác rằng phiên bản lịch sử này dựa trên việc đọc sai bằng chứng, giải thích sai, và thậm chí dịch sai.[17] Tuy nhiên, đó lại là một yếu tố thúc đẩy cốt lỏi đằng sau các hành động của Trung Quốc trên biển. Nó đáng được chú ý nhiều hơn nữa.

Phiên bản lịch sử bị bóp mép này nằm đằng sau nỗ lực gần đây nhất của Trung Quốc mở rộng kiểm soát lãnh thổ ở Biển Đông: tại cụm bãi Luconia, khoảng 65 hải lí ngoài khơi bờ biển Borneo. Đầu tháng 6 năm 2015 Shahidan Kassim, Bộ trưởng phụ trách cảnh sát biển Malaysia, đã đăng trên Facebook các bức ảnh từ một chuyến bay kiểm tra trên các bãi ngầm và, trong một cuộc họp báo tại Sân bay Miri ở gần Bang Sarawak, cho thấy một tàu cảnh sát biển biển Trung Quốc đã bỏ neo đậu tại cụm bãi Luconia kể từ tháng 8 năm 2013.

According to local fishermen, the China Coast Guard vessel is still anchored at Luconia Shoals.
 Theo ngư dân địa phương, tàu cành sát biển vẫn còn bỏ neo tại cụm bãi Luconia
(nguồn Borneo Post)

Gốc gác của chuyến Trung Quốc đi tới rạn đá này là kì quái. Yêu sách ban đầu của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và các rạn đá gần đó nảy sinh từ cuộc họp của một ủy ban chính phủ nước Trung Hoa Dân Quốc hồi năm 1935. Không có quan chức Trung Quốc nào đã từng tới quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó, do đó, Ủy ban Thẩm tra Bản đồ Đẩt và Biển (Thuỷ lục địa đồ thẩm tra uỷ viên hội) chỉ đơn giản là lấy các bản đồ của Anh hiện có và dịch hay phiên âm tên sang tiếng Trung. Luconia không phải là một tên Trung Quốc, nó là một từ cũ chỉ Luzon.[18]

Năm 1935, Uỷ ban Thẩm tra chỉ việc phiên âm tên tiếng Anh Luconia thành Lú kāng ní yǎ tān [盧康尼亞 灘: lô khang ni á than] - trong đó tan (than) là từ Tiếng Trung để chỉ "bãi cát". Mãi cho đến năm 1947 các quan chức Trung Hoa Dân quốc mới quyết định cho các thể địa lí này mang tên "Trung Quốc" hơn. Họ đã chọn Bei-kang Ansha [北 康 暗 沙: Bắc Khang Ám Sa] cho phần phía Bắc và Nan-kang Ansha [南康 暗 沙: Nam Khang Ám Sa] cho phần phía nam của nhóm bãi ngầm này. Kang [: khang] theo nghĩa đen có nghĩa là "mạnh khỏe" nhưng có nhiều khả năng rằng nó chỉ đơn giản là cách viết tắt của các chữ phiên âm trước đó. Từ ansha (ám sa: nghĩa đen là "cát ngầm") dường như được vay mượn từ ngôn ngữ văn học vào khoảng thời gian này để cho ra một từ tiếng Trung tương đương với từ tiếng Anh "shoal" —một thuật ngữ biển mơ hồ có gốc gác là một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là "cạn".[19]

 Cụm bãi ngầm Luconia cách bờ biển Malaysia khoảng 84 hải lí, và cách bãi ngầm James (mà TQ coi là 'lãnh thổ' cực Nam của họ và gọi là bãi Tăng Mẫu) khoảng 60 hải lí
[các vị trí ghi chữ đò là chỗ TQ đang chiếm đóng]

Khẳng định thuờng đuợc đưa ra rằng Trung Quốc là "nước đầu tiên đặt tên" các đảo ở Biển Đông chỉ đơn giản là không có bằng chứng hậu thuẫn. Tuy nhiên, ý thức về quyền làm chủ đối với quần đảo Trường Sa, dựa trên khẳng định cũng thiếu chứng cứ của Trung Quốc, đã trở thành mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình ở Biển Đông. Việc dạy sai kéo dài về yêu sách lịch sử của Trung Quốc chỉ tạo ra một cảm giác bất bình trong dân chúng vốn làm cho các tranh chấp càng trở nên rất khó giải quyết hơn.

Blog của Andrew Chubb, South Sea Conversations (Trò chuyện về Biển Đông), cho thấy một phần bối cảnh gần đây hơn về những nỗ lực của Trung Quốc chiếm cụm bãi Luconia.[20] Việc đó dường như đuợc bắt đầu với chuyến đi đến các bãi ngầm này của nhóm ba nguời thuộc tạp chí Địa lí quốc gia Trung Quốc trên tàu của Malaysia trong tháng 4/5  năm 2009. Toàn bộ câu chuyện có thể đọc trên blog của Chubb, nhưng có vẻ là chuyến đi đó đã đặt vào những cái đầu ở Cục Quản lý Hải duơng quốc gia Trung Quốc một ý tưởng —thuyết phục họ cố yêu sách cụm bãi ngầm này như là lãnh thổ cực nam mới của đất nước.

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc có vẻ đã đóng gần như thuờng trực tại cụm bãi Luconia và bãi ngầm James gần đó kể từ năm 2013. Việc làm này bổ sung thêm cho các chuyến ghé tạt vào ít thuờng xuyên hơn của các đội tàu hải quân Trung Quốc chạy ngang qua. Hiện cũng có các báo cáo về các tàu Trung Quốc quấy nhiễu các cuộc khảo sát dầu của Malaysia trong cùng khu vực. Hai vụ diễn ra vào giữa tháng 8 năm 2012[21] và những vụ khác sau đó.

Hành động của Trung Quốc đã khiến Malaysia phải điều chỉnh thái độ "giữ im lặng và tin tưởng vào mối quan hệ đặc biệt với Bắc Kinh" có trước đó. Cá nhân Thủ tướng Najib Razak trong thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 2015 đã chỉ trích việc Trung Quốc  xây dựng đảo.[22] Mặc dù các chỉ dấu ban đầu cho thấy Malaysia cố gắng để lèo lái ASEAN khỏi cuộc đối đầu với Trung Quốc,[23] nhưng dưới sự chủ trì của Malaysia ASEAN đã kiên quyết trong việc phản đối những hành động gần đây của Trung Quốc. Các kết luận của hội nghị thượng đỉnh là thẳng thắn, lưu ý rằng việc Trung Quốc xây dựng đảo đã "gây mất lòng tin và sự tin cậy và có thể phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông."[24] Nhiều nguồn tin cũng cho biết rằng các quan chức Malaysia đã và đang hợp tác chặt chẽ hơn với các đối tác Việt Nam và Philippines, cả hai đang phát họa lập trường chung về tranh chấp biển bên trong ASEAN và trong tư cách là bộ ba đối mặt với Trung Quốc.

Có thể họ không nói như vậy công khai nhưng trong tư riêng các nước này, về cốt lõi, đã đạt tới một quan điểm chung về tranh chấp lãnh thổ. Họ trỏ vào lời lẽ trong DOC ASEAN-Trung Quốc năm 2002 nói về việc không "viện đến việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực" để cho thấy rằng họ không có kế hoạch tống xuất các bên yêu sách Đông Nam Á khác khỏi các thể đia lý đang chiếm đóng.[25] Nói cách khác, trên thực tế (de facto), họ tôn trọng tính hợp pháp của việc chiếm đóng các đảo và rạn đá hiện có. Có thể họ chưa chuẩn bị để đưa ra việc công nhận chính thức theo luật pháp (de jure) việc chiếm đóng đó, nhưng rõ ràng là, ít ra là trong nội bộ ASEAN, tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa hầu như không về vấn đề.

Cách hiểu biết theo thực tế (de facto) như thế này có thể mở rộng tới Trung Quốc không?

Tất cả những gì cần cho hòa bình ở Biển Đông là tất cả các bên tranh chấp công nhận việc chiếm đóng của bên khác và tuyên bố dứt khoát rằng họ tán đồng với tinh thần và câu chữ của UNCLOS. Tất nhiên, sẽ có mất nhưng cũng có được. Việt Nam sẽ bị mất quần đảo Hoàng Sa, nhưng sẽ được tính hợp pháp ở quần đảo Trường Sa và, với sự cáo chung của đường chín đoạn, sẽ có thể khai thác hydrocarbon và cá mà không có đối đầu. Trung Quốc sẽ mất đường chín đoạn, nhưng sẽ được tính hợp pháp ở quần đảo Hoàng Sa, trên các thể địa lý chiếm đuợc ở quần đảo Trường Sa, và, quan trọng hơn, làm giảm đáng kể khả năng đối đầu với Hoa Kì. Philippines sẽ mất chủ quyền đối với nhiều phần của nhóm đảo Kalayaan—khu vực rộng lớn của quần đảo Trường Sa mà họ yêu sách—mà không chiếm đóng, nhưng sẽ được Bãi Cỏ Rong và EEZ không có tranh chấp dọc theo bờ biển của mình. Mọi thứ đã đâu vào đó; giờ chỉ còn tuỳ quyết định của Trung Quốc.




[1] Carlyle Thayer, “China-ASEAN and the South China Sea: Chinese Assertiveness and Southeast Asian responses,” in Major Law and Policy Issues in the South China Sea: European and American Perspectives, ed. Yann-huei Song and Keyuan Zou (Burlington, VT: Ashgate, 2014), 44.
[2] Prashanth Parameswaran, “China’s Plan for ASEAN-China Maritime Cooperation,” Diplomat, April 1, 2015, http://thediplomat.com/2015/04/chinas-plan-for-asean-china-maritime-cooperation/.
[2] Bao Haibin, “China-ASEAN Maritime Cooperation Fund,” PowerPoint presentation at the ASEAN regional Forum Maritime Security Workshop on Preparedness and response to Marine Pollution Incidents, Honolulu, HI, March 4–5, 2014, http://aseanregionalforum.asean.org/files/Archive/21st/ARF%20Maritime%20Security%20Workshop%20on%20Preparedness%20and%20response%20to%20Marine%20Pollution%20Incidents,%20Honolulu,%204-5%20March%202014/Annex%209%20-%20China-ASEAN%20Maritime%20Cooperation%20Fund.pdf.

[4] Federica Mogherini, Speech at the 14th IISS [International Institute for Strategic Studies] Asia Security Summit/Shangri-La Dialogue, Singapore, May 31, 2015, http://eeas.europa.eu/statements-eeas/2015/150531_02_en.htm.
[5] Nhóm G7 gồm có Canada, Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh và Mĩ.
[6] G7 Foreign Minister’ Declaration on Maritime Security, Lübeck, Germany, April 15, 2015, http://www.auswaertiges-amt.de/EN/Infoservice/Presse/Meldungen/2015/150415_G7_Maritime_Security.html.
[7] Kevin Andrews, Speech at the 14th IISS Asia Security Summit/Shangri-La Dialogue, Singapore, May 31, 2015, http://kevinandrews.com.au/latest-news/2015/05/31/114th-iiss-asia-security-summit-the-shangri-la-dialogue/.
[8] Reuters, “Japan Steps up Maritime Engagement with Philippines, Vietnam,” InterAksyon, May 12, 2015, http://www.interaksyon.com/article/110424/japan-steps-up-maritime-engagement-with-philippines-vietnam.
[9] Associated Press, “Philippines Wants Defense Pact for Japanese Troops,” New York Times, June 5, 2015,
[10] White House, “u.S.-India Joint Statement,” September 30, 2014, https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2014/09/30/us-india-joint-statement.
[11] BRICS viết tắt của “Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc (China) và Nam Phi (South Africa).”
[13] Alvin Elchico, “Natural Gas Supply at Malampaya to Last until 2024,” ABS-CBN News, october 21, 2014, http://www.abs-cbnnews.com/business/10/21/14/natural-gas-supply-malampaya-last-until-2024
[14] Chris Larano, “Philex to Send Survey Ship to Disputed Reed Bank,” Wall Street Journal, october 29, 2014, http://www.wsj.com/articles/philex-to-send-survey-ship-to-disputed-reed-bank-1414584594.
[15] “Forum Energy Discloses Plans to Delist Shares from uK Exchange,” BusinessWorld, April 20, 2015, http://www.bworldonline.com/content.php?section=​Corporate&title=​f​orum-energy-discloses-plans-to-delist-shares-from-uk-exchange&id​=​106458 .
[16] “Mutual Defense Treaty between the united States and the republic of the Philippines,” August 30, 1951, Article V, http://avalon.law.yale.edu/20th_century/phil001.asp.

[17] Xem, chẳng hạn Bill Hayton, “Fact, Fiction and the South China Sea,” Asia Sentinel, May 25, 2015, http:// www.asiasentinel.com/politics/fact-fiction-south-china-sea/; Bill Hayton, “China’s False Memory Syndrome,” Prospect Magazine, July 10, 2014, http://www.prospectmagazine.co.uk/world/chinas-false-memory-syndrome. 

[18] Bill Hayton, The South China Sea: The Struggle for Power in Asia (New Haven, CT: yale university Press, 2014).
[19] Ibid.
[20] Andrew Chubb, “Luconia Breakers: China’s New ‘Southernmost Territory’ in the South China Sea?,” South Sea Conversations, June 16, 2015, https://southseaconversations.wordpress.com/2015/06/16/luconia-breakers-chinas-new-southernmost-territory-in-the-south-china-sea/.
[21]  James Clad and robert A. Manning, “China’s Bad Diplomacy,” National Interest, December 17, 2012, http://nationalinterest.org/commentary/chinas-bad-diplomacy-7855?page=​show.
[22]  “Najib: Avoid Show of Force in Maritime overlapping Claims,” Borneo Post, April 24, 2015, http://www.theborneopost.com/2015/04/24/najib-avoid-show-of-force-in-maritime-overlapping-claims/.
[23] Praveen Menon and Manuel Mogato, “Host Malaysia Avoids Chinese Ire over Disputed Sea at ASEAN Summit,” reuters, April 23, 2015, http://www.reuters.com/article/2015/04/23/us-asean-summit-philippines-iduSKBN0NE0TL20150423.
[24]  “South China Sea Island-Building ‘May Undermine Peace’—ASEAN,” BBC, April 28, 2015, http://www.bbc.com/news/world-asia-32476951.
[25] Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea, Phnom Penh, November 4, 2002, http://www.asean.org/asean/external-relations/china/item/declaration-on-the-conduct-of-parties-in-the-south-china-sea.