CHƯƠNG III
BIỂN ĐÔNG TRƯỚC VÀ SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI (1937-1952)
III.1. Pháp và Nhật Bản kiểm soát các đảo ở biển Đông
Trước khi Nhật Bản phát động chiến tranh toàn diện với Trung Quốc, các nước Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc... đều cảm thấy lo lắng trước sự hiện diện của Nhật Bản ở biển Đông. Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa), Pratas (TQ gọi là Đông Sa) và Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa) đều được Nhật Bản xem là bàn đạp tiềm năng để tấn công Đông Nam Á. Ngày 26/4/1937, có ngư dân Hải Nam báo cáo với chính quyền Quỳnh Nhai, Quảng Đông, gần Hoàng Sa có tàu chiến và tàu cá Nhật Bản xuất hiện, và dường như trên đảo có mở một sân bay. Trung Quốc cảm thấy rất căng thẳng, trước áp lực Pháp có thể phản đối, đã giao phía Hải Nam tiến hành điều tra kín đáo, kĩ lưỡng càng sớm càng tốt. Văn phòng Chủ nhiệm bình định Quảng Đông lập Tổ điều tra đặc phái phụ trách việc này.
Từ ngày 20 đến ngày 24/6, Tổ điều tra bí mật đến Hoàng Sa thăm dò mới biết điều này không đúng. Nhưng cũng theo lời kể của ngư dân, họ biết được Nhật Bản đã chiếm đóng “đảo Hoàng Sơn” (báo cáo này giải thích tên này chỉ đảo Loại Ta, nhưng hình như phải chỉ đảo Ba Bình) ở Trường Sa rồi. Nhân viên điều tra còn dựng bia ở Hoàng Sa, tổng cộng dựng 13 tấm bia trên các đảo: đảo Phú Lâm 3 tấm, đảo Đá 1 tấm, đảo Linh Châu 3 tấm và đảo Bắc 6 tấm. Điều kì lạ hơn là trên những tấm bia đá này lại ghi năm dựng bia khác nhau, trong đó có 3 bia viết “Thị sát kỉ niệm năm Quang Tự thứ 28 lập”, 6 bia viết “Thị sát kỉ niệm Đại Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất lập”, 3 bia viết “Thị sát kỉ niệm Đại Trung Hoa Dân quốc năm thứ 10 lập”, cách làm kiểu như vậy rất dễ khiến người đời sau hiểu nhầm những bia đá này được khắc vào năm ghi trên bia, động cơ không rõ ràng. Cuối cùng, báo cáo cho rằng Trung Quốc cần phải nhanh chóng đóng quân ở Hoàng Sa. Ủy ban quân sự chính phủ Quốc dân và chính quyền tỉnh Quảng Đông đều đồng ý cần phải tăng cường xây dựng ở Hoàng Sa, đề nghị Quảng Đông phái cảnh sát đến đóng cũng như xây dựng trạm quan trắc thiên văn vốn thương thảo đã lâu, thậm chí muốn đề nghị xây dựng công trình sinh hoạt mà cảnh sát cần. Nhưng những kiến nghị này vẫn chỉ dừng lại trên giấy.
Hai nước Trung, Anh vốn đàm phán cùng nhau xây dựng một căn cứ quân sự ở Hoàng Sa để chống lại thế lực của Nhật Bản, nhưng cuối cùng không được thực hiện. Pháp sau đó quyết định tự mình tăng cường phòng ngự Hoàng Sa. Tháng 2/1937, Pháp phái tàu chiến đến khảo sát Hoàng Sa, chuẩn bị xây dựng ở Hoàng Sa công sự phòng thủ. Tuy nhiên, kế hoạch này vẫn chưa thực hiện, sự biến 7/7 nổ ra, chiến tranh toàn diện Trung-Nhật bùng nổ. Sau đó, dã tâm của Nhật Bản đối với các đảo biển Đông càng ngày càng lớn. Tháng 9/1937, quân Nhật chiếm đóng Đông Sa. Hai nước Anh, Pháp càng lo lắng hơn.
Ngày 2/7/1937, trinh sát Anh phát hiện có nhân viên Nhật Bản hoạt động ở đảo Thái Bình (Ba Bình). Hóa ra, thời gian từ năm 1935 đến năm 1938, hằng năm Nhật Bản đều tuần tra ở những đảo này. Công ty khai thác biển Hưng Nghiệp Nhật Bản lại bắt đầu quay trở lại đảo Ba Bình khai thác vào tháng 12/1936. Còn Pháp vẫn không phái quân đóng giữ. Việc này được công khai trên truyền thông vào tháng 4/1938, đúng vào lúc Thủ tướng Pháp Edouard Daladier thăm Anh. Khi được truyền thông hỏi về việc này ông lại nói không biết người Nhật Bản trên đảo là ngư dân hay là binh lính.
Nước Anh rất phẫn nộ, tự trách mình về việc liên tục giữ im lặng với công chúng về vấn đề chủ quyền Trường Sa, nước Pháp lại không gánh vác trách nhiệm ngăn cản Nhật Bản. Dưới áp lực của Anh, Pháp không thể không nhanh chóng triển khai lực lượng ở Trường Sa. Năm 1938, Pháp đưa ra phản dối với Nhật Bản vì trên đảo có “người Nhật Bản nhập cư bất hợp pháp”. Tháng 6 Pháp phái binh lính đến đóng ở đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình và xây dựng cơ sở quân sự đồng thời xây dựng một trạm khí tượng trên đảo Ba Bình, nhưng họ không hề xua đuổi người Nhật Bản trên đảo Ba Bình. Người Nhật thì mô tả các tàu của Pháp chỉ là tàu buôn (không thừa nhận là tàu quân sự), và bày tỏ sự phản đối việc người Pháp kéo cờ trên đảo Ba Bình. Khi đó hai bên cơ bản là “chung sống hòa bình” trên đảo.
Trước năm 1938, Pháp không có nhân viên thường trú ở Hoàng Sa.
Tháng 6/1938, quân Nhật khi đang tiến hành hội chiến ở Vũ Hán đã tuyên bố sẽ chiếm đảo Hải Nam để cắt đứt tuyến cung ứng trên biển của Trung Quốc. Pháp không thể không tăng tốc kế hoạch đóng quân ở Hoàng Sa. Tháng 6, Pháp phái binh lính đến Hoàng Sa, danh nghĩa là “Đội bảo an An Nam” chống buôn lậu ở Hoàng Sa, đóng quân ở đảo Pattle (đảo San Hô, tức đảo Hoàng Sa) và đảo Phú Lâm, xây dựng trên đảo một hải đăng và trạm vô tuyến, đồng thời xây dựng một trạm khí tượng trên các đảo. Ngày 15/6, Pháp tuyên bố sáp nhập quần đảo Paracel (Hoàng Sa) với tên gọi Délégation des Paracels (Ban quản hạt lâm thời Hoàng Sa) vào tỉnh Thừa Thiên thuộc Trung Kì, đảo San Hô là trung tâm hành chính. Cho đến lúc đó, nước Pháp đã hoàn thành việc chiếm đóng thực tế Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao Trung Quốc điện rất nhanh ra lệnh đại sứ tại Pháp là Cố Duy Quân đưa ra phản đối với Pháp. Nhưng phía Pháp biện giải rằng “hành động này thuần túy là bảo vệ an ninh cho Việt Nam và và các tuyến đường biển đi qua Việt Nam chứ không hề ảnh hưởng đến lập trường của hai nước Trung Quốc và Pháp, vấn đề căn bản về chủ quyền của quần đảo này vẫn đợi giải quyết dựa theo pháp luật trong tương lai”. Cố Duy Quân sau khi được phía Pháp hứa hẹn không liên quan tới lập trường chủ quyền cũng cho rằng nếu làm như vậy có thể khiến Trung, Anh, Pháp cùng nhau chống lại Nhật Bản không phải là không được, do đó đánh điện yêu cầu Bộ Ngoại giao cân nhắc liệu nên phản đối nghiêm khắc hay là nhắc lại lập trường bảo lưu tất cả quyền lợi sau này. Ngoài ra, tòa Tổng lãnh sự Trung Quốc ở Hà Nội cũng gửi điện cho Bộ Ngoại giao, nói giúp phía Pháp, cho rằng hành động này “chẳng qua bày tỏ sự kiên quyết với người Nhật”, “tính đến thời buổi nước ta đang nhiều việc, ngoài phản đối suông ra thực sự không có cách nào khác, thay vì phản đối không hiệu quả và làm tổn hại tình cảm, tốt hơn nên ngầm thỏa thuận cùng hợp tác, thời gian này việc quan trọng nhất là trao đổi điều kiện để thuận lợi việc vận chuyển đi lại”. Do đó, vào ngày 9/7 Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi điện cho Đại sứ quán tại Pháp ra lệnh tạm hoãn đưa ra bất cứ bày tỏ nào. Ngày 13/7 Bộ lại gửi chỉ thị: “Phía ta nên có biểu thị tương ứng, nhưng chỉ cần dùng một phát biểu ngắn gọn rằng chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền quần đảo này thuộc về Trung Quốc, và trước hết chính phủ Trung Quốc bảo lưu tất cả quyền lợi...” Vào ngày 18 Cố Duy Quân đã thông báo cho phía Pháp lập trường của Trung Quốc và nhận được trả lời miệng của Vụ châu Á, Bộ Ngoại giao Pháp, rằng có thể yên tâm về vấn đề chủ quyền, sẽ được giải quyết một cách hữu nghị sau này. Chỉ như vậy, Pháp đã đạt được đồng thuận ngầm với Trung Quốc, chính thức tiến vào chiếm giữ Hoàng Sa.
Đối với việc này, Nhật Bản trái lại đứng trên lập trường ủng hộ Trung Quốc, phản đối sự chiếm đóng của Pháp, lí do đương nhiên là không mong muốn Pháp xây dựng sức mạnh ở Hoàng Sa mà ảnh hưởng chiến lược biển Đông của Nhật Bản. Ngày 4/7 người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nhật Bản khi nhắc đến việc 20, 30 lính bảo an An Nam có vũ trang đổ bộ lên Hoàng Sa đã nói: “Chúng tôi đang quan tâm đến sự phát triển của tình hình”. Ông ta tuyên bố một số công dân Nhật Bản cư trú ở “Hoàng Sa nơi chúng tôi thừa nhận thuộc lãnh thổ Trung Quốc”. Báo chí Trung Quốc cũng đưa tin: “Hôm qua (ngày 4/7) người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên bố: ‘Nhật Bản phản đối nước thứ 3 chiếm đóng các đảo (quần đảo Tây Sa) thuộc Trung Quốc hoặc làm bất cứ điều gì ảnh hưởng đến quyền lợi trên các đảo này’ ”.
Ngày 7/7, Thứ trưởng Ngoại giao Nhật gặp Đại sứ Pháp tại Nhật đưa thư phản đối, “Nói chung khi chiến sự Trung Nhật mới nổ ra, phía Pháp từng nói sẽ không có bất cứ hành động nào ở các đảo nằm trong vùng tranh chấp Trung- Pháp, phía Nhật rất lấy làm tiếc về việc Pháp vi phạm thỏa thuận ngầm trên, nhất là khi các đảo này nằm trong khu vực phong tỏa của Nhật”. Thái độ của Nhật Bản cũng được ghi trong các tài liệu ngoại giao của Mĩ. Nhưng phía Pháp nhấn mạnh rằng “đảo này là lãnh thổ An Nam, tuy có tranh chấp với phía Trung Quốc nhưng không có liên quan gì đến Nhật, quyết không để nước thứ ba nào can thiệp vào”. Vì vậy, Nhật Bản cũng trở nên hòa hoãn, nói rằng họ chỉ yêu cầu duy trì quyền của tàu cá Nhật đến đảo đánh cá. Do đó, việc Pháp chiếm đóng Hoàng Sa tạm thời lắng dịu.
Nhật Bản quyết tâm tiến một bước tranh đoạt các đảo biển Đông. Tuy nhiên,về tình trạng của Trường Sa và Hoàng Sa trong thời chiến, cách nói của các bên không thống nhất. Tài liệu phía Trung Quốc nói: ngày 1/3/1939, quân Nhật xua đuổi quân Pháp đang chiếm đóng khỏi Tây Sa, ngày 31 cùng tháng Nhật Bản chiếm đóng Nam Sa và ngày 9/4 gọi chung Đông Sa, Tây Sa và Nam Sa là quần đảo Tân Nam, thuộc Đài Loan, do huyện Cao Hùng quản lí. Thế nhưng theo Việt Nam thì Pháp duy trì sự quản lí Hoàng Sa liên tục đến tháng 3 năm 1945. Điều gì đã thực sự xảy ra?
Theo nghiên cứu của học giả Thụy Điển Tonnesson, trước khi Pháp đưa quân đóng ở Hoàng Sa, Nhật Bản đã phái binh lính đến đóng trên đảo Phú Lâm vào tháng 1/1938, đóng quân ở đảo Pratas vào tháng 4. Nhưng khi quân Pháp đến, quân Nhật không hề tiến hành bất cứ hành động thù địch nào, thậm chí không ngăn cản quân Pháp đổ bộ lên đảo Phú Lâm và treo cờ, chỉ sau khi cờ Pháp được kéo lên thì họ tuyên bố với Pháp rằng “Nhật Bản đã chiếm đóng Hoàng Sa 60 năm rồi”. Nhưng tuyên bố này sai. Theo Tổng kiểm soát dân đoàn (Inspecteur Principal de la Garde indigène) được phái đến đóng ở Hoàng Sa là Edmond Grethen, khi đó họ đi tàu tuần tra hải quan đến Hoàng Sa, chỉ đóng quân trên đảo San Hô (Pattle) và đảo Phú Lâm (Boisé). 20 dân binh Việt Nam ở lại trên đảo San Hô (Hoàng Sa), 25 người ở lại trên đảo Phú Lâm. Khi đó trên đảo Phú Lâm còn có người Nhật nhưng không phải là binh lính mà là công nhân công xưởng phốt phát. Công xưởng này được xây dựng đã mấy chục năm, trước đó sử dụng công nhân Đài Loan, nhưng sau đó người Đài Loan sợ vất vả không muốn làm việc, vì thế phía Nhật Bản chuyển sang sử dụng người Việt Nam. Khi lính Việt Nam đổ bộ lên, có khoảng 150 công nhân Việt Nam. Người Nhật Bản không hề chống lại đội bảo an Việt Nam đổ bộ lên đảo, đội bảo an cũng không xua đuổi người Nhật Bản đi. Hai bên chung sống hòa bình trên đảo. Do đó, có lẽ không phải quân Nhật đóng giữ trên đảo Phú Lâm vào lúc đó mà là nhà khai thác Nhật Bản (nói chung có vũ khí) đã quay trở lại đảo Phú Lâm.
Ngày 10/2/1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, Hải quân Pháp ở Đông Dương bị suy yếu do binh lực bị điều đi Djibouti ở châu Phi, nên chỉ có thể phản đối (phía Pháp cho rằng hành động này đã vi phạm hiệp định giữa hai bên năm 1907 về việc không được đơn phương chiếm đóng đảo Hải Nam) mà không có cách nào có hành động thực chất. Vào cuối tháng 3, quân Nhật thừa cơ tiến xuống phía nam, đóng quân ở Hoàng Sa. Nhưng hành động của Nhật Bản ở Hoàng Sa khó thể gọi là chiếm đóng. Ở Hoàng Sa, Pháp và Nhật chung sống hòa bình, Pháp đóng quân ở đảo San Hô và đảo Phú Lâm, quân Nhật chủ yếu đóng ở đảo Phú Lâm, hai bên không hề xảy ra xung đột. Khi đó, phía Pháp đại khái là bên quản lí hành chính thực tế, Nhật thì tựa như sống nhờ trên quần đảo Hoàng Sa. Ngày 5/5/1939, Pháp ban hành nghị định số 3282, chia Hoàng Sa thành hai khu vực hành chính là khu Lưỡi Liềm ở phía Đông (Délégation de l’Amphitrite et Dépendance) phía Đông và khu Trăng Khuyết ở phía Tây (Délégation du Croissant et Dépendance). Tháng 6 cùng năm đô đốc Hải quân Pháp Jean Decoux (một năm sau trở thành Toàn quyền Đông Dương) lấy lí do tuần tra lãnh thổ để thăm quần đảo Hoàng Sa, Nhật Bản cũng không phản đối.
Nguyên nhân của điều này là Nhật không muốn gây chiến với Pháp vào đầu Thế chiến II. Ngay cả khi đồng minh của Nhật là nước Đức tuyên chiến với Pháp, Nhật Bản vẫn duy trì sự trung lập. Tháng 6/1940, Pháp bị Đức đánh bại, phải kí hiệp ước đình chiến, trên phần lãnh thổ chưa bị chiếm đóng thành lập chính phủ Vichy (Régime Vichy). Chính phủ Vichy kiểm soát phần lớn thuộc địa của Pháp, trong đó có Đông Dương thuộc Pháp.
Do chính phủ Vichy là con rối của Đức, sự thù địch giữa Đông Dương thuộc Pháp dưới quyền chính phủ Vichy và Nhật Bản tan biến. Đông Dương thuộc Pháp có một tuyến đường sắt nối Hải Phòng với Vân Nam, là tuyến đường sắt cuối cùng nối Trung Quốc với thế giới bên ngoài. Nhật Bản gây áp lực với Pháp yêu cầu đóng cửa đường sắt. Dù chính quyền Vichy có lập trường thân các nước phe Trục, nhưng trên danh nghĩa vẫn duy trì tính trung lập, nên ban đầu chính quyền Đông Dương không đáp ứng yêu cầu của Nhật Bản. Nhưng trước mối đe dọa xâm lược của quân đội Nhật, chính quyền Vichy cuối cùng quyết định hợp tác với Nhật. Ngày 22/9, hai nước kí hiệp định cho phép Nhật phái một số quân nhỏ tiến vào đóng ở Đông Dương. Từ đó, Đông Dương thuộc Pháp trở thành đồng minh của phe Trục. Cho đến trước năm 1945, Nhật Bản và Đông Dương cơ bản duy trì quan hệ sống chung hòa bình.
Tình trạng hòa bình Nhật và Pháp cũng được thể hiện ở Hoàng Sa và Trường Sa. Ở Hoàng Sa, không xảy ra xung đột quân sự giữa Nhật và Pháp. Vì vậy, trong thời gian từ năm 1938 đến năm 1945, Pháp và Nhật đều đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa, thậm chí trên đảo Phú Lâm nhỏ bé có quân đội hai bên đóng đồng thời. Về mặt hình thức, Pháp là bên quản lí. Ngày 17/5/1941, phía Pháp còn ban hành văn kiện, tiếp tục ủy nhiệm Mohamed Hay Mohsine quản lí quần đảo Hoàng Sa. Tường thuật của Trung Quốc rằng quân Nhật xua đuổi quân Pháp ra khỏi Hoàng Sa vào năm 1938 là không chính xác.
Phía Trường Sa, Nhật Bản áp dụng sách lược hoàn toàn khác. Dù từ năm 1938 quân Pháp đã trú đóng ở đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình nhưng vào ngày 7/1/1939 quân Nhật vẫn tiến vào chiếm đóng Trường Sa, và không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Ngày 30/3/1939, chính phủ Nhật thông qua “Quyết định quản lí hành chính quần đảo Tân Nam”, sáp nhập lãnh thổ quần đảo Tân Nam (Trường Sa) vào Đài Loan dưới sự quản lí của thành phố Cao Hùng. Quyết định này được công bố ra bên ngoài vào ngày 31/3.
Cùng ngày, toàn quyền Đài Loan cũng ban bố hiệu lệnh số 31, xác định rõ sự quản lí của thành phố Cao Hùng với Tân Nam, hiệu lệnh 113 xác định rõ địa giới của Tân Nam, sử dụng phương pháp đường tọa độ khu vực mà Pháp bỏ không dùng năm 1933, khu vực nằm giữa kinh tuyến 111° E đến 117° E và vĩ tuyến 7° NN đến 12°N. Cáo thị số 122 của Toàn quyền Đài Loan cùng ngày xác định đảo chính của quần đảo Tân Nam gồm đảo Bắc Nhị Tử (Song Tử Đông), Nam Nhị Tử (Song Tử Tây), đảo Tây Thanh, đảo Tam Giác, đảo Trung Tiểu, đảo Quy Giáp, đảo Nam Dương, đảo Dài, đảo Bắc Tiểu, đảo Nam Tiểu, đảo Phi Điểu, đảo Tây Điểu, đảo Hoàn. Đối với Pratas và Hoàng Sa thì Nhật Bản không có pháp lệnh như vậy.
Pháp phản đối Nhật Bản và bắt đầu giao thiệp ngoại giao. Pháp lại lần nữa chỉ ra Nhật Bản vi phạm hiệp định song phương năm 1937, đề xuất điều kiện trao đổi là có thể lại không cho phép Trung Quốc sử dụng đường sắt Vân Nam vận chuyển vật tư. Nhưng Nhật Bản không nhượng bộ. Trên thực tế, mâu thuẫn giữa hải quân và lục quân Nhật Bản rất sâu sắc, Bộ Ngoại giao Nhật rất khó có thể điều phối một kế hoạch chiến lược thống nhất cho họ. Do đó, điều kiện trao đổi của phía Pháp đưa ra chẳng khác gì ‘leo cây tìm cá’.
Sau đó, Nhật Bản đã xây dựng một loạt công trình, bến cảng và công sự trên quần đảo Trường Sa. Trong thời gian từ năm 1939 đến năm 1945, Nhật Bản kiểm soát thực tế quần đảo Trường Sa. Trên đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình tiếp tục có số lượng nhỏ quân Pháp đồn trú ở đó, chung sống hòa bình với quân Nhật. Nhưng trái ngược với quần đảo Hoàng Sa, quân Nhật là người quản lí trên thực tế, còn quân Pháp thì giống như ở nhờ. Quân đội Pháp, Nhật sống yên ổn với nhau ở Hoàng Sa và Trường Sa cho đến tháng 3/1945.
Dưới góc độ pháp luật của Nhật Bản: Đông Sa (Pratas) là lãnh thổ Trung Quốc mà Nhật chiếm, Hoàng Sa là lãnh thổ của Pháp hoặc lãnh thổ Trung Quốc còn Trường Sa là lãnh thổ Nhật Bản. Sự định vị khác nhau của Nhật Bản đối với Hoàng Sa và Trường Sa có liên quan đến nguồn gốc lịch sử và mức độ quan trọng chiến lược khác nhau của nước này đối với hai quần đảo này. Trường Sa là nơi Nhật Bản khai thác nhiều năm, được họ xem là lãnh thổ của mình và nó nằm trên con đường Nam tiến của Nhật, do đó rất được coi trọng. Hoàng Sa xưa nay không phải lãnh thổ của Nhật Bản, hơn nữa vị trí chiến lược cũng không quan trọng như vậy, đặc biệt là sau khi biển Đông trở thành ao nhà của Nhật Bản, vị trí chiến lược của nó giảm đi nhiều.
Trong 6 năm trước đó, nước Anh liên tục tranh cãi ngầm với nước Pháp về chủ quyền của Trường Sa, nhưng sau khi quân Nhật chiếm đóng Trường Sa thì có vẻ gần như ngay lập tức thừa nhận chủ quyền Trường Sa thuộc về Pháp. Mĩ cũng đưa ra phản đối với Nhật Bản.
Trong điện văn của các nước khi đó, hai tên gọi là quần đảo Tân Nam (Sinnan Islands) và quần đảo Tư Phổ Lạp Đặc Lợi (斯普拉特 利: Sī pǔ lā tè lì / Spratly Islands) đều được sử dụng, nhưng phạm vi tương ứng thì hơi khác nhau.
Phạm vi của tên gọi Spratly Islands không giống với phạm vi quần đảo Đoàn Sa mà Trung Quốc chỉ ra khi đó cũng như quần đảo Nam Sa (Trường Sa) sau này. Vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Mĩ là Hamilton khi hội đàm với cố vấn ngoại giao Nhật Bản (Counselor of the Japanese Embassy) Yakichiro Suma có hỏi rằng quần đảo Tân nam có phải là tên gọi khác của quần đảo Spratly không? Yakichiro Suma phủ nhận, nói diện tích quần đảo Tân Nam lớn hơn quần đảo Spratly rất nhiều. Do đó, trong bức điện Quốc hội Mĩ gửi Đại sứ quán Mĩ tại Nhật Bản miêu tả thế này:
The Sinnan island composed small coral reefs which roughly lie between 7 degrees and 12 degrees north latitude and 111 degrees and 117 degrees east longitude. The Japanese names of the principal coral reefs of the Sinnan Islands are given, among which is included a group described as Spratly Islands.
(Đảo Tân Nam bao gồm các rạn san hô nhỏ nằm trong khoảng từ 7° đến 12° vĩ bắc và 111° và 117° kinh đông. Tên tiếng Nhật của các rạn san hô chính của quần đảo Tân Nam được đưa ra, trong đó có một nhóm được gọi là quần đảo Trường Sa.)
Trong điện văn này, quần đảo Spratly là một bộ phận của quần đảo Tân Nam. Quần đảo Spratly ở đây có lẽ chỉ là tên gọi chung của 6 đảo nhỏ mà Pháp tuyên bố chủ quyền khi đó. Hơn nữa, bởi vì Nhật Bản dùng kinh vĩ độ để miêu tả phạm vi quần đảo Tân Nam, do đó ngoài 6 đảo nhỏ ở đây còn bao gồm các đảo khác trong phạm vi này. Tuy nhiên, phạm vi quần đảo Tân Nam chỉ giới hạn ở các đảo nằm từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 117° kinh Đông, không hề kéo dài đến bãi ngầm Tăng Mẫu ở 4° vĩ Bắc, đều nhỏ hơn so với quần đảo Đoàn Sa hoặc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trong bức điện văn đó có nhắc đến việc nước Anh và Pháp cũng đưa ra yêu sách chủ quyền với quần đảo này, nhưng không hề nhắc đến việc Trung Quốc có yêu sách chủ quyền với Nam Sa (Trường Sa).
Tháng 8/1944, sau khi chính phủ Vichy sụp đổ, quan hệ giữa chính quyền Đông Dương và Nhật Bản dần trở nên căng thẳng. Tháng 3/1945, Nhật Bản trở mặt với chính quyền Đông Dương, phát động tấn công, lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Cùng thời gian, quân Nhật cũng đánh bại quân Pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa, chiếm lấy trọn vẹn hai quần đảo này. Bắt đầu từ thời gian này cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Nhật Bản kiểm soát thực tế các đảo biển Đông.
Trong toàn bộ Thế chiến thứ hai, ngoài cái gọi là “đánh nhau” giữa quân Nhật và quân Pháp, tại Hoàng Sa lẫn tại quần đảo Trường Sa đều không hề xảy ra chiến sự. Tháng 1/1945, trong một bản báo cáo trinh sát bay của quân đội Mĩ có nêu: trên đường bay từ Philippines đến bờ biển Trung Quốc quan sát thấy trên đảo Phú Lâm (Woody Island) có người vẫy cờ Pháp, nghi rằng liệu đó có phải là chiến sĩ quân đồng minh gặp nạn ở đó sau khi ném bom Trung Quốc (quân Nhật) hay không, có cần phải cứu viện hay không. Để làm rõ tình hình thực tế trên đảo Hoàng Sa, Bộ tổng tư lệnh không quân Mĩ trên đảo Mindanao đặc phái phân đội Z của Australia (Z Unit) đến trinh sát đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa để xác định người trên đảo có phải là nhân viên thất lạc của quân Đồng minh hay không ? Là đồng minh quân Pháp? Hay là quỷ kế của người Nhật ? Ngày 4/2/1945, tàu ngầm hiệu Pargo của Mĩ chạy đến gần đảo Phú Lâm, hai người người nhái Australia đổ bộ lên đảo, phát hiện trên đảo có người phương Tây (có thể là người Pháp), và người Nhật, những người này có vẻ đang “trò chuyện vui vẻ với nhau”. Sau khi người nhái bí mật rút lui, tàu ngầm nổi lên mặt nước, tấn công các công trình trên đảo một lúc rồi rút đi. Ngày 8/3, máy bay Mĩ oanh tạc các trạm vô tuyến trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) và đảo San Hô (Hoàng Sa). Ngày 2/7, tàu ngầm Cabrilla của Mĩ lại đến đảo Phú Lâm trinh sát, phát hiện trên đảo vẫn có cờ Pháp và cờ Nhật.
Các hoạt động quân sự ở Trường Sa cũng rất ít. Tháng 1/1945, tàu ngầm USS Bream của Mĩ đến gần đảo Ba Bình, cũng phái hai người nhái Australia lên đảo định đặt chất nổ nhưng hành động này thất bại. Vì vậy, ngày 1/5/1945, quân Đồng minh chuyển sang sử dụng bom xăng (napalm) oanh tạc đảo Ba Bình, máy bay ném bom B-25 oanh tạc 6 lần trong một tuần, quân Nhật chịu tổn thất nặng.
Những cuộc giao tranh này đều xảy ra vào thời kì cuối cuộc chiến tranh, không hại gì đến tình hình chung cuộc chiến. Điều này cũng chứng tỏ rằng cái gọi là ý nghĩa chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa đối với cuộc chiến đã bị thổi phồng một cách nghiêm trọng. Bất kể Nhật Bản tấn công hay là Đồng minh phản kích, vai trò của Hoàng Sa và Trường Sa trên chiến trường đều cực kì bé nhỏ.
Tháng 8/1945, quân Mĩ đổ bộ lên đảo Ba Bình, và kiểm soát quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham (Scarborough). Tháng 8/1945, quân Anh tiếp nhận đầu hàng của Hải quân Nam Dương Nhật Bản tại đảo Trường Sa Lớn. Vì vậy, trước khi chiến tranh kết thúc, quần đảo Trường Sa đã nằm trong tay quân Đồng minh, nhưng quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vẫn do quân Nhật chiếm đóng, không rõ họ rút khỏi Hoàng Sa khi nào.
Trong thế chiến thứ hai Nhật Bản đã chiếm đóng hầu hết các quần đảo ở biển Đông, thế nhưng kiểu chiếm hữu này phải được xem là hành vi xâm chiếm trong chiến tranh, không cấu thành chủ quyền. Sau khi bại trận, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ các quần đảo ở biển Đông, rút hoàn toàn khỏi tranh chấp ở biển Đông, tranh chấp biển Đông bớt đi một bên tranh chấp quan trọng. Tuy nhiên, sự sắp đặt mơ hồ sau chiến tranh lại khiến sự quy thuộc các đảo biển Đông trở nên càng lộn xộn hơn.
III.2. Liên hệ giữa “Tuyên bố Cairo” và các đảo biển Đông
Trong thế chiến thứ hai, 4 nước lớn Mĩ, Anh, Xô, Trung muốn phối hợp với nhau về chiến lược nên có kế hoạch tổ chức hội nghị cấp cao của lãnh đạo 4 nước. Tuy nhiên, do năm 1941 Liên Xô và Nhật Bản đã kí kết “Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Nhật-Xô” có hiệu lực 5 năm, nên Stalin không muốn cùng tổ chức hội nghị với Tưởng Giới Thạch, cuối cùng 4 bên quyết định Mĩ, Anh, Trung họp tại Cairo trước, rồi Mĩ, Anh, Xô sẽ họp tại Tehran. Từ ngày 23 đến ngày 27/111943, tại Cairo 3 nước Mĩ, Anh, Trung đã đưa ra thông cáo báo chí gửi cho Nhật Bản. Trong hội nghị Tehran được tiến hành liền sau đó, Stalin bày tỏ sự tán đồng hoàn toàn với nội dung thông cáo này. Vì vậy, thông cáo chung đưa ra ngày 1/12 trở thành sự đồng thuận của 4 cường quốc đối với phía Nhật. Lúc đầu, thông cáo báo chí (Press Communiqué) này không có tiêu đề, trong bản văn cũng không có từ “tuyên bố” nhưng dần dần được gọi là “Tuyên bố Cairo”. Tuyên bố quy định:
It is their purpose that Japan shall be stripped of all the island in the Pacific which she has seized or occupied since the beginning of the first World War in 1914, and that all the territories Japan has stolen from the Chinese, such as Manchuria, Formosa, and The Pescadores, shall be restored to the Republic of China. Japan will also be expelled from other territories which she has taken by violence and greed.
(Mục tiêu là Nhật Bản phải bị tướt hết tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng đoạt hoặc chiếm đóng từ đầu thế chiến thứ nhất vào năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã cướp lấy của Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ phải được trao lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các vùng lãnh thổ mà nước này đã chiếm được bằng vũ lực và lòng tham.
Trong “Tuyên bố Cairo” không nhắc đến vấn đề các đảo biển Đông. Năm 1945, trong “Tuyên bố Potsdam” của 3 nước Mĩ, Anh, Trung có viết:
“Các điều khoản của ‘Tuyên bố Cairo’ sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật Bản được giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ do chúng tôi xác định”. Tuyên bố này đã tái khẳng định “Tuyên bố Cairo”, đồng thời hàm ý rằng quần đảo Trường Sa có thuộc Nhật Bản hay không phải do 3 nước quyết định, nhưng cũng không nhắc đến sự quy thuộc của nó.
Cả hai phía Trung Quốc lẫn Pháp (Việt Nam) đều đưa ra cách giải thích “Tuyên bố Cairo” theo hướng có lợi cho phía mình. Phía Trung Quốc cho rằng, Hoàng Sa và Trường Sa là “lãnh thổ mà Nhật Bản cướp lấy của Trung Quốc”, nên sau chiến tranh phải trả lại cho Trung Quốc. Học giả người Pháp Chemilier-Gendreau lại có cách diễn giải khác: Hoàng Sa và Trường Sa thuộc “lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm đoạt bằng vũ lực hoặc lòng tham”. Thứ nhất, trong hội nghị kéo dài nhiều ngày, Tưởng Giới Thạch không đề xuất vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa với các nước (có dính dáng trong vấn đề các đảo chỉ là quần đảo Ryukyu [Lưu Cầu]). Sau đó, Trung Quốc không đưa ra ý kiến bảo lưu, cũng không ra tuyên bố nào khác. Hai quần đảo này đã từng gây ra sóng gió trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc nên không có lí do gì khiến Tưởng Giới Thạch để xảy ra sơ suất như vậy. Bà cho rằng nước Pháp tuy không có đại biểu chính thức tham gia hội nghị, nhưng đại biểu của phong trào Pháp tự do (France libre) cũng ở Cairo, họ chủ trương nên đưa vụ việc ra Tòa trọng tài quốc tế. Bà cũng cho rằng, Trung Quốc khi đó không đưa ra quyết định về lập trường đối với hai quần đảo này; hoặc là trước áp lực của đồng minh Trung Quốc phải giữ im lặng vì đại cục của thế chiến thứ hai.
Tóm lại, trong tuyên bố cuối cùng, Hoàng Sa và Trường Sa vừa không xuất hiện trong câu “lãnh thổ mà Nhật Bản cướp lấy của Trung Quốc”, cũng không xuất hiện trong câu “lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm đoạt bằng vũ lực hoặc lòng tham”. Toàn bộ vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn để ngỏ cho những kết luận nhằm cân bằng những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Pháp.
Trong Thế chiến thứ hai, các tài liệu thảo luận nội bộ về việc sắp xếp lãnh thổ sau chiến tranh của Bộ Ngoại giao Mĩ có thể cho thấy rằng Hội nghị Cairo không hề có bất cứ sắp đặt gì đối với các đảo biển Đông. Ví dụ tài liệu T-324 “Đảo Spratly và quần đảo khác (quần đảo Sinnan)” soạn thảo ngày 25/5/1943, thảo luận về các phương diện địa lí, cân nhắc chiến lược, lịch sử chiếm đóng của Nhật Bản, các nước tranh chấp khi đó, yêu sách lãnh thổ của Nhật Bản, Pháp và Trung Quốc cũng như thái độ của nước Mĩ đối với các quần đảo này...
Khi thảo luận về yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, tài liệu này chỉ dựa vào kháng nghị mà Đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp được lệnh gửi Bộ Ngoại giao Pháp vào năm 1933, ngoài ra không có chứng cứ nào khác. Từ phần II.7 có thể thấy rằng trên thực tế Đại sứ quán Trung Quốc không hề gửi kháng nghị này.
Thảo luận trong tài liệu cũng nói rằng cực Nam trong bản đồ của Trung Quốc xuất bản khi đó chỉ đến quần đảo Hoàng Sa, và cho rằng điều đó “đã làm suy yếu chứng lí của Trung Quốc”. Trong tài liệu không có đề cập đến việc “mở rộng biên giới trên bản đồ” năm 1935, chứng tỏ các nước khác không hề biết đến việc này hoặc biết nhưng không cho rằng nó có hiệu lực pháp lí. Ngoài ra, khi thảo luận lập trường của Mĩ, tài liệu chỉ ra: “Quần đảo Tân Nam (Sinnan) nằm ngoài ranh giới được hoạch định ngày 10/12/1898 của Philippines”.
Tài liệu này thảo luận 5 lựa chọn cho quần đảo Tân Nam: thứ nhất, để Nhật Bản giữ lại, điều này sẽ đưa đến “đe dọa nghiêm trọng”; thứ hai, giao cho Trung Quốc; thứ ba, giao cho Pháp hoặc Đông Dương; thứ tư, giao cho Philippines; thứ năm, thành lập một tổ chức quốc tế để kiểm soát và quản lí. Căn cứ vào những thảo luận trên, tài liệu cho rằng nếu giao cho Trung Quốc thì thiếu chứng cứ có tính thực chất (China’s claim does not appear to have substantial foundation).
Sau Hội nghị Cairo, vào ngày 19/12/1944, để chuẩn bị cho Hội nghị Yalta, Ủy ban phân khu Viễn Đông đã đề xuất tài liệu CAC-301 “đảo Spratly và quần đảo khác (quần đảo Sinnan)”.
Khu vực mà tài liệu này đề cập tới giống với tài liệu T-324 kể trên. Hai tài liệu đều cùng có câu: “Quần đảo Sinnan nằm ngoài ranh giới của Philippines”, còn trước câu này thì tài liệu CAC-301 lại thêm câu: “ Mĩ không phải nước tại chỗ (bản quốc), cũng không đề xuất yêu cầu chủ quyền đối với quần đảo cho Philippines.” Hơn nữa, tài liệu này cũng phủ định việc sau chiến tranh Nhật Bản có thể tiếp tục chiếm giữ quần đảo Trường Sa:
Dưới sự kiểm soát của Nhật Bản, những quần đảo này là nguy hiểm đối với nước khác, nhưng nếu đã loại trừ Nhật Bản ra khỏi, chúng không hề có lợi ích có tính quyết định đối với các quốc gia và khu vực khác, dù về chiến lược hay về kinh tế. “Tuyên bố Cairo” đã chỉ ra rõ ràng rằng không chấp nhận Nhật Bản tiếp tục sở hữu những đảo này sau chiến tranh. Hình thái vật lí của các đảo, đảo nhỏ, bãi cát và bãi đá này đặt ra câu hỏi liệu chúng có thể được tuyên bố là lãnh thổ thuộc chủ quyền của một nước hay không. Nhưng các khu vực lân cận, Trung Quốc, Đông Dương và Philippines, cũng như tất cả những nước khác có đi lại ở biển Đông đều có quan hệ lợi ích đối với chúng.
Phân tích về chủ quyền liên quan tới Trung Quốc, về cơ bản tài liệu này thống nhất với tài liệu T-324, nhưng có thêm vào câu Trường Sa không hề có tầm quan trọng sống còn đối với lợi ích quốc phòng của Trung Quốc (They are in no way vital to Chinese interests of defense). Nhưng về phương án xử lí, từ 5 phương án ban đầu thay đổi thành 2 phương án: thứ nhất, có thể nghĩ tới việc thành lập một tổ chức quốc tế để quản lí quần đảo Sinnan, nhưng điều này chỉ có thể đạt được khi Pháp đồng ý từ bỏ chủ quyền đối với khu vực này; thứ hai, trực tiếp giao cho Pháp. Không có phương án giao cho Trung Quốc và Philippines.
Tài liệu CAC-308 “Quần đảo Paracels” ngày 14/12/1944 được chuẩn bị riêng cho quần đảo Hoàng Sa. Khi xem xét xung đột giữa các nước tranh chấp khi đó – Pháp và Trung Quốc, tài liệu này cho rằng Trung Quốc chiếm ưu thế về tính hợp pháp lịch sử. Cuối cùng, tài liệu CAC-308 đưa ra 3 kiến nghị: (1) Đặt dưới một tổ chức quốc tế: do tổ chức quốc tế được thiết lập để quản lí, nhưng phải sau khi được Trung Quốc và Pháp thừa nhận và từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa; (2) Hai bên thỏa thuận: Mĩ thúc đẩy Trung Quốc và Pháp đàm phán kí kết thỏa thuận song phương; (3) Trao cho Trung Quốc: nếu như Trung Quốc và Pháp không có cách gì đạt được thỏa thuận, thì Mĩ sẽ cần phải quyết định ủng hộ một bên nào đó, trừ phi Pháp có thể cung cấp chứng cứ năm 1816 Trung Quốc trao Hoàng Sa cho An Nam, nếu không yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa rõ ràng ưu thế hơn.
Ở đây Hara phân tích rằng giao cho Pháp không phải là một lựa chọn. Từ các mục liệt kê ra ở trên có thể thấy đúng là như vậy, nhưng kết luận này được đưa ra là dựa trên chứng cứ mà Mĩ nắm được vào lúc đó, có một sai lầm nghiêm trọng trong chứng cứ đó, phía Mĩ cho rằng Trung Quốc trao Hoàng Sa cho An Nam thông qua phương thức chuyển nhượng vào năm 1816, nhưng luận điểm của Pháp cho rằng năm 1816 An Nam có được chủ quyền Hoàng Sa thông qua phương thức chiếm hữu trước chứ không phải qua chuyển nhượng. Mĩ rõ ràng hiểu sai về điều này. Ấn tượng sai lầm này từ trước chiến tranh vẫn còn lưu trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Mĩ.
Tháng 7/1945, để chuẩn bị cho Hội nghị Potsdam, trong tài liệu số 606, Mĩ đã nêu ra điều khoản có liên quan của “Tuyên bố Cairo”, phân tích cụ thể khả năng chấp nhận của Liên Xô đối với từng khoản (do Liên Xô không tham gia Hội nghị Cairo). Tài liệu này chia lãnh thổ được nêu trong “Tuyên bố Cairo” thành 5 loại: (1) Mãn Châu; (2) Đài Loan và quần đảo Bành Hồ; (3) Triều Tiên; (4) Các đảo ở Thái Bình Dương do Nhật Bản chiếm lấy sau năm 1914, bao gồm đảo do Hội Quốc liên ủy trị (Japanese Mandated Islands) và quần đảo Trường Sa (Spratly Islands); (5) Các lãnh thổ khác giành được bằng bạo lực và lòng tham. Quần đảo Trường Sa được xác định rõ thuộc vào loại “tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng đoạt hoặc chiếm đóng từ đầu thế chiến thứ nhất vào năm 1914”. Tài liệu còn chỉ ra rằng phương thức xử lí các đảo này không được quy định trong “Tuyên bố Cairo” (The Declaration makes no provision as to their disposition).
Tài liệu 1192-PR-41, 42 và 43 ngày 13/2/1946 có phần thảo luận về việc xử trí vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Kết luận của vấn đề Hoàng Sa là nếu như Trung Quốc, Pháp và các nước yêu sách chủ quyền khác thông qua đàm phán không đạt được thỏa thuận, Mĩ sẽ nghiêng theo hướng giao vấn đề này cho tòa trọng tài quốc tế, đồng thời Mĩ hy vọng rằng các nước có tranh chấp liên quan có thể thành lập các cơ quan quốc tế đặc biệt ở Hoàng Sa để quản lí Hoàng Sa, nhằm ngăn chặn các nguy cơ hàng hải ở vùng biển Hoàng Sa (1192-PR-42). Kết luận về vấn đề Trường Sa là: (1) Nhật Bản phải từ bỏ Trường Sa; (2) Nếu như các nước tuyên bố chủ quyền không có cách nào đạt được thỏa thuận thông qua đàm phán, Mĩ sẽ nghiêng về hướng đưa vấn đề này giao cho tòa trọng tài quốc tế; (3) Mĩ hy vọng nước tranh chấp có liên quan có thể xây dựng ở Trường Sa cơ quan đặc biệt để quản lí Trường Sa để ngăn chặn các nguy cơ hàng hải ở vùng biển Trường Sa (1192-PR-43).
Tài liệu SWNCC 59/1 ngày 24/6/1946 đã thảo luận một lần nữa các sắp xếp có thể có của Trường Sa. Tài liệu này cho rằng việc giao Trường Sa cho một tổ chức quốc tế sẽ có vấn đề về pháp luật, tức là cần phải được sự đồng ý của các nước có yêu sách chủ quyền, và Pháp khẳng định không đồng ý làm như vậy. Vì vậy, báo cáo kiến nghị chỉ để Nhật Bản từ bỏ những lãnh thổ này là được. Chú ý rằng tài liệu này không đề cập đến phản ứng có thể có của Trung Quốc, điều này một lần nữa cho thấy trong cái nhìn của Mĩ, Trung Quốc không phải là một quốc gia có căn cứ vững chắc để yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, cũng không có lợi ích quan trọng ở Trường Sa.
Những tài liệu nội bộ của Mĩ này cho thấy rằng tại Hội nghị Cairo về cơ bản không có kết luận và sắp xếp nào được đưa ra trực tiếp hoặc gián tiếp về tình trạng của Trường Sa và Hoàng Sa, điều duy nhất có thể khẳng định chỉ là Nhật Bản phải từ bỏ những vùng đất này.
Nhìn tổng quát về tình trạng pháp lí các đảo biển Đông trong thế chiến thứ hai, Pratas (Đông Sa), Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không giống nhau. Đông Sa là lãnh thổ của Trung Quốc được quốc tế thừa nhận rộng rãi, bị Nhật Bản chiếm đóng trong thời chiến tranh. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Trung Quốc có quyền thu hồi, điều này không hề có ý kiến khác nhau. Hoàng Sa trước chiến tranh là quần đảo tranh chấp giữa hai nước Trung Quốc và Pháp, quốc tế chưa có kết luận rõ ràng. Trong chiến tranh mặc dù Nhật Bản chiếm đóng trong thời gian ngắn nhưng không hề tuyên bố sáp nhập. Vì vậy, sau khi Nhật Bản rút khỏi Hoàng Sa, tình trạng trước chiến tranh cần phải khôi phục lại để hai nước Trung Quốc và Pháp giải quyết sau. Còn Trường Sa trước chiến tranh là đảo tranh chấp giữa hai nước Nhật và Pháp, còn Trung Quốc chỉ là nước đưa ra yêu sách rất không rõ ràng, và trong thời chiến Nhật Bản đã sáp nhập Trường Sa vào Đài Loan, điều này khiến tình trạng của Trường Sa cũng có khả năng được xem là một bộ phận thuộc Đài Loan mà “trả lại” Trung Quốc. Tình trạng pháp lí của Trường Sa phức tạp hơn so với Hoàng Sa và Đông Sa.
III.3. Trung Quốc “tiếp thu” các đảo ở biển Đông
Ngày 14/8/1945, Đồng minh tuyên bố Nhật Bản chính thức đầu hàng và trong cùng ngày ban bố “Lệnh bình thường số 1”, công bố 5 khu vực tiếp nhận đầu hàng. Trong đó khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16° N của Đông Dương do Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng, khu vực phía Nam vĩ tuyến 16° N do Tổng chỉ huy chiến khu Đông Nam Á (Anh) và tư lệnh Australia tiếp nhận đầu hàng.
Theo sắp xếp tiếp nhận đầu hàng này, Hoàng Sa nằm ở 15° đến 17° vĩ bắc, miễn cưỡng có thể tính là nằm trong phạm vi tiếp nhận đầu hàng của Trung Quốc, còn Trường Sa nằm trong khu vực tiếp nhận đầu hàng của Anh và Australia. Thực ra, trước đó rất sớm, việc tiếp nhận đầu hàng của Trường Sa đã được tiến hành rồi: ngày 10/8/1945, tại đảo Spratly (Trường Sa Lớn) Hải quân Anh chính thức tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản; ngày 21/11/ 1945, ba chiếc tàu chiến Mĩ đến đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa) thực hiện xử lí quân chiếm đóng Nhật Bản trên đảo này. Còn Hoàng Sa không hề có trình tự tiếp nhận đầu hàng chính thức, quân Nhật tự động rút lui khỏi Hoàng Sa về đảo Hải Nam.
Cần phải chỉ ra là: thứ nhất, tiếp nhận đầu hàng không phải có nghĩa là quy thuộc chủ quyền, ví dụ như Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng ở miền Bắc Việt Nam, sau đó trao lại cho Pháp; thứ hai, ở Hoàng Sa không có một nghi thức tiếp nhận đầu hàng, bất kể người Pháp hay là người Trung Quốc khi quay lại Hoàng Sa vào năm 1946, đều không có lính Nhật nào trên đảo, vì vậy lấy việc tiếp nhận đầu hàng làm lí do để đến Hoàng Sa là không đứng vững; thứ ba nghi thức tiếp nhận đầu hàng ở Trường Sa đã được quân đội Anh hoàn thành vào ngày 10/8 trước khi Thế chiến II kết thúc, vì vậy cái gọi là “tiếp nhận đầu hàng” ở Trường Sa năm 1946 của Trung Quốc là không tồn tại. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc tiếp nhận đầu hàng cùng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam có quan hệ hết sức quan trọng đối với sự phát triển của tình hình Hoàng Sa và Trường Sa sau đó, khi Pháp trở lại biển Đông sau chiến tranh, nước này luôn luôn lo lắng về thái độ của Trung Quốc.
Sau chiến tranh, việc quan trọng hàng đầu của Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ phía Nam là “thu hồi Đài Loan”. Ngay khi chiến tranh kết thúc, ngày 29/8 Tưởng Giới Thạch liền bổ nhiệm Trần Nghi làm trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan, ngày 1/9 tuyên bố thành lập “Văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan” và “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan” tại Trùng Khánh, đồng thời ủy nhiệm Trần Nghi kiêm nhiệm Tổng tư lệnh “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan”. Ngày 15/10, Quân đội chính phủ Quốc dân đổ bộ lên cảng Cơ Long. Ngày 25/10, Đài Loan tiến hành lễ tiếp nhận đầu hàng, văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan chính thức hoạt động, Trần Nghi tuyên bố Đài Loan và quần đảo Bành Hồ chính thức đưa vào bản đồ Trung Quốc trở lại, Đài Loan đã được thu hồi.
Đối với các đảo biển Đông bao gồm Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa, ban đầu Trung Quốc không hề để ý đến. Mãi đến ngày 19/4/1946, khi Trần Nghi gửi thư cho Bộ Ngoại giao thì mới gây sự chú ý của Trung Quốc đối với các đảo biển Đông. Hóa ra trong thời chiến các trạm khí tượng ở Trường Sa và Hoàng Sa đều do đài khí tượng của Đài Loan quản lí. Sau chiến tranh, 5 nhân viên công tác đài khí tượng do Toàn quyền Đài Loan phái đến đảo Hoàng Sa đã mất tích 2 năm. Trại tù binh San Francisco ở Mĩ gửi thư cho phía Đài Loan, cho biết hai người trong số đó đã được quân Mĩ cứu, nhưng vẫn còn 3 người không rõ tung tích, mong phía Đài Loan giúp đỡ tìm kiếm.
Vì vậy, họ tra cứu các ghi chép, vào ngày 8/12/1945, đài khí tượng Đài Loan phái một tàu cứu hộ đến Hoàng Sa tìm kiếm, phát hiện Hoàng Sa không có một bóng người, phần lớn thiết bị đã bị phá hủy, phỏng đoán 3 người còn lại có thể theo người Pháp rút về Việt Nam. Lúc này, trong thư gửi cho trung ương, Trần Nghi mới đề xuất: “Quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc lãnh thổ nước ta, nên để tỉnh chúng tôi hay tỉnh Quảng Đông tiếp thu?”
Cùng ngày, Trần Nghi lại gửi thư cho Viện Hành chính đề xuất: (1) Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc, có nên để Đài Loan tiếp thu hay không?; (2) Đông Sa gần Đài Loan, lại có ngư dân Đài Loan hoạt động, dự kiến để Đài Loan tiếp thu; (3) Quần đảo Tân Nam trong thời kì Nhật trị thuộc Cao Hùng quản lí, hiện đang tích cực chuẩn bị tiếp thu, xin chuyển điện cho Bộ Tổng tự lệnh quân đội Mĩ ở Philippines nhờ giúp đỡ.
Đáng để nhắc đến là trong “Tuyển tập sử liệu” do Đài Loan xuất bản có nhắc đến việc “tháng 11 năm Dân quốc thứ 34 (1945), Cục Khí tượng thuộc Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan phái người đến tiếp thu trạm đo đạc khí hậu ở Hoàng Sa”, đồng thời đưa ra sử liệu: trong giấy thông hành do Tổng tư lệnh Cảnh vệ cấp phát ngày 20/11 có bản tiếng Trung và tiếng Anh, cho phép một tàu cứu hộ ra biển, thời gian có hiệu lực là từ ngày 20/11 đến ngày 30/12. Sau đó “Tuyển tập sử liệu” miêu tả vì “đi lại khó khăn không thể đến nơi được”. Nhưng “Tuyển tập lịch sử” lại cho thấy một bức ảnh của một hồ sơ được tạo ra vào năm Dân quốc thứ 63 (năm 1974), trong đó thấy có một tấm bia gỗ viết “Cục Khí tượng Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan đã tiếp thu xong”. Lời ghi chú bên cạnh bức ảnh chỉ rõ đây là “Bia kỉ niệm Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Tây Sa” tháng 11/1945. Trong “Tuyển tập sử liệu” không giải thích vì sao phía trước nói “đi lại khó khăn không thể đến nơi được”, sau đó lại nói đến việc dựng bia kỉ niệm ở đó. Hơn nữa vì sao “đi lại khó khăn không thể đến nơi được” mà trong thư ngày 19/4/1946 Trần Nghi lại nói rằng ngày 8/12 ông có phái thuyền đến đó? Hiện vẫn không rõ. Rất có thể ngày 8/12 thực sự có “tàu cứu hộ” xuất phát đi Hoàng Sa, mục đích chuyến đi của Đài khí tượng là tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Hoàng Sa hay tìm kiếm nhân viên mất tích, hoặc có thể cả hai. Trên hai tấm giấy thông hành này đều có đóng dấu của Trần Nghi, nhưng không khẳng định ông có đích thân tham dự vào việc này hay không. Tuy nhiên, xét từ bức thư Trần Nghi gửi Viện Hành chính ngày 19/4/1946, việc đi đến Hoàng Sa tháng 12/1945 chắc chắn không thể được coi là hành động tiếp thu Hoàng Sa. Tóm lại, sự kiện năm 1945 này không làm ông chú ý, cũng không nghĩ đến việc “tiếp thu Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam” vào lúc đó, mãi đến khi nhận được thư của phía Mĩ năm 1946 ông mới đem ra bàn với Bộ Ngoại giao và Viện Hành chính.
Qua đó, các đảo biển Đông bị lãng quên nay mới trở lại tầm ngắm của chính phủ Trung Quốc. Viện Hành chính lập tức gửi thư cho Bộ Ngoại giao và Bộ Nội chính, yêu cầu nghiên cứu các công việc liên quan đến việc tiếp thu. Bộ Ngoại giao cho rằng Hoàng Sa là nơi tranh chấp giữa Trung quốc và Pháp trước chiến tranh, trong Thế chiến thứ hai, ban đầu bị Pháp chiếm đóng rồi bị Nhật chiếm lấy sau đó, nên để Trung Quốc tiếp thu, nhưng chọn để Quảng Đông hay Đài Loan tiếp thu thì do Bộ Nội chính định đoạt; Đông Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, xem như có thể do Đài Loan quản lí sau khi thu hồi; quần đảo Tân Nam thì “không thuộc phạm vi chuyên ngành của Bộ chúng tôi”, do đó trong trả lời không có nhắc đến.
Tiếp đó, Trung Quốc bắt đầu tích cực chuẩn bị việc tiếp thu. Đối với Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao bắt đầu chỉnh lí hồ sơ có liên quan đến Hoàng Sa để đề phòng phía Pháp có thể cản trở. Đối với quần đảo Tân Nam, Bộ Ngoại giao chỉ thị tòa Lãnh sự ở Manila tìm đến quân Mĩ đóng ở Philippines để nhờ giúp đỡ. Nhưng quân Mĩ đóng ở Philippines cho rằng những đảo này không phải là khu vực quản lí của mình, muốn Trung Quốc đàm phán với Tổng tư lệnh MacArthur ở Tokyo. Do đó, Bộ Ngoại giao yêu cầu đại diện ở Nhật đàm phán với McArthur, nhưng không thấy văn bản về việc này, không biết có liên hệ với McArthur hay chưa cũng như không biết được phản ứng của phía Mĩ.
Mới đầu, công tác tiếp thu của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam là độc lập. Hoàng Sa và Đông Sa tương đối đơn giản, rất nhanh chóng bắt đầu thực hiện theo trình tự cụ thể, hạ tuần tháng 5 thì đã bắt đầu chỉ định sẽ do đơn vị bộ đội nào tiến hành tiếp thu. Ngày 12/9, đảo Đông Sa do toàn bộ 64D được phái từ một trong những binh đoàn 159B tiến vào chiếm giữ. Vì khoảng cách tương đối xa, lại có khả năng tranh chấp ngoại giao, nên việc tiếp thu Tây Sa (Hoàng Sa) được thảo luận cùng với Nam Sa (Macclesfield Bank) và Đoàn Sa (Trường Sa) sau đó. Nhưng về vấn đề quần đảo Tân Nam, do nhận thức không đầy đủ về địa lí và lịch sử nên dẫn đến tranh luận rất lớn. Lúc này, do Philippines đã đưa ra yêu sách với quần đảo Tân Nam (xem phần sau), khi tiếp thu quần đảo Tân Nam Trung Quốc không thể không thận trọng hơn. Đâu là ranh giới của quần đảo Tân Nam ? Quần đảo Tân Nam mà người Philippines chỉ ra có phải chính là quần đảo Tân Nam mà Đài Loan chỉ ra không? Quan hệ của nó với quần đảo Nam Sa, quần đảo Đoàn Sa như thế nào đều không thể biết được. Mới đầu có người cho rằng quần đảo Tân Nam chính là quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trung Sa hiện nay), nhưng qua nghiên cứu của Tổng lãnh sự Manila mới sáng tỏ là quần đảo Tân Nam và quần đảo Nam Sa của Trung Quốc không phải một, mà là quần đảo Đoàn Sa. Nhưng Đoàn Sa và quần đảo Tân Nam có phải là một hay không vẫn còn có nghi vấn. Khi mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất năm 1935, Trung Quốc đặt tên cho Spratly Islands (Trường Sa) là Đoàn Sa vốn là tên dịch ra tiếng Trung của Tizard Islands, nó chỉ để gọi các đảo ở phía Bắc quần đảo Tân Nam. Vì vậy trong bản đồ của Trung Quốc, Đoàn Sa có lúc chỉ toàn bộ quần đảo Tân Nam, có lúc chỉ chỉ các đảo phía Bắc của quần đảo Tân Nam. Tình hình lộn xộn này mới được làm sáng tỏ trong bức điện cuối tháng 8 mà Tổng lãnh sự quán ở Manila gửi Bộ Hải quân: “Kiểm tra thấy quần đảo Tân Nam (Shinnan Gunto) không phải tên gọi khác của quần đảo Nam Sa (Macclesfield Bank), quần đảo này nằm ở giữa quần đảo Nam Sa, Philippines, Borneo và bán đảo Đông Dương, bao gồm tất cả đảo và đá ở biển Nam Trung Quốc, đảo chính của nó bao gồm quần đảo Đoàn Sa (Tizard Bank), đảo Trung Tiểu (Loaita Bank), đảo Thiên Tân (Thitu Island), đá Bắc Hiểm (North Danger) và đảo Tây Điểu (Spratly hay Storm Island)...” Phải mất trọn vẹn hai tháng để làm rõ vấn đề này.
Đến tháng 8, Viện Hành chính quyết định giao tỉnh Quảng Đông tạm thực hiện việc tiếp thu “các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Đoàn Sa”, không biết được vì sao không để Đài Loan tiếp thu, có thể là muốn tiện việc thống nhất hành động. Ngày 20/9, Bộ Nội chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Hải quân cùng tổ chức hội nghị về việc tiếp thu “quần đảo Đoàn Sa”. Hội nghị đã thảo luận các vấn đề địa lí có liên quan đến quần đảo Tân Nam. Hải quân nói quần đảo Đoàn Sa chỉ là một bộ phận của quần đảo Tân Nam, nhưng Đài Loan nói quần đảo Đoàn Sa chính là quần đảo Tân Nam, hơn nữa hai bên đưa ra giải thích khác nhau về vị trí quần đảo Tân Nam, Hải quân nói quần đảo Tân Nam nằm giữa 112° đến 117° kinh Đông, Đài Loan nói giữa 111° đến 117° kinh Đông. Rốt cuộc phải xác định vị trí và tên gọi cũng như phạm vi của quần đảo này như thế nào? Cuối cùng, các bên quyết định: (1) Tỉnh Quảng Đông tiếp thu quần đảo Đoàn Sa càng sớm càng tốt với sự giúp đỡ của Bộ Quốc phòng, phạm vi địa lí tiếp thu do Bộ Nội chính định ra; (2) Về vị trí địa lí quần đảo này và tên gọi các đảo thuộc về nó, Bộ Nội chính cần phải chỉnh vẽ lại trên bản đồ chi tiết; (3) Trước mắt không cần nêu ra vấn đề chủ quyền của quần đảo này với các nước, nhưng để ứng phó với các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tư lệnh Hải quân cần gửi các tư liệu có liên quan cho Bộ Ngoại giao để dùng cho việc giao thiệp.
Ngày 25/9, bốn bộ lại họp lần nữa, Bộ Nội chính đưa ra bản vẽ “Nam Hải chư đảo vị trí lược đồ” (南海諸島位置略圖: Lược đồ vị trí các đảo biển Đông) được vẽ và bản dịch “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (南海諸島 名稱一覽表: Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông). Cuộc họp đã thống nhất phân định khu vực tiếp thu theo bản đồ của Bộ Nội Chính, và trước khi tiếp thu hoàn toàn, không công bố ra bên ngoài. Trong bản đồ và bảng kê tên gọi này, quần đảo Tân Nam được chính thức đặt tên là quần đảo Nam Sa, “quần đảo Nam Sa” được đặt tên lại là “quần đảo Trung Sa”, còn quần đảo Đoàn Sa là nhóm đảo, đá ở phía Bắc quần đảo Tân Nam, nhưng tên gọi các đảo, đá cơ bản như phiên bản năm 1935.
Trong bản đồ này đã xuất hiện đường chữ U do 8 đoạn rời nhau tạo thành, đây là sự xuất hiện sớm nhất của nguyên mẫu “đường 9 đoạn” sau này trong văn kiện chính thức. Cách vẽ cơ bản giống với “đường 9 đoạn”, bao gồm cả bãi Chiêm Mỗ (詹姆沙: Chiêm Mỗ sa, nay gọi là bãi ngầm Tăng Mẫu / James Shoal). Xét từ quá trình ra đời, có thể thấy rằng mục đích của đường này chỉ là để chỉ định phạm vi các đảo tiếp thu. Trong “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông) không hề bao gồm đá Dân Chủ (đảo Hoàng Nham/ Scarborough Shoal). Sau quá trình chuẩn bị này, ngày 9/10, Bộ Quốc phòng chủ trì tổ chức “Hội nghị tiến quân chiếm đóng quần đảo Nam Hải” với sự tham gia của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội chính, Cục Quân vụ, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tư lệnh Không quân, Bộ Tổng tư lệnh Liên cần... Quyết định rằng Hải quân hoàn thành công tác tiến quân chiếm đóng Tây Sa, Nam Sa (quần đảo Trung Sa) và Đoàn Sa (quần đảo Nam Sa) trước ngày 7/11, việc quân sự của các quần đảo tạm do hành doanh Quảng Châu quản lí, Bộ Ngoại giao phải làm công tác chuẩn bị ngoại giao, nhưng tạm không nêu ra vấn đề chủ quyền với các nước.
Sau khi người Nhật rút đi, xuất hiện khoảng trống quyền lực ở các đảo biển Đông. Năm 1946, người Pháp đã đổ bộ lên đảo San Hô (Hoàng Sa) ở Hoàng Sa và đảo Trường Sa Lớn ở Trường Sa nhưng phía Trung Quốc dường như không biết điều đó (xem III.5), còn Philippines mới độc lập đã tuyên bố có chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng không có hành động thực tế (xem phần sau). Trung Quốc ý thức về những tranh chấp ngoại giao mà Hoàng Sa và Trường Sa sẽ gây ra nên quyết định chiếm đóng các đảo biển Đông càng sớm càng tốt, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa đang có tranh chấp. Hành động này nếu không bí mật thì cũng không hề công khai. Có thể thấy, Trung Quốc biết rõ tình hình quốc tế có tranh chấp về chủ quyền, nên muốn chiếm càng sớm càng tốt để tạo thành sự đã rồi, tạo cơ sở cho các tranh chấp ngoại giao có thể xảy ra sau này. Vì vậy, mặc dù Trung Quốc định nghĩa hành động này là “tiếp thu” nghe có vẻ quang minh chính đại nhưng vẫn tiến hành không công khai.
Hải quân mỏng yếu của Trung Quốc bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn trong chiến tranh, không có sẵn để có thể dùng đi “tiếp thu” Hoàng Sa và Trường Sa. May gặp dịp sau chiến tranh Mĩ dư thừa số lượng lớn vật tư quân sự, vì vậy phía Mĩ đã tặng cho Trung Quốc một lô tàu chiến trong Thế chiến II theo “Đạo luật thuê mượn” (Lend-Lease Act), đúng vào lúc có thể dùng vào công tác tiếp thu. Vào ngày 29/10, bốn tàu chiến (Vĩnh Hưng, nguyên là USS Embattle, thuyền trưởng Lưu Nghi Mẫn; Trung Kiến, nguyên là LST-716, thuyền trưởng Trương Liên Thụy; Thái Bình, nguyên là USS Decker, thuyền trưởng Mạch Sĩ Nghiêu; Trung Nghiệp, nguyên là LST-1056, thuyền trưởng Lí Đôn Khiêm) xuất phát từ Thượng Hải, dừng lại ở Hổ Môn một thời gian ngắn, bổ sung nhân viên đo vẽ, ngày 6/11 từ Hổ Môn lên đường đến Du Lâm, Hải Nam, bổ sung vật tư và thuê ngư dân địa phương làm hướng đạo. Sau đó, đoàn chia làm hai nhóm, Diêu Nhữ Ngọc chỉ huy hai tàu “Vĩnh Hưng” và “Trung Kiến” đến Hoàng Sa ngày 24/11, dựng “Bia kỉ niệm Hải quân thu hồi quần đảo Tây Sa” trên đảo Vĩnh Hưng (khi đó vẫn gọi là đảo Vũ Đức hoặc đảo Cây, đảo Phú Lâm, Woody Island), đồng thời để lại một đơn vị quân trú đóng và xây dựng một trạm khí tượng.
Lâm Tuân thì chỉ huy tàu “Thái Bình” và “Trung Nghiệp” đến đảo Thái Bình (khi đó gọi là đảo Trường) vào ngày 12/12. Đây là lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa được lịch sử ghi chép có thể tra cứu. Trên đảo Thái Bình (Ba Bình), quan quân đã cử hành nghi thức tiếp thu, tuyên bố đảo Thái Bình do tỉnh Quảng Đông quản lí, đồng thời thành lập Ban Quản lí quần đảo Nam Sa trên đảo Thái Bình. Quan quân cũng dựng bia đá, kéo quốc kì và đã phá bỏ kiến trúc cũ của Nhật Bản xây dựng trên đảo Thái Bình. Trên đảo còn thấy bia đá do người Pháp để lại vào tháng 10 cùng năm. Nhân viên khoa học kĩ thuật cùng đi còn đo vẽ bản đồ địa hình, khảo sát môi trường tự nhiên cũng như thu thập một số khoáng vật và mẫu đất. Bia đá quan quân lập trên đảo Thái Bình khắc chữ “Trung Hoa Dân quốc dựng lại ngày 12 tháng 10”. Nhưng trên thực tế đó là lần đầu tiên Trung Quốc lập bia ở quần đảo Trường Sa.
Sau đó vào tháng 3/1947 Trung Quốc lại phái tàu Thái Bình đến đảo Đông Sa, đồng thời tuyên bố Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa đều thuộc quyền quản lí của Hải quân. Đến lúc đó, Trung Quốc cho rằng các đảo ở biển Đông “đều nằm dưới quyền quản lí chủ quyền của chính phủ Trung Quốc một lần nữa”. Nhưng điều này còn có nhiều nghi vấn. Thứ nhất, từ “một lần nữa” không hề chuẩn xác, đó là lần đầu tiên Trung Quốc quản lí Trường Sa; thứ hai, Trung Quốc chỉ đến đảo Ba Bình mà đánh đồng với việc đã quản lí toàn bộ Trường Sa là có vấn đề; thứ ba, khi đó nước Pháp có đóng quân ở Hoàng Sa, Trung Quốc chỉ tiến quân chiếm đóng đảo Phú Lâm ở phía Đông, không hề quản lí toàn bộ Hoàng Sa. Hành động của Trung Quốc bị Pháp phản đối, và Pháp cũng không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu thuyền Trung Quốc dùng khi “thu hồi” Hoàng Sa và Trường Sa đều là tàu thuyền do Mĩ tặng Trung Quốc. Nếu như không có số tàu này, Trung Quốc trên cơ bản có thể không có cách nào “thu hồi” các đảo biển Đông trước nước khác (chẳng hạn như Philippines). Thế nhưng gần đây Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị lại nói “Trung Quốc và Mĩ lúc đó là đồng minh, quân Trung Quốc lúc đó ngồi trên tàu chiến của Mĩ để thu hồi quần đảo Nam Sa, điểm này các bạn Mĩ phải rất rõ chứ”. Ý Vương Nghị nói bóng gió là việc Trung Quốc ‘thu hồi’ các đảo ở biển Đông được phía Mĩ ủng hộ. Kiểu lập luận này quả là sằng bậy – quân Trung Quốc khi đó không hề ngồi trên “tàu chiến của Mĩ”, mà là ngồi trên “tàu chiến của Mĩ tặng” để ‘thu hồi’ quần đảo Trường Sa. Hơn nữa, khi đó không hề có chuyện Mĩ biết trước kế hoạch thu hồi của Trung Quốc. Sau khi Mĩ tặng tàu chiến cho Trung Quốc, những tàu chiến này chính là tàu chiến của Trung Quốc, không có bất cứ quan hệ gì với Mĩ nữa. Nếu không, nếu như Trung Quốc bán hoặc tặng vũ khí cho nước khác, được nước đó dùng để đánh nhau, thì liệu có thể nói là Trung Quốc ủng hộ nước đó đánh nhau không?
III.4. Mở rộng biên cương trên bản đồ lần thứ hai và sự xuất hiện đường đứt đoạn hình chữ U
Ngay sau khi Trung Quốc tiếp thu và đóng quân ở các đảo biển Đông, Trung Quốc và Pháp đã có tranh chấp về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (xem tiết sau). Trung Quốc khi đó vẫn chưa chính thức công bố việc tiếp thu quần đảo Hoàng Sa, cũng vẫn chưa công bố phạm vi quần đảo Trường Sa. Do đó, để củng cố tính hợp pháp của chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, chính phủ Dân quốc quyết định thảo luận về việc có cần công bố quá trình tiếp thu hay không, công bố thế nào và đâu là phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc muốn nêu ra trong công bố. Về hai vấn đề đầu, thái độ các bên cơ bản giống nhau, tức là cần phải công bố, công bố trong nước thì tốt hơn. Nhưng về vấn đề thứ ba, mặc dù trước khi tiếp thu đã xác định phạm vi quần đảo Trường Sa, nhưng việc có nên công bố theo phạm vi này hay không vẫn còn gây tranh cãi, Lâm Tuân - người chủ trì việc tiếp thu, đã đưa ra 3 phương án về cách tiếp thu của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa để bàn cho việc công bố: thứ nhất, lấy quần đảo Tân Nam của Nhật Bản làm phạm vi, tức là tất cả các đảo, bãi, đá từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 117° kinh Đông, nhưng e là quá gần đảo Palawan của Philippines; thứ hai, từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115,5° kinh Đông; thứ ba, 10° đến 12° vĩ Bắc, 114° đến 115° kinh Đông. Ông cho rằng phương án 2 lí tưởng nhất, tức là cần phải từ bỏ các đảo nhỏ ở phía Đông gần với Philippines. Nhưng Bộ Nội chính cho rằng cần phải tuyên bố chiếm hữu toàn bộ quần đảo Trường Sa.
Ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính mời các cơ quan có liên quan họp, thảo luận “Phương án xác định và công bố phạm vi và chủ quyền Tây Sa, Nam Sa”, kết quả là:
(1) “Cực Nam phạm vi lãnh thổ biển Đông phải đến bãi Tăng Mẫu, trước chiến tranh chống Nhật phạm vi này đã được các xuất bản phẩm của các cơ quan, trường học và nhà sách của nước ta lấy làm chuẩn, và từng có việc Bộ Nội chính trình phương án lên, nhưng vẫn theo phương án cũ không thay đổi”;
(2) “Việc công bố chủ quyền quần đảo Tây Sa, Nam Sa do Bộ Nội chính trình phương án lên chính phủ Dân Quốc sau khi đặt tên, vẫn do Bộ Nội chính thông báo cả nước biết. Trước khi công bố, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân phải cố gắng hết sức tiến quân chiếm đóng tất cả các đảo thuộc quần đảo này càng nhiều càng tốt”.
Nhưng có thể do Lâm Tuân vẫn kiên quyết, Viện Hành chính có vẻ thấy rằng có thể bàn bạc lại. Ngày 10/6, Viện Hành chính tổ chức hội nghị 3 bên gồm Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao để thảo luận công việc có liên quan. Công bố phạm vi quần đảo Tây Sa là toàn bộ quần đảo Tây Sa, các ý kiến về cơ bản nhất trí, nhưng phạm vi quần đảo Nam Sa thì có quan điểm khác nhau. Đại biểu Bộ Nội chính Phó Giác Kim cho rằng phải lấy ấn phẩm về phạm vi lãnh thổ Nam HảiHải mà Bộ Nội chính xuất bản trước chiến tranh làm chuẩn, công bố tiếp thu toàn bộ quần đảo Nam Sa. Bộ Quốc phòng thì cho rằng kiến nghị của Lâm Tuân chỉ là kiến nghị của cá nhân, không đại diện Bộ Quốc phòng; “tuy nhiên, kiểm tra phạm vi kiểm soát của Nhật với quần đảo Nam Sa cũng xác định là bao gồm toàn bộ các đảo, nhưng không xa đến biển quốc tế ở phía Tây, ta tiếp thu từ trong tay người Nhật, hiển nhiên vẫn có thể lấy phạm vi này làm chuẩn” (tức lấy phạm vi quần đảo Tân Nam của Nhật Bản). Bộ Ngoại giao cho rằng trước tiên Bộ Quốc phòng sẽ đưa quân đến trú đóng ở những điểm quan trọng trong quần đảo, sau đó sẽ quyết định phạm vi và cách thức thông báo. Cuối cùng, hội nghị quyết định:
(1) Phạm vi công bố phải theo phạm vi lãnh thổ Nam Hải do Bộ Nội chính đệ trình làm chuẩn;
(2) Việc công bố phải được thực hiện trong nước qua tuyên bố báo chí, và Bộ Nội vụ nên biên soạn lịch sử, địa lí cùng thiết bị cũng như bản đồ giải thích kèm theo của quần đảo Tây Sa, Nam Sa trình chính phủ để lưu hồ sơ, đồng thời thông báo cho các cơ sở và trường học trong nước biết;
(3) Về thời gian công bố, phải chờ sau khi tiến quân chiếm đóng các đảo quan trọng của quần đảo Nam Sa (như đảo Song Tử và đảo Nam Uy) và sau khi lập các cột mốc đánh dấu lãnh thổ trên các đảo thứ yếu lân cận rồi mới công bố.
Trong bản thẩm tra giải thích của Bộ Ngoại giao, những thảo luận khi đó được miêu tả nhiều hơn. Hải quân đề nghị để tránh va chạm với Philippines phải từ bỏ các đảo vô dụng gần nước này, hạn chế phạm vi Nam Sa ở quần đảo từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115° 30’ kinh Đông. Nhưng hội nghị cho rằng có 4 lí do không thể theo đề nghị của Hải quân: (1) Việc hoạch định cương giới một nước phải lấy chủ quyền thuộc về ai làm căn cứ, không thể vì có tranh chấp với nước khác, sợ tranh chấp mà từ bỏ; (2) Nam Sa đã là lãnh thổ của ta, hơn nữa phạm vi thu hồi xác định trước đó đã xác định tọa độ là “4° đến 12° vĩ Bắc, 111° 30’ đến 117° kinh Đông, cực Nam biên giới nước ta là đảo James ở 4° vĩ Bắc”, không phải nghi ngờ gì nữa; (3) Dù những đảo dự tính bỏ đi không có giá trị kinh tế nhưng về quân sự có lợi cho hoạt động của tàu ngầm, huống chi là chủ quyền ở đó, cũng không thể từ bỏ, “mở rộng lãnh thổ, không lo lãnh thổ quốc gia quá nhiều, người ta muốn còn chẳng được, lẽ nào chúng ta có thể tự mình cam tâm từ bỏ”; (4) Lãnh hải cũng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, liên quan đến chủ quyền, không dễ dàng từ bỏ, vả lại quần đảo Nam Sa cách đảo Palawan trên 12 hải lí, ngoài 3 hải lí lãnh hải mỗi bên ra, hai bên còn cách nhau một khoảng biển quốc tế đáng kể. Về phương thức tuyên bố thì sử dụng phương thức công bố trong nước, không cần sử dụng phương thức tuyên bố quốc tế, vì “quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ.” Nhưng chỉ công bố toàn bộ quần đảo là phạm vi thu hồi thì chưa đủ, phải nhanh chóng chiếm đóng thực sự mới là thượng sách.
Trong lần thảo luận này quyết định không lựa chọn thi hành phương thức công bố quốc tế, tác giả cho rằng lí do thực sự là sợ quốc tế phản đối. Cái gọi là “quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ”, theo thảo luận phần trên, ngay cả chưa tới mức cả vú lấp miệng em thì chứng lí cũng yếu kém – Trung Quốc chưa từng nêu ra với quốc tế rằng quần đảo Trường Sa thuộc nước này thì dùng cái gì để nói “đã có căn cứ” ? Động thái của Trung Quốc chẳng qua là thông qua các tuyên bố trong nước cùng lúc với việc kiểm soát thực tế càng sớm càng tốt để tạo ra ấn tưởng giả về “sự đã rồi”. Dù như thế nào, căn cứ theo quyết định hội nghị, ngày 15/7 Viện Hành chính đưa ra huấn lệnh: (1) Về phạm vi Tây Sa, Nam Sa, phạm vi của cả hai đều là toàn bộ quần đảo; (2) Về việc tuyên bố thu hồi các đảo thì Tây Sa không cần tuyên bố (vì đã tuyên bố nhiều lần), và vì Nam Sa chỉ thực sự chiếm đảo Thái Bình nên không cần phải tuyên bố toàn bộ hoặc một phần thuộc về ta; (3) Nước ta cần phải phái quân đến chiếm đóng các nơi như bãi Song Tử và đảo Spratly... (4) Trong tương lai, khi nào và dùng phương thức nào tuyên bố các quần đảo này thuộc về ta hoặc do ta thu hồi cần phải xem tình hình chiếm đóng thực tế ở quần đảo Tây Sa, Nam Sa rồi họp để quyết định.
Do đó, Ti Phương vực Bộ Nội chính tiến hành công tác đặt tên một lần nữa. Trước đó, Bộ Nội chính đã đổi tên quần đảo Nam Sa trước đây thành quần đảo Trung Sa, đổi tên quần đảo Đoàn Sa trước đây thành quần đảo Nam Sa. Sau khi tiếp thu quần đảo Tây Sa, ngày 3/4, đảo Vũ Đức (Woody Island, trước đây cũng có tên là đảo Lâm) của Tây Sa được đổi tên thành đảo Vĩnh Hưng, đảo Trường (Itu Aba Island) của Nam Sa được đổi tên thành đảo Thái Bình (lấy tên tàu chiến của Trung Quốc khi tiếp thu để đặt tên). Sau đó, tiến hành “khử Tây hóa” tên gọi các đảo thêm một bước. Tháng 10, Bộ Nội chính đã xác định phương án. Tháng 12, Bộ Nội chính phê duyệt tên gọi mới của các đảo ở biển Đông, cũng xuất bản “Nam Hải chư đảo tân cựu danh xưng đối chiếu biểu” (南海諸島新舊名稱對照 表: Bảng đối chiếu tên gọi cũ mới các đảo biển Đông).
Cùng lúc với việc xác định tên gọi, Bộ Nội chính cũng vạch ra vị trí các đảo ở biển Đông, và xuất bản “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” (南海諸島位置圖: Bản đồ vị trí các đảo biển Đông) (Hình 15), trên bản đồ có vẽ đường 11 đoạn.
Trong sách “Nam Hải chư đảo địa lí chí lược” (南海諸島地理志略: Sơ lược địa lí các đảo ở biển Đông) do Trịnh Tư Ước biên soạn, Ti Phương vực chủ biên xuất bản tháng 11 cũng có đính kèm bản đồ này và bảng đối chiếu tên gọi các đảo bằng tiếng Trung và tiếng Anh rất chi tiết. Tháng 2/1948, Ti Phương vực Bộ Nội chính phát hành “Trung Hoa dân quốc hành chính khu vực đồ” (中華民國行政區 域圖: Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc), các đảo biển Đông và đường đứt đoạn xuất hiện ở trên bản đồ nhỏ ở góc dưới phải của bản đồ lớn. Ba xuất bản phẩm này đều là xuất bản phẩm chính thức của nhà nước, đại biểu cho quyền uy và ý chí của chính phủ. Trong đường 11 đoạn, 2 đoạn ở Vịnh Bắc Bộ sau này bị chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xóa đi, trở thành đường 9 đoạn được mọi người biết đến hiện nay, nước ngoài thường gọi nó là đường chữ U, cũng có người gọi là đường lưỡi bò.
Phiên bản ban đầu của “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” là bản đồ đường 8 đoạn tháng 9/1946. Từ phần thảo luận trên, có thể thấy rằng sự xuất hiện của bản đồ này nhằm giải quyết phạm vi tiếp thu của Hải quân đối với các đảo ở biển Đông, đặc biệt là phạm vi quần đảo Trường Sa mà lập ra. Vì vậy, hàm nghĩa của đường chữ U này chỉ là để chỉ định phạm vi các quần đảo, đánh dấu chúng là “lãnh thổ” của Trung Quốc. Nó không phải là một đường biên giới biển, cũng như không liên quan gì với bất cứ quyền lợi biển nào. Trong thảo luận của các bộ vào ngày 10/ 6, lãnh hải Trung Quốc được thừa nhận rõ ràng chỉ có 3 hải lí, giữa Trường Sa và đảo Palawan của Philippines có vùng biển quốc tế, do đó đường đứt đoạn không phải là đường lãnh hải. Khi đó, mặc dù Tổng thống Mĩ Harry S. Truman tuyên bố đường tài nguyên trong phạm vi 200 hải lí, nhưng khi vẽ đường này, Trung Quốc chưa hề nhắc đến tuyên bố của Truman, có thể thấy mục đích ban đầu của đường này không liên quan gì với quyền lợi tài nguyên biển.
Hình 15: “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” (Bản đồ vị trí các đảo ở biển Đông) do Bộ Nội chính Chính phủ Quốc Dân xuất bản (1947)
Thực ra, trước thế chiến hai đã thấy đường chữ U trong các bản đồ không chính thức riêng lẻ của Trung Quốc. Vào năm 1941, trong sách “Trung Hoa Dân Quốc địa lí tân đồ” (中國民國地理新圖: Bản đồ địa lí mới Trung Hoa Dân Quốc) do Hồ Tấn Tiếp chủ biên đã xuất hiện đường phạm vi, bao gồm Đông Sa và Hoàng Sa bên trong. Trong “Trung Hoa tối tân hình thế đồ” (中華最新形勢圖: Bản đồ hình thế mới nhất của Trung Hoa) do Đồ Tư Thông chủ biên cũng có đường phạm vi này, nhưng điểm cực Nam kéo dài đến khoảng 15° N. Sau sự kiện 9 đảo nhỏ năm 1933, cùng với việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất của Bộ Nội chính, bản đồ mới xuất bản ngoài việc thường ghi rõ 4 quần đảo lớn ra, còn có một số vẽ thêm vào đường phạm vi hình chữ U, nhưng phần lớn đều giới hạn trong 7° đến 9° N.
Bản đồ đầu tiên vẽ bãi ngầm Tăng Mẫu vào trong đường chữ U thường được xem là bản đồ do Bạch Mi Sơ vẽ năm 1936. Trong tình hình trong nước và quốc tế khi đó, tuyệt đại bộ phận học giả Trung Quốc đều có tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Dưới ngòi bút của họ, lãnh thổ “trước kia” của Trung Quốc càng lớn càng tốt, thậm chí cả những vùng lãnh thổ trước kia căn bản không thuộc Trung Quốc cũng bị xem là “đất đai bị mất” của Trung Quốc, ví dụ Triều Tiên, Việt Nam, Lưu Cầu (Ryukyu), thậm chí Afghanistan và Trung Á... Bạch Mi Sơ là một trong các đại diện. Ông là nhà địa lí học nổi tiếng, vào năm 1925 đã xuất bản sách “Trung Hoa Dân Quốc tỉnh khu toàn chí” (中華民國省區全志: Ghi chép toàn bộ các tỉnh, khu vực của Trung Hoa Dân Quốc) khoảng 4 triệu chữ (khi đó vẫn chưa có Nam Sa, cũng không có đường 9 đoạn). Năm 1929, sau khi bị loại khỏi Đại học Sư phạm Bắc Kinh, từ một nhà địa lí tương đối thuần túy ông bắt đầu trở nên cực đoan, trở thành coi “sinh mệnh nhân dân gửi vào trời đất, sức mạnh đất nước dựa vào lãnh thổ”, nhấn mạnh địa lí học phải phục vụ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Ông ta lần lượt xuất bản các bản đồ và sách như “Trung Quốc quốc sỉ đồ” (中國國恥圖: Bản đồ sỉ nhục của Trung Quốc), “Biên cương thất địa sử lược” (邊疆失 地史略: Sơ lược lịch sử đất biên cương bị mất) cùng các bản đồ và sách khác. Từ tên sách có thể biết những sách này đều thổi phồng “nỗi nhục”. Đáng chú ý là mặc dù “Trung Quốc quốc sỉ đồ” (Hình 16) ra sức khuếch đại chủ nghĩa dân tộc nhưng trong bản đồ không có quần đảo Nam Sa, trái lại có quần đảo Sulu của Philippines. Bản đồ khác do Đồ Tư Thông xuất bản năm 1927 là “Trung Hoa cương giới biến thiên đồ” (中華疆界變遷圖: Bản đồ sự thay đổi biên giới của Trung Hoa) (Hình 17), trong bản đồ có hai đường biên giới quốc gia là “biên giới quốc gia hiện tại” và “biên giới quốc gia trước kia”. Biên giới quốc gia trước kia thì bao gồm hầu như toàn bộ Đông Nam Á và quần đảo Sulu, nhưng không có quần đảo Trường Sa, còn biên giới hiện tại chỉ bao gồm quần đảo Hoàng Sa, tương tự như “Trung Quốc quốc sỉ đồ”.
Hình 16: “Trung Quốc quốc sỉ đồ” của Bạch Mi Sơ
Sau lần mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất vào năm 1935, Bạch Mi Sơ nhanh chóng theo kịp tình hình. Vào năm 1936, trong bản in mới của “Trung Quốc kiến thiết tân đồ” (中國建設新圖: Bản đồ mới về kiến thiết Trung Quốc) do ông ta biên soạn có “Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ” (海疆南展後之中國全圖: Bản đồ toàn bộ Trung Quốc sau khi mở rộng biên giới biển về phía Nam) (Hình 18), phạm vi của đường này đến khoảng 4° vĩ Bắc, đã bao gồm bãi ngầm Tăng Mẫu. Tuy nhiên, bản đồ này không giải thích chứng cứ cho phạm vi này một cách thuyết phục, chỉ nêu rằng “tháng 7 năm thứ 22, Pháp chiếm 6 đảo ở biển Đông, sau đó Cục Đo đạc đường biển Bộ Hải quân đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa, nói chung đó là nơi ngư dân nước ta mưu sinh, chủ quyền của chúng đương nhiên thuộc về ta. Tháng 4 năm thứ 24, tập san của Ủy ban thẩm tra bản đồ thủy bộ trung ương công bố bản đồ các đảo ở Nam Hải của Trung Quốc, phía Nam của biên giới biển kéo dài đến quần đảo Đoàn Sa, cực Nam đến bãi Tăng Mẫu, vừa đúng 4° vĩ Bắc, đó là quá trình phát triển của biên giới biển về phía Nam”. Đoạn văn này có chỗ không đúng thực tế: năm 1933, Bộ Hải quân Trung Quốc không hề có chuyện gọi là “đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa”; nhưng cũng cho thấy rõ sự thật về chuyện mở rộng biên giới trên bản đồ. Kết hợp với khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của ông, chứng cứ này phần lớn là chủ quan. Bản đồ này của Bạch Mi Sơ đã trở thành tiền thân của đường chữ U bao trùm toàn bộ biển Đông, cực Nam đến bãi ngầm Tăng Mẫu sau này.
Hình 17: “Trung Hoa cương giới biến thiên đồ” của Đồ Tư Thông (1927)
Hình 18: “Trung Quốc kiến thiết tân đồ” của Bạch Mi Sơ (1936)
Ngoài ra, có một nhà bản đồ khác là Trần Đạc cũng vẽ đường chữ U lên trên biển vào khoảng năm 1935 với những thay đổi của nó cũng tương tư như đường của Bạch Mi Sơ. Trong bản in “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” (中國疆域變遷圖: Bản đồ thay đổi cương vực Trung Quốc) năm 1934 của ông, đường chữ U chỉ đến Hoàng Sa và Trung Sa (khi đó gọi là Nam Sa, Hình 19), trong “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” (Hình 20) xuất bản năm 1936 đường ranh giới từ chỗ biên giới Trung-Triều ở Hoàng Hải kéo dài liên tục đến biển Đông. Phần ở biển Đông gần giống với đường của Bạch Mi Sơ nhưng không biểu thị rõ bãi ngầm Tăng Mẫu.
Một bản đồ khác là “Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ” (中國分省明細圖: Bản đồ chi tiết phân chia các tỉnh của Trung Quốc) (1940, Hình 21) cũng có đường phạm vi này, diện tích bao phủ lớn hơn phiên bản của Bạch Mi Sơ và đường 9 đoạn sau này, về cơ bản vẽ sát vào đường bờ biển của các nước khác ở ven biển Đông. Xét đến việc từ cuối thời Thanh cho đến năm 1940, Trung Quốc chưa hề có một lần thực thi chủ quyền mang tính thực chất ở quần đảo Trường Sa (không kể việc mở rộng biên giới trên bản đồ) cũng như Trung Quốc khi đó đang có chiến tranh với Nhật, biển Đông cơ bản là bị Nhật Bản kiểm soát, mà các nhà bản đồ Trung Quốc có thể vẽ ra đường biên giới như vậy thì quả thực đáng kinh ngạc.
Hình 19: “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” của Trần Đạc (1934)
Hình 20: “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” của Trần Đạc (1936)
Hình 21: “Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ” (1940)
Sau khi “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” được công bố vào năm 1947, các bản đồ mới đều vẽ thêm đường phạm vi mở rộng đến bãi ngầm Tăng Mẫu giống như vậy. Tuy nhieen, cách vẽ đường phạm vi khi đó là rất không cố định. Ví dụ mặc dù “Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ” (中國分省新地圖: Bản đồ mới về phân chia tỉnh của Trung Quốc) (1947, Hình 22) đã phản ánh thành quả việc đặt tên quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa cũng như đường phạm vi nhưng chưa vẽ toàn bộ đường phạm vi. Còn bản in lần thứ 5 “Trung Hoa Dân Quốc tân đồ” (中華民國新圖: Bản đồ mới của Trung Hoa Dân Quốc) do “Thân báo” vẽ (1948, Hình 23) cũng đã tiếp thu thành quả mở rộng biên cương mới nhất. Tuy nhiên, khác với bản đồ trên, đường phân giới biển Đông vẫn tiếp tục dùng đường liền nhưng đường liền này khác với đường 11 đoạn tiêu chuẩn. Vì vậy, việc vẽ đường phạm vi này như thế nào khi đó vẫn chưa có tiêu chuẩn thống nhất. Xét đến việc bản đồ do Trung Quốc xuất bản đều trải qua sự kiểm tra và xác nhận của nhà nước, điều này cho thấy đầy đủ rằng miễn là đường này bao gồm các đảo biển Đông ở bên trong thì đã đạt yêu cầu của Bộ Nội chính, còn về phạm vi và hình thức cụ thể (đường đứt hay là đường liền) đều không quan trọng.
Phạm vi đường đứt đoạn rất lớn, ngoài Hoàng Sa và Trường Sa ra, những đường này hầu như đều vẽ đến bờ biển các nước Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam..., còn phần Tây Nam của đường đứt đoạn có một vùng biển lớn không có đảo nào. Việc vẽ lên bản đồ một phạm vi lớn như vậy có thể gọi là “mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai”. Từ việc phân tích sử liệu ở trên, về cơ bản có thể khẳng định rằng việc mở rộng này là do muốn xác định toàn bộ các đảo đã đặt tên năm 1935 là phạm vi lãnh thổ Trung Quốc. Phần Tây Nam mặc dù không có đảo nhưng có các bãi ngầm nằm trong danh mục các đảo năm 1935, nên cũng được khoanh vào trong phạm vi đường đứt đoạn. Các bãi ngầm ở phía Nam như bãi ngầm Tăng Mẫu, trong thời kì Nhật Bản thống trị cũng như trong sách địa lí thông dụng đều không được xem là một bộ phận của quần đảo Trường Sa, nhưng do trong bảng kê tên các đảo năm 1935 đã được xác định là “điểm cực Nam”, vì vậy đường đứt đoạn cũng mở rộng đến mức áp sát bờ biển Borneo.
Tuy nhiên, ở cấp độ chính thức, chính phủ Trung Quốc chưa hề giải thích đường này. Vì sao chính phủ Dân Quốc lại vẽ đường này trên bản đồ biển Đông? Tại sao đường này được vẽ thành đường đứt đoạn? Đường này có hàm nghĩa là gì? Chính phủ Bắc Kinh vì sao lại xóa đi hai đoạn trong số đó? Đối với những câu hỏi này, chính phủ Dân Quốc khi đó không có bất kì giải thích nào. Mãi đến những năm 1990 mới đưa ra cách lí giải về vùng nước lịch sử (xem phần V.4), và cho đến nay phía Bắc Kinh cũng không có bất kì giải thích chính thức nào.
Hình 22: Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ (1947)
Hình 23: Trung Hoa Dân Quốc tân đồ (Thân báo) (1948)
Sau khi công bố đường chữ U [năm 2009], Trung Quốc tuyên truyền rằng trong thời gian dài không có nước nào đưa ra phản đối. Cách nói này tưởng đúng mà sai. Sự thực là bất kể đường chữ U có ý nghĩa là gì thì yêu cầu thấp nhất cho đường chữ U là các đảo trong đó thuộc chủ quyền Trung Quốc, nhưng sau Thế chiến II đều liên tục gặp phải sự thách thức và phủ định bằng lời nói hoặc hành động (xem phần sau).
Vì vậy, cái gọi là không có nước nào đưa ra phản đối về đường chữ U... chỉ là các nói tự lừa đối mình mà thôi. Các nước không chĩa vào đường chữ U rõ ràng có lẽ chỉ là hệ quả của việc Trung Quốc chưa hề đưa ra định nghĩa chính thức về đường 9 đoạn.
Dù sao Trung Quốc cũng đã vẽ một vòng lớn như vậy ở biển Đông, vì vậy lập trường của chính phủ Trung Quốc là kiên định với phần trong vòng lớn này. Đây vừa là một di sản cũng là một mối họa của Trung Quốc. Hiện nay đường 9 đoạn đã trở thành khái niệm mơ hồ nhất, cũng là khái niệm gây tranh cãi nhất. Vấn đề biển Đông khó mà giải quyết, hơn nữa nguyên nhân để nhiều thế lực ngoài khu vực can dự vào phần lớn cũng chính vì đường này. Đó là chuyện về sau.
III.5. Pháp quay trở lại Việt Nam và tranh chấp Hoàng Sa lần thứ hai giữa Trung Quốc và Pháp
Trong thế chiến thứ hai, dù Pháp đầu hàng Đức, nhưng chính phủ Vichy liên tục duy trì sự thống trị ở Đông Dương. Năm 1944, chính phủ Charles de Gaulle lật đổ chính phủ Vichy, Đông Dương trở thành kẻ địch của Nhật Bản. Vì vậy, vào tháng 3/1945 Nhật Bản phát động cuộc tấn công ở Đông Dương, lật đổ chính quyền của Pháp, bỏ tù sĩ quan và quan chức Pháp. Với sự ủng hộ của Nhật Bản, vua Bảo Đại thành lập chính quyền Việt Nam “độc lập”.
Vào ngày 15/8, cùng ngày Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, Việt Nam độc lập đồng minh hội (Việt Minh) đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam tích cực chống Nhật, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã phát động Cách mạng Tháng Tám, đánh chiếm các cơ quan quan trọng của chính quyền Bảo Đại ở các thành phố lớn ở Bắc Việt, quân Nhật luôn làm ngơ, còn trì hoãn việc phóng thích nhân viên chính quyền và tù binh Pháp, họ giao toàn bộ vũ khí thu được từ người Pháp cho Việt Minh. Chỉ trong vài ngày Việt Minh đã chiếm lấy toàn bộ miền Bắc. Chính quyền Bảo Đại ở Huế tuyên bố độc lập vào ngày 23, và ngày 25/8 vua Bảo Đại lại bị buộc tuyên bố thoái vị. Ngày 2/9, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này gọi tắt là Bắc Việt).
Thế chiến II đã khiến cho sức mạnh của người Pháp ở Đông Nam Á thiệt hại nghiêm trọng, tình hình hỗn loạn ở Việt Nam từng khiến người ta hoài nghi việc Pháp có từ bỏ Đông Dương hay không. Nhưng thế lực thực dân đứng đầu là Anh nhanh chóng quay lại châu Á sau khi Thế chiến II kết thúc, Anh dựa vào quân đội ở Đông Á của mình, đặc biệt là hải quân, nhanh chóng chiếm lại Malaysia, Brunei, Singapore và Hồng Kông. Đồng thời cũng giúp chuyên chở quân đội Pháp và Hà Lan quay trở lại Việt Nam và Indonesia. Theo “Lệnh bình thường số 1”, theo chân quân Anh, quân viễn chinh Pháp dưới sự chỉ huy của Tổng cao ủy (High Commissioner) Georges Thierry d’Argenlieu, bắt đầu tiếp quản miền Nam Việt Nam vào ngày 23/9, mãi đến tháng 5/1946 mới hoàn toàn tiếp quản miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 16° N trở vào Nam.
Thời gian này, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào miền Bắc Việt Nam theo “Lệnh bình thường số 1” vẫn ở lại đây. Để Trung Quốc nhanh chóng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, Pháp muốn sớm đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. “Hiệp ước Trùng Khánh” Trung-Pháp được kí kết ngày 28/2/1946 quy định rằng Pháp hủy bỏ các điều ước bất bình đẳng với Trung Quốc (bao gồm tô giới và vịnh Quảng Châu); còn Trung Quốc rút khỏi miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 15/3, và muộn nhất vào ngày 31/3 phải giao miền Bắc Việt Nam cho Pháp.
Tuy nhiên, việc rút quân của Trung Quốc trì hoãn đến cuối tháng 5 mới hoàn thành, thời gian này Pháp muốn tiến vào miền Bắc Việt Nam trước thì bị Việt Minh và quân đội Trung Quốc ngăn cản. Pháp chỉ có thể triển khai đàm phán với Việt Minh. Ngày 6/3, Pháp và Việt Minh kí hiệp ước, Việt Minh không theo đuổi độc lập, mà thay vì vậy đồng ý chuyển Việt Nam thành một nước tự do (free state) trong Liên bang Đông Dương nằm trong Khối Liên hiệp Pháp (French Union), còn Pháp đồng ý sau khi quân Pháp đóng quân ở miền Bắc 5 năm thì sẽ tiến hành tuyển cử để thống nhất Nam Bắc. Như vậy, quân đội Trung Quốc mới rút dần khỏi Việt Nam. Mĩ ban đầu ủng hộ Việt Minh, tuy nhiên sau khi Việt Minh ngả theo Liên Xô, để ngăn chặn cộng sản, Mĩ quay sang ủng hộ Pháp vốn đang muốn nhanh chóng quay lại Việt Nam. Việt Nam bắt đầu bước vào tình trạng chiến tranh lâu dài. Trước sức ép, tháng 8/1949, Pháp lại ủng hộ vua Bảo Đại lập ra Quốc gia Việt Nam (gọi tắt là Việt Nam) lấy Sài Gòn làm thủ đô để chống lại Việt Minh được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ.
Tình hình Việt Nam phức tạp như vậy, nhưng Pháp không hề từ bỏ ý đồ với Hoàng Sa và Trường Sa. Điều rất kì lạ là Hoàng Sa và Trường Sa không hề được nhắc đến trong các cuộc đàm phán Trung-Pháp hoặc trong Hiệp ước Trùng Khánh. Khi đàm phán, Pháp ở vào thế yếu nên không đề cập đến Hoàng Sa dù rất muốn, đó không là chuyện lạ. Nhưng Trung Quốc vốn có thể lợi dụng thời cơ có lợi này để ép phía Pháp phải nhượng bộ, cũng không nêu ra. Khả năng lớn nhất là sau chiến tranh, lúc mà Trung Quốc “phát hiện” vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa một lần nữa là vào ngày 19/4/1946 thì hiệp ước Trung Pháp đã kí kết rồi. Có thể thấy Trung Quốc không hề quá coi trọng các đảo biển Đông và đó chính là nguyên nhân lớn nhất khiến chính phủ Trung Quốc không tận dụng cơ hội vào lúc đó.
Sau khi kí kết hiệp ước, Pháp nhanh chóng tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, hành động của họ thậm chí còn sớm hơn chính phủ Trung Quốc. Tháng 5/1946, tàu chiến Pháp Escarmouche (Tiền Tiêu) đến Hoàng Sa, quân đội đổ bộ lên đảo San hô (Hoàng Sa) thuộc Hoàng Sa trước, chuẩn bị thay thế quân Nhật sắp rút lui nhưng phát hiện không có ai định cư trên đảo, chỉ có vài ngư dân đang bắt rùa biển. Quân đội Pháp ở lại trên đảo mấy tháng rồi rời đi, không trú đóng thường xuyên. Hành động này sớm hơn nửa năm so với việc Trung Quốc đổ bộ lên Hoàng Sa tháng 11 cùng năm.
Đồng thời với việc này, D’Argenlieu viết thư cho Paris, yêu cầu Paris xác nhận lần nữa chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng lúc này Paris đang bận đàm phán với Hồ Chí Minh, mong Trung Quốc rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt nên không trả lời ngay. Mãi đến tháng 6/1946, sau khi Công sứ Pháp ở Nam Kinh phát hiện rằng Trung Quốc có thể sẽ đưa quân đến Hoàng Sa và Trường Sa mới có thư trả lời.
Thư trả lời nói rằng Trường Sa được xem là lãnh địa của Nam Kì thuộc Pháp còn Hoàng Sa thuộc lãnh thổ An Nam do Pháp bảo hộ. Tình trạng pháp lí của hai quần đảo khác nhau. Vả lại, vào năm 1933 khi Pháp chiếm Trường Sa thì đây là đất vô chủ, chính quyền Nam Kì thuộc Pháp có thể tuyên bố chủ quyền lại lần nữa bằng phương thức tuần tra và thay mới các cột trên đảo. Tuy nhiên, Công sứ ở Nam Kinh không cần chủ động nêu việc này với Trung Quốc, vì khi Pháp tuyên bố chủ quyền năm 1933 Trung Quốc không hề phản đối. Đối với Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao Pháp cho rằng mặc dù Việt Nam có chủ quyền lịch sử, nhưng kiểm soát thực tế hiện thời vẫn là cần thiết. Vì vậy, ngày 22/10 Bộ Ngoại giao ra lệnh cho D’Argenlieu lấy danh nghĩa của An Nam để lập một trạm khí tượng ở Hoàng Sa cùng với một đơn vị nhỏ đóng giữ.
Nhưng khi đó quan hệ giữa Pháp và chính phủ Hồ Chí Minh bắt đầu căng thẳng. Ngày 20/11, D’Argenlieu yêu cầu Đảng bộ cộng sản ở thành phố Hải Phòng cho dân quân Việt Nam rút lui khỏi thành phố. Ngày 24 chiến sự bùng nổ ở Hải Phòng. Những căng thẳng quân sự này khiến D’Argenlieu nhiều lần trì hoãn lệnh của Bộ Ngoại giao. Do đó, lệnh này vẫn chưa được thi hành kịp thời, Công sứ quán ở Nam Kinh lại truyền thông tin đến: tháng 11 quân đội Trung Quốc sẽ “tiếp thu” quần đảo Hoàng Sa. Ngày 25/11 Pháp phái máy bay trinh sát đến Hoàng Sa nhưng không phát hiện có quân Trung Quốc. Ngày 28/11 Pháp lại ra lệnh cho D’Argenlieu phải phái quân đến Hoàng Sa chiếm đóng. Nhưng D’Argenlieu lại trì hoãn.
Như đã nói ở trên, Trung Quốc vốn không có ý định tuyên bố đã chiếm Hoàng Sa, nhưng ngày 7/1/1947, trong cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao, người phát ngôn Bộ Ngoại giao bị nhà báo hỏi đến việc này nên buộc lòng phải đưa ra tuyên bố thừa nhận đã tiếp quản quần đảo Hoàng Sa. Một câu nói dấy lên làn sóng lớn, dư luận Việt Nam thuộc Pháp xôn xao. Pháp đưa ra phản đối chính thức và tuyên bố sẽ bảo vệ Hoàng Sa vì lợi ích của Việt Nam. Hãng tin AFP đưa tin chuyện năm 1938 Trung Quốc “đồng ý” sự chiếm đóng của Pháp dưới danh nghĩa đế quốc An Nam. Lúc này D’Argenlieu mới chọn cách hành động, ngày 13/1, tàu chiến “Tonkinois” (Bắc Kì) đến đảo San Hô (Hoàng Sa) thuộc Hoàng Sa một lần nữa. Theo chỉ thị, nó phải thành lập trung tâm hành chính trên đảo San Hô (Pattle Island, khi đó Trung Quốc gọi là đảo Bạch Thác [白托: Baittuo - phiên âm của Pattle]) ở phía Tây và trên đảo Phú Lâm (Woody Island, khi đó Trung Quốc gọi là đảo Vũ Đức [武德: Wude - phiên âm của Woody). Nhưng cùng ngày máy bay được phái đến trinh sát đảo Phú Lâm phát hiện có quân Trung Quốc, hành động trinh sát này khiến Trung Quốc chú ý. Ngày 17/1, khi tàu chiến Pháp đến đảo Phú Lâm thì phát hiện trên đảo đã có quân Trung Quốc đóng rồi. Thuyền trưởng đề xuất đưa họ đến Đông Dương, thậm chí đề nghị cho họ tiền, và bắn bổng lên trời để đe dọa, tình hình căng thẳng. Quân Trung Quốc nhanh chóng gửi điện về Nam Kinh.
Nam Kinh lập tức đưa ra phản đối và tuyên bố quân Trung Quốc đã được lệnh kháng cự đến cùng, yêu cầu phía Pháp rút khỏi đảo này, không được làm tổn hại quan hệ hữu hảo của hải nước. Pháp sợ Nam Kinh sẽ ủng hộ Việt Minh, đành ra lệnh tàu chiến rút khỏi đảo Phú Lâm, đưa hơn 20 người trở lại đảo San Hô để xây dựng trung tâm chỉ huy, đồng thời giải thích với phía Trung Quốc rằng việc đổ bộ của tàu chiến Pháp là hành động tự ý của thuyền trưởng chứ không phải ý của chính phủ Pháp, đề nghị phía Trung Quốc bình tĩnh. Nhờ đó cuộc khủng hoảng mới không leo thang. Sau đó, hai bên duy trì tình trạng mỗi nước chiếm một đảo ở phía Đông và ở phía Tây quần đảo.
Nhưng bắt đầu từ đây lại mở đầu cuộc tranh chấp mới giữa Trung Quốc và Pháp về Hoàng Sa, tức là cuộc tranh chấp Hoàng Sa lần thứ hai. Các lập luận của lần tranh chấp này về cơ bản giống với tranh chấp thứ nhất, so với tranh chấp trước, ngoại trừ một câu hỏi nữa là liệu việc Pháp chiếm đóng Hoàng Sa năm 1938 có được Trung Quốc công nhận hay không thì tôi không đi vào chi tiết. Ngoài ra có một ý mới là Đại sứ Trung Quốc ở Thổ Nhĩ Kì Khâu Tổ Minh đề xuất với Bộ Ngoại giao mấy kiến nghị mới: (1) không cần chú ý đến việc “chiếm đóng thực tế” và thủ tục “thông báo cho nước thứ ba”, vì tư liệu chính thức của Trung Quốc quy định Tây Sa thuộc quyền quản lí của tỉnh Quảng Đông, trước “Công ước châu Phi” năm 1885, điều kiện chiếm đóng dựa theo luật quốc tế lúc chiếm đóng; (2) ta không lập quan chức không có nghĩa là nước ta từ bỏ chủ quyền, vì việc tuần tra phòng thủ biển cũng là công việc hành chính thích đáng; (3) bỏ lơ một khoảng thời gian không đủ để chứng tỏ nước ta từ bỏ chủ quyền. Ngoài ra, Trịnh Quỹ Nhất thuộc Ủy ban tham chính Dân Quốc cũng nêu việc Mã Kiện Anh ở Đại học Đài Loan tìm thấy các đồng tiền thời Vĩnh Lạc tại đảo San Hô thuộc Hoàng Sa, điều đó chứng tỏ thời đó đã có người Trung Quốc hoạt động ở Hoàng Sa, và đó cũng là ý mới.
Nhưng vào lúc đó, Trung Quốc thấy rằng các vấn đề pháp lí chỉ là thứ yếu. Tranh cãi lớn nhất khi đó là liệu có đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Tòa trọng tài quốc tế hay không. Ngày 27/1, Đại sứ Trung Quốc tại Pháp Tiền Thái đưa ra phản đối nghiêm khắc với Vụ châu Á của Pháp, yêu cầu Pháp rút quân khỏi đảo San Hô. Nhưng Pháp phản đối, yêu cầu Trung Quốc đưa ra Tòa Trọng tài quốc tế : “Trung Quốc cảm thấy có chứng cớ vững chắc thì tại sao không đưa ra Tòa Trọng tài?” Hơn nữa, họ còn nói với Trung Quốc rằng “Pháp chưa bao giờ quá coi trọng quần đảo Hoàng Sa, nhưng lập trường của Pháp trong 15 năm nay không thể bỗng nhiên thay đổi, Trung Quốc thể hiện sự kiên quyết như vậy, đồng thời có giọng điệu ra lệnh, phía Pháp nhượng bộ sẽ mất mặt, tốt nhất là giao cho Tòa Trọng tài, (một khi Trung Quốc đồng ý) phía Pháp sẽ lập tức rút quân, không cần (có kết quả) của Tòa Trọng tài mới rút quân”. Tiền Thái truy hỏi vì sao phía Pháp không thể rút quân trước, phía Pháp nói “nếu làm như vậy thì khác nào thừa nhận chủ quyền Trung Quốc.”
Với việc này phía Trung Quốc sớm đã có chuẩn bị. Trong thư Bộ trưởng Ngoại giao Vương Thế Kiệt gửi cho Tưởng Giới Thạch có viết: Giải quyết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa không ngoài hai biện pháp là hòa bình và vũ lực, Bộ Ngoại giao không chủ trương dùng vũ lực. Phương thức hòa bình thì có ba loại, hoặc hai nước trực tiếp đàm phán, hoặc đưa ra Tòa Trọng tài quốc tế, hoặc giao cho Tòa án Quốc tế. Chỉ có điều hai cách sau “những lí do phía Pháp nắm giữ không thể hoàn toàn xác lập chủ quyền của họ đối với Tây Sa, nhưng các điểm căn cứ của phía ta cũng không phải không có chỗ tranh cãi, về mặt pháp lí hai bên đều không đủ chứng cứ, Tòa Trọng tài quốc tế ít nhiều cũng có ý hòa giải, Tòa án Quốc tế thì buộc dựa vào pháp luật để đưa ra phán quyết cuối cùng. Dự đoán quyết định sau này sẽ không ngoài áp dụng thi hành chế độ cùng quản lí, hoặc đưa các đảo của quần đảo này cho hai nước Trung Quốc và Pháp chia nhau quản lí. Quyết định của Tòa Trọng tài quốc tế và Tòa án Quốc tế đều có tính chất bắt buộc phải chấp hành, một khi phán quyết được đưa ra thì hai bên phải tuân thủ thực hiện, đến lúc đó chúng ta sẽ không thể có chỗ để xoay sở, chi bằng hai nước trực tiếp đàm phán, ta có thể cân nhắc tình hình để khi nào tiến hành.” Đồng thời ông ta đề xuất rằng sách lược tốt nhất hiện thời là yêu cầu phía Pháp rút quân khỏi đảo San Hô trước rồi tiến hành đàm phán.
Như vậy, trọng tâm của hai bên là: Pháp rút quân trước rồi Trung Quốc mới đàm phán; hoặc Trung Quốc đồng ý ra Tòa Trọng tài trước rồi Pháp mới rút quân. Ngày 1/2, phía Pháp lại nhượng bộ lần nữa, đề xuất “hiện nay trong vụ này tốt nhất là giao cho một chuyên gia pháp luật của mỗi bên nghiên cứu, nếu không thống nhất được thì đưa ra Tòa Trọng tài”, “nếu Trung Quốc đồng ý nguyên tắc giao cho chuyên gia pháp luật nghiên cứu thì phía Pháp có thể thảo luận với Thủ tướng, Ngoại trưởng việc rút quân trước, nhưng vẫn bảo lưu lập trường của mình”. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn một mực buộc Pháp rút quân trước. Ngày 4/2, phía Pháp lại giải thích giải quyết bằng pháp luật chỉ là một trong những phương thức tiếp cận, nếu Trung Quốc đồng ý trên nguyên tắc giao cho chuyên gia pháp luật nghiên cứu thì phía Pháp rút quân tương đối dễ dàng hơn, sau này cho dù nghiên cứu không ổn thỏa, Trung Quốc vẫn có thể không thừa nhận, không chịu ràng buộc của Tòa Trọng tài. Thái độ của Pháp lúc này thực sự là thỏa hiệp, lí do không gì khác hơn là tình hình Việt Nam không ổn định, lo Trung Quốc can thiệp, sợ Trung Quốc đưa vấn đề Việt Nam ra Hội đồng Bảo an, chỉ có thể tiếp tục nhượng bộ trong vấn đề Hoàng Sa, bày tỏ việc không muốn làm sứt mẻ quan hệ Trung Pháp. Nhưng Trung Quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn, một mực đòi Pháp rút quân trước. Trung Quốc khi đó cũng đúng là có dùng tình hình Việt Nam để gây áp lực với Pháp, ví dụ Bộ trưởng Quốc phòng Bạch Sùng Hy đề xuất thông qua “Đảng kiều” (tức Hoa kiều ở Việt Nam) kích động “lực lượng cách mạng” của Việt Nam buộc Pháp rút quân khỏi quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực chuẩn bị xây dựng pháo đài kiên cố trên đảo Phú Lâm, tăng cường binh lực, xây dựng hải đăng... với ý đồ tạo ra sự đã rồi.
Thái độ của Trung Quốc không những khiến phía Pháp thấy khó rút lui, mà đến cả Đại sứ Trung Quốc tại Pháp cũng cảm thấy không nên quá cứng rắn. Khi phía Pháp lại đề xuất một lần nữa rằng “Trung Quốc có thể tạm hoãn 2 hay 3 tuần, đợi sau khi tình hình dư luận lắng xuống, thì sẽ chấp nhận thương lượng, đến lúc đó phía Pháp sẽ lặng lẽ rút quân và mấy ngày sau sẽ đưa ra công bố”, Tiền Thái cũng kiến nghị với Bộ Ngoại giao “nếu như cách có thể làm chỉ là thương lượng, không phải theo một phương thức nào đó, khiến họ rút quân thì đó có phải là điều có thể cân nhắc hay không?” Nhưng Bộ Ngoại giao vẫn kiên trì “trước khi quân Pháp rút khỏi Tây Sa, chính phủ ta không có chấp nhận bất cứ ràng buộc nào về thương lượng.” Thế là tình hình vẫn tiếp tục giằng co. Ngày 22/3, Tiền Thái lại xin chỉ thị về cách ứng phó, điện trả lời của Bộ Ngoại giao viết: Trung Quốc khó mà đồng ý đưa ra tòa trọng tài bởi vì (1) tư liệu chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đầy đủ hơn Pháp rất nhiều, nếu như đồng ý đưa ra trọng tài, không chỉ thừa nhận phía Pháp cũng có chủ quyền, hoặc bản thân chủ quyền của ta nẩy sinh nghi vấn, điều này không phù hợp lập trường nhất quán của ta; (2) Pháp đòi chủ quyền là lấy danh nghĩa vua An Nam, nếu như hiện nay giải quyết với Pháp là chúng ta gián tiếp dành cho Pháp cơ hội cướp lấy lãnh thổ Việt Nam; (3) dư luận trong nước đều rất phẫn nộ trước việc quân Pháp đổ bộ lên đảo Bạch Thác (Hoàng Sa), nếu như đồng ý ra trọng tài với Pháp, quốc dân sẽ xem là yếu đuối và sẽ chỉ trích nhiều hơn.
Khi đó, Bộ Ngoại giao còn có một lo lắng khác. Vì Pháp và Trung Quốc đều thừa nhận “thẩm quyền bắt buộc” của Tòa án Quốc tế, nên Bộ Ngoại giao lo rằng Trung Quốc không thể không chấp nhận thẩm quyền nếu như phía Pháp đưa ra Tòa án Quốc tế.
Nhưng Bộ Ngoại giao đã trù tính cẩn thận và đã tìm ra cớ: phạm vi mà Pháp thừa nhận thẩm quyền tòa chỉ là “thực tế và tình hình tranh chấp phát sinh sau khi phê chuẩn”. Nhưng tranh chấp Hoàng Sa xảy ra trước khi Pháp phê chuẩn tuyên bố này, hơn nữa quy thuộc chủ quyền không phải là “sự tồn tại thực tế hoặc tình hình nào đó, do đó nghiêm khắc mà nói, nó vượt quá thẩm quyền bắt buộc của Tòa án Quốc tế được phía Pháp thừa nhận.” Tuy nhiên, nếu như Pháp đưa ra Tòa án mà Trung Quốc không chấp nhận thì vẫn ở vào thế yếu đối với dư luận quốc tế, dù có thể lấy ý kiến trình bày ở trên làm lí do. Vì vậy cách tốt nhất là kiên quyết yêu cầu Pháp rút quân, dù phía Pháp không đáp ứng thì cũng chỉ là kéo dài thời gian. Trung Quốc lại hỏi ý kiến sứ quán ở nước ngoài và người phát ngôn Tòa án Quốc tế người Trung Quốc xem phải ứng phó như thế nào, ý kiến trả lời cũng là lấy hai lí do trình bày ở trên để biện hộ. Chỉ có Đại sứ quán ở The Hague đề xuất rằng “tình trạng pháp lí của ta nghiêm khắc mà nói dường như thiếu vững chắc”, nếu như về mặt ngoại giao phía Pháp đưa ra đề nghị tương đối hợp lí, Trung Quốc nên thận trọng suy nghĩ. Giằng co như vậy cho đến tháng 6 thì xảy ra việc máy bay trinh sát của Pháp đến Hoàng Sa trinh sát, dẫn đến sóng gió ngoại giao mới. Nhưng không hại gì đến đại thể. Tháng 7, Pháp lại đưa ra nhượng bộ mới, dùng việc rút quân ở Hoàng Sa để đổi lấy quyền lợi nhà cửa ở tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu. Hóa ra, sau khi kí kết “Hiệp ước Trùng Khánh”, Pháp phải trả lại tô giới và nhà cửa ở tô giới. Sau khi trả lại hầu hết các ngôi nhà mà không được bồi thường, Pháp vẫn muốn giữ lại một vài ngôi nhà. Theo Đại sứ Trung Quốc tại Pháp Tiền Thái thì đây là thành quả mà Đại sứ Pháp tại Trung Quốc Jacques Meyrier có được sau khi về nước nỗ lực thuyết phục Thủ tướng và Tổng thống Pháp, Meyrier quả thực đã cố gắng hết sức; sự nhượng bộ của Pháp đã là quá mức, nếu ngay cả điều này cũng không thể thỏa mãn, Pháp sẽ không có cách nào ứng phó dư luận, e rằng hai vụ việc Hoàng Sa và ngầm bồi thường này đều cùng bỏ lỡ, vì cái nhỏ mất cái lớn. Tiền Thái đề nghị nếu như Pháp yêu cầu giữ lại số ít nhà cửa “đại thể không quá đáng”, phía Trung Quốc nên suy nghĩ. Nhưng phía Trung Quốc không hề đáp lại. Đến tháng 8, Tiền Thái lại gửi điện cho Bộ Ngoại giao, nhắc đến tình hình chính trị Pháp sắp có thay đổi, phe hữu của De Gaulle rất có thể sẽ lên cầm quyền, đến lúc đó chính sách có thể sẽ trở nên cứng rắn, kêu gọi Trung Quốc tích cực cân nhắc.
Lần này, ngay cả Bộ Ngoại giao cũng cảm thấy cần phải không lẩn tránh, do đó ngày 9/9 gửi thư cho Bộ Quốc phòng: “Theo điện của Đại sứ Tiền Thái tại Pháp thì phía Pháp đã bày tỏ nhượng bộ, muốn rút quân chiếm đóng khỏi đảo Bạch Thác, chỉ có điều là chủ quyền quần đảo Tây Sa thuộc Việt Nam, hiện phía Pháp không thể thay đổi được, chờ sau khi quan hệ Pháp-Việt cải thiện, Pháp làm trung gian điều đình với Việt Nam để giải quyết triệt để vụ này.”
Nhưng Bộ Quốc phòng không hề có biểu hiện gì. Giữa tháng 10, Viện Hành chính tổ chức hội nghị liên tịch về việc xây dựng quần đảo Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao một lần nữa giải thích cho các bộ khác rằng phía Pháp đã nhượng bộ nhiều, nhưng Bộ Quốc phòng và Bộ Nội chính đều không có phản ứng, chỉ hào hứng thảo luận việc xây dựng ở Tây Sa và Nam Sa như thế nào.
Cuối tháng 9, bỗng nhiên có tin quân Pháp đã rút khỏi quần đảo San Hô, nhưng tin này mãi vẫn không được chứng xác nhận. Giữa tháng 11, Hải quân phái ‘tàu tầm trung’ đến đảo San Hô, cử Trần Phó Trưởng lên bờ kiểm tra. Phát hiện trên đảo có một đại úy Pháp và khoảng hơn 30 lính Việt Nam đóng giữ. Trần Phó Trưởng chỉ ra đảo này thuộc Trung Quốc nhưng đại úy Pháp nói đảo này thuộc Việt Nam. Trần Phó Trưởng xin chụp ảnh trên đảo, được đồng ý, và sau khi chụp ảnh dưới sự giám sát chặt chẽ của viên đại úy và hai lính có vũ trang xong thì quay về. Đây là lần đối đầu thứ hai sau chiến tranh giữa hai bên Trung, Pháp. Sau việc này, đàm phán về Hoàng Sa rơi vào im lặng.
Thời gian từ tháng 1 đến tháng 10/1947, do Trung Quốc tuyên bố chiếm đóng Hoàng Sa, quân Pháp bắt đầu đổ bộ lên đảo San Hô, Trung Quốc và Pháp đã tiến hành một loạt giao thiệp ngoại giao. Giống như năm 1937, phía Pháp lại đề xuất đưa vấn đề quy thuộc của Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế. Trong quá trình này, lập trường của Pháp nhiều lần lùi bước, bày tỏ rằng nếu Trung Quốc đồng ý đưa ra trọng tài thì Pháp có thể rút quân khỏi đảo San Hô trước, sau đó rút khỏi Hoàng Sa chỉ với nhượng bộ rất nhỏ từ phía Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc vẫn kiên quyết “không lùi một bước”. Cuối cùng giao thiệp hai bên kết thúc buồn bã, để rồi đảo San Hô bị Pháp-Việt Nam kiểm soát trong thời gian dài.
Như vậy, từ năm 1946 đến năm 1950, hai nước Trung Pháp đã chia đều nhau quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) ở phía Đông, cơ bản cũng kiểm soát cụm đảo An Vĩnh (Tuyên Đức), Pháp chiếm đóng đảo San Hô (Hoàng Sa) ở phía Tây, cơ bản cũng kiểm soát cụm đảo Lưỡi Liềm (Vĩnh Lạc). Đến năm 1949, Quốc Dân đảng thất bại quân sự ở Đại lục. Lúc này, Tư lệnh Hải quân Viễn Đông Pháp muốn tận dụng sự yếu kém của quân chiếm đóng Quốc Dân đảng để đoạt lấy đảo Phú Lâm, nhưng bị Bộ Ngoại giao Pháp ngăn cản. Tháng 4/1950, quân đội Quốc Dân đảng rút khỏi đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa (cùng năm cũng rút quân đội khỏi đảo Ba Bình thuộc Trường Sa). Sau đó, mặc dù đảo Phú Lâm có mấy năm ở vào tình trạng bỏ không nhưng phía Pháp cũng không chiếm lấy.
Ngày 5/6/1948, các bên ở Đông Dương kí kết Hiệp định vịnh Hạ Long (Accords de la baie d’Along), quy định hợp nhất Bắc Kì và Trung Kì thành chính phủ Việt Nam thống nhất, cùng với Vương quốc Lào và Vương quốc Cambodia hợp thành Liên bang Đông Dương ở trong Khối Liên hiệp Pháp, còn Nam Kì thì vẫn duy trì tình trạng kép là thuộc địa và “nước cộng hòa tự trị”, nó có hợp nhất với Việt Nam hay không cần phải được sự chấp nhận của cả bầu cử tự quyết lẫn Quốc hội Pháp.
Ngày 8/3/1949, Pháp và vua Bảo Đại kí hiệp ước mới ở vịnh Hạ Long, thừa nhận trên nguyên tắc việc hợp nhất Nam Kì với Trung Kì và Bắc Kì, nhưng nước Việt Nam mới chỉ có quyền ngoại giao có hạn.
Ngày 13/3, Quốc hội Pháp thông qua nghị quyết, chấp nhận thay đổi tình trạng của Nam Kì. Ngày 21/4, Bảo Đại quay trở về Việt Nam. Ngày 4/6, Quốc hội Pháp thông qua quyết định hợp nhất Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì.
Chính phủ Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) thành lập năm 1949 tuyên bố Hoàng Sa là một bộ phận của Việt Nam, đồng thời ngày 14/10/1950 chính thức tiếp quản quyền hành chính đảo San Hô (Hoàng Sa) từ tay người Pháp. Khi đó trên đảo vừa có quân đội Pháp vừa có lính bảo an Việt Nam. Tháng 12/1950, lính bảo an Việt Nam ở đảo Cam Tuyền (Hữu Nhật) ở phía Tây bắt được 6 “ngư dân” Trung Quốc và cáo buộc họ là gián điệp cộng sản, điều này cho thấy khi đó Việt Nam có quyền quản lí và quyền kiểm soát thực tế phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Người Pháp cũng quay trở lại Trường Sa rất sớm. Ngay từ tháng 9/1946, tàu chiến Chevreuil của Pháp đến quần đảo Trường Sa, phát hiện không có người cư trú, và đã dựng cột mốc ranh giới trên đảo Ba Bình, tuyên bố quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của nước Pháp (Trung Quốc phản đối việc này). Hành động tuyên bố chủ quyền này thậm chí sớm hơn hành động của Lâm Tuân. Nhưng Pháp không để quân thường trú ở quần đảo Trường Sa. Khi Lâm Tuân tiếp thu Trường Sa, phía Pháp không có hành động gì thêm. Năm 1949, Hải quân Pháp đề xuất chiếm đảo Ba Bình thuộc Trường Sa, sau khi gặp phải sự phản đối của Bộ Ngoại giao, đã chuyển mục tiêu sang đảo Trường Sa Lớn. Năm 1951, Hải quân Pháp lần đầu tiến hành trinh sát trên không đảo Trường Sa Lớn. Mặc dù xác định trên đảo không có quân Trung Quốc nhưng cuối cùng phía Pháp cũng không thực hiện hành động thực tế nào.
Có bốn lí do khiến Pháp thận trọng ở quần đảo Trường Sa:
thứ nhất, quần đảo Trường Sa ở xa xôi, các đảo rất nhỏ, khó đóng quân, hơn nữa thuận tiện nhất là đảo Ba Bình đã bị Trung Hoa Dân quốc chiếm;
thứ hai, Pháp ngại làm mất lòng Trung Hoa Dân Quốc sẽ khiến họ nghiêng về phía Việt Minh trong cuộc chiến Đông Dương, vì vậy tránh xung đột quân sự trực tiếp với Trung Quốc;
thứ ba, mặc dù Pháp có thảo luận nội bộ, nhưng vẫn chưa có quyết định cuối cùng về Trường Sa, còn Chính phủ Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) khăng khăng cho rằng Trường Sa là một bộ phận của Việt Nam; hơn nữa, Pháp cần hợp tác với chính quyền Bảo Đại trong cuộc chiến Đông Dương, vì vậy gác lại hành động ở Trường Sa để chờ thời cơ vẫn hơn là giúp chính phủ Bảo Đại dồn sức chiếm đóng quần đảo Trường Sa;
cuối cùng, phía Pháp thấy rằng chứng cứ yêu sách của Trung Quốc đối với Trường Sa yếu, còn mình thì có đủ chứng cứ chủ quyền ở Trường Sa, ví dụ hai lần tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa vào năm 1930 và 1933 đều không vấp phải sự phản đối của Trung Quốc, vì vậy phía Pháp cho rằng yêu sách chủ quyền ở Trường Sa của mình đã được thể hiện đầy đủ. Hơn nữa, trên bình diện quốc tế, các nước lớn trong khu vực, Anh và Úc đều ủng hộ lập trường của Pháp. Vì Pháp chưa hề tuyên bố từ bỏ yêu sách chủ quyền quần đảo Trường Sa. Đối với một quốc gia sớm đã chứng minh yêu cầu chủ quyền đối với Trường Sa, thái độ im lặng nhất thời không hề có thể xem là ý muốn từ bỏ quần đảo Trường Sa. Do đó, Pháp chọn giữ sự im lặng tạm thời về quân sự.
Thái độ của Pháp với quần đảo Trường Sa khác hẳn với Hoàng Sa. Trong con mắt của người Pháp, tình trang của Hoàng Sa và Trường Sa không giống nhau: nguồn gốc sự kiểm soát Hoàng Sa của Pháp đến từ sự quản lí của Việt Nam từ thế kỉ 18 đến nay, còn Trường Sa thì là một đảo không người (res nullius) và đất vô chủ (terra nullius), sự thống trị của Pháp đến từ sự chiếm đóng của Pháp năm 1930. Về mặt quản lí, Hoàng Sa thuộc về An Nam (Trung Kì) có địa vị là nước được Pháp bảo hộ, còn Trường Sa thì thuộc về Nam Kì là thuộc địa trực tiếp của Pháp. Vì vậy Pháp ra sức lôi kéo Việt Nam vào hành động ở Hoàng Sa, nhưng tránh để Việt Nam tham dự vào hành động ở Trường Sa.
Chính vì như vậy, khi chuyển nhượng Nam Kì cho Việt Nam vào năm 1949, Pháp không hề liệt kê rõ việc giao quần đảo Trường Sa cho Việt Nam. Pháp thiên về việc giữ Trường Sa lại làm lãnh địa hải ngoại của Pháp.
Tháng 4/1951, một thương nhân người Pháp cư trú ở Philippines là Edouard F. Miailhe muốn khai thác nguồn phốt phát ở Trường Sa đã viết thư dò hỏi phía Pháp có sở hữu quần đảo Trường Sa hay không, và có thể cấp quyền khai thác phốt phát không?
Ngày 7/5/1951, Jean Letourneau, Bộ trưởng Giao tế các nước trong Liên Hiệp (Minister of State for Relations with the Associated States) gửi thư cho Bộ trưởng Lãnh thổ hải ngoại (Minister for Overseas Territories), cho rằng: “Trong lịch sử, Quốc vương Việt Nam xưa nay chưa hề tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Spratly, cũng chưa hề chiếm đóng nó. (Sau năm 1933) quần đảo Spratly được sáp nhập vào Đông Dương chỉ để thuận tiện cho việc quản lí hành chính thôi. Nước Việt Nam mới không có cách nào dựa vào đó để có được chủ quyền mà trước đó nước này không có.” Trong thư còn đề nghị nước Pháp nên lấy Trường Sa lập thành tỉnh hải ngoại của Pháp chứ không giao lại cho Việt Nam. Bộ Ngoại giao Pháp đồng ý quan điểm này, Bộ Lãnh thổ Hải ngoại và Cao ủy Đông Pháp (High Commissioner) cũng thiên về việc cấp quyền kinh doanh, nhưng lại cho rằng thương nhân này phải tự mình chấp nhận rủi ro, và Pháp sẽ không điều quân đội chi viện trong trường hợp tranh chấp. Nhưng đồng thời Bộ Ngoại giao lại lo lắng điều này sẽ kích động phản ứng của Trung Quốc, hơn nữa còn suy tính thiệt hơn, vì cơ sở kinh doanh của doanh nhân người Pháp ở Philippines nên chẳng khác nào cho người Philippines tham gia (trong một bản tư liệu khác của Pháp nhắc đến một thương nhân Philippines là Soriano cũng nộp đơn, không rõ nộp đơn một mình hay cùng với Miailhe) đúng vào dịp Philippines đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa; nếu như tùy tiện phê chuẩn thì có thể đe dọa đến chủ quyền của Pháp tại quần đảo Trường Sa. Cuối cùng, qua quyết định của một phiên họp liên bộ, Bộ Lãnh thổ Hải ngoại từ chối phê chuẩn. Cuối cùng, toàn bộ sự việc kết thúc với việc thương nhân từ bỏ đơn xin phép.
III.6. Philippines giành độc lập và yêu sách lãnh thổ đối với Trường Sa
Sau chiến tranh Mĩ-Tây Ban Nha, Mĩ cướp lấy Philippines, và bất kể những hứa hẹn ban đầu, đã trấn áp nước Cộng hòa thứ nhất Philippines. Nhưng ngay từ đầu Mĩ không có ý muốn chiếm đóng Philippines lâu dài, mà chỉ mang thể thức chính trị Mĩ vào Philippines. Năm 1902, chính phủ Mĩ, Philippines thông qua “Luật Tổ chức nước Philippines” (Philippine Organic Act), thành lập Chính phủ quần đảo (Insular Government), mà mục đích lâu dài của chính phủ này chính là đưa Philippines tiến tới độc lập. Năm 1907, Mĩ thành lập Quốc hội Philippines. Năm 1916, Quốc hội Mĩ đã thông qua “Luật Jones” (Jones Act), thành lập Thượng viện Philippines, cuối cùng chấp nhận nền độc lập của Philippines. Năm 1935, Hiến pháp mới được ban hành, Philippines trở thành “Liên bang Philippines” (Commonwealth of Philippines). Đồng thời Mĩ còn tuyên bố sẽ để Philippines độc lập vào ngày 4/7/1946. Mĩ thống trị Philippines, ngoài đưa đến văn minh chính trị ra còn hoàn chỉnh biên giới hiện đại của Philippines. Trong thời kì thuộc Tây Ban Nha, Philippines không kiểm soát toàn bộ cương vực hiện nay, Sulu và đảo Mindanao ở miền Nam luôn trong trạng thái nửa độc lập hay độc lập. Cho đến thời kì Mĩ thống trị, những lãnh thổ miền Nam này mới thực sự hợp nhất vào trong cương vực của Philippines. Sự thống trị của Mĩ còn đưa đến sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của Philippines. Ví dụ về mặt kinh tế, Philippines giành được sự tiến bộ nhảy vọt. Về mặt xã hội, Mĩ xây dựng cho Philippines hệ thống giáo dục, hệ thống an sinh xã hội và hệ thống y tế sức khỏe hiện đại. Các hiện tượng không hợp thời thịnh hành ở Philippines như nô lệ, cướp biển, săn đầu người... có trước thời kì Mĩ thống trị cũng giảm thiểu đi nhiều. Tỉ lệ tử vong của người Philippines cũng giảm nhiều, đến mức gần bằng chính nước Mĩ. Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Philippines, dựng lên một chính quyền bù nhìn. Nhưng chính quyền bù nhìn này không ổn định như ở Myanmar và Indonesia... Khi Thế chiến II còn chưa kết thúc, quân Mĩ đã thu hồi Philippines từ tay Nhật Bản, xây dựng lại chính quyền Mĩ-Phi. Nhưng Mĩ cũng không vì vậy mà thay đổi cam kết với Philippines. Philippines độc lập vào ngày 4/7/1946 theo đúng dự kiến. Mặc dù kinh tế nước Philippines mới phụ thuộc nghiêm trọng vào Mĩ, Mĩ cũng có quyền thuê căn cứ quân sự của Philippines theo như hiệp ước, nhưng nước Philippines mới đã có ý chí tự chủ hoàn toàn về ngoại giao. Philippines thể hiện thái độ với biển Đông hoàn toàn khác với chính phủ Mĩ-Phi.
Thực ra, ngay từ trước Thế chiến II, quan chức Philippines đã thể hiện sự quan tâm đến quần đảo Trường Sa (và bãi Scarborough [đảo Hoàng Nham], xem VI.6). Năm 1933, thượng nghị sĩ Isabelo de los Reyes khi tham dự đàm phán về phương án quá độ độc lập của Philippines đã đề xuất với phía Mĩ cần phải sáp nhập 9 đảo nhỏ của Trường Sa gần đảo Palawan vào Philippines. Năm 1938, Elpidio Quirino với tư cách là Bộ trưởng Bộ Nội vụ lại đề xuất với Toàn quyền Mĩ chủ trương phải giành lấy Trường Sa, nhưng phía Mĩ giữ thái độ phủ định. Sau độc lập, Quirino trở thành Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng Philippines, cuối cùng có thể có quyền tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa. Do đó, vào ngày 23/7 ông tuyên bố Philippines có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, đồng thời dự tính sáp nhập quần đảo Trường Sa vào trong phạm vi phòng thủ của Philippines. Thời gian này sớm hơn thời gian Lâm Tuân hành động ở Trường Sa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Philippines tuyên bố chủ quyền với Trường Sa. Ngày 11/9, Quirino lấy tư cách Ngoại trường gửi công hàm cho Tổng tư lệnh Đồng minh MacArthur, chính thức đề xuất việc Philippines có được chủ quyền của Trường Sa. Phía Mĩ không có ý kiến, và Philippines cũng không hành động gì thêm. Vì vậy, mặc dù Bộ Ngoại giao Trung Quốc chú ý đến sự kiện này, và không có phản ứng gì về mặt ngoại giao, nhưng rõ ràng đây là một trong những nguyên nhân góp phần khiến Trung Quốc quyết tâm âm thầm chiếm quần đảo Trường Sa càng sớm càng tốt.
Tháng 8/1947, Quirino hỏi ý kiến Đại sứ Pháp tại Philippines về vấn đề Trường Sa. Khi được biết vào năm 1933 nước Pháp đã tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, Quirino cảm thấy rất bất ngờ, bởi vì ban đầu ông ta cho rằng các đảo mà người Pháp tuyên bố chủ quyền nằm ở phía Tây quần đảo mà ông ta tuyên bố, tức chỉ là đảo Spratly (tức đảo Trường Sa Lớn, Philippines không tuyên bố chủ quyền với đảo này).
Điều này rõ ràng là do sự hỗn loạn địa danh của quần đảo Trường Sa gây ra, khi đó quần đảo Trường Sa gọi là quần đảo Tân Nam hoặc quần đảo Spratly (Spratly Islands) và sự khác biệt giữa tên này với tên đảo Spratly (Spratly Island) chỉ số ít và số nhiều. Khi Lãnh sự Pháp tưởng rằng Philippines sẽ từ bỏ yêu sách, thì năm 1948 Tổng thống Philippines Roxas qua đời và Quirino kế nhiệm Tổng thống, tiếp tục thúc đẩy kế hoạch giành lấy Trường Sa.
Tháng 3/1949, AP và UPI đưa tin rằng 250 lính Trung Quốc cộng sản đã chiếm đảo Ba Bình, đồng thời muốn dùng đảo làm căn cứ chi viện cho phe Cộng sản Việt Nam. Philippines vô cùng kinh ngạc. Hôm sau, trong phiên họp nội các, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Philippines Nệ Lễ (Nelly) trình bày báo cáo về việc này, đồng thời tuyên bố với Công sứ Trung Quốc tại Philippines rằng theo mật báo trên đảo Thái Bình có 250 lính Trung Quốc cộng sản chiếm giữ, yêu cầu phía Trung Quốc làm rõ. Nelly cũng nhắc đến việc hồi tháng 1 cùng năm một đội tìm người bị mất tích của Mĩ dưới sự chỉ huy của Đại tá Harlyn Lacy đến đảo Ba Bình tìm kiếm hài cốt lính Mĩ, phát hiện 200 lính của chính phủ Trung Quốc ở đó. Tổng thống Philippines Quirino lập tức cho rằng đảo Ba Bình rất gần với Philippines, có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Đồng thời ông ta nêu ví dụ nhóm đảo Karafuto (Karafuto Group) và nhóm đảo Turtle (Turtle Group), vốn thuộc Anh, nằm ngoài 300 hải lí của đảo Palawan, cũng có vai trò chiến lược an ninh quan trọng với Philippines, mà trước chiến tranh khi ông ta ở Bộ Nội chính đã đề nghị với phía Mĩ dựa vào đó mà sáp nhập chúng vào bản đồ Philippines. Kết quả nhiều lần kiên trì, đến năm 1948, quả nhiên nước Anh nhượng lại nhóm đảo Turtle cho Philippines. Hàm ý của ví dụ này đương nhiên là đảo Ba Bình cũng có khả năng như vậy.
Sau khi Bộ Ngoại giao Philippines hỏi ý kiến công sứ Trung Hoa Dân Quốc ở Philippines, công sứ quán không dám lơ là, lập tức gửi điện hỏi ý kiến Bộ Ngoại giao. Ngày 4/4, Bộ Ngoại giao gửi điện trả lời nói rằng trên đảo này chỉ có quân quốc gia, không có quân cộng sản. Công sứ tại Philippines theo đó trả lời. Chưa yên đợt sóng này đã làm dấy lên đợt sóng khác. Cùng ngày, Philippines lại chất vấn Công sứ THDQ tại Philippines rằng vào tháng 1 cùng năm quân Mĩ từng đổ bộ lên đảo tìm kiếm hài cốt thì bị quân chiếm đóng Trung Quốc phản đối, có việc này không? Sau khi Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc kiểm chứng, ngày 11/4 trả lời rằng không có việc này.
Hai ngày sau, ngày 13 có tin nói rằng phiên họp nội các Philippines đã quyết định phái Tư lệnh Hải quân Andrada đến đảo Ba Bình xem xét, đồng thời có nghị sĩ đề nghị khuyến khích ngư dân Palawan di cư đến đảo Ba Bình. Do đó, các cuộc thảo luận về việc sáp nhập quần đảo Trường Sa vào Philippines đã được nối lại. Sau khi Công sứ quán Trung Hoa Dân Quốc ở Philippines biết tin, lập tức đưa ra kháng nghị với Philippines, hỏi rằng tin do báo đưa ra có đúng sự thật hay không, đồng thời tuyên bố rằng Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Ngày 11/5, phía Philippines trả lời: hôm đó nội các chỉ thảo luận việc cần phải tăng cường bảo vệ ngư dân đánh cá gần đảo Ba Bình. Đối với phần tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Philippines đã chú ý đến,chỉ có điều các chi tiết của việc này như lí do yêu sách của Trung Quốc cùng mối liên quan trước đây và hiện nay của đảo này với Đài Loan, hy vọng phía Trung Quốc có thể trình bày rõ. Vì thế không có thêm hành động nào nữa. Phía Philippines dùng câu: “đảo Thái Bình là một bộ phận của Nam Sa, và chủ quyền của nó thuộc Trung Quốc” để nhận biết (acknowledge) lập trường của Trung Quốc, cách diễn đạt này cho thấy nước này có sự bảo lưu đối với chủ quyền Trung Quốc ở Trường Sa. Vì vậy, Công sứ ở Philippines không dám lơ là, vội vàng cầu viện Bộ Ngoại giao. Nhưng Bộ Ngoại giao không kịp thời trả lời. Mãi đến ngày 2/5/1950, Bộ Nội chính mới gửi cho Bộ Ngoại giao một bản tổng kết khái quát tình hình, nhưng đó là việc sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập chế độ mới.
Chứng cứ cho yêu sách lãnh thổ của Philippines đối với Trường Sa là Trường Sa nằm trong phạm vi 200 hải lí về phía Tây của đảo Palawan. Khi đó trên thế giới đã có nước chủ trương lãnh hải là 12 hải lí, tương đối nhiều quốc gia vẫn tiếp tục chủ trương 3 hải lí, chỉ một số ít nước đơn phương tuyên bố lấy lãnh hải 200 hải lí. Ngoài điều này ra, Philippines không hề đưa ra nguồn gốc lịch sử có liên quan đến Trường Sa. Thực ra, theo cái nhìn lịch sử, quần đảo Sulu ở miền Nam Philippines trước đây là nước Sultan Sulu, từ thế kỉ 16 đến 18 là cường quốc giao thông ở biển Đông, rất có thể đã kiểm soát phần Đông Nam của biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa, vì vậy họ cũng có thể đưa ra chứng cứ lịch sử, tiếc rằng người Philippines chủ yếu theo Công giáo biết rất ít về lịch sử Hồi giáo ở miền Nam, do đó cũng không đưa ra bất kì loại chứng cứ lịch sử nào.
Về pháp lí, trong một loạt văn kiện về lãnh thổ của Philippines tính từ “Hiệp ước Paris” Mĩ-Tây Ban Nha đều không bao gồm quần đảo Trường Sa. Điều này là một điểm bất lợi đối với Philippines. Nhưng không bao gồm nó trước đây không đồng nghĩa với việc không thể mở rộng thêm sau này.
Tóm tắt việc thay đổi khái niệm Nam Sa (Trường Sa)
Trung Quốc chia các đảo biển Đông thành quần đảo Đông Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa. Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) từ những năm 1810 đã thống nhất tên gọi là Paracel Islands, và phạm vi của nó không có sự tranh cãi trên thế giới. Hai bên tranh chấp hiện nay - Trung Quốc và Việt Nam đều không tranh cãi về phạm vi của nó. Phạm vi quần đảo Trung Sa thì có tranh cãi rất lớn, chỉ có Trung Quốc (bao gồm Đài Loan) gom đảo Hoàng Nham(Scarborough Shoal) và rạn san hô vòng Trung Sa (Macclesfield Bank) cùng với mấy bãi ngầm phân tán khác vào làm một. Ngoài đảo Hoàng Nham ra, rạn san hô vòng Trung Sa và bãi ngầm khác đều không nổi lên mặt nước, vì vậy, về quy thuộc chủ quyền mà nói, chỉ cần xem xét đảo Hoàng Nham. Tuy nhiên, quần đảo Nam Sa (Trường Sa), khái niệm phạm vi của nó đã trải qua các thay đổi phức tạp, mà những thay đổi này có ảnh hưởng tương đối lớn đối với vấn đề quy thuộc. Một tài liệu năm 1974 của Cục Tình báo Trung ương Mĩ miêu tả quần đảo Spratly không có định nghĩa rõ ràng (ill-defined) về mặt địa lí.
Thời Cổ đại Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa là “Thiên Lí Thạch Đường”, nhưng phạm vi chính xác cho tên gọi này không hề được xác định. Đến giữa thế kỉ 18, do hoạt động của ngư dân Trung Quốc mở rộng đến khu vực quần đảo Trường Sa, trong “Canh lộ bạ” của ngư dân gọi vùng biển khu vực đó là “Bắc Hải”, đồng thời cũng ghi chép rất nhiều tên đảo. Nhưng từ tên gọi, có thể thấy rằng mục đích đặt tên của ngư dân là để mô tả vùng biển đó chứ không phải một quần đảo cụ thể. Trong những “Canh lộ bạ” đó không có tên gọi thống nhất cho các đảo ở “Bắc Hải”.
Thời Cổ đại, Việt Nam gọi quần đảo Trường Sa là “Vạn Lí Trường Sa”, nhưng cũng không có phạm vi chính xác. Vào giữa thế kỉ 18, Việt Nam từng phái “Đội Bắc Hải” đến “Bắc Hải” trục với hải sản và tàu đắm. “Bắc Hải” này có khả năng cũng là quần đảo Trường Sa, nhưng ngay cả khi giả định này là đúng thì phạm vi của “Bắc Hải”cũng không được xác định rõ .
Kể từ thế kỉ 18, các tàu của Anh và Pháp bắt đầu ghi chép về các đảo ở khu vực Trường Sa trong các chuyến hành trình của họ ở biển Đông. Trong các hải đồ và sách hàng hải của Anh biên soạn cuối thế kỉ 18 đã có có bản đồ quần đảo Trường Sa tương đối chi tiết, những bản đồ này không còn đánh dấu toàn bộ khu vực nguy hiểm (Dangerous Ground) là quần đảo Trường Sa, mà đã vẽ các đảo cụ thể và đặt tên cho chúng. Ở một số địa điểm đã đánh dấu kí hiệu Breaker để cảnh báo đó là nơi nguy hiểm, nhưng vẫn chưa được khảo sát chi tiết. Đó là tư liệu sớm nhất trong lịch sử xác định rõ các đảo cụ thể của quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, dù trên bản đồ hay trong sách hàng hải đều không có tên gọi thống nhất cho quần đảo Trường Sa.
Tên thống nhất cho quần đảo Trường Sa dường như chỉ mới bắt đầu từ những năm 1910. Đi đầu trong việc này là người Nhật Bản. Họ đặt tên các đảo thuộc khu vực này là quần đảo Tân Nam (Shinnan Gunto, đôi khi viết là Sinnan Gunto). Trong sự kiện 9 đảo nhỏ của Pháp năm 1933, người Pháp không tìm ra một cái tên có tính khái quát để miêu tả quần đảo Trường Sa. Họ nghĩ đến hai phương thức, thứ nhất là dùng kinh vĩ độ để đóng khung phạm vi, thứ hai là liệt kê ra các đảo chính. Quá trình này đã cho thấy khi đó quốc tế không đi ngang qua phạm vi quần đảo Trường Sa. Cuối cùng người Pháp đã dùng phương thức thứ hai, bao gồm cả Spratly Island (đảo Trường Sa Lớn, Trung Quốc gọi là đảo Nam Uy), từ đó về sau Spratly Islands mới dần dần được dùng để gọi toàn bộ quần đảo, nhưng phạm vi của nó cũng không được định nghĩa chính xác. Khi đó, hai tên gọi là quần đảo Tân Nam và Spratly Islands đều được sử dụng, nhưng quan hệ giữa hai tên gọi vẫn là chỗ vướng mắc gây khó khăn cho giới ngoại giao các nước.
Trong các văn kiện về phương thức xử lí quần đảo Trường Sa thời chiến và đầu thời hậu chiến (xem III.2), tên gọi Spratly and Other Islands (Shinnan Gunto) được sử dụng, và được định nghĩa là các đảo, đá ở giữa các kinh tuyến 111,5° E đến 117° E và các vĩ tuyến 7° N đến 12° N (theo định nghĩa quần đảo Tân Nam của Nhật Bản). Khi đó vẫn chưa dùng Spratly Islands làm tên gọi chính thức của quần đảo Trường Sa.
Năm 1935, thông qua “Thủy lục địa đồ thẩm tra ủy viên hội” (水陸地圖審查委員: Ủy ban thẩm tra bản đồ đất biển) Trung Quốc đã sáng tạo cái tên “quần đảo Đoàn Sa” để chỉ các đảo thuộc quần đảo Nam Sa. Tên gọi này thực ra là tên dịch của từ “Tizard Islands” (tức vòng san hô Trịnh Hòa). Phạm vi quần đảo Đoàn Sa lớn hơn quần đảo Tân Nam và Spratly Islands, vì nó mở rộng đến bãi ngầm Tăng Mẫu về phía Nam, và đến bãi Vạn An (bãi Tư Chính) về phía Tây. Nhưng thế giới hầu như không biết gì đến cái tên này, và cũng chưa bao giờ thấy cái tên này xuất hiện trong các dịp quốc tế. Sau Thế chiến II, Trung Quốc đổi tên quần đảo Đoàn Sa thành quần đảo Nam Sa, và sau đó nhiều lần sử dụng cái tên này trong một loạt giao thiệp ngoại giao và tuyên bố, dần dần tên Nam Sa mới được thế giới biết đến.
Sau Thế chiến II, Philippines đưa ra yêu sách chủ quyền với quần đảo Kalayaan, nhưng quần đảo Kalayaan không đồng nhất với quần đảo Trường Sa hay quần đảo Spratly. Ở phía Tây, nó không bao gồm Spratly và các địa điểm phía Tây của đảo này; ở phía Nam, nó không bao gồm các địa điểm ở phía Nam vĩ tuyến 7° N. Trong các trao đổi với Đài Loan từ thập niên 1940 đến 1960, liên quan đến phạm vi tranh chấp nhiều năm giữa hai bên, Đài Loan tranh biện quần đảo Spratly chính là quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Nhưng Philippines một mực cho rằng quần đảo Kalayaan mà nước này yêu sách và “Spratly Islands” mà “Hiệp ước San Francisco” quy định không phải là một. Rõ ràng, cho đến những năm 1960, vẫn chưa có quan điểm nào được chấp nhận về quần đảo Trường Sa là gì.
Việt Nam kế thừa quần đảo Trường Sa từ nước Pháp, phạm vi cho tên gọi đó giống như phạm vi theo kế hoạch dùng đường kinh vĩ tuyến ban đầu mà người Pháp công bố. Phía Nam đến 7° vĩ Bắc. Mặc dù Việt Nam yêu sách bãi Vạn An (bãi Tư Chính) (như trong sự kiện bãi Vạn An tranh chấp với Trung Quốc, xem V.5), nhưng theo nhận thức của Việt Nam, bãi Vạn An và các bãi ngầm lân cận không hề thuộc quần đảo Trường Sa, sở dĩ Việt Nam có chủ quyền bãi Vạn An là vì bãi Vạn An là một bãi ngầm, nằm ở trên thềm lục địa của Việt Nam.
Tóm lại, khái niệm quần đảo Trường Sa (Nam Sa) xuất hiện rất muộn; hơn nữa đến hiện nay, phạm vi của nó cũng không có định nghĩa được công nhận thống nhất. Điều này có nghĩa là sẽ xuất hiện vấn đề rất lớn một khi chiếm đóng một số đảo nhất định rồi tuyên bố rằng chủ quyền của mình có thể được mở rộng ra toàn bộ “quần đảo Trường Sa”. Bởi vì bất kể từ lịch sử hay từ hiện thực đều không có một sự đồng thuận về “toàn bộ quần đảo Trường Sa” là gì.
III.7. Trung Quốc rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa
Tháng 8/1947, Hội Viện vụ thuộc Viện Hành chính thông qua nghị quyết đổi Quỳnh Nhai thành Đặc khu hành chính Hải Nam, trực thuộc Viện Hành chính. Tháng 4/1949, Đặc khu hành chính Hải Nam chính thức thành lập. Ngày 6/6 công bố “Điều lệ tổ chức văn phòng trưởng quan hành chính đặc khu Hải Nam”, và quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa được sáp nhập vào đặc khu Hải Nam, nhưng vẫn do Bộ Hải quân quản lí thay. Tuy nhiên, không lâu sau đó, tình hình đã thay đổi hoàn toàn.
Bắt đầu từ năm 1946, nội chiến Trung Quốc đã ngày càng ác liệt. Năm 1948, tình thế Quốc Dân Đảng chuyển biến ngược, cuối năm xuất hiện các cuộc tháo chạy đổ vỡ. Tưởng Giới Thạch không thể không bố trí lại, lấy Đài Loan làm căn cứ cuối cùng. Tháng 4/1949, quân đội cộng sản đánh chiếm Nam Kinh, chính phủ Quốc Dân phải chuyển đến Quảng Châu, sau mấy tháng lại chuyển đến Trùng Khánh. Năm 1950 Trùng Khánh cũng không còn cách nào cố thủ nên buộc phải dời thủ đô đến Đài Bắc. Quốc Dân Đảng mất toàn bộ Đại lục, chỉ sót lại các đảo ven biển. Tháng 2/1950 quân đội cộng sản đánh chiếm đảo Hải Nam, các đảo biển Đông cũng nguy khốn. Để tập trung binh lực, Tưởng Giới Thạch quyết định từ bỏ Tây Sa và Nam Sa về mặt quân sự. Ngày 2/5, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân ra lệnh quân đóng trên các đảo ở Nam Sa rút lui trước. Ngày 8/5, tất cả nhân viên và vật tư đều đã rời khỏi đảo Ba Bình ở Trường Sa, chỉ có quốc kì vẫn treo cao. Quân Quốc Dân Đảng ở Hoàng Sa cũng rút về Đài Loan cùng lúc. Tức là không bố trí phòng thủ lại ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tin Cộng sản Trung Quốc đánh chiếm đảo Hải Nam khiến Pháp, Việt Nam và Philippines vô cùng lo lắng. Theo một báo cáo nghiên cứu của Đài Loan, ngày 5/5 Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đã tuyên bố rằng sau khi CSTQ chiếm Hải Nam thì mục tiêu tiếp theo sẽ là Philippines. Ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng đã tổ chức một cuộc họp để thảo luận về tác động đối với an ninh của Philippines nếu CSTQ chiếm được quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa, truyền thông thì kêu gọi Philippines và Mĩ bằng mọi giá phải chiếm Hoàng Sa và Trường Sa để bảo vệ an ninh lãnh thổ. Pháp thì nâng cao mức phòng bị ở quần đảo Hoàng Sa để phòng CSTQ xâm chiếm, nhưng không chiếm đảo Phú Lâm vì sợ chọc giận CSTQ. Đồng thời, tuy Pháp trinh sát biết quân Quốc dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa nhưng cũng không lợi dụng lúc Trường Sa trống không để tới chiếm. Còn Việt Nam thì tái khẳng định có chủ quyền với Hoàng Sa ngày 12/5.
Lúc này, Đài Loan lo lắng liệu Philippines, Việt Nam, Pháp… có lấy cớ ngăn chặn cộng sản để cưỡng chiếm các đảo ở biển Đông hay không. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu quân cộng sản kiểm soát các đảo ở biển Đông, thì không chỉ kiểm soát tuyến giao thông ở đây, mà còn làm căn cứ để xâm nhập Đông Nam Á, đồng thời tạo điều kiện cho lực lượng tàu ngầm Liên Xô vươn tới biển Đông, uy hiếp trực tiếp các căn cứ chiến lược của Anh, Mĩ ở nhiều khu vực Đông Nam Á và các tuyến giao thông. Do đó, Đài Loan có xu hướng sớm hợp tác với Philippines, Pháp, Việt Nam … cùng bàn bạc kế sách chống cộng sản.
Có thể thấy sau năm 1950 vai trò của Đài Loan rất khó xử. Một mặt, họ mong muốn bảo vệ lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa không bị nước ngoài chiếm lấy, nhưng mặt khác, nhu cầu chống cộng lại buộc họ không thể không thỏa hiệp với các nước Philippines, Việt Nam... Kiểu tâm trạng phức tạp này thậm chí còn biểu lộ rõ ràng hơn trong vấn đề Hoàng Sa vào cuối những năm 1950.
Thực ra, thực lực Cộng sản Trung Quốc khi đó bị khuếch đại. Cộng sản Trung Quốc mạnh về lục quân mà yếu về hải quân. Sở dĩ họ có thể đám chiếm được đảo Hải Nam hoàn toàn là nhờ đảo này nằm gần Đại lục, và cũng nhờ có nội ứng trên đảo. Chiến dịch Ninh Cổ Đầu năm 1950, quân cộng sản đổ bộ lên đảo Kim Môn bị quân Quốc Dân Đảng tiêu diệt hoàn toàn, đủ để chứng minh rằng năng lực hải chiến của Cộng sản Trung Quốc rất yếu kém. Đây cũng là nguyên nhân khiến ngay cả Hoàng Sa khi đó, Cộng sản Trung Quốc cũng không có cách nào chiếm được, nói gì đến Trường Sa. Nhưng đúng như truyền thông Philippines chỉ ra, sự uy hiếp của cộng sản đối với thế giới tự do không chỉ ở vũ lực mà còn ở phá hoại và thâm nhập nội bộ. Sự cảnh giác của họ đối với cộng sản hiển nhiên không phải không có lí do.
Pháp và Việt Nam khi đó đều đã lún sâu vào chiến tranh, Philippines lại trở thành nước tiên phong. Chính phủ Philippines lại thảo luận việc cần phải nhanh chóng chiếm lấy quần đảo Trường Sa.
Ngày 17/5, Quirino tuyên bố “quần đảo Trường Sa thuộc Philippines”. Nhưng đồng thời lại cũng chỉ ra rằng Philippines tạm thời sẽ không thúc đẩy yêu sách đó vào lúc này vì Trung Hoa Dân Quốc là nước bạn, hiện nay kiểm soát Trường Sa, nhưng nếu như sau này Trường Sa có nguy cơ bị cộng sản kiểm soát, lúc đó Philippines sẽ nhắc lại quyền lợi của mình. Không biết vì sao trong điện văn của Đại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ý này bị viết thành “Tổng thống Philippines nói với các nhà báo ngày hôm nay rằng quần đảo này tuy ảnh hưởng tới an ninh của Philippines, nhưng chủ quyền thuộc Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, Philippines và Chính phủ Quốc Dân Đảng có quan hệ hữu nghị, không tiện áp dụng bất cứ hành động nào”. Viết sai ở vấn đề quan trọng nhất (chủ quyền thuộc ai).
Vì vậy, ngày 18/8 Bộ Ngoại giao đã gửi Đại sứ quán ở Philippines lệnh mật: “Tổng thống Philippines đã bày tỏ quan ngại vì quần đảo này gần với Philippines. Chính phủ Philippines nếu vì an ninh của nước mình, muốn phái quân đến phòng vệ quần đảo Nam Sa, thì dựa trên lập trường cùng chống cộng của Trung Hoa Dân Quốc và Philippines chính phủ ta sẽ không có ý kiến phản đối, tuy nhiên trước hết chính phủ Philippines phải đồng ý rằng sau này khi chính phủ ta muốn tự phòng thủ thì sẽ rút quân chiếm đóng. Hy vọng có thể bàn bạc bí mật với chính phủ Philippines và thông báo khi cần thiết”. Hai ngày sau, hai bộ Ngoại giao và Nội chính trình lên Viện Hành chính, ngoài thái độ trình bày ở trên ra (trở thành phương án A), lại thêm vào phương án B: hiện không thực hiện bất cứ hành động nào, khi Philippines đổ bộ lên đảo thì mới đưa ra phản đối, và nói rõ chủ trương của Trung Hoa Dân Quốc. Nhưng hai bộ vẫn cho rằng phương án A là tốt hơn.
Nhưng lúc này, Philippines vẫn không có hành động gì thêm. Philippines một mặt có thể đã nhận ra mối đe dọa của quân cộng sản không quá nguy cấp, mặt khác cũng lo ngại phản ứng của Quốc Dân Đảng, xét cho cùng hai bên còn có chung lập trường chống cộng. Philippines còn muốn giải quyết sự việc một cách hòa bình, Quirino thậm chí từng xem xét việc mua quần đảo Trường Sa từ Tưởng Giới Thạch.
III.8. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” và “Hòa ước Trung-Nhật”
Sau Thế chiến II, Đồng minh và Nhật Bản tiến hành đàm phán hòa bình. Trong quá trình đàm phán, ở Trung Quốc xuất hiện biến động lớn. Quốc Dân Đảng bại trận, rút về giữ Đài Loan, Đảng Cộng sản xây dựng chế độ mới ở Đại lục, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vì vậy, trên thực tế đã xuất hiện hai chính phủ Trung Quốc, hai bên đều tuyên bố mình là đại diện duy nhất của Trung Quốc. Ban đầu Mĩ đã chuẩn bị bỏ rơi chính quyền Quốc Dân Đảng, chuyển sang thử nghiệm thiết lập quan hệ với Cộng sản Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc ngay trước khi tuyên bố thành lập nước đã quyết định thực hành chính sách “nhất biên đảo” (ngã về một phía) về Liên Xô đồng thời công bố bài báo nổi tiếng “Tạm biệt John Leighton Stuart”, trục xuất các nhà truyền giáo người Mĩ, từ chối đề nghị thiết lập quan hệ của Mĩ. Đến năm 1950, Bắc Triều Tiên xâm lược Nam Triều Tiên, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, cục diện thế giới từ Chiến tranh lạnh biến thành chiến tranh nóng cục bộ. Với sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc, Mĩ triệu tập liên quân nhiều nước cứu viện Nam Triều Tiên. Để ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản, Mĩ quyết tâm ủng hộ một lần nữa chính phủ Quốc Dân Đảng từng bị bỏ rơi, khiến chính phủ Quốc Dân Đảng lại có được cơ hội sống sót. Khi Cộng sản Trung Quốc tham gia Chiến tranh Triều Tiên, đối địch với quân Liên Hợp Quốc, quan hệ giữa Mĩ và Cộng sản Trung Quốc cũng giảm xuống mức thấp nhất.
Do thời kì này đã xuất hiện tình trạng một nước Trung Quốc với hai chính phủ, vì vậy nảy sinh ra tranh cãi về việc nên để chính phủ nào đại diện Trung Quốc tham dự đàm phán Hòa ước San Francisco. Hội nghị hòa bình với Nhật năm 1951 ở San Francisco do Mĩ và Anh chủ trì. Mĩ ủng hộ chính phủ Quốc Dân Đảng, nhưng Anh đã công nhận chính phủ Bắc Kinh sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập để duy trì quyền cai trị của mình tại Hồng Kông. Do đó, hai nước chính không có cách nào đạt được đồng thuận trong vấn đề ai sẽ đại diện cho Trung Quốc. Cuối cùng, hai bên quyết định rằng hai chính phủ này đều không được mời tham dự hội nghị. Hòa ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản sau này sẽ do Nhật Bản “tự mình” lựa chọn một chính phủ Trung Quốc để cùng kí kết.
Tổng cộng có 51 nước tham dự đàm phán hòa bình San Francisco, trong đó có Mĩ, Anh, Liên Xô, Pháp, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines… Cuối cùng, trừ Liên Xô, Tiệp Khắc và Ba Lan ra, 48 nước đã kí Hiệp ước, ngày kí là ngày 8/9/1951, ngày có hiệu lực là ngày 28/4/1952. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” do tuyệt đại đa số nước Đồng Minh tham dự, kí kết và phê chuẩn trong Thế chiến thứ hai, còn là hiệp ước hòa bình chính thức cuối cùng sau Thế chiến II, có đầy đủ tính hợp pháp. So với “Tuyên bố Cairo” và “Tuyên cáo Potsdam” chỉ có ba bốn nước lớn tham dự, không có nguyên thủ kí kết và cũng không được phê chuẩn, thì tính hợp pháp, tính phổ biến và tính quyền uy của “Hiệp ước hòa bình San Francisco” hiển nhiên cao hơn rất nhiều.
Chương II của “Hiệp ước hòa bình San Francisco” quy định vấn đề quy thuộc lãnh thổ. Điều 2 quy định lãnh thổ Nhật Bản phải từ bỏ. Bản dịch tiếng Trung của điều này là:
1. Nhật Bản công nhận nền độc lập của Triều Tiên đồng thời từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với Triều Tiên, bao gồm đảo Quelpart (Jeju / Tế Châu), đảo Port Hamilton (Geomun / Cự Văn) và đảo Dagelet (Ulleung / Uất Lăng).
2. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và đòi hỏi đối với các đảo Đài Loan (Formosa), Bành Hồ (Pescadores).
3. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với quần đảo Kuril, phần đảo Sakhalin cũng như các đảo lân cận giành được ngày 5/9/1905 [qua hiệp ước Portsmouth - ND].
4. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách liên quan tới chế độ ủy trị của Hội Quốc liên, đồng thời chấp nhận sắp xếp của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc ngày 2/4/1947 về việc mở rộng chế độ tín thác (Trusteeship) tới các đảo Thái Bình Dương trước đây dưới quyền ủy trị của Nhật Bản.
5. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách ở vùng Nam Cực có được do hoạt động của nhà nước hoặc công dân Nhật Bản.
6. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.
Khoản 1 có nghĩa là công nhận nền độc lập của Triều Tiên và giao 3 đảo phụ cận cho nước này (không có nước nào tranh chấp 3 đảo này với Triều Tiên). Khoản 3 đề cập tới các lãnh thổ đã quy định rõ trong Hội nghị Yalta, tranh chấp tương đối nhỏ (nhưng có tranh cãi về phạm vi quần đảo Kuril, dẫn đến tranh chấp lãnh thổ giữa Liên Xô và Nhật Bản sau này). Khoản 4 về từ bỏ đất ủy trị, sự quy thuộc của chúng có văn kiện riêng quy định. Khoản 5 quy định từ bỏ quyền lợi ở Nam Cực, lãnh thổ Nam Cực được quy định bởi các điều ước khác.
Khoản 2 và Khoản 6 đều không chỉ ra rõ sự quy thuộc đối với lãnh thổ từ bỏ, điều này sẽ tạo thành tranh cãi sau này.
Do Trung Quốc và Triều Tiên đều không tham dự hội nghị hòa bình, nên Điều 21 trong Hiệp ước hòa bình đã quy định các quyền lợi mà Trung Quốc và Triều Tiên được hưởng trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Trong đó Triều Tiên có quyền lợi được quy định trong Điều 2, 4, 9 và 12, Trung Quốc có quyền lợi được quy định trong Điều 10 và Điều 14. Cần lưu ý là Trung Quốc không được hưởng các quyền lợi trong Điều 2. Điều này cũng có nghĩa là mặc dù Nhật Bản từ bỏ những lãnh thổ này, nhưng không hề có quy định nào cho phép trả lại những lãnh thổ này cho Trung Quốc. Đây là nguyên nhân gốc rễ của “vấn đề Đài Loan chưa định luận” và của vấn đề về tình trạng chưa được xác định của Hoàng Sa và Trường Sa sau này.
Tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” không được phân bổ rõ ràng cho bất cứ nước nào, nhưng bất kể từ hàm ý pháp lí hay là từ các thảo luận thực tế khi đó có thể thấy rằng quyết định về chúng là khá rõ, đó là “chưa quyết định”. Nếu như nói việc Hoàng Sa và Trường Sa không được nhắc tới trong “Tuyên bố Cairo” có thể do sơ suất nhất thời hoặc bị độ dài [văn kiện] hạn chế, thế thì phần về Hoàng Sa và Trường Sa trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” được thảo luận tỉ mỉ, tranh cãi gay gắt, cuối cùng mỗi một chữ đều được lựa chọn kĩ càng, chỉ có thể nói đây là kết quả của việc làm có chủ ý. Có thể có người bày tỏ sự nghi hoặc đối với kết quả này, nhưng từ quan điểm lịch sử thì đó lại là điều rất tự nhiên.
Trên thực tế, ngay từ đầu khi soạn thảo bản dự thảo “Hiệp ước hòa bình San Francisco”, thì đã xác định sẵn cụm từ “Nhật Bản từ bỏ” cho phần về Hoàng Sa và Trường Sa. Bản dự thảo tháng 3/1947 viết: “Qua tuyên bố này Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với đảo Đông Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa cũng như tất cả các đảo khác ở biển Đông”. Tuy nhiên, trong phiên bản này, từ “từ bỏ” không hề được dùng đến cho các lãnh thổ khác được đề cập đến. Ví dụ Đài Loan trong Khoản 2 được nêu là sẽ trả lại cho Trung Quốc. Sở dĩ sau này nó trở thành lãnh thổ Nhật Bản “từ bỏ” là vì Trung Quốc bị Đảng Cộng sản soán lấy chính quyền. Nếu như quy định trả lại Đài Loan cho Trung Quốc thì sẽ nẩy thêm vấn đề là trả lại cho chính quyền nào. Hơn nữa, về mặt pháp lí việc Mĩ giúp Đài Loan phòng thủ sẽ bị nghi ngờ là xâm lược, dẫn đến sự bất tiện về mặt pháp luật. Do đó, theo kiến nghị của Anh từ “từ bỏ” đã được sử dụng còn sự quy thuộc thì không xác định.
Tuy nhiên, với Hoàng Sa và Trường Sa ngay từ đầu đã được viết là “từ bỏ”, dễ thấy rõ là khác với tình trạng của Đài Loan. Trong các phiên bản sau đó, từ ngữ nói về việc Nhật Bản từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa vẫn không thay đổi, nhưng có một số sửa đổi về phạm vi. Ví dụ trong phiên bản áp chót, dùng ‘Spratly Island’ để chỉ quần đảo Trường Sa, nhưng Pháp kiến nghị dùng ở số nhiều là ‘Spratly Islands’ để xác định rõ hơn phạm vi. Vì vậy, so với Đài Loan, tình trạng các đảo biển Đông ngay từ đầu vẫn “chưa xác định”.
Sở dĩ trong hiệp ước hòa bình không đề cập đến sự quy thuộc của chúng, nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề chủ quyền rất khó xác định, nguyên nhân khác là do chúng quá nhỏ nên không được coi là quá quan trọng, thậm chí có ý kiến vào lúc đó rằng nói chung chúng không đáng được nhắc đến trong hòa ước.
Khi đó, Pháp tham dự toàn bộ quá trình thảo luận các phiên bản dự thảo, nhưng không hề đề xuất viết rõ rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc nước Pháp trong hòa ước. Điều này có hai nguyên nhân:
thứ nhất, trong các khoản khác của Điều 2 của hiệp ước đều chỉ viết rằng Nhật Bản từ bỏ lãnh thổ, và chỉ riêng Hoàng Sa và Trường Sa ngoại lệ thì tỏ ra không thích hợp;
thứ hai, khi đó điều mà Pháp quan tâm nhất là Liên bang 3 nước Việt, Miêên, Lào (Associated States of Vietnam, Laos and Cambodia) do họ thành lập có được quốc tế cộng nhận nhằm duy trì sự thống trị của họ ở Đông Dương hay không. Vì vậy trong hội nghị, Pháp muốn tìm kiếm sự đồng ý của Mĩ để 3 quốc gia độc lập này tham gia Hội nghị San Francisco. Ngoài ra, Pháp còn muốn ngăn ngừa Việt Minh tham gia hội nghị, vì vậy cũng không muốn gây thêm rắc rối;
thứ ba, việc Pháp và Việt Nam tranh luận bên nào sở hữu quần đảo Trường Sa cũng ảnh hưởng đến tiến trình. Khi đó Pháp vẫn có ý muốn giữ lại Trường Sa, cho rằng mình chiếm Trường Sa trước, khác với Hoàng Sa vốn thuộc lãnh thổ Việt Nam. Nhưng lúc này Quốc gia Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) cũng tham dự hội nghị, và chính quyền Bảo Đại một mực cho rằng Trường Sa cũng thuộc Việt Nam. Nếu như Pháp khăng khăng nói Trường Sa thuộc về mình thì sẽ xung đột trực tiếp với Việt Nam tại hội nghị, không có lợi cho việc kí kết hòa ước.
Khi đó còn có một ý kiến khác cho rằng vì lí do chiến lược nên biến Trường Sa thành một lãnh thổ ủy trị. Úc lo sợ Trung Quốc bành trướng ở biển Đông, nên đã kiến nghị với Anh: để đề phòng cộng sản Trung Quốc giành được Trường Sa, phương án tốt nhất là biến nó thành một lãnh thổ ủy trị, và cũng kiến nghị Anh tận dụng ưu thế hải quân hiện thời để kiểm soát trước khu vực này. Nhưng Anh sợ làm mất lòng Bắc Kinh, gây bất lợi cho sự thống trị của họ ở Hồng Kông nên từ chối. Ngược lại, về nguyên tắc Anh ủng hộ chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa, nhưng cũng cho rằng mình có một số quyền lợi nhất định đối với Trường Sa, do đó trong hội nghị chỉ ủng hộ lập trường của Pháp dùng cách diễn đạt ‘từ bỏ’. Trong một tài liệu nội bộ năm 1949, quan chức ngoại giao Millward nói tới việc Nhật Bản phải dứt khoát từ bỏ quần đảo Trường Sa trong hòa ước, nhưng hiệp ước không nên xử lí vấn đề chủ quyền của nó mà tạm gác lại để Anh, Pháp và nước khác giải quyết sau này, chỉ đến khi các khoảng trống được lấp đầy, và một số nước yêu sách có thể chứng minh chủ quyền của họ một cách thực chất và lâu dài hơn, thì câu hỏi này mới có thể được giải quyết.
Mặc dù Mĩ thiên về việc giao trả quần đảo này cho Trung Hoa Dân Quốc, nhưng vì vào thời điểm đó không có chính phủ Trung Quốc nào được công nhận hợp pháp và họ cũng hiểu rõ mâu thuẫn giữa các nước trong vấn đề này, nên chuyển sang đồng ý để tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa là chưa xác định. Vì vậy, các nước đều thiên về không giải quyết vấn đề này ở hội nghị, việc dùng cụm từ “Nhật Bản từ bỏ” đã trở thành sự đồng thuận của tất cả các bên.
Trung Hoa Dân Quốc, dù không tham gia hội nghị nhưng đã tham gia thảo luận một loạt dự thảo. Tuy nhiên, trong loạt thảo luận về vấn đề lãnh thổ trong hòa ước giữa Dulles và Cố Duy Quân từ 1950 đến 1951, Trung Hoa Dân Quốc chưa bày tỏ bất kì ý kiến nào về Hoàng Sa và Trường Sa. Hai bên đã thảo luận về Đài Loan, Lưu Cầu (Ryukyu), Nam đảo Sakhalin và 4 đảo phía Bắc.
Dulles nhiều lần giải thích cho Cố Duy Quân lí do vì sao Đài Loan bị cho vào danh sách lãnh thổ bị Nhật Bản từ bỏ thay vì được trả lại cho Trung Quốc, điều đó là để ngăn ngừa Cộng sản Trung Quốc lấy cớ cướp đoạt Đài Loan cũng như tránh việc Mĩ không có cách nào phù hợp theo luật quốc tế để giúp Đài Loan phòng thủ. Có lẽ Đài Loan cho rằng Mĩ cũng đã cân nhắc điều này khi đưa ra quyết định cuối cùng về vụ Hoàng Sa và Trường Sa. Đây có thể là nguyên nhân Đài Loan không thảo luận vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại Hội nghị, đã diễn ra các tranh luận về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko đã đề xuất trong bài phát biểu của mình vào ngày 5/9 rằng Điều 2 nên được sửa đổi như sau:
Nhật Bản thừa nhận chủ quyền hoàn toàn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Mãn Châu, Đài Loan và tất cả đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (quần đảo Pescadores), quần đảo Đông Sa (quần đảo Pratas) cũng như quần đảo Tây Sa và quần đảo Trung Sa (quần đảo Paracel, quần đảo Amphitrite, bãi Macclesfield) và quần đảo Nam Sa (bao gồm đảo Nam Uy trong đó) và từ bỏ tất cả quyền, cơ sở của quyền và yêu sách đối với các lãnh thổ kể trên....
Nhưng đề nghị này bị các nước tham dự hội nghị bác bỏ với tỉ số lớn. Sở dĩ Liên Xô đưa ra đề nghị này là vì mục đích quan trọng hơn, đó là nhằm giúp Cộng sản Trung Quốc giành được vị trí đại diện Trung Quốc, mà ngoài Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc ra, các nước tham dự hội nghị sớm đã đạt được đồng thuận, kiên quyết phủ quyết ý đồ này của Liên Xô.
Sau đó trong phiên họp cùng ngày, đại biểu Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định rõ hai quần đảo này lãnh thổ này là lãnh thổ Việt Nam: “Chúng tôi khẳng định quyền của chúng tôi đối với quần đảo Trướng Sa và quần đảo Hoàng Sa, chúng luôn thuộc về Việt Nam”. Trong hội nghị không có ai đưa ra ý kiến phản đối. Việt Nam coi việc không có người phản đối khi đó là một trong những chứng cứ rằng cộng đồng quốc tế ủng hộ Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam. Chứng lí của cách diễn giải này không đủ: thứ nhất nước có liên quan là Trung Quốc không có đại biểu ở đó; thứ hai, đại biểu của ba nước ban đầu đề xuất rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Hoa Cộng sản đều không có mặt, nếu không họ có thể đã đưa ra phản đối; cuối cùng, phần này của hội nghị không yêu cầu các nước bày tỏ thái độ.
Có người cho rằng những điều khoản không rõ ràng này trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” ít ra là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến các tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á sau này. Nhưng thực ra, các tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á mới là nguyên nhân làm nẩy sinh những điều khoản không rõ ràng đó. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” không hề tạo ra tranh chấp mới, nó chỉ không giải quyết các tranh chấp có từ lâu mà thôi. Phía Trung Quốc (cộng sản) còn cho rằng Mĩ cố ý dùng thuật ngữ “từ bỏ” trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” chỉ nhằm “ngáng chân” Trung Quốc. Từ thảo luận phía trên có thể thấy rằng cách lí giải này không có căn cứ.
Sau hội nghị San Francisco, Nhật Bản chọn kí hòa ước với chính phủ Dân Quốc. Khi đàm phán hòa ước, chính phủ Dân Quốc trước hết yêu cầu Nhật Bản đưa vào hòa ước cụm từ “trả lại Đài Loan và Tây Sa, Nam Sa cho Trung Quốc”, nhưng bị Nhật Bản từ chối. Nhật Bản cho rằng nếu viết như vậy trong hòa ước Trung-Nhật thì Nhật sẽ vi phạm cam kết với các nước Đồng minh khác. Ý của Nhật Bản là phạm vi trong hòa ước Trung Nhật không thể vượt quá “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Mẫu số chung mà hai bên có thể tìm ra là Nhật Bản sẽ viết tách rời hai địa điểm này (Đài Loan cùng Hoàng Sa, Trường Sa) trong hòa ước. Theo đó, Điều 2 trong “Hòa ước Trung -Nhật” kí kết giữa Nhật Bản và chính phủ Quốc Dân đảng ngày 28/4/1952 quy định:
Điều 2: Hai bên thừa nhận rằng theo Điều 2 của Hiệp ước San Francisco ngày 8/9/1951, Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa chủ quyền cũng như mọi yêu sách về đảo Đài Loan (Formosa), Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa.
Hòa ước này thừa nhận Điều 2 “Hiệp ước San Francisco”, đồng thời xác định một lần nữa việc Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền đối với Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng cũng không chỉ ra rõ sự quy thuộc của những đảo này. Chính phủ Dân Quốc giải thích rằng vì hiệp ước do hai nước Trung Quốc và Nhật kí kết, do đó lãnh thổ Nhật từ bỏ sẽ đồng nghĩa với ngầm trả lại Trung Quốc.
Nước Pháp cũng có lo ngại như vậy, nên đã vặn hỏi Nhật Bản. Cuối cùng, ngày 23/5 cùng năm Nhật và Pháp đạt được thỏa thuận, dùng hình thức công hàm ngoại giao để xác nhận rằng lập trường của Nhật Bản trong “Hòa ước Trung-Nhật” là thống nhất với “Hòa ước San Francisco”.
Thỏa thuận dùng hình thức công hàm chứ không ra tuyên bố thực tế là để không làm tổn hại quan hệ giữa họ với Trung Hoa Dân Quốc. Trong công hàm của Nhật Bản viết:
I concur with your understanding that Article 2 of the Peace Treaty between Japan and the Republic of China signed on April 28, 1952, should not be construed as having any special significance or meaning other than that implied by Article 2, paragraph (f), of the Treaty of San Francisco.
(Tôi đồng tình với cách hiểu của ông rằng Điều 2 của Hiệp ước Hòa bình giữa Nhật và THDQ được kí kết vào ngày 28/4/1952, không nên được hiểu là có bất kì ý nghĩa hoặc nghĩa đặc biệt nào khác với ý nghĩa mà Điều 2, đoạn (f), của Hiệp ước San Francisco hàm chứa.)
Ngày 15/8/1951, chính phủ Bắc Kinh ra tuyên bố không thừa nhận “Hiệp ước San Francisco”. Đồng thời họ cũng khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa:
Đồng thời, bản dự thảo cũng cố ý quy định Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi đối với đảo Nam Uy (Trường Sa Lớn) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) mà cũng không nhắc đến vấn đề trả lại chủ quyền. Trên thực tế, quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như toàn bộ quần đảo Nam Sa và quần đảo Trung Sa, quần đảo Tây Sa đều là lãnh thổ Trung Quốc, tuy từng bị đế quốc Nhật Bản chiếm đóng khi phát động chiến tranh xâm lược, nhưng sau khi Nhật Bản đầu hàng đã được chính phủ Trung Quốc lúc đó tiếp thu toàn bộ. Chính phủ nhân dân trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đây tuyên bố rằng: chủ quyền không thể xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa sẽ không bị ảnh hưởng dưới bất kì hình thức nào, bất kể chúng có được Mĩ, Anh quy định hay không và quy định như thế nào trong bản dự thảo hòa ước với Nhật.
Tuy nhiên, trong những năm 1970, “Tuyên bố chung Trung - Nhật” (1972) và “Hiệp ước hòa bình hữu nghị Trung Nhật” (1978) được kí kết khi Trung Quốc và Nhật thiết lập quan hệ ngoại giao cũng không nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa. Thậm chí trong các thảo luận khi đó cả hai quần đảo này cũng không được nhắc đến.
Do trong hiệp ước sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa không được nêu ra, các bên đều giải thích theo hướng có lợi cho mình. Ví dụ Chemilier Gendreau giải thích rằng “Hòa ước Trung-Nhật” quy định Nhật Bản từ bỏ lãnh thổ, nhưng lại không quy định giao lãnh thổ cho Trung Quốc, sự thực chính là quy định không giao cho Trung Quốc. Kiểu diễn giải này có phần quá mức. Điều duy nhất mà Hiệp ước Hòa bình San Francisco làm được là tái khẳng định tình trạng tranh chấp của những quần đảo này.
III.9. Kết luận: Di sản của thời đại Nhật Bản
Thế chiến thứ hai kết thúc và việc kí kết hòa ước với Nhật đánh dấu sự kết thúc thời đại Nhật Bản ở biển Đông. Mặc dù trong hòa ước, Nhật Bản đã từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa nhưng vấn đề nó để lại vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã chiếm đóng Đông Sa (Pratas), Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời kì Nhật Bản chiếm đóng, tình trạng pháp lí của mấy quần đảo này là rất khác nhau, điều này đã trực tiếp ảnh hưởng vấn đề pháp lí sau này. Đối với Đông Sa, Nhật Bản coi đó là lãnh thổ của Trung Quốc, Nhật Bản ở trong tình trạng chiếm đóng, sau chiến tranh Trung Quốc thu hồi, và không có sự phản đối nào từ bất kì bên nào.
Ở Hoàng Sa, năm 1938 Pháp chiếm quần đảo này dưới sự đồng ý ngầm của Trung Quốc, và lúc này Nhật Bản đã có sự hiện diện quân sự ở Hoàng Sa. Nhật Bản một mặt tuyên bố Hoàng Sa là lãnh thổ Trung Quốc mà nước này chiếm đóng, điều này hiển nhiên là để ngăn cản Pháp chiếm Hoàng Sa. Nhưng sau khi việc chiếm đóng của Pháp trở thành sự thực, Nhật Bản lại ngầm thừa nhận sự kiểm soát của Pháp ở Hoàng Sa. Cho nên trước tháng 3/1945, Pháp và Nhật chung sống hòa bình ở Hoàng Sa, trên danh nghĩa Pháp kiểm soát Hoàng Sa. Tình trạng này kéo dài đến tháng 3/1945 sau khi Nhật Pháp xung đột. Quân Nhật đã đánh bại Pháp, chiếm đóng Hoàng Sa cho đến khi Nhật Bản đầu hàng.
Ở Trường Sa, Nhật Bản phớt lờ quân Pháp đóng trên đảo, sau khi chiếm được, họ sáp nhập Trường Sa đã vào thành phố Cao Hùng với tên gọi quần đảo Tân Nam. Quân Pháp mặc dù vẫn ở trên đảo nhưng lại ngầm thừa nhận sự kiểm soát của Nhật Bản. Cho đến sau khi Nhật và Pháp trở thành thù địch, Pháp bị quân Nhật trục xuất. Như vậy, trong thời chiến, theo quan điểm của Nhật Bản, tình trạng của Trường Sa là lãnh thổ của Nhật Bản chứ không phải là lãnh thổ của Trung Quốc hay của Pháp.
Sau chiến tranh, Nhật Bản đã từ bỏ các đảo ở biển Đông. Pháp và Trung Quốc đều lần lượt quay trở lại Hoàng Sa và Trường Sa. Điều trùng hợp là đối với Pháp, Hoàng Sa và Trường Sa cũng có cách hiểu pháp lí khác nhau: Hoàng Sa vốn là lãnh thổ truyền thống của Việt Nam, hiện tại là đất của An Nam, vì vậy trong các hành động ở Hoàng Sa, Pháp đều để người Việt Nam tham gia; còn Trường Sa là đất vô chủ do người Pháp khai phá, không có quan hệ gì với An Nam, trong hành động ở Trường Sa không có người Việt Nam tham gia. Đương nhiên đối với phía Pháp, điều quan trọng nhất sau chiến tranh vẫn là quay trở lại Đông Dương, Hoàng Sa và Trường Sa đều chỉ có thể đặt ở vị trí phía sau, khi Việt Nam vẫn còn phải chịu sự cản trở của Trung Quốc. Đây chính là lí do vì sao Pháp giành trước việc tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không để lại quân trú đóng. Khi người Pháp biết Trung Quốc phái quân đến Hoàng Sa, họ phái quân đến để đuổi đi, nhưng chỉ có thể chiếm một nửa quần đảo.
Đối với Trung Quốc, đất đai bị mất quan trọng nhất phải thu hồi sau chiến tranh là Đài Loan (đương nhiên còn có vùng Đông Bắc), các đảo biển Đông cũng bị xếp ở phía sau. Nếu không có Đài Loan nhắc nhở, Trung Quốc sẽ không lưu ý đến chúng. Trung Quốc tiến vào chiếm giữ Đông Sa và Hoàng Sa là rõ ràng thẳng thắn, nhưng đối với việc “thu hồi” Trường Sa lại có vẻ không thật quang minh chính đại. Lúc này Trung Quốc có quân chiếm đóng ở cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, điều này sẽ giúp họ chiếm được ưu thế trong tranh chấp hai quần đảo sau này. Ý định ban đầu của việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai của Trung Quốc chỉ là để phân định phạm vi thu hồi nhưng sau đó lại bị diễn dịch thành ý nghĩa khác, việc này để nói sau. Đáng tiếc là sau nội chiến Trung Quốc, mọi việc thay đổi hoàn toàn, Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan, rút quân khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, phe Cộng sản không có thực lực lắp vào chỗ trống, thế là một lần nữa Trường Sa xuất hiện khoảng trống trong kiểm soát các đảo.
Ở biển Đông, Philippines mới độc lập, là một kẻ đến sau. Trong thời thuộc Mĩ, người Mĩ không quan tâm đến Trường Sa, ngay cả có ý kiến đề xuất sáp nhập của Philippines cũng không đồng ý. Sau khi được độc lập, Philippines nhanh chóng đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với Trường Sa, việc này thậm chí còn sớm hơn yêu sách công khai của Trung Quốc đối với Trường Sa. Kể từ đó, họ luôn là một bên tranh chấp chủ yếu. Lợi ích chủ yếu của Philippines đối với Trường Sa vào lúc đó vẫn là lợi ích địa chiến lược.
Về phương diện luật quốc tế, thời kì này có hai văn kiện rất quan trọng, một là “Tuyên bố Cairo”, hai là “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Có một số quan điểm sai lầm cần phải làm sáng tỏ.
Thứ nhất, trong “Tuyên bố Cairo” sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa không hề được đề cập đến, tại hội nghị Potsdam cũng không được đề cập đến; trong “Tuyên bố Cairo”, theo quan điểm của Mĩ, Trường Sa thuộc về các đảo Thái Bình Dương bị xâm chiếm sau năm 1941 mà Nhật Bản phải từ bỏ chứ không phải là lãnh thổ phải trả lại cho Trung Quốc. Còn quần đảo Hoàng Sa thì họ thừa nhận Trung Quốc và Pháp có tranh chấp, và muốn họ tự xử lí.
Thứ hai, có người cho rằng trong thế chiến thứ hai, Nhật Bản sáp nhập quần đảo Trường Sa vào Đài Loan, cho nên sẽ phải trả lại cho Trung Quốc cùng với Đài Loan theo “Tuyên bố Cairo”. Loại quan điểm này cũng sai lầm. Một là lãnh thổ mà Nhật Bản xâm chiếm vào thời chiến, đương nhiên phải khôi phục tình trạng trước chiến tranh rồi mới xem xét sự quy thuộc của chúng, nếu không chẳng hạn nếu như Nhật Bản cũng giao đảo Luzon cho Đài Loan quản lí, thì đảo Luzon cũng sẽ phải bị Trung Quốc thu hồi sao? Hai là như trình bày ở trên, Mĩ đã xem nó thuộc “các đảo ở Thái Bình Dương bị xâm chiếm sau năm 1941”, đương nhiên không thể thuộc về một bộ phận của Đài Loan được liệt kê ra như trong “Tuyên bố Cairo”.
Thứ ba, theo “Hiệp ước hòa bình San Francisco”, Trường Sa và Hoàng Sa đều là lãnh thổ mà Nhật Bản từ bỏ, đây không phải là âm mưu của Mĩ cố ý nhằm vào Trung Quốc mà là quyết định được đưa ra dựa trên thực tế khách quan và tình hình khi đó. Một là từ thời chiến đến giai đoạn soạn thảo hòa ước, phía Mĩ từ đầu đến cuối đều hiểu tính phức tạp của các tranh chấp chủ quyền này; hai là ngay từ bản dự thảo thứ nhất chúng đã được xác định là lãnh thổ “từ bỏ” chứ không giống như Đài Loan được đưa vào diện “trả lại Trung Quốc”, nếu nói rằng cách xử lí cuối cùng đã sửa Đài Loan thành [lãnh thổ] từ bỏ là nhằm vào tình hình đặc thù của Trung Quốc, vậy thì đối với Hoàng Sa và Trường Sa, những cân nhắc về mặt này là rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có.
Thứ tư, hòa ước giữa Nhật Bản và Đài Loan không thể được hiểu là phải trả Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Thứ nhất, không có điều khoản nào nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa phải được trả lại cho Trung Quốc; thứ hai, việc Đài Loan cũng như Hoàng Sa và Trường Sa đã được đề cập trong hiệp ước hòa bình này chỉ cho thấy rằng hai khu vực này có liên quan đến Trung Quốc, điều này là phù hợp với thực tế, nhưng không có chuyện đề xuất trả hai nơi này cho Trung Quốc, thứ ba, trong công hàm gửi cho Pháp có nêu rõ rằng trong hòa ước này Nhật Bản không vượt quá phạm vi của Hiệp ước hòa bình San Francisco.
Thứ năm, tuyên bố của Cộng sản Trung Quốc chỉ giải thích thái độ đơn phương của Trung Quốc có lập trường gì, điều này không thể lí giải là đã giành được hai quần đảo này một cách hợp pháp..
Thứ sáu, đề xuất của Liên Xô trong hội nghị hòa bình rằng hai quần đảo này thuộc về nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị bác bỏ, không thể coi đó là bác bỏ việc hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Vì khi đó có hai chính phủ Trung Quốc, phủ quyết này chỉ là phủ quyết việc giao chúng cho chính phủ Bắc Kinh, hơn nữa dự tính ban đầu của đề xuất này cũng không ở chỗ hai quần đảo này thuộc về ai mà là ở chỗ ai mới có thể đại diện cho Trung Quốc.
Thứ bảy, tại hội nghị hòa bình Việt Nam tuyên bố rằng hai quần đảo thuộc về Việt Nam, không ai phản đối, điều này cũng chỉ thể hiện lập trường đơn phương của Việt Nam, không nên mở rộng thái quá thành các nước có mặt đều đồng ý với lập trường của Việt Nam.
Thứ tám, theo tuyên truyền của Trung Quốc, Philippines chỉ mới tham gia tranh chấp biển Đông từ những năm 1970 vì quyền lợi dầu mỏ. Điều này hoàn toàn không khớp với sự thực, trên thực tế Philippines đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa sớm hơn Trung Quốc.
Thứ chín, việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai của Trung Quốc chỉ có thể được hiểu đó là yêu sách chủ quyền đối với các đảo trong đường chữ U.
Thứ mười, Trung Quốc dùng tàu Mĩ tặng đi “tiếp thu” Hoàng Sa và Trường Sa, việc này không thể coi là Mĩ đồng ý, thậm chí ủng hộ Trung Quốc làm như vậy. Ngoài ra, Trung Quốc dùng từ “tiếp thu” có thể gây hiểu nhầm rằng cộng đồng quốc tế trả hai quần đảo cho Trung Quốc, trên thực tế, hành vi của Trung Quốc và hành vi của Pháp không khác nhau về tính chất. Trung Quốc có lúc còn dùng từ “tiếp nhận đầu hàng”, trên thực tế, nghi thức tiếp nhận đầu hàng ở Trường Sa đã được người Anh hoàn thành sớm trước đó, việc xử lí quân Nhật ở đảo Ba Bình cũng do Mĩ hoàn thành, còn ở Hoàng Sa sau chiến tranh quân Nhật đã rút lui nên về căn bản không có chuyện gọi là “tiếp nhận đầu hàng”.
Chương I:Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông
Chương II: Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)
Chương III: Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)
Chương IV: Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)
Chương V: Thời kì xung đột thấp (1990-2008)
Chương VI: Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)
Phụ lục I: Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn
Phụ lục 2: Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ