Saturday, January 4, 2020

TRƯỚNG HẢI VÀ NAM HẢI

TRƯỚNG HẢI VÀ NAM HẢI


Vừa qua khi phản bác hồ sơ thềm lục địa mở rộng của Malaysia và mới đây phản bác tố cáo của Indonesia về việc xâm nhập trái phép EEZ của quần đảo Natuna, Tàu+ đều viện dẫn rằng họ sở hữu HS, TS..., họ có ‘quyền lịch sử’ ở biển Đông... Để chứng minh về quyền sở hữu, Tàu+ lập luận rằng họ đã phát hiện, đặt tên trước... với việc lấy những cái tên (thật ra ko biết phải tên hay chỉ là mô tả vì chữ viết Tàu ko có kiểu chữ hoa và ngày xưa ko cả có dấu câu) mù mờ trong các đoạn trích cắt đầu, xén đuôi từ sách vở xưa rồi phán đó là tên của chỗ này chỗ kia, ví dụ ‘khi đầu’ (崎头 qitou)(1) [trong biển trướng] tức là những chỗ đá nhấp nhô chìm nổi ngoài biển [trướng], Tàu+ cho rằng đó là tên riêng Qitou để chỉ tất cả các đảo ở biển Đông. Còn biển Đông ông cha họ khi thì gọi là ‘Trướng hải’ (涨海 Zhanghai), khi thì gọi là ‘Nam hải’ (南海 Nanhai), lúc khác thì gọi là ‘Nam dương’ (南洋 Nanyang)...
Về cái ‘tên’ Trướng hải hay biển Trướng, theo Roderich Ptak(2) thì cho đến gần đây vẫn chua có kết luận cuối cùng về cách giải thích từ này và việc thảo luận về nó vẫn đang tiếp diễn. Trong nghiên cứu chi tiết trước đó về từ này, Ptak giải thích rằng zhanghai - một từ ông không dịch khác hơn là “biển zhang” (“Zhang Meer”) - là một từ mô tả các vùng biển ngoài khơi Quảng Đông, xung quanh đảo Hải Nam, và vịnh Bắc Bộ. Cuối cùng, từ này bao gồm hầu hết các khu vực biển từ Quảng Đông đến Ấn Độ Dương. Theo đó, zhanghai không nhất thiết chỉ một khu vực biển cụ thể, mà là một tên gọi mơ hồ cho một khu vực biển không xác định.
Còn Joseph H. Charignon trong một chuyên khảo dài(3) cũng cho rằng "tên gọi này (Nam hải) có từ xa xưa và đã xuất hiện trong chương Vũ cống (禹貢) của kinh Thư (書經), tất nhiên lúc đầu nó có nghĩa rất rộng, giống như từ cùng nghĩa của nó là Trướng hải (Zhǎng hǎi 漲海). Theo 胡渭 Hồ Vị(4) , người sống vào thời trước công nguyên, Nam hải (biển Nam) bắt đầu từ phủ Triều Châu (潮州) [Quảng đông] và trải dài hơn 6 hoặc 7 ngàn lí từ đông sang tây. Dưới cái tên Trướng hải (biển Trướng), nó vẫn giữ cách nhìn nhận này cho đến ngày nay, nhưng trong các tài liệu của các triều Tống, Đường và vài triều đại trước đó, cách gọi Nam hải (biển Nam) và Trướng hải thường được sử dụng theo một nghĩa hạn chế chỉ dùng để chỉ biển nội địa trải dài về phía tây của bán đảo Trường Sơn; do hai cái tên này dễ gây nhầm lẫn nên một số tác giả đã thay bằng các cái tên khác chính xác hơn, chẳng hạn như biển Tế Lan (Xì lán 細蘭海) biển Bồ Bôn (Pú bēn 莆奔大海) và biển nước ngọt [淡水洋 (đạm thuỷ dương) hoặc 淡洋 (đạm dương)]." Như vậy, Trướng hải và Nam hải có thể còn chỉ một biển từng tồn tại xưa kia ở phia tây dãy Trường Sơn (khá bất ngờ!) như tác giả đã cố gắng chứng tỏ sự tồn tại của nó theo sử sách Tàu [và cả phương Tây lẫn Ả Rập]. Xin ghi lại đây một số điều dễ theo dõi mà tác giả dùng để chứng minh:
1. Tấn thư ghi:
(a) “Vào thời nhà Hán, Lâm Ấp (Lín yì 林邑, nay là Quảng Bình đến Quảng Nam) ban đầu là lãnh thổ của huyện Tượng Lâm (Xiàng lín 象林縣); đây là nơi mà Mã Viện đúc [và dựng] cột [đồng]. TỪ NƯỚC NÀY ĐẾN NAM HẢI LÀ 3 000 LÍ ...”
(b) “Phù Nam cách Lâm Ấp hơn 3 000 lí về phía tây và nằm trên một vịnh lớn của biển [nội địa] (在海西大灣中 tại hải tây đại loan trung). Lãnh thổ của nó trải dài hơn 3 000 lí từ bắc tới nam, cũng như từ đông sang tây. Nước này có nhiều thành có tường bao quanh, cung điện. Người ở đây xấu xí, da đen, tóc xoăn, để mình trần và đi chân không; tính tình chất phát và ngay thẳng, không trộm cắp. Họ chăm chỉ làm việc đồng áng, trồng lương thực một năm dùng trong ba năm. Ngoài ra, họ rất giỏi trong việc chạm khắc; làm ra các đồ dùng nhà bếp, nhất là họ sử dụng tiền ...” (5).
* Nam hải trong đoạn đầu tiên, nói ở điểm (a) cách Lâm Ấp (nay là An Nam) 3 000 lí, chúng ta thấy ngay rằng nó không thể là cái biển Nam hải theo nghĩa rộng, mà Lâm Ấp chạy doc theo bờ biển của nó; nó nhất thiết phải tương ứng với cái vịnh lớn của đoạn thứ hai, nói ở điểm (b), và nằm ở ranh giới phía đông của Phù Nam vốn được ghi nhận là cũng cách 3 000 lí về phía tây.
2. Lương thư ghi:
“Cách biên giới phía nam của Phù Nam hơn 3 000 lí là nước Đốn Tốn (Dùn xùn 頓遜國), nằm trên một bán đảo miền núi [在海崎上 tại hải khi thượng] và có chiều dài 1 000 lí, kinh đô cách biển 10 lí. Ở đó có 5 vua đều là chư hầu triều cống của Phù Nam. Đốn Tốn quan hệ với Giao Châu (交州) qua biên giới phía đông (vịnh Thái Lan); có thể giao tiếp với Ấn Độ và Parthia qua biên giới phía tây (Ấn Độ Dương); người từ tất cả các nước bên ngoài biên giới của chúng ta đều đến đó để buôn bán. Nhờ đó Đốn Tốn vươn xa ra đại dương cả 1 000 lí, TRONG KHI TRƯỚNG HẢI, KHÔNG CÓ BỜ BIỂN NƯỚC SÂU, KHÔNG CÒN CÓ THỂ ĐI LẠI BẰNG THUYỀN LỚN ...” (6)
“Người ta còn bảo rằng BIỂN TRƯỚNG LÀ RANH GIỚI PHÍA ĐÔNG CỦA PHÙ NAM. Trong biển này có một vùng đất châu thổ rộng mà nước người Bồ (諸蒲國: Chư Bồ quốc) nằm trên đó; phía đông nước này là đảo Mã Ngũ (馬五大洲).”
* Đốn Tốn trải dài toàn bộ chiều dài từ bắc tới nam dọc theo đại dương; do đó sẽ hợp lí khi đặt nó ở đầu phía bắc của bán đảo Malaysia, và có thể nói thêm theo cách nó được mô tả, rằng nó đánh dấu từ phía đó là vùng đất của đế chế Phù Nam. Hai bờ biển phía tây và phía đông của nó, có tàu thuyền thường xuyên lui tới, nhưng bờ biển phía đông không thể là của biển Trướng theo nghĩa rộng, biển đó chạy từ Champa đến Trung Quốc, vì khi đó sẽ chẳng có nghĩa gì khi nói rằng biển này không có bờ biển có thể tiếp cận được, rằng không còn tàu thuyền lớn chạy trên đó. Do đó cách gọi tên này phải được hiểu theo nghĩa hẹp, như được cho thấy trong phần tiếp theo của câu chuyện; chỉ nói về biển Trướng khi có dính dáng đến Phù Nam, đối tượng chính của Ghi chép này (Notice), và để giải thích tại sao việc buôn bán không còn vận chuyển đến biển Trướng này. Từ đó, có vẻ như chúng ta có thể giả định rằng vận may lớn của Nam Kì không xảy ra trước khi người Ả Rập và Trung Quốc đến đó vào thời nhà Đường [618-927].
3. Mã Đoan Lâm, trong Ghi chép về Ấn Độ,(7) có câu này: “Miền đông Ấn Độ giáp với một biển lớn về phía đông; nó nằm cạnh Phù Nam (nay là Xiêm-Campuchia) và Lâm Ấp (nay là bắc An Nam); NÓ CHỈ NGĂN CÁCH VỚI HAI NƯỚC NÀY BỞI MỘT BIỂN NHỎ.” Mặc dù, theo Tân Đường thư, miền đông Ấn Độ sẽ giữ vai trò như một giới hạn phía tây cho nước Phiếu (Biāo 驃國), có vẻ rằng, trong câu nêu trên, miền đông Ấn Độ, do ở lân cận Phù Nam nên phải bao gồm Miến Điện; dù như thế nào, cái biển nhỏ này ngăn cách nó với Phù Nam và Lâm Ấp nên nhất thiết phải nằm về phía bắc của Phù Nam và phía tây của Lâm Ấp; đó là những gì chúng tôi cố gắng thể hiện trên bản đồ khi tìm dấu vết “nửa trên của biển nội địa” ở phía bắc dãy núi Dangrek (ở khu vực biên giới Thái- Campuchia và Lào).
4. Chu Khứ-Phi trong cuốn Lĩnh Ngoại đại đáp, nói rằng “VỀ PHÍA TÂY CỦA CHAMPA, CHÂN LẠP (NGUYÊN THUY) VÀ VÂN NAM CÓ MỘT BIỂN có tên là biển Tế Lan [Xì lán 細蘭海], và trong biển này có đảo Tế Lan.- Champa đã được biết; Chân Lạp (nguyên thủy) được Tân Đường thư đặt ở phía tây bắc của Lâm Ấp, tức là Champa; còn Vân Nam, được biết từ Tống sử là nó phải chạy đến tận Champa và tiếp giáp với nước này. Một biển Tế Lan, nằm ở phía tây của ba xứ này, không thể lấy tên của nó là tên của xứ Tế Lan mà theo các nhà địa lí Ả Rập nằm ở Arakan hoặc ở Bago (Miến Điện), chứ chưa nói đến Tích Lan Colombo, đặc biệt là khi người Ả Rập và Trung Quốc đều thống nhất trong cách gọi bán đảo An Nam là Xi-lan.
5. Một tài liệu sau này, thời nhà Minh nêu rằng “Ở PHẦN TÂY NAM CỦA VÂN NAM, ĐẤT HOANG TRẢI DÀI RA XA VÀ NHIỀU VÙNG ĐỒNG BẰNG RỘNG LỚN VẪN CHƯA SỬ DỤNG; BÊN BỜ BIỂN CÓ NHIỀU VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ NHIỀU LÙM BỤI; đó là xứ của bọn di Bác (Bó 僰夷)(8) sinh sống”. - Tiếp tục về phía đông, tại nơi mà sông Cửu Long chảy vào nước Lào thuộc Pháp, các bản đồ hiện đại đều có in dọc biên giới cụm từ 让洪地方 (NHƯỢNG HỒNG ĐỊA PHƯƠNG), có nghĩa là ‘vùng ngập nước’ (9) . — Trong phần giữa lưu vực sông Cửu Long, cả ở phía đông lẫn phía tây, nhiều đồng bằng rộng lớn không có chỗ gò cao, ngay cả ngày nay, vào mỗi mùa hè đều bị lũ lụt phủ kín(10) , nếu tính đến khả năng lắng bùn kinh khiếp của con sông lớn này thì sẽ không ngạc nhiên rằng một biển nội địa xưa mà diện tích ngày càng giảm bớt đi, có thể đã tồn tại cho tới thời trung cổ.
6. Các tài liệu hiện đại như “Đông Tây Dương Khảo” (1618) và “Quảng Đông-thông chí” (thế kỉ XVII) VẪN CÒN ĐẶT XIÊM (THÁI LAN) NẰM BÊN NAM HẢI; quyển đầu ghi: “xưa kia Xiêm là một phần của Xích Thổ và của Bà La Lạt (Pó luó lá 婆羅剌)”; còn quyển sau nói: “Biên giới của Xích Thổ chính là biên giới của Xiêm; phía đông, có Bà La Lạt; phía tây, có Bà La Sa (Pó luó suō 婆羅娑); phía nam là nước Ha La Đán (Hē luó dàn 訶羅旦); VỀ PHÍA BẮC, NÓ CHẠY TỚI TẬN BIỂN 大海 (đại hải).(11)
Dĩ nhiên, những điều trên chỉ rút từ sử sách xưa mà các sử quan và các tác giả xưa, nhất là của Tàu thường chép y nguyên của người đi trước ít có nhận xét, phê phán và cũng khó có điều kiện đẻ kiểm chứng thực tế. Do đó, cần phải dùng các kiến thức địa chất, khảo cổ, sinh hoá... kiểm tra lại để xác nhận hoặc bác bỏ sự tồn tại của cái biển đang bàn. Dù trường hợp nào xảy ra thì khẳng định ‘Nam hải’ hay ‘Trướng hải’ là biển Đông vẫn là một khẳng định bấp bênh: nếu kiêm lại đúng thì 2 tên này có thể chỉ cái biển nội địa đó, nếu sai thì rõ ràng sử sách mà họ đem ra dẫn chứng không đáng tin vì đã mô tả cái không có trong thực tế.

----------
(1) Lấy từ đoạn trich đầy đủ sau trong Dị vật chí của Dương Phu thời Hậu Hán (25 - 220 CE): “Trướng hải khí đầu thuỷ thiển nhi đa từ thạch KIẾU NGOẠI NHÂN THỪA ĐẠI BẠC GIAI DĨ THIẾT CỐ CHI chí thử quan dĩ từ thạch bất đắc quá” 涨海崎头水浅而多磁石徼外人乘大舶皆以铁锢之至此关以磁石不得过 (Có nhiều đá mấp mô trong biển trướng, và ở đó nước cạn và có rất nhiều đá nam châm. NGƯỜI NƯỚC NGOÀI GIA CỐ THUYỀN LỚN CỦA HỌ BẰNG CÁC TẤM KIM LOẠI. Khi họ đến vùng biển này thì không thể vượt qua được vì bị đá nam châm hút). BNG Tàu+ lúc đầu chỉ trích phần trước chỗ in hoa, mới đây trích tới hết chỗ in hoa. Cách trích như vậy khiến người đọc rất dễ ngộ nhận rằng đây là điều nghiêm túc chứ không phải là điều lạ lùng, khó có thể có thật như tên truyện ngầm cho thấy (dị vật: thứ/vật kì lạ, không bình thường - ở đây là biển có nhiêu đá nam châm, có lực từ mạnh đến nỗi hút thuyền không đi được!) và dấu đi chi tiết người nước ngoài chứ không phải người Tàu đã đi thuyền tới đây.
(2) “Zhanghai. Raum und Konzept: Von den Anfängen bis zur Tang-Zeit”(Trướng hải. Khoảng biển và ý niệm: Từ đầu cho tới thời Đường), trong: Müller, Höllmann, và Gui 2004, 241-253 (theo Johannes Kurtz)
(3) La Grande Java de Marco Polo en Cochinchine, Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1929 (đã dịch xong, sẽ công bố sau)
(4) Hồ Vị, “Explication du chapitre Yu-kong” (Lí giải về thiên Vũ cống), q. 12, tr. 25 r° và v°.
(5) Tấn thư, q. 97, tr. 10 V° và 12 r°; bản dịch của toàn bộ tài liệu được P. Pelliot đưa ra, B.E.F.E.O. 1903, tr. 254.
(6) Câu cuối cùng này là gây tranh cãi nhất: bản dịch được d’H. Saint Denys đưa ra, Méridionaux, tr. 445; G. Schlegel, T.B. năm 1899, tr. 34-35; P. Pelliot, B.E.F.E. O. 1903, tr.263. Trong số các học giả này, hai người đầu có chép lại nguyên văn tiếng Trung, mà chúng tôi báo lại cho bạn đọc,vì cần phải đọc nó.
(7) Mã Đoan Lâm, q. 338, tr. 15 r°, toàn bộ ghi nhận đó được S. Julien dịch, Mélange de géoraphie asiatique (Tạp lục về địa lí châu Á), tr. 50 và các trang kế tiếp.
(8) G. Soulie, B.E.F.E.O. 1908, tr. 345.
(9) Ví dụ như “ bản đồ hành chính mới của tỉnh Vân Nam 雲南分縣新圖 (Vân Nam phân huyện tân đồ) mới phát hành gần đây của “Nhà in Thương mại Thượng Hải”
(10) Mission Pavie (Nhóm truyền giáo Pavia): Géographie et Voyages, t, III, của Capitaine Cupet.
(11) G. Schlegel, Thông báo 1899, tr. 161. - Những giới hạn này được rút ra, từng chữ một, từ Tuỳ thư, q. 81, tr. 1 v°, nhưng Xích Thổ rộng hơn nước Xiêm hiện nay; về phía Đông, nó chạy tới bờ biển phía tây của biển, vì có Ha La Đán ở phía nam, tức là Đồ Bà. Hai nước sau, Ha La Đán và Đồ Bà ở trên cùng bán đảo, vì trong Tống sử có nói rằng Ha La Đán nằm trên đảo Đồ Bà 治闍婆洲 (trị Đồ Bà châu)- Xem G. Schlegel, như trên. tr. 159.

No comments: