Giàn khoan 981
không nằm trong vùng biển Việt Nam?
(Bài đã đăng trên Boxit Viet Nam ngày 17/06/2014 và trên Dân Luận ngày 18/06/2014)
Ngày 08/06/2014,
trang web của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đăng bài “Giàn khoan 981 tiến hành
hoạt động tác nghiệp: Hành vi khiêu khích của Việt Nam và lập trường
của Trung Quốc”[1] nhằm biện hộ cho hành động ngang ngược của mình đồng thời vu cáo Việt Nam trước
công luận thế giới. Bài viết đó đưa ra nhiều luận điểm sai trái, nhưng trước mắt
chúng tôi chỉ tập trung phân tích luận điểm chính trong mục III cho rằng khu vực
đặt giàn khoan không thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của
VN.
Cụ thể là theo Bộ
Ngoại giao TQ “Giữa quần đảo Tây Sa của
Trung Quốc và bờ biển Việt Nam tồn tại vấn đề phân định ranh giới,
cho đến thời điểm này, hai bên vẫn chưa phân định ranh giới vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa tại vùng biển này. Hai bên đều có
quyền đưa ra chủ trương về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Song, bất cứ phân
định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không thể trở
thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.”
Mặc dù Việt Nam có
nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lí để chứng minh chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa (mà TQ gọi là Tây Sa) nhưng để thấy lập luận của Bộ Ngoại giao TQ sai
trái, bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế đến mức nào tạm thời thử giả định
quần đảo Hoàng Sa (HS) là của TQ như họ nói. Sau đó, thử xét việc phân giới giữa
HS và bờ biển VN theo luật lệ quốc tế xem có đúng là dù “phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không
thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”
hay không.
Cơ sở cho việc phân
định sẽ là các điều khoản liên quan trong Công ước LHQ về luật biển (UNCLOS) mà
cả TQ và VN đều là thành viên cũng như các án lệ quốc tế có liên quan.
Cơ sở từ UNCLOS là Điều
74 [83], đoạn 1 quy định:
“Việc phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế [thềm lục địa] giữa các quốc
gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa
thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án
quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng
(người viết nhấn mạnh).”
Để đi đến một giải
pháp công bằng theo quy định này phải xét đến nhiều yếu tố, điều kiện cụ thể liên
quan đến độ dài và hình dạng bờ biển, vị trí và tính chất các đảo, vấn đề kinh
tế-xã hội, an ninh, tài nguyên… Tập quán quốc tế và nhiều án lệ từ trước tới
nay thường dùng độ dài bờ biển tương ứng làm tiêu chuẩn chính để kiểm tra và điều
chỉnh cho tính công bằng. Theo đó, đường phân giới thường là trung tuyến [cách
đều] có điều chỉnh theo tỉ lệ thích hợp dựa trên độ dài hai bờ biển tương ứng (tỉ
lệ khoảng cách từ điểm trên đường phân giới tới điểm cơ sở của đảo và tới điểm
cơ sở của bờ biển đất liền bằng tỉ lệ điều chỉnh) và sau đó có thể tinh chỉnh theo
các yếu tố thích đáng khác hay đơn giản hoá cho dễ thực hiện. Do độ dài bờ biển
đất liền nói chung lớn nhiều lần so với độ dài bờ biển các đảo nhỏ nên tỉ lệ
này thường nghiêng về bờ biển đất liền.
Thông lệ quốc tế
cho ta nhiều ví dụ về việc điều này (các đảo chỉ được cho một phần hiệu lực hoặc
thậm chí không có được hiệu lực) trong các hiệp định phân giới biển giữa
Indonesia và Singapore, Iran và Qatar, Bahrain và Saudi Arabia, Iran và the
United Arab Emirates, Canada và Denmark (Greenland).[2] Đặc
biệt, hiệp định phân giới vịnh Bắc Bộ năm 2000, chính TQ cũng thoả thuận với VN
chỉ cho đảo Bạch Long Vĩ của VN một phần tư hiệu lực. (Xem
H.1)
H.1:
Đảo Bạch Long Vĩ được hưởng khoảng ¼ hiệu lực (tỉ lệ 15 hl:55hl ≈ 1:3,7)
Đối với các vụ đã đưa ra toà án quốc tế xảy ra trước UNCLOS
hoặc trước khi UNCLOS có hiệu lực thì cũng cho ta nhiều ví dụ. Vụ Tunisia -
Libya năm 1982 thì đảo Kerkennah (180 km², 15 000 dân) chỉ được cho một phần
hiệu lực do có kích thước nhỏ so với bờ biển của Lybya. Vụ Libya - Malta năm
1985, đảo chính của Malta (122 km², 350 000 dân) cũng chỉ được cho nửa hiệu lực.
Vụ Pháp - Anh năm 1977, trong 48 đảo/đá của quần đảo Scilly thì trọng tài chỉ cho
6 đảo có người ở phân nửa hiệu lực và đặc biệt là các đảo/đá nằm sai phía của
trung tuyến không ảnh hưởng đến việc phân giới... Đặc biệt, vụ Nicaragua -
Colombia sau khi UNCLOS có hiệu lực, mới được phân xử vào năm 2012 khá tương tự
với trường hợp HS của VN thì Toà trọng tài dùng tỉ lệ 1:3[3] (xem H.2). Tuy nhiên, trước nhất lưu ý rằng trong vụ này quần đảo San Andrés, Providencia và Santa hoàn
toàn thuộc Colombia, không có vấn đề tranh chấp chủ quyền. Hơn nữa, đó là một
quần đảo lớn có diện tích đất tổng cộng khoảng 52,5 km² và cư dân tại chỗ hơn
75 ngàn người.[4] Dù vậy, chỉ các đảo lớn thoả đúng định nghĩa ở điều 121 UNCLOS như Providencia
/ Santa Catalina (18 km²), San Andrés (26 km²), Albuquerque mới được Toà trọng
tài xem xét tới EEZ với tư cách từng đảo riêng. Các điểm cơ sở đều nằm trên các
đảo này, không có điểm cơ sở nào trên các thể địa lí không phải là đảo theo
nghĩa của UNCLOS như bãi Quitasueño hoặc đảo [đá] Serrana… Hoàn toàn không có
đường cơ sở thẳng chung lạ lùng như TQ tự vẽ cho HS để làm cơ sở cho việc phân
định ranh giới biển. Ngay cả trong vụ Qatar – Bahrain năm 2002, dù Bahrain trên
thực tế là một quần đảo vốn được phép có đường cơ sở thẳng theo UNCLOS[5] nhưng
toà vẫn không chấp nhập đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo đá
của quần đảo. Lí do là vì Bahrain đã không đưa vào hồ sơ của mình.
Trong khi đó, HS có
chủ quyền đang tranh chấp (thuộc VN nhưng đang bị TQ kiểm soát) chỉ gồm những đảo/
đá nhỏ rải rác với diện tích đất tổng cộng chỉ khoảng 7,75 km² (bé hơn quần đảo
San Andrés, Providencia và Santa khoảng
7 lần) còn cư dân thì chỉ độ 1 000
người do TQ đưa tới để thể hiện chủ quyền như chính Tiêu Tiệp (Xiao Jie/肖捷), Thị
trưởng Tam Sa thú nhận "Ở đây không
có đất trồng trọt. Mục tiêu chính là để bảo vệ chủ quyền trên biển của đất nước
chúng tôi."[6] Đặc biệt lưu ý rằng TQ không phải là nước quần đảo và trong quần đảo HS may ra chỉ
có đảo Phú Lâm mới có thể là đảo không phải đảo đá theo điều 121 UNCLOS[7]. Như
vậy, ngay cả khi giả định TQ có chủ quyền đối với HS là đúng thì so với những điều
vừa trình bày, khó có thể có toà án quốc
tế nào chấp nhận đường cơ sở thẳng mà TQ tự vẽ cho HS. Do đó, dù vị trí giàn
khoan có gần với đường đó bao nhiêu cũng đều vô nghĩa.
H. 2: Đường phân giới (màu đỏ) giữa quần đảo San
Andrés, Providencia và Santa và Nicaragua được điều chỉnh theo tỉ lệ 1:3 và được đơn giản hoá chứ không
phải là trung tuyến [cách đều]
Hai
đảo [đá] Quitasueño và Serrana chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lí
Nếu vận dụng luật pháp
và thông lệ quốc tế như vừa
trình bày vào từng đảo cụ thể thì cũng chẳng cải thiện thêm điều
gì về giá trị của tuyên bố nói trên của TQ. Trước nhất, hãy xét đảo Tri Tôn là đảo gần giàn khoan
nhất. Theo những nghiên cứu về địa pháp lí thì đảo Tri Tôn không thể là một đảo
theo điều 121 UNCLOS mà chỉ là đảo đá. Do đó, nó chỉ có lãnh hải 12 hải lí,
không được hưởng EEZ lẫn thềm lục địa . Do đó, dù giàn khoan 981 ở gần đảo Tri
Tôn (17 hải lí và 25 hải lí), nó vẫn nằm ngoài vùng biển mà đảo này có thể được
hưởng theo UNCLOS, tức là vẫn nằm trong EEZ của VN (xem H.3)
Ngoài đảo này ra,
trong quần đảo HS chỉ có đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 2,13 km² (tính luôn
phần TQ mới mở rộng thêm) là có khả năng tạm coi là một đảo theo UNCLOS như đã
nêu. Tuy nhiên, nếu chú ý tới tỉ lệ khoảng cách từ vị trí giàn khoan 981 tới bờ
biển VN và tới đảo này là 103 hl:132 hl (≈1:1,3) và 88 hl:153 hl (≈1:1,74) thì
hai tỉ lệ này quá lớn so với tỉ lệ 1:3 trong vụ Nicaragua và Colombia vừa nêu.
Đặc biệt 2 tỉ lệ này cũng lớn hơn nhiều so tỉ lệ điều chỉnh 15 hl:55 hl (≈1:3.7)[8] dành
cho đảo Bạch Long Vĩ (có diện tích tương đương với Phú Lâm và nhất là thoả mản
chế độ đảo của theo điều 121 UNCLOS) mà VN và TQ đã thoả thuận năm 2000. [9] Ngoài ra, đáng lưu ý rằng đảo Phú Lâm không có nước ngọt, phải nhờ vào việc tích
trữ nước mưa và nước ngọt đưa từ Hải Nam tới để sinh hoạt[10] cùng với điều kiện đất trồng thiếu thốn và cư dân tạm bợ như thị trưởng Tam Sa
thú nhận như đã nêu. Do đó, khó có cơ sở để cho rằng nó có thể ‘duy trì được sự cư trú của con người và có đời
sống kinh tế riêng’ để được hưởng quy chế đảo như quy định trong điều 121
UNCLOS như chúng ta giả định. Như vậy, khá chắn chắn để nói rằng theo UNCLOS, tập
quán và các án lệ quốc tế thì chỗ TQ đặt giàn khoan 981 (trước và sau) đều nằm
trong EEZ của VN.
H.3: tỉ lệ khoảng cách từ 981 đến Phú Lâm và đến bờ biển
đất liền VN 88:153 (hay tới đảo Lí Sơn 88:141) khó cho phép giàn khoan nằm
trong EEZ, nếu có của đảo Phú Lâm.
Theo phân tích trên,
rõ ràng TQ đã hết sức hồ đồ khi nói rằng dù “phân định ranh giới theo nguyên tắc gì, vùng biển này đều không
thể trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.”
Họ đã hoàn toàn phớt lờ luật pháp,
thông lệ quốc tế và ngay cả luật pháp của chính họ[11]. Nếu
TQ tin chắc rằng câu phát biểu này là đúng thì hãy rút lại tuyên bố ngày
25/8/2006 vể việc không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp theo quy định
của điều 298 UNCLOS[12],
gác vấn đề chủ quyền để giải quyết sau và cùng VN ra toà án quốc tế nhờ phân xử
về hiệu lực của quần đảo HS để làm sáng tỏ ‘chính nghĩa’ của mình. Liệu TQ có
dám thực hiện điều này không?
Phan Văn Song (CTV Quỹ NCBĐ)
Bài
viết được sự góp ý của Dương Danh Huy (TV Quỹ NCBĐ)
[1] Xem BNG TQ http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1163264.shtml (tiếng Anh) hoặc Tiếng
hát hữu nghị http://vietnamese.cri.cn/481/2014/06/09/1s199588.htm (tiếng Việt)
[2] Xem Jayewardene, Hiran W. The Regime of Islands in
International Law, Dordrecht: Martinus Nijhoff (1990).
[3] Tỉ lệ độ dài bờ biển tương ứng là 65 km:531 km ≈ 1:8,2. Các
thể địa lí ở HS đều nhỏ hơn nhiều và chỉ có một số ít có thể được tính nên tỉ lệ
bờ biển của HS với độ dài bờ biển VN tương ứng có nhiều khả năng cũng không
chênh lệch lớn với tỉ lệ này.
[5] Theo điều 47 UNCLOS thì các quốc gia quần đảo như Philippines, Indonesia… có
thể vẽ đường cơ sở thẳng cho quần đảo.
[6] Xem Geoff A. Dyer, “A line with nine dashes” http://www.viet-studies.info/kinhte/LineWithNineDashes_Dyer.htm, bản dịch tiếng
Việt ở đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7384
[7] Điều 121 Công ước LHQ về Luật biển
quy định về Chế độ đảo như sau:
1.
Đảo (island) là một vùng đất
hình thành tự nhiên có nước bao bọc xung quanh, nổi trên mặt nước khi triều cao.
2.
Ngoại trừ [trường hợp] như
quy định trong điểm 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của đảo được xác định theo đúng các quy định trong Công ước
cho lãnh thổ đất liền khác.
3.
Đảo đá (rock) không thích hợp cho việc cư trú của con người và không có đời
sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa..
[8] Theo các thông tin chính thức đảo Bạch Long Vĩ được 25%
hiệu lực hay tỉ lệ điều chỉnh là 1:3 (có thể do đo đạc chưa thật chính xác hoặc
muốn cho thấy rằng thoả thuận này là khá công bằng).
[9] Nếu dùng khoảng cách từ giàn khoan tới đảo Lí Sơn (như trong
vụ Nicaragua và Colombia) thì các tỉ lệ có được còn lớn hơn nhiều nữa (103 hl:119
hl ≈ 1:1,15 và .88 hl:141 hl ≈ 1:1,6).
[10] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Woody_Island_(South_China_Sea) (phần Ecology and resources).
[11] Đoạn 3 Điều 2 của luật trong luật
về EEZ và CS của TQ năm 1998 nêu: “Các yêu sách mâu thuẫn liên quan đến
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề sẽ được giải quyết, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với các nguyên tắc công bằng (người
viết nhấn mạnh), bởi một hiệp định phân định cho các khu vực yêu sách đó.”
No comments:
Post a Comment