Biện pháp đối phó với vụ Trung Quốc mang giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
(Bài đã đăng trên Tia Sáng http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7496 15/05/2013 với tựa như trên)
Trong vụ
Trung Quốc (TQ) mang giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (VN),
thử xét cơ sở lập luận của mỗi bên để chúng ta có thể có biện pháp đối phó
thích đáng.
1. Theo
TTX
Việt Nam trong vụ TQ đưa giàn khoan khủng tới gần đảo Tri Tôn,
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định "Vị trí tọa
độ hoạt động của giàn khoan HD-981 nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự
Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt
Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lí. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch
sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc
về Luật Biển 1982."
Phát biểu này dựa trên cơ sở là
vị trí điểm đặt giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lí của
Việt Nam (cụ thể, như bản đồ cho thấy, cách đảo Lí Sơn khoảng 119 hải lí và
cách đường ranh EEZ khoảng 80 hải lí).
(Bản đồ tạo từ file
kmz có thể tải về máycá nhân để mở trên Google Earth ở đây: https://www.dropbox.com/s/67521dpzdihe0wz/HD-981.kmz)
Lưu ý thêm rằng đường ranh giới
EEZ 200 hải lí của VN (đường màu hường) đã được vẽ theo đúng các toạ độ nêu trong
hồ
sơ VN nộp Uỷ ban ranh giới thềm lục địa LHQ ngày 6/5/2009.
Đường này dừng lại ở điểm cách đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa lần lượt khoảng 60,
70 hải lí. Do đó, có vẻ quan điểm của chính phủ VN là các đảo ở đây không được
hưởng hoặc chỉ hưởng một phần hiệu lực EEZ về phía VN hay TQ. Nếu trường hợp
sau là đúng thì phần sau của phát biểu trên có thể hàm ý rằng vị trí đó còn nằm
trong vùng biển mà Việt Nam có thể được hưởng theo quy định của Công ước về luật
biển (UNCLOS) từ một[/nhiều] đảo/đá của quần đảo Hoàng Sa và do quần đảo Hoàng
Sa thuộc về Việt Nam (cụ thể là nằm trong EEZ của đảo Hoàng Sa hay đảo Phú Lâm -
hai đảo có tiềm năng thoả định nghĩa đảo theo UNCLOS[1] nhất).
2. Trong
khi đó, theo VN
Express, để biện hộ cho việc triển khai giàn khoan 981 người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng “[c]ác công việc liên
quan đang nằm hoàn toàn trong khu vực thuộc quần đảo Tây Sa."
Trước nhất, lưu ý rằng TQ đã tuyên
bố đường cơ sở của quần đảo Hoàng Sa (đường đa giác màu hường
nhạt) khi phê chuẩn UNCLOS ngày 15/5/1996, và từ giữa thập niên 1980 sau khi
chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa khá lâu (hơn 10 năm) TQ có vẻ tự tin là
quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về họ[2].
Theo đó, có nhiều khả năng là phát biểu của Hoa Xuân Oánh dựa trên cơ sở là vị
trí giàn khoan (cách đảo Tri Tôn khoảng 17 hải lí) nằm bên trong EEZ của quần đảo
Hoàng Sa theo cách tính của họ cũng từ đường cơ sở này và hơn nữa không vượt
quá trung tuyến của Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa như VLIZ (Viện nghiên cứu biển Flanders – Bỉ) vẽ ra trong bản đồ trên[3] (với
giả định là cả hai phía đều có EEZ và có hiệu lực như nhau). Tuy nhiên, cơ sở
này có tiền đề không vững vì đường cơ sở thẳng mà họ vạch ra không phù hợp
UNCLOS do TQ không phải là nước quần đảo.[4]
Thứ hai, cũng có khả năng TQ
tin rằng với những thay đổi nhân tạo mà họ đã thực hiện trên quần đảo Hoàng Sa,
đặc biệt là ở đảo Phú Lâm thì ít ra đảo này đã thoả đầy đủ điều kiện theo định
nghĩa của điều 121 UNCLOS, tức là có EEZ và EEZ này có hiệu lực đủ[5] để
bao gồm luôn vị trí đặt giàn khoan 981 (cách nó khoảng 103 hải lí). Do đó, đây
có thể là một cơ sở vững hơn cho tuyên bố của họ dù tính chất đảo của Phú Lâm vẫn
còn là nghi vấn.
Thứ ba, chắc chắn họ cũng đã thấy
vị trí giàn khoan cách đảo Hải Nam khoảng 183 hải lí, tức là cũng nằm trong EEZ
200 hải lí và thềm lục địa của đảo này. Đây là một cơ sở vững vàng nhất theo
UNCLOS. Tuy nhiên, họ chưa nói ra có thể vì vị trí giàn khoan chỉ cách Lí Sơn
khoảng 119 hải lí và bờ biển VN khoảng 132 hải lí, tức là dù tính từ Lí Sơn hay
từ bờ biển VN thì điểm đó vẫn nằm trong sâu trong EEZ của VN hơn nhiều so với trong
EEZ của Hải Nam. Do đó, nếu nêu điều này ra họ sẽ bị thất lợi vì vị trí giàn
khoan rõ ràng đã vượt quá trung tuyến[6]
vào EEZ phía VN, và hơn nữa họ cũng bỏ lỡ dịp để khẳng định lại chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa và đường cơ sở trái phép của họ.
Ngoài ra, để ý rằng vị trí giàn
khoan cũng nằm hoàn toàn trong đường ‘lưỡi bò’ và tiến sĩ Ian Storey, thuộc
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore có bình luận trên BBC rằng
"Việc TQ cho đặt giàn khoan trên thềm lục địa của VN là chỉ dấu rằng
Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường
chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của
quốc gia khác hay không." Tuy nhiên, chúng ta không thấy họ đá động gì tới
đường này dù từ trước tới nay họ vẫn tuyên bố TQ có chủ quyền không tranh cãi đối
với các đảo/đá và các vùng biển liên quan bên trong đường này. Điều này có thể do
họ không muốn công luận đào sâu ĐLB có nhiều vấn đề này vốn đã bị rất nhiều học
giả phê phán.
3.
Để ý rằng hiện nay hai nước chưa có thoả thuận về phân giới
biển bên ngoài vịnh Bắc Bộ nên dĩ nhiên bên nào cũng có quyền yêu sách tối đa
quyền được hưởng của mình.[7]
Theo phân tích trên, dù có dựa vào chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay
không thì tuyên bố của bên nào cũng có vẻ đã theo UNCLOS (dù khác nhau về mức độ
hợp lí và công bằng). Như vậy, thuần tuý về mặt pháp lí thì vị trí giàn khoan nằm
trong vùng chồng lấn, ít ra về EEZ của hai bên, tức là nằm trong khu vực tranh chấp theo như tuyên bố của
hai bên. Theo luật quốc tế thì không bên nào được thực hiện các hoạt động thăm
dò, khai thác kinh tế trong các khu vực có tranh chấp. Vì thế, nếu TQ không rút
giàn khoan ra ngoài và hai bên không thương lượng được về cách phân giới biển ở
đây thì với thực tế là nước nhỏ, VN chỉ còn có cách là đưa vụ việc ra trọng tài
quốc tế phân xử và nhân cơ hội tranh thủ tìm cách giải quyết vấn đề chủ quyền của
quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 của UNCLOS để
tránh việc áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho một số loại
tranh chấp nên trọng tài UNCLOS không có thẩm quyền để phán quyết vùng biển đó
thuộc về bờ biển hay đảo nào. Dù vậy, trọng tài vẫn có thẩm quyền công nhận có
tồn tại tranh chấp trong khu vực đó bất chấp vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng
Sa, tính chất các đảo đá, hiệu lực được hưởng…như thế nào. Khi đó, TQ sẽ không
được đơn phương khoan dầu khí ở đó. Từ đó, với sức ép ngoại giao và công luận
quốc tế, hi vọng họ sẽ rút giàn khoan ra khỏi khu vực và không tái diễn hành động
ngang ngược này trong tương lai.
Dĩ nhiên,
đây chỉ là một biện pháp trước mắt để trục giàn khoan TQ ra khỏi EEZ của VN và
hiệu lực còn tuỳ vào thái độ của TQ. Tuy nhiên, đây cũng là một bước tiến tích
cực trong vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vì khu vực này được chính thức
công nhận là có tranh chấp mà TQ không thể chối bỏ như hiện nay.Điều này có thể
có tác dụng ngăn ngừa các hành động ‘thực thi chủ quyền’ tương tự của TQ, kể cả
các hành động như quấy rối ngư dân, tàu thuyền, đơn phương cấm đánh bắt cá...
trong khu vực này trong tương lai.
Phan Văn Song (CTV Quỹ NCBĐ)
Bài viết được ý kiến đóng góp của ông Dương Danh Huy (TV
Quỹ NCBĐ)
[1] Điều 121 Công ước LHQ về Luật biển quy định
về đảo và đảo đá như sau:
1.
Đảo
(island) là một vùng đất hình thành tự nhiên có nước bao bọc xung quanh, nổi
trên mặt nước khi triều cao.
2.
Ngoại trừ [trường hợp] như quy định trong
điểm 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của đảo được xác định theo đúng các quy định trong Công ước cho lãnh thổ đất liền
khác.
3.
Đảo đá (rock) không thích hợp cho việc cư trú của con người và không có đời sống
kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa..
[2] Từ năm 1980 trở về trước, TQ còn đưa ra
các tuyên bố, tài liệu chứng minh chủ quyền Hoàng Sa thuộc về họ, cụ thể như
tài liệu CHINA’S INDISPUTABLE SOVEREIGNTY OVER THE XISHA
AND NANSHA ISLANDS công bố
ngày 30/1/1980… Sau đó thì họ chỉ còn thừa nhận có tranh chấp ở quần đảo Trường
Sa và phủ nhận có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa.
[3] Thật ra, quần đảo Hoàng Sa khó có thể được
hưởng EEZ theo UNCLOS, thậm chí các đảo có tiềm năng là đảo theo định nghĩa
UNCLOS như Phú Lâm, Hoàng Sa có được EEZ hay không và nếu có thì hiệu lực tới mức
nào vẫn là các câu hỏi không dễ trả lời.
[4] Theo Quy định của UNCLOS thì những quốc gia quần đảo (như
Philippines, Indonesia…) mới có thể vẽ đường cơ sở bằng cách nối những điểm nằm
ngoài cùng trên cáo đảo/đá xa nhất lại với nhau (theo một số ràng buộc nhất định).
[5] Theo các án lệ từ trước tới nay việc phân
giới biển giữa đất liền và đảo nhỏ thường dùng trung tuyến có điều chỉnh (chú ý tới độ dài hai bờ biển đối diện và
các yếu tố có ảnh hưởng khác) ví dụ trong vụ Nicaragua kiện Columbia, toà dùng
tỉ lệ 3:1 giữa các điểm cơ sở của hai bên. Do đó, việc đảo Phú Lâm được hưởng
thậm chí ½ hiệu lực (nếu quả là đảo theo
UNCLOS) cũng là điều rất đáng ngờ.
[6] Trong trường hợp các nướccó bờ biển liền
kề hay đối diện có vùng biển được hưởng chồng lấn thì theo thông lệ quốc tế
cũng như các án lệ đã có, người ta dùng trung tuyến làm đường phân giới.
[7] Thật ra, điểm 1 điều 74 UNCLOS có quy định: “Việc hoạch định ranh giới vùng đặc
quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau được thực
hiện bằng con đường thỏa thuận theo
đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để
đi đến một giải pháp công bằng.”
Chính Luật về EEZ và thềm lục địa của TQ ngày 26/6/1998 (đoạn 3 trong điểu
2) cũng có nêu: “Các mâu thuẫn liên quan đến EEZ và thềm lục địa của nước
CHNDTH và các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề sẽ được giải quyết, trên cơ
sở luật pháp quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng, bởi một hiệp định
phân định cho các khu vực tuyên bố.” Do đó, đòi hỏi tối đa 200 hải lí ở vùng chồng
lấn là đi ngược với luật pháp QT và của chínhTQ
No comments:
Post a Comment