Quân độiTrung Quốc là con rồng giấy
(
Tham nhũng, láng giềng xấu, lạm
phát và bom nổ chậm dân số - đó chỉ là một vài trong số nhiều tai hoạ của Bắc
Kinh
Bề ngoài thì nó rất hùng mạnh,
nhưng trên thực tế nó chẳng là thứ gì để sợ - nó là con cọp giấy. - Mao Trạch
Đông nói về Hoa Kì, năm 1956
Sự trỗi
dậy củaTrung Quốc (TQ) trong 30 năm qua đã không có thứ gì mà không ngoạn mục.
Sau nhiều
thập niên tăng trưởng với hai chữ số, hiện nay TQ là nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới và có một quân đội ngày càngcó tính kĩ thuật cao, đó là một trong những quân
đội mạnh nhất hành tinh. Mặc dù TQ giáp với một số nước thiếu ổn định nhưng
biên giới của họ lại an toàn.
Điều đó
không phải luôn luôn là như vậy. Trong 2 000 năm, TQ đã phải chịu xâm lược, cách mạng
và làm nhục bởi thế
giới bên ngoài – cộng với những cuộc nổi loạn
trong nước. Nó đã bị hành hạ, chinh phục và chiếm làm thuộc địa.
Không
còn những điều đó nữa. Chi tiêu quốc phòng TQ đã tăng gấp 10 lần trong vòng 25
năm. Bắc Kinh đang xây dựng một lực lượng hải quân biển xanh hùng mạnh, phát
triển máy bay chiến đấu tàng hình và cẩn thận thử nghiệm các hoạt động gìn giữ
hòa bình và các nhiệm vụ ở nu71c ngoài.
Việc
phát triển quân đội của TQ, cùng với chính sách đối ngoại hung hăng, đã gợi ra từ
một số khá lớn báo động ở phương Tây. Một số nhà hoạch định chính sách Mĩ coi Bắc
Kinh là "đối thủ cạnh tranh gần ngang tầm" của Washington - nói cách
khác, nước duy nhất có quân đội có thể thực sự đánh bại quân đội Mĩ trong một số
trường hợp.
Nhưng họ
đã sai. Thậm chí sau nhiều thập niên tái vũ trang tốn kém, TQ vẫn là con rồng giấy
- nói theo cách Mao Trạch Đông nhận định sai về Hoa Kì ... vào năm 1956.
Ngân
sách quân sự của TQ đã tăng trưởng hai chữ số năm này qua năm khác, nhưng lạm
phát đã ăn mòn các gia tăng này. Quân đội, hải quân, không quân và đội quân tên
lửa của TQ đang bị tàn phá bởi tham nhũng và vũ khí của họ, nói chung, vẫn còn
rất thấp kém hơn vũ khí tương đương của phương Tây.
Vâng,
Quân đội Giải phóng nhân dân (PLA) đang dần trở thành tiên tiến về công nghệ
hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là Bắc Kinh có thể huy động lực lượng vũ
trang cho các sứ mạng toàn cầu. Không giống như các cường quốc có khả năng thực
hiện sứ mệnh ở nước ngoài chủ yếu của thế giới – như Hoa Kì và Vương quốc Anh, chỉ
nêu ra hai tên – TQ bị bao quanh bởi
những kẻ thù tiềm năng.
Nga, Nhật
Bản và Ấn Độ đều là các nước láng giềng... đồng thời là kẻ thù lịch sử. Chính
sách đối ngoại hung hăng của TQ nhắm vào các nước nhỏ hơn không khuyến khích sự
tuân phục mà là sự kháng cự, chẳng hạn các nước như Philippines và Việt Nam liên
minh với Hoa Kì, Nhật Bản và Ấn Độ.
Các láng
giềng khác của TQ là những nước yếu kém hoặc thất bại, như Pakistan và Bắc Triều
Tiên. Sự thiếu ổn định - hoặc sự hoàn toàn sụp đổ của họ - có thể có ảnh hưởng
an ninh nghiêm trọng cho TQ, và giúp giải thích tại sao Bắc Kinh phung phí nhiều
vốn liếng vào các lực lượng vũ trang của họ.
Trật tự của cuộc chiến
Trung Quốc
có quân đội lớn nhất thế giới, với không ít hơn 2,3 triệu nam nữ mặc đồng phục.
800.000 người khác phục vụ trong lực lượng dân quân và dự bị của TQ.
Các lực
lượng trên bộ của PLA lên tới 1,25 triệu lính nam nữ chia thành 18 quân khu, mỗi
quân khu tương tự như một quân đoàn của Mĩ.
Mỗi quân khu gồm 3-5 sư đoàn bộ binh và cơ giới - TQ chỉ có một sư đoàn xe tăng.
Các lực
lượng trên bộ chủ yếu là cho phòng thủ đất nước. Để triển khai sức mạnh ra bên ngoài biên giới, TQ có ba sư đoàn
không quân, hai sư đoàn lính thuỷ đánh bộ và ba lữ đoàn hải quân. Thiết bị
chính bao gồm hơn 7 000 xe tăng và 8 000 khẩu pháo.
Hải quân
TQ chỉ huy 255 000 lính thủy và 10 000 lính thuỷ đánh bộ. Hải quân
Quân đội Giải phóng nhân dân (PLAN) được chia thành ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải
và Nam Hải, có tổng cộng một tàu sân bay, 23 tàu khu trục, 52 tàu khu trục, 49
tàu ngầm tấn công động cơ diesel và 5 tàu ngầm tấn công hạt nhân.TQ có ít nhất
ba tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Tấn (Jin –class), tiêu biểu cho rào cản hạt
nhân của Bắc Kinh trên biển.
Không
quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAAF) có 330 000 nhân viên hoạt động
trải ra trên 150 căn cứ không quân và hải không quân. PLAAF và cánh tay hải không
quân của PLAN có tất cả 1 321 máy bay chiến đấu và máy bay tấn công, bao gồm
hàng trăm J -7 - cộng với 134 máy bay ném bom hạng nặng và chở dầu và 20 máy
bay cảnh báo sớm trên không. TQ cũng vận hành hơn 700 máy bay trực thăng chiến
đấu.
Độc nhất
đối với quân đội TQ là Quân đoàn pháo binh thứ hai, một nhánh biệt lập của quân
đội phụ trách tên lửa thông thường và hạt nhân trên đất liền. Quân đoàn pháo
binh thứ hai có từ 90 000 đến 120 000 nhân viên chia thành 6 lữ đoàn tên
lửa.
Quân
đoàn pháo binh thứ hai có hơn 1 100 tên lửa đạn đạo tầm ngắn thông thường với
tầm bắn 1 000 km hoặc gần hơn, khoảng 300 tên lửa đạn đạo tầm trung thông
thường khác và khoảng 120 tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm xa.
Viện
Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm ước tính ngân sách quốc phòng của TQ năm
2013 là $
188 tỉ. Con số đó bằng khoảng 9 % chi phí quân sự toàn cầu và gần một nửa của
toàn bộ chi tiêu ở châu Á. Cùng năm đó, Mĩ đã chi $ 640 tỉ về quốc phòng, Nga $
88 tỉ, Ấn Độ $ 47 tỉ và Nhật Bản $ 48 tỉ đồng.
Vâng,
chi tiêu của TQ có vẻ như rất nhiều. Nhưng không như vậy, thật thế– nhất là xét
về góc độ TQ có thể nguy hiểm đến mức nào.
Vị trí không thể ganh tị
Có thể
là khó khăn để đi bộ qua khu phố thịnh vượng nhất của Bắc Kinh hay đường phố lấp
lánh của Thượng Hải và hiểu rằng bạn đang ở trong một quốc gia giáp ranh với ba
trong những nơi bất ổn nhất trên thế giới - Pakistan, Afghanistan và Bắc Triều
Tiên.
Sau hàng
ngàn năm bị xâm nhập và xâm lược, TQ cuối cùng đã xây dựng biên giới vững mạnh.
Bắc Kinh đang làm tốt công việc duy trì hòa bình và thịnh vượng tương đối trong
một khu lân cận nghèo nàn, hỗn độn.
"Biên
giới đất liền của TQ chưa bao giờ được an toàn như bây giờ," M. Taylor Fravel, giáo sư khoa học chính trị
tại Viện Công nghệ Massachusetts, nói với War is Boring.
"Mặc
dù tranh chấp với Bhutan và Ấn Độ vẫn còn đó, TQ không còn phải đối mặt với viễn
cảnh của một mối đe dọa lớn trên đất liền," Fravel tiếp tục. "Các vụ
đụng độ có thể xảy ra trên biên giới với Ấn Độ, nhưng chúng sẽ bị kềm chế bởi địa
lí và khó có khả năng leo thang thành một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn."
Điều đó
không phải lúc nào cũng như vậy. Bị xâm chiếm bởi Mông Cổ, Nga, thực dân phương
Tây và gần đây nhất là Nhật Bản, TQ phải chịu đau khổ rất nhiều dưới bàn tay của
người ngoài cả thiên kỷ. Trong điều kiện lịch sử như thế, việc Bắc Kinh muốn quốc
phòng mạnh mẽ là điều hiểu được.
Việt Nam
đã đánh nhau với TQ vào năm 1979 và làm thiệt mạng 9 000 lính PLA chỉ trong
một tháng. Nhật Bản chiếm đóng TQ trong những năm 1930 và 40 đã giết chết hàng
triệu người TQ. Ấn Độ đã đánh nhau với TQ gần đây nhất là năm 1962. TQ và Nga
tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố ngắn vào năm 1969.
Trung Quốc
giáp ranh 14 nước, với Nga bao bọc hầu hết vùng biên. Nhưng trong khi nhiều nước
láng giềng của Nga là hòa bình - Estonia, Phần Lan, Na Uy và Latvia…- TQ giáp ranh
với Afghanistan, Bắc Triều Tiên, Myanmar và Pakistan. Hai trong số các quốc gia
này lại có vũ khí hạt nhân.
Bắc Triều
Tiên là đặc biệt nguy hiểm. Không những họ tiến hành ngoại giao qua bạo lực bốc
đồng mà lại còn có vũ khí hạt nhân. Không ai biết khi nào hoặc liệu - chính phủ
Bắc Triều Tiên sẽ sụp đổ hay không, nhưng ý tưởng về 24 triệu người đói khổ ở
đó đột nhiên thấy mình không có chính quyền là một trong những đáng sợ đối với
Bắc Kinh.
Năm
ngoái chúng tôi phát hiện TQ có kế hoạch dự phòng để đối phó với một Bắc Triều
Tiên sau sụp đổ. Điều đó có khả năng sẽ liên quan đến việc quân đội TQ tiến vào
Bắc Triều Tiên để thiết lập một vùng đệm. Có lẽ để phản ứng đối với việc tiết lộ
này, Bình Nhưỡng mô tả Bắc Kinh như một "tên
tráo trở, một kẻ thù."
Trung Quốc
đang trải qua một thời kì dài hòa bình và thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử
hiện đại của nó. Đồng thời, các cơn đau đầu về láng giềng cũng nhiều hơn bao giờ
hết. Đó là một lí do chính đáng cho ngân sách quân sự của TQ là $ 188 tỉ một
năm và tăng lên.
Tàu chiến Nga và TQ chuẩn bị cho tập trận hải quân chung
Hoàn toàn đơn độc
Đồng thời,
TQ đang thiếu đáng kể đồng minh thực sự, đáng tin cậy.Chỉ riêng ở Thái Bình
Dương, Hoa Kì có thể trông cậy Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Hàn Quốc, New Zealand và
Philippines như là những đồng minh thân cận - và duy trì quan hệ thân mật với các
nước khác trong đó có Malaysia, Việt Nam và Indonesia.
Trái lại,
danh sách các đồng minh ở Thái Bình Dương của TQ rất ngắn ngủi. Chỉ là Nga.
Trên toàn cầu, đồng minh của TQ có Pakistan, Zimbabwe, Venezuela và các nước
thuộc Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải - Pakistan,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Tất cả đều là những nước chuyên
chế hoặc gần chuyên chế, nhiều nước không ổn định và nhiều nước có hồ sơ dài về
vi phạm nhân quyền.
Bắc Kinh
bảo bọc các láng giềng tồi tệ nhất một phần là để giữ họ trong vòng kiểm soát.
Điều này có hiệu quả với Pakistan, nhưng không thành công với Bắc Triều Tiên. Tại
Miến Điện, TQ nồng ấm lên với chế độ quân sự áp bức chỉ vì nó đột nhiên mở ra
và tìm kiếm các mối quan hệ với phương Tây và Nhật Bản. Cái ‘được’ của TQ là
nhiều năm bị lên án vì ủng hộ cho chính quyền quân sự - đó thật ra là chỉ lỗ nặng.
Tuy
nhiên, chỗ mà TQ thực sự thất bại chỉ
đơn giản là không thuận thảo được với các nước lân cận. Trước cuộc đối đầu gần
đây với Philippines ở Ayungin
Shoal (bãi Cỏ Mây), mối quan hệ giữa Manila và Bắc Kinh chưa lúc nào tốt ra.
Điều tương tự cũng xảy ra cho phần lớn khu vực Đông Nam Á trước khi TQ tuyên
bố chủ quyền đối với 90 % biển Đông.
Thậm chí
quan hệ với Nhật Bản, kẻ thù lịch sử củaTQ, chỉ nồng ấm nếu phẳng lặng.
Vào khoảng
năm 2010, Bắc Kinh đã quyết định ngừng chơi đẹp.TQ bắt đầu theo đuổi các yêu
sách lãnh thổ nằm yên đã lâu và cố hết sức mình để tách rời liên minh giữa Nhật
Bản và Mĩ. Quan hệ củaTQ với khá nhiều nước trong khu vực Đông và Đông Nam Á đã
thành lạnh nhạt.
Thật khó
để nói TQ thật sự muốn đạt được. điều gì. Một số người cho rằng TQ đang cố để
"Phần Lan hoá" các nước châu Á nhỏ hơn - nghĩa là, đe dọa họ bàytỏ sự
trung lập để chối bỏ họ đối với người Mĩ. Những người khác lập luận rằng TQ muốn
lấy những vùng lãnh thổ tranh chấp đó mà về cơ bản còn có vấn đề với việc đối xử
các nước khác như những nước bình đẳng.
Dù như
thế nào, hành động gần đây của TQ đã khiến cho nó hầu như không có bạn bè. Hiệm
nay những mối quan hệ quan trọng nhất của TQ với các nước khác trên thực chất chỉ
là về kinh tế.
Điều này
có tác động rõ ràng đối với tư thế quân sự của TQ. Trong khi Hải quân Hoa Kì có
thể đi khắp Thái Bình Dương và thực tế ghé vào hàng chục cảng, thì tàu chiến của
TQ chỉ có thể chạy bên ngoài lãnh hải của họ, và ngoài cảng Vladivostok của Nga
ra không có nơi nào khác để đi.
Điều này
đặt TQ vào thế bất lợi chiến lược to lớn. Bắc Kinh không có đồng minh để cung cấp
căn cứ, chia sẻ gánh nặng, trao đổi tình báo, trợ giúp tinh thần.
Chạy đua với lạm phát
Từ năm
1990, chi tiêu quốc phòng củaTQ đã tăng lên ít nhất 10 % mỗi năm, kết quả của một
sự gia tăng ngân sách tổng thể gấp 10 lần chỉ trong 24 năm. Một số nhà quan sát
trỏ vào chi tiêu quân sự dường như rất lớn củaTQ như là bằng chứng về ý định
nham hiểm.
Nhưng sự
gia tăng ngân sách gần như không lớn như nó có vẻ.
Tăng trưởng
kinh tế củaTQ trong hai thập kỉ rưỡi qua là đột biến, và đã cho phép nước chi
tiêu nhiều hơn cho một quân đội hiện đại. Nhưng khi xét như là một tỉ lệ của nền
kinh tế, ngân sách quốc phòng của TQ là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Và nếu để
ý tới thêm lạm phát, gia tăng thực tế của TQ trong chi tiêu quốc phòng thực sự
là chỉ theo một chữ số mỗi năm - khó là một khối lượng lớn tiền mặt như những
người hay lo lắng la lên.
Điều
quan trọng là xem chi phí vũ khí của TQ trong bối cảnh lịch sử. Một phần tư thế
kỉ trước, quân đội của Bắc Kinh lớn và công nghệ thấp. Năm 1989, quân đội TQ đã
có 3,9 triệu
người trên sổ lương – phần lớn bộ binh thiếu xe cộ và vũ khí tinh vi. Xe
tăng chính của quân đội là một phiên bản của kiểu T-55 Liên Xô, một thiết kế thời
những năm đầu thập niên 1950.
Không
quân và hải quân chỉ có khả năng bảo vệ bờ biển.TQ đã có một tàu ngầm tên lửa hạt
nhân duy nhất, mà theo lời đồn đại đã bốc cháy và chìm tại cảng.
Trung Quốc
là một nước nghèo. GDP là $ 451tỉ. So sánh với GDP của Mĩ năm 1989 là $ 8,84 tỉ.
Năm đó, Bắc Kinh chi $
18,33 tỉ cho quốc phòng. So sánh cùng năm đó, Nhật Bản chi $ 46,5 tỉ và New
Zealand nhỏ bé chi $ 1,8 tỉ.
Ngân
sách quốc phòng của TQ năm 1989 lên tới mức chi tiêu $ 4 615 cho mỗi người
lính. Cùng lúc đó, Mĩ chi 246 000 $ cho mỗi cá nhân thành viên quân đội.
Trong những
năm cuối thập niên 80, học thuyết quân sự TQ vẫn nhấn mạnh: "Chiến tranh nhân dân",
một chiến lược phòng thủ lôi kéo kẻ địch vào sâu bên trong TQ và sau đó hủy diệt
với chiến tranh thông thường và du kích. Điều đó được dựa trên kinh nghiệm chiến
tranh củaTQ... và hoàn toàn không còn thích hợp.
Năm
1991, Bắc Kinh ngắm nhìn trong cơn sốc và kinh khiếp khi liên minh do Mĩ dẫn đầu
dễ dàng đập tan quân đội Iraq của Saddam Hussein và tống nó ra khỏi Kuwait. Một
chiến dịch không quân kéo dài vài tuần và một cuộc tấn công trên bộ chỉ kéo dài
100 giờ đã hủy diệt một lực lượng Iraq vượt trội về số lượng.
Đột
nhiên, quân đội to lớn nghèo nàn của TQ trông giống như một gánh nặng.
Bắc Kinh
đã có rất nhiều việc phải làm trong việc cải cách lực lượng vũ trang. Điều đó
đòi hỏi tiền của. Tin tốt cho TQ là nhờ vào một nền kinh tế đang bùng nổ nên thật
ra không phải dành một tỉ lệ lớn hơn trong sản lượng quốc gia cho quốc phòng để
đầu tư nhiều hơn cho quân lính có năng lực và các loại vũ khí hiện đại.
Một cách
để nhìn vào chi tiêu quốc phòng là xem dưới dạng như là một tỉ lệ phần trăm
GDP. Các láng giềng chính của TQ, ngoại trừ Nhật Bản, phân bổ nhiều hơn cho
quân đội của họ như là một tỉ lệ phần trăm của GDP tương ứng. Ấn Độ dành ra 2,5
%, Hàn Quốc 2,8 % và Nga 4,1 %. Hoa Kì, với quân đội trang bị tốt nhất trên
hành tinh, dành 3,8 % GDP cho quốc phòng.
Nghịch lí
ngân sách quân sự của TQ là chi tiêu vẫn tăng lên ngay cả khi phần chia cho quốc
phòng trong nền kinh tế giảm xuống. Như là một tỉ lệ phần trăm của nền kinh tế,
chi tiêu vũ khí của TQ thật ra đã giảm hơn 20 % một ít. Bắc Kinh đã chi 2,6 %
GDP cho quốc phòng trong năm 1989. Từ năm 2002 đến năm 2010, họ dành trung bình
là 2,1 %. Trong năm 2013, ngân sách quân sự của TQ chỉ chiếm 2 % GDP.
Phần của
chiếc bánh kinh tế mà quân đội TQ nhận được nhỏ hơn. Chỉ có điều là tự chiếc
bánh đã lớn, lớn hơn rất nhiều so với 25 năm trước đây.
An ninh công cộng
Theo một
số tính toán, năm 2013 TQ đã chi cho "an
ninh công cộng" - kiểm duyệt Internet, thực thi pháp luật và Cảnh sát
bán quân sự vũ trang nhiều hơn chi cho phòng vệ bên ngoài. Ngân sách an ninh nội
bộ của TQ trong năm 2014 là một
bí mật, dẫn đến suy đoán rằng một lần nữa, Đảng Cộng sản TQ đang chi tiêu
nhiều hơn để tự bảo vệ trước người dân của chính họ hơn là chống lại các nước
khác.
Đảng biết
họ đang làm gì. Nhiều người TQ không hài lòng sống dưới một chế độ độc tài toàn
trị. Thiệt hại môi trường, lạm
dụng lao động, tham
nhũng và thu
tóm đất đai có thể - và dễ nhanh chóng leo thang thành bạo loạn.
Bên trên
những điều đó,TQ còn phải đấu tranh với tình trạng bất ổn ở mức độ thấp ở tỉnh Tân
Cương ở xa về phía tây - nơi dân Duy Ngô Nhĩ phẫn nộ bị phần còn lại của TQ
thực dân hoá và ở Tây
Tạng cũng vậy.
Theo hiện
trạng, TQ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải chi tiêu thật nhiều cho
an ninh công cộng. Dù điều đó là xấu cho người dân TQ, nhưng lại thật sự là điều
tốt cho khu vực. Phần lớn sức mạnh quân sự mà Bắc Kinh mua sắm mỗi năm được hướng
vào bên trong và chưa bao giờ triển khai ra bên ngoài.
Muốn sánh
được với chi tiêu quân sự của Mĩ như là một tỉ lệ phần trăm của GDP sẽ đòi hỏi
TQ dành 5,8 % cho việc phòng vệ trong nước và bên ngoài. Đó chỉ là một viễn cảnh
không thực tế. Chỉ có ba quốc gia dành mức nhiều như thế của nền kinh tế cho
quân đội là Ả - rập Xê-út, Oman và Nam Sudan.
Hơn nữa,
những đôla mà TQ chi tiêu cho lực lượng quân sự bên ngoài không kéo dãn quá xa
như hầu hết các nhà quan sát giả định. "Trong suốt nhiều thời kì đổi mới
sau năm 1978, những hiệu quả thực tế trong chi tiêu quốc phòng của TQ trên danh
nghĩa đã bị giảm thiểu rất nhiều bởi lạm phát tràn lan, Andrew Erickson, một
giáo sư tại trường Naval War College Mĩ đã
viết.
Năm
2008, TQ chi cho quốc phòng hơn năm 2007 là 14,9 % . Nhưng tỉ lệ 14,9 % tăng đó
trùng hợp với lạm phát 7,8 %, kết quả là gia tăng ngân sách quân sự ròng chỉ
7,1 %. Năm 2010, chi tiêu quốc phòng tăng 7,8 % và đã bị nuốt chửng bởi một tỉ lệ lạm phát 6,7 %, cho gia tăng ròng chỉ
1,1 %.
Điều chỉnh
theo lạm phát, từ năm 2004 đến năm 2014, chi tiêu quốc phòng của TQ tăng trung
bình 8,3 % theo giá trị thực. Đó là vẫn là khoản tiền rất lớn, đặc biệt là khi chi
tiêu quốc phòng ở hầu hết các nước phương Tây đã giảm xuống. Nhưng ngân sách của
PLA không thật sự gia tăng hai chữ số
như nhiều người hoang mang nêu ra.
'Công ti' PLA, và 'nhà máy sản xuất
cấp bậc'
Tham
nhũng là một vấn đề rất lớn và phần lớn là không thấy được đối với quân đội TQ.
Các quan chức bán tài sản chính phủ để thu lợi nhuận riêng. Nhà thầu thu phí
tăng cao cho công việc dưới tiêu chuẩn. Ô dù, thân quen gây nên tình trạng đề bạt
người không đủ chuẩn.
Trong
nhiều năm qua, quân đội TQ tạo ra thu nhập thêm – qua việc canh tác và chăn
nuôi riêng. Khi nền kinh tế củaTQ cất cánh, những nỗ lực còn tồn tại này phát
triển thành doanh nghiệp. Cùng với canh tác và chăn nuôi, PLA mở thêm khách sạn,
rạp chiếu phim và quán bar - lợi nhuận từ đó thường là lọt vào túi riêng các sĩ
quan trên cùng.
Năm 1998,
Đảng Cộng sản TQ đã ra lệnh cho quân đội TQ cắt đứt quan hệ với các doanh nghiệp
thương mại nhằm nâng cao tính sẵn sàng của quân đội. Một đơn vị bộ binh không cần
phải nuôi lợn riêng cho mình nữa - ngân sách quốc phòng có thể đáp ứng nhu cầu
thực phẩm của quân lính. Các đơn vị có thể tiếp tục làm tốt công việc lính
tráng.
Nhưng
thay vì kết thúc chúng, các lãnh đạo quân sự tham nhũng chỉ việc che dấu các
liên doanh sinh lợi của họ.
Kinh
doanh bán
bất hợp pháp các bảng số xe quân sự cho dân thường giàu có đã là một trong
những ngành kinh doanh đặc biệt hấp dẫn. Người mua bảng số xe – thường là những
dân thường chỉ có quan hệ hời hợt với PLA – gắn đèn hiệu đỏ và còi báo động
trên xe ô tô của họ để giúp họ dễ dàng di chuyển trên đường phố. Những người có
bảng số này thường được xăng miễn phí.
Tình hình
trở nên tồi tệ đến mức vào năm 2013, quân đội TQ cấm các xe nhập khẩu đắt tiền
- Mercedes- Benz, BMW, Porsche và Bentley - có bảng số quân đội.
Bắc Kinh
thỉnh thoảng cũng trừng trị các cán bộ tham nhũng. Năm 2007, một quan toà đã ra
một án tử hình treo cho Phó Đô đốc Vương Thủ Nghiệp (Wang Shouye) vì biển thủ $
25 triệu trong quỹ PLA.
Là phó
giám đốc của Tổng cục Hậu cần của PLA từ năm 1997 đến năm 2001, Wang đã ở chức vị
phê duyệt nhà ở mới cho quân đội. Chính phủ cáo buộc Wang nhận lại quả từ các nhà
thầu.
Cảnh sát
bắt giữ Wang năm 2006 sau khi phó đô đốc từ chối thư tống tiền của một trong
nhiều tình nhân. Các nhà điều tra tìm được hơn $ 8 giấu trong lò vi sóng và tủ
lạnh trong nhà của Wang tại Bắc Kinh và Nam Kinh,và $ 2.5 triệu nữa trong máy
giặt. Có bằng chứng thêm $ 8 triệu nữa trong các quỹ đánh cắp được nằm trong
tài khoản ngân hàng của Wang.
Tháng 3,
công an bắt giữ Từ
Tài Hậu (Xu Caihou), một vị tướng đã nghỉ hưu và cựu uỷ viên Quân Ủy Trung
ương đầy quyền lực, bị cáo buộc đã làm ra hàng triệu đô la qua việc bán chức
trong quân đội. Xu phụ trách việc thăng chức cấp cao trong quân đội từ năm 2004
đến 2013.
Chúng ta
không biết chính xác Xu đã làm ra bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, thuộc hạ của tướng
này là Cốc
Tuấn Sơn (Gu Junshan) - cũng đang bị giam giữ và điều tra – đã cho con gái
Xu một thẻ ngân hàng (debit card) trị giá $ 3,2 như quà cưới.
Gu đã
bán "hàng trăm" chức. "Nếu một đại tá [không nằm trong diện đề bạt]
muốn trở thành một thiếu tướng, ông đã phải trả tới $ 4,8 triệu," một
nguồn tin nói với Reuters.
Đó là một
số tiền lớn. Trong hầu hết các đội quân chuyên nghiệp, hối lộ như vậy sẽ không đáng
giá. Nhưng trong quân đội TQ, một chi trả như thế là một khoản đầu tư. Cấp bậc
của một sĩ quan càng cao thì càng có nhiều cơ hội làm giàu.
Daniel Hartnett, một
nhà phân tích về TQ tại Tổng công ty CNA, nói War is Boring rằng tham nhũng có
thể làm hỏng khả năng quân sự của quân đội TQ, ít nhất bằng "việc cản trở
khả năng của quân đội TQ phát triển sĩ quan của mình."
"Nếu
sĩ quan đang mua chức, như những cáo buộc gần đây, điều có thể có nghĩa là những
người cần được thăng chức do tài đức có thể đã không được đề bạt. Và những người
đang được nâng chức, không nhất thiết phải là có tài" Hartnett nói.
Hối lộ
có thể làm tổn thương PLA theo những cách khác, Hartnett giải thích. "Mặc
dù quá trình mua sắm PLA thường là một hộp đen, sẽ là một kết luận hợp lí rằng
một số - thậm chí có thể nhiều - quyết định mua sắm không nhất thiết được thực
hiện với lợi ích tốt nhất của PLA trong đầu. Mua mặt hàng này, và nhận được một
lại quả, ngay cả khi mặc hàng đó là kém chất lượng hoặc không nhất thiết cần tới.
"
Tham
nhũng cũng có thể tạo ra một vết nứt rộng giữa người dânTQ và PLA. " Nếu
quân đội được coi là một tổ chức tham nhũng, như nó là vậy trong những năm đầu thập
niên 1980 ở TQ, ủng hộ tổng thể cho quân đội TQ có thể bị suy giảm,"
Hartnett nói. "Điều này là quá nặng nề so với những lời tán tụng của quân
đội rằng họ là kẻ gìn giữ danh dự và tính toàn vẹn cho TQ, rằng họ đã làm việc
rất cật lực để phát triển trong hơn hai thập niên vừa qua."
Tinh thần
trong các sĩ quan PLA đã giảm mạnh trong bối cảnh vụ bê bối Cốc Tuấn Sơn. Theo
Reuters. "Nhiều người sợ bị trừng phạt. Những người có thể đi qua nhờ lên
chức thì bất mãn."
Kể từ
khi lên nắm quyền vào năm 2013, Chủ tịch TQ Tập Cận Bình đã nhiều lần được đưa
tin qua việc thúc giục quân độiTQ "chuẩn
bị cho chiến đấu." Điều đó có thể có vẻ hiếu chiến, nhưng nhìn dưới
ánh sáng của vấn đề tham nhũng của PLA, Tập Cận Bình có thể nói với các sĩ quan
ngưng việc kiếm tiền và hãy làm công việc của mình.
"
Không một quốc gia nào có thể đánh bại TQ, " một chính ủy PLA hàng đầu đã
được trích dẫn khi nói trên tạp chí Foreign
Policy (Chính sách đối ngoại). "Chỉ có tham nhũng của chính chúng ta mới
có thể tiêu diệt chúng ta và khiến lực lượng vũ trang của chúng ta bị thua mà
không qua đánh nhau."
Đồ trong nhà bảo tàng
Mặc dù
ngân sách quốc phòng ngày càng tăng, kho vũ khí của TQ vẫn tràn ngập thiết bị lạc
hậu. PLA đang có 7 580
xe tăng chiến đấu chủ lực – nhiều hơn so với quân đội Mĩ. Nhưng chỉ có 450
chiếc trong số xe tăng này thuộc loại 98A và loại 99 - là gần hiện đại, với súng 125 mm, vỏ giáp
composite, hệ thống nhúng hiện đại và hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến.
Tất cả trong
khoảng 5 000 xe tăng M-1 của Mĩ đều hiện đại.
7,130 xe
tăng khác của TQ- một vài trong số đó có hình ở đây – đều cùng là thế hệ sau của
loại xe Liên Xô T- 55 tạo thành lực lượng thiết giáp của Bắc Kinh vào những năm
cuối thập niên 1980... và đã lỗi thời thậm chí ngay lúc đó.
Trung Quốc
cũng có rất nhiều máy bay chiến đấu. Giữa lực lượng không quân Quân đội nhân
dân và cánh không quân của Hải quân Quân đội Giải phóng nhân dân, TQ tự hào có
không ít hơn 1 321 máy bay chiến đấu, một đội máy bay chỉ hơi nhỏ hơn đội
của Mĩ.
Nhưng lực
lượng không quân của TQ tương tự như vậy vẫn duy trì máy bay phản lực chủ yếu
là lỗi thời. Trong số 1 321 máy bay chiến đấu, chỉ có 502 chiếc là hiện đại
-296 chiếc là biến thể của Su-27 của Nga và 206 chiếc J-10 thuộc thiết kế bản địa.
Còn lại 819 máy bay chiến đấu – hầu hết là J-7, J- 8 và Q -5 – thuộc thiết kế thập
niên 1960 được xây dựng trong thập niên 1970. Các máy bay này sẽ không thọ lâu
trong một cuộc chiến tranh nóng.
Lực lượng
hải quân là trong tình trạng tốt nhất, nhưng điều đó không nói lên gì nhiều.
Tàu khu trục của PLAN và tàu khu trục nhỏ là khá mới, nhưng tàu sân bay đầu
tiên Liêu Ninh là một tàu cũ của Liên Xô đóng lại từ những năm 1980. Sau một đợt
tái trang bị 9 năm, Liêu Ninh bắt đầu chạy thử nghiệm trên biển năm 2011.
Liêu Ninh có kích thước bằng một nửa kích
thước của tàu sân bay Nimitz hạng
siêu của Mĩ và sức chở máy bay chỉ bằng một nửa. Vì Liêu Ninh thiếu một máy phóng nên máy bay chiến đấu J -15 của hải
quân TQ phải sử dụng một đoạn đường trượt để cất cánh và điều đó làm giới hạn tải
trọng và tầm hoạt động của chúng. Liêu Ninh thiếu radar và máy bay tiếp nhiên
liệu, những thứ cho phép các tàu mặt bằng của Mĩ sức mạnh chiến đấu tầm xa.
Tàu ngầm
là một lãnh vực có vấn đề khác của PLAN. Hơn một nửa trong số 54 tàu ngầm của TQ
hiện đại có nghĩa là, được đóng trong vòng 20 năm qua. Hạm đội ngầm hiện đại của
Bắc Kinh bao gồm các lớp Thương (Shang),
Hán (Han), Nguyên (Yuan) và Tống (Song).
Tất cả bốn lớp đểu do người TQ đóng. Tất cả đều thua kém rõ rệt so với thiết kế
phương Tây.
Các tàu
ngầm còn lại củaTQ, đặc biệt là những tàu cổ điển lớp Minh của thập niên 1980 là hoàn toàn lỗi thời.
PLAN đã ngưng
sản xuất lớp Thương năng lượng hạt
nhân sau khi chỉ đóng ba chiếc - một dấu hiệu đáng ngại. Hơn nữa, Bắc Kinh đã đặt
hàng với Nga đến bốn tàu ngầm lớp Kalina,
báo hiệu một sự thiếu tin cậy vào các thiết kế tại chỗ.
Nhiều ẩn số chưa biết
Một
trong những dấu hiệu dễ thấy nhất của sức mạnh quân sự của TQ là tất cả thiết bị
(hardware) đều mới, thiết kế và sản xuất tại chỗ. Bắc Kinh đang xây dựng tàu,
máy bay, máy bay không người lái và xe tăng mới mà vẻ bên ngoài, dường như sánh
được với vũ khí của phương Tây. Nhưng chúng ta biết rất ít về các loại vũ khí tự
chế của TQ. Cụ thể, chúng ta không biết liệu có thứ nào trong đó thực sự sử dụng
được hay không.
Trong một
nỗ lực sớm để hiện đại hóa quân đội TQ, trong thập niên 1980 TQ tăng cường quan
hệ với các nhà thầu quốc phòng phương Tây. Bắc Kinh đã mua máy bay trực thăng,
máy bay, động cơ, thiết bị điện tử hải quân và đạn dược. Sau đó, vào năm 1989,
chính phủ TQ sát hại sinh
viên ủng hộ dân chủ gần quảng trường Thiên An Môn ở trung tâm Bắc Kinh. Mĩ
và châu Âu nhanh chóng áp đặt lệnh cấm vận vũ khí.
Trung Quốc
quay sang Nga, nhưng Nga lại muốn bán thành phẩm sang TQ hơn là giúp nước láng
giềng này tự phát triển ngành công nghiệp đó. Bắc Kinh nhận ra họ sẽ phải hoàn
toàn tự mình phát triển vũ khí.
Điều đó
không phải là dễ dàng. Trên toàn thế giới, chỉ có Hoa Kì vẫn có công nghệ,
chuyên môn và năng lực công nghiệp để tự mình làm ra tất cả các thiết bị quân sự.
Điều này vô cùng tốn kém.
Nhiều vũ
khí "mới" của TQ thật ra là thiết kế của nước ngoài mà các công ty
nhà nước của Bắc Kinh đã được cấp phép, đánh cắp hoặc dầy công phân tích cấu tạo.
Máy bay trực thăng Trường Hà Z-8 (Changhe Z -8) có gốc là chiếc Super Frelon của
Pháp. Máy bay trực thăng trinh sát Cáp Nhĩ Tân Z -9 (Harbin Z-9) vốn là trực
thăng Dauphin của châu Âu. Xe tăng loại 99 là một kiểu cập nhật kiểu T-72 của
Liên Xô.
Chắc chắn,
không phải tất cả các thiết bị mới của PLA đều là một điều vượt trội. Nhưng
"tự chế" không nhất thiết đồng nghĩa với "tốt." Trong nhiều
trường hợp, chúng ta chỉ có thể đoán chất lượng của vũ khí. Nói cho cùng, TQ
không có tự do báo chí.
Chẳng hạn,
nguyên mẫu máy bay chiến
đấu tàng hình J- 20, đã bay thử nghiệm vài chục lần kể từ khi xuất hiện lần
đầu vào cuối năm 2010. Máy bay lớn góc cạnh này có vẻ nâng tầm hoạt động xa và
tải trọng lớn, nhưng tính tàng hình của nó khó mà đánh giá. Hệ thống điều khiển
điện tử, khí động học, vũ khí và thiết bị cảm biến và đặc biệt là động cơ của
nó - đều có vấn đề.
Thiết kế
J -20 có vẻ phải chờ động cơ mới do TQ phát triển để thay thế cho nguyên mẫu AL-
31N do Nga sản xuất .TQ đang tiến hành công việc cho những động cơ này, nhưng chưa
có thành công thấy được, kể từ đầu những năm 1990.
Điều
quan trọng là nên nhớ rằng máy bay chiến đấu phối hợp mới nhất F-35 (Joint
Strike Fighter) của Mĩ bay lần đầu tiên vào năm 2006 và vẫn chưa sẵn sàng cho chiến
đấu cho đến năm 2016. Hoa Kì có kinh nghiệm phát triển máy bay chiến đấu tàng
hình. TQ thì không. Nếu chúng ta cũng cứ cho TQ 10 năm tính từ chuyến bay đầu
tiên tới lúc sẵn sàng cho đánh trận, J- 20 sẽ chưa phải là một máy bay chiến đấu
ở tuyến đầu cho đến năm 2021. Đó là mức sớm nhất.
Thông số
kĩ thuật của tàu khu trục phòng không loại 052C/D của
PLAN cho thấy chúng có vẻ rất giống với tàu chiến phương Tây, chẳng hạn như chiếc
Darings của Vương quốc Anh hoặc chiếc
Arleigh Burkes của Mĩ. Nhưng chúng ta
không biết các tàu này xây dựng khó khăn mức nào, hệ thống phòng không làm việc
kết hợp với radar theo từng mảng pha tốt đến cỡ nào hoặc các tên lửa của tàu đó
chính xác và đáng tin cậy thế nào.
Khi nói
đến phát triển vũ khí, TQ bắt đầu sau Nga và phương Tây rất xa và đang phải vật
lộn để bắt kịp. Và chúng ta không được quên rằng chính cái chính phủ đang phát
triển tất cả các thiết bị này cũng là nguồn duy nhất cho thông tin về thiết bị
mới đó. Vào lúc này, hoài nghi về các loại vũ khí của TQ là khôn ngoan.
Hàng xóm canh chừng
Hành vi
hung hăng của TQ ở biển Hoa Đông và biển Đông đã thúc đẩy nhiều nước láng giềng
kết nhóm với nhau hoặc tìm kiếm sự hậu thuẫn của các đồng minh lớn mạnh hơn. Nhật
Bản là trung tâm cho rất nhiều thỏa thuận hợp tác.
Bị giới
hạn về chính trị và hiến pháp trong những loại hành động trực tiếp nào mà họ có
thể thực hiện để đối phó với TQ, Nhật Bản đang xây dựng mối quan hệ với các nước
láng giềng bất mãn khác của TQ và với các nước phương Tây. Tokyo hiện đang đàm
phán với Úc, Anh, Ấn Độ, Indonesia,
Philippines, Việt
Nam, Canada
và Hoa Kì.
Hợp
tác hậu cần, cùng
phát triển thiết bị quân sự, chia
sẻ thông tin tình báo, tập
trận chung và viện
trợ liên quan đến an ninh đều nằm cả trên bàn làm việc.
Việt Nam,
một cừu địch từ xa xưa của TQ, đã bắt đầu xây dựng một quân đội theo hướng chống
lại quân đội TQ. Họ đã mua máy bay chiến đấu Su-27 và Su-30 của Nga và bốn tàu
khu trục Gepard. Việt Nam thậm chí
còn mua tàu ngầm lần đầu - 6 chiếc Kilo
diesel - điện cải tiến của Nga loại tân
tiến hơn các chiếc Kilo của chính hải
quânTQ.
Hà Nội
tăng cường quan hệ nước ngoài. Ấn Độ sẽ đào tạo thủy thủ tàu ngầm cho Việt Nam.
Việt Nam cũng đã gợi ý để cho các tàu nước ngoài sử dụng cảng tại Vịnh Cam Ranh,
nhưng có khả năng rút lại vì điều đó sẽ là một hành động khiêu khích nghiêm trọng
đối với TQ.
Philippines,
bị khóa trong một cuộc giằng co với TQ ở bãi Cỏ Mây (Ayungin Shoal), đã bắt đầu
xây dựng lại hải quân và không quân, đã mua tàu tuần duyên cũ của Mĩ cho hải
quân và hàng chục máy bay chiến đấu nhẹ TA- 50 của Hàn Quốc cho không quân.
Manila đã đồng ý cho Mĩ
sử dụng và đóng quân tại các căn cứ quân sự của họ.
Châu Á có
thể sẽ không tập hợp lại thành một liên minh mới kiểu NATO trong tương lai gần.
Các đối thủ của TQ chưa sẵn lòng chấp nhận một sự hội nhập quân đội chặt chẽ
như vậy. Hầu hết đều không sẵn sàng để chiến đấu vì nước khác. Nhiều nước trong
số đó, dù cảnh giác với sự xâm lược của TQ, vẫn còn có quan hệ kinh tế mạnh mẽ
đến Bắc Kinh.
Tuy
nhiên, mức độ hợp tác sẽ làm phức tạp bất kì động thái quân sự nào của TQ.
Không nhất thiết rằng Bắc Kinh có ý định xâm lược... bất cứ ai. Bao giờ hết. Sức
mạnh quân sự, ngoại giao và kinh tế là lực lượng hoà quyện nhau cho phép một
chính phủ định hình môi trường của mình một cách hòa bình và chống lại ý chí của đối thủ.
Câu hỏi
lớn là, khi nào thì TQ bắt kịp Mĩ về quân sự?
Sẽ chẳng
bao giờ.
"TQ sẽ già trước khi giàu”, bây giờ là
một sáo ngữ trong các nhà quan sát TQ. Nhưng đó là sự thật. Làn sóng nhân khẩu
học từng trao cho TQ một nguồn lao động phong phú cũng sẽ sớm chuyển đổi đất nước
này thành nhà nghỉ hưu lớn nhất thế giới.
Chính
sách "một con" của Bắc Kinh càng làm xu hướng này thêm gay gắt. Hiện
nay TQ có 16 người về hưu trên 100 người đi làm. Dự phóng cho thấy số đó tăng thành
64 người về hưu trên 100 đi làm vào năm 2050, kết quả là dân số xám xịt hơn nhiều
so với ở Mĩ.
Điều này
có tác động gián tiếp - nhưng nghiêm trọng - đối với quốc phòng của TQ. Hầu hết
người dân TQ không có lương hưu trí và ở tuổi già họ phải dựa vào tiết kiệm cá
nhân hoặc gia đình ... một mệnh đề khó khăn khi chỉ có một con để chăm lo cho
hai cha mẹ.
Nếu Bắc
Kinh muốn duy trì tiết kiệm và năng suất gia đình thì sẽ phải xây dựng một loại
hệ thống phúc lợi xã hội nào đó. Và điều đó có nghĩa là thực hiện một số lựa chọn
khó khăn.
Biên giới
củaTQ là an toàn. Mĩ, Nhật Bản và Ấn Độ không thể lật đổ TQ. Nhưng hàng chục
triệu gia đình tuyệt vọng TQ có thể
làm như vậy và rất có thể, nếu Bắc Kinh không thể tìm ra một cách nào đó để
chăm sóc cho họ khi có tuổi.
Trung Quốc
có vũ khí hạt nhân. Nó được cai trị bởi một chế độ độc tài, dân tộc chủ nghĩa sâu
sắc với một lịch sử đối xử tàn tệ đối với chính công dân của mình. Họ có nhiều yêu
sách lãnh thổ xung đột với các nước khác và một ngân sách quốc phòng tăng 8 % mỗi
năm. Theo dõi thận trọng TQ là sáng suốt.