TRUNG QUỐC THEO SÁCH BẢN ĐỒ MĨ NĂM 1820
LỜI
NGƯỜI DỊCH:
Hôm 28/3 thủ tướng Đức Angela Merkel có tặng chủ tịch TQ Tập Cận Bình bản đồ
Trung Hoa ‘thuần tuý’ (China Proper) của nhà bản đồ Pháp Jean Baptiste
d’Anville in năm 1735. Bản đồ này cho thấy phần lãnh thổ thuần tuý của Trung Quốc
(với dân cư chủ yếu là người tộc Hán) không bao gồm Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ
lẫn Mãn Châu, còn đảo Đài Loan và đảo Hải Nam được vẽ với đường biên khác màu. Nhân
dịp này xin giới thiệu bản đồ có tên ‘Trung
Quốc và vương quốc triều cống Triều Tiên’ (China and the Tributary Kingdom
of Corea) in sau hơn 80 năm cũng cho thấy lãnh thổ Trung quốc ‘thuần tuý’ không
khác mấy bản đồ của Anville. Bản đồ này nằm trong tập bản đồ “A Complete Genealogical, Historical,
Chronological, And Geographical Atlas”, do M.
Carey & Son. J. Yeager, Sc. xuất bản năm, 1820, dựa theo bản in ở London
năm 1817 và có sửa chữa và bổ sung. Kèm theo bản đồ này có những ghi chú về địa
lí, lịch sử, niên đại… được soạn dựa trên thông tin chính thức của TQ và những
hiểu biết của phương Tây lúc đó. Các ghi chú này cho thấy hết sức rõ ràng Trung
Quốc ‘thuần tuý’ không bao gồm Mông Cổ, phần lớn Mãn Châu (trong bản đồ ghi là
Hoa phiên [Chinese Tartary]),Tây Tạng, Tân Cương, Đài Loan, Hải Nam). TQ thuần
tuý cũng phân biệt rạch ròi với Triều Tiên, Việt Nam (miền Bắc Việt Nam trong
bản đồ ghi là vương quốc Đông Kinh [kingdom of Tonkin]) và do đó không thể có
Hoàng Sa, Trường Sa. Cũng như bản đồ Anville, bản đồ này chỉ là của bên thứ ba (không
phải là bản đồ kèm theo hiệp ước của các bên có liên quan) nên không thể dùng
làm bằng chứng chính về chủ quyền lãnh thổ trước toà án quốc tế. Tuy nhiên, do
tính khách quan của chúng các toà án có thể xem xét như là chứng cứ phụ giúp
củng cố cho các chứng cứ chính, nếu có. Trong tinh thần đó, chúng tôi xin lược
dịch phần ghi chú kèm theo bản đồ này giới thiệu thêm cho các bạn đọc.
(Một phiên
bản của bài dịch này đã đăng trên Tia
Sáng ngày 15/4/2014 và DĐXHDS ngày 16/4/2014))
VỊ
TRÍ, RANH GIỚI, VÀ KÍCH THƯỚC
Trung Hoa ‘thuần tuý’ (China Proper)[1], nằm giữa vĩ tuyến 20° và 42° Bắc, và giữa kinh tuyến 98° và 123° Đông[2] được
bao bọc ở phía Bắc bởi các nước Hoa Phiên (Chinese Tartary)[3] -
phân cách bằng một bức tường thành to lớn (Vạn lí Trường Thành- ND) dài 500
league (1league ~ 5,556km); ở phía Đông bởi Thái Bình Dương - ngăn cách với Bắc
Mĩ; phía Nam bởi (vương quốc) Bắc Kì [4] và
biển [Nam] Trung Hoa (biển Đông); và ở phía Tây bởi vương quốc Tây Tạng và sa mạc Gobi.
Trung Hoa có chiều dài là 1 450 dậm, và chiều rộng là 1 240 dậm, toàn
bộ chiếm một diện tích 1 298 000 dặm vuông.
PHÂN BỐ DÂN CƯ, DIỆN TÍCH
|
Tỉnh
|
Thủ phủ
|
Dân số
|
Diện tích
(dậm vuông)
|
1
|
Bắc
Trực Lệ (Hà Bắc)
|
Bắc
Kinh
|
38 000 000
|
58 950
|
2
|
Thiểm
Tây
|
Tây
An
|
30 000 000
|
154 008
|
3
|
Sơn
Tây
|
Thái
Nguyên
|
27 000 000
|
55 268
|
4
|
Sơn
Đông
|
Tế
Nam
|
24 000 000
|
65 104
|
5
|
Hà
Nam
|
Khai
Phong
|
25 000 000
|
65 104
|
6
|
Giang
Nam (Giang Tô)
|
Nam
Kinh
|
32 000 000
|
92 961
|
7
|
Tứ
Xuyên
|
Thành
Đô
|
27 000 000
|
166 800
|
8
|
Hồ
Quảng (Hồ Bắc)
|
Vũ
Hán
|
27 000 000
|
144 770
|
9
|
Triết
Giang
|
Hàng
Châu
|
21 000 000
|
39 150
|
10
|
Giang
Tây
|
Nam
Xương
|
19 000 000
|
72 176
|
11
|
Vân
Nam
|
Vân
Nam
|
8 000 000
|
107 969
|
12
|
Quý
Châu
|
Quý
Dương
|
9 000 000
|
64 554
|
13
|
Quảng
Tây
|
Nam
Ninh
|
10 000 000
|
78 250
|
14
|
Quảng
Đông
|
Quảng
Châu
|
21 000 000
|
79 456
|
15
|
Phúc
Kiến
|
Phúc
Châu
|
15 000 000
|
53 480
|
|
Tổng
cộng
|
|
333
000 000
|
1
298 000
|
(Tên tỉnh
trong ngoặc là tên tinh hiện nay tương ứng với tên thủ phủ)
Bảng kê trên được lấy từ báo cáo của phái bộ ngoại giao dưới
quyền Bá tước Macartney[5], do Sir
George Staunton biên soạn vào năm 1793, theo yêu cầu của ông, số liệu này được
Chow-to-Zhin, một quan Trung Hoa cung cấp, và được lập dưa trên các tài liệu
xác thực, lấy từ các công sở ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, theo số liệu chính thức thu
được năm 1761 thì dân số TQ chỉ là 98.214.553 người, nên rất khó tin trong khoảng
thời gian 32 năm dân số đã tăng lên gần 135 triệu. Toàn bộ dân số người Hoa
thuần tuý và Hoa phiên có lẽ vào khoảng 300 triệu người.
Bản đồ Trung Hoa và vương quốc chư hầu Cao Li (Triều
Tiên) của Carey Mathew và Lavoisne M. in tại Mĩ năm 1820 cho thấy lãnh thổ TQ
khôn chứa các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Senkaku/Điếu Ngư…
================================
Phần sau đây (không có trong phiên bản đăng trên TS và DĐXHDS) cho chúng ta những hiểu biết hết sức cơ bản và khá thú vị về TQ:
LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
Núi – Dáng vẻ nói chung đất nước ở
Trung Quốc là ở bằng phẳng, nhưng các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, và Phúc
Kiến có nhiều núi, và Triết Giang có núi cao và dốc về phía Tây. Tỉnh Giang Nam
có một khu vực toàn các núi cao, và núi cao cũng có rất nhiều ở các tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây,
nhưng hình như không tỉnh nào trong số đó được người châu Âu biết đến.
Sông - hai con sông chính của Trung Quốc
là Hoàng Hà và Dương Tử. Sông Hoàng Hà được gọi là như vậy vì nước sông có nguồn ở
những ngọn núi vùng Tây Tạng bị bùn cuốn theo đổi thành màu vàng và sau khi
chảy về phía Bắc chuyển dòng về hướng Nam, giữa các tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây,
sau đó vòng về hướng Tây, ngăn cách tỉnh Sơn Tây với tỉnh Hà Nam, rồi đổ vào
biển Hoàng Hải, sau một chặng đường dài 2150 dặm. Dương Tử còn được gọi là Lam
Hà, phát xuất gần nguồn của Hoàng Hà, và sau khi chảy về phía Nam, vòng sang
Tây Bắc qua thành phố Nam Kinh, rồi đổ vào biển Hoàng Hải cách cửa sông Hoàng
Hà 100 dặm miền Nam, chảy suốt 2200 dặm. Hai con sông này được coi là dài nhất
thế giới.
Hồ -Trung Quốc có một số hồ nước rộng lớn như hồ Động Đình ở tỉnh Hồ Quảng (Hồ Bắc và Hồ
Nam), với chu vi hơn 80 league, và hồ Bà
Dương, ở tỉnh Giang Tây, với chu vi 30 league, hoặc, theo một số tác
giả, có chiều dài gần 100 league, và cũng giống như biển, có vùng nước thường xuyên nổi sóng to: một số nơi trong hồ
này được cho là làm cá bị tê liệt.
Kênh .-Trung Quốc bị chia xẻ bởi một số
lượng lớn các kênh rạch, chiều rộng và chiều dài của chúng là đáng kinh ngạc.
Kênh chính được lót bằng đá đẽo, và rất sâu tàu bè lớn có thể đi được, và đôi
khi dài trên một ngàn dặm. Các kênh được trang bị với cầu cảng đá, và đôi khi
với cầu có cấu trúc tuyệt vời. Những kênh này, và sự đa dạng trên các bờ kênh,
làm cho cảnh quan của Trung Quốc rất thú vị, và làm màu mỡ đất ở những nơi bị
cằn cỗi tự nhiên. Nổi tiếng nhất là kênh Đại
Vận hà (Imperial Canal), kéo dài từ Bắc Kinh tới Quảng Châu, một khoảng
cách khoảng 600 dặm, với gián đoạn duy nhất phải đi trên bộ một ngày,
tại một ngọn núi giữa hai tỉnh Quảng Đông và Giang Tây.
KHÍ HẬU, ĐẤT VÀ SẢN XUẤT
Khí hậu của Trung Quốc thay đổi tùy theo vùng. Về phía bắc
không khí lạnh, miền chính giữa ôn hoà, và miền Nam nóng.
Đất hoặc vốn là hoặc do chăm sóc rất hiệu quả trong bất cứ
điều có thể điều tiết những nhu cầu cần thiết, tiện nghi hay xa hoa của cuộc
sống. Nông nghiệp, theo lời của tất cả các du khách, đạt được mức độ tối đa của
sự hoàn hảo. Nông nghiệp được nhà vua bảo hộ rất mực, trong mọi lễ hội long
trọng ông đều đi ra ruộng cùng với hoàng gia, triều thần, và khoảng một trăm
nông dân, và sau khi đã tự cày ruộng, gieo lúa, lúa mì, đậu, và hai loại kê.
Cây trầm hương của Trung Quốc rất khác với trầm hương thông thường, nó có hình
dáng và chiều cao như cây ô liu, bên trong lớp vỏ của nó có 3 loại gỗ khác
nhau, loại thứ nhất được gọi là gỗ gụ (englewood), chắc và nặng; loại thứ hai,
được gọi là calembouc, nhẹ như gỗ mục; và loại thứ ba, về phía trung tâm, gọi
là trầm hương (calemba) có một hương thơm tinh tế, và tạo thành loại mùi tuyệt
vời chữa choáng và bại liệt, trên nhánh cây có gai nhọn dùng để làm cho móng tay,
phi tiêu, và cái xỏ dây.
Cây trà là cây làm nên một trong các ngành thương mại lớn
của Trung Quốc, nó rậm rạp, giống như cây hoa hồng, và những cánh hoa mở rộng
giống như cánh hoa hồng. Lá lớn và già ít được ưa chuộng, và được dành cho các
tầng lớp thấp, lá non được hái một năm ba lần, lần đầu tiên vào mùa xuân, và
hai lần trong mùa hè, lá được đặt trên đĩa bằng đất, hoặc sắt, mảnh hơn rất
nhiều hơn so với các nghệ nhân ngoài TQ có thể làm được, đĩa được đặt trên than
củi, sấy cho độ ẩm còn lại trong lá rút ra dần, để lá trở nên khô và dòn. Màu
sắc và vị chát của trà xanh được cho là bắt nguồn từ giai đoạn đầu mà lá được
hái, như trái cây chưa chín, chúng nói chung có màu xanh và có mùi hăng. Cây
bông là một trong những điều giàu có lớn lao của Trung Quốc, vì phần lớn người
dân được mặc quần áo từ nó tạo ra. Cây tallow (cây mỡ bò) có chiều cao của một
cây anh đào phổ biến, lá của nó màu đỏ, hình trái tim, trái của nó có tất cả
các đặc tính của mỡ động vật.
Trung Quốc cũng sản xuất tất cả các kim loại và khoáng chất
được biết đến trên thế giới. Đồng trắng[6],
được gọi là bạch đồng (baitong) là kim loại độc đáo của TQ. Than có rất nhiều ở
vùng núi Thiểm Tây, Sơn Tây, và Bắc Trực Lệ. Mỏ đá cũng có rất nhiều ở hầu hết
các tỉnh.
CHÍNH QUYỀN
Nguyên thuỷ chính phủ Trung Quốc là chế độ gia trưởng, gần
như theo ý nghĩa chặt chẽ nhất của từ này. Việc kính trọng và phục tùng cha
được khuyên phải tuân theo một cách nghiêm ngặt nhất trong từng gia đình, và
hoàng đế được xem như là cha chung của toàn thể dân chúng. Từ khi bị người
Phiên xâm lược, TQ đã trở thành một chế độ quân chủ tuyệt đối, tuy nhiên không
có sự thay đổi về chính trị và phe thắng trận luôn tìm mọi cách để gìn giữ các
nguyên tắc cơ bản của chế độ cũ. TQ có 15 tỉnh, mỗi tỉnh tương đương với một
vương quốc rộng lớn, được chia thành một số quận huyện, dưới sự quản lí của các
quan, dưới quyền của một quan đầu tỉnh gọi là Tổng đốc.
Tại thủ phủ của mỗi tỉnh có hai công đường, một lo việc hộ,
một lo việc hình, tất cả phụ thuộc vào sáu bộ thẩm quyền ở Bắc Kinh. Bộ thứ
nhất là Bộ Lại, trông coi tất cả các
quan lại của đế quốc, và tâu cho Hoàng đế biết mỗi khi có chỗ trống, chỗ trống
này có thể được lấp đầy ngay lập tức, bộ thứ hai là Bộ Hộ, coi sóc việc dân sự, bộ thứ ba là Bộ Lễ chăm lo các nghi lễ liên quan đến việc cúng bái, tiếp nhận sứ
thần, lễ hội công cộng, bộ thứ tư là Bộ
Binh lo việc chiến tranh, bộ thứ năm là Bộ
Hình, đó là bộ lo về việc hình của đế chế, nhưng án tử hình phải được Hoàng
đế phê chuẩn, bộ thứ sáu là Bộ Công,
chủ trì các công trình công cộng, sửa chữa cung điện của Hoàng đế, đền thờ,
cổng khải hoàn, đê điều, cầu đường, và trông coi cả hải quân. Các bộ này được
phân nhỏ thành nhiều ngành, nhưng tất cả đều phụ thuộc vào Hội đồng tối cao của
Hoàng đế, trong đó bao gồm các quan nhất phẩm, họp dưới sự hiện diện của nhà
vua.
Quý tộc ở Trung Quốc không cha truyền con nối, ngoại trừ đối
với hoàng gia, do đó tất cả tước hiệu là phước lộc riêng cho tài đức cá nhân.
Các quan lại của nhà nước được phân thành hai loại, quan văn
và quan võ. Quan võ được chia thành 9 phẩm (cửu phẩm - 9 bậc), có số lượng được cho là khoảng 150 000. Thượng thư, Thị Lang, các quan lại cao cấp các bộ, tổng đốc, phó
tổng đốc các tỉnh, các thành phố lớn… được chọn từ ba bậc đầu tiên. Để tránh tình
trạng thiên vị, các quan không được giữ bất kì chức vụ nào ở tình thành quê
mình. Tất cả các quan lại được bổ nhiệm trong ba năm, sau đó họ trải qua một kì
thi, và bị giáng chức hoặc được thăng chức tuỳ theo mức độ xứng đáng/tài đức (merit) của họ.
TÔN GIÁO
Người TQ xưa tôn thờ một Đấng Tối Cao gọi là Thượng đế, hoặc
Trời (Thiên) họ cũng thờ cúng thần thánh, mà họ nghĩ là đang ngự trị trên các
vương quốc, tỉnh, thành, sông, núi. Kể từ thế kỉ thứ XV, nhiều người
trong giới nho sĩ TQ đã chấp nhận một hệ thống mới, vì vậy có hai phái khác
nhau: nho sĩ với tín lí được các hoàng đế noi theo, thừa nhận một nguyên tắc
phổ quát, mà họ gọi Taiki, và hi sinh theo tinh thần của triết gia và nhà lập
pháp vĩ đại Khổng Tử (sinh năm 3453AM , và mất năm 3523AM); họ cũng phải thực
hiện một loại thờ cúng đối với người đã khuất, qua việc đốt hương, và cúng trái
cây trước di ảnh người đã khuất. Giáo phái khác được phần lớn những người dân
bình thường tin theo là đạo Phật, hoặc Xanca, được du nhập từ Ấn Độ khoảng một
ngàn năm sau cải cách của Khổng Tử. Đó là một loại tín ngưỡng theo thần
tượng (idolatry) còn thô trộn lẫn với chủ nghĩa vô thần. Các tu sĩ của giáo
phái này, gọi là các nhà sư, là các thầy cúng và thầy tướng số, tin vào sự luân
hồi của linh hồn. Cũng có một số người Hồi và người Do Thái ở Trung Quốc.
TÍNH CÁCH, PHONG TỤC, TẬP QUÁN QUỐC GIA
Người Trung Quốc trưởng thành có khổ người trung bình, khuôn
mặt rộng, mắt đen nhỏ, mũi thẳng và hếch, họ có xương gò má cao và môi lớn.
Họ nhổ râu tận gốc phần dưới khuôn mặt bằng nhíp, để lại một vài cọng không có
thứ tự thay cho râu hàm. Họ cạo hết tóc trên đầu, trừ một lọn duy nhất mà họ
để lại trên đỉnh đầu. Da của họ, trắng ở vùng phía Bắc, nhưng ngăm đen ở vùng phía Nam; sự béo tốt được đánh giá cao như là một vẻ đẹp của đàn ông, nhưng là nhược
điểm hiển hiện đối với phái đẹp, họ nhắm tới việc giữ gìn một nét thon thà và
thanh tú về vóc dáng. Đàn ông nho sinh để móng tay ra rất dài cho thấy rằng họ
không làm công việc tay chân. Phụ nữ có đôi mắt nhỏ, môi đầy đặn hồng hào, tóc
đen, đường nét đều đặn, và tinh tế, mặc dù làn da rất tươi mát. Bàn chân nhỏ
được coi như một phần chủ yếu của vẻ đẹp của phụ nữ, nên việc quấn chân là điều
phải chuyên tâm thực hiện khi họ còn trẻ
nhằm tạo được kết quả đó, hậu quả của điều này làm họ bi tê liệt đến nỗi khi
lớn lên họ chỉ bước đi chập chửng chứ không thể bước bình thường.
Cử chỉ bề ngoài của Trung Quốc rất câu nệ, bao gồm nhiều
động tác uốn mình khác nhau, cùng với cúi đầu, quỳ gối hay thẳng gối, và chấp
tay lại hoặc tách tay ra, nhưng khi hết những nghi thức đó, họ trở lại trạng
thái thoả mái và quen thuộc. Trong tiếp xúc với người lạ, họ không rụt rè,
nhưng thể hiện mình với một vẻ tự tin dễ dàng, như thể họ coi mình là cấp trên,
và không có bất kì điều gì trong cách cư xử hay dáng vẻ của họ có thể là thiếu
sót hoặc không chính xác.
Việc ăn mặc của TQ là hoàn toàn theo quy định khuôn phép,
thậm chí đã định rõ những màu sắc phân biệt các tầng bậc khác nhau. Hoàng đế và
các hoàng tử độc quyền mặc màu vàng, một vài quan lại được mặc satin nền đỏ,
nhưng chỉ vào những ngày lễ, còn nói chung họ đều mặc quần áo màu đen, xanh,
hoặc tím. Màu trắng chỉ được mặc khi dự đám tang, và không thể dính bụi đất quá
nhiều cho dịp này vì cho thấy một sự khinh suất và coi thường chăm sóc cá nhân
và trang phục. Những người dân thường chỉ được mặc quần áo màu xanh hoặc màu
đen luôn được dệt bằng bông sợi. Đàn ông đội mũ hình chuông, những người thuộc
tầng lớp quý tộc có đính thêm đồ trang sức. Phần còn lại của trang phục của họ
là thoải mái và lỏng lẻo, bao gồm một chiếc áo khoác và thắt lưng, với một
chiếc áo choàng trồng lên người, giày ủng bằng lụa, đệm với bông, và một quần
đùi. Phụ nữ thường mặc bên trong một lưới lụa, thay thế cho vải lanh, một áo
gilê và một váy lụa, cắt nhỏ hoặc viền với lông thú trong thời tiết lạnh, bên
ngoài là một chiếc áo choàng satin dài, duyên dáng xếp nếp xung quanh vòng eo
và được thắt bằng một dây thắt lưng . Các phần khác nhau của trang phục của
họ thường là mỗi một thứ có màu sắc riêng, theo sự lựa chọn và tương phản của
chúng mà những người mặc chủ yếu biểu lộ thị hiếu của họ.
Trong hôn nhân, hai bên trai gái không bao giờ nhìn thấy
nhau trước ngày cưới do cha mẹ quyết định, thường diễn ra khi họ chỉ là những
trẻ nít, khi đám cưới được tổ chức, cô dâu, dù chưa được chú rể nhìn thấy, được
kiệu đến nhà của chú rể trên một chiếc kiệu mạ vàng xa hoa, treo vòng kết hoa
nhân tạo, đi theo là gia tộc, khách dự và các người hầu của cô bưng của hồi
môn, đó là phần quà duy nhất do cha mẹ của cô cho trong hôn nhân .
Sau việc hiếm muộn con, điều tệ hại lớn nhất là đẻ con gái,
và nếu một người phụ nữ thuộc gia đình nghèo có ba hoặc bốn cô gái liên tiếp,
không phải không thường xảy ra, bà ta sẽ bỏ chúng ngoài đường đi, hoặc ném
chúng xuống sông, điều mà các cha mẹ không thể nuôi nổi nhiều con gái được phép
làm, nhưng họ cột trái bầu vào đứa trẻ trước để cho nó có thể nổi trên mặt
nước, và trong tình huống này đôi khi nó sẽ gặp người có của cải, do xúc động
bởi tiếng khóc của đứa trẻ, sẽ cứu nó khỏi cái chết sắp xảy đến
Người TQ, ngoài các mê tín dị đoan khác, đặc biệt thận trọng
về thời gian và nơi chôn cất người chết. Sự chậm trễ xảy ra trong việc quyết
định hai điều này thường khiến quan tài phải lưu lại nhiều ngày trước khi
đem chôn, nhưng đối với người nghèo thì sự khốn khó buộc họ phải vượt qua các
đắn đo thận trọng đó, và đem đi chôn ngay di hài của người thân họ vào nơi an
nghĩ cuối cùng với lễ tang nhỏ. Nghĩa trang công rất rộng, do sự tôn trọng dành
cho người đã chết nên người TQ không cho phép họ đặt một ngôi mộ mới tại nơi mà dấu vết của một ngôi mộ cũ vẫn còn thấy trên mặt đất.
Mỗi người Hoa lưu trong nhà của mình một bài vị, trên đó có
viết tên của cha, ông nội, ông cố … và họ thường đứng trước đó đốt hương, và
quỳ lại, và khi người cha trong gia đình mất, tên ông cố được lấy ra để thêm
tên người vừa khuất vào.
NGHỆ THUẬT VÀ KHOA HỌC
Thiên tài của Trung Quốc là đặc biệt với chính họ, vì họ
không có quan niệm về cái gì là đẹp trong viết văn, cân đối trong kiến trúc,
hoặc tự nhiên trong vẽ tranh, tuy thế, trong làm vườn và hoạch định đất đai,
họ thể hiện sự tuyệt vời và đẹp đẽ thật
sự. Họ thực hiện tất cả các phép tính số học nhanh chóng phi thường, nhưng khác
với người châu Âu. Cho đến khi người châu Âu tới, họ chưa hiểu biết về toán
học, không có máy móc thích hợp cho quan sát thiên văn, và việc nghiên cứu siêu
hình chỉ dành cho các nhà triết học. Người ta thường cho rằng họ biết in ấn
trước người châu Âu, dù điều đó chỉ có thể nói cho phương pháp in ấn khối, bằng
cách đục chữ trên các khối gỗ, họ có niên giám, đóng dấu từ các tấm hoặc các
khối, nhiều thế kỉ trước khi nghề in được phát hiện ở châu Âu. Việc phát minh
ra thuốc súng có vẻ đúng là của họ, và đã được sử dụng để chống lại Thành Cát
Tư Hãn và Thiết Mộc Chân, nhưng ứng dụng việc sử dụng hợp chất huỷ diệt này chỉ
giới hạn vào súng thần công (pháo binh),
họ hoàn toàn không quen với việc sử dụng vũ khí nhỏ. Họ cũng nổi trội về
pháo bông. Ngành công nghiệp của họ là tuyệt vời trong trồng trọt trên đồng
ruộng, đào kênh rạch, san lấp núi, nâng cao vườn, và điều khiển tàu thuyền.
SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI
Trung Quốc
nằm ở vị trí tốt, và sản xuất một loạt các nguyên vật liệu cho chế biến mà có
thể nói đó là quê hương của công nghiệp, nhưng là ngành công nghiệp không hương
vị hay thanh tú, mặc dù được thực hiện với nghệ thuật tuyệt vời và sự khéo
léo. Họ chế tạo giấy từ thân cây tre và các cây khác, cũng như từ sợi bông
(cotton), nhưng không sánh được với châu Âu cho mục đích viết hay in ấn. Mực
của họ nổi tiếng ở châu Âu, và được cho là một hỗn hợp của keo động vật và muội
đèn. Việc sản xuất các loại đồ đất nung thường được biết đến với tên “china”
(đồ sứ), hay đúng hơn là “porcelain”, đã từ lâu là một bí mật với người châu
Âu, và mang lại những khoản tiền to lớn cho TQ, nhưng bây giờ các nghệ nhân
châu Âu xuất sắc hơn nhiều. Lụa TQ thường gồm lụa trơn và lụa hoa, được cho là
có nguồn gốc chế tạo ở đây, nơi mà nghệ thuật nuôi tầm được phát hiện trước
tiên. Họ cũng sản xuất lụa loại bền hơn; cùng vải bông và các loại vải khác
làm rap quần áo nhẹ và ấm.
CHÚ THÍCH của người dịch:
[3] Theo bản
đồ và văn cảnh toàn bài thì Chinese Tartary có
lẽ gồm Tân Cương, Mông Cổ và Mãn Châu, tạm
dịch là Hoa Phiên.
[4]Nguyên bản tiếng Anh là kingdom
of Tonquin chỉ Bắc bộ Việt Nam (gọi theo một tên cũ của Hà Nội là Đông
Kinh)