Thursday, November 15, 2012

Về quan hệ Việt - Mĩ

Chậm xích lại gần nhau
Sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đang đưa Việt Nam và Mĩ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài bao lâu?

Nayan Chanda

Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng bay lên khỏi bãi đáp trực thăng của toà Đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những kẻ chiến thắng bận rộn kéo lá cờ vàng sao Mặt trận Giải phóng Dân tộc lên trên cột cờ các cơ quan đại diện nước ngoài. Chỉ riêng toà Đại sứ như pháo đài của Mĩ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lí do của ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội đến quả quyết với tôi với một nụ cười: "Người Mĩ sẽ quay lại ngay mà." Như ông ta giải thích, "Người Mĩ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại việc tiến về phía Nam của Bắc Kinh."
Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Leon Panetta đã được bố trí một chuyến thăm trêu ngươi Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn có hình ảnh rõ rệt trong trí tưởng tượng chiến lược của Mĩ. Điều này không phải gợi rarằng Mĩ và Việt Nam đang sắp gần tới việc hợp tác chiến lược như người đối thoại Việt Nam của tôi mơ ước hồi năm 1975, nhưng cuộc hành trình ngoằn ngoèo của việc hoà giải và xích lại gần nhau giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện thú vị. Câu chuyện này cũng cho ra các bài học có giá trị về sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, tinh thần dân tộc, và ý thức hệ - đã định hình các biến đổi nhiều màu sắc đó. Lịch sử 2000 năm quan hệ yêu-ghét của Việt Nam với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, hoài bão dân tộc, và quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền đối với việc duy trì chế độ có thể giải thích con đường chông gai của việc bình thường hoá.
Vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh hồi năm 1975 bên Việt Nam đã hào hứng với chiến thắng lịch sử, mong muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ các cân nhắc địa chính trị to lớn, lạc quan về việc phục hồi nhanh chóng quan hệ với Washington có thể là cách nghĩ logic nhưng nó được dựa trên một sự hiểu lầm hoàn toàn động lực chính sách của Mĩ. Mặc dù Tổng thống Jimmy Carter mong muốn khôi phục lại mối quan hệ với tất cả các kẻ thù xưa ở châu Á, kể cả Trung Quốc, nhưng việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã tỏ ra là khó có thể xảy ra. Carter đã không chia sẻ quan điểm tầm xa của Việt Nam, và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh sâu đậm về tâm lí của Mĩ. Dù muốn có quan hệ với Washington để cân bằng quyền lực của Trung Quốc, Việt Nam lại là kẻ chiến thắng quá đỗi tự hào đến nỗi từ bỏ cả chiến lợi phẩm – món viện trợ tái thiết Mĩ đã hứa trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán bình thường hoá bị đổ vở vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự chuyển đổi kịch tính bất lợi cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỉ.
Bốn năm sau khi cuộc chiến tranh dài kết thúc, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên mặt trận phía bắc và phía tây. Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ tấn công vào biên giới phía tây [nam] vào các năm 1977-78 đã dẫn đến việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt ở phía Bắc Việt Nam vào năm 1979. Điều này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài một thập kỉ trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế trong nước và bị cô lập ở nước ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mĩ và Trung Quốc và sự ủng hộ liên minh do Khmer Đỏ lãnh đạo chồng chất thêm bởi việc mất sự ủng hộ từ Liên Xô đang diễn ra perestroika (đổi mới). Các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mĩ đã bị sa lầy bởi những yêu cầu không dứt Mĩ về kết toán tù binh chiến tranh và người mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, vốn không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì sỉ nhục quốc gia Mĩ, đã tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước qua việc đưa hài cốt các lính trận bỏ mình về nước và duy trì một lệnh cấm vận thương mại gây tê liệt áp đặt từ năm 1975. Để vượt lên các bất ổn kinh tế và cô lập ngoại giao, Việt Nam đã tiến hành đổi mới và bắt đầu rút quân khỏi Campuchia, và việc này hoàn thành vào năm 1989.
Vào lúc Việt Nam gần rút quân, theo yêu cầu của Mĩ và ASEAN, và tham dự cuộc đàm phán với họ về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị lại thay đổi một lần nữa. Việc Trung-Xô xích lại gần nhau và việc Bắc Kinh bị quốc tế cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn không những làm thay đổi môi trường bên ngoài mà còn cũng dấy lên những lo ngại về an toàn của chế độ này. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại quảng trường Thiên An Môn, và sự sụp đổ như các con cờ domino của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đến ngay sau đó vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Dù Việt Nam vô cùng cần viện trợ và buôn bán với phương Tây, nhưng họ lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa dưới danh nghĩa trợ giúp. Cái gọi là lộ trình cho việc bình thường của chính quyền George HW Bush đã được nhìn với sự nghi ngờ sâu đậm. Nhà Ngoại giao hàng đầu của Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thất bại trong việc đạt tới bình thường hoá, mặc dù đã có nhiều nhượng bộ về MIA và rút khỏi Campuchia, dẫn Hà Nội đến việc thay đổi đường hướng chống Trung Quốc. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 04 và 05 tháng 9 năm 1990. Việc xuống thang dần dần cho cuộc xung đột Trung Quốc với Việt Nam và thỏa thuận thành lập chính phủ liên hiệp tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc đã được đặt nền móng.
Với bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc đang diễn tiến, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn rất thủ thế chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính phủ Dân chủ thời Bill Clinton đã tỏ ra khó khăn đối với Việt Nam hơn là chính phủ Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã tăng áp lực về MIA và vi phạm quyền con người. Dù vậy giới kinh doanh đã nhìn thấy nhiều cơ hội ở Việt Nam và việc vận động hành lang phối hợp của họ đã buộc Washington cuối cùng đồng ý làm dịu lập trường của mình. Tháng 2 năm 1995, Mĩ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam, và thông báo quan hệ ngoại giao sẽ được khôi phục đến vào tháng 7 có . Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng 8 năm 1995 (hơn 30 năm tròn sau khi chiến tranh kết thúc), Bộ trưởng Ngoại giao Warren Christopher giương cờ sao sọc của Mĩ trong Toà Đại sứ Mĩ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã chuyển đi. Việt Nam không còn quan tâm đến một liên minh chiến lược theo nhiều cách như trước để mở cửa nền kinh tế với thế giới và, cụ thể là giành được tình trạng nước tối huệ trong thương mại.
Sự dè dặt của Việt Nam sợ bị xem như là một đồng minh của Mĩ chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng vào tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã kiếm cách riêng để thông báo rằng không có bàn chuyện gì về quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, chỉ thị bí mật của Ủy ban Trung ương yêu cầu các đảng viên phải tỏ vẻ ‘lạnh nhạt’ với Clinton. Khoảng cách giữa Đảng Cộng sản và nhân dân đã không thể lộ rõ hơn. Tôi đã thấy hàng ngàn thanh niên Sài Gòn vượt qua các rào cản của cảnh sát nhào tới chiếc xe limo của tổng thống la to "Bill, Bill!" Đối với Đảng, chính nước Mĩ hạ mình và công nhận Việt Nam chứ không phải Việt Nam tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mĩ vì nhắm vào hướng bắc. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã giảng cho tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống xâm lược của Việt Nam, mà không thảo luận về quan hệ hiện tại hay tương lai với Hoa Kì. Vì thế, Việt Nam đã phải chờ thêm ba năm nữa khi có sự thay đổi trong môi trường bên ngoài.
Chính quyền Tổng thống Bush nhiệm kì hai dường như chuyển ra khỏi thái độ có vẻ bợ đỡ của Mĩ đối với Trung Quốc khi sự cố máy bay EP-3 gián điệp rộ lên. Thậm chí trước khi có căng thẳng về máy bay do thám này, nhiều tiếng nói quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương cơ bắp của Trung Quốc. Một trong những tác giả bài báo cáo của tập đoàn RAND là Zalmay Khalilzad, người sẽ trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kì nên tăng cường sự hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực đang tăng của Trung Quốc. Báo cáo này chỉ ra rằng "có một logic cơ bản đối với việc hợp tác giữa Hoa Kì và Việt Nam để ngăn chặn Trung Quốc tranh ngôi bá quyền khu vực." Khi Washington bắt đầu chú trọng vào việc thay đổi thế cân bằng trong khu vực Đông Á, sự quan tâm đối với Việt Nam mang ý nghĩa chiến lược.
Việt Nam cũng thế, lo lắng về việc Trung Quốc tiếp tục lấn tới ở biển Đông và ở các nước dọc theo ngoại biên của Việt Nam. Trong tháng 6 năm 2003 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đảng ước đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng thuận lợi và Việt Nam phải có những nỗ lực để phát triển các quan hệ với Mĩ. Như Việt Nam đã nói với các quan chức Mĩ, "Thế cân bằng tam giác đã mất." Quan hệ của Mĩ với Việt Nam rất yếu, trong khi mối quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực cũng đã tăng lên. Nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là lần ghé cảng thành phố Hồ Chí Minh đầu tiên của tàu của Hải quân tàu USS Vandergrift.
Điểm cao trong quan hệ nồng ấm đến vào tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết họ "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và họ đồng ý hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này." Việc đưa vào cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo chung là điều gợi ý công khai duy nhất rằng các mối quan hệ đã vượt qua khỏi các quan tâm song phương hoặc thậm chí quan tâm cả khu vực - Đông Nam Á. Ông Khải đã ký một hiệp ước về tình báo với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia trong việc chia sẻ thông tin tình báo với Washington.
Trong bối cảnh sức mạnh ngày càng tăng và sự quyết đoán của Trung Quốc ở biển Đông quan hệ Mĩ-Việt Nam đã trở nên sâu đậm thêm. Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton thăm Hà Nội trong cuộc họp cấp Bộ trưởng của ASEAN năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan ngại của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kì và Việt Nam đi vào thảo luận nâng cao quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ quân sự đã tăng lên. Trong chuyến thăm Washington của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003, hai bên đã quyết định rằng các chuyến thăm cùng cấp qua lại sẽ diễn ra ba năm một lần. Kể từ đó Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ đã thăm viếng qua lại nhau 4 lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút sự chú ý nhiều hơn mức thông thường trong bối cảnh quan hệ Mĩ-Trung đang xấu đi. Panetta đã được sắp xếp một chuyến viếng thăm Vịnh của Cam Ranh, nơi đã từng là căn cứ cho các máy bay ném bom tầm xa và trang thiết bị của hải quân Liên Xô.
Dù quan hệ đã phát triển nhảy vọt trong thập kỉ qua, sự tương tác của ba yếu tố đã nêu tiếp tục điều chỉnh các mối quan hệ. Một Trung Quốc mạnh mẽ về quân sự đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đói với chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ gần đây. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt và Đảng Cộng sản Trung Quốc có chung mối quan ngại về sự đe dọa phương Tây đối với thể chế của họ, đồng thời lại tìm kiếm hợp tác kinh tế với phương Tây để xây dựng một đất nước cường thịnh.

Năm 1978, nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Đoàn Huynh, giải thích logic đằng sau việc Việt Nam vun đắp quan hệ với Moskva: "Trong toàn bộ lịch sử, chúng tôi an toàn đối với Trung Quốc chỉ trong hai điều kiện. Một điều kiện là khi Trung Quốc bị yếu và nội bộ chia rẽ. Điều kiện khác là khi TQ bị người rợ phía bắc đe doạ. Trong thời đại hiện nay, Nga là người rợ của chúng tôi" Cùng logic đó có thể áp dụng cho nhu cầu của Việt Nam vun bồi quan hệ với Mĩ hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc không trở nên quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường lưu ý người nước ngoài, một nước có thể chọn bạn nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên dù có thể hấp dẫn, Việt Nam sẽ tránh liên minh quân sự với Washington vì có thể kích động sự thù địch của người láng giềng khổng lồ của họ hoặc làm cho chính phủ Việt Nam dễ bị Mĩ áp lực về dân chủ và quyền con người. Việc hai nước xích gần nhau là có thật nhưng các giới hạn cũng là có thật

No comments: