Wednesday, June 19, 2013

Biển Đông: tranh chấp đang diễn tiến giữa Trung Quốc và các nước láng giềng


Biển Đông: tranh chấp đang diễn tiến giữa Trung Quốc và các nước láng giềng



Robert Beckman
Dịch: Nguyễn Trịnh Đôn, Phan Văn Song
Hiệu đính: Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân

(Bản dịch đã đăng trên Tuần Việt Nam tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2013-06-14-tranh-chap-dang-dien-tien-giua-trung-quoc-va-cac-nuoc-lang-gieng và tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2013-06-17-trung-quoc-van-co-tinh-nhap-nhang-)



Biển Đông được cho là có nguồn tài nguyên phong phú. Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trong khu vực, Robert Beckman xem xét lập trường của mỗi quốc gia có biển trong khuôn khổ của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS).

Có một số nhóm đảo có tranh chấp ở biển Đông. Quần đảo Trường Sa là nguồn gốc gây căng thẳng cao nhất và thậm chí có thể là nguồn gốc gây ra xung đột. Quần đảo này nằm ở trung tâm biển Đông, phía bắc đảo Borneo (gồm Brunei Darussalam và hai bang phía đông của Malaysia là Sarawak và Sabah), phía đông của Việt Nam, phía tây của Philippines, và phía nam đảo Hải Nam của Trung Quốc. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đòi chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa , trong khi Malaysia và Philippines đòi chủ quyền một số đảo và các cấu trúc địa lí khác ở đó. Brunei đã thiết lập một vùng biển chồng lên một rạn đá phía Nam, nhưng không đưa ra bất kì tuyên bố chủ quyền chính thức nào.
Quần đảo Trường Sa gồm hơn 140 đảo nhỏ, đảo đá, rạn đá, bãi cát ngầm và bãi cát (một số hoàn toàn hoặc thỉnh thoảng nằm dưới mặt nước trong khi một số khác là luôn luôn ở trên mặt nước) trải rộng trên một diện tích hơn 410.000 km². Có ít hơn 40 cấu trúc địa lí là đảo – tức là khu vực đất hình thành tự nhiên có nước bao quanh và nằm trên mặt nước khi triều cao như quy định tại Điều 121 (1) của UNCLOS. Tổng diện tích đất của 13 đảo lớn nhất không tới 2 km². Các cấu trúc địa lí còn lại hoặc là nằm dưới mặt nước hoàn toàn, hoặc chỉ nằm trên mặt nước khi triều thấp.
Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phần phía bắc của biển Đông, gần như cách đều bờ biển Việt Nam và Trung Quốc (Hải Nam). Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền quần đảo này. Trung Quốc đã đẩy quân đội Nam Việt Nam khỏi quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974, và đang một mình chiếm đóng quần đảo này. Trung Quốc phủ nhận có sự tranh chấp về quần đảo này, nhưng đó lại là một nguồn gây căng thẳng liên tục giữa Trung Quốc và Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 35 đảo nhỏ, bãi cát ngầm, bãi cát và rạn đá chiếm khoảng 15.000 km² diện tích đại dương. Đảo Phú Lâm, lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa, rộng 2,1 km², gần bằng diện tích đất toàn bộ các đảo của Trường Sa gộp lại. Đảo Phú Lâm là địa điểm của thành phố Tam Sa, một thành phố cấp quận đượcTrung Quốc thành lập hồi tháng 6 năm 2012 làm trung tâm hành chính cho yêu sách của họ ở biển Đông.
Rạn đá Scarborough nằm ở phần phía bắc của biển Đông giữa Philippines và quần đảo Hoàng Sa, và được Trung Quốc, Philippines và Đài Loan tuyên bố chủ quyền. Rạn đá Scarborough nằm cách đảo Luzon của Philippines khoảng 130 km. Hầu hết rạn đá này, hoặc là hoàn toàn chìm trong nước, hoặc chỉ trên mặt nước khi triều thấp, nhưng nó có chứa một số mỏm đá nhỏ cao hơn mặt nước khi triều cao. Nó là một nguồn gây căng thẳng chính giữa Trung Quốc và Philippines từ khi Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc hồi tháng 6 năm 2012.
Quần đảo Pratas nằm cách Hong Kong hơn 200 dặm về phía tây nam. Quần đảo này do Đài Loan chiếm đóng, và TQ cũng tuyên bố chủ quyền.
Bãi Macclesfield là một rạn đá ngầm to lớn hoàn toàn bị chìm dưới nước khi triều thấp, nằm giữa rạn đá Scarborough và quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền bãi này.

Tính thích đáng của UNCLOS

Vấn đề cơ bản ở biển Đông là vấn đề chủ quyền lãnh thổ, tức là, nước nào có chủ quyền đối với các đảo này và các vùng biển liền kề của chúng. UNCLOS không có quy định nào về việc xác định chủ quyền đối với các đảo ngoài khơi. Vì không có điều ước quốc tế nào chế định vấn đề chủ quyền, các quốc gia phải tìm kiếm hướng dẫn từ các quy tắc của luật tập quán quốc tế về việc thụ đắc và mất mát lãnh thổ. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ không thể giải quyết được trừ khi các quốc gia có tuyên bố chủ quyền đạt được thỏa thuận với nhau hoặc đồng ý đưa tranh chấp ra Tòa Công lí Quốc tế, Tòa án Quốc tế về Luật biển hoặc một tòa trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, với sự nhạy cảm và phức tạp của các tranh chấp, điều này là khó có khả năng xảy ra.
UNCLOS là cực kì quan trọng đối với các tranh chấp ở biển Đông vì nó thiết lập một khuôn khổ pháp lí cho tất cả các hoạt động sử dụng đại dương, kể cả các yêu sách đối với không gian biển mà các quốc gia có thể đưa ra từ lãnh thổ đất liền của họ và từ các cấu trúc địa lí xa bờ. Tất cả các quốc gia có tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa lí trong biển Đông đều là thành viên của UNCLOS, và đều có nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lí để thực hiện các quy định của nó với thiện chí và phải chỉnh sửa luật pháp quốc gia cho phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của họ theo UNCLOS.
UNCLOS có bốn loại quy định rất sát hợp với các tranh chấp ở biển Đông và chúng cho phép chúng ta đánh giá liệu các hành động của các quốc gia yêu sách có phù hợp với luật pháp quốc tế hay không. Thứ nhất, nó quy định về có thể đòi những vùng biển nào dựa vào đất liền của các quốc gia ven biển, và  về các quyền và quyền tài phán mà các quốc gia ven biển và các quốc gia khác được hưởng trong những vùng biển này. Thứ hai, nó quy định những cấu trúc địa lí ngoài khơi nào có thể đòi chủ quyền. Thứ ba, nó quy định về khả năng có thể đòi những vùng biển nào dựa trên các cấu trúc địa lí ở ngoài khơi, và các quyền và quyền tài phán mà các quốc gia được hưởng trong những vùng biển đó. Cuối cùng, nó thiết lập các quy tắc về cách phân định ranh giới trên biển trong những trường hợp có các yêu sách chồng lấn lên nhau.

Các vùng biển theo UNCLOS
Các quốc gia đều có chủ quyền trong lãnh hải 12 hải lí (nm) tiếp giáp với bờ biển của họ, với quyền đi qua của tàu tàu thuyền nước ngoài. Nguyên tắc chung là lãnh hải được tính từ ngấn thủy triều thấp dọc theo bờ biển, nhưng các quốc gia cũng được phép sử dụng đường cơ sở thẳng dọc theo bờ biển của họ trong một số trường hợp nhất định.
Các quốc gia ven biển có quyền đòi hưởng một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) vươn ra tới 200 hải lí từ cùng đường cơ sở được dùng để tính lãnh hải. Trong vùng đặc quyền kinh tế các nước ven biển có 'quyền chủ quyền' cho việc khảo sát và khai thác tài nguyên thiên nhiên sinh vật và không sinh vật trong nước cũng như các nguồn tài nguyên dưới đáy biển và lòng đất. Các quốc gia ven biển cũng có thẩm quyền quản trị việc thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế, cũng như thẩm quyền được quy định trong UNCLOS đối với việc nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển. Đồng thời, tất cả các nước khác đều có quyền tự do hàng hải và hàng không cũng như quyền đặt cáp ngầm và đường ống dẫn trong vùng đặc quyền kinh tế.
Các quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền cho việc thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên của thềm lục địa tiếp giáp với bờ biển của họ. Thềm lục địa bao gồm đáy biển và lòng đất thuộc các khu vực dưới mặt biển mở rộng ra khỏi lãnh hải của quốc gia ven biển, dọc suốt sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của mình đến mép ngoài của rìa lục địa (tùy theo nó có đáp ứng một số tiêu chuẩn địa vật lí hay không), hoặc tới khoảng cách 200 hải lí từ đường cơ sở dùng để tính bề rộng của lãnh hải ở những  nơi mà mép ngoài của rìa lục địa nằm cách đường cơ sở dưới 200 hải lí này. Quốc gia ven biển muốn đòi hưởng thềm lục địa bên ngoài 200 hải lí phải cung cấp thông tin kĩ thuật cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS).

Khu vực biển từ các thể địa lí ngoài khơi
UNCLOS vạch ra các khác biệt quan trọng giữa các cấu trúc địa lí ngoài khơi như (1) đảo, (2) đảo đá, (3) cấu trúc lúc nổi lúc chìm [những cấu trúc cao hơn mức thủy triều thấp nhưng thấp hơn mức thủy triều cao], và (4) cấu trúc địa lí ngầm.
Các khác biệt này là rất quan trọng vì vì từ các dạng thể địa lí khác nhau có thể yêu sách được [hưởng] các khu vực biển khác nhau" (. Các yêu sách đối với không gian biển chỉ có thể xuất phát từ đường cơ sở được tính từ lãnh thổ đất nơi một quốc gia có chủ quyền. Điều này thường được mô tả như là nguyên tắc "đất thống trị biển". Nguyên tắc đã này có từ lâu và vẫn còn được các tòa án nêu ra và xác nhận nó.

Đảo, đảo đá
Lãnh thổ của một quốc gia bao gồm lãnh thổ đất liền cùng với các đảo thuộc chủ quyền. Nguyên tắc chung là tất cả các đảo được hưởng cùng các khu vực biển như lãnh thổ đất liền, có nghĩa là, một vùng lãnh hải, vùng EEZ và thềm lục địa. Các quy tắc về đường cơ sở áp dụng cho đất liền cũng dùng cho các đảo. Quy tắc thông thường là đường cơ sở là ngấn thủy triều thấp dọc theo bờ biển.
Tuy nhiên, có một ngoại lệ quan trọng đối với một số loại đảo. Điều 121 (3) của UNCLOS quy định rằng "đảo đá không duy trì được sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Nói cách khác, đảo đá chỉ được hưởng lãnh hải.

Mặt bằng triều thấp và các thể địa lý ngầm
Mặt bằng triều thấp là những vùng đất hình thành tự nhiên có nước bao quanh, nổi lên trên mặt nước khi thuỷ triều xuống nhưng nằm dưới mặt nước lúc thuỷ triều lên. Các vùng mặt bằng triều thấp không phải là đảo và không có lãnh hải riêng. Tuy nhiên, nếu nằm trong khoảng cách 12 hải lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào, kể cả các đảo, những vùng này có thể được dùng làm điểm đo đường cơ sở của vùng lãnh thổ đó [để tính bề rộng của lãnh hải].
Không quốc gia nào có quyền đòi chủ quyền trên một vùng mặt bằng triều thấp. Nếu một vùng mặt bằng triều thấp nằm trong lãnh hải của một quốc gia ven biển thì nó thuộc về chủ quyền của quốc gia đó, vì quốc gia ven biển đó có chủ quyền đối với đáy biển và tầng đất cái trong vùng lãnh hải của mình. Nếu vùng mặt bằng triều thấp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc trên thềm lục địa thì nó không thuộc về chủ quyền của quốc gia nào. Tuy nhiên quốc gia sở hữu vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa mà có chứa vùng mặt bằng triều thấp thì sẽ có quyền tài phán trên vùng mặt bằng triều thấp này.
Yêu sách đối với vùng biển của các nước thành viên ASEAN
Tất cả các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) mà có yêu sách về biển đều mới chỉ đòi một vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đo từ đường cơ sở dọc theo bờ biển thuộc đất liền, hoặc từ đường cơ sở quần đảo trong trường hợp của Philippines. Malaysia và Việt Nam đã yêu sách một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ đường cơ sở bờ biển thuộc đất liền của mỗi nước. Vào tháng 5/2009, Malaysia và Việt Nam cùng nhau đệ trình hồ sơ về thềm lục địa mở rộng ở phía nam Biển Đông lên Uỷ ban ranh giới thềm lục địa (CLCS) của Liên hiệp quốc. Việt Nam cũng nộp riêng một hồ sơ thềm lục địa mở rộng khác ở phía bắc Biển Đông cho CLCS. Trung Quốc và Philippines phản đối và yêu cầu CLCS không xem xét các hồ sơ này với lý do có tranh chấp ở các vùng biển này.
Vào năm 2009, Philippines cũng tiến hành các bước quan trọng trong việc làm rõ các yêu sách về biển của nước này bằng việc thông qua luật mới về đường cơ sở phù hợp với các điều khoản của UNCLOS về đường cơ sở quần đảo. Luật này gợi ý rằng Philippines muốn đòi một vùng đặc quyền kinh tế tính từ đường cơ sở quần đảo của mình. Trong luật này, các đảo ngoài khơi mà Philippines tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, bao gồm cả Bãi cạn Scarborough, đều sẽ được quản lý theo chế độ đảo trong Điều 121 của UNCLOS.
Những bước đi này của Malaysia, Philippines, và Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trên ba khía cạnh. Một là, lần đầu tiên các bản đồ đính kèm trong hồ sơ đệ trình lên CLCS chỉ rõ giới hạn vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia và Việt Nam. Hai là, luật đường cơ sở mới của Philippines tạo điều kiện dễ dàng cho việc tính toán giới hạn vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này. Ba là, cả ba nước này chỉ tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế tính từ đất liền của họ. Các nước này không tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế từ bất kỳ một đảo ngoài khơi nào mà họ có tuyên bố chủ quyền.
Điều này cho thấy rằng ba nước ASEAN này (và có thể cả Brunei) có thể đang chuyển hướng sang việc thống nhất quan điểm đối với các thể địa lý ngoài khơi ở quần đảo Trường Sa. Nếu đúng như vậy thì các nước này có thể sẽ đưa ra các lập trường như sau. Một là, họ chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các thể địa lý thoả mãn định nghĩa về đảo theo UNCLOS (tức là chỉ có một phần ba trong tổng số các thể địa lý ở quần đảo Trường Sa). Hai là, hầu hết các thể địa lý mà thỏa mãn định nghĩa về đảo thì lại là "những đảo đá không có khả năng duy trì việc định cư và hoạt động kinh tế của con người trên đó” và không được hưởng quy chế có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Ba là, ngay cả đối với các đảo lớn có thể được hưởng quy chế có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng thì chúng cũng chỉ nên cho chúng hưởng lãnh hải 12 hải lý để không gây hiệu ứng thiếu cân xứng lên việc phân định biển. Hệ quả thực tế của lập trường chung này là hầu hết các tài nguyên ở Biển Đông sẽ nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển. Các vùng biển tranh chấp sẽ chỉ giới hạn trong vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo tranh chấp.
Yêu sách của Trung Quốc
Trong khi Malaysia, Philippines, và Việt Nam dường như đang tiến hành các bước đưa yêu sách của họ phù hợp với UNCLOS thì chính sách của Trung Quốc về các yêu sách trên̉ Biển Đông vẫn là “cố tình nhập nhằng”. Trung Quốc vẫn không đáp lại việc các bên có liên quan liên tục  yêu cầu nước này làm rõ các tuyên bố chủ quyền và và yêu sách biển. Điều đáng lo ngại hơn là Trung Quốc dường như đang chuyển theo hướng khẳng định yêu sách biển không chỉ dựa trên UNCLOS mà còn dựa trên lịch sử. Điều này đặc biệt gây lo lắng cho các bên vì hầu hết các chuyên gia luật quốc tế đều đồng ý rằng không có cơ sở cho các yêu sách lịch sử như thế này trong UNCLOS và thông lệ quốc tế.
Một trong những vấn đề trong các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc là không rõ nước này có tuyên bố chủ quyền trên các thể địa lý không thoả mãn định nghĩa về đảo của UNCLOS hay không. Ví dụ, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên Bãi Macclesfield mặc dù đây là bãi ngầm, nằm dưới mặt nước ngay cả lúc thuỷ triều xuống thấp. Theo luật quốc tế, các quốc gia chỉ có thể tuyên bố chủ quyền đối với các thể địa lý thoả mãn định nghĩa về đảo.
Trung Quốc có thể đưa các yêu sách biển của mình phù hợp với UNCLOS bằng cách chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các thể địa lý thoả mãn định nghĩa về đảo và chỉ đòi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ các đảo lớn hơn. Trung Quốc có thể lập luận rằng các đảo phải được hưởng hiệu lực đảo đầy đủ, nhất là khi vùng đặc quyền kinh tế từ đảo nằm ở ngoài phạm vi vùng đặc quyền kinh tế đòi bởi các quốc gia ven biển tính từ đất liền của họ.
Điều gây tranh cãi chủ yếu trong yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là phạm vi yêu sách không dựa trên các đảo đang tranh chấp mà dựa trên đường chín đoạn (hay đường chữ U) tai tiếng. Đường này được vẽ trong bản đồ ̉ kèm theo công hàm mà Trung Quốc gửi cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc vào tháng 5/2009 để phản đối hồ sơ thềm lục địa mở rộng của Malaysia và Việt Nam.
Vấn đề gây quan ngại chủ yếu là hành động của Trung Quốc vào năm 2009 rõ ràng cho thấy nước này đang theo đuổi yêu sách ở Biển Đông theo ba mặt. Một là, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các đảo và vùng nước lân cận, mà có thể được hiểu là lãnh hải. Hai là, Trung Quốc cho rằng các đảo này có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Ba là, Trung Quốc cũng đồng thời khẳng định các quyền, quyền tài phán và kiểm soát đối với các nguồn lợi dưới mặt nước và dưới đáy biển bên trong đường chín đoạn trên một dạng nào đó về các quyền lịch sử.
Tuân thủ luật hay xung đột
Các quốc gia khác cùng có yêu sách không thể chấp nhận lập trường của Trung Quốc rằng nước này có các quyền và quyền tài phán lịch sử đối với tài nguyên thiên nhiên dưới mặt nước và dưới đáy biển bên trong đường chín đoạn vì các yêu sách của Trung Quốc không hề có nền tảng dựa trên luật quốc tế. Do đó, nếu Trung Quốc vẫn không sẵn sàng làm cho các yêu sách về biển của họ phù hợp với UNCLOS, và giới hạn yêu sách của họ trong các vùng biển tính từ các đảo, thì nước này sẽ tiếp tục đi theo quỹ đạo pháp lý dẫn tới sự xung đột với các láng giềng ASEAN của họ.
Tác giả:
Robert Beckman là Giám đốc Trung tâm luật quốc tế, đồng thời là phó giáo sư Khoa luật, Đại học quốc gia Singapore.

No comments: