Thursday, October 22, 2015

Bắc Kinh vươn tới vị thế trên tay về quân sự ở Châu Á

Bắc Kinh vươn tới vị thế trên tay về quân sự ở Châu Á
(Beijing Reaches for Military Upper Hand in Asia)

Khoảng cách nhanh chóng thu hẹp lại làm tăng thêm rủi ro cho Mĩ trong việc chống lại Trung Quốc

ANDREW BROWNE
WSJ (20/10/2015)

At a military parade Sept. 3 to commemorate the end of World War II, China displayed for the first time the DF-21D antiship ballistic missile, designed specifically to target approaching U.S. aircraft carriers.
 Tại cuộc diễu binh ngày 3 tháng 9 để kỉ niệm kết thúc Thế chiến II, Trung Quốc lần đầu phô ra  tên lửa đạn đạo chống tàu DF-21D, được thiết kế đặc biệt có mục tiêu nhắm vào các tàu sân bay Mĩ. Ảnh: EUROPEAN PRESSPHOTO AGENCY


ĐÀI BẮC- Năm 1996, khi Trung Quốc cố dọa cử tri Đài Loan với việc bắn tên lửa gần đảo này, Tổng thống Mĩ Bill Clinton đã nhanh chóng điều hai nhóm tác chiến tàu sân bay tới. Thông điệp thẳng tuột của ông cho Bắc Kinh: hãy xéo đi.

Mĩ lúc đó đang có sức mạnh ở tột đỉnh, còn Trung Quốc hầu như không có khả năng tự vệ trên biển và trên không, do đó, Lầu Năm Góc có thể có thừa sức để hành động nghênh ngang. Một cuộc xung đột, nếu Trung Quốc đần độn tới mức kích động lên, có thể phô lộ sự lạc hậu về  quân sự kinh niên của họ. Nếu đối đầu, Bắc Kinh buộc phải chịu thua.

Hiện nay, một cuộc khủng hoảng đang tích tụ ở Biển Đông đối với công việc xây đắp đảo đồ sộ của Trung Quốc làm nổi rõ sự thay đổi một cách đầy kịch tính cán cân quân sự ở Đông Á, không chỉ đối với Đài Loan mà ở mọi chỗ nằm trong tầm tên lửa, máy bay chiến đấu và tàu ngầm của Trung Quốc. Mĩ không lẫn tránh; họ hiện đang trù tính một cuộc thách thức hải quân ngày nào đó quanh quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc đã trang bị một đường băng đủ dài để máy bay quân sự đáp xuống trên một trong những mặt bằng do nạo vét. Nhưng Nhà Trắng đang rối bù về những rủi ro trong nhiều tháng nay.

Đừng trông mong các tàu sân bay. Chúng hiện là mục tiêu của tên lửa đạn đạo chống tàu hoạt động đầu tiên của thế giới. Bên cạnh đó, khống chế nhanh không phải là một phần của bất kì kế hoạch trò chơi hợp lí nào chống lại Trung Quốc ngày nay, kể từ năm 1996 chi tiêu quân sự của họ tăng lên trung bình hàng năm là 11%, thu hẹp khoảng cách quân sự với Mĩ nhanh hơn so với hầu như bất cứ ai có thể nghĩ tới.

Thay vào đó, Lầu Năm Góc thấy mình trong tình thế lưỡng nan: làm sao triển khai tối thiểu sức mạnh hải quân trong khi vẫn truyền tải được tín hiệu răn đe tới Bắc Kinh. Một lựa chọn là phái các tàu chiến ven biển tối tân nhưng vũ trang tương đối nhẹ đang đóng ở Singapore.

Mặc dù quần đảo Trường Sa không chút gì hơn một nhóm các rạn đá, đảo san hô và bãi cát ở rải rác, chúng đã trở thành những biểu tượng cụ thể trong một cuộc đấu tranh địa chính trị lớn hơn nhiều. Độ tin cậy về an ninh mà Mĩ bảo đảm cho các đồng minh châu Á đang bị đe doạ.

Tuy nhiên, bất cứ hành động nào mà Lầu Năm Góc quyết định làm sẽ chiếu sáng các lựa chọn quân sự đang thu hẹp của Washington  - và khả năng của Trung Quốc trong việc định hình các hành động của Mĩ. Theo một nghiên cứu gần đây của Rand Corp, trong vòng 5 đến 15 năm tới "Châu Á sẽ chứng kiến biên giới thống trị của Mĩ lùi ra xa dần."

Thật vậy, khi các nhà chiến lược quân sự Mĩ trù tính việc thực hành "Tự do hàng hải" bằng cách phái tàu chạy vào trong vòng 12 hải lí của các đảo do Trung Quốc tự tạo, điều trên hết trong suy nghĩ của họ là làm thế nào để tránh sa vào một cuộc xung đột. Đó không phải là vì Hoa Kỳ có bất kì nguy cơ bị thua nào - trong hầu hết các tình huống không dùng vũ khí hạt nhân, quân đội Mĩ vẫn vượt xa quân đội Trung Quốc - mà vì cái giá huỷ hoại có thể xảy ra.

Một cuộc xung đột với Trung Quốc sẽ không giống như bất kì cuộc xung đột nào mà Mĩ từng phải đối mặt kể từ Thế chiến II. Kể từ đó, Mĩ cũng chưa từng phải đối mặt với một kẻ thù có khả năng đe dọa các tàu sân bay và tàu ngầm của họ - biểu tượng kép về sức mạnh và uy tín của Mĩ.

Và Mĩ chưa từng đánh nhau với một kẻ thù có khả năng chiến tranh mạng - hay có vũ khí hạt nhân.



Hơn nữa, mặc dù Mĩ vẫn dẫn đầu một quân đội kinh khiếp trên tổng thể, Trung Quốc lại nắm giữ con chủ bài: địa lí. Sự gần gủi với các điểm nóng của Đông Nam Á, bao gồm cả Đài Loan và quần đảo Trường Sa, bù trừ phần lớn các lợi thế công nghệ của Mĩ. Bắc Kinh không phải tìm cách sánh với Mĩ từng loại vũ khí một để đảo ngược tình thế đối với Washington và bắt đầu chế ngự sân sau của mình.

Chắc chắn là quân đội của Trung Quốc chưa từng được thử thách từ sau cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam vào năm 1979, và trong nhiều lĩnh vực trọng yếu Mĩ vẫn còn đi trước nhiều thập kỉ . Ví dụ, Trung Quốc chỉ có 10 máy bay bồn dùng để tiếp nhiên liệu cho máy bay phản lực; Mĩ có 475.

Nhưng thời điểm đảo ngược cán cân đang đến gần hơn. Nghiên cứu của Rand cho biết một cuộc xung đột ở Đài Loan vốn chỉ cách bờ biển Trung Quốc 100 dặm, nhưng cách lục địa Hoa Kỳ hàng ngàn dặm, sẽ là một "biến động ngắn, gay gắt và có lẽ dữ dội với những thiệt hại nghiêm trọng cho cả hai bên."

Theo Bộ Quốc phòng Mĩ, Trung Quốc hiện có ít nhất 1 200 tên lửa đạn đạo tầm ngắn thuộc loại đã rót vào vùng biển xung quanh Đài Loan hồi năm 1996 lúc đảo này đang chuẩn bị bỏ phiếu bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên.

Sau đó, Bắc Kinh cũng hi vọng làm cử tri sợ hãi để bác bỏ ứng cử viên Quốc Dân Đảng đang cầm quyền, Lee Teng-hui (Lí Đăng Huy), người mà họ sợ sẽ dẫn Đài Loan theo con đường tìm kiếm độc lập. Kế hoạch này bị phản tác dụng: Lí Đăng Huy giành được đa số phiếu bầu.

Tháng 1 tới, Đài Loan đi vào bầu cử lần nữa, và một lần nữa Trung Quốc đang lo ngại về ứng cử viên đang dẫn trước Tsai Ing-wen (Thái Anh Văn), đảng của bà công khai gắn kết với những người ủng hộ độc lập, mặc dù chính bà đã nói rõ bà ủng hộ nguyên trạng.

Trung Quốc cho đến nay đã tạm ngưng chiến thuật bắt nạt đối với Đài Loan, mặc dù họ đang gia tăng các cảnh báo về hành động của hải quân Mĩ ở Trường Sa; một bài bình luận của Tân Hoa Xã cho biết Trung Quốc sẽ phản ứng "một cách thích hợp và dứt khoát." Một cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ ở Đông Á đang diễn ra, và các xu thế quân sự đều theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Tuesday, October 20, 2015

Đối đầu Mĩ – Trung lờ mờ hiện ra trong vùng biển rắc rối ở Biển Đông

Đối đầu Mĩ – Trung lờ mờ hiện ra trong vùng biển rắc rối ở Biển Đông

(Bản dịch đã đăng trên adminbasam on 18/10/2015)
US-China confrontation looms in troubled waters of South China Sea

SMH (17-10-2015)
Nick O’Malley, Phóng viên Mĩ của Fairfax Media


Tàu chiến Mĩ dự kiến sẽ thách thức chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố trong việc thực hành quyền tự do đi lại.
H1Bộ trưởng Quốc phòng Maurice Payne, Bộ trưởng Ngoại giao Úc Julie Bishop và Ngoại trưởng Mĩ John Kerry tại một cuộc họp báo ở hội đàm quốc phòng Mỹ-Úc. Ảnh: AP
Nếu bạn định thiết kế một khu vực biển có đặc điểm sẽ gây ra tranh chấp giữa các nước, bạn không thể nào làm tốt hơn việc hình thành Biển Đông.
Như Robert Kaplan, một cựu thành viên trong Ban Chính sách Quốc phòng của Lầu Năm Góc, viết trong cuốn sách của mình: Vạc dầu Châu Á, Biển Đông và sự chấm dứt của khu vực Thái Bình Dương ổn định (Asia’s Cauldron, The South China Sea and the End of a Stable Pacific), [Biển Đông là nơi có] chủ quyền tranh chấp giữa Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Việt Nam, hơn một nửa trọng tải giao thương thế giới tới lui qua đoạn yết hầu hàng hải này giữa Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
“Cái gọi là thực hành quyền tự do đi lại có thể chứng kiến các tàu hải quân Mĩ và Trung Quốc hoạt động cách nhau trong vòng 1000 mét ở vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền”.
Nằm bên dưới vùng biển đó là khoảng 900 ngàn tỉ feet khối khí đốt tự nhiên và 130 tỉ thùng dầu.
H1Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, phải, và Tổng thống Mĩ Barack Obama trên bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng ở Washington. Ảnh: Bloomberg
Yêu sách Trung Quốc đối với những mảng rộng lớn của Biển Đông đã mở rộng cùng nhịp với sự nâng lên về kinh tế và quân sự của họ.

Năm 2010 Trung Quốc cho Mĩ biết rằng họ coi khu vực này là ‘lợi ích cốt lõi’ và năm sau đó tờ Hoàn Cầu, phụ bản báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản, đã viết một xã luận, cảnh báo các nước khác đừng coi cách tiếp cận hòa bình của Trung Quốc đối với các tranh chấp trong khu vực là chuyện đương nhiên.
“Nếu những nước này không chịu thay đổi cách cư xử với Trung Quốc, họ cần chuẩn bị nghe tiếng đại bác gầm. Chúng ta cần sẵn sàng cho điều đó, vì đó có thể là cách duy nhất để các tranh chấp ngoài biển được giải quyết”.
Đúng lúc Trung Quốc quyết tâm khẳng định quyền lực chiến lược mới của họ ở đây, Mĩ cũng quyết không cho phép họ tạo ra những chuẩn mực quốc tế mới ở Biển Đông.
Nếu như có chiến tranh giữa Trung Quốc và Mĩ, đây chính là chỗ mà mọi người lo ngại nó có thể bắt đầu, đây chính là chỗ mà các nhà quan sát kì vọng Mĩ sẽ kiểm nghiệm quyết tâm của Trung Quốc trong những ngày tới.
Mấy tuần qua, có nhiều tường thuật từ các nguồn hải quân cấp cao của Mĩ – có nêu tên và không nêu tên – rằng Hải quân Mĩ đang có kế hoạch thực hiện điều mà họ gọi là thực hành quyền tự do đi lại qua các vùng biển mà Mĩ tin rằng Trung Quốc đang đòi chủ quyền phi pháp.
Hôm Thứ Năm, Phó Đô đốc Peter Daly, từng chỉ huy nhóm tác chiến tàu sân bay trong chiến tranh Iraq trước khi nghỉ hưu, nói với Fairfax Media rằng tất cả các dấu hiệu và chuyện trò ngoại giao mà ông chứng kiến, gơi ra rằng, một cuộc thực hành như vậy sẽ được tiến hành trong vài ngày tới.
Cái gọi là thực hành quyền tự do đi lại có thể chứng kiến các tàu hải quân Mĩ và Trung Quốc hoạt động cách nhau trong vòng 1000 mét ở vùng biển Trung Quốc đòi chủ quyền.
Để hiểu được tầm quan trọng của hoạt động này, cần phải hiểu yêu sách của Trung Quốc. Trung Quốc cho rằng họ sở hữu một chuỗi các đảo nhỏ và các rạn đá trải rộng trên 2000 km biển. Phần lớn của yêu sách này bị nhiều nước láng giềng tranh chấp mà hầu hết trong số họ được Mĩ ủng hộ về quân sự, ngoại giao.
Một số thể địa lí này đang trong tình trạng có các yêu sách đối kháng của các quốc gia khác.


<i></i>
Đối mặt với sự phản đối quốc tế và để củng cố yêu sách của mình, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn đá trong khu vực này, và khu vực 12 hải lí xung quanh khu đất được bồi tạo, coi như là lãnh hải độc quyền.
Hồi tháng 9, Mĩ tiết lộ rằng không những việc bồi tạo đang tăng tốc mà các cơ sở cảng và đường băng cũng đang được xây dựng trên nhiều đảo.
Mỹ và nhiều nước khác đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc, lưu ý rằng Công ước về Luật Biển của Liên Hợp Quốc không kéo dài phạm vi áp dụng ra cho đất bồi tạo.
“Không thể chế tạo chủ quyền”, Daly nói.
Hơn nữa, Mĩ cho biết, đáng lẽ Trung Quốc không được hoạt động trên đảo tranh chấp trước khi các tranh chấp giải quyết xong.
Và như vậy chúng ta đi đến một cuộc giằng co. Để khẳng định điều mà họ xem là luật pháp quốc tế rõ ràng, Mĩ dường như đang lên kế hoạch cho một đội tàu chạy băng qua khu vực 12 hải lý, xung quanh một hoặc nhiều hơn trong số các đảo bồi tạo hoặc có tranh chấp này.
Chính Daly đã từng tiến hành cách thực hành tương tự nhiều lần, nói rằng ông không biết Hải quân Mĩ đang có kế hoạch sử dụng loại tàu nào, mặc dù trong quá khứ thường triển khai từ một đến ba tàu khu trục.
Daly nói, dự kiến Trung Quốc có thể dùng các tàu chiến của họ bám sát theo đội tàu Mĩ.
Daly tin rằng việc thực hành này mà ông mô tả như lệ thường, sẽ được hoàn thành mà không có xung đột, và phản ứng của Trung Quốc đối với việc này sẽ là phản ứng ngoại giao.
Mỹ nhấn mạnh không theo đứng về phe nào trong các tranh chấp chủ quyền trong khu vực, họ chỉ đơn giản muốn nhấn mạnh tới việc khẳng định quyền tự do đi lại.
“Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cho tàu và máy bay di chuyển và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép”, Tổng thống Barack Obama phát biểu trong một cuộc họp báo chung với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Washington hồi tháng trước. Các quan chức Mỹ và các nhà ngoại giao cấp cao đã sử dụng những lời lẽ giống như vậy nhiều lần kể từ đó.
Úc cũng đã nhắc lại lập trường đó.
Dù vậy Trung Quốc vẫn không cho thấy dấu hiệu xuống nước. Quả vậy Bill Bishop, tác giả của Sinocism China Newsletter, nói trong buổi phỏng vấn do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế – một nhóm chuyên gia tư vấn hàng đầu của Mĩ – công bố, rằng với kiểu cách tuyên truyền của họ thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có chỗ để thụt lùi – hiện nay người dân Trung Quốc coi Biển Đông như là một bộ phận của Trung Quốc.
Bishop nói với CSIS rằng thậm chí việc bồi tạo đất của Trung Quốc có thể sẽ tăng thêm trong những tháng tới vì Bắc Kinh tin rằng chính quyền sắp tới của Mỹ do Hillary Clinton hay do một nhân vật Cộng hòa đứng đầu vào năm 2017 có thể sẽ quyết đoán hơn.
Trong chuyến thăm Washington, DC, của Tập Cận Bình hồi tháng trước, vỡ diễn ngoại giao hoành tráng đó phần lớn đi theo kịch bản, ngoại trừ một lời bình luận của Tập Cận Bình trong buổi họp báo ở Nhà Trắng.
Obama đã khẳng định lại ý định của Mỹ về việc đi lại trên biển và trên không, ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép.
Tập Cận Bình đã đưa ra một lời đáp trả mà các nhà quan sát ở thủ đô Mĩ vẫn còn đang tranh luận, nói rằng Trung Quốc không có ý định quân sự hoá các đảo đang bàn. Theo một nhà quan sát ở Washington, quan chức Trung Quốc tại sự kiện này có vẻ bị sốc trước lời đáp trả này, và các nhà bình luận không thống nhất về ý nghĩa của nó.
Có thể đó là chính sách đã thay đổi? Có thể đó là một sự nhầm lẫn?
Như Bonnie Glaser, cố vấn cao cấp châu Á, kiêm giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, gợi ý rằng, đó có thể vì Trung Quốc không xem việc tạo ra các cảng và sân bay, thậm chí radar, hoặc thiết bị định vị là quân sự hoá chăng?
Dù theo cách nào, các quan chức Mỹ đã nhìn thấy một lổ hổng trong cách phát ngôn này và họ đang luồng qua đó, tìm mọi cơ hội để dựng nó như vị thế mới của Trung Quốc.
Úc có vẻ đang hát cùng một bài hát.
Trong họp báo chung ở cuộc đàm phán quốc phòng Mĩ – Úc hàng năm ở Boston tuần này, Bộ trưởng Ngoại giao Julie Bishop nhận xét, “Chúng tôi lưu ý và chúng tôi thật sự hoan nghênh phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình khi ông ở đây tại Hoa Kỳ, tại Washington, rằng Chính phủ Trung Quốc không có ý định quân sự hoá quần đảo Trường Sa. Và chúng tôi hoan nghênh tuyên bố đó và chúng tôi chắc chắn muốn Trung Quốc phải giữ lời”.
Nếu và khi các tàu chiến Mĩ thật sự lách vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông dưới mắt của các lực lượng đối nghịch nhau trong những ngày tới, Daly tưởng tượng thái độ trên tàu sẽ tập trung, lặng im và trầm tĩnh.
Về các hoạt động nhự thế này, ông nói “Nó không hoàn toàn giống như bất kì ngày nào khác”, dù đó là một phần của các hoạt động bình thường. Ông nói tiếp, nhưng khi hai lực lượng đến gần với nhau tới mức như vậy thì những rủi ro về một sự cố không lường trước nào đó sẽ tăng lên.

Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông

Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông
(Think again: Myths and Myopia about The South China Sea)
Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm)

(Bàn dịch đã đăng trên  anhbasam ngày 21/10/2015)



Tàu sân bay Mĩ

"Ẩn dụ bàn cờ" chẳng giúp chúng ta hiểu trò chơi mà Trung Quốc đang tiến hành


Khi thế giới tập trung sự chú ý vào Biển Đông, nhiều huyền thoại về vấn đề này cũng sinh sôi nảy nở. Một số huyền thoại tồn tại là do chúng ta không đủ tri thức. Nhưng nhiều huyền thoại khác vẫn còn hiện ra là do chúng ta dùng sai kính khi nhìn sự vật. Câu hỏi hóc búa về Biển Đông là một câu chuyện đầy thách thức để giải mã bởi vì hầu hết các kính thông thường mà chúng ta sử dụng không giúp chúng ta thấy ra được bản chất của câu chuyện này.


Chẳng hạn, suy nghĩ theo cách nhìn đối lập trắng đen là một cách hữu ích để đơn giản hóa và làm nổi bật sự vật lên, nhưng tròng kính này trở nên vô dụng để nhìn thấy những gì xảy ra ở Biển Đông, bởi vì sự vật ở đó chủ yếu xảy ra trong các vùng xám. Một cách tốt khác để hiểu các hoạt động của con người là nghĩ về chúng như việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên. Phần lớn những gì mà các nước làm là một cuộc tranh giành về tài nguyên, nhưng nếu chúng ta chú tâm vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì chúng ta sẽ đánh mất một nguồn chủ chốt ở Biển Đông: địa điểm.


Chúng ta thường dùng ván cờ như một cách ví von cho trò chơi mà các nước tiến hành, và bàn cờ là hình ảnh phổ biến về chỗ mà các nước tác động qua lại. Nhưng cách ví von này sẽ không giúp chúng ta hiểu được t Trung Quốc đang bày trò chợi gì. Như David LaiHenry Kissinger quan sát, chiến lược của Trung Quốc không giống như một cuộc cờ thường mà là một cuộc cờ khác của Trung Quốc có tên là weiqi (围棋/vi kì: dịch theo nghĩa đen dịch là "cờ vây" [game of encirclement] và được biết đến trong tiếng Anh qua tên tiếng Nhật là "go"). Ý tưởng cơ bản của weiqi giống như ý tưởng trong Binh pháp của Tôn Tử (Sun Tzu). Thay vì tập trung vào các trận đánh trực diện với kẻ thù, ý tưởng là vận dụng các xu hướng của sự vật để xoay chuyển tình hình có lợi cho mình. Như tôi đã trình bày trong National Interest, những gì Trung Quốc đã và đang làm ở Biển Đông là một ví dụ điển hình của việc chơi weiqi một cách thiện nghệ như thế nào.


Trong một bài báo gần đây, Lyle Goldstein đã thực hiện công việc đáng khen trong việc vạch trần một số trong những huyền thoại phổ biến về Biển Đông. Ông cũng mời các nhà hiện thực đồng bạn tham gia thảo luận. Với tư cách là một người quan sát Biển Đông và bản thân cũng là một người hiện thực, tôi rất vui lòng nhận lời mời của ông. Tôi sẽ trình bày một cái nhìn hiện thực khác, nhưng mục đích của tôi không phải là tạo ra một sự khác biệt. Điều tôi muốn là để hiểu cái gì đang thực sự xảy ra và những tác động của nó đối với chiến lược.


Bãi cạn Scarborough


Goldstein bác bỏ ý tưởng rằng "Chính quyền Obama đã phạm một sai lầm nghiêm trọng trong vụ Bãi cạn Scarborough hồi mùa xuân năm 2012, giúp hành động 'gây hấn.' của Trung Quốc tiến xa hơn nữa." Tuy nhiên, lời chỉ trích của ông chệch xa mục tiêu thực sự, và qua đó phát tán hai huyền thoại khác. Huyền thoại thứ nhất là tình huống chỉ hai mặt đen trắng trong đó chiến tranh là lựa chọn duy nhất cho những gì mà chính quyền Obama đã làm. Điều đó có thể có chỗ đúng, như đã được tường thuật rộng rãi, rằng chính phủ Philippines đã tìm kiếm sự hậu thuẫn quân sự của Washington theo hiệp ước phòng thủ chung Mĩ-Philippines. Nhưng điều này không có nghĩa là Hoa Kì chỉ có hai lựa chọn: tiến hành chiến tranh để bảo vệ đồng minh hoặc giữ thế trung lập trong cuộc xung đột. Như Bonnie Glaser bình luận trên twitter, "Mĩ có các lựa chọn khác hơn là đi đến chiến tranh đối với vụ Bãi cạn Scarborough. Việc không hành động của Mĩ đã gây nhiều hậu quả." Mục tiêu đã nêu trong những lời chỉ trích của Goldstein của, bài báo của  Ely Ratner có tiêu đề "Learning the Lessons of Scarborough Reef” (Học các bài học kinh nghiệm về Bãi cạn Scarborough) cũng vạch rõ rằng "mối đe dọa về một cuộc xung đột quy mô lớn là xa vời. Thay vào đó, sự bất ổn định trong khu vực có nhiều khả năng xuất phát từ các tranh chấp và cạnh tranh xảy ra ở một vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình."


Sai lầm lớn nhất mà chính quyền Obama phạm phải trong việc xử lý bế tắc Scarborough là việc họ chấp nhận vai trò làm một nhà trung gian trung thực. Đây là một vai trò cao cả, nhưng Washington định vị sai về cấu trúc khi giữ vai trò đó. Sự chênh lệch lớn về khả năng giữa Trung Quốc và Philippines có nghĩa là qua việc hành xử như một nhà trung gian trung thực, Washington tiếp tay cho Trung Quốc và tiếp tục cô lập Philippines. Quả vậy, Bắc Kinh đã nhiều lần từ chối đàm phán với Manila và dùng Hoa Kì gây sức ép để buộc Philippines lùi bước. Sự chênh lệch về tin cây (Manila tin người trung gian nhiều hơn Bắc Kinh) cũng có hậu quả. Manila dường như diễn giải thỏa thuận đạt được qua môi giới của  Washington (và một thượng nghị sĩ Philippines cấp thấp tên Antonio Trillanes) như là hai bên cùng bỏ trống khu vực, nhưng trên thực tế Bắc Kinh chỉ dời một số tàu đi trong khi vẫn duy trì kiểm soát việc ra vào khu vực này.


Huyền thoại thứ hai mà Goldstein ôm ấp là giá trị của Scarborough Shoal nằm ở tài nguyên biển của khu vực xung quanh. Nếu chỉ vì dầu và cá ở đó thì một nước lớn như Trung Quốc đã không đánh liều quan hệ ngoại giao và uy tín quốc tế của mình như thế. Thay vì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cái đáng giá cho công sức của Bắc Kinh bỏ ra để chiếm giữ rạn san hô này là vị trí của nó. Nằm gần các tuyến đường vận chuyển chính nối eo biển Malacca ở phía nam với eo biển Đài Loan và Luzon ở phía bắc, Bãi cạn Scarborough là nơi lý tưởng để từ đó quan sát và tuần tra khu vực phía đông của vùng trung tâm Biển Đông. Mặc dù rạn san hô này chủ yếu là ngập nước với chỉ một vài mỏm đá nhỏ trên mặt nước khi triều cao, nó có tiềm năng để bồi đắp lên thành một đảo nhân tạo gấp hai lần kích thước Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Cho đến nay có thể Trung Quốc chưa xây dựng bất kì cấu trúc nào trên Scarborough, nhưng đó không phải là lý do để nghĩ rằng một đảo nhân tạo ở đó là một ý tưởng hảo huyền. Suy cho cùng, vào năm 1995 khi Trung Quốc bắt đầu chiếm Đá Vành Khăn, có ai nghĩ rằng 20 năm sau rạn san hô ngập nước này sẽ biến thành một đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa với diện tích bề mặt gần 1.400 acre (mẫu Anh)?


Xây đắp đảo


Một "huyền thoại" khác bị Goldstein chỉ trích là "những dự án xây dựng của Trung Quốc ở Trường Sa lậap ra các 'căn cứ' mới, đủ rộng để làm thay đổi cán cân cân quyền lực trong khu vực." Ông lập luận rằng các đảo nhân tạo ở đó rất dễ bị tấn công trong thời chiến và do đó chỉ có thể là các "tiền đồn mang tính biểu tượng thôi." Tôi đồng ý với phần đầu của lập luận này nhưng không đồng ý với phần sau.


Tiền đồn của Trung Quốc ở giữa đại dương có thể không phải dễ bị làm tổn hại như một số người suy nghĩ. Nếu chiến tranh nổ ra, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng họ không có sự phân biệt giữa một cuộc tấn công vào các đảo này và một cuộc tấn công trên đất liền. Điều này sẽ làm cho tất cả mọi người phải suy nghĩ đi nghĩ lại trước khi tung ra một cuộc tấn công vào các đảo. Tuy nhiên, như tôi đã lưu ý trên National Interest  và chỗ khác, Trung Quốc không chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực khi xây đấp các đảo và các cơ sở trong quần đảo Trường Sa. Chiến lược tổng thể của họ ở Biển Đông theo câu châm ngôn của Tôn Tử "bất chiến tự nhiên thành." Những đảo nhân tạo này có thể biến thành các điểm điều khiển mạnh, các trung tâm hậu cần lớn, và các căn cứ triển khai sức mạnh có hiệu quả trong thời bình và trong vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.


Do vị trí chiến lược và năng lực hậu cần của chúng, các đảo trong tay của Trung Quốc sẽ là những căn cứ lớn mà từ đó vô số tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có thể khống chế các vùng biển và bầu trời Biển Đông. Hiện giờ, mục tiêu của Bắc Kinh dường như là giành uy thế tối cao về hải quân và không quân những khi không sự dính dáng về quân sự của Hoa Kì. Khả năng của Việt Nam tấn công các tiền đồn của Trung Quốc là hết sức hạn chế do dễ bị Trung Quốc trả đũa dọc theo tuyến biên giới dài 1450 km trên bộ. Bốn sân bay ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có thể nâng thêm khoảng từ 30 tới 40 số lượng máy bay thế hệ thứ tư mà Trung Quốc có thể hoạt động cùng một lúc ở Biển Đông. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc đạt được ưu thế trên không đối với Việt Nam và Malaysia, hai nuớc có lực lượng không quân lớn nhất trong số các đối thủ Đông Nam Á. Việt Nam có đuợc một bờ biển dài dọc theo Biển Đông nhưng cả nước chỉ có 35 máy bay thế hệ thứ tư. Malaysia nằm xa về phía nam và cả nước có không quá 44 bốn máy bay thế hệ thứ tư. Mặc dù các khí tài quân sự của Trung Quốc trên các đảo ở Biển Đông sẽ rất dễ bị tổn hại trong thời chiến, chúng có thể rất hữu ích cho tuần tra thời bình và dọa nạt về tâm lí.


Cụm từ phổ biến "bồi tạo đất" (land reclamation) không chuyển tải hết bản chất các hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông. Những gì Bắc Kinh đang làm ở quần đảo Trường Sa không chỉ đơn thuần là bồi đắp đất mà còn thay đổi địa lí. Ian Storey đã gọi nó là "hình thành đất” (terraforming). Carl Thayer lập luận rằng đó không phải là bồi đắp đất mà "thực thi trung tâm biển của Đông Nam Á (excising the maritime heart out of Southeast Asia)." Cán cân quyền lực trong khu vực có thể không thay đổi quá nhiều, nhưng địa lí khu vực đang bị chuyển đổi. Và địa lí mới sẽ cho phép Trung Quốc đảo lộn sự cân bằng trong khu vực.


Hậu thuẫn các đồng minh và đối tác


Tôi đồng ý với Goldstein (và nhiều người khác) rằng sự ủng hộ của Washington đối với các bên Đông Nam Á có tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông sẽ tạo động lực để họ cuơng quyết và mạnh mẽ hơn. Nhưng tôi không đồng ý với kết luận rằng tốt hơn Hoa Kì nên rút tay ra khỏi Biển Đông


Thứ nhất, khuyến khích đến từ sự ủng hộ của Washington chỉ là một trong nhiều loại khuyến khích và gàn cản mà các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc là. Một điều cản trở rất lớn là sự chênh lệch không thể vượt qua về khả năng vốn đặt Trung Quốc vào một vị thế vô cùng thuận lợi so với các nước Đông Nam Á. Nếu không có sự ủng hộ của Washington, Philippines - trang bị kém về quân sự và gắn bó lỏng lẻo về chính trị - sẽ dễ dàng chịu thua trước sự khống chế của Trung Quốc, như điều đó cuối cùng đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng Scarborough.


Thứ hai, nguy cơ của một cuộc xung đột trực tiếp giữa Washington và Bắc Kinh là có thật ngay cả khi không có sự ủng hộ của Mĩ đối với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông chỉ thể hiện phần nổi của tảng băng; nằm sâu dưới bề mặt là một cuộc cạnh tranh có tính chiến lược hơn giành uy thế tối cao ở Tây Thái Bình Dương. Trung Quốc và Hoa Kì là hai đối thủ chính trong cuộc cạnh tranh này, mặc dù các quốc gia khác như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cũng có vai trò quan trọng.


Không có sự hiện diện thường trực ở Biển Đông và với căn cứ ở xa xôi tận quê nhà, Hoa Kì phải dựa vào Việt Nam, Philippines và ở một mức độ thấp hơn vào Malaysia để giữ cán cân bằng quyền lực trong khu vực không lệch quá xa về phía Trung Quốc. Về mặt này, lợi ích của Mĩ và Đông Nam Á là bổ sung nhau chứ không phải mâu thuẫn nhau. Giúp các đồng minh và đối tác cũng là một cách kinh tế để phục vụ lợi ích của Mĩ trong khu vực. Đối với việc Mĩ  trợ giúp các đồng minh và đối tác của mình ở Biển Đông, câu hỏi thực sự ở đây không phải có nên hay không mà là giúp như thế nào. Có nhiều lựa chọn để xem xét trong việc trả lời câu hỏi này, và một cuộc xung đột trực tiếp Trung-Mĩ là một nguy cơ phải ngăn ngừa, chứ không phải là một hệ quả logic của sự ủng hộ của Mĩ đối với các đồng minh và đối tác trong xung đột với Trung Quốc.


Tự do hàng hải và lãnh đạo khu vực


Nhưng tại sao Hoa Kì phải tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương? Câu trả lời gần như chuẩn là Hoa Kì có lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải và vị thế đứng đầu về quân sự của Mĩ tại các vùng biển này là sự bảo đảm tốt nhất cho điều đó. Tôi nghĩ rằng câu trả lời này có sai sót, nhưng không phải vì những lý do do Goldstein đưa ra. Thứ nhất, mặc dù Hoa Kì có lợi ích quan trọng ở Biển Đông, tự do hàng hải không phải là từ ngữ tốt nhất dùng cho lợi ích này. Thứ hai, có một lý do khác để cho Hoa Kì để tranh giành vị thế đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương. Cho tôi đuợc giải thích.


Thuật ngữ "tự do hàng hải" là một lựa chọn không tồi về từ ngữ. Ý nghĩa của nó thay đổi tùy theo ta đứng ở vị trí pháp lý hoặc quan điểm quốc gia nào. Cái đuợc mất ở đây không phải là quá nhiều về quyền tự do hàng hải như là một tình hình thực tế mà là quyền truy cập tự do tới các vùng biển và bầu trời ở khu vực đông đúc này. Có một sự khác biệt cốt yếu giữa các cam kết của Trung Quốc và Mỹ đối với "quyền tự do hàng hải" ở Biển Đông. Sự khác biệt này xuất phát từ thực tế cơ bản rằng trong khi Hoa Kì đề cao khái niệm các vùng biển chung của toàn cầu (golobal commons), còn Trung Quốc lại trân quý ý tưởng về "đường chín đoạn". Với ý tưởng này, Bắc Kinh coi khu vực được chỉ ra bởi "đường chín đoạn" là một cái gì đó giống như một địa hạt có chủ quyền mà họ đã đánh mất vào tay người khác và họ có quyền lấy lại. Trung Quốc và Hoa Kì có thể có chung quan điểm khi nói đến tự do hàng hải tại hầu hết các vùng biển trên trái đất, nhưng Biển Đông là một trường hợp đặc biệt vì có "đường chín đoạn". Trong khi Washington thừa nhận quyền của mọi người, kể cả của kẻ thù của mình, được tự do tiếp cận các vùng biển và bầu trời ở khu vực này, Bắc Kinh giữ lại quyền đó cho chính họ. Khi Trung Quốc nói rằng họ đảm bảo quyền tự do đi lại ở Biển Đông thì cần ngầm hiểu rằng với tư cách một cường quốc độ lượng họ mở cửa ra cho tất cả mọi người nhưng những người khác phải tôn trọng chủ quyền của họ.


Trung Quốc còn lâu mới có thể kiểm soát tất cả các "cửa" dọc theo "đường chín đoạn", và thậm chí nếu họ có thể làm như vậy, họ cũng sẽ không đóng các "cửa" đó. Xét cho cùng, Trung Quốc có lợi ích rất to lớn trong việc giữ các dòng chảy thương mại xuyên qua Biển Đông không bị cản trở. Sự đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hàng hải và hàng không ở khu vực này ảnh hưởng đến các cơ sở có tính quy phạm của quyền tự do này nhiều hơn là tình hình thực tế. Nếu Hải quân Trung Quốc trở thành kẻ giám hộ quyền tự do hàng hải trong vùng biển này, hầu hết tàu thuyền, hầu như mọi lúc, vẫn có thể đi lại qua đó không bị cản trở, nhưng đó không phải là vì các nước được hưởng quyền khách quan về tự do truy cập mà vì họ được hưởng sự độ lượng chủ quan của Trung Quốc mà nhiều khi sưự độ luợng này có thể có chọn lọc và tùy tiện. Chi tiết tinh tế này có thể không quan trọng đối với các công ty bảo hiểm và vận chuyển, nhưng nó sẽ có hậu quả sâu rộng cho nền chính trị thế giới. Nó có nghĩa là trong trật tự khu vực do Trung Quốc  bảo lãnh thì luật pháp quốc tế phải nhường bước cho chính sách của Trung Quốc.


Ngay cả khi Trung Quốc hành xử theo cùng cách như Hoa Kì, vị thế đứng đầu của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ vẫn còn đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với quyền lãnh đạo của Mĩ trong khu vực. Sự tập trung của các động mạch chính của Châu Á ở khu vực này có nghĩa rằng, diễn giải lại theo cách nói của Harold Mackinder, ai kiểm soát Biển Hoa Đông và Biển Đông thì kẻ đó sẽ thống trị Châu Á; và với sự trỗi dậy của Châu Á, ai thống trị khu vực này thì kẻ đó sẽ điều khiển thế giới. Trong 70 năm tính từ ngày cuối của Thế chiến II, vị thế đứng đầu của hải quân Mĩ ở Tây Thái Bình Dương đã cho phép Washington đóng một vai trò lãnh đạo ở Châu Á. Về phần mình, Trung Quốc đã ngày càng thể hiện sự tin tưởng rằng con đường của họ tới vị trí đứng đầu Châu Á cũng chạy qua vị thế đứng đầu ở vùng biển này.


Chiến tranh Mĩ-Trung


Nếu cuộc thách giữa hai đối thủ này là không thể tránh được thì ai sẽ thắng ai? Tôi đồng ý với Goldstein rằng kết quả của một cuộc chiến tranh Mĩ-Trung là rất không chắc chắn. Với tất cả những lợi thế về công nghệ, Hoa Kì lại bị bất lợi rất lớn về địa lý.


Nếu nguy cơ bị thua của Mĩ va Trung Quốc là tương đương nhau thì Washington sẽ phải suy nghĩ lại chiến lược lớn của mình. Ngăn chặn sẽ là một trụ cột rất yếu trong chiến lược của Mĩ. Washington phải dựa trên cân bằng, chứ không ngăn chặn hoặc hòa giải, như là các đặc tính chủ yếu của chính sách ngoại giao và hoạch định chiến lược của mình. Vì chiến tranh vừa là một cái cần phải tránh vừa là cái không thể thắng, nên việc hoạch định chiến lược của Mĩ phải chuyển trọng tâm từ chiến tranh sang các vùng xám giữa chiến tranh và hòa bình.


Hoa Kì có thể cũng không cần phải sử dụng rất nhiều công cụ công nghệ cao của mình. Điều mà họ cần phải làm nhiều hơn là khắc phục những bất lợi về địa lý bằng cách sử dụng thế "cờ vây" một cách điêu luyện như Trung Quốc. Họ sẽ cần phải giúp các nước ven biển như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Malaysia tăng cường khả năng phòng thủ, cả quân sự lẫn phi quân sự, và góp chung lực lượng trong một liên minh mạnh mẽ. Có lẽ huyền thoại lớn nhất hơn cả liên quan đến an ninh Châu Á hiện nay là Hoa Kì không thể và không nên kiềm chế Trung Quốc.


Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Nghiên cứu An ninh Daniel K. Inouye. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả và không phản ánh quan điểm của DKI-APCSS, Bộ Quốc phòng, hay Chính phủ Hoa Kì.

Tuesday, September 1, 2015

Bill Hayton - BIỂN ĐÔNG (Chương 7: Ngoại giao)

Chương 7
Kiến và Voi:
Ngoại giao

Ants and Elephants: Diplomacy


Chiều tối ở PHNOM PENH, Thứ Sáu, 18 tháng 12 năm 2009. Hai mươi người thiểu số Duy Ngô Nhĩ của Trung Quốc đang nghỉ trong một căn hộ do Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) cung cấp. Họ chạy trốn khỏi tỉnh Tân Cương [phía Đông TQ] sau các cuộc đụng độ giữa người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi và người Hán hồi tháng 7 khiến có ít nhất 200 người đã bị giết chết. Sau chuyến đi căng thẳng xuyên qua Việt Nam và Lào, người Duy Ngô Nhĩ có thể cảm thấy an toàn. Ngày hôm trước, Thủ tướng Campuchia, Hun Sen, đã kí một Nghị định cam kết nước ông giải quyết những người tị nạn và những người muốn xin tị nạn đúng theo chuẩn mực quốc tế. Đây là một bất ngờ: Nghị định đã bị trì hoãn trong nhiều năm và các nhà ngoại giao không mong đợi trong vài tháng nữa nó sẽ được kí. Tại sao lại có sự khẩn cấp này?

Sự có mặt của người Ngô Duy Nhĩ trong thành phố đã trở thành chuyện thường hai tuần trước đó sau khi Đại hội người Duy Ngô Nhĩ thế giới công bố tình cảnh của họ trên tờ Washington Post. Điều bất thường là chính phủ Trung Quốc không đưa ra nhiều bình luận về vấn đề này - mặc dù họ coi các nhà hoạt động Duy Ngô Nhĩ như là những kẻ ‘li khai’ và cực đoan tôn giáo. Khi được hỏi về nhóm này vào ngày 8 tháng 12, người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh mối quan hệ thân thiện giữa Trung Quốc với Campuchia và kêu gọi ‘tăng cường hợp tác chống lại khủng bố’- nhưng ý kiến của bà ta đã bị cắt bỏ khi chuyển thành bản văn chính thức.[1] Ngày 15 tháng 12, bà ta chỉ nói rằng nhiều thành viên của nhóm này ‘dính dáng tới tội phạm’ và đang bị chính quyền Trung Quốc điều tra. Bà cảnh báo rằng ‘hệ thống bảo vệ người tị nạn quốc tế không nên làm chỗ chứa chấp cho bọn tội phạm để tránh hình phạt pháp lí’, nhưng nói ít về những điều khác.[2]

Trong tư riêng, Bắc Kinh ăn nói manh dạn hơn. Ngày 14 tháng 12, Bộ Ngoại giao Campuchia thừa nhận có nhận một công hàm ngoại giao về người Duy Ngô Nhĩ  từ Toà Đại sứ Trung Quốc. Nhưng cùng ngày, theo thông tin mật của Mĩ phổ biến qua Wikileaks, giám đốc UNHCR ở Campuchia nói với đại sứ Mĩ rằng các cuộc thảo luận với chính phủ Campuchia về người Duy Ngô Nhĩ là tích cực và vụ này sẽ được giải quyết trong vòng một vài tuần.[3] Ba ngày sau đó tất cả mọi thứ đều thay đổi. Nghị định Thủ tướng Chính phủ đã kí cũng đã kết thúc một thỏa thuận với UNHCR, theo đó hai bên cùng chia sẻ trách nhiệm đối với người tị nạn và những muốn xin tị nạn. Ngay khi mực vừa khô, Quyền Bộ trưởng Nội vụ Campuchia, Em Sam An, ra lệnh trục xuất người Duy Ngô Nhĩ vì cho rằng họ đã vi phạm Luật Di Trú của nước này.

Tối ngày 18 tháng 12, cảnh sát đã đột kích vào khu nhà an toàn của UNHCR và dí súng bắt đi những người cư ngụ, trong đó có một người mẹ với hai con. Tối ngày hôm sau họ bị ấn vào một máy bay phản lực tư nhân vừa mới đến từ Trung Quốc và bay đi trong đêm tối.[4] Phản đối quốc tế - cả đối với chính phủ Campuchia lẫn Trung Quốc và UNHCR – đưa ra nhanh chóng và ồn ào nhưng vô ích. Các tin tức sau đó cho biết rằng 4 người trong nhóm đã bị kết án tù chung thân, 4 người 20 năm, bốn người 17 năm và 4 người 16 năm. Người phụ nữ và hai đứa con được thả.[5]

Một ngày sau khi chiếc máy bay đó cất cánh bay khỏi Campuchia, một chiếc khác lại đến. Chiếc này chở Tập Cận Bình, lúc đó là Phó Chủ tịch Trung Quốc, kết thúc chuyến đi sang bốn nước Châu Á. Hai ngày sau đó, tựa lớn trên các báo tuyên bố chuyến đi thành công vang dội: 14 thỏa thuận đã kí, và theo phía Campuchia, có hứa hẹn $1,2 tỉ viện trợ.

Đập nước sẽ được xây, đường giao thông sẽ được làm và đền đài xưa sẽ được trùng tu. Các nhà ngoại giao Campuchia khẳng định số phận của người Duy Ngô Nhĩ hoàn toàn không nằm trong chương trình nghị sự[6] nhưng đối với hầu hết các nhà quan sát bên ngoài sự câu kết giữa hai nước này có vẻ thật rõ ràng. Và theo một tin mật khác của Mĩ, Phó Thủ tướng Campuchia Sar Kheng đã nói với đại diện khu vực UNHCR rằng chính phủ nước này ở trong một ‘vị thế khó khăn do các sức ép từ các thế lực bên ngoài’.

Thừa nhận tư riêng tư đó đã huỷ hoại những kể lể của Hun Sen về quan hệ của Campuchia với Trung Quốc. Phát biểu hồi tháng 9 tại công trường xây dựng chiếc cầu thứ ba trong 8 chiếc cầu ‘Hữu Nghị Campuchia-Trung Quốc’, Thủ tướng đã ca ngợi lãnh đạo Bắc Kinh về việc cung cấp viện trợ không điều kiện. ‘Họ không ồn ào, nhưng đồng thời họ cũng xây dựng cầu đường, không kèm điều kiện phức tạp’[7]- như đòi phải tuân thủ công ước quốc tế về quyền con người, chẳng hạn.[8]

Các nhóm nhân quyền tiếp tục chỉ trích chính phủ Phnom Penh về việc trục xuất người Duy Ngô Nhĩ và, kết quả là, bốn tháng sau, vào ngày 01 tháng 4 năm 2010, chính phủ Mĩ thông báo ngưng lại lô hàng 200 xe tải quân sự và xe kéo dư thừa cho Cambodia.[9] Được hiểu như một đòn trừng phạt của Washington, nó đã trở thành một cơ hội cho Bắc Kinh. Chỉ một tháng sau đó, chính phủ Trung Quốc tuyên bố sẽ cấp cho 256 xe tải - mới nguyên, không phải dư thừa - và còn cho thêm 50 000 bộ quân phục. Khi số xe này đến vào cuối tháng 6, cơ hội tốt để tung hình quảng cáo cho viên chính uỷ cao lớn có dáng thể thao của Tổng cục Vũ khí Quân đội Trung Quốc, tướng Chi Wanchun [Trì Vạn Xuân], đặt một chìa khóa khổng lồ vào hai bàn tay chấp lại của viên Thứ trưởng Quốc phòng thấp bé, đẩy đà và hăm hở quá mức của Campuchia, Moeung Samphan. Chỉ chưa đầy một tháng sau ngày khánh thành ‘cầu Hữu Nghị Campuchia-Trung Quốc’ thứ ba, thời điểm dường như tượng trưng cho tương lai công tác đối ngoại của Cambodia.

Tuy nhiên, Mĩ sẽ không để bị vượt trội bởi một chiếc chìa khóa khổng lồ và một số chiếc cầu dài. Ba tuần sau đợt Trung Quốc bàn giao rình rang xe tải, người của Washington đến Phnom Penh với món quà của riêng mình: một thùng đựng đầy các cổ vật. Phụ tá Ngoại trưởng phụ trách về chính trị William Burns đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt để đánh dấu kỉ niệm 60 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước, nhân cơ hội này giao lại 7 bức tượng và tranh chạm khắc của Campuchia bị đánh cắp được Hải quan Los Angeles thu lại. Các di vật đã được vận chuyển trên một tàu y tế Hải quân Mĩ chạy ngay vào thành phố trong sứ mệnh giành lấy ‘trái tim và khối óc’ (win hearts and minds) với việc tổ chức chăm sóc sức khỏe miễn phí. Ở những nơi khác trong cả nước, các chương trình trái tim và khối óc khác làm việc ve vãn với việc nối lại quan hệ quân sự - chỉ hai tháng sau khi tạm đình chỉ.

Khi các bức tượng đã được bàn giao, lính Mĩ và Campuchia đã tham gia cuộc luyện tập gìn giữ hòa bình đa phương lần đầu tiên trên đất Campuchia, có tên là Angkor Sentinel 10. Nó là một phần của ‘Sáng kiến hoạt động hòa bình toàn cầu’ do Bộ Ngoại giao Mĩ tài trợ vốn đã tạo điều kiện cho việc hợp tác giữa lực lượng Mĩ và quân đội nhiều nước kể từ năm 2006. Tuy vậy, các nhóm hoạt động về quyền con người đã tiếp tục chỉ trích việc chọn Campuchia cho cuộc luyện tập năm 2010 - một phần là do việc trục xuất người Duy Ngô Nhĩ, nhưng chủ yếu là vì, họ tố cáo, một số đơn vị quân đội Campuchia tham gia luyện tập đã cưỡng ép nông dân lấy đất, tra tấn và hành quyết tại chỗ. Điều tố cáo đó đã bị Toà Đại sứ Mĩ bác bỏ, họ nói rằng nhân viên của họ đã xem xét một cách chặt chẽ những người tham gia vào cuộc tập trận – có tất cả vài trăm người. Điều bất thường là luyện tập gìn giữ hòa bình lại có cả việc nhảy dù hỗn hợp cho lính dù Campuchia và lực lượng đặc biệt Mĩ.[10] Nếu như chính phủ Hoa Kì có những nghi ngờ về việc trợ giúp quân đội Campuchia một vài tuần trước thì các nghi ngờ này đã tan biến.

Trên thực tế, hợp tác quốc phòng Campuchia với Hoa Kì cao hơn nhiều so với một vài trăm xe tải đã qua sử dụng. Trong năm 2013, Carl Thayer, một chuyên gia về quân đội các nước Đông Nam Á, ước tính giá trị viện trợ quân sự Mĩ hàng năm cho Campuchia là trên $18 triệu.[11] Cuộc luyện tập Angkor Sentinel bây giờ là một sự kiện hàng năm. Cuộc luyện tập trên biển CARAT (Cooperation Afloat Readiness And Training) – Huấn luyện và Sẵn sàng Hợp tác trên biển – cũng thế. Trụ cột thứ ba của viện trợ quân sự Mĩ (sau gìn giữ hòa bình và giáo dục quân sự) là chống khủng bố. Campuchia không có vấn đề khủng bố, nhưng lực lượng chống khủng bố của nước này, tại thời điểm viết sách, do Trung tướng Hun Manet, con trai cả của Thủ tướng chỉ huy. Manet và các đơn vị của mình được một toán lực lượng đặc biệt của Mĩ đóng bên ngoài Toà Đại sứ cố vấn trực tiếp. Trên thực tế, đối với tất cả các cuộc đàm phán về việc tăng cường khả năng của Campuchia trong tham gia gìn giữ hòa bình quốc tế, viện trợ quân sự của Mĩ dường như cố ý nhắm vào các lĩnh vực có khả năng tạo ra ảnh hưởng chính trị. Cả ba người con trai của Hun Sen đều được huấn luyện quân sự ở Mĩ. Manet đã đến West Point năm 1999, Manith đến Trung tâm George C. Marshall châu Âu về nghiên cứu an ninh năm 2010, và người trẻ nhất, Many, đã tham dự Đại học Quốc phòng năm 2011.[12] Tại thời điểm viết sách, Manith là Phó Ban tình báo Campuchia, với cấp bậc Chuẩn Tướng, và Hun Many 30 tuổi là Phó Văn phòng Nội các của cha mình, cũng là người đứng đầu cánh thanh niên trong đảng của cha[13] và, sau cuộc bầu cử tháng 7 năm 2013, là một đại biểu Quốc hội.

Chúng ta không thể biết vương triều Hun Sen cảm thấy chịu ơn với Hoa Kì đến mức độ nào cho sự hào phóng này, nhưng chúng ta biết rõ rằng nhà chức trách Trung Quốc đang sẵn sàng chi ra nhiều tiền bạc cố gây ảnh hưởng gia đình họ Hun theo hướng của họ. Bắc Kinh có một lợi thế quan trọng: không có nhiều nhà hoạt động nhân quyền trong nước chực hờ chỉ trích chính sách viện trợ quân sự của họ. Một năm sau đợt chuyển giao xe tải năm 2010, Trung Quốc cho Campuchia vay $195 triệu để mua 12 máy bay lên thẳng quân sự Zhi 9 mới do Trung Quốc sản xuất. Tháng 5 năm 2012 Bộ trưởng quốc phòng hai nước đã đồng ý một thỏa thuận thêm $17 triệu cho huấn luyện, lại được tăng thêm với cam kết cung cấp huấn luyện và trang bị thêm nữa trong tháng 1 năm 2013.[14] Toà Đại sứ Trung Quốc không cần phải điều tra xem những người được hưởng có phạm tội tra tấn nông dân hay không.

Ở Phnom Penh cũng như trong giới chính sách của Mĩ, hiên có sự kinh ngạc lớn về mức độ mà Campuchia bị Bắc Kinh mua chuộc. Những con số rất lớn đã được trích dẫn về số tiền Trung Quốc đang viện trợ – chẳng hạn như con số $1,2 tỉ được làm ầm ĩ sau chuyến thăm của Tập Cận Bình. Tuy nhiên, khi nhìn thật kĩ con số đó, thực tế cho thấy ít ấn tượng hơn nhiều. Phía Trung Quốc không đưa ra thông tin nào cả và Campuchia không thể cung cấp bản phân bổ chi tiết cho con số đó - chỉ có danh sách 14 thỏa thuận chủ yếu bao gồm các khoản vay để làm đường xá và các cơ sở hạ tầng khác. Không lâu sau đó, Đại sứ Campuchia tại Trung Quốc, Khek Caimealy Sysoda, nói với các nhà ngoại giao Mĩ ở Bắc Kinh rằng con số này gồm 60 % là các khoản vay và 40 % là viện trợ không hoàn lại và tính luôn các dự án thuỷ điện.[15] Không có cách gì chỉ trong một năm tiền lại có thể được giải ngân. Nói tóm lại, $1,2 tỉ bao gồm các thỏa thuận thực hiện trước đó và bị trì hoãn nên chúng có thể trùng hợp với dịp Tập Cận Bình tới thăm, các món đầu tư thương mại không là viện trợ và các cam kết cần nhiều năm mới thực hiện xong.[16] Công bố với tựa lớn chỉ là loại thủ đoạn chính trị có ý đồ làm cho các nhà quan sát Mĩ phải giật dậy và lo lắng.

Năm 1964, Norodom Sihanouk, lãnh đạo Campuchia lúc đó, cho một phóng viênThomas S. Abercrombie của tạp chí National Geographic một lời khuyên: ‘Khi hai con voi đang đánh nhau thì các con kiến nên nép sang một bên’.[17] Mười năm sau đó đất nước của Sihanouk đã bị nghiền nát trong cuộc xung đột giữa chủ nghĩa tư bản Mĩ và hai biến thể của chủ nghĩa cộng sản Nga và Trung Quốc. Ngày nay, chính phủ Campuchia, và đặc biệt là quân đội, xem việc chơi trò ‘tình vờ’ với các con voi đối đầu nhau là tốt cho chính trị và tốt cho việc làm ăn. Ưu tiên của họ là giữ lấy quyền lực và tiếp tục làm giàu cho chính mình và bè cánh theo cái mà những người hóm hỉnh địa phương đã gán cho cái tên là bọn ‘Khmer nhà giàu’ (Khmer Riche). Được hai đối thủ giàu có sẵn sàng trợ cấp cho các dự án chính trị và lối sống cá nhân chỉ có thể là điều tốt. Bí quyết là giữ cho cả hai luôn trong trạng thái lo lắng về việc liệu họ có bị thua kẻ kia không. Hun Sen là một bậc thầy trong việc sử dụng điều tương đương trong ngoại giao của ‘phớt tình thì tình theo’ (treat ‘em mean keep ‘em keen).

Nhưng việc Campuchia xử sự với nước ngoài không chỉ đơn giản là về chơi trò ‘tình vờ’ với hai đối thủ kình địch nhau. Di sản lịch sử cay đắng của đất nước này là không dễ chịu, đôi khi thù địch trong quan hệ với hai nước láng giềng quan trọng nhất: Thái Lan và Việt Nam. Campuchia hiện có tranh chấp biên giới với cả hai nước này và tình cảm dân tộc chủ nghĩa đã nhanh chóng nổi lên, chẳng hạn trong vụ va chạm với Thái Lan về việc nước nào sở hữu vùng đất xung quanh ngôi đền có tính biểu tượng cao Preah Vihear. Việt Nam dù đã lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ được Trung Quốc hậu thuẫn vào năm 1979 và đã đưa Hun Sen lên nắm quyền nhưng tình trạng thù địch trong dân chúng đối với người Việt Nam là sâu rộng và sôi sục. Theo kể lể của Campuchia về ‘nổi nhục quốc gia’, bọn ‘Yuon’ (Việt) đã chiếm giữ vùng đất Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long một cách sai trái và chịu trách nhiệm về hai thế kỉ tàn bạo và bất công kể từ đó. Có rất ít ý thức đoàn kết trong khu vực và hầu hết người dân Campuchia sẽ thích thú một cơ hội để trả thù những người nước ngoài đã đánh cắp lãnh thổ ‘của mình’.

Trận đấu về lòng trung thành của nước Campuchia nhỏ bé tiêu biểu cho cuộc tranh giành ảnh hưởng lớn hơn toàn Đông Nam Á. Giống như những cơn gió mùa, việc gây sức ép và thuyết phục ‘thổi’ luân phiên từ các hướng khác nhau của la bàn. Giống như gió mùa, những luồng gió toàn cầu, khu vực và địa phương này có thể mang lại điều tốt lẫn điều xấu: viện trợ, thương mại và đầu tư lẫn tham nhũng và quân sự hoá. Những luồng quét từ phía Đông và phía Tây vào và giới chủ chốt địa phương tìm cách khai thác các sức mạnh mà chúng đại diện vì lợi ích của đất nước mình (hoặc đơn giản là của riêng họ). Lo lắng của Mĩ về sự trỗi dậy của Trung Quốc và lo âu của Trung Quốc về sự bao vây của Mĩ kết hợp với những bất bình địa phương có từ lâu đời và cuộc tranh giành quyền lực trong khu vực tạo ra các khủng hoảng và các cơ hội.

‘Các con kiến’ Đông Nam Á vẫn còn lo sợ những hậu quả của một tiếng gầm trong rừng già. Không nước nào trong số đó muốn làm cái việc lựa chọn giữa Mĩ và Trung Quốc. Mĩ là nhà đầu tư lớn nhất còn Trung Quốc là đối tác thương mại chính của khu vực. Chính phủ các nước Đông Nam Á biết rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của họ dựa trên sự ổn định do sự thống trị của quân đội Mĩ tạo ra và hầu hết đều có một hình thức thoả thuận quốc phòng nào đó với Mĩ. Họ cũng nhận thức rõ rằng Trung Quốc ở gần, và ngày càng gần hơn. Sự đối đầu giữa hai nước lớn này đã tạo ra những cơ hội mới cho những ‘con kiến’. Trong nửa thế kỉ kể từ khi Sihanouk sử dụng cách ví von về hai loài thú, họ đã học được cách để khai thác tốt nhất các con voi, đưa chúng về cùng phía với mình khi điều đó nằm trong lợi ích của họ, từ khước đòi hỏi của chúng nếu chúng trở nên quá quyết đoán. Đồng thời họ không thể tránh được bị cuốn vào trận chiến của các cường quốc lớn. Các tranh chấp ở Biển Đông đã khiến các trận chiến địa phương, khu vực và toàn cầu trở thành liên kết với nhau theo một cách chưa từng thấy trong khu vực kể từ khi chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1975.

**********

‘Đông Nam Á’ là phần tương đối mới của thế giới: nó chỉ tách khỏi Viễn Đông vào giữa thế kỉ XX với sự thúc đẩy của các học giả Đức và các nhà chiến lược Nhật Bản. Nhưng trong khi những nhà nhân chủng học như Robert Heine-Geldern bàn luận về nền văn hóa ‘Südostasien’ (Đông Nam Á [tiếng Đức]) thì các tướng Nhật âm mưu xâm chiếm nó, các nước còn lại trên thế giới - bao gồm chính ‘Đông Nam Á’ - phần lớn vẫn không biết gì về sự tồn tại của nó. Nhà chức trách Nhật Bản đặt ra thuật ngữ ‘Nanyo’ [Nam Dương] để mô tả một khu vực trải dài từ Đài Loan đến Papua New Guinea trong Vùng Thịnh vượng chung Đại Á của họ. Tuy nhiên, cho đến ngày 16 tháng 11 năm 1943, khi Bộ Chỉ huy Đông Nam Á do Đồng Minh lập ra để đánh nhau với Nhật Bản thì từ này mới đi vào tiếng Anh một cách thích hợp.[18]

Nhưng Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (SEAC) chịu trách nhiệm chiến tranh chỉ ở Ấn Độ, Miến Điện, bán đảo Mã Lai và Sumatra. Philippines, Borneo, phần còn lại của Đông Ấn Hà Lan và Papua New Guinea vẫn thuộc Bộ Chỉ huy Tây Nam Thái Bình Dương và vị trí của Đông Dương thuộc Pháp vẫn còn để mơ hồ cho đến hội nghị của Đồng Minh ở khu ngoại ô Potsdam của Berlin vào tháng 7 năm 1945. Tại cuộc họp đó Đông Nam Á mới có hình dạng hiện đại của mình: Borneo và Java được chuyển giao cho SEAC và, như một điềm báo trước kì lạ của các sự kiện sau này, Đông Dương được phân cho SEAC phụ trách phía Nam và Bộ Chỉ huy Trung Quốc phụ trách phía Bắc. Bộ Chỉ huy Đông Nam Á đã bị bãi bỏ vào tháng 10 năm 1946 nhưng từ này, hay đúng hơn là tầm nhìn về một khu vực liền lạc được gọi Đông Nam Á, vẫn còn đâu đó - và trở thành một vũ khí trong một loại chiến tranh khác.

Một lần nữa nó là một tầm nhìn quân sự - và một tầm nhìn do bên ngoài áp đặt vào. Vào lúc thành lập hồi tháng 9 năm 1954 tại Manila, chỉ có hai trong số các thành viên Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) thật sự thuộc khu vực này: Thái Lan và Philippines. Các thành viên khác - Mĩ, Anh, Australia, Pháp, Pakistan và New Zealand – đều có những lí do khác để tham gia. Anh vẫn còn các thuộc địa trong khu vực bây giờ là Brunei, Malaysia và Singapore, và Pháp, mặc dù đã rút khỏi Bắc Việt Nam, vẫn còn có mặt tại Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Mĩ muốn tạo ra một liên minh chống cộng nhưng SEATO không đủ sự tín nhiệm. Nó dân dần héo mòn cho đến cuối cùng đã được thoát ra khỏi đau khổ năm 1977 sau những chiến thắng của phe cộng sản ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Ảnh hưởng của nó còn đọng lại trong các hiệp ước an ninh giữa Hoa Kì, Thái Lan và Philippines. Khoảng năm 1958, nỗi lo sợ bị cộng sản trong nước lật đổ và bị Trung Quốc thống trị khu vực đã thúc đẩy nhiều sáng kiến tại chỗ hơn, trong đó có Hiệp ước Hữu nghị và Kinh tế Đông Nam Á (SouthEast Asia Friendship and Economic Treaty - SEAFET) yểu mạng do Malaysia đề xuất. Đống đổ nát của nỗ lực đó đã dẫn tới việc thành lập Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia - ASA) vào tháng 7 năm 1961. Hiệp hội này kết hợp ba nền kinh tế năng động nhất khu vực: Malaysia, Thái Lan và Philippines. Về mặt công khai ASA là ‘phi chính trị’ nhưng trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, rõ ràng là có mục đích chống cộng.

Thử thách đầu tiên đối mặt với các thành viên ASA là thuyết phục những người hoài nghi rằng một tổ chức khu vực có một vai trò nào đó. Chính quyền dân tộc của Indonesia coi nó như một mặt trận cho chính sách của Mĩ: Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Subandrio nói với khách viếng rằng ý tưởng đó là ‘không có thực chất’và ‘vô ích’.[19] Thật cũng khó để thấy ra một bản sắc khu vực gắn bó nổi lên khi các nước riêng lẻ không thể đồng ý về đường biên giới chung của họ nằm ở chỗ nào. Bốn tháng sau khi ASAS thành lập, tổng thống mới của Philippines, Diosdado Macapagal, làm sống lại yêu sách chủ quyền đối với Bắc Borneo – lúc đó đã trở thành tỉnh Sabah thuộc nước Malaysia vừa được độc lập. Như một hệ quả trực tiếp của yêu sách này ASA cũng tàn lụi theo.

Indonesia cùng lúc cũng đã đưa ra yêu cách chủ quyền đối với Sabah, cùng với phần còn lại của Bắc Borneo. Năm 1963 chính phủ Sukarno khởi xướng konfrontasi (chủ trương đối đầu) cố ép buộc Malaysia từ bỏ phần lãnh thổ đó. Phải tới một cuộc đảo chính quân sự ở Indonesia mới làm ý tưởng về Đông Nam Á có sức sống trở lại. Tướng Suharto lật đổ Sukarno tháng 3 năm 1966 và vài tháng sau đó, vào ngày 1 tháng 6 năm 1966, Indonesia đồng ý ngừng konfrontasi. Đó là một bước ngoặt. Hai ngày sau, Malaysia và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ. Với ‘Chiến tranh Việt Nam’ bây giờ đang trở nên ác liệt tại Việt Nam và phong trào cộng sản do Trung Quốc bảo trợ gây ra rắc rối trong nước mình, giới ưu tú khu vực Đông Nam Á đã đi đến quan điểm cho rằng việc thắt chặt hơn quan hệ giữa các nước sẽ tăng cường khả năng cai trị bên trong mỗi nước. Bằng cách kết nhóm với nhau họ có thể thúc đẩy thương mại và tăng trưởng kinh tế để đáp ứng nhu cầu của dân số tăng lên và cũng không cho người khác xen vào công việc nội bộ và chính sách đối ngoại. Kết quả là việc thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tại Bangkok vào ngày 8 tháng 8 năm 1967, đưa ba thành viên của ASA cùng Indonesia và Singapore hơp lại với nhau. Đông Nam Á cuối cùng đã có một tổ chức khu vực xứng đáng với từ này.

ASEAN đã có bước khởi đầu chậm. Nó đã gần như bị giết chết trong vòng một năm khi Philippines một lần nữa lại yêu sách chủ quyền đối với Sabah cùng với sự ngờ vực lẫn nhau vẫn còn nán lại. Phải cần tới những chiến thắng của cộng sản ở Đông Dương vào năm 1975 mới thúc đẩy ASEAN vào hành động. Các nhà lãnh đạo của nó (những người hùng chống cộng như Suharto, Ferdinand Marcos và Lí Quang Diệu) đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh đầu tiên tại Bali vào tháng 2 năm 1976 và kí kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Treaty of Amity and Cooperation ) – trong đó họ đã cam kết ‘kiềm chế việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực và ... giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau thông qua thương lượng thân thiện’. Họ đi đầu trong ‘cách của ASEAN’: cam kết làm việc trên sự đồng thuận và làm ngơ với các sự kiện không hay ho ở các nước khác. Hai thập kỉ tăng trưởng của các ‘Con hổ Châu Á’ theo sau, nhưng chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Đông Nam Á rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Kể từ đó, mong muốn cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hoá - và cũng để giữ khoảng cách với các cường quốc lớn - đã buộc giới tinh hoa cầm quyền của khu vực hình thành các mối quan hệ gần gũi hơn. ASEAN đã tăng gấp đôi về kích cỡ (từ 5 lên 10 thành viên) và tăng gấp ba lần về khát vọng. ASEAN đang trở thành một cộng đồng theo mô hình Liên minh châu Âu (EU) và dựa trên ba trụ cột: an ninh-chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội. Khu vực này đã đi một chặng đường dài từ những ngày mà láng giềng còn đe dọa xâm lược lẫn nhau.

**********

Đầu năm 2008, Derek J. Mitchell gặp phải khó khăn trong huy động tiền. Cơ quan chủ quản, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), là một trong những nhóm chuyên gia tư vấn được tài trợ tốt nhất của Washington nhưng những nhà tài trợ họ lại thường không quan tâm đến Đông Nam Á. Mitchell đã phải quay đến đại sứ quán Thái Lan cho việc tài trợ chương trình cốt lõi của mình thay vào. Tháng 9 năm 2008, Mitchell đã tổ chức một hội nghị về ‘Hoa Kì và Đông Nam Á’ với một số người góp mặt từ Thái Lan và một số ít từ các nơi khác. Tất cả họ đều nói những điều tương tự: Đông Nam Á cảm thấy bị Washington xem thường. Giáo sư K. Nathan của Đại học Quốc gia Malaysia phàn nàn rằng 10 nước ASEAN kết hợp lại chỉ nhận được chừng 1/10 sự chú ý dành cho Nhật Bản. Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam đã kêu gọi Hoa Kì nên là một nước đóng góp lớn hơn cho an ninh khu vực và đại sứ Singapore nói rằng cuộc khủng hoảng tài chính phương Tây đã làm tăng cảm giác rằng Hoa Kì là một ‘cường quốc bị phân tâm’. Panitan Wattanayagorn, một cố vấn của Bộ Quốc phòng Thái Lan, đã nói về một cảm giác phổ biến trong khu vực này là ‘Trung Quốc ở quá gần còn Mĩ thì ở quá xa’.

Các đại biểu đã than phiền rằng chính quyền Bush chỉ là chưa thấy đủ [tầm quan trọng] của Châu Á. Mitchell nhớ lại ‘Cũng có nói chuyện về Trung Quốc ăn hết phần của chúng tôi’. Tổng thống Bush đã bỏ không dự Hội nghị Cấp cao ASEAN-Mĩ năm 2007 và Ngoại trưởng của ông, Condoleezza Rice, không dự hai trong ba cuộc họp Diễn đàn khu vực ASEAN. Đó không phải là một hình ảnh hoàn toàn công bằng. Trong khi hầu hết chính quyền Bush đang bận rộn với 'Cuộc chiến chống khủng bố', một số đã bắt đầu nhìn vào những ưu tiên khác. Như một nhà hoạch định chính sách của Lầu Năm Góc cũ giải thích, công việc đã được thực hiện xong vào năm 2007. Điểm cốt lõi lớn là ‘thử nghiệm ASAT’ vào tháng 1 năm 2007. Thử nghiệm ASAT là việc Trung Quốc bắn tên lửa không báo trước hủy diệt một vệ tinh quỹ đạo không còn hoạt động và làm quân đội Mĩ giật mình. Lầu Năm Góc bắt đầu thay đổi chiến thuật. Tháng 5 năm 2008, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates thách thức lại ở đối thoại Shangri-La hàng năm tại Singapore và nhắc nhở mọi người rằng ‘Hoa Kì vẫn là một thế lực thường trực tại Châu Á’, và lần đầu tiên cho một quan chức cao cấp của Mĩ, đề cập đến Biển Đông và tầm quan trọng của tự do hàng hải.[20] Các nhà ngoại giao Mĩ vẫn còn rất năng động trong khu vực và quân đội Mĩ vẫn còn để lại hàng trăm ngàn nhân viên quân sự đóng khắp nơi trên lục địa này, vấn đề chỉ là người ta đã không để ý do sự chú ý dồn hết cả vào Iraq và Afghanistan.

Công việc cuối cùng của Mitchell cho CSIS là một báo cáo về ‘Liên minh Mĩ và quan hệ đối tác mới nổi ở Đông Nam Á’ với tựa phụ bén nhọn: ‘Nằm ngoài chiếc bóng’ (Out of the Shadows). Báo cáo đưa ra bốn khuyến nghị chính: Mĩ nên tiếp thêm sức mạnh cho các đồng minh, vun bồi các mối quan hệ với các cường quốc mới nổi, phát triển quan hệ với các tổ chức đa phương khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước hàng đầu Đông Nam Á về các vấn đề kinh tế. Khi báo cáo được công bố vào giữa năm 2009 thì Mitchell đã thành Phó Trợ lí chính của Bộ trưởng Quốc phòng đặc trách vụ An ninh Châu Á và Thái Bình Dương trong chính phủ mới của Obama. Một chuyên gia tư vấn khác, Kurt Campbell, vừa chuyển từ Trung tâm An ninh Mĩ mới để trở thành Trợ lí Ngoại trưởng đặc trách vụ Đông Á và Thái Bình Dương. Cả hai đã từng làm việc trong nhóm Châu Á của Lầu Năm Góc trong chính quyền Bill Clinton trong thập niên 1990. Họ nhận công việc mới vào một thời điểm vô cùng bi quan, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong nhiều thập kỉ. Theo Campbell, ‘Hầu hết các đánh giá của chúng tôi cho rằng các bạn Trung Quốc của chúng tôi thường coi Hoa Kì là đang bị suy giảm trầm trọng không thể vực dậy trở lại đuợc và rằng chúng tôi sẽ ra khỏi Châu Á trong vòng một vài thập niên’.[21] Mitchell mượn một dòng chữ của Woody Allen để mô tả chiến lược của mình: ‘90 % cuộc sống chỉ là phô trương ra’. Hoa Kì phải trở nên lộ rõ hơn ở Châu Á.

Ngoại trưởng, Hillary Clinton, đã được báo cáo tóm tắt và sẵn sàng. Chuyến đi đầu tiên của bà trong cương vị mới, vào tháng 2 năm 2009, đã đưa bà đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia và Trung Quốc. Tại Jakarta bà thông báo rằng Hoa Kì sẽ kí Hiệp ước về Hữu nghị và Hợp tác với ASEAN. Đây là một bước đi chiến lược mà Kevin Rudd, Thủ tướng Australia lúc đó, đã từng thúc giục Hoa Kì thực hiện. Hiệp ước này đã cho Hoa Kì tư cách thành viên trong Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Hội nghị này đưa các nhà lãnh đạo ASEAN ngồi chung  bàn với các đối tác từ Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ cùng các nước khác. Bà Clinton đã kí hiệp ước vào ngày 22 tháng 7. Giữa lúc đó, ngày 7 tháng 5, chính phủ Trung Quốc đã làm toàn bộ khu vực báo động với việc đính kèm bản đồ ‘đường chữ U’ vào một văn bản họ nộp cho vào Ủy ban về ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc sử dụng đường này trong một văn cảnh quốc tế chính thức, và khi làm như vậy, dường như đưa ra yêu sách chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông. Trò chơi đã thay đổi.

Cho đến thời điểm này, và đi ngược trở lại tới thời Thế chiến thứ hai, Hoa Kì đã nhất quán từ chối đứng về phía nào trong các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhưng dưới thời Hillary Clinton những xung đột về lãnh thổ bên trong khu vực và các vấn đề rộng lớn hơn giữa Mĩ và Trung Quốc bắt đầu kết nối lại với nhau. Theo Ernie Bower, người kế nhiệm Mitchell tại CSIS, đây là thời điểm mà chính quyền Obama đã phải thừa nhận rằng ‘Trung Quốc đang đọc thông cáo báo chí của chính mình và thật sự tin rằng đó là thời của họ. Họ đã vứt bỏ học thuyết của Đặng Tiểu Bình “giấu mình chờ thời” [ẩn tàng sở năng đẳng đãi lương cơ:”: che giấu khả năng chờ cơ hội tốt - ND] và họ đang đáp ứng với thúc đẩy chính trị trong nước đòi hỏi Trung Quốc phải tự khẳng định mình’.[22] Điều này lại bi trộn lẫn bởi cái mà theo quan điểm của người Mĩ là chuyến viếng thăm Trung Quốc tai hại của Tổng thống Obama vào tháng 10 năm 2009. Bower nhớ lại, ‘Obama đã cố thử cách tiếp cận mới, đề xuất một thế giới mà Mĩ và Trung Quốc sẽ làm việc cùng nhau, nhưng điều đó đã bị Bắc Kinh coi là điểm yếu. Đó là khi Campbells và Mitchells tự khẳng định và nói “chúng ta cần phải mở rộng bàn cờ ở đây” và xác định việc quay lại Châu Á bằng việc sử dụng kiến trúc dựa trên ASEAN sẽ buộc Trung Quốc phải ngồi vào bàn vì ASEAN là cốt lõi cho sự cân bằng trong khu vực’.

Vì vậy, Clinton tiếp tục có mặt tại các sự kiện ASEAN, và trở nên can dự sâu vào chính trị khu vực. Một số thành viên ASEAN, quan ngại trước sự quyết đoán mới thấy được của Trung Quốc, nên hiện rất muốn chơi ‘lá bài Mĩ’. Kết quả là cuộc thách thức ở Hà Nội tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) – một địa điểm khác để ASEAN gặp gỡ các nước láng giềng và các cường quốc lớn trên thế giới. Tháng 7 năm 2010 Clinton nói với hội nghị hàng năm này:

Hoa Kì ủng hộ một tiến trình ngoại giao hợp tác của tất cả các bên trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không có sự cưỡng ép nào. Chúng tôi phản đối việc bất kì bên nào sử dụng hoặc đe dọa vũ lực. Trong khi Hoa Kì không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ đối với các thể địa lí ở Biển Đông, chúng tôi tin rằng các bên tranh chấp cần theo đuổi các yêu sách lãnh thổ của họ và các quyền đối với không gian biển kèm theo phù hợp với Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Phù hợp với luật thông tục quốc tế, các yêu sách hợp pháp đối với không gian biển ở Biển Đông chỉ nên xuất phát đơn thuần từ các thể địa lí có yêu sách hợp pháp.[23]

Một phần của phát biểu này chỉ là tuyên bố lại về vị thế của Mĩ công bố lần đầu hồi tháng 5 năm 1995 nhưng việc nhấn mạnh vào ‘tiến trình ngoại giao hợp tác’ là mới và việc tuyên bố công khai ủng hộ chiến lược của các nước ASEAN có tranh chấp. Ý kiến của bà về ‘đe dọa vũ lực’, ‘phù hợp với UNCLOS’ và ‘xuất phát [của các yêu sách] chỉ đơn thuần từ các thể địa lí’ là những lời chê trách rõ ràng về lập trường của Trung Quốc. Sau bài phát biểu của bà, 11 quốc gia khác đã đưa thêm ý kiến về các tranh chấp ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên các tranh chấp này được nêu lên tại một cuộc họp của ARF: sự thẳng thắn của Mĩ đã cho các thành viên ASEAN và các nước khác sự che chắn chính trị mà họ cần khi lên tiếng. Chính phủ Trung Quốc cáo buộc Washington gây rắc rối nhưng, theo Derek Mitchell, Clinton chỉ nói như thế là do yêu cầu từ khu vực. ‘Không có chút nghi ngờ nào. Vấn đề là do Đông Nam Á thúc đẩy chúng tôi. Trung Quốc thích nêu câu chuyện về việc họ bị ức hiếp nhưng đó không phải là cách sự việc xảy ra.’ Tuy nhiên, ASEAN không muốn đẩy sự quyết đoán này quá xa. Đúng hai tháng sau, tại Hội nghị thượng đỉnh Mĩ-ASEAN lần thứ hai ở New York, thông cáo chung cuối cùng không đề cập gì tới Biển Đông.[24] Những ‘con kiến’ đã nêu ra được điều chúng muốn và bây giờ muốn làm cho nước lặng lại để tránh làm ‘con voi’ kia trong khu vực nổi giận.

Sau năm 2010, lời kêu gọi của Mĩ  về ‘đoàn kết ASEAN’ và ‘trung lập ASEAN’ đã trở nên to hơn. Các cụm từ vẻ có vô hại nhưng trong bối cảnh Biển Đông không phải là trung lập: đó là một nỗ lực để gom tất cả 10  nước thành viên đứng đằng sau, đặc biệt là Việt Nam và Philippines trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Tuy nhiên Rodolfo Severino của Philippines, cựu tổng thư kí ASEAN, đã cho tôi một đánh giá bi quan về cơ hội thành công của Hoa Kì: ‘Tôi không nghĩ rằng có thể làm cho ASEAN đồng ý với bất cứ điều gì, bởi vì mỗi nước đều có một cái nhìn khác nhau về điều đó. Tất cả đều vì lợi ích quốc gia - hoặc những gì họ nghĩ là lợi ích quốc gia của họ. Rất ít nhà lãnh đạo sẵn sàng có cái nhìn dài hạn về điều này vì cuộc bầu cử tiếp theo chỉ còn hai hoặc ba năm nữa.’ Người Trung Quốc hiểu điều này rất rõ và đã kiên trì tìm mọi cách để làm thất bại mọi hoạt động kết hợp ASEAN về các tranh chấp này. Một vài nước ASEAN quan tâm rất ít đến Biển Đông, làm vài nghĩa vụ đối với các nước yêu sách và tận hưởng những lợi ích của việc đầu tư và sự hào phóng của Trung Quốc. ASEAN đã bị kéo đi theo các hướng khác nhau.

**********

Một buổi tối ở Phnom Penh hai năm rưỡi sau vụ trục xuất người Duy Ngô Nhĩ. Địa điểm tổ chức là to đẹp hơn nhưng vấn đề vẫn như cũ: Campuchia nhảy theo điệu của ai? Lần này không phải những người tị nạn và các nhóm nhân đạo đặt ra câu hỏi mà là các ngoại trưởng ASEAN. Gần như đúng 45 năm kể từ khi các tiền nhiệm của họ kí Tuyên bố Bangkok và tổ chức này đã đi một chặng đường dài. Cuộc họp ở Phnom Penh đang được tổ chức theo khẩu hiệu chính thức ‘một cộng đồng, một số phận’. Tuy nhiên, tại một trong nhiều phòng họp hoành tráng bên trong một toà nhà có tên lạc quan tên là Cung Hoà Bình, ASEAN đang trong khủng hoảng về Biển Đông.

Câu chuyện có thể bắt đầu khi ASEAN xác lập vị thế thống nhất về Biển Đông lần đầu tiên, với ‘Tuyên bố Manila’ tháng 7 năm 1992; hoặc với những nỗ lực đầu tiên trong việc soạn thảo một ‘Bộ Quy tắc ứng xử’ (COC) có tính cưỡng chế cho Biển Đông, bắt đầu từ tháng 3 năm 1995 ngay sau khi Trung Quốc chiếm đóng Đá Vành Khăn [Mischief Reef] (xem Chương 3); hoặc với việc ASEAN và Trung Quốc thông qua ‘Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông’ (DOC) tháng 11 năm 2002; hoặc với thoả thuận về Hướng dẫn thực hiện DOC tháng 7 năm 2011. Vấn đề vẫn như cũ trong hơn hai thập kỉ. Một số thành viên của ASEAN muốn ràng buộc Trung Quốc vào một bộ quy tắc hạn chế các hành động của họ ở Biển Đông, đặc biệt để ngăn chặn họ chiếm thêm các thể địa lí. Rõ ràng là điều tốt cho Việt Nam và Philippines, và ở một mức độ thấp hơn cho Brunei, Malaysia và Indonesia, nếu họ phải đối mặt với Trung Quốc với sự hậu thuẫn của tất cả 10  thành viên của ASEAN. Cũng rõ ràng là sẽ có lợi cho Trung Quốc nếu họ có thể đàm phán với từng nước riêng lẻ. Cuộc đấu tranh không có chỗ kết thúc.

Tháng 3 năm 2012 tôi gặp Ngoại trưởng Philippines, Albert del Rosario. Các cửa sổ lớn trong văn phòng to lớn của ông ở phía trên toà nhà Bộ Ngoại giao cho một cái nhìn toàn cảnh ra Vịnh Manila và xa hơn ngoài Biển Đông. Del Rosario biết rất rõ cái đang phải đánh cược ngoài đó là gì. Trước khi nhận vị trí của mình, ông đã từng là giám đốc của FirstPacific và Philex: hai công ti sở hữu các cổ phần chi phối trong Forum Energy. Ngay khi ông vừa chuyển công việc, một năm trước cuộc trò chuyện của chúng tôi, tàu Veritas Voyager, kí hợp đồng với Forum để khảo sát khu vực Bãi Cỏ Rong [Reed Bank] tìm các mỏ khí, đã bị một tàu Hải Giám Trung Quốc ngăn cản (xem Chương 5). Trung Quốc dường như quyết tâm ngăn chặn không cho Forum phát triển khu vực này. Del Rosario cho biết Philippines muốn có một tập hợp các quy tắc, một Bộ Quy tắc ứng xử, để giải quyết vấn đề: ‘Chúng tôi nhận ra rằng các quăng hydrocarbon ngoài đó rất quan trọng đối với tương lai của chúng tôi. Chúng tôi cần những nguồn tài nguyên đó cho việc phát triển kinh tế của chúng tôi càng nhanh càng tốt. Nó có thể là việc xếp ván cờ mới đối với chúng tôi'.

Có một lí do khác, có tính biểu tượng để thúc đẩy Bộ Quy tắc ứng xử tiến tới. Tháng 11 năm 2012 là kỉ niệm 10 năm kí kết DOC. Vấn đề này đã bị để buông trôi trong một thập kỉ. ASEAN, lúc đó do Campuchia làm chủ tịch, đã phân công cho Philippines soạn thêm một bản dự thảo khác của Bộ Quy tắc nhưng del Rosario tiết lộ rằng ông đang làm một cái gì đó thậm chí còn tham vọng hơn. ‘Anh gặp chúng tôi đúng vào lúc chúng tôi đang cố bắt đầu một sáng kiến mà chúng tôi cảm thấy đó là con đường để tiến lên phía trước’, ông nói với tôi. ‘Có 4 nước có yêu sách thuộc ASEAN. Cái mà chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đáng ra phải làm, và chúng tôi đã bắt đầu quá trình này, là cùng với nước gần với chúng tôi nhất trong việc suy nghĩ làm thế nào chúng tôi có thể giải quyết những vấn đề này [Việt Nam]. Chúng tôi sẽ làm việc với nước này trên cơ sở song phương trong việc giải quyết các vấn đề giữa chúng tôi với nhau một cách lặng lẽ. Sau đó cả hai chúng tôi sẽ đi đến nước thứ ba [Malaysia] và nói rằng bạn muốn làm điều này với chúng tôi không và sau đó nếu được việc thì cả ba nước sẽ đi đến nước thứ tư [Brunei])... Và sau đó chúng tôi quay lại và nói với Campuchia: “này hãy nhìn xem chúng tôi đã tự mình làm xong điều này nhưng với tư cách là Chủ tịch anh có thể nhận phần công trong đó để cho nó có thể thành một sáng kiến của ASEAN”. Chúng tôi đã thực sự bắt tay vào sáng kiến này'.

Nói cách khác, del Rosario đã hi vọng sẽ thoả thuận được một dự thảo Quy tắc ứng xử có chứa một cơ chế giải quyết tất cả các tranh chấp biển giữa Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei (và cuối cùng cũng với Trung Quốc) chỉ trong chín tháng. Điều đó có vẻ cực kì tham vọng - thời gian biểu này người ta chỉ có thể mong đợi trong một thỏa thuận kinh doanh chứ khó có trong một thỏa thuận quốc tế. Cơ chế - một ‘Khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác’ trong đó tất cả các bên sẽ thoả thuận những khu vực nào là đang có tranh chấp và sau đó tập trung nỗ lực của họ vào một cách phù hợp – trông có vẻ tốt trên giấy (xem Chương 9 để biết thêm). Vấn đề là ngoại giao Philippines thiếu năng lực để chuyển nó thành kết quả. ASEAN chỉ tiến về phía trước khi tất cả 10 thành viên đều đồng ý và không có dấu hiệu nào cho thấy Philippines đã có các hoạt động ngoại giao sau hậu trường cần thiết để đưa các thủ đô khác cùng lên tàu. Ngay cả del Rosario cũng thừa nhận rằng kế hoạch đã được tiệp nhận tệ hại khi ông đưa nó ra tại một cuộc họp các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN vào tháng 1, ‘cơ bản là vì không có nhiều thời gian để cho ASEAN có thể tiêu hóa được khái niệm.’

Cách tiếp cận Philippines có hai sai sót cơ bản. Thứ nhất, nó trình bày một kế hoạch hình thành đầy đủ cho các cuộc họp chính thức mà không có sự chuẩn bị cần thiết và thứ hai Manila muốn ràng buộc nhà chức trách Bắc Kinh với một tập hợp các quy tắc có tính cưỡng chế - ‘Bộ Quy tắc ứng xử’- nhưng đã không chuẩn bị để lôi kéo đối tác Trung Quốc vào trong các cuộc đàm phán về những quy tắc cho đến khi tất cả 10 nước ASEAN đồng ý chúng trước. Trung Quốc có thể tranh luận rằng họ phải được ngồi vào bàn ngay từ đầu và một số nước ASEAN cũng có khả năng đồng ý điều đó. Bắc Kinh đã đầu tư rất nhiều công sức cho một chiến lược chống lại: tập trung vào nước mà họ có thể tác động nhất. Cuối tháng 3, bốn ngày trước khi hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã thăm chính thức Campuchia, gặp Hun Sen, công bố một đợt viện trợ mới $70 triệu và cam kết tăng gấp đôi thương mại giữa hai nước lên $5 tỉ trong 5 năm.[25] Sau cuộc họp, Sri Thamrong, một trong những cố vấn của ông Hun Sen, nói với các nhà báo rằng Hồ Cẩm Đào đã nói rằng Trung Quốc muốn tiến tới việc kết thúc một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông nhưng không ‘quá nhanh’. Hun Sen đã trả lời rằng ông đã chia sẻ niềm tin của Trung Quốc rằng vấn đề Biển Đông không nên ‘quốc tế hoá’.[26] Quả vậy, Campuchia ban đầu đã gạt vấn đề này ra khỏi chương trình nghị sự chính thức của hội nghị thượng đỉnh ASEAN, chỉ đưa vào lại sau khi có phản đối từ Philippines và các nước khác. Cuối tháng 5 Trung Quốc cho thêm Campuchia $20 triệu viện trợ quân sự[27] và giữa tháng 6 một khoản vay khác - $430 triệu.[28] Cũng như từ trước tới giờ, hai bên nhấn mạnh rằng không có ràng buộc nào.

Ngày Thứ Hai, 9 tháng 7, 2012, Albert del Rosario ở Phnom Penh đang cố thuyết phục thêm các đồng nghiệp ASEAN của mình cùng xác lập một đường lối cứng rắn với Bắc Kinh. Trong bốn tháng kể từ khi ông đã lược thuật chiến lược của ông cho tôi, tàu Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát Bãi cạn Scaborough và Tổng công ti dầu khí ngoải khơi của Trung Quốc (CNOOC) đã tổ chức đấu thầu thăm dò các lô bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cuối tháng 5, Philippines và Việt Nam đã yêu cầu các đồng bạn ASEAN đưa ra một tuyên bố lên án điều mà họ thấy như là vi phạm tinh thần của DOC. Nhưng, Bộ Ngoại giao Campuchia nói, không có sự đồng thuận về vấn đề này.

Có tin tức tốt hơn một chút cho Manila về Bộ Quy tắc ứng xử. Dự thảo Del Rosario đã bị rút mất phần cốt yếu trong các cuộc thảo luận ASEAN - cơ chế thanh lịch cho việc quyết định các khu vực nào là đang có tranh chấp đã biến đi - nhưng tiến trình giải quyết tranh chấp vẫn còn nguyên vẹn.[29] Đó là một kết quả khá tốt, đặc biệt là khi các bộ trưởng ngoại giao chính thức thông qua văn bản sáng hôm đó và đã đồng ý chuyển nó cho Trung Quốc cho giai đoạn tiếp theo của cuộc đàm phán. Phiên họp toàn thể các bộ trưởng đã kết thúc và họ chuyển sang phần ít chính thức hơn của các cuộc thảo luận - được gọi là phần ‘ở ẩn’ (retreat). Nhưng còn lâu mới là một cuộc trò chuyện yên tĩnh, phần ở ẩn đẩy ASEAN tung lên biến thành một trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử của nó.

Phần ở ẩn được hiểu là để thoả thuận về thông cáo chung cuối cùng phải được công bố sau một tuần họp mặt và sẽ bao gồm các thảo luận của ASEAN với Australia, Canada, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Hàn Quốc và Mĩ – theo từng bên, trong các kết hợp khác nhau và cuối cùng gom mọi thứ lại thành Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Công việc soạn thảo thông cáo chung đã được giao cho del Rosario và các đồng nhiệm Indonesia, Malaysia và Việt Nam: tất cả những nước có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông. Dự thảo văn bản của họ có 132 đoạn. Các đoạn 14-17 nói về Biển Đông, và một đoạn, đoạn 16, đặc biệt đề cập đến vừa Bãi cạn Scarborough Shoal vừa phàn nàn của Việt Nam. Thông cáo chung là bánh mì và bơ của các cuộc tụ họp như vậy. Chúng thường được soạn thảo trước, công bố một khi công việc chính thức hoàn tất và gần như ngay lập tức bị quên đi. Việc đó không xảy ra như thế ở Phnom Penh.

Chúng ta biết một số điều về những gì đã diễn ra tiếp theo do các ghi chú của một phái đoàn đã được kín đáo chuyển cho học giả Carl Thayer của Australia.[30] Albert del Rosario đã đưa ra một lời kêu gọi ủng hộ rất nhiệt thành, chất vấn các đồng nghiệp ASEAN tại sao họ lại im lặng khi Philippines bị mất quyền kiểm soát Bãi cạn Scarborough. Động thái của Trung Quốc không là vi phạm sự cần thiết phải thúc đẩy một môi trường hòa bình, thân thiện và hài hòa như đã được nêu trong DOC hay sao? Ông liệt kê các ví dụ khác về ‘sự bành trướng và xâm lược’ của Trung Quốc trong những năm qua và cáo buộc Bắc Kinh ‘thiếu thiện ý’ (bad faith) trong việc không rút tàu ra khỏi bãi cạn. Sau đó, trong lời hoa mĩ cuối cùng, del Rosario tung ra lời ca kể chống phát xít của Mục sư Martin Niemöllers ‘Trước tiên họ đến tìm những người cộng sản nhưng tôi không lên tiếng vì tôi không phải là cộng sản. Kế đó, họ đến tìm các công đoàn viên, nhưng…’. Nhưng vì hầu hết các nước ASEAN (trong đó có Philippines) đã chủ động bắt bớ người cộng sản trong quá khứ và một vài nước khác hiện nay vẫn cấm công đoàn độc lập, nên điều này đã không có tác động gì nhiều. Thêm nữa, ít nước cảm thấy có nguy cơ Trung Quốc ‘đến tìm họ’ sau Philippines. Trên thực tế, một vài nước còn đổ lỗi cho Philippines leo thang tranh chấp tại Bãi Scarborough qua việc họ triển khai chiến hạm Gregorio del Pilar lúc đầu trong cuộc bế tắc này. Những nước khác quan ngại rằng Manila đã công khai kêu gọi Hoa Kì trợ giúp - vi phạm tính trung lập mà ASEAN trân quý.

Từng người một, các bộ trưởng phát biểu. Surapong Tovichakchaikul của Thái Lan đã lập lờ nhưng nói lên sự cần thiết phải giữ gìn sự thống nhất của ASEAN. Phạm Bình Minh của Việt Nam muốn được hậu thuẫn chống lại hành vi vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc. Marty Natalegawa của Indonesia nhấn mạnh rằng ASEAN nên đoàn kết với nhau, và đề cập đến những phát triển mới nhất ở Biển Đông, Anifah Aman của Malaysia cũng nói như vậy. Hoàng tử Mohamed Bolkiah của Brunei nói ít nhưng chỉ ra rằng ông có thể ủng hộ thông cáo chung. Tiếp sau đó là các bộ trưởng Lào và Myanmar đều không nói điều gì chống lại bản dự thảo và sau đó K. Shanmugam của Singapore đã lưu ý rằng ‘các diễn biến gần đây là đặc biệt quan ngại’.

Cho đến thời điểm đó (theo các thông tin mà chúng tôi có), mỗi bộ trưởng ngoại giao hoặc đã phát biểu ủng hộ bản dự thảo hoặc không nói gì chống lại nó. Nhưng sau đó, Ngoại trưởng Campuchia Hor Namhong giành micro, tuyên bố ‘không có sự đồng thuận’ và thông báo rằng các đoạn 14-17, và đặc biệt là đoạn 16, nên được đặt trong ngoặc hơn là thông qua ngay. Bốn bộ trưởng phụ trách soạn thảo kinh ngạc và lập tức yêu cầu giải quyết vấn đề này ngay lúc đó và ở đó. Nhưng Hor khẳng định rằng ‘bây giờ hoặc trong tương lai gần, chúng ta không thể trông mong giải quyết những tranh chấp này. Không phải chỗ ASEAN’. Những nghi ngờ đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện - Campuchia đã bị mua chuộc? Họ sẵn sàng bẻ gãy ASEAN để làm vừa lòng Bắc Kinh?

Natalegawa của Indonesia sau đó đề ra một phiên bản thỏa hiệp đoạn 16 – đề cập đến ‘tình hình trong bãi bị ảnh hưởng/khu vực tranh chấp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa’ - nhưng Hor nhấn mạnh rằng không cần phải đề cập đến bất kì sự cố cụ thể nào và tiếp tục nói lan man về việc liệu có thể nêu sự khác biệt giữa một bãi cạn và một đảo hoặc xác định nó thuộc về nước nào không. Ông ta kết thúc với đề nghị xóa hết đoạn 16. Del Rosario đã chỉ ra rằng lời văn không nói gì về nước nào sở hữu Bãi cạn Scarborough.

Cuộc tranh cãi sau đó chuyển đến liệu cụm từ ‘khu vực tranh chấp’ có thể sử dụng thay vào hay không. Natalegawa và Aman của Malaysia đề xuất ý tưởng này nhưng Phạm Bình Minh nhấn mạnh rằng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không thể gọi là ‘khu vực tranh chấp’ và del Rosario cũng nói như vậy về Bãi cạn Scarborough. Phạm Bình Minh đã đề xuất tạm nghỉ thảo luận một chốc – tới đây tài liệu ghi chép  về các sự kiện mà chúng tôi có dừng lại. Nhưng những tranh cãi về thông cáo chung có thể chính xác tới mức nào về những rắc rối gần đây ở Biển Đông vẫn tiếp tục trong bốn ngày, suốt theo các cuộc họp song phương và đa phương khác đã lên lịch.

Tại cuộc họp báo tóm tắt tại Bắc Kinh và Phnom Penh vào ngày hôm sau, Thứ Ba 10 tháng 7 năm 2012, các nhà ngoại giao Trung Quốc tiếp tục cảnh báo rằng Diễn đàn không phải là ‘nơi thích hợp để thảo luận về vấn đề Biển Đông’, lưu ý rằng ‘phía Trung Quốc đánh giá cao sự ủng hộ vững chắc, bền bĩ của Campuchia đối với Trung Quốc về các vấn đề liên quan tới lợi ích cốt lõi của Trung Quốc’.[31] Mặc dù nhà báo bị giữ trong các trung tâm truyền thông chính thức, cách li an toàn khỏi những cảnh tượng các bộ trưởng và quan chức vội vả ngược xuôi dọc các hành lang vọng tiếng, những gợi ý đầu tiên của rắc rối bên trong Cung Hòa bình bắt đầu vượt tới thế giới bên ngoài. Một cuộc họp khẩn cấp các bộ trưởng vào sáng Thứ Tư được mô tả như là gay gắt và mãnh liệt. Tuy nhiên, Tổng thư kí ASEAN Surin Pitsuwan của Thái Lan quyết định chơi trò Pollyanna (tỏ vẻ lạc quan -ND), nói với các nhà báo các cuộc thảo luận ‘tiến triển tốt’.

Tới Thứ Năm thì Surin sẵn sàng thừa nhận rằng có một ‘nấc nghẹn’ trong tiến trình. Trong khi đó, Marty Natalegawa đã cố gắng để cứu vãn vấn đề - dù tuyên bố rằng hành vi của một số đồng nghiệp là ‘cực kì vô trách nhiệm’. Ông đã đưa ra ít nhất 18 dự thảo khác nhau cho Đoạn 16 nhưng không có kết quả. Có cuộc họp khẩn cấp khác. Một nhà ngoại giao Campuchia phàn nàn rằng đất nước ông đang bị ‘bắt nạt’. Nhiều nhà ngoại giao giấu tên nói với các nhà báo rằng Hor Namhong liên tục mang các bản dự thảo ra khỏi phòng đến tham khảo ý kiến với các cố vấn khuất mặt. Có ý kiến cho rằng các bản văn này được chia sẻ với các quan chức Trung Quốc.[32] Mặc dù cáo buộc này sau đó đã bị các nhà ngoại giao Campuchia chỉ trích (ví dụ như trong một lá thư gửi tới Phnom Penh Post), nhưng chưa lúc nào thật sự bị bác bỏ.[33]

Bây giờ tới phiên của Hillary Clinton có ý kiến. Ngoại trưởng Mĩ đến Phnom Penh với một nụ cười rạng rỡ nhưng với một nhận thức rằng các cuộc thảo luận là ‘dữ dội’. Bà nhắc nhở mọi người rằng chính sách của Mĩ không đứng về bên nào trong tranh chấp Biển Đông - trước khi đứng vào một bên trong các tranh chấp qua việc chỉ trích ‘hành vi đối đầu’ ở Bãi Scarborough, ‘nhiều trường hợp cưỡng chế về kinh tế đáng lo ngại’và ‘các biện pháp quốc gia tạo ra va chạm’.[34] Không ai nghi ngờ về nước mà bà muốn nói đến. Bà kêu gọi ASEAN ‘nói với cùng một giọng’. Điều đó nghe có vẻ giống như một nỗ lực nhắm đoàn kết ASEAN đằng sau thông cáo chung.

Sáng Thứ Sáu Surin Pitsuwan vẫn nói về một 'nấc nghẹn' trong Cung Hòa bình. Shanmugam đang sắp lên máy bay về Singapore thì ông nhận được một cú điện thoại tuyệt vọng từ Natalegawa kêu gọi ông trở lại: Philippines và Việt Nam đã đồng ý một cách diễn đạt thỏa hiệp. Có một cuộc họp khẩn cấp cuối cùng. Trong thảo luận Hor cắt micro của Sutin giữa chừng.[35] Bất chấp những lời nài nĩ thêm cho thỏa hiệp, Hor nhặt giấy tờ của mình và lao ra khỏi phòng.[36] Đó là điều không tốt. Lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm một cuộc họp của các ngoại trưởng ASEAN đã kết thúc mà không có một thông cáo chung chính thức. Natalegawa bày tỏ ‘sự thất vọng sâu sắc’ của mình. Surin nâng cấp đánh giá về tình hình thành một ‘nấc nghẹn lớn’. Các đại biểu khác đã gọi đó là một loại ‘nghẹn’ khác. Ngày Thứ Sáu với các câu hỏi tuôn ra, Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia đưa ra lời giải thích kì quái rằng ‘cuộc họp của các ngoại trưởng ASEAN không phải là một tòa án, một chỗ để đưa ra một phán quyết về tranh chấp’.[37] Không ai đòi một cuộc họp phải làm một điều như vậy.

Ít ai ngạc nhiên rằng Campuchia đã hành động trong sự cảm thông với lập trường của Trung Quốc nhưng hầu hết đều đã bị bất ngờ bởi cung cách trắng trợn mà họ đã thực hiện và thực tế là họ sẵn sàng gây thiệt hại ASEAN tệ hại trong tiến trình này. Chính phủ Campuchia chẳng tỏ vẻ quan tâm nhiều. Xét cho cùng, tại sao Campuchia phải hành động vì lợi ích toàn thể ASEAN? Điều duy nhất mà Hun Sen quan tâm là tương lai của Hun Sen. Trong việc chặn tuyên bố này lại ông đã đồng thời vừa làm hài lòng Bắc Kinh vừa làm Hà Nội bực mình - một cái được kép. Không có mặt thiệt hại nảo. Người Mĩ đã không sẽ cắt đứt quan hệ. Trên thực tế Mĩ lại nỗ lực gấp đôi để giữ cho ông ta khỏi bị trượt xa hơn nữa vào phe Trung Quốc - một cái được ba.

Nhưng đối với những người khác có một sự quan tâm mạnh mẽ hơn về sự thống nhất của khu vực, Phnom Penh là một thảm họa. Chỉ Marty Natalegawa là có sáng kiến và quyền hạn trong việc cố gắng sửa chữa những thiệt hại. Năm ngày sau hội nghị thượng đỉnh, ông từ Jakarta nhanh chóng đến Manila, Hà Nội, Phnom Penh, Bangkok và Singapore. Nhiệm vụ của ông được tung hô như là một chiến thắng, mặc dù thành quả duy nhất là đạt được việc ASEAN cùng nhau nhắc lại 6 điểm mà tổ chức này đã nhắc lại nhiều lần trước đây: ủng hộ cho DOC, cho Hướng dẫn thực hiện, cho việc có một Bộ quy tắc ứng xử, cho luật quốc tế, tự kiềm chế và giải quyết hòa bình các tranh chấp. Những từ ngữ ‘Bãi cạn Scarborough’ hoặc ‘vùng đặc quyền kinh tế’ không được đề cập. Tuy nhiên, sau thất bại ở Phnom Penh, điều duy nhất quan trọng là có được một mảnh giấy với tên tất cả các ngoại trưởng trên đó.

Nhưng vấn đề vẫn tiếp tục ầm ĩ, khuếch đại bởi những bài báo chỉ trích chua cay viết bởi các nhà ngoại giao không giữ phép ngoại giao. Trợ lí cấp cao của Albert del Rosario, Erlinda Basilio, bắn phát mở màn với một kể lể dài dòng về hội nghị thượng đỉnh trên hai tờ báo Philippines. Nhà ngoại giao Campuchia đưa ra những lời phản bác dễ gây xúc động trong các bài viết in trên Bangkok Post, The Nation, Phnom Penh Post, Cambodia Daily, Japan Times Philippine Star. Trên tờ Philippine Star, Đại sứ Campuchia tại Manila, Hos Sereythonh, cáo buộc Philippines chơi trò ‘chính trị bẩn’. Văn phòng Del Rosario triệu tập ông ta tới họp với một thông báo được dán trên cổng trước của tòa đại sứ và đặt ở trang nhất của một tờ báo. Hos tuyên bố ông bị bệnh không tham dự được và cử phó Đại sứ thay thế. Mười ngày sau, theo những gì toà đại sứ Campuchia tại Manila cho biết là một nỗ lực để sửa chữa các mối quan hệ, Hos đã bị triệu hồi về Phnom Penh và bị thay thế. Sau khi mọi việc lắng xuống một chút. Trong tháng 12, Erlinda Basilio được bổ nhiệm làm đại sứ Philippines tại Trung Quốc - một dấu hiệu cho thấy Manila sẽ tiếp tục có một lập trường cứng rắn. Nhưng với mục đích gì? Tại thời điểm viết sách, ngay sau màn thách thức ở Phnom Penh, Bộ Quy tắc ứng xử vẫn không tiến gần thêm tới chỗ để được đồng ý và Khu vực Hoà bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác đã bị cất vào tủ.

**********

Năm 2011 nhóm nghiên cứu Châu Á tại Bộ Ngoại giao, theo lời của Ernie Bower, ‘hoàn toàn hốt hoảng lo rằng Bắc Kinh sẽ coi việc rút quân ra khỏi Iraq và Afghanistan sắp xảy như một điểm yếu nữa’.[38] Họ tìm kiếm một cách để mô tả diễn biến đó dưới ánh sáng tích cực. Ban đầu họ nhất trí cùng chọn cụm từ ‘quay sang Châu Á’ (turn to Asia) nhưng Ben Rhodes, Phó Cố vấn An ninh Quốc gia về Truyền thông chiến lược, đã có một ý tưởng tốt hơn. Tháng 11 năm 2011, trên tạp chí Foreign Policy, Hillary Clinton đã tiết lộ việc đổi lại nhãn hiệu cho sự kết thúc những vướng bận của Hoa Kì ở Iraq và Afghanistan. Đó không phải là ‘rút lui’ (retreat); thậm chí cũng không phải là ‘quay sang’  (turn). Đó là ‘chuyển trục’ (pivot). Bài viết của bà vạch ra 6 ‘đường hướng hành động chính’ - 4 lấy từ báo cáo của CSIS năm 2009 của Derek Mitchell (tiếp thêm sức mạnh các đồng minh, vun bồi quan hệ với các cường quốc mới nổi, phát triển quan hệ với các tổ chức đa phương khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước Đông Nam Á về các vấn đề kinh tế) và thêm vào hai: Mĩ sẽ tiến tới một sự hiện diện quân sự trên diện rộng ở Châu Á và thúc đẩy dân chủ và quyền con người.

Như một thực hành tiếp thị chiến lược việc chuyển trục thành công đáng kinh ngạc. Bây giờ không ai có thể phàn nàn Hoa Kì đã coi thường Châu Á. Việc lựa chọn từ ngữ đã có được hiệu quả mong muốn. Vấn đề là ở chỗ nó chỉ liên kết với một trong ‘sáu đường hướng hành động’. Kết quả thực tế đầu tiên của chuyển trục hiện ra chỉ vài ngày sau bài báo của bà Clinton khi Tổng thống Obama bay tới Australia công bố một thỏa thuận cho 2 500 thủy quân lục chiến Mĩ đóng quân bán thường trực tại Darwin. Chỉ sau đó ông mới bay sang Bali và trở thành tổng thống Mĩ đầu tiên tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Ngay cả Derek Mitchell, người vừa rời Lầu Năm Góc, cũng thừa nhận rằng ‘ban đầu thông điệp không được triển khai thật tốt’.[39] Chuyển trục đã trở nên liên kết quá chặt chẽ với việc triển khai quân sự. Chuyển truc cũng nghe không có tính thường xuyên. Nếu như Mĩ có thể xoay trục tới Châu Á thì có lẽ họ cũng có thể chuyển trục đi khỏi chẳng khó khăn gì. Washington cần một cái gì đó nghe có vẻ lâu bền hơn. Trong vòng 6 tháng ‘chuyển trục’ đã trở thành ‘tái cân bằng’ (rebalance).

Hầu hết các chính phủ ở Đông Nam Á đều hoan nghênh ‘tái cân bằng’ của Mĩ. Nó cho phép họ cân bằng quan hệ của họ với Trung Quốc và tận hưởng sự tự do trong hành động hơn. Một số nước, như Campuchia, đã cố ý chơi trò ‘tình vờ’ với hai cường quốc đối nghịch nhau. Những nước khác, chủ yếu là các quốc gia có biển, đã cố gắng sử dụng ‘tái cân bằng’ để củng cố vị thế của họ, đặc biệt là ở Biển Đông. Các tranh chấp ở đó đã làm cho Hoa Kì dễ dàng hơn trong việc tăng cường quan hệ với các nước liên quan. Hai chương trình hành động đã phát triển cộng sinh với nhau: sự lo lắng trong khu vực đối với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc và các quan ngại của Mĩ về vai trò chiến lược toàn cầu của mình. Dần dần hai bộ vấn đề - các tranh chấp lãnh thổ của khu vực và những khác biệt ‘cấp độ toàn cầu’ giữa Mĩ và Trung Quốc - đã trở thành liên kết với nhau. Đó là điều làm cho Biển Đông thành một nơi nguy hiểm như vậy. Theo lời của Derek Mitchell, có nguy cơ ‘cái đuôi vẫy con chó’ (the tail wagging the dog: bộ phận điều khiển toàn thể - ND).

‘Không phải chỉ là về Trung Quốc’ là câu thần chú mà Mitchell và các nhà ngoại giao Mĩ khác phải tụng mỗi khi họ nói đến “tái cân bằng”. Đúng vậy – đó là về việc tiếp thêm sức mạnh cho các quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN và Nam Á. Nhưng tất cả những nơi này tạo thành một vòng cung bao quanh ... Trung Quốc. Sáu đường hướng hành động của Clinton cũng tạo thành vòng cung lời lẽ bao quanh Trung Quốc. Mỗi đường hướng liên kết với một cụm từ khóa cho thấy trọng tâm cơ bản của nó. Khi bà viết về việc bắt tay với các cường quốc mới nổi, bà yêu cầu họ ‘cùng hợp tác với chúng tôi trong việc định hình và tham gia vào một trật tự khu vực và toàn cầu dựa trên luật lệ.’ ‘Trật tự dựa trên luật lệ’ là hệ thống quốc tế vốn bảo đảm vị trí đứng đầu toàn cầu của Mĩ thông qua các điều đã đươc xác lập lâu nay như quyền phủ quyết ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, định chế Bretton Woods (về tiền tệ -ND), quyền thống trị của đồng đô la, các nguyên tắc thương mại tự do và chủ thuyết về tự do hàng hải. An ninh và sự thịnh vượng của Mĩ trong tương lai sẽ phụ thuộc vào việc các cường quốc mới trên toàn cầu tuân thủ các tiêu chuẩn của hệ thống quốc tế hiện hành. Từ cái nhìn chiến lược, vai trò đứng đầu của Mĩ phụ thuộc đặc biệt vào việc truy cập vào tất cả các vùng biển thế giới. Theo lời lẽ trong Chiến lược Quân sự Quốc gia năm 2011của Hoa Kì, ‘bảo đảm việc truy cập vào các vùng biển chung của toàn cầu (global commun) và không gian mạng tạo thành một khía cạnh cốt lõi trong an ninh quốc gia của Hoa Kì... Các các vùng biển chung trên toàn cầu, các miền kết nối toàn cầu tạo thành mô liên kết mà an ninh và thịnh vượng tất cả các quốc gia phụ thuộc vào đó'.

Biển Đông là một mắc xích quan trọng trong ‘các vùng biển chung của toàn cầu’, nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư và Châu Âu. Ngay bây giờ, cùng với Biển Hoa Đông, nó là mảng biển tranh cãi nhất trên thế giới và là một trong những lí do chính cho sự lo lắng hiện nay đối với ý đồ của Trung Quốc. Như một nhà hoạch định chính sách cũ của Lầu Năm Góc giải thích, ‘chúng tôi rất vui khi có rất nhiều quốc gia chạy tàu quanh ngoài đó. Cái không được là hành vi độc quyền, theo cách quyết đoán trực tiếp hoặc theo cách bóp nghẹt tinh tế, muốn đuổi những người chơi khác ra ngoài’.[40] Khi người Mĩ nói về việc Trung Quốc làm việc bên trong hệ thống quốc tế, họ muốn nói rằng Trung Quốc phải đồng ý để Biển Đông luôn mở cho Hải quân Mĩ ngoài những điều khác.

Nhiều nỗ lực lớn đang được thực hiện để khuyến khích Trung Quốc chấm dứt hành ‘hành vi độc quyền’ và tham gia đầy đủ hệ thống hiện có - nói cách khác, chơi trò chơi theo luật chơi của phương Tây. Từ các cuộc thăm viếng cấp nhà nước cho tới các cuộc thảo luận quân sự, tới các nhóm làm việc kiểm dịch thực vật, Bắc Kinh đang bị các nhà ngoại giao và chiến lược ‘dội bom yêu’ (love bombed: thuyết phục bằng mơn trớn –ND). Như Kurt Campbell nói với các cử toạ ở Australia năm 2013, ‘Cái mà chúng tôi đang tìm kiếm là để cho Trung Quốc hội nhập vào cộng đồng toàn cầu theo một cách sao cho có được các chuẩn mực, các giá trị và các thủ tục chung mà chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với nhau để định ra, điều đó nằm trong lợi ích tốt nhất của chúng ta’.[41] Tất cả nỗ lực này đang được dùng hết vì những nhà ngoại giao và các nhà chiến lược đó tin rằng lãnh đạo Bắc Kinh không thấy thuyết phục về giá trị của hệ thống quốc tế hiện nay và sẽ tìm cách thách thức những nguyên lí của nó trong các thập kỉ tới.

Nhấn mạnh của Clinton vào các đồng minh cho chúng ta cụm từ thứ hai của chúng ta. Chuyển trục đã đưa ra một khu vực địa lí mới cho thế giới: ‘Ấn độ-Thái Bình Dương’ (Indo-Pacific). Mặc dù các nhà nhân loại học và động vật học đã sử dụng thuật ngữ này trong nhiều năm qua, những người ủng hộ ‘tái cân bằng’ đã cho nó một ý nghĩa mới - một sự liên kết không thật chặt của các nước quan ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ấn Độ-Thái Bình Dương hiện nay là một khu vực chiến lược, giống như ‘Đông Nam Á’ trong Thế Chiến thứ hai và Chiến tranh Lạnh. Nó tạo thành một tứ giác khổng lồ trải dài từ Ấn Độ đến Hoa Kì, qua Nhật Bản và Australia, nước có bờ biển được cả sóng Ấn Độ Dương lẫn Thái Bình Dương vỗ vào và nơi mà cụm từ này xuất hiện lần đầu. Australia, Nhật Bản và Hoa Kì đã có ‘Đối thoại An ninh ba bên’ từ năm 2005. Năm 2006, Shinzo Abe, Thủ tướng Nhật lúc đó, đã đề xuất mời Ấn Độ tham gia ‘Đối thoại an ninh bốn bên’ nhưng ý tưởng đã bị dập tắt do sự phân vân của Kevin Rudd, thủ tướng Australia lúc đó. Ngay tiếp sau màn diễn đó Kim Beazley, người lãnh đạo Đảng Lao động tiền nhiệm của Rudd, giới thiệu khái niệm ‘Ấn Độ-Thái Bình Dương’ cho công chúng trong bài viết hồi tháng 11 năm 2009 cảnh báo về sự cạnh tranh trong tương lai giữa Trung Quốc và Mĩ.[42] Rory Medcalf thuộc Viện Chính sách Quốc tế Lowy đóng ở Sydney đề cao khái niệm này tiếp cho đến khi Hillary Clinton đóng dấu chuẩn nhận của Mĩ cho nó trong bài phát biểu tháng 10 năm 2010 tại Hawaii. Trung tâm chính trị của tứ giác Indo-Pacific là Biển Đông.

Cụm từ mô tả một tầm nhìn chiến lược – ‘đưa’ thêm Ấn Độ vào khu vực trước đây được biết đến như là Châu Á-Thái Bình Dương. Trong bài viết về chuyển trục bà Clinton tuyên bố: ‘Hoa Kì đang thực hiện một chiến lược đặt cược trên tương lai của Ấn Độ, rằng vai trò lớn hơn của Ấn Độ trên sàn diễn thế giới sẽ tăng cường hòa bình và an ninh’. Theo cách nói của Kurt Campbell, ‘Ấn Độ là then chốt của hệ thống này, và sẽ có một vai trò to lớn và quan trọng ở Đông Á’.[43] Ấn Độ từ lâu tránh xa bất kì vai trò nào trong các liên kết quân sự do Mĩ đứng đầu, nhưng khi đối mặt với sự trỗi dậy của Trung Quốc (và các diễn biến ở Pakistan và Afghanistan) đã đồng ý với ‘Đối thoại chiến lược Ấn-Mĩ’ thường xuyên năm 2009. Kể từ đó Ấn Độ đã mua khoảng $13 tỉ các thiết bị quân sự của Mĩ, bao gồm cả máy bay lên thẳng, máy bay vận tải và pháo, phần lớn trong đó nhằm mục đích yểm trợ các đơn vị mới miền núi bảo vệ vùng biên giới Himalaya của nước này với Trung Quốc.

Australia đã làm việc cật lực để nhúng thêm ‘Ấn Độ’ vào ‘Thái Bình Dương’. Hai nước đã thoả thuận ‘Tuyên bố chung về Hợp tác an ninh’ năm 2009 và các cuộc đàm phán vào tháng 6 năm 2013 cho ra các thỏa thuận về việc tập trận hải quân chung và tư vấn thường xuyên về các vấn đề an ninh khu vực.[44] Ấn Độ cũng đang phát triển các mối quan hệ khác: quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, ‘Đối thoại chính sách quốc phòng’ với Nhật Bản, và ‘đối thoại ba bên’ với Nhật Bản và Hàn Quốc. Ấn Độ đã cho Việt Nam vay rẻ $100 triệu để mua tàu tuần tra bảo vệ các mỏ dầu do Ấn Độ vận hành ngoài khơi bờ biển Việt Nam và tổ chức tập trận chung với Malaysia, Singapore, Thái Lan và Nhật.[45] Tuy nhiên, văn hóa chính trị của Ấn Độ vẫn nghiêng về tự trị chiến lược và ít có khả năng nước này sẽ tham gia bất kì liên minh chính thức nào với Mĩ.

Bên trong tứ giác này, Australia, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines và Thái Lan đã có các hiệp ước quốc phòng hoặc các thỏa thuận với Mĩ trong nhiều thập kỉ. Gần đây hơn, 7 thành viên ASEAN đã thống nhất một số hình thức hợp tác quân sự với Washington (ngoại trừ Lào không có biển, Myanmar và Việt Nam -. Và hai nước sau đang thận trọng chuyển tới một hình thức tham gia nào đó. Trái lại.danh sách bạn bè quân sự của Trung Quốc hạn chế hơn: Bắc Triều Tiên, Campuchia, Lào, Myanmar, Bangladesh, Sri Lanka và Pakistan. Không nước nào có thể đuợc mô tả như là đồng minh và trừ Bắc Triều Tiên tất cả các nước còn lại đều thích chơi trò ‘tình vờ’ với những nước theo đuổi đối nghịch nhau. Myanmar hiện đang mở cửa với phương Tây chủ yếu là do muốn ít bị phụ thuộc vào Trung Quốc. Lào dùng Trung Quốc cân bằng với Việt Nam, Campuchia chơi trò’tình vờ’ tất cả mọi nuớc đối nghịch nhau và Sri Lanka cũng như vậy. Nếu có được một cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc thì Mĩ bắt đầu với một lợi thế áp đảo. Câu hỏi ở Đông Nam Á là liệu Mĩ có thể duy trì vị thế đó hay không.

Năm 2013, chi tiêu của Mĩ chỉ riêng về tình báo là hơn $ 50 tỉ - nhiều hơn tổng số chi tiêu quân sự của tất cả các thành viên của ASEAN gộp lại. Con số này nằm ngoài ngân sách quân sự chính thức $ 625 tỉ đuợc giao cho măm 2014.[46] Quốc Phòng chiếm hơn 1/5 chi tiêu của chính phủ liên bang Mĩ - 22 % trong năm 2014.[47] Với mức nợ quốc gia là $ 17 ngàn tỉ tại thời điểm viết sách,[48] việc cắt giảm sẽ phải thực hiện. Lo lắng về việc Mĩ có thể tiếp tục cam kết với khu vực này tới bao lâu đang thúc đẩy các nước tìm cách bảo vệ vốn liếng và xây dựng quan hệ với Trung Quốc, tạo ra một vòng tròn luẩn quẩn đối với Mỹ: phải tăng chi tiêu để chống lại ấn tượng này; chịu áp lực chỉnh lại ngân sách trong nước; do đó làm tăng khả năng họ thực sự sẽ phải rút sự hiện diện quân sự của mình xuống; do đó làm cho các nước bên trong tứ giác thậm chí có nhiều lí do hơn để phục tùng Bắc Kinh. Đây là câu chuyện kể mà Bắc Kinh thích khuếch đại - Hoa Kì càng có vẻ vật vã trong việc chống đỡ các cam kết ở Châu Á thì càng có nhiều khả năng các nước Châu Á tìm kiếm trợ giúp ở nơi khác.

Do đó cụm từ khóa thứ ba, ‘chia sẻ gánh nặng’, trùng lắp với việc nhấn mạnh của chuyển trục lên các thiết chế đa phương của khu vực. Washington đang tích cực khuyến khích các nước ‘quan ngại Trung Quốc’ xây dựng các liên kết quân sự ‘ngang hàng’ (peer to peer). Nhật Bản đang cung cấp cho Philippines 10 tàu tuần duyên, mỗi chiếc trị giá khoảng $11 triệu, và huấn luyện cho cảnh sát biển Việt Nam. Hàn Quốc đã tặng một tàu chiến cho Philippines và Australia cung cấp thiết bị và huấn luyện. Australia cũng đã kí một thỏa thuận hợp tác quốc phòng với nước láng giềng Indonesia năm 2012. Australia cũng đã bắt đầu cùng làm việc gắn bó hơn với Nhật Bản - ví dụ như với cuộc tập trận Nichi Gou Trident vào tháng 6 năm 2012.[49] ‘Thỏa thuận năm cuờng quốc Quốc phòng’, kí kết vào năm 1971, vẫn còn liên kết Australia, New Zealand, Singapore, Malaysia và Anh.

Nhưng liệu tất cả các hoạt động này có thêm vào điều gì nhiều hơn là đầy những nhầm lẫn? Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn chưa thống nhất về các đảo tranh chấp và không có khả năng Việt Nam sẽ tham gia bất kì thoả thuận quốc phòng nào do Mĩ dẫn đầu nếu không có một nguy cơ sống còn nào đó từ Trung Quốc. Các nước còn lại của ASEAN vui vẻ trú ẩn dưới chiếc ô quân sự của Mĩ - và thực sự sử dụng nó để kiểm soát một số các tranh chấp bên trong ASEAN - nhưng không quan tâm tới việc cố phục hồi lại bất cứ điều gì giống như SEATO. Đó không phải là đồng minh, liên minh hoặc thậm chí là quan hệ đối tác. Một từ có thể mô tả khá gần được vay mượn từ vật lí. Đó là ‘[hiệp] thông’ (flux) - một loạt các hạt và các lực lúc nào cũng trong trạng thái liên kết với nhau. Nhưng theo cựu quan chức Lầu Năm Góc mà chúng ta nghe nói từ trước, điều đó không nhất thiết là một điều xấu. ‘Theo ý nghĩa ngoại giao, lợi thế lớn nhất của chúng tôi so với Trung Quốc không phải là tàu và máy bay và những thứ có thể đi tới nổ bùng. Đó là việc Trung Quốc vẫn chưa tìm ra được cách để chơi một trò chơi đa phương. Chúng tôi biết cách làm điều đó. Và khi chúng tôi trở nên yếu hơn thì chúng tôi sẽ phải làm điều đó tốt hơn mà may mắn là chúng tôi biết cách làm. Chúng tôi chỉ khám phá lại những thứ chúng tôi thường làm từ lâu - trước Thế chiến thứ hai. Tôi có thể nói với bạn sự thật là có nhiều nước ở đó muốn chúng tôi ở đó. Không đang có hiệu lực, không quả quyết, nhưng ở tầm mức chiến thuật’.[50]

Vậy làm thế nào những hạt này có thể được thuyết phục tự xếp hàng theo trục của Washington? Nói vắn tắt, thông qua đường hướng hành động thứ tư: mở rộng thương mại và đầu tư. Cụm từ khóa ở đây là ‘đối tác xuyên Thái Bình Dương’. Một trong những động lực chính đằng sau sự chuyển trục là nỗi lo sợ rằng Mĩ đang bị đẩy ra khỏi thị trường của mình ở Đông Nam Á. Năm 2004, Mĩ là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, đến năm 2010 lớn thứ tư, sau Trung Quốc, Nhật Bản và EU. Khu vực thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN có hiệu lực từ năm đó và Trung Quốc đã thúc đẩy một khu vực thương mại tự do Đông Á rộng lớn hơn để bao gồm cả Nhật Bản và Hàn Quốc, trong đó họ có thể có ảnh hưởng đáng kể đối với Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Theo Ernie Bower, ‘có một vấn đề thực sự về việc hội nhập kinh tế của Châu Á và việc Trung Quốc cố áp đảo trong kinh tế. Họ đã bắt đầu thống trị cấu trúc ‘ASEAN cộng 3’ theo ý nghĩa rằng họ là người lập ra chương trình nghị sự. Nếu bạn nói chuyện với người Nhật và người Hàn Quốc thì thực sự có việc lo lắng, còn người Australia và New Zealand thì bực dọc, vì việc hội nhập của Châu Á đã bắt đầu lăn bánh mà không có họ. Vì vậy, có rất nhiều cảnh báo cho người Mĩ’.

Tháng 1 năm 2008, lúc George W. Bush vẫn còn là tổng thống, chính quyền của ông đã thông qua một nhóm tù mù bốn quốc gia ghép với nhau một cách lạ lùng - Brunei, Chile, New Zealand và Singapore - tự gọi mình là ‘Đối tác Xuyên Thái Bình Dương’ (Trans-Pacific Partnership hay TPP) và đẩy nó vào mặt trước trong hoạch định kinh tế của Mĩ đối với Châu Á. Chính quyền Obama lúc đầu ít quan tâm. Khi Obama bước lên máy bay Air Force One thực hiện chuyến thăm Châu Á chính thức đầu tiên vào tháng 11 năm 2009, ông không có kế hoạch đưa ra bất kì thông báo nào về thương mại. Nhưng trong chuyến bay, sau khi trò chuyện với Hillary Clinton và Kurt Campbell, ông đã bị thuyết phục và, trước sự ngạc nhiên của mọi người, đã công bố tại Nhật Bản rằng Hoa Kì sẽ tham gia vào quá trình đàm phán TPP. Trong những năm sau đó, TPP đã phát triển lên bao gồm 12 nước, trong đó có hai thành viên khác của ASEAN (Việt Nam và Malaysia) cùng với Nhật Bản. Hàn Quốc cũng có thể tham gia. Điều cuối cùng Washington muốn thấy là TPP mở rộng thành một ‘Khu vực mậu dịch tự do Châu Á-Thái Bình Dương’ nhưng có sự hoài nghi lan rộng về việc liệu TPP thậm chí có thể đạt được mục tiêu đầu tiên của nó hay không. Những mục tiêu này gồm có các quy định về quyền lao động, bảo vệ môi trường, sở hữu trí tuệ và hợp đồng chính phủ - những vấn đề của nước giàu đi thẳng xuống chương trình nghị sự ở Châu Á.

ASEAN đã tiến trước với tổ chức có tên viết tắt riêng: RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership), Đối tác kinh tế toàn diện khu vực. Đó là một khuôn khổ với tiêu chuẩn thấp hơn nhiều, chủ yếu tập trung vào việc thống nhất các khu vực thương mại tự do của các thành viên ASEAN, có cả Trung Quốc trong đó. Đã có rất nhiều cuộc thảo luận về sự đối đầu giữa TPP được Mĩ hậu thuẫn và RCEP có Trung Quốc trong đó nhưng đáng lưu ý rằng ASEAN cố ý chọn thúc đẩy RCEP (chứ không phải là Khu vực thương mại tự do Đông Á) bởi vì nó bao gồm cả Ấn Độ, Australia và New Zealand cùng với Nhật Bản và Hàn Quốc - làm cho nó ít tập trung vào Trung Quốc hơn nhiều. Nhưng cũng tất cả những nước ASEAN này lại bỏ phiếu bằng chân, hội nhập với các thị trường có ý nghĩa nhất của họ.

Tuy nhiên, ngoài chương trình giúp các nước ASEAN chuẩn bị tiến tới các tiêu chuẩn của TPP (sáng kiến tham gia kinh tế mở rộng), Washington không đưa ra gì nhiều theo hướng khuyến khích kinh tế chính thức để lôi kéo Ấn Độ-Thái Bình Dương vào hướng đi của mình. Điều này phản ánh sức mạnh của vận động hành lang trong nước Mĩ vốn lo lắng về sự cạnh tranh không lành mạnh từ các nhà sản xuất Châu Á nhiều hơn về vị trí chiến lược của Mĩ ở Châu Á. Trong khi đó, các khu vực tư nhân được cho là thích ứng với nó. Năm 2012, Hội đồng Kinh doanh Mĩ-ASEAN và Phòng Thương mại Hoa Kì đã tổ chức Diễn đàn Kinh doanh Mĩ-ASEAN tại Campuchia cũng vào lúc mà các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN mặc cả về thông cáo chung nhưng điều này đã không lặp lại trong năm 2013. Việc chuyển trục dường như vẫn còn chú trọng về súng nhiều hơn là về bơ.

Nhưng loại súng nào? Các quan chức Trung Quốc đã đề xuất cách giải thích luật quốc tế có khả năng sẽ đóng cửa Biển Đông đối với Hải quân Mĩ. Đồng thời Trung Quốc đang phát triển các loại vũ khí có tính năng từ chối hạm đội Mĩ sử dụng Biển Đông. Washington nhìn thấy những diễn biến đó như là những đe dọa cơ bản, không những đối với hải quân mà còn với vị trí toàn cầu của họ. Yếu tố thứ năm trong tuyên bố chuyển trục của Hillary Clinton ‘một sự hiện diện quân sự trên diện rộng’, nhưng như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, nó lại liên quan tới cụm từ ‘hải không chiến’. Có thể có chiến tranh chăng? Chắc chắn không thể có được. Hải quân Mĩ trong quá khứ đã từng chừa chỗ cho một cường mới nổi và có thể làm như vậy một lần nữa. Trong những thập kỉ sau năm 1962, Liên Xô đã phát triển lực lượng hải quân nước xanh và hạm đội Viễn Đông của họ đã từ Vladivostok đi rộng khắp nơi. Nhưng vào lúc đó, cả hai cường quốc này đều là môn đồ của Hugo Grotius. Điều đó thích hợp cho việc họ có thể đi qua Biển Đông, và mọi nơi khác, tuỳ ý. Cái khác biệt hiện nay là Bắc Kinh có vẻ muốn lật đổ nhiều thế kỉ thoả thuận và phủ nhận quyền đó đối với tàu quân sự.

Nhánh cuối cùng của chuyển trục là ‘thúc đẩy dân chủ và quyền con người’ theo tiêu chuẩn của các giá trị phổ quát. Đây là yếu tố ít được phát triển nhất. Những thành công đã được làm ồn ào ở Myanmar, nước mà Derek Mitchell đang là đại sứ Hoa Kì vào thời điểm viết sách, nhưng bất đồng về quyền con người đã làm sự phát triển quan hệ với Việt Nam chậm lại. Xét cho cùng chúng là cái xác định sự khác biệt giữa Mĩ và Trung Quốc, với việc lãnh đạo Bắc Kinh tin chắc rằng việc đề cao các quyền cá nhân sẽ làm suy yếu hệ thống chính trị và dẫn đến một đợt thống trị mới của đế quốc. Có khả năng việc xem xét về quyền con ngưởi sẽ đóng một vai trò tương đối nhỏ trong các cuộc thi thố chiến lược đang mở ra.

Hai đòi hỏi chiến lược và nhiều lợi ích trong khu vực va chạm nhau ở Biển Đông. Tranh chấp là rất nguy hiểm bởi vì nó kết tinh ý tưởng của hai nước về việc họ là ai. Cả Hoa Kì lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều dựa trên một cảm giác mạnh về mục đích, và giới tinh hoa của họ cũng thấm nhuần điều đó. Đối với những người cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tính hợp pháp đến từ lịch sử cuộc đấu tranh chống đế quốc và một chiến dịch đang diễn ra về thu hồi lãnh thổ bị lấy mất từ cơ thể dân tộc bởi thực dân và những kẻ phản bội. Tuy nhiên niềm tin bị sai lầm về lịch sử này cho rằng những vùng lãnh thổ đó bao gồm cả Biển Đông. Giới tinh hoa Hoa Kì cũng có một niềm tin tiềm ẩn về vận mệnh hiển nhiên của Mĩ: Mĩ là một ‘đất nước ngoại lệ’, là ‘niểm hi vọng tốt nhất cuối cùng’ của thế giới, là một ‘sức mạnh không thể thiếu’, là nước đề cao các chuẩn mực, quy tắc của hệ thống quốc tế. Biển Đông là nơi đầu tiên mà những chuẩn mực và quy tắc đó đang bị thách thức. Nếu mất quyền truy cập vào những vùng biển đó thì Hoa Kì sẽ mất đi vai trò toàn cầu của mình và trở thành chỉ một cường quốc suông. Cú sốc sẽ là sâu đậm và những hậu quả cho bản sắc Mĩ, thịnh vượng và an ninh. Đó có thể là một cái gì đó đáng để tranh đấu gìn giữ. Và, như chúng ta sẽ thấy, kế hoạch đã được vạch ra.

==================================




[1] US Embassy, Beijing, Cable 09BEIJING3276, MFA Press Briefing, 8 December 2009. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2000/12/09BEIJING3276.html.
[2] US Embassy, Beijing, Cable 09BEIJING3338, ‘MFA Press Briefing’, 15 December 2009. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2009/12/09BEIJING3338.html.
[3] US Embassy, Phnom Penh, cable 09PHNOMPENH925_a, ‘Update On Uighur Asylum-Seekers in Cambodia’, 16 December 2009. Có thể xem tại https://search.wikileaks.org/plusd/cables/09PHNOMPENH925a.html.
[4] US Embassy, Phnom Penh, Cable 09PHNOMPENH954, ‘Corrected Copy – Deportation Scenario For 20 Uighur Asylum-Seekers’, 21 December 2009. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2000/12/09PHNOMPENH954.html.
[5] Two More Uyghurs Get Life Sentences (Thêm 2 người Duy Ngô Nhĩ bị tù chung thân), Radio Free Asia, 27 January 2012. Có thể xem tại http://www.rfa.org/english/news/uvghur/life-01272012201754.html.
[6] US Embassy, Beijing, Cable 09BEIJING3507, PRC: Vice President Xi Jinping Strengthens Relations with Cambodia during December 2022 Visit, 31 December 2009. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2000/12/09BEIJING3507.html
[7] ‘Selected Comments during the Visit to New Bridge Prek Kadam’, Cambodian Prime Ministers Office, 14 September 2009. Có thể xem tại http://cnv.org.kh/en/?p=1438.
[8] Phải nói rằng, cùng lúc đó, Hoa Kì cũng đang phải giải quyết vấn đề của chính họ về quyền con người của người Duy Ngô Nhĩ. 22 người bị bắt ở Afghanistan hay Pakistan đã bị kết tội khủng bố sai và bị giam giữ tại Guantanamo Bay trước khi được thả ra bắt buộclưu vong.
[9]U.S. Suspends Some Aid to Cambodia over Uighur Case’, Reuters, 1 April 2010.
[11] Carlyle A. Thayer, ‘The Tug of War Over Cambodia’, USNI News, 19 February 2013.
[12] 12 Craig Whitlock, US. expands counter-terrorism assistance in Cambodia in spite of human rights concerns, Washington Post, 15 November 2012. Có thể xem tại  http://articles.washingtonpost.com/2012-11-15/world/35503430_1_human-rights-asia-advocacy-director-cambodia.
[13] Saing Soenthrith and Paul Vrieze, ‘Hun Sens Second Son in Meteoric Rise Through RCAF Ranks’, Cambodia Daily, 30 January 2012.
[14] Vong Sokheng, ‘China Steps up Military Aid’, Phnom Penh Post, 24 January 2013.
[15] US Embassy, Beijing, Cable 09BEIJING3507, ‘PRC: Vice President Xi Jinping Strengthens Relations with Cambodia during December 2022 Visit’, 31 December 2009. Có thể xem tại http://wikileaks.org/cable/2000/12/09BEIJING3507.html.
[16] Deborah Brautigam, Chinese Aid in Cambodia: How Much, China in Africa: The Real Story, 17 May 2010. Có thể xem tại http://chinaafricanrealstory.com/2010/05/chinese-aid-in-cambodia-how-much.html.
[17] . Cambodia: An Ant Dodging Elephants (Campuchia: Con kiến né tránh bọn voi), Eugene RegisterGuard, 22 October 1964.
[18] Donald K. Emmerson, Southeast Asia: Whats in a Name, Journal of Southeast Asian Studies, vol. 15 (1984), 121.
[19] Nicholas Tarling, From SEAFET and ASA: Precursors of ASEAN, International Journal of Asia Pacific Studies, vol. 3, no. 1 (2007), 114.
[20] Robert Gates, Challenges to Stability in the AsiaPacific, ShangriLa Dialogue 2008, 31 May 2008. Có thể xem tại https://www.iiss.org/en/events/shangri%20la%20dialogue/archive/shangri-la-2008-2006/first-plenary-session1921/dr-robert-m-gates-bce8.
[21] Kurt M. Campbell, The United States, China and Australia, Address to United States Studies Centre’s Alliance 21 project, Emerging Asia, Customs House, Sydney, 14 March 2013.
[22] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại. 6/11/2013.
[23] . Hillary Rodham Clinton, Remarks at Press Availability, Hanoi, 23 July 2010. Có thể xem tại http://m.state.gov/md145095.htm..
[24] Ian Storey, ‘China’s Missteps in Southeast Asia: Less Charm, More Offensive’, China Brief (Jamestown Foundation, vol. 10, issue 25 (17 December 2010). Có thể xem tại http://www.jamestown.org/uploads/media/cb_010_07d25e.pdf.
[25] ‘China Pledges US$ 70m Aid to Cambodia’, 1 April 2012. Có thể xem tại https://sg.news.yahoo.com/china-pledges-us-70m-aid-cambodia-075004737.html.
[26] ‘Hu Wants Cambodia Help on China Sea Dispute, Pledges Aid’, Reuters, 31 March 2012. Có thể xem tại http://www.reuters.com/article/2012/03/21/us-cambodia-china-idUSBRE82U04Y20120331.
[27] ‘China Offers $ 20 Million in Military Aid Ahead of Asean Meeting’, Voice of America, Khmer Service, 29 May 2012. Có thể xem tại http://www.voacambodia.com/content/china-offers-20million-in-military-aid-ahead-of-asean-meeting-155432515/1356122.html.
[28] ‘Cambodia Takes $ 430m China Loan’, Phnom Penh Post, 14 June 2012. Có thể xem tại http://www.phnompenhpost.com/business-cambodia-takes-430m-china-loans.
[29] Carlyle Thayer, ‘Securing Maritime Security in the South China Sea: Norms, Legal Regimes and Realpolitik’, paper presented to the International Studies Association Annual Convention, San Francisco, 6 April 2013.
[30] Carlyle A. Thayer, ‘ASEAN’S Code of Conduct in the South China Sea: A Litmus Test for Community-Building?’, The AsiaPacific Journal: Japan Focus, vol. 10, issue 34, no. 4 (20 August 2012).
[31] Cambodian Prime Minister Hun Sen Meets Yang Jiechi, Xinhua, 10 July 2012.
[32] Ernest . Bower, Southeast Asia from the Corner of 18th and K Streets: China Reveals Its Hand on ASEAN in Phnom Penh, CSIS Newsletter, vol. 3, no. 14 (19 July 2012). Có thể xem tại http://csis.org/publication/southeast-asia-corner-18th-and-k-streets-china-reveals-its-hand-asean-phnompenh.
[33] ‘Setting the Record Straight’ (letter from Koy Kuong, Cambodian government spokesperson, Phnom Penh Post, 25 July 2012.
[34] . ‘US, China Square off over the South China Sea’, Associated Press, 12 July 2012.
[35] ‘Cambodia Rejects ASEAN Ministers’ Plea to Issue Joint Communiqué’, Japan Economic Newswire, 13 July 2012.
[36] Jane Perlez, ‘Asian Leaders at Regional Meeting Fail to Resolve Disputes Over South China Sea’, New York Times, 12 July 2012. 
[37] ‘South China Sea; ASEAN Talks Fail; No Joint Statement’, Zeenews, 13 July 2012.
[38] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại. 6/11/2013.
[39] Phỏng vấn cá nhân. Yangon 20/11/2013
[40] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại. 4/8/2013.
[41] Kurt M. Campbell, ‘The United States, China and Australia’, Address to United States Studies Centres Alliance 21 project, Emerging Asia, Customs House, Sydney, 14 March 2013.
[42] Kim Beazley, ‘A Shift in Thinking Is Needed to Clear Indo-Pacific Hurdles’, Special Issue: In the Zone: Crisis, Opportunity and the New World Order, The Australian, 8 November 2009.
[43] Kurt Campbell and Brian Andrews, ‘Explaining the US “Pivot” to Asia’, Programme paper, Chatham House, August 2013, có thể xem tại http://www.chathamhouse.org/publications/papers/view/194019
[44] Vinay Kumar, ‘India, Australia Raise the Pitch on Maritime Cooperation’, The Times of India, 5 June 2013.
[45] Sandeep Dikshit, ‘India Offers Vietnam Credit for Military Ware’, The Hindu, 28 July 2013.
[46] Barton Gellman and Greg Miller, ‘U.S. Spy Networks Successes, Failures and Objectives Detailed in “Black Budget” Summary’, Washington Post, 29 August 2013.
[47] Bill Carey, ‘Congress Passes 2014 Defense Authorization Bill’, Aviation International News, 3 January 2014.
[49] Christian Le Mière, ‘Rebalancing the Burden in East Asia’, Survival: Global Politics and Strategy, vol. 55, no. 2 (April-May 2013), 31-41.
[50] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại. 4/8/2013.