tag:blogger.com,1999:blog-49019674039101290722024-03-10T20:21:12.721-07:00Lan manHuynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.comBlogger344125tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-57658134814520941782024-02-23T15:12:00.000-08:002024-02-23T15:12:39.237-08:00<p> </p><span id="docs-internal-guid-7ea1288e-7fff-759f-e633-7b3ef65ece84"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 20pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đàng Trong thế kỉ 17</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 20pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Một thực thể gắn với biển</span></h1><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thế kỉ 17 mang đến những thay đổi kịch tính hơn ở bờ biển phía nam, trên vùng đất cũ của Champa. Trên bình diện toàn cầu, cuộc chinh phục Melaka của Bồ Đào Nha vào năm 1511 đã buộc các thương nhân Hồi giáo phải di cư đến các cảng khác của Đông Nam Á như Patani (1520), Banten (1525), Ayutthaya (1540), Cebu (1565) và Makassar (1605), từ đó họ tạo ra các mạng lưới mới có thể thích ứng với sự cạnh tranh ngày càng mở rộng sắp tới của châu Âu. Các cộng đồng thương mại Hồi giáo nhận thêm một cú hích vào những năm 1550 sau khi tuyến đường thương mại Hồi giáo mới giữa Aceh và biển Đỏ được mở ra, nhờ sự quan tâm ngày càng tăng của Ottoman đối với Ấn Độ Dương chỉ một thế kỉ sau khi họ chinh phục Constantinople.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Việc mở rộng mạng lưới khu vực và toàn cầu đã kích thích sự tăng trưởng mới ở những nơi như Campuchia, nơi thu hút người Hồi giáo thuộc nhiều sắc tộc, bao gồm cả người Chăm chạy trốn khỏi sự đàn áp của Việt Nam tại quê hương mình, định cư dọc theo sông Mê Kông từ các vùng thượng nguồn của kinh đô Lovek và nơi kế tục nó là Oudong gần sông Tonle Sap đến các vùng hạ lưu được nuôi dưỡng bởi vùng châu thổ rộng lớn của nó.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này dường như báo trước sự hồi sinh của Champa. Hơn một lần, như cuốn sách này cho thấy, những hình thái mới trong thương mại châu Á đã khiến các quốc gia Chăm mới vươn lên như phượng hoàng từ đống tro tàn của sự sụp đổ của chế độ trước đó.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Tuy nhiên, trong một bước ngoặt kì lạ, mạng lưới xã hội thương nhân và thương mại mở rộng được tạo ra vào thế kỉ 16 tỏ ra có lợi một cách bất ngờ cho người Việt trong thế kỉ kế tiếp, như chúng ta sẽ thấy trong chương này và chương kế. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tất nhiên, cuộc </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nam tiến </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">của người Việt tới Champa có số phận đã định. Nhưng lí do rất phức tạp. Như được biết hiện nay, cuộc chinh phục không đột nhiên khiến toàn bộ người Chăm biến mất hay phân tán. Giới chủ chốt Chăm dường như muốn tận dụng sự mở rộng mới của các mạng lưới Hồi giáo như một cơ hội để hồi sinh đất nước. Năm 1594, vua Chăm gửi quân trợ giúp Sultan của Johor trong trận chiến với người Bồ Đào Nha ở Melaka. Các vị vua Chăm đã liên tiếp phái tàu đến Manila, Batavia và Melaka từ những năm 1630 đến những năm 1680 để bù đắp cho hoạt động thương mại bị chuyển hướng khỏi các cảng của họ do sự trỗi dậy của Hội An (xem bên dưới).</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Tuy nhiên, việc mất đi cảng lớn Thị Nại và đồng bằng lớn nhất Quy Nhơn quả đã gây thiệt hại và thiệt hại nặng nề. Các nhóm người Chăm bỏ chạy, và chính quyền Đại Việt định kì buộc những người Chăm khác phải di dời sâu vào đất liền, rời xa các vùng đất trồng trọt và các trung tâm thương mại ở hạ lưu sông. Chỉ do nhiều người, nếu không nói là hầu hết, vẫn ở nguyên chỗ cũ, việc đồng hóa theo thời gian thông qua các phương thức - như hôn nhân dị chủng, nô lệ, cải đạo hoặc cưỡng ép dẫn đến một loại xã hội lai Việt-Chăm rất điển hình cho các xã hội bị chinh phục.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Tuy nhiên, càng đi về phía nam, tỉ lệ định cư, ngôn ngữ và văn hóa của người Chăm càng lớn. Những nỗ lực phản kháng và khôi phục xuất hiện theo từng đợt trong sử sách Việt Nam, khẳng định chắc chắn với chúng ta rằng lực lượng Đại Việt sẽ nghiền nát không thương tiếc, dẫn tới sự dời chỗ và tước quyền hơn nữa. Sự biến mất của sự liên quan lâu dài của Champa cả về mặt chính trị với vùng vịnh Bắc bộ lẫn về mặt kinh tế đối với thương mại đường dài liên Á, là một thời điểm bước ngoặt trong lịch sử biển Việt Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ban đầu đảm nhận việc loại bỏ tận gốc những kẻ ủng hộ nhà Mạc nhằm trợ giúp nỗ lực khôi phục nhà Lê của các chúa Trịnh vào năm 1558, đến năm 1600, Nguyễn Hoàng nhận thấy viễn cảnh giành lại quyền lực ở Thăng Long là vô vọng và đã bỏ chạy về phía nam, đến pháo đài của các con thứ và gia đình họ ở vùng đất cũ của bắc Champa.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trong hơn 200 năm tiếp theo, cơ hội và thiên tài có vẻ đã ưu ái gia tộc của ông, họ đã nuốt chửng các lãnh thổ Chăm còn lại và chiếm miền nam Campuchia lập ra một nhà nước Việt hùng mạnh, một vương quốc trên thực tế đối chọi về mọi mặt với họ Trịnh đang cai trị quê hương tổ tiên của ông. Di sản quan trọng nhất của nó nằm tại các khu vực ở miền Trung và miền Nam Việt Nam hiện đại. Vì vậy, di sản về biển của người Chăm đã tồn tại dưới thời vị chúa mới, người sẽ đảm bảo rằng con phượng hoàng Chăm sẽ không bao giờ quay trở lại, qua việc khai thác chính những lợi thế vốn từ lâu đã mang lại cho người Chăm một dây cứu sinh chính trị của họ, thương mại trên biển của châu Á.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chế độ mới này bắt đầu ở một dải lãnh thổ mỏng giữa núi và biển. Ở đây, trong 10 thế kỉ, các cảng của Chăm là nơi cập bến của các tàu buôn lớn của Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông, trong khi các lực lượng vũ trang của người Chăm đánh nhau với kẻ thù Việt Nam để giành quyền kiểm soát hoạt động buôn bán đó. Cũng chính tại đây, người Việt và người Chăm đã tương tác và qua đó đã thấm nhuần văn hóa của nhau. Địa lí và kinh tế kết hợp tạo nên tiếng vang mạnh mẽ về sự cạnh tranh kéo dài hàng thế kỉ của Đại Việt với các vương quốc ven biển Chămpa dưới thời họ Nguyễn thế kỉ 17, dù trong hình thức mới về mặt chính trị, với các tay chơi ở cả hai bên lúc này đều là người Việt.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Giống như các vương quốc trước đó, hai vương quốc Việt Nam cạnh tranh giành quyền kiểm soát bờ biển, cả về thương mại lẫn quân sự. Sự thật thì Đàng Trong vẫn là một phần của Đại Việt, mặc dù đến năm 1624 đã ngừng nộp thuế cho triều đình và hoạt động độc lập.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này dẫn đến chiến tranh lúc đánh lúc ngưng từ năm 1627 đến năm 1672, trong đó phủ chúa Trịnh của Đàng Ngoài (Đàng Ngoài) phát động 7 chiến dịch quân sự lớn trên bộ và trên biển. Họ Trịnh thất bại, dù đối thủ có những điểm yếu rõ ràng. Trong những ngày đầu, họ Nguyễn phải đối mặt với một kẻ thù mạnh hơn nhiều là họ Trịnh, về mọi mặt. Đàng Ngoài có một hệ thống nhà nước được thiết lập vững, cho phép các chúa Trịnh kiểm soát đất đai nhiều hơn họ Nguyễn sở hữu tới ba hoặc bốn lần và duy trì lực lượng vũ trang lớn hơn gấp ba đến bốn lần. Nhờ có cơ sở sức mạnh ở đồng bằng sông Hồng, các chúa Trịnh còn có được lợi thế về sự hậu thuẫn từ một lãnh thổ rộng lớn và đông dân do người Việt cư trú và cai trị từ lâu, trong khi phủ chúa Nguyễn phải vật lộn với lãnh thổ có người Chăm và các dân tộc khác sinh sống lâu đời với ngôn ngữ và văn hóa khác biệt với người Việt về nhiều mặt. Tuy nhiên, họ Nguyễn đã đẩy lùi một cách quyết định tất cả 7 cuộc xâm lược của quân Trịnh và có thể đẩy biên giới phía nam của họ đến đồng bằng sông Cửu Long, chiếm cứ vĩnh viễn phần đất còn sót lại của người Chăm và phần lớn miền nam Campuchia, người Khmer Krom - 'Campuchia hạ' (xem Bản đồ 8.1).</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Khi phủ chúa Trịnh cuối cùng đã từ bỏ tham vọng chinh phục đối thủ phía nam vào năm 1672, họ Nguyễn đã giành được quyền tự chủ trên thực tế. Nhiều thế kỉ tranh chấp dọc theo bờ biển dài giữa vĩ tuyến 14 và 18, đầu tiên là giữa người Việt với người Chăm và bây giờ là giữa người Việt với nhau, đã chấm dứt. Vận mệnh của các lãnh thổ Chăm trước đây giờ đây nằm hoàn toàn trong tay người Việt. Vì vậy, chính người Việt, chứ không phải người Chăm, đã có thể tận dụng sự phát triển mạnh mẽ về giao thương và thương mại vốn là đặc trưng của thế kỉ 17.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 763px; overflow: hidden; width: 452px;"><img height="763" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/29dn145nL2YIT4p7-RX6X-rP5_we09rYdd_3QAaKWgSf53wac6o7ns4hW7WD5CrlVVHIC1MKSXGZraERPug97VDxC9NvNpEHBCeePS8lcFAGSUEHELRN4DyJDxWJKv1nEScQt-bhqjlosQSfxnkhjcE" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="452" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ 8.1 Việt Nam mở rộng về phía Nam</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Được phép của Anthony Reid, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">A History of Southeast Asia </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(West Sussex Wiley Blackwell, 2015), tr. 182</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nhìn lướt qua địa lí của Đàng Trong sẽ giúp giải thích tại sao tất cả điều này lại xảy ra. Hầu hết lãnh thổ của Đàng Trong thế kỉ 17 là những dải đất dài và hẹp nằm giữa dãy Trường Sơn và biển Đông. Đôi khi khoảng cách giữa núi và biển chỉ có 15 km.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Khi đó, về tổng thể, địa lí của Đàng Trong đã định vị xã hội người Việt ở Đàng Trong gần với biển hơn nhiều so với xã hội phía Bắc. Sự giàu có và sức mạnh nằm ở việc kiểm soát chuỗi cửa sông mà qua đó các nhà sản xuất ven sông và ven biển làm ăn trực tiếp hoặc gián tiếp với các thương nhân đường biển. Vị trí địa lí như vậy khiến các thủy thủ, lái tàu, người khuân vác, người đóng thuyền và chủ quán trọ không thể thiếu, đồng thời cung cấp sinh kế cho ngư dân, người làm muối, người buôn bán nhỏ, gái mại dâm, người lao động, kẻ trục lợi và dân buôn lậu.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Những người này rất cần cho việc cung ứng, phân phối và hoạt động tổng thể của cả cảng lẫn hệ thống thương mại phục vụ nó. Không có họ, sẽ không có thương mại đường biển. Vì biển ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của rất nhiều người dân sống ở đó nên nó có tầm quan trọng to lớn đối với việc hình thành Nhà nước Đàng Trong.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Để đánh giá cao sức mạnh của biển trong việc hình thành Đàng Trong của họ Nguyễn, chương này tập trung vào bốn khía cạnh bộc lộ trong chiến lược của họ Nguyễn nhằm thiết lập và bảo vệ quyền lực: Địa lí hành chính của phủ chúa, thúc đẩy thương mại với nước ngoài, khai thác cướp biển và các hình thức phá hoại khác và liên minh với xứ [Đài Loan] của họ Zheng (Trịnh) Trung Quốc, cũng như hoạt động khai thác rừng của nước này. Những yếu tố này tỏ ra quan trọng đối với sự thành công của họ Nguyễn trong việc lập ra một Nhà nước Việt Nam mới trên đất của người Chăm, chinh phục các vùng đất phía nam của người Khmer, và đảm bảo việc định cư và chủ quyền lâu dài của người Việt ở đó, như Chương 9 sẽ cho thấy.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tàu thuyền và sức mạnh họ Nguyễn</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hải chiến không là điều lạ với lịch sử Việt Nam. Tất cả các trận đánh lớn quyết định số phận của một triều đại Việt Nam nào đó đều diễn ra trên biển, cụ thể là ở các vùng nước ven biển, vùng châu thổ sông, cửa sông. Ở đó, hạm đội Đại Việt bảo vệ vương quốc của họ trước sự xâm lược hầu hết là của thủy quân Trung Quốc, đặc biệt là các đế quốc Nam Hán, Tống, Nguyên và Minh. Vào những lúc khác, các cuộc viễn chinh của Đại Việt do các triều đại Lý, Trần và Lê huy động đã đánh với Champa để giành quyền kiểm soát bờ biển. Tuy nhiên, không có kinh nghiệm nào trước đây có thể so sánh được với Đàng Trong của họ Nguyễn về mặt huy động xã hội và tầm vóc ảnh hưởng của nó đối với xã hội và nền kinh tế.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Như vậy, sự chuyên tâm của Đàng Trong đối với biển như một chiến lược chính trị là một bước tách đi mới trong lịch sử Việt Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khía cạnh hải quân mạnh mẽ của sức mạnh họ Nguyễn gần như được công nhận ngay khi gia tộc Nguyễn Hoàng bước vào con đường tự trị. Trương Tiếp (Zhang Xie) đã viết về điều này từ năm 1617, trong cuốn </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đông Tây Dương khảo</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, ông mô tả ‘người đứng đầu Quảng Nam’ (có lẽ là Nguyễn Phúc Nguyên, con trai của Nguyễn Hoàng) và hiệu quả của ông trong việc kiểm soát bờ biển:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Người đứng đầu Quảng Nam dùng quyền lực đối với mọi dân tộc phía Nam (</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">di</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) trong khu vực. Cảng Tân Châu (Thị Nại) và Tiyi (Nước Mặn) đều tuân phục ông. Tất cả các tàu ghé vào hai cảng này đều phải đi vài ngày tới Quảng Nam để cống phẩm vật. Người đứng đầu Quảng Nam cũng dựng biển gỗ [dọc bờ biển]. Những người vượt qua tấm biển phải thể hiện sự tôn trọng trước khi tiếp tục chuyến đi và không ai dám phàn nàn. Sự kính nể mà họ tạo ra được cảm nhận được bao quanh khu vực.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cuộc chiến của họ Nguyễn dựa vào tàu thuyền. Mặc dù 'thuyền' (thuyền/tàu) cũng đã từng là một đơn vị quân sự cơ bản ở Đàng Ngoài, nhưng chính ở Đàng Trong một đơn vị như vậy mới hiện ra đầy đủ ý nghĩa của nó. Những người lính đã nhập ngũ và nhiều người đến từ nền văn hóa tàu thuyền, vì vậy họ tỏ ra dễ dàng thích nghi với việc phục vụ thủy quân.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Thuyền buồm đóng quân ở mỗi tỉnh (cách nhau bởi các con sông lớn) và tuần tra dọc bờ biển.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Một bản đồ thế kỉ 17 cho thấy 5 bến tàu được xây dựng ở hai phía của hai bến cảng Eo và Tư Khách chỉ riêng ở Huế.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trong vòng 10 năm đánh nhau với họ Trịnh, số lượng thuyền chiến ở Đàng Trong đã tăng gấp đôi từ 100 trong những năm 1620 lên 230 vào năm 1642, cho thấy khả năng huy động lao động và vật lực của họ Nguyễn.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều đáng chú ý nhất về sức mạnh hải quân của họ Nguyễn là vào năm 1643. Trong một trận đánh quyết định, khoảng 50 chiếc thuyền buồm họ Nguyễn đã tiêu diệt một hạm đội ba tàu chiến của Hà Lan, làm nổ tung soái hạm huỷ diệt mọi thứ trên tàu.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Như Anthony Reid nhận xét, đây 'có lẽ là thất bại nhục nhã nhất của hải quân Hà Lan dưới tay người châu Á trước những năm 1940'.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tàu thuyền không thể thiếu cho hoạt động buôn bán với nước ngoài, là xương sống của nền kinh tế họ Nguyễn. Điều này được thể hiện trong bức tranh cuộn nổi tiếng của Nhật Bản '</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chuyến đi Đàng Trong của Chaya</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trên bức tranh này, tàu của Chaya được ba chiếc thuyền kéo về phía Thanh Chiêm, cơ quan hành chính Quảng Nam, nơi con trai của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên cư trú.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trên bức tranh này có ít nhất bốn nghề của người Đàng Trong được thể hiện: thương nhân, hoa tiêu, thông dịch viên, lính gác ven biển ở tháp canh, nếu chúng ta không chắc chắn về bản chất của chiếc thuyền ngoài văn phòng ghi là 'du thuyền'. Tất cả đều là một phần của thế giới biển của Đàng Trong. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong bức tranh phong cảnh này của Đàng Trong chúng ta phải thêm </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu,</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> một loại thuyền kiểu Malay được thấy có i khắp Đàng Trong từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 19, đặc biệt từ Hội An về phía nam đến Thuận Hải, một khu vực có ảnh hưởng mạnh mẽ của người Chăm. </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">có thể chở từ 70 đến 120 tấn và chủ yếu được sử dụng trong buôn bán ven biển.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Các học giả Việt Nam cho rằng cả công nghệ lẫn tên gọi đều là vay mượn, rất có thể trực tiếp từ các thợ đóng thuyền Chăm và thương nhân ven biển, những người có quan hệ lâu đời với người Malay, vì </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">gai </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">là tiếng Malay chỉ sợi dây hay dây giữ cột buồm và </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">là một từ biến thể của từ </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">prau</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> trong tiếng Malay</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nhà đi biển John Barrow đã nhìn thấy chúng quanh Đà Nẵng vào cuối thế kỉ 18, sau khi một số loại của chúng đã có cải tiến, nói rằng 'nhiều loại giống như loại </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">proas</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> thường gặp của người Malay, cả về thân tàu và trang bị'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Giống như những chiếc </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">prau </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">của người Malay, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ở Đàng Trong không sử dụng đinh sắt, một đặc điểm đóng tàu điển hình của Đông Nam Á, nhưng khác với chiếc </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">prau </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">của người Malay, tất cả </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu đều </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">có vẽ mắt. Điều này giống với thuyền mành của Trung Quốc. Mắt rất quan trọng đối với </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đến nỗi những người đóng ghe tin rằng </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">không có mắt thì không thể được gọi là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">là hiện thân của sự lai tạp về văn hóa biển của xã hội Đàng Trong.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">được đóng để đi ra biển buôn bán lớn hơn là cho việc bán rong; chỉ những người giàu mới có thể sở hữu chúng và thuê người vận hành (TV. </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">lái</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) chúng. Ở đây, một nghề cụ thể đã được tạo ra và một cái tên được đặt ra: '</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các lái' </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">hay '</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">lái bạn</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">' [có lẽ là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bạn lái</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> - ND], cả hai đều ám chỉ một nhóm người làm nghề lái </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Theo Trần Văn An, hàng năm các đoàn </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">sẽ khởi hành từ các vùng xung quanh Hội An để đi về phía nam, mang theo các sản vật địa phương của Quảng Nam như quế và đường để đổi lấy gạo và nước mắm.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">gắn liền với những thương nhân Thuận Quảng đi buôn ở miền Nam mà người miền Nam vùng đồng bằng sông Cửu Long đặt cho họ một cái tên: ' </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bọn Ghe Bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">' hay 'đám (băng?) </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu'. </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vương</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hồng Sển, nhà sử học hàng đầu về đồng bằng sông Cửu Long đã nêu trong </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Từ điển Phương ngữ Nam Bộ: </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">'Thuyền có bụng to, mũi hếch gọi là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghe bầu; </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">nó được đóng để đi biển. Cụm từ </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bọn ghe bầu </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">có nghĩa là "người miền Trung [Việt Nam]".'</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đàng Trong theo truyền thống của Champa thực hiện hai nghi lễ quan trọng là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">mở núi </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(khai sơn) và </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">cầu gió </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(đảo phong). Một số phiên bản của nghi lễ đầu, có liên quan chặt chẽ đến việc thu thập gỗ trầm hương, có lẽ đã tồn tại ở khu vực này trong nhiều thế kỉ trong người Chăm, trong khi nghi lễ thứ hai phát triển từ tập tục ở miền nam Phúc Kiến từ thời nhà Tống, có thể được chia sẻ hoặc học hỏi từ các công quốc Chăm.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Theo Lê Quý Đôn, hai nghi lễ này được triều đình họ Nguyễn thực hiện và mỗi năm đều có dành tiền ra cho việc tổ chức.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Chúng dường như là những nghi lễ quan trọng nhất liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh tế của họ Nguyễn và chắc hẳn đã được cộng đồng tham gia rộng rãi. Như Chang Pin-tsun đã mô tả miền nam Phúc Kiến thời nhà Tống về việc cầu gió biển lành, ‘Mọi người thuộc mọi cấp và ngành nghề đều có lợi ích trong thương mại biển. Tục lệ coi biển là nơi ngăn trở đã được thay bằng tục lê mới coi biển là nguồn cơ hội kinh tế.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Cũng vì lí do đó mà tục tôn kính cá voi ở địa phương, loài Cá Nhân Từ, đã trở nên đặc biệt phổ biến, bởi vì nó 'giúp người dân khi gặp bão trên biển nhưng chỉ ở phía Nam, từ sông Gianh đến Hà Tiên'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nguyên nhân, theo Lê Quang Nghiêm, là do người phía Bắc không tin vào Cá Ông - vì thế mà ở miền Nam có câu nói phổ biến: </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">tại Bắc vi ngư, tại Nam vi thần </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(bắc là cá, nam là thần).</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Được nghe rằng hình Cá Ông được bày trong đền Lê Văn Duyệt, Tổng trấn miền Nam (Gia Định tổng trấn), khác với đa số các đền thờ ở Việt Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thậm chí ngày nay, các nghi lễ cúng bái chào đón Cá lớn của biển Nam vẫn được tổ chức hàng năm ở miền Nam Việt Nam.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Một </span><span style="background-color: white; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">lãnh tụ nghĩa binh</span><span style="background-color: white; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ở thế kỉ 19, Nguyễn Trung Trực, được cho là hóa thân của vị thần cá voi này, Cá Ông, người mà tới lượt mình lại là một hóa thân của Thần biển Nam.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Các nghi lễ khác cho thấy nguồn gốc hoặc mối liên hệ của người Chăm đã được ghi chép vào cuối thế kỉ 20. Một số làng chài người Việt ở tỉnh Khánh Hòa từng tôn kính hai loại linh vật Chăm là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">yoni </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">và </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">linga,</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> những quan niệm của Ấn Độ giáo tôn vinh sức mạnh sinh sản của nam và nữ.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Vào thế kỉ 20, người Việt ở các tỉnh Đàng Trong cũ khác cũng được ghi nhận là đã mời các pháp sư (shaman) Chăm đến thực hiện nghi lễ cúng thần linh Chăm được gọi là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">dàng </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(phát âm là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">yang</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) trong tiếng Việt. Từ </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">dàng </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">là một biến thể tiếng Việt của từ Chăm </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">yang</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, mà từ có họ hàng của nó trong tiếng Java và tiếng Malay có nghĩa là “trời”.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong số tất cả các loại hoạt động trong thế giới sông biển Đàng Trong giúp xác định và bảo vệ Đàng Trong của họ Nguyễn, một loại hoạt động biển khác cần được đề cập ở đây, nghĩ rằng là do tầm quan trọng của nó trong thời kì đầu cai trị của họ Nguyễn. Đó là việc trục vớt trên biển, dính dáng đến việc cướp bóc có tổ chức hoặc nhất thời vô số tàu thuyền từ nơi khác bị đắm dọc theo bờ biển ít dung thứ của Đàng Trong. Từ rất lâu trước khi họ Nguyễn đến, dải bờ biển tương đối ngắn này đã làm thành một trong những đoạn nguy hiểm nhất của tuyến đường thương mại biển ở biển Đông. Một số nhà khảo cổ học ước tính có tới cả ngàn tàu thuyền có thể đã bị bỏ xác ở đây, chỉ tính riêng một bãi biển Quảng Ngãi đã phát hiện được 8 xác tàu.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nguyễn Hoàng đã sớm nhận ra giá trị tiềm năng của các hoạt động trục vớt vớt xác lập lâu đời mà ông phát hiện được ở đây và tổ chức một số làng thành cái mà trên thực tế là các đội trục vớt được cấp phép mà các thành viên của họ thường xuyên chèo thuyền ra các bãi cạn và bãi cát ngoài khơi để thu nhặt vàng, bạc và các hàng hóa có giá trị hoặc hữu ích khác từ tàu thuyền bị đắm. Nhưng đối với Nguyễn Hoàng, những món đồ được chào đón nhiều nhất mà các thần dân sống ven biển của ông vớt được có lẽ là vũ khí, đặc biệt là đại bác. Những khẩu pháo cỡ lớn của châu Âu vừa đắt tiền vừa thiết yếu, và biển đã cung cấp chúng miễn phí với số lượng đáng kể cho họ Nguyễn, một lợi thế quý giá vào thời điểm mà nguồn cung cấp ổn định pháo lớn không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Chúng ta biết điều này qua lời kể của nhà truyền giáo Dòng Tên Cristoforo Borri, sống ở Đàng Trong nhiều năm trong những năm 1610. Ông kể rằng họ Nguyễn ‘trong một thời gian ngắn đã tập hợp được rất nhiều khẩu đại bác, từ xác tàu của một số tàu Bồ Đào Nha hoặc Hà Lan, bị dạt lên những tảng đá này, được người dân quê nhặt lên, có khoảng 60 khẩu loại lớn nhất được thấy được nhìn thấy trong cung điện của nhà vua vào lúc này'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nói cách khác, một phần số đại bác tiên tiến rất quan trọng đối với sức mạnh quân sự của họ Nguyễn, đặc biệt là trong thời kì đầu, có thể tương ứng với những chiến lợi phẩm tích lũy được của họ Nguyễn. Ngay cả theo cách bất ngờ này, việc tiếp cận tàu thuyền và biển đã cho thấy giá trị của nó trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn của quốc gia non trẻ này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Họ Nguyễn thế kỉ 17 đã mở rộng thu hoạch từ biển của mình bằng cách chuyển từ hoạt động trục vớt sang cướp bóc có tổ chức, đôi khi không thua gì cướp biển. Bị bao bọc giữa bờ biển và các bãi cạn và bãi cát dịch chuyển của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong một khu vực thường xuyên có gió chuyển hướng, tuy nhiên, tuyến đường khó đi này vẫn là tuyến đường an toàn duy nhất hiện có trong thời đại tàu buồm cho việc việc vận chuyển hàng hóa đến và đi từ Trung Quốc. Một người châu Âu đi dọc bờ biển này vào năm 1695 đã báo cáo rằng có rất nhiều vụ đắm tàu xảy ra ở đây mỗi năm đến nỗi các ghe thuyền của họ Nguyễn luôn rình mò, tìm kiếm lợi lộc từ một con tàu gặp nạn bị mất tích trong các bãi cạn.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Đến đầu thế kỉ 18, một nguồn tài liệu Trung Quốc thậm chí còn nêu rằng họ Nguyễn đã mở rộng các hoạt động kiểu dã thú kể cả tống tiền được thực hiện đối với các tàu đã bị đẩy chệch đường. Nó cảnh báo người đi biển rằng: ‘Đối với tàu thuyền nào có ý định đi các cảng khác nhưng vô tình đến Quảng Nam, [phủ chúa] coi [chúng] là do trời phái tới. Họ sẽ đánh thuế gấp đôi và sẽ không hài lòng ngay cả khi họ chia sẻ một nửa số hàng hóa trên tàu.'</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những hoạt động xấu xa nhưng được lợi lộc này lặp lại hành vi của người Chăm dọc theo bờ biển trong những năm trước đó,</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> dù họ Nguyễn có biết hay không. Tôi tin rằng những gì chúng ta thấy ở đây là chủ nghĩa cơ hội và tính linh hoạt mà những người Việt mới đến cần noi theo để tồn tại trong cuộc đấu tranh sinh tử ở một vùng đất ít được biết đến, nơi việc làm chủ thế giới sông nước và không gian biển thực sự có ý nghĩa khác biệt giữa sự sống còn hoặc sự sụp đổ của chế độ họ Nguyễn.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cảng và việc mở rộng sức mạnh ven biển về phía Nam</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về mặt địa lí, sự bành trướng của họ Nguyễn chủ yếu dọc theo bờ biển. Dựa trên nghiên cứu của mình từ văn khố của Phái bộ truyền giáo hải ngoại Paris [Missions-Étrangères de Paris (MEP)], Nola Cooke chỉ ra rằng trong giai đoạn đầu của việc mở rộng, họ Nguyễn và các thần dân của mình chủ yếu nhắm vào tài nguyên thiên nhiên của người Chăm thông qua mạng lưới thương mại biển của họ trong khi ít quan tâm đến đất nông nghiệp của người Chăm mãi cho đến giai đoạn sau.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nhà truyền giáo Bénigne Vachet, người đã thâm nhập vào các nhóm quan đại thần của Chúa Hiền (k.1648-1687) đã mô tả sự xâm lấn của người Việt vào Champa không phải là về số đất bị sáp nhập mà về việc kiểm soát các cảng và các chợ. Ông viết, người Đàng Trong đầu tiên ‘thành lập các thuộc địa ở tất cả các khu chợ’ của Champa và sau đó, sau khi biến vua Chăm thành chư hầu của mình, chúa Nguyễn ‘buộc ông phải chấp nhận để người Đàng Trong trông coi các bến cảng của mình, không còn được phép có quân đội riêng của mình nữa.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Cooke chỉ ra, 'mong muốn kiểm soát chợ và cảng Chăm của họ Nguyễn có lẽ là chìa khóa để hiểu các sự kiện trong quan hệ Chăm-Nguyễn thế kỉ 17'.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Do đó, chìa khóa để kiểm soát là cảng. Như Wheeler đã chỉ ra, nó 'xúc tác cho phát triển kinh tế, củng cố chính trị, tái tổ chức xã hội và chuyển đổi văn hóa ở Đàng Trong và tích hợp quần đảo đồng bằng phù sa dọc theo một trục được xác định bởi dòng chảy ven biển'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Chú trọng vào bến cảng, chợ búa đã giúp họ Nguyễn tự vệ trước miền Bắc nên có vẻ như họ cũng coi đó là chìa khóa để bành trướng về phía Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kết quả là, địa lí của sự kiểm soát hành chính của họ Nguyễn ở mỗi tỉnh của nó trông giống như thế này: Các tỉnh - từ đúng là các </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">dinh</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> được hình thành xung quanh các lưu vực sông riêng lẻ và có trụ sở chính ở đồng bằng hạ lưu sông.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chợ</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> trung tâm của khu vực đặt gần đó. Ở hạ lưu, các </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">trấn</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> giám sát cả cảng chính lẫn cảng phụ, trong khi ở thượng nguồn các trạm đầu nguồn (</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">nguồn </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) bảo vệ các chợ nơi mà các thương nhân vùng hạ lưu, điển hình là người Việt và người Hoa, có thể giao dịch với những người không phải người Việt ở vùng thượng lưu. Điều này đã gắn kết các vùng nội địa miền núi với cảng chính của lưu vực sông ở bến cảng cửa sông bên dưới. Các tuyến đường bộ đã kết nối Đàng Trong với các xã hội thuộc lưu vực sông Mekong và xa hơn nữa, cũng như với Đàng Ngoài và Vân Nam ở Trung Quốc. Bờ biển đóng vai trò là huyết mạch chính của vương quốc, nối liền các khu vực bị chia cắt của nó qua các cảng ở hạ lưu. Các </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đầm</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kênh</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> và các đảo ngoài khơi (</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">hòn, cù lao</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) cung cấp nơi neo đậu, trạm hải quan, mốc chỉ đường và các căn cứ để từ đó theo dõi và điều tiết giao thông dọc bờ biển.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Các thuyền neo đậu gần các pháo đài ở bến cảng, liên kết chúng với các pháo đài lân cận dọc theo bờ biển và kết nối chúng với các tuyến đường thủy nội địa được phục vụ bởi nhiều loại tàu thuyền của phủ chúa, phản ánh một mạng lưới hành chính và trao đổi tích hợp hài hòa với mô hình Bronsonite đã sửa đổi.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 499px; overflow: hidden; width: 374px;"><img height="499" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/0MYOqkIVa7tHxdCWR4qTFEYnprkxc5-YobKBAFj2BgAAOO1tci2HDenhf0egPlk9QYrPKMg6x8j646Yt1G8-qq2x3bsdYEzjbrSdxOEh_P5bYEJCsAjyCi1TP876reigBmf8nrfRT_-I_scsnR6U9Nc" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="374" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ 8.2 Vị trí các chợ và nhà nghỉ ở Đàng Trong của họ Nguyễn, k. 1690</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong bối cảnh địa lí chính trị này, tầm quan trọng của các thể chế xã hội trở nên rõ ràng. Ví dụ, Bản đồ 8.2 cho thấy vị trí của các chợ và nhà nghỉ, chìa khóa trong việc hậu thuẫn các trung tâm thương mại (cũng như quân sự) Đàng Trong vào khoảng năm 1690. Gần như tất cả đều nằm gần các bến cảng, nơi có cảng, pháo đài và tàu buôn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các cảng cũng được đặt ở nơi mà các trung tâm tôn giáo được lập ra. Theo Jean de Courtaulin, sau khi đến Champa vào cuối những năm 1670, ông phát hiện ra rằng có 'ở mỗi cảng một Nhà thờ' dành cho người dân và những người theo đạo Cơ đốc đến thăm, ông viết rằng họ có:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">lệ đến đó để lấy hàng hóa, vì việc buôn bán rất tốt, vì vương quốc này đã mang lại sự giàu có to lớn cho vua Đàng Trong và cho tất cả các thương nhân mà bất chấp sự cấm đoán của Vua Đàng Trong, họ vẫn đến đó làm ăn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Điều tương tự cũng xảy ra với các ngôi chùa Phật giáo - chính quyền họ Nguyễn và giới chủ chốt khác của Đàng Trong đã tài trợ cho nhiều ngôi chùa trong những năm 1600.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Là trung tâm của hoạt động kinh tế và xã hội ở mỗi tiểu vùng của Đàng Trong, các cảng hạ lưu còn phục vụ thêm cho mục đích chính trị của họ Nguyễn. Nằm trong đó là chìa khóa để kiểm soát tài nguyên, dân số và giao thông nội địa và bờ biển.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thuyết quyết định địa lí không phải là mọi thứ trong việc hình thành các quốc gia có lãnh thổ, nhưng quả nó có đóng một vai trò nào đó, như Fernand Braudel đã chỉ ra.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Địa lí của quyền lực họ Nguyễn theo nhiều cách lặp lại những đặc điểm của những chế độ trước nó. Ví dụ, ngay cả vị trí của các kinh đô họ Nguyễn vào thế kỉ 17 và 18 cũng ở ngay tại hoặc gần các kinh đô Lâm Ấp cũ, như Bản đồ 8.3 cho thấy. Trong lịch sử 200 năm của mình, triều đình họ Nguyễn đã 5 lần dời đô nhưng không lần nào rời xa kinh đô Lâm Ấp, theo Bản đồ 8.4.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 333px; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="333" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/l7_vCe_8dK072UB5iefnRtrc7mqxokzeE07eusgFbnC02ubcLursnINRi4cmLmUhmUTSMG8qFV3h1NWcgnyJmrpODM9SG0XF_erT1KvqXa-KrjKeTZ4NNtggZklcPV_FgR-tZ-QvbBSvdXZaLXTwPmo" style="margin-left: -24.2889983579638px; margin-top: 0px;" width="672.5779967159276" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ 8.3 Thành Lâm Ấp thiên kỉ thứ nhất và kinh đô của các chúa Nguyễn</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 327px; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="327" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/4YadEc71KtjOjuxxnjWDn5r3_RylBxrG8wOuRUnL9v-vXXJ5wkS6nO7xj2gAMmfTO7ez65mtBgOO7grnDa1w4C4vE8N1LhIZIKQXbBUM6SMhuVIBJ8I9Mq_nRm9YiZyPriZMkWGN1qrgtU358L4FSmo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ 8.4 Vị trí kinh đô của chúa Nguyễn</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Điều thú vị là những người cùng thời với Đàng Trong đã nhìn thấy yếu tố địa lí trong nền kinh tế chính trị của đất nước khá rõ ràng. Hai trăm năm sau khi Đàng Đàng Trong thành lập, Karl Gützlaff (1803-1851), một nhà du hành giàu kinh nghiệm về biển Đông đầu thế kỉ 19, đã tóm tắt lí do tại sao nhà nước Việt Nam này lại đặc biệt khác biệt so với các nhà nước trước nó và Đế quốc Đại Nam sau đó: 'Đàng Trong, chỉ bao gồm một dải đất hẹp dọc bờ biển, không bao giờ có thể trở thành một quốc gia hùng mạnh nếu không tận dụng được lợi thế về vị trí ven biển của mình.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này có thể dễ dàng nói cho Lâm Ấp hay Champa, những chủ nhân trước đây của dải đất hẹp này. Địa lí chắc chắn đảm bảo rằng Đàng Trong sẽ duy trì sự kế tục mạnh mẽ từ các chế độ trước đó trong khu vực. Khả năng đồng hóa hệ sinh thái chính trị biển của mình đã cứu họ Nguyễn. Đàng Trong của họ Nguyễn về cơ bản là một cường quốc biển, và đặc điểm liên quan đến biển này là nền tảng cho lịch sử của nó.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 17pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Một xã hội lai</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cuộc tấn công năm 1471 nẩy sinh trực tiếp từ chương trình cải cách Tân Nho giáo sâu rộng của Lê Thánh Tông nhằm chuyển đổi nền chính trị, hành chính, giáo dục, văn hóa và đời sống tinh thần của Đại Việt. Cho đến khi có quá trình thay đổi và đổi mới khác thường này, các vị vua Việt từng là một trong số nhiều vua chúa trong vùng có lệ làm thông gia với nhau và xưng hô với nhau theo vai vế họ hàng. Nhưng Lê Thánh Tông từ bỏ truyền thống lâu đời này một cách có chủ ý khi kiên quyết trừng phạt vua Chăm vì tội quá ngạo mạn đến mức tự xưng mình là dượng và coi Lê Thánh Tông là cháu họ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nếu nhà nước Đại Việt dưới thời Lê Thánh Tông và các vua kế nhiệm ông tìm cách tách khỏi những ảnh hưởng trong vùng thì không phải tất cả người dân Việt Nam đều làm như vậy, nhất là những người sống ở Thuận Quảng vốn là đất Chăm trước đây. Có rất ít bằng chứng bằng văn bản cho điều này ngoài chiếu chỉ năm 1499 cấm người Việt kết hôn với phụ nữ Chăm, điều này hàm ý mạnh mẽ rằng tập tục này vẫn tồn tại cho đến ít nhất là thế kỷ 16;</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> nhưng có thể rút ra nhiều điều được xây dựng lại từ các nguồn khác về nguồn gốc của xã hội lai mà Nguyễn Hoàng và những người theo ông phát hiện sau năm 1558. Bộ bằng chứng đầu tiên là về ngôn ngữ học. Năm 1931, Léopold-Louis Cadière, một nhà quan sát nhạy bén về con người và sự vật ở miền Trung Việt Nam, đã bàn luận về việc các phương ngữ khác nhau trong khu vực đã bộc lộ quá khứ pha trộn sắc tộc của nó như thế nào. Theo ông, phương ngữ do người dân bình thường ở phía nam Đà Nẵng nói đã trải qua nhiều thay đổi đến mức nếu người ta ghi lại một văn bản trực tiếp từ lời nói phổ biến ở khu vực này thì “nó sẽ hoàn toàn không thể hiểu được”. Trong số những thay đổi khác mà ông đã xác định, âm họng đầu và âm môi V đã mềm đi rất nhiều trong cách nói địa phương ở đây đến mức ông tin rằng nó đã trải qua 'một sự biến đổi bao gồm rất nhiều yếu tố', 'chắc chắn là do sự đồng hóa của các nhóm dân cư tồn tại từ trước' trong khu vực này.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nghiên cứu gần đây hơn của Hồ Trung Tú ủng hộ quan điểm của Cadière, mô tả một tình huống mà trong đó 7 hoặc 8 thế hệ trước chiến thắng vĩ đại của Lê Thánh Tông, người Việt sống như sắc dân thiểu số ở vùng đất Chăm, sử dụng tiếng Chăm làm ngôn ngữ giao tiếp chung (lingua franca), và tự do lấy vợ Chăm.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này đặc biệt đúng với trường hợp của Quảng Nam, nơi mà sự hòa trộn lâu dài này đã tạo ra một phương ngữ độc đáo được gọi là ‘giọng Quảng Nam' (</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">giọng Quảng</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">). Nó được tìm thấy ở khu vực mà Cadière đã bàn luận ở trên, chủ chủ yếu ở phía nam sông Thu Bồn, nơi từng là vùng biên giới Việt-Chăm. Trần Quốc Vượng cho biết thêm, phương ngữ này xuất phát từ “cách các bà mẹ Chăm nói tiếng Việt”. Họ truyền lại cách nói này cho con cháu, hết thế hệ này qua thế hệ khác [cuối cùng] nó đã trở thành </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">giọng Quảng</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">!'</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hôn nhân dị chủng giữa đàn ông Việt và phụ nữ Chăm không chỉ tạo ra một sắc thái địa phương độc đáo theo thời gian mà còn tạo ra một dân cư lai địa phương hóa. Một lúc nào đó sau khi những người Thanh Hóa-Nghệ An dưới thời Nguyễn Hoàng đến sinh sống vào năm 1558, cả những người cai trị mới lẫn người Chăm địa phương bắt đầu phân biệt người Việt cư trú lâu năm hoặc người Chăm Việt hóa với những người mới đến này. Trong Văn khố Hoàng gia Chăm, một biến thể của từ 'Kinh', hay Việt là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kinh cựu dân</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> [người Kinh cũ] xuất hiện nhiều lần: chẳng hạn, vào năm 1748, có ghi chép lại rằng vua xứ Panduranga [bây giờ là Phan Rang - ND] có giao tiền cho một Kinh cựu dân tên là Lái Châu (‘lái buôn' Châu) để thay mặt ông buôn bán ở Hà Tiên.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Quan chức thuộc địa Pháp Etienne Aymonier sau này đã xác định những Kinh cựu dân này là 'Métis Tjames (Cham) Annamites' (dân lai Chăm Việt), nói thêm rằng 'họ nói hai thứ tiếng thay đổi nhau, và phong tục của họ là phong tục của hai chủng tộc này'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Aymonier mô tả một quá trình đang xảy ra trước mắt ông ở đây, nên có vẻ như cũng chính từ này khi được sử dụng trong Văn khố Hoàng gia Chăm có nghĩa là 'dân Kinh thời trước', tức là những người xác định mình là dân Việt có gốc gác tại chỗ trước thời Nguyễn Hoàng. Trong ngữ cảnh các tài liệu văn khố Chăm, những người này rất có thể là người Việt có tổ tiên Chăm hoặc người Chăm đã Việt hóa trước dòng người Kinh tràn tới sau năm 1558, nghĩ rằng vì số lượng những người như vậy sẽ lớn hơn rất nhiều so với chỉ những người trong quá trình Việt Nam hóa như Aymonier mô tả. Ở những nơi khác, và ở mức độ thấp hơn nhiều, nó cũng có thể chỉ những người có tổ tiên nằm trong số các phụ nữ bị bắt từ các bộ lạc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong khi không có bất kì bằng chứng trực tiếp nào cho thấy chính xác những người này là ai, rất đáng để xét ngắn gọn những bằng chứng gián tiếp nào có thể có liên quan đến họ. Ví dụ, những người chuyển đổi về văn hóa như vậy có thể ẩn giấu một sự thật thú vị mà Hồ Trung Tú tình cờ bắt gặp gặp khi ông nghiên cứu gia phả của 13 gia tộc Việt được tôn vinh như những gia tộc tiên phong ở Trà Nhiêu, một khu vực gần Hội An. Tất cả các tài liệu này đều khẳng định các gia tộc này đã đến khu vực này vào năm 1471, cùng với quân đội của Lê Thánh Tông, nhưng không có gia phả nào mà ông xem xét chứa hơn 12 thế hệ, cho thấy các gia tộc này phải gần một thế kỉ sau mới đến, sau thời Nguyễn Hoàng.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Bằng chứng gián tiếp khác cũng có thể nằm ở hình thức ăn mặc của phụ nữ. Vào giữa những năm 1550, trước khi Nguyễn Hoàng đến, học giả địa phương Dương Văn An đã viết một văn bản quý giá về vùng Thuận Hóa, trong đó ông mô tả phụ nữ Thuận Hoá ăn mặc theo kiểu Chăm. Những gì mà điều này muốn nói đã được một tài liệu người Phúc Kiến thế kỉ 17, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đông Tây dương khảo </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">nêu ra, mô tả những người phụ nữ ở các chợ Thuận Hóa: ‘Họ xoã tóc và để tóc bay trong gió; họ quàng một chiếc khăn ở một bên vai giống như kiểu trang phục của bồ tát; khi có người tới nhà thì họ sẽ mời trầu để tỏ lòng hiếu khách.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này có vẻ giống phụ nữ Lào, Thái hoặc Khmer hơn là bất cứ thứ gì theo truyền thống Việt, và quả thực vẫn có thể thấy ở phụ nữ Chăm ngày nay.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngoại thương của họ Nguyễn: Xương sống của nền kinh tế Đàng Trong</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đàng Trong được lập ra đúng lúc, trong 'thời đại thương mại ở Đông Nam Á'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Chính sự kết hợp may mắn giữa đấu tranh chính trị nội bộ và phát triển kinh tế bên ngoài này đã giúp cho nhà nước Nam Việt Nam mới, trong vài thập kỉ ngắn ngủi, trở nên giàu có và đủ mạnh để có thể đảm bảo sự độc lập của mình đối với phía bắc và có nguồn tiền của để chi cho việc mở rộng về phía nam. Tất cả những bước tiến này phần lớn dựa vào sự giàu có nhờ biển, nếu không có nó thì họ Nguyễn không bao giờ có thể huy động để đánh bại các cuộc tấn công của phương bắc vào thế kỉ 17, chứ chưa nói đến việc tiến vào đồng bằng sông Cửu Long, phong tỏa đường tiếp cận biển của Campuchia và cạnh tranh với đối thủ hùng mạnh nhất của Đại Việt trong thế kỉ 18 là Xiêm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kiểm soát ngoại thương đã trở thành trọng tâm trong công việc của họ Nguyễn trong thế kỉ tồn tại đầu tiên của nó. Với vị trí địa lí kinh tế biển, họ Nguyễn nhìn thế giới chủ yếu từ các trung tâm trung chuyển của mình, nơi cũng hoạt động như các trung tâm đô thị. Các cảng của nó - Huế, Hội An, Nước Mặn và Quy Nhơn trở thành trung tâm cho việc tổ chức sản xuất từ vùng cao và vùng lân cận để xuất khẩu. Thuận lợi hơn so với quần đảo ở dưới cùng của Đông Nam Á, các trung tâm thương mại này nằm cạnh nhau một cách thuận tiện giữa các cảng Đông Á và Đông Nam Á. Điều này đặt các cảng của Đàng Trong vào một vị trí chiến lược cao đóng vai trò quan chính yếu trong thương mại tam giác hưng thịnh giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đông Nam Á vốn phát triển mạnh trong thế kỉ 17, một vị trí mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng và những người theo ông đã nhanh chóng nắm bắt. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Từ khi Mạc phủ Tokugawa thành lập năm 1603 đến giữa những năm 1630, nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là ngành khai thác mỏ, phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy nền kinh tế xuất khẩu trong đó tàu thuyền Nhật, cả được cấp phép lẫn không có giấy phép, vận chuyển bạc mà nước này xuất khẩu với số lượng lớn sang Đông Nam Á trên các thuyền Chu Ấn (con dấu đỏ).</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này mang lại cho họ Nguyễn một cơ hội lớn. Vào đầu những năm 1600, Đàng Trong đã bắt đầu tự quảng bá mình như một thị trường trung gian quan trọng cho giao thương gián tiếp giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Như một quan nhà Minh đã chỉ ra vào năm 1630:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Triều đình [Trung Hoa] cấm buôn bán với Nhật nên không ai dám buôn bán với họ, tuy nhiên bọn gian xảo lại chở hàng đến Giao Chỉ (Đàng Trong) và các nơi khác. Cho nên, dù người Nhật buôn bán ở những nơi đó nhưng thực chất là buôn bán với Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những cơ hội mà điều này mang lại đã thu hút không chỉ người Nhật mà đặc biệt là những người Nhật theo đạo Cơ đốc. 'Đối với những người hiện nay [năm 1619] bị ngược đãi ở Nhật Bản, vùng đất này là một chốn để nương náu.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Từ nhiều ghi chép khác nhau, có vẻ như người Nhật theo đạo Cơ đốc là những thương nhân nhiệt tình và sự cởi mở về tôn giáo cũng như thương mại là điều mà người Nhật theo đạo Cơ đốc ở Hội An tìm kiếm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đến những năm 1640, Đàng Trong đã trở thành đối tác thương mại số một của Nhật Bản và là một tay chơi chính trong giao thương liên-Á rộng lớn hơn (xem Bảng 8.1). Với vị trí thuận lợi trong tam giác thương mại châu Á này, vương quốc Việt Nam mới đã xây dựng các chính sách của mình nhằm tối đa hóa sức hấp dẫn đối với các thương nhân, bắt đầu với thuế. Ví dụ, triều đình họ Nguyễn duy trì mức thuế cảng ở mức thấp - thấp hơn khoảng 1 đến 2% so với hầu hết các cảng ở Đông Nam Á vào thời đó</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> - để biến các cảng của họ trở thành điểm tiếp cận thuận tiện nhất cho các sản phẩm của Đông Nam Á. </span></p><br /><br /><div align="center" dir="ltr" style="margin-left: 0pt;"><table style="border-collapse: collapse; border: none;"><colgroup><col width="78"></col><col width="60"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col></colgroup><tbody><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Da nai</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Gỗ sappan</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Da cá mâp</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trầm hương</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kì nam</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đường đen</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tiêu</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thiết</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">tấm</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">tấm</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1641 TS</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">23 730</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">20 650</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">42 700</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">670</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">89 160</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đ.Trong</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4 050</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">33 800</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">650</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">40 400</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">%</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">17</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">14,5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">79</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">97</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">45.3</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1646 TS</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">41 800</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">83 500</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">200</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">91 100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">51 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đ. Trong</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">26 800</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">70 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">200</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">56 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">20 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">%</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">64</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">83,8</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">75</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">61.5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">39</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1648 TS</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">23 490</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">25 406</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2 400</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">97</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">10 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">15 300</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3 269</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đ. Trong</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">19 350</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">24 983</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2 386</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">97</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">10 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">10 300</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3 261</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">%</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">82</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">98</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">99,4</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">67</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">97</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1650 TS</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">32 975</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">725 921</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3 852</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">470</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">23</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">530 000</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">42100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đ. Trong</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">26 900</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">555 970</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3000 </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">470</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">22</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">163 500</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4 600</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">%</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">81,5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">76,5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">78</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">100</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">96</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">31</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">11</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr></tbody></table></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bảng 8.1 Lâm sản xuất khẩu sang Nasaki từ Đông Nam Á và thị phần của Đàng Trong, 1641-1650,</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Theo Willem Buch, viết về nửa đầu thế kỉ 17 thì Đàng Trong được các thương gia Trung Quốc ưa chuộng vì </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">họ tìm thấy ở đây một trung tâm giao thương với nhiều quốc gia và các nơi lân cận. Hạt tiêu từ Palembang, Pahang và các khu vực lân cận, long não, gỗ sappan, ngà voi, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">serongbourang</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, gumlac (cánh kiến) từ Borneo được mang đến đây, và đối lại người Trung Quốc đã mang lankins (vải nankin hoặc vải bông), đồ sứ thô và các thứ đồ gốm khác tới. Với số còn lại, họ mua</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">thêm hạt tiêu, ngà voi, bạch đậu khấu, v.v. của Quinam (Đàng Trong), để thuyền của họ gần như đầy ắp khi trở về Trung Quốc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bảng 8.1 cho thấy trong số các cảng ở Đông Nam Á những năm 1640, Đàng Trong xuất khẩu lâm sản sang Nhật Bản nhiều nhất</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tuy nhiên, vương quốc Việt Nam mới nổi đã làm nhiều thứ hơn là chỉ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên. Phân tích số liệu hải quan ở Nagasaki cho phép chúng ta hình dung sự tham gia của Đàng Trong vào thương mại tam giác giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á dưới hai hình thức.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đầu tiên, các cảng ở Đàng Trong phát triển thành trung tâm cho việc tập trung các mặt hàng thương mại từ các nước Đông Nam Á khác. Tại đây, tàu thuyền từ các nước Đông Nam Á khác tụ hội về và giao thương với nhau. Triều đình họ Nguyễn đã lợi dụng vị trí địa lí của mình để quảng bá các cảng như Hội An như là một trung tâm mua sắm thuận tiện cho các tàu buôn Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm hàng hóa Đông Nam Á, với việc giảm nhẹ nhu cầu đi thuyền xa hơn về phía nam để tìm kiếm sự giàu có của khu vực cho các thương nhân Đông Á. Do đó, các thương nhân có cơ sở tại Đàng Trong có thể mua hàng hóa phù hợp từ cả các nguồn Đông Á lẫn Đông Nam Á và thêm vào đó là các lâm sản của chính đất nước này như calambac (kì nam) và trầm hương, cung cấp cho các tàu buôn một sự kết hợp có lời giữa xuất khẩu và tái xuất khẩu ra nước ngoài. Hoạt động hỗn hợp này đã trở thành một phần quan trọng, nếu không nói là cốt yếu, của nền kinh tế họ Nguyễn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đánh giá từ báo cáo của hải quan Nhật Bản, các thương nhân Nhật theo đạo Cơ đốc ở Đàng Trong đã tìm thấy một nơi thay thế ở miền nam Campuchia, đặc biệt là tại một bến đỗ ở đồng bằng sông Mekong mà người Khmer gọi là Daung Nay - với người Việt là Đồng Nai, sau này được gọi là Biên Hòa.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Tên này có nghĩa là 'xứ nai’, vì - như một nguồn tài liệu Việt Nam cuối thế kỉ 19 nhắc lại, 'Khu vực này từng có rất nhiều nai.'</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Chỉ riêng năm 1656, Nagasaki đã xử lí 37 086 tấm da nai trong các kho hàng của họ, hầu hết là từ khu vực này.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này làm cho các thương nhân Nhật trở nên quan trọng đối với triều đình họ Nguyễn, thậm chí còn hơn thế nữa khi xét tới vai trò của họ như những người trung gian cho việc đầu tư trực tiếp của triều đình họ Nguyễn vào thương mại. Ví dụ, vào năm 1632, VOC (công ti Đông Ấn - Hà Lan) đưa tin rằng ba thuyền Nhật Bản từ Đàng Trong đến buôn bán ở Ayutthaya, một trong số này được “nhà vua và một số quan chức cấp cao của Đàng Trong phái đến, với ý định đầu tư vào việc kinh doanh da nai”.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Từ năm 1646 đến 1656, Đàng Trong đã xuất khẩu 72 550 tấm da nai (1/7 tổng số), không phải là sản phẩm của Đàng Trong thế kỉ 17,</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> trong vụ này sự giàu có và quyền lực của họ Nguyễn đóng vai trò lớn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Với sự đa dạng về xuất xứ, người ta có thể hiểu tại sao, trong số tàu thuyền đi Nagasaki khai báo hàng hóa từ các nước Đông Nam Á, hàng hóa trên các thuyền đến từ Đàng Trong luôn cho thấy sự đa dạng hơn. Nó cũng giải thích tại sao số lượng thuyền Trung Quốc đến Nhật Bản lại khởi hành từ Đàng Trong nhiều nhất, như được trình bày trong Bảng 8.2.</span></p><br /><div align="center" dir="ltr" style="margin-left: 0pt;"><table style="border-collapse: collapse; border: none;"><colgroup><col width="77"></col><col width="61"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col><col width="69"></col></colgroup><tbody><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đ.Ngoài</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Q.Nam</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">CPC</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Xiêm</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Pattani</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Melaka</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Jakarta</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bantam</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1647-50</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">7</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">11</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1651-60</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">15</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">40</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">37</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">28</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">20</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1661-70</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">6</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">43</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">24</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">26</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">9</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">12</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1671-80</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">12</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">40</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">10</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">23</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">31</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1681-90</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">12</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">29</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">9</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">25</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">8</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">18</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1691-1700</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">6</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">30</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">22</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">20</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">7</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">16</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1701-10</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">12</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">11</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1711-20</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">8</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><br /></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">TỔNG SỐ</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">63</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">203</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">108</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">138</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">49</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">10</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">88</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3</span></p></td></tr></tbody></table></div><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bảng 8.2</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Số lượng thuyền Trung Quốc từ các nước Đông Nam Á đến Nhật Bản (1647-1720)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nguồn: Li, </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nguyen Cochinchina</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, tr. 68.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nhìn vào khía cạnh thứ hai của tam giác giao thương này, sản xuất hoa màu theo hướng xuất khẩu chiếm một phần đáng kể trong sử dụng đất đai và lao động của Đàng Trong vốn đã phát triển từ đầu thời Nguyễn. Đường đen và hạt tiêu là những sản phẩm địa phương chủ lực của Đàng Trong, như Bảng 8.1 cho thấy; lụa là một sản phẩm khác. Tơ thô từ Quảng Nam và vải bông cũng được xuất khẩu sang Manila trong khoảng thời gian từ 1662 đến 1680.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Thị trường cho tất cả các mặt hàng này phải được kích thích bởi nhu cầu từ nước ngoài, và tất cả chúng đều đến từ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động mà số lao động sản xuất chỉ có thể duy trì được nhờ nguồn cung cấp đầu vào ổn định cho việc trồng lúa. (Việc sản xuất lúa và hoa màu của Đàng Trong sẽ được thảo luận chi tiết ở Chương 9.)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thảo luận trước đây đã lưu ý rằng giao thương tam giác giữa Trung Quốc và Nhật Bản, với Đàng Trong của họ Nguyễn ở đỉnh cao, có tầm quan trọng sống còn đối với họ Nguyễn. Nó mang lại sự giàu có đáng kể trực tiếp cho một số gia tộc nhất định và các thành viên được ưu ái trong triều đình, nhưng quan trọng hơn là nó giúp tài trợ cho việc nhập khẩu các vật liệu quân sự như đồng, thuốc súng và vũ khí. Những điều này tới lượt chúng đã giúp bảo tồn nhà nước của họ Nguyễn đang chớm nở chống lại họ Trịnh vào thời điểm mà cuộc chiến với phương Bắc còn lâu mới được định đoạt.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khi những thay đổi lớn về chính trị bên ngoài xảy ra, đầu tiên là Nhật Bản và sau đó là ở Trung Quốc, khi triều đại nhà Minh sụp đổ vào năm 1644 và triều đại nhà Thanh kế vị của nó cấm biển từ vào năm 1646, tình hình của Đàng Trong lẽ ra phải rất ảm đạm. Tuy nhiên, nó không thất bại hay thậm chí loạng choạng; quả thực, nó đã phát triển mạnh mẽ khi đối mặt với một tình huống xem ra là bất khả. Charles Wheeler đã hỏi một cách thâm trầm, tại sao lại như vậy? Câu trả lời bao quát là, đối mặt trước những tình huống lịch sử có thể mang lại thảm hoạ với việc Nhật Bản gần như đóng cửa tiếp theo ngay sau đó là sự sụp đổ của nhà Minh và sự hỗn loạn ngày càng tăng ở miền nam Trung Quốc, Đàng Trong của họ Nguyễn đã được cứu bởi các mối liên hệ với biển, bởi lợi ích và hành động của một gia tộc Phúc Kiến hùng mạnh chuyển qua Đài Loan, họ Trịnh [mở đầu với Trịnh Thành Công]. 'Nền kinh tế ngầm, không chính thức' buôn lậu và cướp biển ở vùng biển châu Á là vũ khí chính của lực lượng trung thành với nhà Minh, do gia tộc Trịnh (Zheng) lãnh đạo, tìm cách chống lại nhà Thanh.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các thương nhân/bọn buôn lậu người Hoa mà chính quyền họ Zheng kiểm soát, đặc biệt là những người có cơ sở tại Nagasaki, rất quan trọng đối với sự tồn tại của nền kinh tế họ Nguyễn. Các chúa Nguyễn chưa bao giờ được triều đình Trung Quốc, dù là nhà Minh hay nhà Thanh công nhận, vì vậy việc theo đuổi lợi ích riêng của họ khi giao dịch với các nhóm nổi loạn của Trung Quốc không phải là vấn đề lớn. Ngược lại, việc khai thác các cơ hội thương mại do họ Zheng kiểm soát, dù hợp pháp hay không, đều trùng khớp chặt chẽ với lợi ích sống còn của chính họ Nguyễn. và có thể là một bước đi hiển nhiên.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Không chỉ các cuộc chiến tranh của Đàng Trong mà cả sự tăng trưởng thương mại và nhân khẩu đáng chú ý trong thế kỉ 17 của nó cũng trùng lặp và được hưởng lợi từ sự liên kết giữa lợi ích của chính phủ với uy thế ngày càng gia tăng của họ Zheng ở vùng biển Trung Quốc. Theo Wheeler, sự liên kết lợi ích ngẫu nhiên này giải thích:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">tại sao việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của Đàng Trong vẫn ổn định khi đối mặt với chiến tranh, lệnh cấm buôn bán và các cuộc di dời dân ven biển đầy bạo lực đã tàn phá Trung Quốc thế kỉ 17. Tàu thuyền của họ Zheng đã đảm bảo cho Đàng Trong tiếp tục tiếp cận thị trường Trung Quốc và Nhật Bản, nhờ vào mối liên hệ của họ với các mạng lưới buôn lậu phức tạp và hoạt động buôn bán vận tải biển ngầm còn tồn tại sau cuộc chinh phục của nhà Thanh</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Xuất khẩu lâm sản và tác dụng</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Sau khi phác họa vị trí và vai trò của Đàng Trong trong thế giới thương mại thế kỉ 17, đã đến lúc xem xét chi tiết hơn một số mặt hàng thương mại chính đã qua các chợ của nó. Như một vạch cơ sở, trong Bảng 8.3 là thông tin về các mặt hàng mà thuyền buôn Trung Quốc có thể đã tìm kiếm ở Đàng Trong vào giữa những năm 1550, như được phản ánh trong các lâm sản nộp thuế hàng năm cho triều đình thời Lê trung hưng ngay trước khi Nguyễn Hoàng đến. Dữ liệu cho thấy lâm sản chắc chắn là nguồn thu nhập chính cho cái khu vực sẽ chuyển biến thành Đàng Trong của họ Nguyễn khi Nguyễn Hoàng và những người theo ông đến đây vài năm sau đó. Ngay cả sau khi triều Lê trung hưng đã thu lấy phần của nó, một lượng lớn ngà voi, sừng tê và lông đuôi công vẫn sẽ còn lại lượng dư ra để xuất khẩu.</span></p><br /><div align="center" dir="ltr" style="margin-left: 0pt;"><table style="border-collapse: collapse; border: none;"><colgroup><col width="87"></col><col width="57"></col><col width="53"></col><col width="52"></col><col width="65"></col><col width="71"></col><col width="60"></col></colgroup><tbody><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngà voi</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Sừng tê </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đuôi công</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đuôi trĩ</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trầm hương</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trầm hương kém</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">da hươu</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">cái</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">cái</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kg</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">cái</span></p></td></tr><tr style="height: 0pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">670</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">84</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">6 960</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1 740</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">96</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1 316,5</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-top: solid #000000 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt 5pt 5pt 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">42</span></p></td></tr></tbody></table></div><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bảng 8.3</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Lâm sản Thuận Hoá phải nộp thuế vào giữa những năm 1550, khu vực từ Quảng Bình đến Huế</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nguồn: Dương Văn An, Ô Châu cận lục [Hồ sơ hiện tại của Ô Châu] (Sài Gòn: Văn hoá Á-Châu, 1962), 21-24. 'Calambac' (kì nam) không xuất hiện trong nguồn này, thay vào đó nó phải được đưa vào danh mục ‘aloe wood' (gỗ trầm hương). Từ 'calambac' dường như được biết đến chủ yếu từ thế kỉ 17.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong số các loại trên, calambac, phần có mùi thơm nhất của cây trầm hương, là vua. Triều đình họ Nguyễn có thể khai thác nhu cầu hiện có này để kiếm được nguồn thu hết sức cần thiết cho vương quốc còn non trẻ của mình. Giá trị của nó rất cao: Vào đầu thế kỉ 17, tu sĩ Dòng Tên Borri đánh giá nó có gia ở mức '50 cruzados một catty đối với người Bồ Đào Nha, trong khi ở chính vương quốc này, nó ngang bằng với bạc theo trọng lượng'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trung Quốc và Nhật Bản đã cung cấp những khách hàng tốt nhất của Đàng Trong đối với calambac. Nó có lời đến mức các thương nhân Trung Quốc phải đợi tới một năm để mua trước khi xuất khẩu sang Nhật Bản, nơi giá trị của nó tăng cao. Ví dụ, vào những năm 1620, calambac có giá khoảng 5 lượng [bạc] mỗi pound tại nguồn, sau đó có giá 15 lượng ở Hội An, được bán ở Nhật Bản gấp 40 lần giá ban đầu, tương đương khoảng 200 lượng một pound.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Đến cuối thế kỉ 17, các ghi chép của Nhật Bản ngày càng phàn nàn về sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ đối với hoạt động buôn bán calambac cũng như nguồn cung ngày càng giảm sút của nó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các loại gỗ quý khác cũng là mặt hàng chủ chốt trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Đàng Trong. Năm 1696, Thomas Bowyear nhận xét rằng đất nước này sở hữu nhiều loại gỗ thương mại chất lượng tốt cho người Tây Ban Nha ở Manila nhập khẩu để đóng thuyền buồm.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Năm mươi năm sau, du khách người Pháp Pierre Poivre cũng đặc biệt chú ý đến gỗ trầm hương trong danh danh mục dài các loại gỗ quý của ông, bao gồm gỗ trắc, gỗ lim, gỗ nhựa cây, quế và gỗ đàn hương.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nguồn cung gỗ quý dồi dào đến mức hầu như tất cả chúng đều được bán với giá rẻ trước những năm 1770. Do đó, cuốn </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Phú biên tạp lục </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">ghi nhận vào năm 1776 rằng thương nhân Quảng Đông từ Quảng Đông có thể mua 50 kg gỗ mun với giá 6/10 </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">quan. </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Sách cho biết thêm, với 30 </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">quan</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, có thể mua đủ gỗ chất lượng cao để xây một ngôi nhà 5 phòng.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Ngành công nghiệp gỗ này chắc hẳn đã tuyển dụng một số lượng lớn người, từ những người đốn cây và người vận chuyển cho đến các thương nhân và người trung gian khác góp phần vào việc xuất khẩu của ngành, chưa kể thợ mộc, thợ làm nhà trong nền kinh tế nội địa. Việc tiếp cận rất dễ dàng, thậm chí không cần sử dụng phương tiện vận chuyển có bánh xe vì các khu rừng trải dài vượt xa những ngọn núi đến tận vùng đồng bằng bên dưới. Cho đến những năm 1770, 'đã từng có rất nhiều cây nhiệt đới cổ thụ khắp vùng Huế' - tất nhiên nằm ở giữa đồng bằng sông Hương ở trung tâm các vùng Nhật Nam, Lâm Ấp và Champa lịch sử - 'với nhiều thân cây có chu vi bằng 10 sải tay, Lê Quý Đôn nhận xét.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này vẫn đúng cho đến năm 1774, khi quân Trịnh phía bắc xâm chiếm Đàng Trong và chiếm Huế. Với sự xuất hiện của họ, hơn 30 000 binh lính và dân phu đã đóng quân tại các trại quanh thành phố và ở đó một năm. Trong thời gian đó, họ dùng bất cứ loại gỗ nào có thể lấy được để nấu nướng, thậm chí đôi khi là cả 'gỗ quý như </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">trắc</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (cẩm lai Xiêm) và </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">giáng hương </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(gỗ laka), [đủ] lấp đầy cả một ngôi nhà'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều này hẳn đã gây thiệt hại cho ngành gỗ quanh Huế không hề nhỏ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quả thực, một câu chuyện dân gian cổ cho thấy rằng việc khai thác rừng quá mức để tìm kiếm các loại gỗ quý đã trở nên rõ ràng trước mắt người dân ngay từ giữa những năm 1600. Một truyền thuyết Chăm kể rằng trong khi vương quốc Chăm còn sót lại (thuộc tỉnh Bình Thuận ngày nay) thịnh vượng dưới thời vua Po Rome (k.1627-1651) thì bản thân vua là người vùng cao, một người Churu - nửa Chăm, nửa Roglai/Koho. Ông sở hữu một cây [gỗ] lim (tiếng Chăm là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">kraik</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) vốn là nguồn gốc của sức mạnh. Ông cưới một công chúa Việt xinh đẹp, cô này ép ông phải giết cây lim. Cuối cùng, khi cây bị đốn xuống, 'máu của gỗ lim chảy ra khắp mặt đất trong ba ngày ba đêm'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Sau đó, người Việt xâm lược và cướp đất khỏi tay người Chăm và sự thịnh vượng của họ cũng mất theo. Truyền thuyết về gỗ lim này có thể chỉ là một gợi ý cho thấy lâm sản bị khai thác rộng khắp dưới triều đại của Po Rome vào thế kỉ 17. Sau khi đi đến Kelantan vài lần, Po Rome bắt đầu có tên Hồi giáo là Po Gahlau - 'Vua trầm hương'.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Truyền thuyết Chăm gợi ý về mối liên hệ giữa việc rừng bị tàn phá và sự mất đi thịnh vượng của người Chăm. Cách nhìn của người Chăm về rừng có vẻ giống cách nhìn của người Khmer, những người coi rừng là nguồn tối thượng của sức mạnh và sự bảo vệ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Truyền thuyết này dường như ám chỉ đến sự mất chủ quyền hoàn toàn của đất nước vào năm 1695, một vài thập kỉ sau khi vua mất, khi triều đình họ Nguyễn thu nhỏ phần còn lại này của một vương quốc từng vĩ đại một thời thành chỉ một phủ của Việt Nam, được cho một cái tên theo cách xem thường là Thuận Thành (thành phố tuân phục).</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Trong khi người Việt bắt đầu thờ Nữ thần biển Po Nagar (TV. là Thiên Y A Na), với việc người Chăm bị mất bờ biển thì Po Nagar lại trở thành Nữ thần nông nghiệp ở một số làng Chăm.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nicolas Weber tóm tắt sự kết thúc của Pandurangga, một cường quốc biển hùng mạnh một thời trên bờ biển phía nam Đông Dương, có ý nghĩa là gì với người Chăm, từng là những người con kiêu hãnh của đại dương như sau:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 18pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Không còn làng Chăm ven biển nào nữa. Người Chăm đã hoàn toàn mất đi kiến thức đóng thuyền. Từ vựng về thuyền vẫn còn tồn tại trong ngôn ngữ Chăm, nhưng người Chăm không còn phân biệt được sự khác biệt giữa các loại thuyền.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Mối liên hệ duy nhất với quá khứ biển của vương quốc Champa là nghi lễ tôn giáo gọi là </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">palao sah</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> được tổ chức trên bờ biển Bình Nghĩa (Ninh Thuận) vào tháng 4 lịch Chăm. Lễ này nhằm tạ ơn thần linh, tổ tiên đã ban mưa cho. Hai chức sắc tôn giáo Bani, Ong Maduen và Ong Ka-Ing, chủ trì nghi lễ: Ong Maduen vừa hát thánh ca vừa đánh trống cho các thần biển; Ong Ka-Ing múa với mái chèo bắt chước các động tác của người trên thuyền.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kết luận</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các trải nghiệm biển của Đàng Trong thế kỉ 17 nhắc chúng ta nhớ chương 3, chương cho thấy 1000 năm trước, Lâm Ấp đã bảo vệ nền thương mại trên biển ở khu vực biển Đông như thế nào. Đứng trên bờ biển Đàng Trong thế kỉ 17 và nhìn lại các xã hội Lâm Ấp và Champa cổ xưa, có thể nhận thức sâu sắc tầm quan trọng cốt yếu của hoạt động buôn bán với nước ngoài đối với sự tồn tại của Champa và thảm họa xảy ra khi nước này mất đi từng phần các lãnh thổ phía bắc về tay Đại Việt. Tương tự như vậy, sự gần gũi và môi trường của Đàng Trong thế kỉ 17 đã cho phép gia tộc Nguyễn đầy tham vọng đóng vai trò trung gian làm cầu nối giữa Đông Nam Á với Đông Á, đặt nền móng cho một nền kinh tế thương mại thịnh vượng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đàng Trong của họ Nguyễn là một cường quốc biển. Cảnh quan giống như quần đảo hướng ra biển Đông của nó đã tạo cho nó một nét đặc biệt và khiến nó nổi bật so với tất cả các triều đại Việt Nam. Sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế, tính hoà trộn về dân số và văn hóa của nó đều phải được nhìn nhận dựa trên nền tảng này. Những hoàn cảnh như vậy đã thúc đẩy người Việt trở nên cởi mở và phóng khoáng hơn, trở thành những người chấp nhận rủi ro như Nguyễn Hoàng, người mà Keith Taylor mô tả là dám “dám chấp nhận rủi ro bị coi là kẻ nổi loạn, vì ông đã tìm được một nơi mà điều này không còn quan trọng nữa”.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Lịch sử của Đàng Trong của họ Nguyễn thách thức phiên bản thông thường của một quá khứ Việt Nam đơn lẻ, và dải đất hẹp giữa núi và biển này đã khuyến khích mọi người tìm kiếm một cách làm người Việt tự do hơn nhiều.</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Theo cách đó, không có gì ngạc nhiên khi Đàng Trong trở thành đầu máy thay đổi của lịch sử và đã kéo trọng tâm quốc gia Việt Nam - dù nhìn dưới góc độ chính trị, kinh tế hay thậm chí văn hóa - về phía nam từ thế kỉ 17. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thương mại với nước ngoài định dạng Đàng Trong thế kỉ 17, điều tiết lao động và việc sản xuất cây trồng thương mại trên bờ biển và thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng địa phương, đồng thời đẩy nhanh sự tương tác với người dân vùng cao. Điều này được thấy rõ hơn vào thế kỉ 18, khi những kẻ bành trướng họ Nguyễn, thương nhân Trung Quốc và người Việt định cư gặp phải một “biên giới biển” mới ở nam Campuchia, chủ đề của Chương 9.</span></p><div><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-72685183363482204202023-11-27T22:23:00.000-08:002023-11-28T01:09:18.101-08:00Về quần đảo Hoàng Sa - P. A. <span id="docs-internal-guid-492598d8-7fff-7438-4d5d-5b5abf272e26"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 18pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 827px; overflow: hidden; width: 599px;"><img height="827" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/euSQhrazZBKWJ00hHmA2-EMsNIPeFzgbZaV0o3ZTI68gThlVfH7RsXgXWoxXxrQQr5t4841L_MzP0FUpra3XZqu6RzmpNFdlNEpuYyB2gKOatx5tcbJMopgKXu7DdKWcAGyO1-BS7s6O5ZpoA1YclZo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="599" /></span></span></p><br /><span style="border: none; display: inline-block; height: 832px; overflow: hidden; width: 616px;"><img height="832" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/iSZcUknoQ9FiNaLUH-yFPPu9kbPFoDOtGUvjuDtzLaCmI_p4Aec-LhwoJefi1t5CaQe99MoOcDV7OfXi9eCja4Earcma76cEMDaZQBzFzJaGZVdkh5GOh_6ccKxGCYAvEpZt4b5GmTkONcT56JMi39M" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="616" /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 26pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về quần đảo Hoàng Sa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 18pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 275px; overflow: hidden; width: 601px;"><img height="991.6889572231934" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/TcRKZC-OuROkGiFL4qLAcu0oJUj6_MinTIKaakjzQNb3RK8x07M1Qb4hP2dcRpC-LSFzppx-Gq8isOqo98018sJQchwyfBgPu-H3KF9ujUlpbT3UyxE0hhkqoSQ8FjDo1JK-6cZfa4QaOhxLPMo94xM" style="margin-left: -35.76275115919633px; margin-top: -48.0379746835443px;" width="735.1282536636354" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Phú Lâm và đảo Đá</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quần đảo này nằm trên tuyến đường tàu đi từ Hong Kong tới Sài Gòn, gần như cách đều cảng cực nam đảo Hải Nam và cảng Tourane (Đà Nẵng trên bờ biển An Nam): 250 đến 300 km.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quần đảo Hoàng Sa được tạo thành từ hai nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) và Lưỡi Liềm (Crescent) cùng một số đảo và đá tách rời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khi biển tốt và trời trong, việc đi lại không gặp bất kì khó khăn nào; từ cột buồm có thể nhìn thấy những ngọn cây trên một số hòn đảo, thấy các mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước hoặc sóng nhào trên những rạn san hô. Khi trời nhiều mây, nên tránh nơi đó, vì chẳng lợi lộc gì khi vượt qua, trừ khi muốn tìm nơi neo đậu ở đó; tuy nhiên, nhìn chung chúng ta sẽ chỉ tìm được nơi trú ẩn ở đó để tránh gió thổi từ hòn đảo nơi chúng ta neo đậu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các dòng hải lưu ở Hoàng Sa rất bất thường; chúng là kết quả của những cơn gió thường xuyên ở đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chúng chưa được nghiên cứu đầy đủ và chưa bao giờ được nghiên cứu một cách bền vững. Thông tin được đưa ra trong Hướng dẫn đi biển phần lớn đến từ các báo cáo trên biển của các thuyền trưởng bị đắm tàu trên các rạn san hô này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chính những xác tàu đắm được dùng làm mốc để nhận biết các chỗ nguy hiểm, đặc biệt là các nồi hơi có khả năng chống chịu lâu hơn nhờ trọng lượng của chúng và do kích thước của chúng nên có thể nhìn thấy từ khoảng cách rất xa và khiến những người không quen biết ban đầu không thể giải thích được bản chất của những chỗ lồi lõm này trên các rạn san hô phải kinh ngạc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đó là dấu vết duy nhất hiện có trên các rạn san hô vốn tạo thành mối nguy hiểm cho người đi biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Kể từ khi thiết lập chế độ bảo hộ ở An Nam, nước mà những đảo này phụ thuộc vào, Pháp đã phần nào lơ là đối với những vùng đất phụ thuộc này mà cho đến nay chỉ thể hiện sự quan tâm tương đối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tuy nhiên, vào năm 1899, ông Doumer, lúc đó là Toàn quyền Đông Dương, đã dự định lập một ngọn đèn biển trên một trong các đảo của Hoàng Sa. Một nghiên cứu hoàn chỉnh đã được thực hiện: nó đã nằm im trong các thùng hồ sơ của Sở Hàng hải Công trình Công cộng, việc thực hiện dự án đã bị trì hoãn do chi phí xây dựng và bảo trì đèn biển này cao. Ngân sách của Thuộc địa của chúng ta đang bị căng kéo bởi những nhu cầu cấp thiết hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong thời thông tin vô tuyến và nghiên cứu về các căn cứ tàu ngầm, vấn đề Hoàng Sa đôi khi được đặt ra trên báo chí Đông Dương. Thậm chí, cách đây vài năm, ý kiến trong một số giới nhất định ở Thuộc địa của chúng ta đã bị lay động trước thông báo rằng người Nhật đã được phép khai thác phốt phát thấy có ở một số đảo trong nhóm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về vấn đề này, báo chí đã chứng minh cho Toàn quyền thấy sự cần thiết của việc sáp nhập Hoàng Sa. Một người đồng hương, vẫn còn trẻ và say mê tiểu thuyết phiêu lưu vốn là thú vui của tuổi trẻ chúng ta, đã đi xa đến mức thuê một chiếc tàu hơi nước để thực hiện việc chiếm hữu đảo Phú Lâm và “</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">một tuyên bố về hành động này đã được các nhân chứng kí tên, bỏ trong một chiếc hộp kim loại kín và đặt ở một vị trí được đánh dấu trên hòn đảo này…</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những sáng kiến này phải được ghi nhận và hoan nghênh, vì chúng chứng tỏ rằng dư luận không phải không quan tâm đến bộ phận nhỏ nhất của thuộc địa của chúng ta mà đó là hiểu sai thực tế khi nói đến việc sáp nhập một vùng đất phụ thuộc của An Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về vấn đề này, chỉ cần tham khảo một thư viện tốt là đủ, trong trường hợp không có các hồ sơ chính thức mà người bình thường khó tiếp cận được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong cuốn </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Géographie de la Cochinchine </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Địa lí Đàng Trong) của Chaigneau, có ghi:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nam Kì gồm có... và quần đảo Hoàng Sa bao gồm các đảo nhỏ, rạn san hô và mỏm đá không có người ở. Chỉ đến năm 1816, vị hoàng đế hiện tại mới chiếm hữu quần đảo này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ấn bản gốc khá khó tìm, nhưng </span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bulletin des Amis du Vieux Hué </span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">số 2 năm thứ 10, tháng 4-tháng 6 năm 1923 dễ có được hơn, trong đó, ở trang 257 và các trang tiếp theo, tác phẩm này của Chaigneau được bình luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cuốn sử An Nam “</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đại Nam Nhứt Thống Chí</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">” Quyển VI, xuất bản dưới thời vua Tự Đức, rất dễ tra cứu tại trường Viễn Đông Pháp, sau khi dịch, cho ra đoạn văn có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía đông đảo Lí [Sơn]. Từ cảng Sa Kì [Cầu], gió thuận, có thể đi thuyền tới nơi trong ba bốn ngày. Quần đảo này có cả thảy hơn 130 đảo đá, cách nhau một ngày đến vài giờ. Giữa quần đảo có một bãi cát vàng, rộng không biết bao nhiêu ngàn lí, được quen gọi là ‘Vạn Lí Trường Sa châu’, tức 'bãi cát dài 10 000 lí'. Trên bãi có một cái giếng có nguồn nước ngọt. Chim biển đổ về những nơi này với số lượng không đếm xuể. Có rất nhiều sản phẩm như hải sâm, đồi mồi, xà cừ, rùa lớn,…. Những mảnh vỡ của tàu thuyền đắm tích tụ ở đó. Vào đầu thời nhà Nguyễn, đội Hoàng-Sa được thành lập, do 70 người làng An Vĩnh hợp thành. Hàng năm, vào tháng 3, đội này ra xuống thuyền đến đó thu hải sản, đến tháng 8 mới trở về qua cảng Tư Hiền. Một 'đội Bắc Hải' cũng được thành lập, cùng dưới quyền chỉ huy của đội Hoàng-Sa, và thu nhặt hải sản nhóm đảo Côn Lôn ở Bắc Hải. Phía đông quần đảo gần với phủ Quỳnh Châu, đảo Hải Nam, đế quốc Trung Hoa. Đầu thời Gia-Long, đội Hoàng-Sa được thành lập theo cách thức cũ và sau đó bị giải thể. Vào đầu thời Minh Mạng, thuyền nhà nước thường được cử đến những nơi này để thăm dò các tuyến đường biển. Nơi đây có một bãi cát trắng có chu vi 1 070 trượng, với cây cối rậm rạp. Ở giữa có một cái giếng. Phía tây có một ngôi chùa cổ, không biết dựng vào lúc nào. Tấm biển trên cổng có khắc bốn chữ: 'Vạn lí ba bình’ (vạn lí sóng yên)'. Tên cũ (của nơi này) là: núi Chùa Phật (Phật tự sơn?). Hai bờ của nó có san hô. Phía tây bắc có một bãi có chu vi 340 trượng, 2 xích, cũng cao như bãi cát trắng. Tên (bãi này) là: đá Ban-Na. Năm Minh Mạng thứ 16, vua sai thuyền nhà nước đem gạch đá đến đó xây chùa, bên trái dựng bia đá để ghi nhớ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Để bổ túc cho đoạn văn này, có thể tham khảo bản đồ trích từ “</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hoàng Việt địa dư chí</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">” được vẽ vào năm Minh Mạng thứ 14, bao gồm quần đảo Hoàng Sa vào trong đế quốc An Nam, đồng thời vẽ chúng gần bờ biển một cách lạ lùng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những tài liệu tham khảo này đủ tính thuyết phục nên không cần phải làm nặng nề thêm ghi chú này với nhiều trích dẫn nữa: quần đảo Hoàng Sa là một phần của An Nam, đó là điều không thể tranh cãi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hơn nữa, kể từ thời Gia Long xa xưa, những hàng xóm duy nhất có thể đến trú ngụ ở quần đảo Hoàng Sa là người Trung Quốc lại ở quá xa; việc trú ngụ của Hải Nam gần như chỉ trên danh nghĩa. Cho đến những năm gần đây, người Trung Quốc chỉ trú ngụ một khu vực hạn chế dọc biển ở phía bắc đảo và một hoặc hai cảng ở bờ biển phía nam. Cần lưu ý rằng chỉ trong năm 1928, một tổng đốc Trung Quốc mới có thể thâm nhập vào nội địa Hải Nam lần đầu tiên, và đừng quên rằng việc này thực hiện hiện dưới sự dẫn dắt của một người của chúng ta, đức cha Savina, người từng là người hướng dẫn và thông dịch cho chuyến đi này cho tướng Gaston Wong, tổng đốc đương nhiệm của hòn đảo này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong số vô số vụ đắm tàu xảy ra ở quần đảo Hoàng Sa, có hai vụ đắm tàu, tàu hơi nước “Le Bellona” của Đức năm 1895 ở đá Bắc và tàu Nhật Bản “Imezi Maru” năm 1896 ở cụm đảo An Vĩnh, đã gây ra các vụ tranh cãi mà không phải là không có lợi để nhắc lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hai tàu hơi nước này chở đồng do các công ti Anh bảo hiểm. Nỗ lực giải cứu đã vô ích và xác tàu bị bỏ phế. Người Trung Quốc, đi trên các thuyền tam bản hoặc thuyền nhỏ, cướp lấy chúng và chuyển số đồng thu được về Hải Nam. Họ đề nghị các chủ tàu mua lại chúng. Sau đó, các Công ti Bảo hiểm đã nhờ đại sứ Anh ở Bắc Kinh và lãnh sự của họ ở Hải Khẩu, những người muốn quy trách nhiệm cho các quan chức địa phương. Các quan chức này phản đối, giải thích rằng quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc, cũng không gắn liền với bất kì châu quận nào của Hải Nam về mặt hành chính và từ chối mọi trách nhiệm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về quần đảo Hoàng Sa, tôi có một số kỉ niệm cá nhân cách đây khoảng hai mươi năm; Vào cuối năm 1908, lúc đó đang định cư ở Hồng Kông, tôi được những người bạn Quảng Đông đang có kế hoạch thực hiện một chuyến đi tới Hoàng Sa tiếp cận. Đó là về việc kiểm tra một số khẳng định theo đó các đảo này được bao phủ với phân chim và trai ngọc phải tụ tập hàng đống xung quanh các rạn san hô; Có vẻ như tư cách là một người Pháp của tôi khiến họ quan tâm hơn tư cách là một thủy thủ khi đi đến những đảo này. Bị cuộc phiêu lưu này cám dỗ, tuy nhiên tôi không thể thực hiện nó; công ti mà tôi đang làm việc đã quyết định khác, đã cử tôi đi tới Tây Tạng vào thời điểm dự định cho chuyến du hành đến Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tuy nhiên, tôi biết được phần nào điều gì đã xảy ra với những kế hoạch này: một chuyến đi tới quần đảo Hoàng Sa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1909, nhưng chủ yếu là với tư cách cá nhân.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có lẽ nó thậm chí còn không có mối liên hệ nào với kế hoạch ban đầu. Khi đó, cảm xúc do Nhật Bản tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas gây ra ở Trung Quốc vẫn chưa lắng xuống. Với việc tổ chức một chuyến đi tới quần đảo Hoàng Sa hoặc thực hiện một cuộc sáp nhập giả, các quan chức chắc chắn đang tìm cách “lấy lại thể diện”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 871px; overflow: hidden; width: 532px;"><img height="871" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/OhesQMTmQIfF4MlR9zRV2ipM1Wclf0dgpzBJbcH3QCQiHHOs2FLzrJZ8Chwx-_OYMZYDMwEzS3EVQ4XB283oub7Bds9tV8dKEM3o7NaipAzPvMEhovTXerkNgYZfJuarwQLw1mO8fdMzgf1lg0avqto" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="532" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ Đông Dương (Đại Nam nhất thống toàn đồ) - trích </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hoàng Việt địa dư chí </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">[皇越地輿誌], năm Minh Mạng 16</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 18pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 718px; overflow: hidden; width: 596px;"><img height="718" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/zr5BPL7QFKiCuDBnnt_gI2GCfFdmQbqqASurg0a93GebEbZhOqoOj9Z5YPI3P8GkL2MlC4Rt5Fp0q49zPFrJpoe5v2RIbXeljdTfxRs4pgMYBAzlq7OkXYyGNuu0ezruGLmg6Aga7VDGt30Rn_O8AEc" style="margin-left: -7.908362845322603px; margin-top: 0px;" width="611.8167256906452" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bản đồ vị trí quần đảo Hoàng Sa</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 18pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 626px; overflow: hidden; width: 598px;"><img height="628.4782654291856" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/SF49VrkwGl97cnGgTWCTDqQ8KRSVEuVQ1yyzIcC97nsXI5L7cM__QAp7yqltpJnQXsc4Qw-EyhOZrCNgYGZOx2q_qdERFaZW9aPft7NMVGx0qxO_JzdZN6MySchinW7-xdenE13KqMT-qQTTFrr2KZg" style="margin-left: 0px; margin-top: -1.2391327145928082px;" width="598" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trích từ một bản đồ của Sở Thủy văn biển</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Dù đó là gì đi nữa, một chuyến đi đã diễn ra và nó đáng được thuật lại. Vào cuối tháng 5 năm 1909, hai pháo hạm nhỏ từ Quảng Châu ra khơi, trên tàu có hai người Đức từ Maison Carlowitz, ngoài các thủy thủ (!) Trung Quốc trong đó có một đề đốc 'đường sông', có vẻ như vậy, vì nếu hạm đội (Armada) nhỏ này, nhờ đất liền che chắn, đi khá dễ dàng đến tận cảng Du Lâm, một cảng ở phía nam Hải Nam; nó vẫn ở dí nơi đó suốt nửa tháng trước khi ra khơi, chắc chắn là đang chờ ‘phong thủy’ thuận lợi, không làm cho những người đi biển táo bạo này bị say sóng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cuối cùng vào ngày 6 tháng 6 (ngày 19 âm lịch), phái đoàn đã đến gần một trong những đảo của Hoàng Sa, sau đó viếng một vài đảo khác, và vào ngày 7 tháng 6 lúc 4 giờ chiều, “Phục Ba” và “Sâm Hàng” (hai pháo hạm) chạy thẳng về Quảng Châu, như chúng ta được biết từ báo “Quốc Tế” (Kuou-Che-pao: báo lớn của Quảng Châu) trong một bài viết ngày 20 tháng 6 năm 1909, mà bản dịch của nó như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">…..Tất cả các đảo Tây Sa (Hoàng Sa) đều rất bằng phẳng, đảo cao nhất không quá vài chục mét. Ở mép nước, một số rạn san hô nổi lên. Trên các hòn đảo, nhiều cây cối mọc lộn xộn. Khí hậu rất nóng. Ở biển, san hô và đá bị cắt (hoa thạch) có rất nhiều. Trai có chứa ngọc; tuy nhiên những thứ bắt được không chứa gì cả. Đảo có tên Tou-Lin-Wen là đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Tên đảo ấy vừa được đổi từ Mo-K'e, họ của phó tướng Ngô Kính Vinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chính trên hòn đảo này, cờ Trung Quốc đã được giương lên và chào với 21 phát đại bác sau đó. Nó được chia thành hai đảo nằm ở phía đông và phía tây của nhau. Đảo phía đông lớn hơn một chút, cao 13 feet, ở phần phía nam của nó, thấy một cây dừa lớn, cạnh đó là một cái giếng. Đảo nhỏ ở phía tây cũng có một cây dừa lớn, cao tới 10 feet.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vào ngày 20 âm lịch (7/6) lúc 4 giờ chiều, “Phục Ba” và “Sâm Hàng” đã ra đi trở lại theo đường đi thẳng. Đạo đài Lí cho vẽ bản đồ tổng quát các đảo đã được khám phá và 15 bản đồ đặc biệt của chính những đảo này; ngoài ra, 10 bức ảnh đã được chụp. Trong hơn 10 đảo này, 3 đảo phía đông bắc cũng như một đảo phía tây nam lớn hơn một chút so với những đảo khác, cả 4 đảo này đều có thể lập các cảng thương mại. Mặt khác, không có rạn san hô nào đáng sợ ở 4 đảo này; do đó các tàu hơi nước có thể tiếp cận tới đó được. Vẫn còn những nơi khác mà tàu hơi nước có thể đến, nhưng chúng có kích thước quá nhỏ để có thể lập các cảng. Đây là lí do tại sao hiện có ý định tạo ra hai cảng ở hai đảo phía đông. Tất cả những đảo còn lại sẽ được dành cho trồng trọt, đánh cá và muối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chúng tôi cũng được biết rằng phó tướng Ngô Kính Vinh và phó tổng đốc Lieou sẽ được giao nhiệm vụ đặc biệt để cố vấn và đảm nhận việc thực hiện kế hoạch này ngay tại chỗ. Những ngày này, các dự án chi tiết đã được soạn thảo và các kế hoạch, quan điểm, v.v. sẽ được trình cho tổng đốc xem xét.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 517px; overflow: hidden; width: 451px;"><img height="517" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/g9riC-Z3lVHpKGJF6oeyST_RTZawlxF0QWS5NIThF1rfiAq17_071NYu72XdYsPtCkfO22ojhZ8NMDieGfHI2pZL01Mw2x4XSIDNcame8qO6oBsBTKBL9Q6URuPvuWejTFW2x7l_QNnsf45yWvfe2Eg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="451" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Phú Lâm và đảo Đá (theo đo vẽ của các sĩ quan Đức của tàu Freya và Iltis (1881-85)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vài ngày sau, tờ “Kouo-Che” đăng một bài báo được dịch như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chúng tôi đã kể lại những đặc điểm cụ thể của chuyến điều tra do đề đốc Lí [Chuẩn] và đạo đài Lí [Triết Tuấn] thực hiện ở quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi được biết rằng họ đã gửi một báo cáo cho tổng đốc về kết quả điều tra. Liên quan đến việc thảo luận về dự án, mỗi người đều có quan điểm riêng; nhưng cả hai đều nhận thấy đảo Phục Ba ở phía đông quần đảo và đảo Mo-K'e ở phía tây rất phù hợp cho việc tạo ra hai cảng thương mại. Về kích thước, đảo Phục Ba có chu vi khoảng 4 đến 5 lí, dài 2,5 lí và rộng khoảng 1 lí. Mo-K'e có chu vi khoảng 7 lí và chiều dài từ 6 đến 7 lí. Nhưng đảo này được chia thành hai phần không dính liền với nhau; có thể xây một cây cầu để nối chúng lại. Xét về Hoàng Sa, nếu mở cảng thương mại ở đó thì đảo Mo-K'e sẽ phù hợp cho việc này hơn đảo Phục Ba.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có thể làm (?) hai con đường trên đảo sau theo phong cách của Hồng Kông và các bến tàu và đường bộ trên những bãi biển cát viền quanh nó. Do đó đảo Mo-K'e này được dự kiến sẽ được tiến hành trước rồi đến đảo Phục Ba.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các đảo khác của quần đảo có diện tích nhỏ không phù hợp để thành lập các cảng thương mại mà chỉ để trồng trọt, đánh cá và lập các đầm muối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tổng đốc sau khi xem xét nhiều điểm của vấn đề, vừa mời thủ quỹ, quan tòa và đạo đài cùng nhau thảo luận theo báo cáo thăm dò về phương thức thực hiện dự án và kiểm tra tất cả các chi tiết của câu hỏi, đối với từng đảo và từng bản đồ nói riêng, để sau đó gửi báo cáo lên vua về chủ đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có vẻ như Chính quyền Pháp nếu được thông báo về việc này cũng không mấy xúc động trước diễn tiến này. Tuy nhiên, lẽ ra họ phải cho thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về nhiệm vụ này, ít nhất là chỉ bảo cho Cơ quan Thủy văn của Hải quân Quốc gia chúng ta biết các quy trình có thể cho phép thực hiện trong 36 giờ việc thăm dò và lập bản đồ tổng quát về Hoàng Sa, cộng thêm 15 bản đồ bổ sung đặc biệt khác của cùng các đảo đó và cả 10 bức ảnh chụp (!) không tính nghiên cứu về hai cảng thương mại và một cây cầu nối hai đảo!!!</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về phần hai người Đức, họ trở về khá thất vọng và không thực hiện bất cứ điều gì sau chuyến đi, và người Trung Quốc cũng không hơn gì.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Từ thời điểm này cho đến khoảng năm 1920, do nhân dân hạnh phúc, quần đảo Hoàng Sa không có nhiều sự kiện xảy ra, ngoại trừ việc các tàu tuần dương của Hải quan Đông Dương thường xuyên ghé vào các đảo khác nhau của quần đảo. Đôi khi, nhờ sự can thiệp của các lãnh sự của chúng ta ở Hải Nam, họ đã báo rằng sau những cuộc ẩu đả giữa ngư dân Trung Quốc và ngư dân An Nam ở Hoàng Sa, vợ và con ngư dân An Nam bị ngư dân Trung Quốc bắt cóc, bị gom chung với các sản phẩm đánh cá để bán tại các cảng ven biển Hải Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những lần khác, những chuyến tới lui này được xác định bởi tin báo của những người cung cấp thông tin về vũ khí và đạn dược, hoặc thuốc phiện, được cất giữ trên các đảo này, không phải là không gây nguy hiểm cho an ninh hoặc tài chính của chúng ta ở Đông Dương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chính trong một trong những chuyến đi giám sát này, chỉ huy tàu “Espadon” đã phải thuyết phục thuyền trưởng của tàu “Aklbouo Maru” từ Kobe, người đang vận chuyển phosphat khai thác từ đảo Phú Lâm. Khi bị thẩm vấn, giám đốc người Nhật của công ti này khai rằng người đại diện cho công ti của ông, “Mitsui Bussan Kaisha”, đã không cho phép bắt đầu việc khai thác này vào cuối năm 1920 mà không tham khảo ý kiến của Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn, và vị tư lệnh này không cho rằng cần thiết phải đưa ra lệnh cấm khai thác, theo quan điểm quân sự.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nếu thông tin của tôi là chính xác, Chính quyền Pháp cảm thấy không cần thiết phải rút lại điều gần như sự cho phép do Tư lệnh Hải quân đưa ra một cách nhẹ nhàng, người Nhật đã hành động đúng đắn so với chính quyền Pháp vốn không hiểu đúng các quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Do đó, đây là một tiểu luận lịch sử về vùng đất phụ thuộc này của An Nam, việc nghiên cứu về nó vẫn chưa được thúc đẩy đầy đủ cho đến những năm gần đây. Hiện giờ không còn giống như vậy nữa và các quan điểm khác nhau đã được nghiên cứu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Theo quan điểm </span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">hàng hải,</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> chỉ cần tham khảo Hướng dẫn đi thuyền và các tài liệu bản đồ do Cơ quan Thủy văn Hải quân xuất bản là đủ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Còn về </span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">nghiên cứu khoa học,</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> nó được giao cho phái đoàn “De Lanessan”, một tàu hơi nước có lương giãn nước 750 tấn trực thuộc Cục Hải dương học và Nghề cá Đông Dương thực hiện. Ngoài việc được trang bị cho lưới kéo hiện đại, đơn vị này còn có các trang thiết bị cần thiết để biến nó thành một phòng thí nghiệm nổi thực sự, cho phép thực hiện mọi nghiên cứu khoa học và nghiên cứu hải dương học. Các kết quả thu được được báo cáo trong các ghi chú do Tiến sĩ A. Krempf, Giám đốc Cơ quan Hải dương học công bố. Những ghi chú này cũng là nguồn tài liệu chưa được xuất bản được quan tâm nhiều nhất, nhờ giá trị khoa học, chúng tạo thành một kho kiến thức thực sự phong phú về Thuộc địa của chúng ta: những chi tiết được đưa ra là những điều quý giá nhất. Các dữ liệu sau đây được lấy từ chúng:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cấu hình địa lí dưới nước của khu vực rộng lớn kéo dài từ vịnh Bắc Bộ đến cửa vịnh Thái Lan thể hiện một loạt thềm dưới nước được sắp xếp thành các tầng bậc liên tiếp có độ sâu tăng dần khi chúng ta di chuyển ra xa bờ biển. Những tầng ổn định nhất, rộng nhất và đáng chú ý nhất về mọi mặt nằm ở các độ sâu thay đổi từ 40 đến 60 mét.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chính địa hình quan trọng dưới nước này được tìm thấy ở khối đảo biệt lập ở giữa biển Đông, tạo nên quần đảo Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Một loạt các cuộc khảo sát và nạo vét được tàu “De Lanessan” thực hiện trên cao nguyên ngầm mà từ đó các rạn san hô và đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa nổi lên; các nền móng này có độ sâu thay đổi từ 40 đến 100 mét được xác định là được tạo thành từ các lớp vỏ san hô bao phủ nó ở tất cả các điểm mà độ tinh khiết của nước cho phép phát triển san hô tạo ra rạn san hô. Đó là một bề mặt có hình dạng từ thời kì băng hà vốn được bao phủ bởi nước biển sau đợt băng tan cuối cùng, tiếp tục mang lại điều kiện tốt nhất cho san hô phát triển do nằm cách xa tất cả các bờ biển. Nó hiện được bao phủ đều bởi san hô sống, cát và sỏi san hô.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #343b43; font-family: Carlito, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 466px; overflow: hidden; width: 594px;"><img height="1009.5565572173763" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/OcJaE_C9MPHjlvUxeDRTxBgziTJZGIHP4OyjdYl6ucSRpsTYTGVbG9Z9hCUcfQUDF2xnwxIGxd1s-dbWHysi0KYdGE_-wpcW6nBUlTqZEoEeOcZhEuwRtNb6HwDJnf1kYScSAkKmT7d0ah3uc4aTsns" style="margin-left: -46.52888681677312px; margin-top: -71.88297872340425px;" width="749.0088922117276" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Phú Lâm tháng 7/1926 - Mai rùa biển và dáng vẻ rừng nguyên thủy ven bờ biển của đảo</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quan điểm địa chất này đã được khẳng định, hãy rút ra từ báo cáo đáng chú ý của tiến sĩ Krempf những chi tiết cần thiết từ nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trước hết, đây là những gì người đồng hương uyên bác của chúng ta nói về phốt phát:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Qua việc tiếp tục nghiên cứu trong phòng thí nghiệm những vật liệu được mang về từ chuyến đi của chúng tôi tới quần đảo Hoàng Sa năm 1926, chúng tôi đã có thể nhận ra cơ chế hình thành các lớp trầm tích phốt phát tạo thành đất của tất cả các đảo thuộc quần đảo này mà độ cao của chúng, bên trên mực nước khi triều cao, cho phép thảm thực vật phát triển. Tất cả những đảo này, không có ngoại lệ, đều có bản chất là san hô như chúng ta đã xác lập vào năm 1926. Do đó, đất của chúng, ban đầu và trước bất kì sự biến đổi nào có thể quan sát được, được tạo thành từ cacbonat vôi. Chính trên nền đất rất đặc biệt và rất nghèo này mà lần đầu tiên rừng được hình thành bao phủ các đảo nhỏ hiện nay có rừng thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời khi rừng này phát triển bằng các hạt giống trôi nổi từ những vùng đất xa xôi mang tới, vô số loài chim biển tìm nơi trú ẩn qua đêm ở những đảo này đã thải xuống đất tất cả acid phosphoric từ chế độ ăn chỉ gồm có cá và động vật biển. Nếu khí hậu của quần đảo Hoàng Sa vốn ôn hòa, ẩm ướt với lượng mưa dồi dào mà khô cằn như khí hậu của các đảo được bao phủ bởi phân chim ở Chile và Peru, thì acid phosphoric này sẽ vẫn ở trạng thái phân chim thông thường như trong các lớp trầm tích được biết đến của bờ biển Thái Bình Dương của Nam Mĩ. Ở Hoàng Sa, với sự có mặt của nước mà đất rừng của các đảo này được cung cấp dồi dào, acid phosphoric hòa tan và phosphat hòa tan được giải phóng đã gặp phải, khi xâm nhập vào lòng đất, carbonat vôi đã giữ lại chúng và cố định khi mất đi acid carbonic. Do đó, sự biến đổi này tiến triển từ bề mặt đến chiều sâu. Chúng tôi vẫn chưa thể xác định độ dày của lớp được biến đổi như vậy. Chúng tôi chỉ có thể nói rằng nó vượt quá một mét ở một số điểm mà việc quan sát này trở nên dễ dàng hơn đối với chúng tôi nhờ sự hiện diện của giếng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở trên mặt đất, các thành phần san hô đầu tiên gặp được do acid phosphoric hòa tan là cát vôi mịn ít nhiều đôi khi được tái tạo bởi gió hoặc các mảnh vụn san hô nhẹ. Sau khi chuyển hóa thành phosphat, hàm lượng acid phosphoric của các thành phần trên mặt đất này là 23 đến 25%.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở dưới sâu, quá trình phosphat hóa tập trung trên đá đặc được tạo thành từ các vũng nước, hoặc từ đá sa thạch san hô có thành phần lớn, đôi khi rất cứng. Mặc dù khi mất đi acid carbonic và khi biến thành phosphat, những tảng đá này vẫn giữ được cấu trúc nguyên thủy và nhà cổ sinh vật học có thể dễ dàng nhận ra, không thay đổi, hình thái của các loài san hô đã giúp hình thành nên chúng. Hàm lượng acid phosphoric của các lớp sâu này lên tới 42%.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những phân tích này được giám đốc Phòng thí nghiệm Hóa học Sài Gòn, ông Michel, thực hiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Một vật liệu như vậy rõ ràng rất thú vị khi được sử dụng làm nguồn acid phosphoric. Tuy nhiên, cho đến nay, nó mới chỉ làm thử với một công ti Nhật Bản vốn vừa đảm nhận việc khai thác đảo Phú Lâm trong chuyến thăm của chúng tôi, vào tháng 6 năm 1926, sau khi đã từ bỏ, chưa khai thác hết, mỏ tốt ở đảo Roberts (Hữu Nhựt).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Người Nhật khai thác trên đảo Phú Lâm có đường sắt, toa xe, cầu cảng dài 300 mét, tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho công việc của những người điều hành.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Lực lượng lao động là người Trung Quốc, do một quản đốc người Philippines trông coi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trên nhiều công trường xây dựng, cây cối bị đốn đi và thảm thực vật bị phá hoại. Khi người Nhật khai thác xong lượng phosphat tích lũy qua hàng thế kỉ ở những đảo này, sẽ không còn gì ngoài khu rừng xinh đẹp nơi vô số loài chim biển cho đến ngày nay vẫn đến trú ẩn và làm tổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các nhà tự nhiên học đã có thể nhìn thấy những biểu hiện đầu tiên của sự can thiệp của con người đối với sự cân bằng của hệ động vật ở những đảo này: vô số chuột chạy trên mặt đất; trong vòng vài tháng nữa, rừng ở đây sẽ bị chúng xâm chiếm. Cuộc xâm lấn này, theo sau việc đưa con người đến vùng đất hoang sơ này vài tháng, sẽ đặt dấu chấm hết cho sự thống trị của các loài chim trên đảo Phú Lâm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 359px; overflow: hidden; width: 602px;"><img height="359" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/D73PUmYzqYvPsTV42d_AxkRdO2Np8Q632MqWHBbTQAZ1xAy3r9XwhR5f0qFTvwL4WoDws0odbwnclc3QE3LiUmAblVARCH7QDBKV9-EMoocb5T8UB-IFmSkr02cAlVJr5HBPdpZPtBwSZ-nJhKhmPRk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="602" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cầu tàu dài 300 m trên đảo Phú Lâm</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 435px; overflow: hidden; width: 602px;"><img height="435" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/6bVfFYlJnsOUba8jiKVXebrnQgJUIz19BWjBdGqYeh1igM2IVt7Ci74uA4j9TpACLVXe-FwStCTiGs0Wnc1tWD0CijuvQZU71glZjOWvGjXsqMMbKESmiTzcnFmvtBfqbRfOZ9OwszpGrVII5kRAsoI" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="602" /></span></span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 402px; overflow: hidden; width: 584px;"><img height="402" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/RgOKpReBRi2pYZV8ipb_wtxzY7CIzIs3TFb71Q1Bx6ej-EHjJtbYOhlubVghVXzJ_m2ORMMx0M7EU5FG-S8GfVhd4Cwu2nB8ZhOeEc1pesGmXQAcaIuY7LGKB_Ui_Wmf1P6aby-kgjxTYVaGSkRtpxg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="584" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Hữu Nhựt - người Nhật khai thác và bỏ phế</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Do đó, các công ti có thể được thành lập trong tương lai gần nhằm tiếp tục khai thác phosphat quần đảo Hoàng Sa sẽ gặp khó khăn nghiêm trọng và các nhà quản lí của họ nên thực hiện một nghiên cứu sơ bộ nghiêm túc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Công việc như vậy đòi hỏi chi phí đáng kể: cơ sở vật chất trên đất liền cho nhân sự, việc kéo sà lan, việc xây dựng cầu cảng, việc tiếp liệu khó khăn, nơi neo đậu không an toàn cho tàu chở hàng đến lấy hàng, v.v... và kết quả hi vọng sẽ ra sao sau lần khai thác hớt này do người Nhật thực hiện?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về vấn đề </span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đánh bắt cá,</span><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> đã 20 năm nay, ít còn nghe nói đến việc trai ngọc được thu lượm hàng giỏ đầy ở quần đảo Hoàng Sa. Các thủy thủ Trung Quốc trong chuyến đi kéo dài 36 giờ năm 1909, trong thời gian đó họ đã làm rất nhiều điều đáng chú ý, đã tuyên bố trong báo cáo của mình: “Những con trai chứa ngọc, tuy nhiên không phải tất cả những con bắt được đều chứa gì…” và kể từ đó cũng như vậy</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 403px; overflow: hidden; width: 602px;"><img height="403" src="https://lh7-us.googleusercontent.com/NTELCCJKWnf2JB3SgJPya0A0QGU7_m2LrRSZTTlE9zUNQ8CqAVJmd2GD40_Bq4g9OW7m2qodvWj0AdB0rT2p8fpUfB7Uxykt2iJML6fPcJPN2nAf-9Xx39N9kyDFINSLyclY_mEcbfjUT5kZycvUyXU" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="602" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial, sans-serif; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khai thác phosphat vôi ở đảo Hữu Nhựt</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chưa hết, quan điểm hiện nay về các nền móng cao hình thành bởi các bãi của quần đảo Hoàng Sa, nằm trong giới hạn độ sâu rất thuận lợi cho sự phát triển của sinh vật biển, có xu hướng khiến chúng ta tin vào việc dễ dàng khai thác hệ động vật phong phú này; công việc của Phái đoàn “De Lanessan” thực hiện lại chứng tỏ điều ngược lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Báo cáo về chủ đề này được thể hiện qua lời lẽ sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong nghiên cứu của chúng tôi về khu vực này, chúng tôi quan tâm muốn biết liệu các nền tảng dưới nước mà một số đảo nhỏ của quần đảo Hoàng Sa nằm bên trên, có thể khai thác được bằng ngư cụ kéo của châu Âu cũng như của bản địa hay không.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nghiên cứu của chúng tôi nhanh chóng tiết lộ rằng lớp san hô bao phủ toàn bộ những bề mặt này hoàn toàn ngăn chặn mọi hình thức lưới kéo tiếp cận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Những máy nạo vét mạnh như máy nạo vét Charcot, được gia cố đặc biệt theo kinh nghiệm của chúng tôi để hạ xuống các rạn san hô, không chịu được vài phút làm việc trong tình trạng hỗn loạn của các nền móng này nơi mà san hô đang hoạt động phát triển toàn diện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các quy trình chiếu sáng đáy biển mà chúng tôi đã bắt đầu sử dụng trong các cuộc điều tra của mình cho phép chúng tôi nhận ra bản chất không đều đặn của những nền móng này cũng như liệu chúng tôi có thể tự di chuyển giữa những khối lượng lớn bất thường của Meandrines, Astroeides, Porites và những vùng trũng sâu, được lót bằng cát san hô và sỏi, ngăn cách chúng .</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các kết quả khoa học về mọi mặt rất phong phú, nghiên cứu của chúng tôi về khu vực này từ quan điểm thực hành đánh bắt cá công nghiệp bằng thiết bị kéo do đó dẫn đến việc chống chỉ định tuyệt đối do việc thành lập san hô độc quyền của các nền móng này. Vì lí do này, có tính quyết định bởi tự nó, đã thêm vào câu hỏi về sự khó khăn và thậm chí cả những nguy hiểm khi đi lại ở những khu vực có nhiều rạn san hô và hầu như không có nơi trú ẩn an toàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cần lưu ý thêm rằng chỉ có một số ít thuyền đến các đảo hoang này để đánh bắt rùa biển, hải sâm và các sản phẩm biển khác từ các rạn san hô.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Không phải lúc nào thuyền hay những người chuyên đánh cá cũng đến thực hiện các chuyến đánh bắt này trên các rạn đá của quần đảo Hoàng Sa: họ thường là những người đi biển hàng năm đi qua và trở về theo sự chuyển động của gió mùa trên đường từ Hải Nam đến Singapore, những người, trong thời kì chế độ gió ngăn cấm mọi hoạt động di chuyển, đến để giảm bớt những bất tiện của mùa nghịch này bằng cách tham gia đánh bắt cá trên các rạn san hô của quần đảo xa xôi này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tuy nhiên, một số thuyền chuyên dụng, từ tháng 3 đến tháng 12 thực hiện ba chuyến đánh cá, trở về cảng quê hương vào dịp nghỉ lễ Tết từ tháng 1 đến tháng 2; thường bao gồm khoảng 20 người, họ được trang bị vũ khí ở một số cảng phía nam Hải Nam. Khi đến quần đảo Hoàng Sa, tại ngư trường, sau khi vượt qua hàng rào rạn san hô, thuyền được kéo vào bờ trên bãi cát đến nỗi gần như mắc cạn hoàn toàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Một màn bằng chiếu che cho các sinh vật sống khỏi bị nắng, và thủy thủ đoàn của nó đang bận rộn đánh bắt cá, chủ yếu là câu rùa, thứ hai là bắt trai to (tridachne) và hải sâm. Việc đánh bắt rùa được thực hiện bằng thuyền tam bản và lưới dọc lớn trải quanh mép ngoài của rạn san hô và dùng để đánh bắt rùa khi chúng lên bờ để đẻ trứng. Chuyến đánh bắt kéo dài 30 đến 45 ngày, trong thời gian đó đánh bắt được 125 đến 150 con rùa. Rùa sau khi bắt được sẽ được nhốt vào các chỗ nhốt dài 10m, rộng 5m, đáy hình trái xoan được tạo thành từ một vành đai đá khô cao 30 - 40cm tạo thành hồ chứa nước biển. Dưới chân là những cây que khá dài được lắp trên thành, hơi nghiêng về phía trong và rất gần nhau. Đây là những gì tạo thành rào chắn cho chỗ nhốt. Những chiếc que này được bện với nhau bằng dây leo ở phần trên. Trần được làm bằng những mảnh gỗ đan chéo nhau được phủ bằng cành cây để các con vật được che nắng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vị trí của chỗ nhốt được tính toán sao cho nước biển có thể thay mới mỗi khi thủy triều lên, nhìn chung có 3 đến 4 chỗ nhốt gần thuyền. Ngay sau khi bắt được, rùa được xếp theo kích cỡ bỏ vào các chỗ nhốt khác nhau cho đến ngày lên đường; sau đó chúng được mang sống xuống thuyền khi đó đã biến thành chỗ chứa. Hoạt động này chỉ được thực hiện khi thuyền nằm ở ngoài rìa ngoài của rạn san hô mà nó phải đi qua hoàn toàn nhẹ nhàng và có mớn nước tối thiểu. Tỉ lệ rùa chết dường như không nhiều trong thời gian ở trong chỗ nhốt hoặc trong quá trình vượt biển kéo dài trung bình 3 đến 4 ngày. Trong mọi trường hợp, những con rùa chết sẽ được cắt ra và tạo thành nguồn thức ăn bổ sung đáng kể của thủy thủ đoàn sống bằng động vật có vỏ và cá nhỏ bắt bằng cách câu khi thả lưới rùa. Chất thải của cá là thức ăn chính của rùa. Mỗi con rùa khi đến các cảng của Hải Nam được bán với giá 15 đến 25 piastres (đồng) tùy theo độ lớn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trai to (tridachne) được bắt từ các rạn san hô xung quanh vùng nước thấp, màng cơ được cắt thành dải mỏng, sau đó phơi khô dưới nắng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Từ những quan sát này, có thể suy ra rằng việc khai thác các nguồn tài nguyên do quần đảo Hoàng Sa mang lại có rất ít cơ hội mang lại lợi nhuận, bởi vì, trong mọi khả năng, đã quá muộn đối với phosphat và không thể đánh bắt bằng lưới kéo quy mô lớn do bản chất nền móng đáy biển. Không cần phải xem xét, với tư cách là một công việc kinh doanh, nghề đánh bắt cá nhỏ đã được thực hiện bởi các thuyền An Nam và vẫn còn được thực hiện bởi người Trung Quốc: nghề đánh cá này chỉ tạm lấy làm sinh kế cho những người thực hành nghề đánh cá này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vì vậy, việc từ bỏ phần lãnh thổ Đông Dương này của chúng ta có cần thiết hay không? Không một chút nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngược lại, chúng ta không thể bỏ qua vùng đất phụ thuộc này của nước bảo hộ An Nam mà các quyền không thể tranh cãi chưa bao giờ được định ra.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các rạn san hô Hoàng Sa tạo thành mối nguy hiểm thực sự cho hàng hải; hầu như mỗi khi xảy ra vụ đắm tàu, “Hiệp hội dịch vụ thương gia” Hồng Kông đều yêu cầu Chính phủ Anh thực hiện các biện pháp cần thiết để lắp đặt ít nhất hai ngọn đèn biển ở đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chính phủ Đông Dương có trách nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích chung này nếu cần thiết; nhiệm vụ này thuộc về chúng ta, đó là lợi ích của chúng ta khi thực hiện nó và chúng ta không thể cho phép người khác thực hiện nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong thời thông tin vô tuyến này cho phép theo dõi và báo trước các cơn bão, thời các dự án thủy phi cơ và nghiên cứu các căn cứ tàu ngầm, Hoàng Sa có tầm quan trọng chưa bao giờ có được đối với Đông Dương. Đây là lí do tại sao tôi thấy thú vị khi tổng hợp lại trong ghi chú này những chi tiết hiện tại về những rạn san hô tương đối ít được biết đến này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">P. A. LAPICQUE.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thuyền trưởng đường dài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: white; color: #202124; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chủ tàu ở Viễn Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k133960k#" style="text-decoration-line: none;"><span style="background-color: white; color: #1155cc; font-family: Arial, sans-serif; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-variant-position: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k133960k#</span></a></p><div><br /></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-39727597478692239602023-07-14T04:53:00.009-07:002023-07-15T20:17:19.328-07:00Lịch sử bị bóp méo của biển Đông trước thế kỉ 20 - Ch. I<p> <span style="font-family: Arial; font-size: 26pt; text-align: justify; white-space-collapse: preserve;">Lịch sử bị bóp méo của biển Đông</span></p><span id="docs-internal-guid-588c7ff2-7fff-3e0c-a360-491cc7296402"><br /><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Biển không tranh chấp</span></h2><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Lịch sử bị bóp méo của biển Đông trước thế kỉ 20</span></h2><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tóm tắt</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Qua việc xem xét kĩ lưỡng khối lượng lớn bằng chứng lịch sử được ghi lại bằng các ngôn ngữ khác nhau, cuốn sách này dựng lại lịch sử "bị bóp méo" của các nhóm đá, rạn san hô và đảo nhỏ đang tranh chấp, và các vùng nước xung quanh chúng ở biển Đông (SCS) trước năm 1900. Nó làm rõ nhiều lập luận vướng mắc, ngộ nhận, thậm chí lệch lạc xung quanh vấn đề biển Đông giữa Trung Quốc, Việt Nam và các nước, rút ra các kết luận sau đây:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1) Biển Đông là vùng biển mở từ thời cổ đại, trái ngược với tuyên bố của Trung Quốc, các tuyến đường thương mại trên biển Đông không phải do Trung Quốc phát hiện hoặc thống trị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngay cả trong thời hoàng kim của nó, tức là vào đầu triều đại nhà Minh, biển Đông không phải là một cái "ao nhà của Trung Quốc".</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2) Không có bằng chứng nào cho thấy người Trung Quốc đã phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Người Chăm, ngày nay ở miền nam Việt Nam, rất có thể là những người đầu tiên phát hiện ra những quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3) Các bản đồ và các ghi chép xưa cho thấy không đủ bằng chứng để hậu thuẫn cho bất kì yêu sách chủ quyền nào. Dù một vài tài liệu có thể chỉ ra rằng Trung Quốc thể hiện việc quản lí thực tế quần đảo Hoàng Sa, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Trung quốc thực hiện quyền quản lí quần đảo Trường Sa. Trung Quốc dã KHÔNG đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với các đảo này trước năm 1900. Vào cuối triều đại nhà Thanh, giới hạn lãnh thổ trên bộ và trên biển của Trung Quốc là tại Nhai Châu, điểm cực nam của đảo Hải Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4) Tuy nhiên, vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa có thể đã từng là ngư trường truyền thống của ngư dân Trung Quốc từ đầu thế kỉ 16. Và các hoạt động đánh bắt cá của họ đã mở rộng ra tới quần đảo Trường Sa sau giữa thế kỉ 19. Họ có thể là những người duy nhất tham gia liên tục và tích cực vào các hoạt động đánh cá gần các đảo đó trước thế kỉ 20.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">5) Việt Nam từng bước xác lập chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa bắt đầu từ cuối thế kỉ 17, đầu thế kỉ 18. Đến đầu thế kỉ 19, dưới thời Gia Long và Minh Mạng, Việt Nam đã giành được quyền sở hữu một cách chính thức và vững chắc. Quyền sở hữu này đã được các nước phương Tây công nhận rộng rãi, tuy nhiên sau khi Pháp xâm lược, Việt Nam đã mất quyền kiểm soát quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">6) Không có quốc gia nào thể hiện chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trước năm 1900. Brunei và Sulu có mối liên hệ lịch sử với quần đảo này vào thời hoàng kim của họ vào thế kỉ 16-18. Tuy nhiên, họ đã mất những mối liên hệ này sau khi bị suy tàn vào thế kỉ 19.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">7) Người Philippines có thể là những người đầu tiên phát hiện ra bãi cạn Scarborough. Chính quyền thực dân Tây Ban Nha đã thực thi pháp luật đối với nó trong thế kỉ 18-19. Tuy nhiên, chủ quyền đã bị mất khi Tây Ban Nha nhượng Philippines cho Hoa Kì vào năm 1898.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">8) Mặc dù các nước phương Tây đã thống trị biển Đông vào nửa sau thế kỉ 19, nhưng họ không có ý định sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa, để chúng trở thành đất vô chủ (Terra nullius) trên thực tế.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">9) Tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với quần đảo Pratas (Đông Sa) năm 1907-1909 đã châm ngòi cho "kỉ nguyên tranh chấp" kéo dài hàng trăm năm của biển Đông.</span></p><br /><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Lời nói đầu</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tranh chấp biển Đông bị hiểu sai</span><span style="font-family: Arial; font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Theo truyền thống, Trung Quốc là một quốc gia lục địa, nhưng Trung Quốc cũng có đường bờ biển dài 12 000 km. Trung Quốc giáp 4 biển, từ bắc xuống nam là biển Bột Hải, biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Ngoài việc coi vùng biển đầu là nội hải của mình, Trung Quốc còn có tranh chấp lãnh thổ hoặc biển với các nước láng giềng biển ở 3 vùng biển còn lại.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở Hoàng Hải, Trung Quốc và Hàn Quốc có tranh chấp về Đá Suyan (Tô Nham). Đá Suyan bản thân nó chỉ là một rạn san hô, và không có nhiều điều để thảo luận về lịch sử. Trung Quốc và Hàn Quốc cũng đều thể hiện rằng họ không có tranh chấp lãnh thổ. Tất nhiên, cách hiểu của hai bên là khác nhau. Hàn Quốc tin rằng điều đó cho thấy rằng đá Suyan thuộc về Hàn Quốc. Theo quan điểm của Trung Quốc, điều đó lại cho thấy đá Suyan không thể được định nghĩa là một "lãnh thổ", do đó, mặc dù hai bên tranh chấp chủ quyền, nhưng tranh chấp này không thể được hiểu là "tranh chấp lãnh thổ". Dù cho như thế nào, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc không căng thẳng trong thời điểm hiện tại. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc và Nhật Bản có tranh chấp về Điếu Ngư Đài / Senkaku. Nhóm đảo này trở thành nơi tranh chấp lãnh thổ vì Trung Quốc tuyên bố Điếu Ngư Đài là lãnh thổ của mình khi Hoa Kì chuẩn bị trao trả Ryukyu cho Nhật Bản vào năm 1970. Trong 25 năm trước đó, Điếu Ngư Đài / Senkaku đã được chính phủ Ryukyu thuộc Mĩ kiểm soát, và trong 50 năm tiếp theo, nó đã được Nhật Bản cai quản.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Vấn đề Điếu Ngư Đài / Senkaku rất phức tạp. Bản thân Điếu Ngư Đài / Senkaku chỉ gồm một vài đảo nhỏ không có người ở và ít có ý nghĩa kinh tế, và giá trị kinh tế của quần đảo này có lẽ đã được người Nhật phát triển trong nửa đầu thế kỉ 20. Nhưng một số yếu tố khiến Điếu Ngư Đài / Senkaku gây nhiều tranh cãi hơn là giá trị của nó. Thứ nhất, vào cuối những năm 1960, có báo cáo về trữ lượng dầu dồi dào ở vùng biển gần Điếu Ngư Đài / Senkaku. Mặc dù điểm này chưa được khẳng định, nhưng việc đáy biển Hoa Đông có dầu đã được công nhận. Thứ hai, Điếu Ngư Đài / Senkaku nằm ở phía tây của rãnh Okinawa (đừng nhầm với rãnh Ryukyu). Trung Quốc đề xuất rãnh Okinawa là đường phân định giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở biển Hoa Đông, trong khi Nhật Bản đề xuất trung tuyến giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Nếu Điếu Ngư Đài / Senkaku thuộc sở hữu của Nhật Bản, đề xuất trung tuyến sẽ mạnh mẽ hơn. Cuối cùng, giữa Trung Quốc và Nhật Bản còn có một lịch sử chiến tranh lâu dài. Trung Quốc đã bị Nhật Bản đánh bại trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai, với hàng triệu người thiệt mạng. Mặc dù cuối cùng Nhật Bản đã bị đánh bại, nhưng phần lớn lãnh thổ của Trung Quốc không thể lấy lại được vào thời điểm Nhật Bản đầu hàng. Theo nghĩa này, Trung Quốc đã không đánh bại Nhật Bản. Sau Thế chiến II, Trung Quốc luôn cho rằng Nhật Bản "chưa xin lỗi". Các chính trị gia Nhật Bản đã nhiều lần đến thăm đền Yasukuni, chỗ mà Trung Quốc coi là nơi thờ phụng các tội phạm chiến tranh. Kể từ những năm 1990, tình cảm chống Nhật Bản ở Trung Quốc đã dần tăng lên. Trung Quốc coi Điếu Ngư Đài / Senkaku là lãnh thổ bị mất vào tay Nhật Bản trong Chiến tranh Trung-Nhật. Do đó, tranh chấp Điếu Ngư Đài / Senkaku có nguồn gốc lịch sử sâu xa và các yếu tố xã hội bên cạnh xung đột lợi ích.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nếu tranh chấp ở Hoàng Hải và biển Hoa Đông chỉ tồn tại giữa hai nước, thì tranh chấp lãnh thổ và chủ quyền biển ở biển Đông thực sự là vấn đề đa phương. Vì những lí do lịch sử và địa lí, quyền sở hữu các đảo ở biển Đông là rất mơ hồ. Hiện tại, có tới 6 quốc gia và 7 bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp và các quốc gia này đã trải qua những thay đổi phức tạp về chính phủ trong thế kỉ 19 và 20. Các quốc gia liên quan trong lịch sử và trên thực tế bao gồm Mĩ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Anh, Pháp và Tây Ban Nha, điều này càng làm vấn đề thêm phức tạp.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các tranh chấp ở biển Đông bao gồm xung đột lợi ích ở các cấp độ sau: </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ nhất</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là tranh chấp lãnh thổ. Năm quần đảo ở biển Đông - Pratas (Đông Sa), Hoàng Sa (Tây Sa), Trường Sa (Nam Sa), Macclesfield (Trung Sa) và Scarborough (Hoàng Nham) đều có tranh chấp lãnh thổ. Trung Quốc đại lục và Đài Loan có tranh chấp đối với toàn bộ các quần đảo, mặc dù điều này tất nhiên không được coi là tranh chấp quốc tế. Vì các đề xuất và căn cứ của đại lục và Đài Loan về cơ bản là giống nhau, trừ khi có quy ước khác, sau đây chúng sẽ được gọi chung là Trung Quốc. Các bên tranh chấp ở Hoàng Sa là Trung Quốc và Việt Nam; các bên tranh chấp ở đảo Scarborough là Trung Quốc và Philippine; các bên tranh chấp ở quần đảo Trường Sa phức tạp nhất, hiện nay gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Ngoài ra, trong tranh chấp lãnh thổ quần đảo biển Đông còn có thêm Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Hoa Kì, Hà Lan và Nhật Bản.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ hai</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là tranh chấp chủ quyền vùng biển. Quy chế pháp lí của lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế bắt nguồn từ lãnh thổ. Vì vậy, tất cả các bên có tranh chấp lãnh thổ đều là các bên tranh chấp chủ quyền vùng biển ở biển Đông. Ngoài ra, mặc dù Indonesia không có tranh chấp lãnh thổ đối với các đảo ở biển Đông, nhưng nước này cũng có tranh chấp với Trung Quốc và các nước khác về chủ quyền vùng biển ở biển Đông. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ ba</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là tranh chấp tài nguyên trên các đảo. Tài nguyên trên các đảo ở biển Đông chủ yếu là phốt phát, và trong nửa đầu thế kỉ 20 đó là lợi ích kinh tế chính của các quần đảo ở biển Đông. Nhật Bản là nhà khai thác chính nguồn phốt phát trên các đảo. Trong nửa sau của thế kỉ 20, tài nguyên phốt phát về cơ bản đã cạn kiệt sau khi bị khai thác rộng rãi, và giờ đây không còn là mục tiêu chính của các bên tranh chấp.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ tư</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là tranh chấp tài nguyên biển, chủ yếu là thủy sản. Hầu hết các đảo ở biển Đông là đảo san hô và trong vùng lân cận có nguồn lợi thủy sản phong phú. Các quốc gia ven biển có lịch sử đánh cá lâu đời tại các đảo ở biển Đông. Nguồn lợi thủy sản phụ thuộc vào vùng đặc quyền kinh tế. Tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông khiến ngư dân các nước chịu nhiều rủi ro khi hoạt động khai thác thủy sản ở khu vực này. Trong 30 năm qua nhiều vụ ngư dân lực lượng vũ trang các bên khác xua đuổi, bắt giữ và đã trở thành nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn đến tình trạng tình trạng tranh chấp ở biển Đông ngày càng xấu đi.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ năm</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là tranh chấp về tài nguyên đáy biển, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Sau khi phát hiện ra dầu dưới đáy biển ở biển Đông vào những năm 1960, dầu khí đã thay thế thủy sản trở thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất ở biển Đông. Theo “Công ước quốc tế về Luật biển”, tài nguyên đáy biển thuộc thềm lục địa của các quốc gia ven biển có thể được mở rộng ra tới 350 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải bên cạnh việc mở rộng ra 200 hải lí cho vùng đặc quyền kinh tế. Tài nguyên thủy sản và dầu mỏ có một điểm chung, đó là đều ở trong vùng biển và quyền sở hữu của chúng gắn liền với quyền sở hữu đất đai về mặt lí thuyết.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Thứ sáu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là vị trí chiến lược và tự do hàng hải. Kể từ thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, biển Đông đã là một tuyến đường thủy quốc tế quan trọng giữa Đông Á, Nam Á và phương Tây. Tuy nhiên, trước thế kỉ 19, các đảo ở biển Đông được coi là những khu vực nguy hiểm cho hàng hải, những khu vực cần phải tránh một cách có chủ ý. Trước thế kỉ 20, biển Đông là khu vực tự do hàng hải. Từ đầu thế kỉ 20, học thuyết cường quốc biển bắt đầu được mở rộng ở các nước phương Đông, Nhật Bản bắt đầu coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, điều này đã khơi mào cho hoạt động chiếm đất của Trung Quốc và Pháp ở biển Đông. Cũng trong thế kỉ 20, tranh chấp biển Đông chính thức bước ra vũ đài quốc tế. Trong nửa đầu thế kỉ 20, lợi ích lớn nhất của các tranh chấp biển Đông nằm ở vị trí chiến lược của nó. Cho đến ngày nay, tự do hàng hải ở biển Đông vẫn là tâm điểm được nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là những quốc gia không liên quan trực tiếp đến các tranh chấp lãnh thổ, vùng biển.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bên cạnh những xung đột lợi ích thực tế ở 6 cấp độ trên, giống như vấn đề biển Hoa Đông, yếu tố phi lí về tình cảm dân tộc chủ nghĩa cũng đóng vai trò quan trọng trong tranh chấp biển Đông. Điều này chủ yếu tập trung giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai quốc gia tranh chấp chính. Trong lịch sử, Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ lâu dài, sau khi giành được độc lập vẫn còn bị Trung Quốc xâm lược, cuối cùng phải chấp nhận thân phận một nước chư hầu. Sau khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam trỗi dậy vào cuối thế kỉ 19, lịch sử này đương nhiên bị coi là lịch sử nhục nhã. Sau thế chiến thứ hai, Việt Nam bị chia cắt, Trung Quốc (Bắc Kinh) “thắt lưng buộc bụng” hậu thuẫn cho phe CS Bắc Việt đánh VNCH và Mĩ. Nhưng sau khi thống nhất, Việt Nam gần như ngay lập tức xa rời Trung Quốc và quay sang Liên Xô vốn có mâu thuẫn với Trung Quốc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Còn Trung Quốc, sau khi bắt tay với Hoa Kì, đã phát động chiến tranh chống Việt Nam vào cuối những năm 1970. Trung Quốc coi Việt Nam là "vô ơn" và Việt Nam coi Trung Quốc là "nước lớn". Vết thương chiến tranh để lại vẫn chưa lành, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều là những quốc gia dưới chế độ độc đảng của đảng Cộng sản, chủ nghĩa dân tộc từ lâu đã được cố tình khuyến khích như một công cụ để đoàn kết nhân dân. Sau nhiều năm tuyên truyền, các đảo ở biển Đông đã thuộc về đất nước của họ "từ xa xưa". Lí thuyết đã ăn sâu vào tim óc của người dân. Hận cũ chồng lên hận mới, tinh thần dân tộc chủ nghĩa đôi khi vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền. Khi nói đến giải pháp cho vấn đề biển Đông, yếu tố bất hợp lí này phải được các nhà hoạch định chính sách xem xét một cách nghiêm túc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong diễn ngôn chính thức của Trung Quốc đại lục về vấn đề biển Đông, chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Đông dường như là một vấn đề rất rõ ràng. Trong chủ đề về biển Đông trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (</span><a href="http://www.mfa.gov.cn/mfa_chn/ziliao_611306/zt_611380/ywzt_611452/wzzt_611670/2305_611918/" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.mfa.gov.cn/mfa_chn/ziliao_611306/zt_611380/ywzt_611452/wzzt_611670/2305_611918/</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">) có liệt kê cách giải thích chính thức của Trung Quốc về pháp lí và lịch sử đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa). Bài báo được chia thành 5 phần, lần lượt giải thích nguồn gốc của vấn đề quần đảo Trường Sa, cơ sở lịch sử về chủ quyền của Trung Quốc, cơ sở pháp lí, lập trường cơ bản và sự công nhận của quốc tế. Bài báo này đã được đăng lại rộng rãi trên Internet và được trích dẫn rộng rãi trong nhiều dịp khác nhau, do đó tính đúng đắn của bài báo dường như không còn bị nghi ngờ. Giới chức Đài Loan, đặc biệt là chính phủ Quốc dân đảng, hầu như có lập trường và lập luận về chủ quyền các đảo ở biển Đông giống như Bắc Kinh. Tuy nhiên, nếu nhìn vào sách trắng chính thức của Việt Nam, không thể không cảm thấy rằng các yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng rất vững chắc; và nếu chỉ nhìn vào các cuộc thảo luận giữa các quan chức và giới học thuật Philippines, thì có vẻ yêu sách chủ quyền của Philippines đối với các đảo ở biển Đông cũng không phải là vô lí.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trên thực tế, điều này là hoàn toàn bình thường. Bởi vì về cơ bản, bất cứ điều gì miễn có tranh chấp, cả hai bên tranh chấp sẽ có một số sự thật. Để hiểu đầy đủ và chính xác về tranh chấp biển Đông, tất nhiên chúng ta nên lắng nghe tiếng nói của các bên. Hoàng đế Thái Tông nhà Đường hơn một nghìn năm trước cũng biết nguyên tắc "nghe đủ cả sẽ sáng tỏ, nghe một phần sẽ mù quáng" (kiêm thính tắc minh, thiên thính tắc ám), nhưng điều đó khó đạt được ở Trung Quốc ngày nay. Bởi vì hầu hết các chuyên gia và phương tiện truyền thông đều bị kiểm soát hoặc hạn chế bởi "lợi ích quốc gia", rất khó tiết lộ sự thật một cách có trách nhiệm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hơn nữa, để củng cố lập luận của mình, dù là chính phủ hay giới truyền thông và các chuyên gia Trung Quốc, khi giải thích về lịch sử và pháp lí của những tranh chấp này, họ luôn đưa ra một số lập luận rõ ràng là vi phạm và phóng đại lịch sử và thực tế. Và những lập luận này đã bắt rễ sâu xa đến mức chúng dường như được coi là điều hiển nhiên. Bằng cách này, ngoài việc cố tình hướng dẫn công chúng một cách đơn phương, nó sẽ không những không giúp công chúng hiểu được sự thật của tranh chấp biển Đông mà còn có hại hơn. Dưới đây là một vài ví dụ:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(1)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nam Sa từ xưa tới nay là lãnh thổ của Trung Quốc ? Chưa thể xác định đúng sai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khẳng định này giống như mọi khẳng định “từ xưa tới nay” là không thể xác định đúng sai, đó là một khẳng định không ai có thể phán đoán đúng hay sai. Bởi vì, không ai biết định nghĩa "từ xưa" của Trung Quốc là xưa bao nhiêu. Một trăm năm trước có thể là “từ xưa”, một ngàn năm trước cũng có thể là “từ xưa”, khoảng sai biệt này thật sự quá lớn. Tuy nhiên, trong ấn tượng của người Trung Quốc, từ xưa đến nay, đơn vị luôn là hàng ngàn năm. Do đó, cụm từ “từ xưa tới nay” thường khiến người đọc hiểu lầm rằng Trung Quốc đã kiểm soát Trường Sa từ rất lâu. Vậy "từ xưa tới nay" của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa là bao nhiêu năm?</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Như đã phân tích trong nội dung chính của cuốn sách này, mặc dù các chuyên gia Trung Quốc đã chỉ ra rằng Trung Quốc có thể đã biết về quần đảo Trường Sa từ thời nhà Hán, nhưng trên thực tế, Trung Quốc không có ghi chép nào về quần đảo Trường Sa trước thời nhà Tống. Mãi đến thời Nam Tống, trong văn tịch mới có ghi chép về quần đảo Trường Sa, nhưng chỉ là ghi lại theo lời sứ thần nước ngoài. Mãi cho đến cuối triều đại nhà Thanh thì mới có bằng chứng không thể phủ nhận rằng có các hoạt động của người Trung Quốc ở khu vực Trường Sa. Trung Quốc chỉ bắt đầu có ý định chủ quyền đối với Trường Sa từ năm 1933. Trung Quốc chính thức tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa vào năm 1946. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và đóng quân tại Trường Sa. Ngoài ra, cụm từ "từ xưa đến nay" xuất hiện cùng với cụm từ "qua nhiều thế hệ", thường được dùng để mô tả các hoạt động của ngư dân, ví dụ: "Ngư dân Quỳnh Hải đã đánh bắt cá ở quần đảo Nam Sa qua nhiều thế hệ." Trên thực tế, cái nghe có vẻ xa xưa "nhiều thế hệ" này thật ra xưa nhất chỉ là vào cuối thời nhà Thanh.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(2) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tranh chấp chỉ nảy sinh sau khi phát hiện ra dầu mỏ ở quần đảo Nam Sa vào những năm 1960? Sai.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Khẳng định này ngụ ý rằng các quốc gia khác đã gây ra tranh chấp vì họ muốn giành dầu mỏ ở biển Đông vốn phù hợp với định kiến của người dân Trung Quốc “thấy lợi quên đi lẽ phải”. Tuy nhiên, khẳng định này là hoàn toàn sai. Sau khi Pháp chiếm Trường Sa năm 1930, ở Trường Sa nảy sinh tranh chấp (nhưng lúc đó là tranh chấp giữa Pháp, Anh và Nhật). Sau Thế chiến II và trước năm 1960, Pháp, Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) và Philippines, cũng như Anh và Hà Lan đều đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(3)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Đường 9 đoạn không bị phản đối trong hơn 30 năm sau khi được ban hành?</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có vẻ là vậy nhưng thật ra không đúng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đúng là không có chính phủ nào phản đối cụ thể đường 9 đoạn trong suốt 30 năm đó, nhưng cũng không có chính phủ liên quan nào công nhận nó. Thái độ của chính phủ các nước là “nhắm mắt làm ngơ” trước đường 9 đoạn. Lí do chính là đường 9 đoạn về cơ bản là sản phẩm "ba không": không định nghĩa, không tọa độ và không có tư cách pháp lí. Chính phủ Trung Quốc (cả Bắc Kinh lẫn Đài Loan) chưa bao giờ chính thức tuyên bố công khai đường 9 đoạn là gì, ngay cả tọa độ cũng không.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bỏ vấn đề “ba không” sang một bên, kết luận rằng Trung Quốc tuyên bố rằng tất cả các nước đã đồng ý với đường 9 đoạn là hoàn toàn không thể chứng minh được. Bởi trên thực tế, chưa từng có quốc gia nào công nhận các quyền và lợi ích mà Trung Quốc tuyên bố bên trong đường 9 đoạn, kể cả các quyền và lợi ích lãnh thổ quan trọng nhất. Sau chiến tranh, Hoa Kì tiếp tục tiến hành các hoạt động quân sự bên trong đường 9 đoạn, hầu như không bị sự can thiệp của Trung Quốc (trừ những khu vực rất gần lục địa Trung Quốc và lãnh hải đảo Hải Nam). Pháp, Việt Nam và Philippines đều tranh chấp lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa. Pháp và Việt Nam đóng quân ở Hoàng Sa cho đến năm 1974. Cả Việt Nam và Philippines vẫn có quân đội đóng tại quần đảo Trường Sa và đã thành lập các đặc khu hành chính của riêng mình trên quần đảo Trường Sa. Nếu không coi đây là sự phủ nhận đường 9 đoạn, thì đó chắc chắn là sự tự lừa dối.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(4) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Việt Nam luôn công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa từ trước những năm 1970? Có vẻ là vậy nhưng thật ra không đúng.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bắc Việt đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) cho đến năm 1974 (mặc dù có lẽ bị động). Tuy nhiên, với tư cách là một phần không thể tách rời của Việt Nam hiện đại, quốc gia có chủ quyền lúc bấy giờ là Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt) luôn khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa và cũng đóng quân trên hai quần đảo này. Sự chia cắt của Bắc Việt và Nam Việt là kết quả của các điều khoản trong điều ước quốc tế “Hiệp định Geneva”, trong đó Nam Việt là chủ nhân thực sự của quần đảo Trường Sa cả trên danh nghĩa lẫn trên thực tế. Trước khi Việt Nam thống nhất, Bắc Việt không liên quan gì đến Hoàng Sa và Trường Sa cả về pháp lí lẫn thực tế. Mặc dù Trung Quốc không công nhận Nam Việt, nhưng việc phớt lờ sự tồn tại khách quan của chính quyền Nam Việt và đánh đồng trực tiếp chính quyền Bắc Việt với chính quyền Việt Nam là ngụy tạo sự thật.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nam Việt sau khi thất bại, không phải bị Bắc Việt trực tiếp thôn tính mà trước hết thành lập một quốc gia ở phía nam, sau đó hai quốc gia hợp nhất. Một nước Việt Nam mới như vậy không thể đánh đồng với Bắc Việt, mà về mặt pháp lí là một quốc gia sau sự hợp nhất của Nam Việt và Bắc Việt, kế thừa các lãnh thổ của Nam Việt và Bắc Việt. Vì vậy, những tuyên bố trước đây của Bắc Việt không thể đơn giản đánh đồng với thái độ của nước Việt Nam Mới. Những người cộng sản Bắc Việt có hành động bội tín khi ban đầu công nhận rằng quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, và sau đó lại phủ nhận điều đó sau khi nước Việt Nam Mới thành lập. Nhưng từ quan điểm pháp lí, nhiều nhất đó là sự bội tín của đảng, và không thể đánh đồng với việc bội tín của quốc gia, bởi vì họ đại diện cho quốc gia khác.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(5) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hàng loạt tuyên bố và hiệp ước trong và sau thế chiến II trao trả Nam Sa cho Trung Quốc? Sai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nói vắn tắt, trong “Tuyên bố Cairo” có đề cập cụ thể đến việc trao trả Đông Bắc Trung Quốc, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ cho Trung Quốc, nhưng không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Trong “Hòa ước San Francisco” và “Hòa ước Trung-Nhật” đều có tuyên bố Nhật Bản sẽ từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng không có tuyên bố nào trao trả Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Xét từ các điều khoản, mục đích pháp lí ban đầu, bối cảnh lịch sử và quá trình ngoại giao vào thời điểm đó, chỉ có một lí do tại sao nó được viết dưới dạng như vậy, đó là tất cả các bên không có sự đồng thuận về quyền sở hữu của Hoàng Sa và Trường Sa, vì vậy vấn đề này đã được tạm dừng tạo thành một tình trạng pháp lí "chưa quyết định" để các bên giải quyết sau này. Điều chắc chắn duy nhất là Nhật Bản đã từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bắc Kinh không công nhận Hiệp ước Hòa bình San Francisco và Hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật, tuy nhiên trong Tuyên bố chung Trung-Nhật và Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Trung-Nhật ký giữa Bắc Kinh và Nhật Bản vào những năm 1970 cũng không có đề cập Tây Sa và Nam Sa. Vì vậy, đối với chính quyền Bắc Kinh, bằng chứng chỉ là Tuyên bố Cairo yếu ớt. Có rất nhiều kết luận tương tự, và danh sách ở đây chỉ là một phần trong số đó, một cuộc thảo luận chi tiết cần có cả một cuốn sách hoặc thậm chí nhiều cuốn sách để thảo luận. Nếu chỉ đọc chuyện của một phía Trung Quốc, có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng các nước láng giềng của họ là bọn tham lam vô độ (có lẽ cũng có ấn tượng tương tự nếu chỉ đọc chuyện của một phía Việt Nam). Tuy nhiên, chỉ qua phân tích đơn giản, không khó để thấy rằng vấn đề biển Đông không đơn giản như những tuyên bố chính thức. Nếu không có sự mô tả và phân tích khách quan, chi tiết thì không thể hiểu rõ vì sao biển Đông lại trở thành tâm điểm của các tranh chấp lãnh thổ quốc tế. Vài ví dụ nêu trên đã cho thấy rõ: Nếu chỉ nghe ý kiến một chiều thì kết luận rút ra sẽ khác xa với sự thật của sự việc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có thể thấy, trong vấn đề biển Đông, sở dĩ các bên đều có lập trường riêng của mình thật ra không thiếu nguyên nhân đằng sau. Nghe tất cả thì sáng, nghe một bên thì tối. Để tìm ra sự thật của vấn đề biển Đông, trước hết chúng ta phải thừa nhận rằng vấn đề biển Đông là một vấn đề phức tạp và mơ hồ, còn lâu mới đơn giản và rõ ràng như trắng với đen, chỉ bằng cách gạt bỏ những định kiến riêng, mới có thể thu thập và nghiên cứu các tài liệu các bên khác nhau một cách khách quan và phân tích chứng lí các mặt một cách chi tiết. Bằng cách này, dưới kính lúp, trước tiên có thể loại trừ những lí do phóng đại, không rõ ràng và gây hiểu lầm. Ví dụ, nếu bạn đọc kĩ bài viết của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bạn sẽ dễ dàng nhận thấy rằng trong đó có rất nhiều lỗi, đầy những khẳng định mang tính phỏng đoán và khái quát, cũng như những trích dẫn tài liệu có tính lọc lựa và có chủ đích. Nếu bài viết đó được coi là một tài liệu tuyên truyền, như mục đích ban đầu của nó, thì đó thực sự là một bài viết hay. Nhưng để mọi người hiểu trọn vẹn, đầy đủ và đúng đắn về lịch sử và thực chất của tranh chấp biển Đông thì nó hoàn toàn không đạt yêu cầu.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Có nhiều công trình lịch sử và pháp lí quốc tế về sự quy thuộc của các đảo ở biển Đông. Việc tham khảo các tác phẩm này tất nhiên là vô cùng quan trọng. Nhưng hầu hết các sách chuyên khảo về cơ bản đều có một lập trường định sẵn. Tất nhiên, điều này không ngăn cản chúng được sử dụng làm điểm khởi đầu cho nghiên cứu, vì chúng ít nhất cũng phản ánh ý kiến của một phía.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Là cuốn sách đầu tiên trong loạt thảo luận về vấn đề biển Đông của tác giả, cuốn sách này tập trung thảo luận về lịch sử cổ đại của biển Đông, tức là lịch sử của biển Đông trước năm 1900. Trong nghiên cứu về lịch sử và luật pháp quốc tế biển Đông, nghiên cứu về lịch sử cổ đại của biển Đông vẫn còn là một mắt xích tương đối yếu. Lí do chính là giới học thuật phương Tây tương đối trung lập không quen thuộc với các tài liệu chủ yếu viết bằng chữ Hán (kể cả tư liệu lịch sử Trung Quốc và Việt Nam), nên họ chỉ có thể trích dẫn một số lượng lớn các nghiên cứu của các học giả Trung Quốc hoặc Việt Nam, trong khi các học giả Trung Quốc và Việt Nam, như đã đề cập ở trên, do bị lập trường chính trị chi phối thường rất khó mô tả lịch sử của biển Đông một cách khách quan và toàn diện. Đặc biệt, các chuyên khảo về cổ sử Trung Quốc, phần lớn được viết trong thời kì tranh luận với Việt Nam vào cuối những năm 1970, không tránh khỏi mang đậm dấu ấn của thời đại và cũng có những sai sót đáng kể về logic.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nói chung, sau khi tham khảo các công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này, nhiều bài báo và chuyên khảo của Trung Quốc và nước ngoài, cũng như sách trắng của chính phủ các nước, hội nghị bàn tròn học thuật và hội thảo do chính phủ tổ chức, v.v., cuốn sách này bổ sung rất nhiều phân tích ban đầu, phác thảo lịch sử cổ đại của biển Đông từ góc độ lịch sử và học thuật, cũng như so sánh và phân tích quan điểm và bằng chứng của các bên khác nhau về biển Đông, nhằm thảo luận và hiểu một cách khách quan về vấn đề biển Đông từ một quan điểm trung lập.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="display: inline-block; position: relative; width: 100px;"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">-----------------------------------------------------------------</span></p><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 20pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Chương I</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 20pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Địa lí cơ bản của biển Đông và các nước láng giềng</span></h1><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Biển Đông có diện tích 3,5 triệu km² và giáp với Vịnh Xiêm La theo đường nối Cà Mau ở miền nam Việt Nam với Kota Bharu ở Malaysia. Được bao bọc bởi các lục địa, bán đảo và quần đảo nên có thể gọi là “Địa Trung Hải” của Đông Á. Phía đông bắc là Đài Loan, phía bắc là Trung Quốc đại lục, phía tây là Việt Nam, phía tây nam là Malaysia (Malaya), Singapore và Indonesia, phía nam là Malaysia (Sabah, Sarawak và Brunei), và phía đông là Philippines. Các nước ven biển Đông gồm có Trung Quốc (bao gồm cả chính quyền Bắc Kinh lẫn Đài Bắc. Để thuận tiện cho việc viết lách, chính quyền Bắc Kinh của Trung Quốc sau năm 1949 được gọi là Trung Quốc hoặc đại lục hoặc Bắc Kinh, và chính quyền Đài Bắc được gọi là Đài Loan, nhằm không gây nhầm lẫn), Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines, tổng cộng 7 quốc gia và 8 bên. Theo quốc tế, vùng biển này được gọi là biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Trung Quốc gọi nó là Nam Hải, Việt Nam gọi là biển Đông, còn Philippines gọi là biển Tây Philippines. Để tiện theo dõi, sách này gọi theo cách gọi Nam Hải của Trung Quốc (được dịch thành biển Đông, trừ những chỗ thấy cần giữ nguyên -ND). Theo nghĩa rộng, biển Đông bao gồm Vịnh Xiêm La, nhưng do các vùng lãnh thổ và vùng biển tranh chấp ở biển Đông đều tập trung ở phía đông của đường nối liền Cà Mau của Việt Nam và quần đảo Natuna của Indonesia, trong cuốn sách này, trừ khi có chú thích khác, biển Đông được đề cập đến là vùng biển phía đông của đường này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Được bao quanh với các hòn đảo, nó có thể được gọi là "Địa Trung Hải" của Đông Á. Phía đông bắc giáp Đài Loan, bắc giáp Trung Quốc đại lục, tây giáp Việt Nam, tây nam giáp Mã Lai (Malaya), Singapore và Indonesia, nam giáp Mã Lai, vùng biển tây nam có nhiều đảo. Cái mà chúng ta thường gọi là các đảo ở biển Đông (Nam Hải chư đảo) đề cập đến một loạt các đảo san hô và rạn san hô phân bố ở Biển Đông cách xa đất liền. Về mặt địa lí, các đảo ở biển Đông thường được chia thành 5 quần đảo trên phạm vi quốc tế: quần đảo Pratas (Đông Sa), bãi ngầm Macclesfield (Trung Sa), bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham hoặc đá Dân Chủ), quần đảo Paracel (Hoàng Sa, Tây Sa) và quần đảo Spratly (Trường Sa, Nam Sa). Bãi Scarborough được Trung Quốc ghép vào bãi Macclesfield và gọi chung là quần đảo Trung Sa. Theo danh mục tiêu chuẩn của Trung Quốc, có hơn 280 đảo / đá ở quần đảo Trường Sa.[1]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Ở đây, tác giả không có ý định mô tả chi tiết về địa lí của toàn bộ các đảo ở biển Đông, mà chỉ giới thiệu sơ qua một cách tổng thể, và chọn ra một số đảo và đá dễ gây “xúc cảm lịch sử” nhất để giới thiệu để người đọc có thể có ấn tượng tổng thể về địa lí biển Đông và hiểu biết sơ bộ (Hình 1).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span id="docs-internal-guid-84820ecb-7fff-a575-8e4b-5eb46fe50184"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 714px; overflow: hidden; width: 517px;"><img height="747.7827932172934" src="https://lh5.googleusercontent.com/j1kEt-o2uJO16dBwyrR5Z_OYqdbaekomfZUFASVBgIGGlbdhwmdLglHOD-QasJevb8PuzTm8zZs-XQl72yWwJwHskayh4PuazDkfuirja6mu4sZ547UPrHDuE2qd5KAZPicf-HhBe9Ca8YpN1ifblLk" style="margin-left: 0px; margin-top: -16.891396608646712px;" width="517" /></span></span></span></div><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /><br /></span><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hình 1: Bản đồ biển Đông</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.1 Sự hình thành biển Đông và các đảo trên biển Đông</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Biển Đông hiện nay bắt đầu hình thành vào đầu Đại Trung sinh (Mesozoic -khoảng 250 triệu năm trước). Trong đại Tân sinh (Cenozoic), do một loạt chuyển động kiến tạo được hình thành bởi tác động của mảng Ấn Độ trên lục địa Á-Âu, Biển Đông bắt đầu mở rộng đáy biển khoảng 45 triệu năm trước, đẩy quần đảo Indonesia ra xa đất liền, và biển Đông ngày càng rộng lớn. Trong quá trình giãn nở, đáy biển cũng sinh ra các nếp uốn do ứng suất, từ đó hình thành một số rặng núi ngầm ở đáy biển Đông. Những sống núi này có thể được hiểu là những ngọn núi dưới đáy biển, gần mặt biển hơn nhiều so với đáy biển. Nếp gấp quan trọng nhất là ở “khu vực nguy hiểm” quần đảo Trường Sa. Các đảo ở biển Đông được hình thành từ san hô sinh sống lâu dài trên các nếp gấp này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các đảo san hô có thể hình thành hay không phụ thuộc vào ba yếu tố: tốc độ phát triển của san hô, tốc độ chìm của vỏ trái đất và tốc độ tăng/giảm của mực nước biển. Sau kỉ băng hà Pleistocen, trái đất nóng lên dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của san hô, nhưng đồng thời các sông băng tan chảy khiến mực nước biển dâng cao. Các đảo san hô trong thời kì Toàn Tân (Holocene) phát triển dưới sự cạnh tranh của hai yếu tố đối lập này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về mặt địa chất, các đảo có thể được chia thành đảo lục địa và đảo đại dương, và sau này được chia thành đảo núi lửa và đảo san hô. Hầu như tất cả các đảo ở biển Đông đều là đảo san hô, được cấu tạo từ các thể đá vôi (sứ) do chất tiết của polyp san hô hình thành, theo hình dạng khác nhau có thể chia thành hai loại: đảo san hô vòng và đá ngầm khối, trong đó đảo san hô vòng là dạng địa hình quan trọng nhất của các đảo ở biển Đông.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Do đặc điểm phát triển của polyp san hô và đặc điểm địa chất, hình thể rạn san hô tạo thành địa hình có xung quanh cao và phần giữa thấp, tạo thành đảo san hô vòng. Các đảo san hô ở biển Đông có thể được chia thành 5 loại sau tùy theo mức độ phát triển của chúng:[2]</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng chìm</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Loại đảo san hô này hoàn toàn chìm dưới nước, không nổi lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống, ít ảnh hưởng đến hoạt động đi lại của tàu bè. Đảo san hô vòng Macclesfield (Trung Sa) nơi có quần đảo Trung Sa là một đảo san hô chìm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">2. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng mở và rạn san hô vòng nửa mở</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Các rạn san hô này có phần có thể thực sự nổi lên khỏi mặt nước. Khoảng cách giữa hai phần nổi kế tiếp được gọi là "cửa". Khi rạn san hô có tổng chiều dài của toàn bộ các cửa lớn hơn một nửa tổng chiều dài rạn thì gọi là rạn san hô mở, và từ một phần ba nhưng chưa đến một nửa được gọi là rạn san hô nửa mở. Bãi Scarborough là một đại diện của rạn san hô nửa mở.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">3. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng điển hình</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Loại rạn san hô này là rạn san hô điển hình nhất về sự phát triển của bãi cát và đảo cát trên rạn và cấu trúc rạn san hô có cửa. Cụm đảo đá Lưỡi Liềm (Vĩnh Lạc) ở phía tây quần đảo Hoàng Sa là một rạn san hô vòng điển hình.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">4.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Rạn san hô không hoàn chỉnh</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Loại rạn san hô này bị các lực lượng bên ngoài như chuyển động của vỏ trái đất làm hư hại khiến địa hình không điển hình, chẳng hạn như thiếu một số phần rạn san hô, v.v., có thể được phân loại là rạn san hô không hoàn chỉnh. Cụm đảo đá An Vĩnh (Tuyên Đức) ở phía đông quần đảo Hoàng Sa là đảo san hô vòng chưa hoàn chỉnh.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">5. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng khép kín</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Đây là loại rạn san hô hoàn toàn lộ trên mặt nước và không có cấu trúc cửa. Khi thủy triều xuống, phá tạo thành một hồ bên trong và là một rạn san hô phát triển đầy đủ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngoài ra, các rạn san hô vòng đôi khi nối liền với nhau tạo thành địa hình vành đai (Faros). Một số chuỗi rạn san hô bao gồm chỉ hai rạn san hô và một số chuỗi rạn san hô bao gồm nhiều rạn san hô liên tục.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn dạng khối</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> còn gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">rạn thềm</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">, loại rạn này có dạng hình khối, không có chỗ trũng hay đầm ở giữa, bề mặt bằng phẳng. Nó có thể được tiến hóa từ các rạn san hô kín đã phát triển đầy đủ, chủ yếu thấy ở các rạn san hô nổi lên khỏi mặt nước, chẳng hạn như đảo Tri Tôn (Trung Kiến) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Nó cũng có thể có trạng thái ngầm dưới nước khi các rạn san hô bắt đầu hình thành, thường dưới dạng một “bãi” (bank) chìm sâu dưới mặt nước.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ngoài ra, trong số các đảo ở biển Đông có rất ít đảo núi lửa, như đá Cao Tiêm [hòn Tháp / Pyramid Rock] (thực chất là đá) ở quần đảo Hoàng Sa, không có địa chất tạo thành san hô.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Nếu rạn san hô lộ trên mặt nước thì nó có thể tiếp tục phát triển thành cồn cát hoặc đảo cát trên đó. Cát trên bãi cát đầu tiên do gió và sóng mang đến nên ban đầu tích tụ bên ngoài rạn san hô tạo thành bờ cát, sau đó dưới tác động của gió, cát tích tụ vào trung tâm rạn san hô. Kết quả là một cấu trúc đĩa với xung quanh cao và ở giữa thấp được hình thành. Các bãi cát tiếp tục phát triển để tạo ra đảo.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Dưới bãi cát, những gì chìm trong nước là nền ngầm của rạn san hô. Nền của rạn san hô thường có kích thước lớn ít nhất gấp ba lần bãi cát bên trên. Vì vậy, toàn bộ cấu trúc giống như chiếc đĩa đặt trên bàn. Cấu trúc của rạn san hô phức tạp hơn cấu trúc của bãi cát nên sẽ không bàn ở đây.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bắt đầu từ đời nhà Đường ở Trung Quốc đã có những hiểu biết sơ bộ về các bãi cát trên rạn san hô và nền đá ngầm của rạn san hô. Theo Tăng Chiêu, một nhà địa lí học về biển Đông, ban đầu Trường Sa dùng để chỉ bãi cát, còn Thạch Đường chỉ bãi đá ngầm, vì vậy, việc nhắc đến Trường Sa và Thạch Đường trong nhiều tài liệu không phải để chỉ hai địa danh mà là để chỉ hai loại địa hình trong cùng một khu vực.[3]</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.2 Đặt tên các đảo ở Biển Đông</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về mặt quốc tế, các đảo và rạn san hô này được gọi chung là "các thể địa lí" (features). Theo chiều cao của các rạn san hô so với mặt biển, chúng thường có thể được chia thành các loại sau: </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(island, 島: đảo) dùng để chỉ một cấu trúc có diện tích tương đối lớn, địa hình cao, hình dạng ổn định và đủ để cây cối phát triển. Chúng thường được hình thành cách đây ít nhất 3000 năm. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi cát</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (sand hoặc cay, 沙洲: sa châu) thường dùng để chỉ vùng đất lộ ra trên biển, nhưng địa hình thấp và không ổn định, chỉ có cỏ mới có thể mọc được. Mặc dù nó có thể nổi lên khỏi mặt nước khi triều lên bình thường, nhưng nó vẫn có khả năng bị nhấn chìm khi có gió lớn hoặc triều dâng cao.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn đá</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (reef, 礁: tiều) chỉ rạn san hô ngầm nằm gần mặt biển, nói chung trong phạm vi 7 mét tính từ mặt biển, nó gây ra mối đe dọa lớn đối với giao thông thủy. Chúng có thể nổi lên khi thủy triều xuống, nhưng bị chìm khuất khi triều lên.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi cạn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(shoal và shoul, 暗沙: ám sa) là chỉ vùng nước nông trên biển, nếu quan sát từ xa người đi biển sẽ thấy vùng này có những đợt sóng cứ ào ạt dâng lên, biết đây là vùng nước nông nguy hiểm. Loại rạn san hô này thường sâu hơn 7 mét so với mặt biển, gây ra mối đe dọa nhất định đối với hàng hải và sẽ không nổi lên khỏi mặt nước khi triều xuống.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi ngầm</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (bank, 灘: than) là một rạn san hô ẩn ở độ sâu từ 20 mét đến 30 mét dưới mặt nước, thường có hình dạng như một cái bục. Ngoài ra còn có một số biến thể bằng tiếng Anh. Ví dụ, có những cấu trúc với các tên khác nhau như đảo nhỏ (islet), đá (rock), rạn san hô vòng (atoll) và mỏm đá ngầm (breaker). Những tên gọi khác nhau và hơi khó hiểu này có liên quan đến những tiêu chuẩn do người đầu tiên đặt tên áp dụng, khó có thể khắt khe trong lịch sử lâu đời. Cách đặt tên chính thức của Trung Quốc ban đầu là dịch tên nước ngoài (đặc biệt là tiếng Anh), nhưng khi dịch thì tiêu chuẩn không thống nhất, sau này có yếu tố chính trị pháp luật can thiệp nên không tránh khỏi sai sót. Ví dụ, đảo Hoàng Nham (Scarborough Shoal) hoàn toàn không đủ tiêu chuẩn để được gọi là đảo. Mục đích đổi tên của Trung Quốc có lẽ là để giúp nước này có được các quyền lợi biển dành cho “đảo” trong Công ước Quốc tế về Luật Biển.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong dòng sông dài của lịch sử, đã có người đặt tên cho các đảo ở biển Đông. Lâu nay Trung Quốc không đặt tên chính thức cho các đảo cụ thể thuộc các quần đảo ở biển Đông, thậm chí tên gọi của từng quần đảo cũng có nhiều thay đổi. Ngư dân Trung Quốc bắt đầu hoạt động ở Hoàng Sa và Trường Sa vào thời nhà Minh và nhà Thanh. Họ đặt tên dân gian cho một số đảo, nhưng những tên này chưa bao giờ được chính thức công nhận. Bắt đầu từ thế kỉ 16, phương Tây cũng bắt đầu đặt tên cho các đảo ở biển Đông, ban đầu là đặt tên cho các quần đảo lớn, sau là đặt tên cụ thể cho các đảo và bãi đá ngầm (sau thế kỉ 18). Trong lịch sử, đã có tên tiếng Bồ Đào Nha, tên tiếng Tây Ban Nha, tên tiếng Pháp và tên tiếng Anh, chỉ kể một số. Những người ở các nước khác nhau có tên riêng của họ, và một số tên này đã được sử dụng sau đó và một số đã được thay thế bằng tên mới do nhóm nhà thám hiểm tiếp theo đặt. Có nhiều nguồn để đặt tên cho chúng, một số được đặt tên theo tên của con tàu, một số được đặt theo tên của thuyền trưởng hoặc thủy thủ, một số được đặt tên theo đặc điểm của cấu trúc, và một số được đặt tên theo tên do những ngư dân đánh cá hoạt động gần đó gọi chúng (một số trong số đó được đặt tên theo cách gọi của ngư dân Trung Quốc ở Hải Nam) .</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trung Quốc chỉ bắt đầu chính thức đặt tên cho các đảo cụ thể của các đảo ở biển Đông vào những năm 1930. Lúc đầu, hầu như tất cả đều tên dịch hay phiên âm từ các tên phương Tây. Năm 1947, Trung Quốc tiến hành đặt tên lần thứ hai, lần này chủ yếu đặt theo tên người hoặc tên tàu Trung Quốc, phần lớn thoát khỏi ảnh hưởng của phiên âm nước ngoài (nhưng cũng có các trường hợp tiếp tục sử dụng). Đến năm 1983, Bắc Kinh thực hiện lần đặt tên thứ ba, đến nay đã trở thành cách đặt tên tiêu chuẩn ở Trung Quốc.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về vấn đề đặt tên, giữ theo truyền thống là một việc làm phù hợp. Nếu như giữ theo truyền thống thì việc nghiên cứu lịch sử biển Đông sẽ dễ dàng hơn nhiều, ít nhất sẽ không có cuộc tranh luận bất tận về nơi này ngày xưa nằm ở đâu. Trong quá trình nghiên cứu lịch sử biển Đông, tác giả đã hiểu sâu sắc về điều này, bởi nhiệm vụ lớn nhất của cuốn sách này là làm rõ một địa danh nào đó ngày xưa ở đâu.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.3 Quần đảo Pratas (Đông Sa)</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong 5 quần đảo ở biển Đông, Đông Sa là quần đảo duy nhất không có tranh chấp quốc tế. Quần đảo Đông Sa nằm ở phía đông bắc của biển Đông, cách Hong Kong khoảng 280 km về phía tây nam.[4]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Nó bao gồm 3 đảo san hô, nhưng trên thực tế chỉ có rạn san hô Pratas mới có thể nổi lên khỏi mặt nước, và hai bãi cạn là South Vereker (Nam Vệ) và North Vereker (Băc Vệ) ở tây bắc của rạn san hô vòng này bị chìm dưới nước. Rạn san hô vòng của quần đảo Đông Sa và Bành Hồ có diện tích 100 km², nhưng chỉ có góc phía tây của nó có thể nổi lên khỏi mặt nước khi triều lên, đó là đảo Đông Sa (đảo Pratas), với diện tích 1,7 km². Do đó, cái gọi là quần đảo Đông Sa thực chất chỉ là đảo Đông Sa và quần đảo Đông Sa hiện do Đài Loan chiếm đóng và quản lí, và về hành chính thuộc xã Trung Hưng, quận Kì Tân, thành phố Cao Hùng. Chính quyền Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền đối với Đông Sa, trên danh nghĩa thuộc trấn Kiệt Thạch, thành phố Lục Phong, quận Sán Vĩ, tỉnh Quảng Đông. Đảo Đông Sa chỉ có quân lính trú đóng không có dân thường sinh sống. Nó hiện là một công viên quốc gia của Đài Loan, là một khu bảo tồn, không mở cửa cho công chúng.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.4 Bãi ngầm Macclesfield (Quần đảo Trung Sa)</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Theo quy hoạch hành chính hiện tại của chính quyền Bắc Kinh, Trung Sa (bao gồm cả đảo Hoàng Nham [Scarborough Shoal]), Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) đều thuộc quyền quản lí của thành phố Tam Sa, được thành lập vào năm 2012 và chính quyền thành phố nằm trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) ở Hoàng Sa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về mặt quốc tế, không có quần đảo Trung Sa mà tương ứng có một rạn san hô lớn hình bầu dục phân bố từ đông bắc xuống tây nam ở phía đông nam của quần đảo Hoàng Sa, đó là rạn san hô vòng Macclesfield. Rạn san hô này có diện tích rộng lớn, nơi dài nhất lên tới 130 km, nơi rộng nhất tới 70 km, có diện tích hơn 6 000 km² và là một trong những rạn san hô lớn nhất thế giới. Mặc dù có kích thước lớn nhưng nó không hề nhô lên khỏi mặt nước ngay cả khi triều xuống. Phần nông nhất là bãi cạn Walker, lúc triều xuống thấp nhất vẫn cách mặt biển hơn 9 mét. Phần sâu nhất trong đầm phá của rạn san hô lên tới 100 mét. Vì vậy, trên thực tế, những "đảo" này không phải là đất liền, cũng không xứng đáng với danh hiệu "đảo". Gọi những rạn san hô ngầm này là một quần đảo thì khá nhầm lẫn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tuy nhiên, theo Trung Quốc, quần đảo Trung Sa không chỉ giới hạn ở rạn san hô vòng Macclesfield, mà bao gồm một số rạn san hô xa xôi ở phía đông, bắc và nam của nó. Chúng không liên quan gì đến rạn san hô Macclesfield về mặt địa lí và cũng không liên quan gì với nhau. Một vài bãi ngầm ở phía nam là không đáng kể. Các bãi ngầm chính ở phía bắc là Helen Shoal và St. Esprit Shoal, chỉ cách vùng biển Hong Kong vài km. Một số đảo đá ở phía đông từ nam đến bắc, chủ yếu là bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham), bãi ngầm Hiến pháp (còn được gọi là Truro Shoal, Bắc Kinh gọi là bãi cạn Đặc Lỗ,) và bãi cạn Stewart. Bãi cạn Quản Sự hay còn gọi là bãi Quản Sự, từng là bãi đá ngầm mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, nhưng do vị trí thực tế của nó nằm ngoài đường 9 đoạn của Trung Quốc nên chính quyền Bắc Kinh không còn coi bãi Quản Sự là lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Nguyên nhân và lí do chính xác tại sao các đảo và rạn san hô cách xa rạn san hô Macclesfield này được chính phủ Trung Quốc đưa vào quần đảo Trung Sa vẫn chưa rõ ràng, nhưng có lẽ nó liên quan đến mong muốn củng cố yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đối với bãi Scarborough. Hiện nay, Trung Quốc và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trung Sa, nhưng không bên nào thực sự kiểm soát lãnh thổ này (vì đều nằm dưới mặt nước). Quần đảo Trung Sa ban đầu được đặt tên là quần đảo Nam Sa vào năm 1935, nhưng đã được đổi thành tên hiện tại sau thế chiến thứ hai.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.5 Đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough)</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough) thực ra là một rạn san hô vòng do nhiều rạn san hô hợp thành. Tổng diện tích của rạn san hô vòng và đầm phá lên tới 150 km², nhưng chỉ có một phần nhỏ của nó lộ ra trên mặt nước khi triều lên. Trung Quốc coi bãi cạn Scarborough là một phần của quần đảo Trung Sa. Nhưng trên thực tế, bãi cạn Scarborough cách rạn san hô vòng Macclesfield (Trung Sa) khá xa, khoảng cách tính theo đường thẳng là 375 km, thậm chí còn xa hơn khoảng cách từ rạn san hô vòng Macclesfield đến quần đảo Hoàng Sa. Bãi Scarborough gần đảo Luzon của Philippines hơn, chỉ cách 220 km. Về mặt địa lí, không có mối quan hệ nào giữa bãi Scarborough và rạn san hô Macclesfield. Xét rằng Scarborough là một bãi cạn có thể nổi lên khỏi mặt nước, trong khi rạn san hô Macclesfield và các bãi ngầm khác bao gồm trong quần đảo Trung Sa chỉ là những rạn san hô luôn nằm chìm dưới mặt nước, thì việc quy bãi Scarborough thuộc quần đảo Trung Sa là hết sức khiên cưỡng. Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới coi bãi cạn Scarborough là một phần của quần đảo Trung Sa, điều này có lẽ nhằm củng cố lập luận rằng bãi cạn Scarborough thuộc về Trung Quốc: Scarborough rất xa Trung Quốc, nhưng gần Philippines hơn, trong khi quần đảo Trung Sa thì ngược lại. Nếu coi bãi cạn Scarborough là một quần đảo độc lập thì sẽ rất bất lợi cho Trung Quốc trong việc tranh giành chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough .</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi cạn Scarborough được Trung Quốc, Đài Loan và Philippines tuyên bố chủ quyền. Về mặt hành chinh nó thuộc thành phố Tam Sa của Trung Quốc, thành phố Cao Hùng của Đài Loan và Masinloc thuộc tỉnh Zambales của Philippines. Trước năm 2012, bãi cạn Scarborough do Hải quân Philippines kiểm soát trên thực tế (Hải quân Philippines tuần tra vùng biển lân cận). Tháng 4/2012, Trung Quốc và Philippines đối đầu nhau về bãi Scarborough, châm ngòi cho một đợt xung đột mới ở biển Đông. Có vẻ như Trung Quốc đã kiểm soát thành công bãi cạn Scarborough, nhưng Philippines không từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với bãi cạn này.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.6 Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa, Paracel Islands)</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quần đảo Hoàng Sa lớn hơn nhiều so với ba quần đảo trên. Nó nằm cách đảo Hải Nam 330 km về phía tây nam và cách bờ biển phía đông của Việt Nam một khoảng tương tự. Số lượng đảo, đá ở quần đảo Hoàng Sa có thể khác nhau rất nhiều tùy thuộc vào tiêu chuẩn và phạm vi thống kê. Thống kê của Trung Quốc thường cho rằng có hơn 30 đảo san hô; trong khi thống kê của phương Tây, theo Encyclopedia Britannica, quần đảo Hoàng Sa bao gồm khoảng 130 đảo san hô và đá ngầm.[]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Quần đảo Hoàng Sa được gọi là quần đảo “7 trên 8 dưới” (thượng thất hạ bát), có nghĩa là ngoài một số đảo tương đối độc lập như đảo Đông (đảo Lincoln) ở phía đông và đảo Trung Kiến (đảo Triton) phía Tây Nam, các đảo còn lại của rạn san hô vòng chủ yếu được chia thành hai cụm đảo: cụm đảo Tuyên Đức (nhóm Hải Hậu /An Vĩnh / Amphitrite) ở phía đông bắc và cụm đảo Vĩnh Lạc (nhóm Mỗi Nguyệt / Lưỡi Liềm / Crescent) ở phía tây nam. Cụm trước có 7 đảo liền kề nhau và cụm sau có 8 đảo chính. Hai cụm đảo này cách nhau khoảng 70 km và lần lượt nằm trên 2 rạn san hô vòng An Vĩnh và Lưỡi Liềm (Hình 2).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 471px; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="471" src="https://lh3.googleusercontent.com/6hdr_NTP_JpzulYiJdtL8NPo5hn3dLMZSs1mQ9BGDf1tKTLqsfED7oWqNuPaSCj7r4urKdWAMD7Cvw-X4KnJW-pxChahdUkG3UFtHYDwnUSVTEwI0cgxkcdl2DyZcDhOY50hj2b_ZjXnTgknjLyTLJA" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hình 2 Quần đảo Hoàng Sa</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô An Vĩnh một rạn san hô vòng chưa hoàn chỉnh, phần phía tây còn khiếm khuyết và phần phía nam bị chìm xuống. Phần phía đông bắc của rạn san hô này còn được gọi là nhóm đảo Thất Liên (Thất Liên tự), và hai đảo quan trọng là Tây Sa (cồn cát Tây / West Sand) và đảo Cây (Tree Island). Nhưng đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong cụm đảo là đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm / Woody Island) cũng nằm trên rạn san hô vòng này, và cũng là đảo lớn nhất (ở trạng thái tự nhiên) trong quần đảo Hoàng Sa và thậm chí cả trong các đảo ở biển Đông, với diện tích khoảng 2,1 km². Trên đảo cây cối tươi tốt, từ đó có tên [Phú Lâm/ Woody]. Nó luôn là cứ điểm chính của chính phủ Trung Quốc ở Hoàng Sa và hiện là trụ sở chính quyền của thành phố Tam Sa mới thành lập của Trung Quốc. Đảo Đá (Rocky Island) ở phía đông bắc của đảo Phú Lâm có điểm cao nhất của quần đảo Hoàng Sa, 14 mét so với mực nước biển. Nó và Phú Lâm nằm trên cùng một nền san hô và lúc triều xuống thậm chí có thể qua lại bằng cách lội bộ trên biển. Bây giờ chúng được nối với nhau bằng một bờ đê nhân tạo.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng Lưỡi Liềm là một rạn san hô vòng điển hình bao gồm 8 khối đảo bao quanh một đầm phá trung tâm. Diện tích đầm phá của nó lớn hơn cụm đảo An Vĩnh, nhưng diện tích của các đảo trên mặt nước lại nhỏ hơn. Những khối này tạo thành tổng cộng 13 đảo riêng lẻ nhô ra ngoài. Quan trọng nhất trong số đó là đảo San Hô (Hoàng Sa / Pattle Island), cao nhất và có hình dáng đều đặn, từ lâu đã là trung tâm cai quản của Pháp và Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Đảo Cam Tuyền (Hữu Nhật / Robert Island) trên có giếng nước ngọt, từ đó mà có tên đảo. Cũng đáng nhắc đến là đảo Kim Ngân (Quang Ảnh / Money), đảo Sâm Hàng (Quang Hòa / Duncan) và đảo Tấn Khanh (Duy Mộng / Drummond). Đảo Quang Hoà là đảo có diện tích lớn nhất trong cụm Lưỡi Liềm, và nó là chiến trường chính trong trận hải chiến Hoàng Sa Trung-Việt năm 1974.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các rạn san hô vòng khác bao gồm rạn san hô vòng đảo Đông phía cực đông, một rạn san hô vòng manh mún với đảo chính của nó là đảo Lincoln (Linh Côn), có diện tích hơn 1 km² và là một trong những hòn đảo được người phương Tây đặt tên sớm nhất. Bên cạnh đảo Đông (Linh Côn / Lincoln) là đá Cao Tiêm (hòn/đá Tháp / Pyramid Rock), một rạn san hô chỉ cao 6 mét và là đảo núi lửa duy nhất trong số các đảo ở biển Đông.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn san hô vòng Hoa Quang (đá Lồi / Discovery Reef) nằm ở phía nam của cụm Trăng Khuyết, là một nền san hô lớn phát triển tốt với đường kính 31 km từ đông sang tây và 12 km từ bắc xuống nam. Khi triều xuống, toàn bộ rạn san hô có thể lộ ra, nhưng khi triều lên chỉ một ít khối san hô riêng lẻ có thể nhô lên khỏi mặt nước. Ở giữa là một đầm phá lớn với độ sâu hơn 70 mét. Các rạn san hô khác có đá Bắc (North Reef), đá Lãng Hoa (Bông Bay / Bombay Reef), đá Ngọc Trác (Chim Yến / Vuladdore Reef), v.v.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Trung Kiến (Tri Tôn / Triton Island) ở phía cực tây nam nằm trên một rạn san hô vòng hoàn chỉnh với đầm phá ở giữa đã biến mất. Trong cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Việt Nam ở vùng biển Hoàng Sa năm 2014, giàn khoan HD 981 nằm cách đảo Tri Tôn 17 hải lí. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.Trước năm 1974, Trung Quốc đại lục chiếm cụm đảo An Vĩnh và Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt) chiếm cụm đảo Trăng Khuyết. Trong trận hải chiến năm 1974, Trung Quốc đại lục đã đánh đuổi quân đội Việt Nam Cộng hòa và chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, kiểm soát nó trên thực tế cho đến tận bây giờ. Nhưng Việt Nam chưa từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hiện nay, về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Tam Sa của Trung Quốc, thuộc thành phố Cao Hùng của Đài Loan, và thuộc Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng) của Việt Nam.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.7 Quần đảo Nam Sa (Trường Sa, Spratly Islands)</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là quần đảo lớn nhất ở biển Đông, có hơn 750 đảo, cồn cát, bãi đá v.v.. dưới nhiều hình dạng khác nhau không thể mô tả hết ở đây. Các cồn, bãi, đảo này đều phát triển trên các bãi đá ngầm. Nền móng của các rạn đá và đảo ở biển Đông có kích thước khác nhau: một số rạn san hô rất nhỏ, chỉ là một rạn san hô duy nhất; một số, chẳng hạn như bãi Lễ Nhạc (Cỏ Rong / Reed BankBank), khá lớn, thậm chí còn lớn hơn cả rạn san hô Trung Sa (Macclesfield). Có thể dựa trên nền móng của rạn san hô như một đơn vị để lí giải các địa hình chủ yếu của Trường Sa (Hình 3).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 465px; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="465" src="https://lh3.googleusercontent.com/uo4iW1QUy-qvh_NRt9UWZvsnxS1f2Lt0sltiwLuWpnlmtTGQ8DLvxCIx1wjB7OQkHc41S6FfhB_Mt0d8TSADvwPs8F1EEurHbIZNm6M_rVm9q4jwd5AhJzxTVBopD80IIFeYe5f0vbYzTDMQsCnV-Mg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hình 3: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Phân chia, đảo chính và rạn san hô và chiếm đóng quần đảo Nam Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Trung Quốc: tam giác đỏ; Việt Nam: bóng hồng, Philippines: mũi tên xanh, Malaysia; bóng xanh nhạt, Đài Loan: bóng màu gạch)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cấu trúc địa chất của quần đảo Trường Sa khá phức tạp. Mặc dù bây giờ nó thường được cho là một quần đảo, nhưng trên thực tế các phần của nó nguồn gốc địa chất khác nhau. Về tổng thể, quần đảo Trường Sa chạy theo hướng đông bắc-tây nam, và phần chính của nó được cấu tạo theo 2 nhánh hướng đông bắc-tây nam được ngăn cách bởi một rãnh nước sâu cũng hướng đông bắc-tây nam, phần phía bắc được gọi là "kênh Đông Trường Sa", phần phía nam được gọi là "kênh Bắc Khang" (North Luconia Channel). Hai bên hai biển đều có đường thủy. Ở phía tây bắc có tên là "kênh Tây Trường Sa" và ở phía đông nam là "Rãnh Trường Sa" (còn được gọi là Máng/Rãnh Palawan [Trough], nằm giữa đảo Palawan và quần đảo Trường Sa). Ba tuyến đường thuỷ này là những lối đi mà tàu thuyền chọn để đi qua quần đảo Trường Sa theo hướng bắc nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hai nhánh đảo này bị một đới đứt gãy tây bắc - đông nam cắt đứt, tạo thành một kênh theo cùng hướng, đó là "kênh Nam Hoa" (còn gọi là kênh Hạc Lạc Môn / USS Pigeon Passage), đó là lựa chọn duy nhất để đi xuyên qua quần đảo Trường Sa theo hướng đông tây. Do đó, quần đảo Trường Sa có thể được chia thành bốn khu vực theo kênh Nam Hoa, kênh Đông Trường Sa và kênh Luconia Bắc. Nói một cách đại khái, 4 khu vực này thuộc các đơn vị địa chất khác nhau: phần phía tây thuộc về Cao nguyên ngầm Trường Sa, phần phía nam thuộc thềm lục địa Tây Bắc Kalimantan, phần phía đông là sườn phía tây bắc của rãnh Palawan và phần phía bắc thuộc thềm biển sâu ở trung tâm biển Đông. Phần phía bắc của Trường Sa là khu vực tập trung nhiều đảo nhất, do chịu ảnh hưởng của gió mùa nên các đảo san hô ở khu vực này cũng chạy theo hướng đông bắc - tây nam, rất đều đặn, có đặc điểm rõ rệt, ở đây chủ yếu có 5 nhóm rạn san hô vòng, từ bắc xuống nam là:</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Rạn Song Tử</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Đây là đảo đá gần lục địa Trung Quốc nhất trong quần đảo Trường Sa, đồng thời cũng có dấu vết xưa nhất của người Trung Quốc. Rạn san hô này bao gồm hai đảo rất gần nhau, Nam Tử (Song Tử Tây / Southwest Cay) và Bắc Tử (Song Tử Đông / Northeast Cay). Ngư dân Trung Quốc gọi nó là "Song Trĩ" (雙峙). Diện tích của nó lần lượt đứng thứ sáu và thứ năm ở Trường Sa. Có thể thấy có những ngôi mộ của Trung Quốc từ cuối triều đại nhà Thanh trên đảo Song Tử Đông, chỗ mà ngư dân Hải Nam từng sử dụng làm điểm dừng chân đầu tiên trên đường đến quần đảo Trường Sa. Tên tiếng Anh của hai hòn đảo hoàn toàn là mô tả định hướng và có lẽ không có nguồn gốc cụ thể. Hai đảo này hiện tương ứng do Việt Nam và Philippines chiếm đóng.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi cạn Vĩnh Đăng (đảo Đinh Ba / Trident Shoal)- Bãi cạn Nhạc Tư (đá Men Di / Lys Shoal) - đá Trung Nghiệp (đảo Thị Tứ / Thitu Island) - đá Chữ Bích (Xu Bi / Subi Reef)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Trong số này, cụm đảo Thị Tứ là quan trọng nhất. Cụm các đảo đá này do hai rạn san hô vòng Đông và Tây họp thành. Ở phía đông của rạn san hô vòng Tây là đảo Thị Tứ, lớn thứ hai trong quần đảo Trường Sa. Ngư dân Trung Quốc ở Hải Nam gọi nó là "Thiết Thì" (Tie Shi / 鐵時), nguồn gốc tên tiếng Anh của nó được cho là chuyển từ tên theo cách gọi của người Hải Nam. Đảo Thị Tứ hiện do Philippines kiểm soát và đã trở thành trung tâm hành chính của quần đảo "Kalayaan" của Philippines với cơ sở vật chất hoàn chỉnh bao gồm sân bay và trường học. Ở phía tây của rạn san hô vòng Tây là đá Thiết Tuyến (鐵線 / đá Hoài Ân / Sandy Cay). Phía tây nam đá Hoài Ân là đá Chữ Bích (Xu Bi / Subi Reef). Ở trạng thái tự nhiên, chỉ một phần nhỏ của đá Xu Bi có thể nổi lên khỏi mặt nước khi triều xuống, vì vậy nó không được coi là một đảo về mặt pháp lí, nhưng hiện đang bị Trung Quốc chiếm đóng và đã bồi đắp thành một bãi đất phẳng. Trong năm qua, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo quy mô lớn ở biển Đông, và đá Xu Bi đã được mở rộng thành đảo nhân tạo với diện tích vài km².</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Bãi Trường (bãi Dài) - đảo Tây Nguyệt (đảo Bến Lạc / Dừa /.(West York Island) - đá Hoả Ngải (đá Cá Nhám / Irving Reef) - cụm đá Đạo Minh (Loại Ta).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Đảo Bến Lạc là đảo lớn thứ ba trong quần đảo Trường Sa, hiện do Philippines chiếm đóng, trên đảo không có nước ngọt, rất khó cung cấp, chỉ có một đơn vị nhỏ trú đóng. Bãi và đá Loại Ta là một rạn san hô vòng điển hình phát triển tốt với các cấu trúc điển hình như cồn, cửa, đảo và đá ngầm. Ở rìa phía nam có đảo Loại Ta Nam, cồn Dương Tín (Lan Can / Lankiam Cay) và đảo Nam Thượt (Loại Ta Lolaita Island)). Đảo Nam Thượt là đảo lớn thứ mười và thấp nhất trong quần đảo Trường Sa, có nước ngọt và hiện do Philippines chiếm đóng. Cồn Lan Can là đảo đá nhỏ nhất trong quần đảo Trường Sa, với diện tích tự nhiên chỉ 4 400 m² và cũng do Philippines kiểm soát.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đá Đại Hiện (đá Lớn / Discovery Great Reef) - đá Tiểu Hiện (đá Nhỏ / Discovery Small Reef) - cụm đá Trịnh Hoà (Cụm Nam Yết / Tizard Bank)- đá Hằng (đá Núi Trời </span><span style="background-color: white; color: #4d5156; font-family: Arial; font-size: 10.5pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">/</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ganges Reef) - đá Bắc Hằng (Ganges North Reef).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Cụm Nam Yết thực sự là một rạn san hô vòng lớn với diện tích 2 247 km², khiến nó trở thành một trong những rạn san hô vòng lớn nhất ở biển Đông. Có một số đảo đá trên rạn san hô vòng Nam Yết, đó là rạn san hô vòng tạo ra nhiều đảo nhất. Đảo Thái Bình (Ba Bình / Itu Aba) nằm ở góc tây bắc của rạn san hô, diện tích 0,43 km², là đảo lớn nhất (ở trạng thái tự nhiên) trong quần đảo Trường Sa. Đảo này có nước ngọt, hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng và có một sân bay. Ngư dân Hải Nam gọi nó là Hoàng Sơn Mã, theo người Trung Quốc, tên tiếng Anh là phiên âm của tên Hải Nam (Widuabe), nhưng cũng có thuyết nói rằng nó bắt nguồn từ từ "ituapa" trong tiếng Mã Lai (tức là "đây là gì"), và một số người nói rằng nó xuất phát từ tên của hai người Việt Nam đã vẽ bản đồ đảo này dưới thời Pháp (Tư và Ba).[6]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Cồn cát Đôn Khiêm (đảo Sơn Ca / Sand Cay) nằm ở phía đông của đảo Ba Bình, với diện tích 70 000 m², có thể coi là hòn đảo có thể lộ trên mặt nước. Hiện do Việt Nam chiếm đóng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đảo Hồng Hưu (Nam Yết / Nanyit) nằm ở phía nam của cụm Nam Yết, với diện tích 80 000 m² và hiện do Việt Nam chiếm giữ. Tên tiếng Anh có thể xuất phát từ tên "Nam Ất" (南乙: nanyi) do ngư dân Hải Nam gọi. Ở phía cực tây của cụm Nam Yết là đá Nam Huân (Ga Ven / Gaven Reef). Ban đầu nó vốn là một rạn san hô gần như không nổi trên mặt nước, nhưng hiện đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Năm 1990, sự cố đá Ga Ven xảy ra, 5 trong số 11 người bảo vệ đã thiệt mạng và 6 người mất tích, nguyên nhân và quá trình của sự cố vẫn chưa được biết. Đá An Đạt (Én Đất / Eldad Reef) trên rạn Nam Yết cũng do Trung Quốc kiểm soát.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Cụm Cửu Chương (Sinh Tồn / Union Banks/Reef)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">. Nó gần với kênh USS Pigeon và kênh Đông Trường Sa, nằm phía cực nam của bộ phận phía bắc của quần đảo Trường Sa, đồng thời cũng là một rạn san hô vòng điển hình. Đảo Cảnh Hoành (Sinh Tồn / Sin Cowe) nằm ở phía bắc phần trung tâm, diện tích 80 000 m², hiện do Việt Nam chiếm đóng. Tên tiếng Anh của nó, Sin Cowe, có thể xuất phát từ tên gọi "câu” (鉤: gou) của ngư dân Hải Nam. Cồn cát Nhiễm Thanh (đảo Sinh Tồn Đông /Grierson Reef) và đá Quỷ Hảm (Cô Lin / Collins Reef) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Hầu hết các rạn san hô khác trong cụm Sinh Tồn đều do Trung Quốc chiếm đóng, bao gồm đá Đông Môn (Tư Nghĩa / Hughes Reef), đá Tây Môn (Ken Nan / Mckennan Reef) ở phía bắc, đá Ngưu Ách (Ba Đầu / Whitsun Reef) ở cực đông và đá Xích Qua (Gạc Ma / Johnson Reef) ở cực tây. Năm 1988, trận hải chiến đá Gạc Ma nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, và Trung Quốc lần đầu tiên thiết lập một thành trì quân sự ở Nam Sa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Phần phía đông Trường Sa có nhóm bãi ngầm lớn nhất, và khu vực này trước đây được gọi là Khu vực Nguy hiểm (Dangerous Zone),[7]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> là khu vực mà tàu thuyền cố hết sức để tránh. Các rạn san hô vòng ở khu vực này nằm rải rác và không theo quy luật nhất định nên chúng tôi chỉ có thể chọn những rạn quan trọng để giới thiệu.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở góc cự đông bắc là bãi Lễ Nhạc (Cỏ Rong / Reed Bank), là rạn san hô vòng chỉ gồm một khối lớn nhất ở biển Đông, với diện tích 8 866 km² và nước chỉ sâu từ 9 đến 45 mét, lớn hơn rạn san hô Macclesfield. Bãi Cỏ Rong được biết là khu vực có tiềm năng phát triển dầu mỏ. Cả Philippines và Trung Quốc đều đang để mắt đến nó. Ở phía tây nam của bãi Cỏ Rong có rạn san hô vòng La Khổng, ngoài ra còn có đảo Mã Hoan (Vĩnh Viễn / Nanshan) và đảo Phí Tín (đảo Bình Nguyên / Flat ). Diện tích của chúng lần lượt là 60 000 và 40 000 km², chúng là hai đảo đá duy nhất ở phía đông, và cả hai đều do Philippines chiếm đóng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở phía nam của hai đảo này là đá Ngũ Phương (bãi Hải Sâm / Jackson Atoll), và ở phía nam là đá Mĩ Tế (Vành Khăn / Mischief). Sau hai sự cố ở đá Vành Khăn năm 1995 và 1997, đá Vành Khăn bị Trung Quốc chiếm đóng và trở thành trung tâm quân sự, giám sát biển của Trung Quốc ở phía đông. Sau một năm Trung Quốc bồi đắp đảo, đá Vành Khăn đã trở thành đảo nhân tạo lớn nhất ở Trường Sa. Về phía đông của đá Vành Khăn là đá Nhân Ái (bãi Cỏ Mây / Second Thomas Shoal). Một tàu chiến của Philippines đã mắc cạn ở đó từ năm 1999, hình thành quyền kiểm soát thực tế của Philippines ở đây. Năm 2013, sự kiện đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines trên bãi Cỏ Mây đã gây ra căng thẳng lớn trên biển Đông. Về phía đông của bãi Cỏ Mây là đá Bán Nguyệt (bãi Trăng Khuyết / Half Moon Shoal), rất gần với đảo Palawan. Năm 2012, một tàu chiến Trung Quốc mắc cạn tại khu vực này làm dấy lên nghi vấn liệu Trung Quốc có muốn bắt chước Philippines giành quyền kiểm soát đảo bằng cách mắc cạn hay không, nhưng hóa ra đó chỉ là báo động giả. Hiện nay, tuyến đá Vành Khăn - bãi Cỏ Rong - bãi Sa Bin (Sabina Shoal) - bãi Trăng Khuyết đã trở thành điểm nóng trong cuộc giằng co Trung- Phi. Nói tóm lại, ở phía đông của quần đảo Trường Sa chủ yếu là bãi cạn và đá ngầm, chỉ có hai đảo nhỏ do Philippines chiếm giữ, và chỉ có Trung Quốc và Philippines chiếm giữ các đảo và đá ngầm ở đây. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Các đảo, rạn san hô và bãi đá ở phần phía nam của quần đảo Trường Sa cũng được sắp xếp theo hướng đông bắc-tây nam, nhưng chỉ có bãi An Ba (đảo An Bang / Amboyna Cay) có thể được gọi là đảo. Ở phía đông bắc của khu vực này, có ba đảo đá đứng theo thế chân vạc: </span></p><ul style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; margin-left: -18pt; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-wrap: wrap; vertical-align: baseline;">đá Tư Lệnh (Công Đo / Commodore Reef) nằm ở phía nam của nơi đối đầu Trung-Philippines nói trên, hiện do Philippines chiếm đóng. Cùng với bãi Cỏ Mây, nó làm thành bình phong cho đảo Palawan của Philippines ngăn chống các cứ điểm của Trung Quốc. </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; margin-left: -18pt; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-wrap: wrap; vertical-align: baseline;">đá Vô Khiết (Tiên Nữ / Pigeon Reef, Tennent Reef) ở phía tây bắc Công Đo, do Việt Nam kiểm soát. </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; margin-left: -18pt; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-wrap: wrap; vertical-align: baseline;">bãi ngầm Du Á (bãi Thám Hiểm / Investigator Shoal) phía đông nam Tiên Nữ, của do Malaysia kiểm soát. Cả ba do Philippines và Việt Nam và Malaysia tương ứng chiếm đóng vào khoảng năm 1999, hình thành thế giằng co,</span></p></li></ul><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đá An Bang (Amboyna Cay) nằm ở phía tây của bộ phận phía nam, gần kênh Luconia Bắc, với diện tích 20 000 m², và hiện đang do Việt Nam. chiếm đóng. Vào cuối thế kỉ 19, chính phủ Borneo thuộc Anh đã cấp giấy phép cho các doanh nhân muốn phát triển tại đây. Dọc theo tuyến đá Tiên Nữ và đảo An Bang, còn có đá Nam Hoa (Núi Le / Cornwallis South Reef), đá Tất Sinh (Phan Vinh / Pearson), đá Lục Môn (Tốc Tan / Alison) và đá Bách (bãi Thuyền Chài / Barque Canada Reef) đều do Việt Nam chiếm đóng. Các đảo và bãi đá ngầm này tạo thành một tuyến phòng thủ hoàn chỉnh của Việt Nam ở phía Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Phía nam bãi Thám Hiểm về cơ bản là phạm vi ảnh hưởng của Malaysia. Phía tây nam của nó là đá Nam Hải (đá Kì Vân /(Mariveles Reef) do Malaysia kiểm soát, có sân bay trực thăng. Ở phía tây nam của đá Kì Vân là đá Đạn Hoàn (Hoa Lau / Swallow Reef) nổi tiếng, ban đầu là một vành đai dài và hẹp chỉ có thể nổi lên khỏi mặt nước khi triều xuống. Năm 1983, Malaysia nắm quyền kiểm soát khu vực này và xây dựng đảo nhân tạo quy mô lớn đầu tiên ở quần đảo Trường Sa. Hiện tại, nó có diện tích 100 000 m² và là một trung tâm giải trí và nghỉ dưỡng dưới nước nổi tiếng, với một sân bay đã xây xong. Về phía tây nam của đá Hoa Lau là đá Nam Thông (Louisa Reef), là rạn san hô duy nhất mà Brunei tuyên bố chủ quyền. Năm 1993, Malaysia giành quyền kiểm soát nơi này, hình thành tuyến bãi Thám Hiểm - đá Kì Vân - đá Hoa Lau - đá Louisa, trực tiếp đối đầu với tuyến kiểm soát của Việt Nam. Tuy nhiên, năm 2009, thông qua đàm phán, Malaysia và Brunei đã chuyển giao đá Louisa cho Brunei, trở thành khuôn mẫu cho các bên ở biển Đông giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới trên biển.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở phía nam đảo An Bang có các bãi cạn Minh Nghị (Friendship Shoal), Khang Tây (Luconia West Shoal) và Nam Khang (South Luconia Shoal). Các bãi này đều nằm trên thềm lục địa của Malaysia, nơi đây cũng có nhiều dầu mỏ, do Malaysia kiểm soát thực tế và có nhiều năm kinh nghiệm khai thác dầu mỏ. Ở phía nam của những bãi ngầm này là bãi Tăng Mẫu (James Shoal) mà Trung Quốc tuyên bố là "lãnh thổ cực nam", thực chất là một bãi ngầm rộng lớn, có điểm cạn nhất cách mặt nước 18 mét, không cấu thành lãnh thổ theo nghĩa của luật quốc tế. Trên bình diện quốc tế, các cấu trúc phía nam bãi Friendship không được coi là một phần của quần đảo Trường Sa. Đặc biệt, bãi James hết sức gần bờ biển Malaysia, với khoảng cách gần bằng nửa khoảng cách của bãi Nam Luconia tới bờ, và về mặt địa lí, nó không thuộc quần đảo Trường Sa. Điểm này cần được xem xét trong luật pháp quốc tế. Gần bãi James là bãi ngầm Bát Tiên (Parsons Shoal) và Lập Địa (Lidi Shoal). Hai bãi này ban đầu nằm trong danh sách các đảo đá do Quốc Dân Đảng đưa ra năm 1947, nhưng trong danh sách do Trung Quốc đưa ra năm 1983, chúng là 2 trong số 3 địa danh “</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">tạm thời không được công bố, cũng không được trích dẫn công khai và cung cấp cho thế giới bên ngoà</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">i" (địa danh thứ ba là bãi Quản Sự [Stewart Bank]).[8]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Điều đáng nói là mặc dù Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, định nghĩa về Trường Sa của Việt Nam không bao gồm bãi Friendship và các bãi phía nam nó. Bộ phận phía Tây của Trường Sa gần với Kênh USS Pigeon là đá Vĩnh Thử (Chữ Thập), do Trung Quốc kiểm soát và là cứ điểm quân sự chính của Trung Quốc ở phía tây của quần đảo Trường Sa. Bây giờ Trung Quốc đang xây dựng các đảo ở biển Đông, sử dụng đá Chữ Thập làm trung tâm quân sự với quy mô lớn và hiện được coi là đã trở thành đảo nhân tạo quy mô lớn. Ở phía nam của đá Chữ Thập là cụm Duẫn Khánh (cụm London / London Reefs). Nó bao gồm 4 rạn san hô chính: đá Hoa Dương (Châu Viên / Cuarteron Reef), đá Đông (East Reef), đá Giữa (Central Reef) và đá Tây (West Reef). Đá Châu Viên do Trung Quốc kiểm soát, nước này cũng đang xây đảo nhân tạo với quy mô lớn trên đó. Ba bãi đá còn lại do Việt Nam kiểm soát, nhưng Việt Nam chỉ làm nhà giàn trên đó, rất đơn sơ so với đá Châu Viên gần đó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Phía nam cụm London là đảo Nam Uy (Trường Sa / Spratly), đảo lớn thứ tư trong quần đảo Trường Sa, với diện tích khoảng 140 000 m². Từ tên tiếng Anh của nó, có vẻ như nó là đảo chính của quần đảo Trường Sa, nhưng về mặt địa lí thì không phải vậy. Đây là đảo đầu tiên Việt Nam chiếm đóng sau khi giành được độc lập, sau nhiều năm xây dựng, nó cũng đã trở thành trung tâm hành chính và quân sự của Việt Nam tại Trường Sa. Ở phía tây của đảo Trường Sa là đá Nhật Tích (đá Lát / Ladd Reef), cũng do Việt Nam kiểm soát.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Ở phía nam và phía tây của đảo Trường Sa không có đảo đá nào mà chỉ có các bãi ngầm, tất cả đều do Việt Nam kiểm soát trên thực tế. Bãi Vạn An (Tư Chính / Vanguard Bank) ở cực tây được biết đến nhiều nhất với các mỏ dầu đang tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1990. Cuối cùng, Trung Quốc đã ngừng phát triển mỏ dầu ở đây.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1.8 Tranh chấp và tình trạng chiếm đóng của các đảo ở biển Đông</span></h2><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong số các tranh chấp về đảo ở biển Đông, có thể chia thành 3 nhóm: đảo Hoàng Nham (Scarborough Shoal) chỉ tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines; quần đảo Hoàng Sa chỉ tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam; quần đảo Trường Sa là quần đảo có nhiều tranh chấp nhất, liên quan đến 5 nước gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei nhưng tranh chấp gay gắt chủ yếu tập trung giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. Đối với quần đảo Trường Sa, phạm vi tuyên bố chủ quyền của mỗi nước khác biệt nhau. Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa: yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa không bao gồm một số bãi ở phía nam (như bãi James, bãi Luconia bắc v.v.); yêu sách của Philippines đối với quần đảo Trường Sa không bao gồm các bãi ở phía nam nói trên, đảo Trường Sa và các bãi, đảo, đá phía tây của nó; Malaysia về cơ bản chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các đảo và rạn san hô nằm trên phần mở rộng của thềm lục địa của mình (chủ yếu là các rạn san hô và bãi cạn ở phía nam); Brunei chỉ tuyên bố chủ quyền đối với đá Louisa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Về kiểm soát thực tế, theo Trung Quốc, Việt Nam có số lượng đảo và bãi đá ngầm nhiều nhất ở quần đảo Trường Sa, lên tới 29 đảo:[9]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Nam Yết</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Hồng Hưu / Nanyit Island)), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Trường Sa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Uy / Spratly Island), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Sinh Tồn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Cảnh Hoành / Sin Cowe Island), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Song Tử Tây</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Tử / Southwest Cay), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Sơn Ca</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Đôn Khiêm / Sand Cay), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo An Bang</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (An Ba / Amboyna Cay), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Sinh Tồn Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nhiễm Thanh / Grierson Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Giữa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Trung / Central Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Phan Vinh</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Tất Sinh / Pearson Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Thuyền Chài</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Bách / Barque Canada Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Tây</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (West Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Tiên Nữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Vô Khiết / Pigeon Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Lát</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nhật Tích / Ladd Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Lớn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Đại Hiện / Discovery Great Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Tốc Tan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Lục Môn / Alison Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (East Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Núi Le</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Hoa / Cornwallis South Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Núi Thị</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Bạc Lan /Petley Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Nam</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nại La, South Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Cô Lin</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Quỷ Hảm / Collins Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Len Đao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (đá Quỳnh /Lansdowne Reef) , </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Phúc Tần</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Quảng Nhã / Prince of Wales Bank), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Ba Kè</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Bồng Bột / Bombay Castle), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Tư Chính</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Vạn An / Vanguard Bank), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Phú Nguyên</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Tây Vệ /Prince Consort Bank) , </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Huyền Trân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nhân Tuấn / Alexandra Bank), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Quế Đường</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> ( Lí Chuẩn / Grainger Bank), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Orleana</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Áo Nam / Orleana Shoal), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Vũng Mây</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Kim Thuẫn / Kingston Shoal, Rifleman Bank).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Tiếp theo là Philippines, chiếm 10 đảo:[10]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Thị Tứ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Trung Nghiêp), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Bến Lạc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Tây Nguyệt / West York Island), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Song Tử Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Bắc Tử / Northeast Cay), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Vĩnh Viễn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Mã Hoan / Nanshan), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Loại Ta</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Thượt), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Bình Nguyên</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Phí Tín / Flat Island), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Loại Ta Nam</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Song Hoàng / Loaita Nan Island), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Công Đo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Tư Lệnh / Commodore Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Cá Nhám</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Hỏa Ngải / Irving Reef) và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Cỏ Mây</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nhân Ái / Second Thomas Shoal).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Malaysia chiếm 8 đảo / đá</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">:[11] </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Hoa Lau</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Đạn Hoàn / Swallow Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Kiêu Ngựa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Quang Tinh Tử / Ardasier Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Suối Cát</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Quang Tinh / Dallas Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Louisa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Thông / Louisa Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Kì Vân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Hải / Mariveles Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Thám Hiểm</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Du Á / Investigator Shoa)l, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Én Ca</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Bá Cơ / Erica Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Sác Lốt</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Hoàng Lộ / Royal Charlotte Reef), và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Luconia Bắc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> ( Bắc Khang / Luconia North Shoal), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Luconia Nam</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Khang / Luconia South Shoal). Có một số lượng lớn giàn khai thác dầu khí ngoài khơi ở vùng biển lân cận bãi James.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Brunei yêu sách chủ quyền đối với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Louisa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">[12] và chủ quyền của nó đối với đá Louisa đã được Malaysia công nhận vào năm 2009, nhưng dường như vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Malaysia. </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Yêu sách của Indonesia không liên quan đến chủ quyền của đảo mà chỉ yêu sách chủ quyền đối với vùng biển gần quần đảo Natuna nơi không có tranh chấp chủ quyền.[13]</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Phía Trung Quốc, đại lục đã thực sự chiếm giữ 10 đảo đá: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Xu Bi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Chữ Bích / Subi Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Én Đất</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (An Đạt / Eldad Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Ga Ven</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Nam Huân / Gaven Reef) , </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đá Gạc Ma </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Xích Qua / Johnson Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Ba Đầu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Ngưu Ách / Whitsun Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Tư Nghĩa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Đông Môn /Hughes Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Ken Nan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Tây Môn / McKennan Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Chữ Thập</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Vĩnh Thử / Fiery Cross Reef), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Châu Viên</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Hoa Dương / Cuarteron Reef) và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đá Vành Khăn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> (Mĩ Tế / Mischief Reef). Ngoài ra, Trung Quốc đại lục gần đây cũng mở rộng phạm vị tuần tra ở các khu vực khác của biển Đông, có thể đã hình thành quyền kiểm soát đối với các đảo đá khác, rất khó đánh giá sức mạnh của các quyền kiểm soát này và chúng không được đưa vào danh sách số liệu thống kê ở đây cho đến thời điểm hiện tại. Một số trong số 10 đảo đá do Trung Quốc đại lục kiểm soát không nổi lên khỏi mặt nước một cách tự nhiên khi triều lên. Tuy nhiên, Trung Quốc đại lục đã xây dựng các cấu trúc nhân tạo trên đó để chúng có thể lộ trên mặt nước khi triều cao, và gần đây, các dự án bồi đắp đất quy mô lớn đã được thực hiện. Diện tích thực tế của một số đảo đá đã vượt quá đảo Ba Bình, trở thành vùng đất lớn nhất trong quần đảo Trường Sa.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Đài Loan sở hữu hòn đảo lớn nhất, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">đảo Ba Bình </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Thái Bình / Itu Aba Island) và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Bàn Than </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">(Trung Châu / Southern Tagalog Reef) gần đó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">Trong số các đảo đá này, xét về diện tích tự nhiên, chỉ có 11 đảo đáp ứng điều kiện là "đảo" có thể tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế theo luật quốc tế, tức là đảo có thể ở được.[14]</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> Mười một đảo này hiện đang do Đài Loan, Việt Nam và Philippines chia nhau : Đài Loan chiếm 1 đảo là đảo Ba Bình lớn nhất; Việt Nam chiếm 4 đảo gồm đảo Trường Sa ở phía tây, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn và đảo Nam Yết ở phía bắc; Philippines chiếm 6 đảo phía bắc và phía đông gồm đảo Thị Tứ, đảo Song Tử Tây, đảo Loại Ta, đảo Bến Lạc, đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">--------</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">* Theo AMTI Island Tracker thì Trung Quốc chỉ chiếm đóng 7 thể địa lí ở Trường Sa (</span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">đá Ba Đầu, đá Én Đất </span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">không có tên trong danh sách, còn </span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">đá Ken Nan</span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> và đá Tư Nghĩa xem là một)- ND.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><span id="docs-internal-guid-82fdd24c-7fff-46e6-1a19-a32eb261fa90"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"># AMTI không kể Bàn Than như là một thể dịa lí do Đài Loan chiếm đóng -ND.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial;"><span style="white-space-collapse: preserve;">_________</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">1. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;"> “Tổng hợp Địa danh các đảo ở Biển Đông” (南海諸島地名資料彙編), Nhà xuất bản Bản đồ Quảng Đông, 1987, tr 235.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">2. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">Việc phân loại các đảo san hô sau đây chủ yếu dựa theo Tăng Chiêu Phóng (中國南海環礁目錄: Danh mục các đảo san hô ở biển Đông ), do Lữ Nhất Nhiên chủ biên, "南海諸島地理歷史主權: Chủ quyền địa lí và lịch sử của các đảo ở biển Đông", Nhà xuất bản Giáo dục Hắc Long Giang, 1988 , tr. 1-26.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">3..</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;"> Tào Chiêu Tuyền, "中國古代南海諸島文獻初步分析” (Phân tích sơ bộ các tài liệu cổ đại của Trung Quốc về các đảo ở Biển Đông), "中國歷史地理論叢” (Lịch sử và lí thuyết địa lí Trung Quốc), Số 1, 1991, tr. 133-160.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">4. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">Dữ liệu địa lí của các quần đảo sau chủ yếu được lấy từ "南海諸島: Nam Hải chư đảo” (Các đảo ở biển Đông) của Tăng Chiêu, Nhà xuất bản Nhân dân Quảng Đông, 1986; và "南海諸島地名資料彙編: Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu vị biên” (Biên tập Dữ liệu Địa danh của các đảo ở biển Đông), Nhà xuất bản Bản đồ Tỉnh Quảng Đông, 1987, không có ghi chú đặc biệt từng cái một.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span id="docs-internal-guid-f5f36919-7fff-c0d3-f0b1-b3a3ad05b525"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">5. Encyclopedia Britannica, 15th Edition, 1998, Vol.9.134.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">6.</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: left; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><a href="http://en.wiipedia.org/wiki/Taiping_Island" style="text-align: left; text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://en.wiipedia.org/wiki/Taiping_Island</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: left; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: left; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">7. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">Khu vực nguy hiểm cũng bao gồm một số bãi, đá, cồ ở phía bắc và phía nam gần nhóm bãi ngầm phía đông, phạm vi chính xác của chúng không được xác định rõ ràng.</span></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; text-align: left; white-space-collapse: preserve;">8. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space-collapse: preserve;"> Quốc vụ CHNDTH (82) Quốc hàm tự, thư số 280 "國務院關於南海諸島地名命名、更名方案的段函” (Quốc vụ viện quan ư Nam hải chư đảo địa danh mệnh danh, canh danh phương án đích đoạn hàm: Thư của Hội đồng Nhà nước về Kế hoạch đặt tên và đổi tên các đảo ở biển Đông).</span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space-collapse: preserve;">9. </span><a href="http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110802_99156.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110802_99156.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">[Theo AMIT Việt Nam chiếm đóng 27 thể địa lí ở Trường Sa, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">bãi Orleana và bãi Ba Kè </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">không nằm trong danh sách chiếm đóng-ND]</span></div><div><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 13.3333px; white-space-collapse: preserve;">10. </span></span><a href="http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110802_99171.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110802_99171.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space-collapse: preserve;">[Theo AMTI, Philippines chiếm đóng 9 thể địa lí không bao gồm đá Cá Nhám trong đó và đảo Loại Ta Nam thay bằng Loại Ta Tây (Nam Thượt sa châu / Loai Ta Cay) - ND]</span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">11.</span><a href="http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110804_99882.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110804_99882.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space-collapse: preserve;">[Theo AMTI, Malaysia chỉ chiếm đóng 5 thể địa lí (đá Suối Cát, đá Louisa, đá Sác Lốt không có trong danh sách - ND]</span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">12. </span><a href="http://www.qstheory.cn/special/56215/5675/201108/t20110804_99883.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.qstheory.cn/special/56215/5675/201108/t20110804_99883.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">14. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span><a href="http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110804_99884.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">http://www.qstheory.cn/special/5625/5675/201108/t20110804_99884.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"> </span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">14. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space-collapse: preserve;">Lâm Nhược Linh, "東協與中國達成《南海行動宣言》的意涵與台灣的因應之道” (Ý nghĩa của ‘Tuyên bố Hành động của ASEAN và Trung Quốc ở Biển Đông’ và Phản ứng của Đài Loan), "新世紀智庫論 壇” (Diễn đàn Nhóm chuyên gia Thế kỉ Mới) Số 55, 2011.</span></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;"><br /></span></span></p><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space-collapse: preserve;">.</span></p><br /><br /><br /><br /><br /><br /></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-82282978100137924352023-05-11T17:55:00.006-07:002023-05-13T17:32:08.726-07:00TÓM TẮT và LỜI TỰA_LêOa Đăng <p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-3cbe1182-7fff-b889-a4bf-17d211adeaac"><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 18pt; text-align: center;"><span style="font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"><span id="docs-internal-guid-a3c0ba51-7fff-3610-566c-b5b6691fa708"><h2 style="font-size: 16pt; line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: 24pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">TỪ MỞ RỘNG BIÊN CƯƠNG TRÊN BẢN ĐỒ <br /></span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 24pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> ĐẾN XÂY DỰNG ĐẢO NHÂN TẠO: <br /></span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 24pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">LỊCH SỬ 100 NĂM TRANH CHẤP <br /></span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 24pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> BIỂN ĐÔNG</span></span></h2><p dir="ltr" style="font-size: 16pt; font-weight: 400; line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: xx-large;">Lê Oa Đằng</span></p></span></span></h2><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 18pt; text-align: center;"><span style="font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"><span id="docs-internal-guid-a3c0ba51-7fff-3610-566c-b5b6691fa708"><span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 32px; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline;">從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史</span></span></span></span></h2><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 18pt; text-align: center;"><span style="font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"><span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: x-large; font-weight: 400; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Times, serif; font-size: medium; font-weight: 400; white-space: pre-wrap;">黎蝸藤</span></p><div style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt;"><span style="font-size: medium;"><span style="font-family: Times, serif;"><span style="font-weight: 400; white-space: pre-wrap;">CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM <br /></span></span><span style="font-family: Times, serif;"><span style="font-weight: 400; white-space: pre-wrap;">ĐÀI BẮC-2017</span></span></span></div><div style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt;"><span style="font-size: medium;"><span style="font-family: Times, serif;"><span style="font-weight: 400; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></span></div><div style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt;"><span style="font-size: medium;"><span style="font-family: Times, serif;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgi5031pOcRYui1UwdwXTzn5KKr9R9x6XVNc4XUO7uc-zKdBfKCkKSlAzkSW_rIn-Nmcd7TNfMLY8_LoPICfd0BeLwF3TrerqwvOtuQTtdSpaQvWFWEPP1BtZYyk9NEoNI73FzR67ae1Mg5vs-LUG0OpBmqX3Egu_Yiwb8zDJ8vnij8ZjXqCbqYwQL-bQ/s1536/%E1%BA%A2nh%20ch%E1%BB%A5p%20m%C3%A0n%20h%C3%ACnh%202023-05-12%20132513.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1536" data-original-width="1074" height="734" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgi5031pOcRYui1UwdwXTzn5KKr9R9x6XVNc4XUO7uc-zKdBfKCkKSlAzkSW_rIn-Nmcd7TNfMLY8_LoPICfd0BeLwF3TrerqwvOtuQTtdSpaQvWFWEPP1BtZYyk9NEoNI73FzR67ae1Mg5vs-LUG0OpBmqX3Egu_Yiwb8zDJ8vnij8ZjXqCbqYwQL-bQ/w513-h734/%E1%BA%A2nh%20ch%E1%BB%A5p%20m%C3%A0n%20h%C3%ACnh%202023-05-12%20132513.png" width="513" /></a></div><br /><span style="font-weight: 400; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></span></div><div style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 17.7196pt; margin-top: 10pt; text-align: justify;"><span id="docs-internal-guid-20e03b40-7fff-c005-fb68-42128579176e" style="font-weight: normal;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 0.868317pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;"><u>Giới thiệu sơ lược tác giả </u></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.71614; margin: 16.7546pt 5.85956pt 10pt 0.546722pt; text-indent: 0.112556pt;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lê Oa Đằng</span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Tiến sĩ Triết học Đại học Virginia, Hoa Kỳ, hiện tham gia công tác nghiên cứu ở cơ quan học thuật của Hoa Kì. Những năm gần đây chuyên nghiên cứu lịch sử biển Hoa Đông và biển Đông, luật biển quốc tế và quan hệ quốc tế ở Đông Á. </span></p><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác phẩm có “</span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Điếu Ngư là của ai - Lịch sử và pháp lí đảo Điếu Ngư</span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, “</span><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong- Biển Đông trước thế kỉ 20”</span></span></div><div style="white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: x-large;"><br /></span></div></span></span></h2><h3 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 4pt; margin-top: 16pt;"><span style="background-color: transparent; color: #434343; font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">TÓM TẮT</span></h3><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 18pt; text-align: center;"><span style="font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"><span><div style="text-align: justify; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: x-large;"><span id="docs-internal-guid-a6966579-7fff-53a2-f384-a1e710ffa081" style="font-weight: normal;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Các tranh chấp ở biển Đông (SCS) đã là một điểm nóng trong một thời gian dài. Bên cạnh các tranh chấp truyền thống về yêu sách lãnh thổ đối với các đảo, biên giới trên biển, tài nguyên dưới nước và đáy biển giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, biển Đông đã trở thành đấu trường tranh giành quyền lực biển giữa Mĩ và Trung Quốc trong những năm gần đây. Để hiểu các cuộc tranh giành biển Đông, cần phải hiểu lịch sử của biển Đông. Tuy nhiên, mặc dù có một số lượng lớn các bài báo và sách về biển Đông, nhưng khó có thể tìm thấy có một công trình nào xem xét và phân tích khách quan và thấu đáo các tư liệu lịch sử về biển Đông.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Cuốn sách của tôi, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Biển không có tranh chấp, Lịch sử bị bóp méo của biển Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> (SCS) trước năm 1900 (2016), là nỗ lực đầu tiên để làm điều đó. Cuốn sách hiện tại này là phần tiếp theo, tập trung vào lịch sử hiện đại của biển Đông, tức là lịch sử sau năm 1900. Nó có bốn mục tiêu. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thứ nhất</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">, thu thập, khai quật và kiểm tra các tư liệu lịch sử liên quan đến biển Đông. So với thời cổ đại, tư liệu lịch sử cho thời hiện đại phong phú hơn nhiều. Nhưng những câu chuyện kể về lịch sử hiện đại của biển Đông phần lớn đã bị bóp méo bởi việc lọc lựa và diễn giải sai trong tuyên truyền quốc gia. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thứ hai</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">, khám phá nguồn gốc và sự phát triển của các tranh chấp về biển Đông, và giải thích các sự kiện liên quan trong bối cảnh lịch sử của chúng. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thứ ba</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">, phân tích các vấn đề pháp lí liên quan trong khuôn khổ dựa trên luật pháp quốc tế. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thứ tư</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">, thông qua việc phân tích lợi ích của các bên liên quan, cuốn sách nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn về thực trạng của biển Đông hiện nay. Cuốn sách chỉ ra rằng không có yêu sách của bên nào đối với biển Đông là không thể tranh cãi. Giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế có thể là giải pháp tốt nhất, mặc dù giải quyết hòa bình tranh chấp là không hứa hẹn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Cuốn sách chia lịch sử hiện đại của biển Đông thành bốn thời kì. Giai đoạn đầu tiên (1900-1952) là "Kỉ nguyên Nhật Bản". Trong giai đoạn này, Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng ở biển Đông. Lợi ích thương mại đã thúc đẩy các doanh nhân Nhật Bản khám phá và chiếm đóng quần đảo với sự trợ giúp của chính phủ Nhật Bản với mục đích quân sự ở một mức độ nhất định. Các chuyến đi tới đảo của Nhật Bản là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tranh chấp lãnh thổ lần thứ nhất (quần đảo Pratas, 1907), lần thứ hai (quần đảo Hoàng Sa, 1931) và lần thứ ba (quần đảo Trường Sa, 1933) ở biển Đông. Sau thất bại trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản từ bỏ các đảo ở biển Đông trong các hiệp ước hòa bình. Tuy nhiên, các hiệp ước hòa bình này không giải quyết vấn đề chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Giai đoạn thứ hai là “Kỉ nguyên Chiếm đảo” (1953-1989). Trong giai đoạn này, hai chính quyền Trung Quốc (Trung Hoa Dân Quốc hoặc Quốc dân đảng ở Đài Loan và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hoặc Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh) và các quốc gia mới độc lập (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia) tranh giành quyền kiểm soát các đảo. Việc phát hiện ra dầu ở biển Đông vào cuối những năm 1960 càng làm tăng thêm sự cạnh tranh. Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và tiến đến Trường Sa bằng hai trận hải chiến với Việt Nam.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Giai đoạn thứ ba là “Kỉ nguyên đối đầu cường độ thấp và phân định biển” (1990-2008). Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Trung Quốc đã áp dụng chính sách ngoại giao “Láng giềng tốt” và đề xuất “gác tranh chấp”. Trung Quốc đã thay đổi chiến lược của mình bằng cách sử dụng các tàu dân sự nhà nước thay vì tàu chiến hải quân trong các cuộc đối đầu, điều này đã làm giảm đáng kể cường độ của các cuộc xung đột. "Đường 9 đoạn" của Trung Quốc, lần đầu tiên xuất hiện trên các bản đồ chính thức do Trung Quốc xuất bản vào năm 1947 nhưng ý nghĩa của nó chưa hề được giải thích hoặc làm rõ, trở thành tâm điểm của các tranh chấp. Năm 2002, Trung Quốc và Các nước ASEAN đã kí “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”, mang lại một thời kì hòa bình ngắn ngủi cho hầu hết các nước liên quan.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Giai đoạn thứ tư là “Kỉ nguyên theo đuổi sức mạnh trên biển” (2009-2016), đặc trưng bởi sự can dự sâu của Mĩ. Trung Quốc nhằm tới việc kiểm soát khu vực bên trong “Đường 9 đoạn”, và bổ sung cho mục đích này bằng cách cưỡng ép các nước láng giềng, chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, xây đảo nhân tạo trên 7 rạn đá chiếm được ở Trường Sa và quân sự hóa các đảo ở biển Đông. Đổi lại, Mĩ đưa ra và đẩy mạnh Chiến lược tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương và tiến hành các hoạt động tự do hàng hải của Mĩ ở biển Đông. Philippines đã kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Thường trực và giành được chiến thắng lịch sử. Tuy nhiên, chiến lược “lát cắt salami" (tằm ăn dâu) của Trung Quốc ở biển Đông dường như không thể cản lại được. Thành công bất ngờ của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kì năm 2016 cho thấy sự khởi đầu của một kỉ nguyên mới của biển Đông.</span></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"><br /></span></div></span></span></div><div style="white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: Times, serif; font-size: x-large;"><br /></span></div></span></span></h2><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 18pt; text-align: center;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">LỜI TỰA </span></span></h2><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80396; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.35516357421875pt; margin: 9.35516pt 6.51959pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Trong những năm gần đây, tranh chấp về biển Đông (Nam Hải) đã trở thành tiêu điểm chú ý của quốc tế. Cùng với những tranh chấp truyền thống về lãnh thổ, về vùng biển, về tài nguyên, hiện nay tranh chấp biển Đông còn trở thành nơi đọ sức giữa Trung Quốc và Mĩ. Muốn hiểu tranh chấp biển Đông, trước hết phải đọc hiểu lịch sử của biển Đông để hiểu rõ ngọn nguồn của tranh chấp ở đây. Điều này xem như tiền đề cơ bản nhất, trên thực tế lại rất khó làm được. Vì hầu hết các tường thuật về lịch sử Biển Đông đều có liên quan rất nhiều đến lập trường của người tường thuật, vì vậy mà rất khó tìm được sách lịch sử tin cậy có liên quan đến biển Đông. Những sách lịch sử biển Đông mà người viết hiện tìm thấy được, dựa theo nguồn gốc có thể chia làm 3 loại: do Trung Quốc và Đài Loan xuất bản, do Việt Nam xuất bản và do phương Tây xuất bản. Hai loại đầu đều mang lập trường chủ nghĩa bản vị sâu đậm, khó nói là khách quan trung lập, loại cuối thì do hạn chế của tư liệu thu thập được nên thường không đủ độ sâu (đặc biệt đối với lịch sử biển Đông thời cổ và lịch sử biển Đông hiện đại trước Chiến tranh thế giới thứ hai). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80593; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.875823974609375pt; margin: 1.87582pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Với sự giúp đỡ của Công ti Ngũ Nam, tác giả đã xuất bản cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong - Biển trước thế kỉ 20</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” vào năm 2016. Cuốn sách đó lấy sử liệu làm bằng chứng, thông qua phân tích và so sánh sử liệu cổ đại biển Đông, thử khôi phục lịch sử biển Đông trước năm 1900, để giúp người đọc hiểu rằng: biển Đông từ xưa đến nay đã là vùng biển chung, chứ không phải “từ xưa đến nay” thuộc về Trung Quốc. Cuốn sách này là cuốn tiếp theo cuốn đó, chuyên về trình bày và phân tích biển Đông thời hiện đại, cũng chính là lịch sử biển Đông sau năm 1900. Cuốn sách đã tham khảo toàn diện các tác phẩm tiêu biểu, rất nhiều bài viết và sách chuyên khảo của Trung Quốc và các nước khác trong lĩnh vực này, cùng với sách trắng của chính phủ các nước, hội nghị bàn tròn học thuật của các cơ quan chính phủ và tư liệu hội thảo... Trong cuốn sách này, tác giả đã tiến hành nhiều phân tích gốc, so sánh quan điểm và chứng cứ của các bên về biển Đông, cố gắng phác họa nên lịch sử hiện đại của biển Đông từ góc độ lịch sử và học thuật, đồng thời cố gắng thảo luận và lí giải khách quan về các vấn đề biển Đông trên lập trường trung lập. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.5196533203125pt; margin-top: 1.83221435546875pt; margin: 1.83221pt 6.51965pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Nhiệm vụ hàng đầu của cuốn sách này vẫn là khai quật và xử lí sử liệu về biển Đông. So với lịch sử thời cổ đại, sử liệu về biển Đông thời hiện đại tương đối chi tiết và xác thực hơn, nhưng với “thủ thuật ngôn ngữ” của các nước có liên quan, việc lựa chọn sử dụng sử liệu phiến diện và xuyên tạc lịch sử vẫn là điều thường gặp. Ví dụ như Trung Quốc khẳng định: Trung Quốc liên tục tuyên bố chủ quyền các đảo ở Nam Hải, một loạt tuyên bố và hiệp ước trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai trả lại Nam Sa (Trường Sa) cho Trung Quốc; đường 9 đoạn không hề bị phản đối trong suốt hơn 30 năm sau khi được ban hành; tranh chấp ở Nam Sa mới xuất hiện từ sau khi phát hiện ra dầu khí vào những năm 1960; cho tới trước những năm 1970 Việt Nam luôn thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa; trong những năm 1960 và 1970, tuyệt đại đa số quốc gia đều thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Nam Hải... Nếu chỉ xem lí lẽ một chiều của Trung Quốc thì khó tránh khỏi nghĩ rằng các nước láng giềng của Trung Quốc đều có lòng tham không đáy. Cũng vậy, nếu chỉ nhìn vào các miêu tả của phía Việt Nam thì khó tránh khỏi căm ghét đến tận xương tủy đối với việc Trung Quốc “ỷ lớn hiếp nhỏ”. Tuy nhiên, chỉ cần khảo chứng nghiêm túc sử liệu, vận dụng logic chính xác để phân tích, đồng thời dùng luật quốc tế đánh giá thêm thì sẽ phát hiện: vấn đề biển Đông rất rối rắm phức tạp, còn lâu mới rõ ràng sáng tỏ như tuyên truyền chính thức của Trung Quốc. Chỉ khi ý thức rõ về điểm này mới có thể hiểu vì sao biển Đông trở thành tiêu điểm của các tranh chấp lãnh thổ trên thế giới. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80431; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.817626953125pt; margin: 1.81763pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiệm vụ quan trọng khác của cuốn sách này là truy tìm nguồn gốc, diễn biến và mức độ gay gắt của tranh chấp biển Đông, đồng thời lí giải những tranh chấp này trong khuôn khổ lịch sử. Tranh chấp biển Đông mới xuất hiện trong khoảng 100 năm trở lại đây, cũng là bộ phận quan trọng nhất của lịch sử biển Đông thế kỉ 20. Nhờ việc công khai hồ sơ của các nước và giải mật của WikiLeaks mấy năm gần đây, có thể tiến hành phân tích thấu đáo hơn đối với quá trình quyết sách của các sự kiện lịch sử trong những năm đó. Dù vậy, sự thay đổi của tình hình biển Đông vẫn phụ thuộc vào môi trường vĩ mô; diễn biến của tranh chấp biển Đông quan hệ mật thiết với tình hình chung của thế giới. Cuốn sách này được đặt tên là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” chính là muốn thể hiện xu thế thay đổi về sức mạnh của Trung Quốc trong hơn 100 năm qua. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80593; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.891937255859375pt; margin: 1.89194pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiệm vụ thứ ba của cuốn sách là bước đầu làm sáng tỏ tranh chấp biển Đông từ góc độ luật quốc tế. Cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” không đề cập nhiều tới luật quốc tế, bởi vì tuyệt đại bộ phận thời gian mà cuốn sách đó đề cập tới đều chưa có luật quốc tế “hiện đại”; hơn nữa khi đó hầu như không có quốc gia nào đưa ra vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông, vụ việc thích hợp cho việc dùng luật quốc tế để phân tích không nhiều. Tuy nhiên, luật quốc tế đã trở thành một nhân tố không thể thiếu khi thảo luận vấn đề biển Đông từ thế kỉ 20 về sau. Vì vậy, khi bàn về lịch sử biển Đông, cuốn sách này đã lồng vào việc thảo luận về luật quốc tế có liên quan một cách thích hợp, với hi vọng bước đầu làm sáng tỏ ý nghĩa pháp lí quốc tế của các sự kiện lịch sử có liên quan, và khuôn khổ pháp lí quốc tế của các vấn đề chủ yếu của biển Đông. Tuy nhiên, tính chất phức tạp về luật quốc tế của các đảo ở biển Đông và vấn đề phân giới ở biển Đông vượt xa phạm vi có thể bao hàm của cuốn sách này. Tác giả chỉ hi vọng rằng trong tương lai có thể sẽ có đủ thời gian, tinh thần và sức lực để phân tích và thảo luận căn kẽ chuyên sâu trong cuốn sách tiếp theo về biển Đông.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80593; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.891937255859375pt; margin: 1.89194pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Nhiệm vụ cuối cùng của cuốn sách này là qua việc làm sáng tỏ ngọn nguồn của tranh chấp biển Đông, lí giải tình hình biển Đông hiện nay. Biển Đông hiện là điểm nóng trong quan hệ quốc tế. Từ góc độ lịch sử, cuốn sách này thông qua phân tích lợi ích tại biển Đông cũng như lập trường thái độ của các bên đối với biển Đông trong quan hệ quốc tế ở biển Đông để miêu tả bối cảnh chung của tình hình biển Đông. Do hạn chế về độ dài, cuốn sách không bàn sâu về quân sự và tài nguyên ở biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80593; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.891937255859375pt; margin: 1.89194pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">_____________</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80593; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.891937255859375pt; margin: 1.89194pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Xem tiếp:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></p><div><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-30563945966565147502023-05-10T20:59:00.011-07:002023-05-11T00:52:20.867-07:00TRANH CHẤP ĐẢO ĐÔNG SA GIỮA TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN LÀ MÀN DẠO ĐẦU CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG (Lê Oa Đằng - Ch. I)<span id="docs-internal-guid-aee773cf-7fff-9b78-3e76-c8ef8127f08c"><span style="font-family: verdana;"><br /><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 20pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG I </span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80136; margin-bottom: 10pt; margin-left: 16.162155151367188pt; margin-right: 13.71978759765625pt; margin-top: 9.35516357421875pt; margin: 9.35516pt 13.7198pt 10pt 16.1622pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TRANH CHẤP ĐẢO ĐÔNG SA GIỮA TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN LÀ <span id="docs-internal-guid-e27b6ef7-7fff-2e52-bd7c-05512936ff95"><span style="font-family: Arial; font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">MÀN <span id="docs-internal-guid-ea99ce3f-7fff-c176-7361-8a4cdec52f4c"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">DẠO</span></span> ĐẦU</span></span> CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG </span></h1><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376pt; margin-top: 28.0588pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.1 Địa lí cơ bản của biển Đông </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80097; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 2.69879150390625pt; margin-top: 8.875244140625pt; margin: 8.87524pt 2.69879pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông có diện tích 3,5 triệu km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tiếp giáp với vịnh Thái Lan theo đường ranh giới kéo dài từ Cà Mau miền Nam Việt Nam đến Kota Bharu của Malaysia. Xung quanh được bao bọc bởi đại lục, bán đảo và quần đảo..., có thể gọi đây là “Địa Trung Hải” của Đông Á. Phía Đông Bắc biển Đông giáp Đài Loan, phía Bắc giáp Trung Quốc đại lục, phía Tây giáp Việt Nam, phía Tây Nam giáp Malaysia (Malaya), Singapore và Indonesia, phía Nam giáp Malaysia (Sabah và Sarawak) và Brunei, phía Đông giáp Philippines. Các nước xung quanh biển Đông gồm có Trung Quốc (bao gồm chính quyền Bắc Kinh và Đài Bắc. Để tiện cho việc hành văn, chính quyền Trung Quốc ở Bắc Kinh sau năm 1949 gọi tắt là Trung Quốc, Đại lục hoặc Bắc Kinh, chính quyền Đại Bắc gọi là Đài Loan để không lẫn lộn về ý nghĩa), Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines, tổng cộng có 7 nước 8 bên. Quốc tế gọi vùng biển này là biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Trung Quốc gọi là Nam Hải, Việt Nam gọi là biển Đông, Philippines gọi là biển Tây Philippines. Để thuận tiện, cuốn sách này dùng tên gọi Nam Hải (bản dịch chuyển thành ‘biển Đông’ trừ những chỗ thấy cần giữ nguyên) theo cách gọi của Trung Quốc. Biển Đông theo nghĩa rộng bao gồm Vịnh Thái Lan, nhưng vì các lãnh thổ và vùng biển có tranh chấp ở biển Đông đều tập trung ở phía Đông đường nối Cà Mau của Việt Nam với quần đảo Natuna của Indonesia, nên biển Đông trong cuốn sách này chỉ vùng biển phía Đông đường nối này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80026; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông có nhiều đảo. Cái thường được gọi là ‘các đảo ở biển Đông’ (南海諸島: Nam hải chư đảo) chỉ hàng loạt đảo / rạn đá san hô cách xa đất liền phân bố trên biển Đông. Từ góc độ địa lí, quốc tế thường chia các đảo ở biển Đông thành 5 quần đảo (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 1</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">): Pratas Islands (quần đảo Đông Sa), Macclesfield Bank (quần đảo Trung Sa), Scarborough Shoal (đảo Hoàng Nham /bãi Dân Chủ / bãi cạn Scarborough-ND), Paracel Islands (quần đảo Tây Sa, quần đảo Hoàng Sa) và Spratly Islands (quần đảo Nam Sa, quần đảo Trường Sa).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Trung Quốc gộp đảo Hoàng Nham vào trong quần đảo Trung Sa. Căn cứ danh mục tiêu chuẩn của Trung Quốc, Nam Sa (Trường Sa) có tổng cộng hơn 280 đảo, đá, bãi ngầm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80317; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.31121826171875pt; margin-top: 2.1341552734375pt; margin: 2.13416pt 2.31122pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể chia tranh chấp lãnh thổ các đảo ở biển Đông thành 3 nhóm: bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham) chỉ tồn tại tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines; Hoàng Sa (Tây Sa) chỉ tồn tại tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam; Trường Sa (Nam Sa) là quần đảo có tranh chấp lớn nhất, liên quan đến 5 nước là Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, nhưng tranh chấp chủ yếu tập trung vào 3 nước Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. </span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUwGFDBvOLhs7OhsuA8kzAlvFWKsDUq1O8FM65k5GVO1R-8rIgkzGovojq9r7ejNEvHqxfRrxCmeryByJI_R3cPRIXHIGHPQZaIRmtjGyZzLLzThR7twWmCGeISacfVQFd_syyeD-5k_lSmr8MPJNT0uN4IeeaR9LSyI4uRstqCecbNBaixhcPA2upbg/s1462/CHN_SCS_Map_ed.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1462" data-original-width="1076" height="722" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUwGFDBvOLhs7OhsuA8kzAlvFWKsDUq1O8FM65k5GVO1R-8rIgkzGovojq9r7ejNEvHqxfRrxCmeryByJI_R3cPRIXHIGHPQZaIRmtjGyZzLLzThR7twWmCGeISacfVQFd_syyeD-5k_lSmr8MPJNT0uN4IeeaR9LSyI4uRstqCecbNBaixhcPA2upbg/w533-h722/CHN_SCS_Map_ed.jpg" width="533" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br /></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.79928; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.000556945800781pt; margin-right: 6.61199951171875pt; margin-top: 2.1171875pt; margin: 2.11719pt 6.612pt 10pt 9.00056pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 1</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ các đảo ở biển Đông do Trung Quốc xuất bản</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80507; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.95379638671875pt; margin: 1.9538pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phạm vi yêu sách chủ quyền của các nước ở quần đảo Nam Sa là khác nhau: Trung Quốc yêu sách toàn bộ quần đảo Trường Sa; quần đảo Trường Sa mà Việt Nam yêu sách chủ quyền không bao gồm mấy bãi ngầm ở phía Nam (như bãi ngầm James [Tăng Mẫu], bãi ngầm Bắc Khang [North Luconia]...); quần đảo Trường Sa mà Philippines tuyên bố chủ quyền không bao gồm các bãi ngầm ở phía Nam như trên cũng như đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) và các đảo, đá, bãi ngầm ở phía Tây đảo này; Malaysia chỉ yêu sách các đảo, đá và bãi ngầm nằm trên phần kéo dài của thềm lục địa nước này; Brunei chỉ tuyên bố chủ quyền đối với rạn san hô Louisa (đá Nam Thông, Louisa Reef). Còn về mặt chiếm đóng trên thực tế, theo Trung Quốc, Việt Nam kiểm soát nhiều đảo, đá của quần đảo Nam Sa nhất, lên đến 29 đảo, đá;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines thứ hai, chiếm đóng 10 đảo, đá;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> còn Malaysia thì chiếm đóng 8 đảo, đá,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngoài ra ở vùng biển phụ cận bãi ngầm Luconia, bãi ngầm Luconia Nam, bãi ngầm James (Tăng Mẫu) có số lượng lớn giàn khoan khai thác dầu, khí đốt trên biển. Chủ quyền của Brunei đối với đá Louisa (Nam Thông) gần đây được Malaysia thừa nhận, nhưng không có dấu vết của sự quản lí trên thực tế. Ngoài ra, yêu sách của Indonesia không liên quan đến chủ quyền các đảo và bãi ngầm, nhưng lại yêu sách chủ quyền đối với vùng biển phụ cận quần đảo Natuna, vốn không có tranh chấp chủ quyền, nhưng có thể chồng lấn với vùng biển trong đường 9 đoạn của Trung Quốc khoảng 50 000 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80596; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.582962036132812pt; margin-right: 6.54840087890625pt; margin-top: 2.00494384765625pt; margin: 2.00494pt 6.5484pt 10pt 8.58296pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc đại lục đã chiếm đóng 10 đảo, đá gồm: đá Xu Bi (đá Chử Bích, Subi Reef), đá Én Đất (đá An Đạt, Eldad Reef), đá Gaven (đá Nam Huân, Gaven Reef), đá Gạc Ma (đá Xích Qua, Johnson South Reef); đá Ba Đầu (đá Ngưu Ách, Whitsun Reef), đá Tư Nghĩa (đá Đông Môn, Hughes Reef), đá Ken Nan (đá Tây Môn, McKennan Reef), đá Chữ Thập (đá Vĩnh Thử, Fiery Cross Reef), đá Châu Viên (đá Hoa Dương, Cuarteron Reef), đá Vành Khăn (đá Mĩ Tế, Mischief Reef). Ngoài ra gần đây Trung Quốc cũng mở rộng phạm vi tuần tra ở các vùng biển khác thuộc biển Đông, khả năng đã hình thành sự kiểm soát đối với các đảo, đá khác, khó để đánh giá mức độ của những sự kiểm soát này. 10 đảo, đá mà Trung Quốc chiếm đóng trên thực tế, có cái là bãi đá, có cái chỉ là bãi triều thấp (tức trong trạng thái tự nhiên không thể nổi lên mặt nước khi thủy triều lên), nhưng Trung Quốc đại lục đều đã xây dựng những kiến trúc nhân tạo lên trên những thể địa lí này, vẫn có thể nhô lên trên mặt nước khi triều cao. Bắt đầu từ năm 2014, Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo nhân tạo với quy mô lớn, diện tích thực tế của một số đảo nhân tạo đã lớn hơn diện tích đảo Ba Bình để trở thành phần đất liền lớn nhất của Trường Sa. Đài Loan kiểm soát đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (đảo Thái Bình, Itu Aba Island) và bãi Bàn Than (đá Trung Châu) gần đó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 1.89886pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng 1: Các đảo, đá chủ yếu mà các nước có tuyên bố chủ quyền chiếm </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 9.35522pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giữ ở quần đảo Nam Sa </span></p><div align="center" dir="ltr" style="margin-left: 0pt;"><table style="border-collapse: collapse; border: none;"><colgroup><col width="95"></col><col width="170"></col><col width="129"></col><col width="135"></col></colgroup><tbody><tr style="height: 28.08pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 7.684791564941406pt; margin-right: 3.35980224609375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 3.3598pt 0pt 7.68479pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên chiếm giữ</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tên tiếng Trung </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tên tiếng Anh </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 8pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Diện tích (ha, 10 000m²)</span></p></td></tr><tr style="height: 9.36pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đài Loan </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.74798583984375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.74799pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Ba Bình (Thái Bình)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 5.77917pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Itu Aba </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 5.69281pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43</span></p></td></tr><tr style="height: 21.456pt;"><td rowspan="6" style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.9328155517578125pt; margin-right: 1.77197265625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.77197pt 0pt 5.93282pt; text-align: justify; text-indent: 0.071991pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.12479pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Spratly Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 7.11841pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15</span></p></td></tr><tr style="height: 27.936pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 5.846405029296875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 5.84641pt 0pt 6.00481pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Song Tử Tây (Nam Tử)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.12479pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Southwest Cay </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 7.11841pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13</span></p></td></tr><tr style="height: 25.56pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.70880126953125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.7088pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Sinh Tồn (Cảnh Hồng)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.12479pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sin Cowe Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.32642pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8</span></p></td></tr><tr style="height: 25.632pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.791168212890625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.79117pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Nam Yết (Hồng Hưu)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Namyit Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.32642pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.912384033203125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.91238pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Sơn Ca (bãi Đôn Khiêm)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 6.12479pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sand Cay </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 5.95203pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.97601318359375pt; margin-right: 1.67999267578125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.67999pt 0pt 5.97601pt; text-align: justify; text-indent: 0.0287933pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo An Bang (An Ba)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.73599pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Amboyna Cay </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -2.232pt -2.232pt -2.232pt -2.232pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.95203pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td rowspan="7" style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-right: -34.3008pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-right: 1.81158pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.7648pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thitu Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.13922pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.679779052734375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.67978pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.59198pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">West York Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 7.11841pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-right: 5.84641pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Song Tử Đông (Bắc Tử )</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Northeast Cay </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 7.11841pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.869171142578125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.86917pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Vĩnh Viễn (Mã Hoan)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nanshan Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.15363pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.680389404296875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.68039pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Loại Ta (Nam Thược)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Loaita Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.80801pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.9328155517578125pt; margin-right: 1.792388916015625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.79239pt 0pt 5.93282pt; text-align: justify; text-indent: 0.071991pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Bình Nguyên (Phí Tín)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Flat Island </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69281pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.926788330078125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.92679pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bãi An Nhơn (Dương Tín)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lankiam Cay </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.86563pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">0,44</span></p></td></tr><tr style="height: 23.256pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.9328pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.795989990234375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.79599pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Hoa Lau (Đạn Hoàn)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.7791748046875pt; margin-right: 1.878814697265625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.87881pt 0pt 5.77917pt; text-align: justify; text-indent: 0.345612pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Swallow Reef Island</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: 5pt; vertical-align: top;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td rowspan="10" style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 5.846405029296875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 5.84641pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Chữ Thập (Vĩnh Thử)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Fiery Cross Reef </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.8896026611328125pt; margin-right: 1.723175048828125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.72318pt 0pt 5.8896pt; text-align: justify; text-indent: 0.115204pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Vành Khăn (Tế)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mischief Reef </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.76239013671875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.76239pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Su Bi (Chử Bích)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.12479pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Subi Reef </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.897979736328125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.89798pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Ga Ven (Nam Huân)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.98077pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gaven Reefs </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.897979736328125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.89798pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Gạc Ma (Xích Qua)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.66400146484375pt; margin-right: 1.878814697265625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.87881pt 0pt 5.664pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.1008pt; text-align: justify; text-indent: -0.1008pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Johnson South Reef</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.767181396484375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.76718pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Châu Viên (Hoa Dương)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.92319pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuarteron Reef </span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.76483pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo</span></p></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.883575439453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.88358pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Tư Nghĩa (Đông Môn)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.79358pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hughes Reef</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><br /></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.897979736328125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.89798pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.345596pt; text-align: justify; text-indent: -0.345596pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Ba Đầu (Ngưu Ách)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.59198pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Whitsun Reef</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><br /></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 1.897979736328125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 1.89798pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.244797pt; text-align: justify; text-indent: -0.244797pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Ken Nan (Tây Môn)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">McKennan Reef</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><br /></td></tr><tr style="height: 16.056pt;"><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 6.0048065185546875pt; margin-right: 8.736785888671875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 8.73679pt 0pt 6.00481pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.0576019pt; text-align: justify; text-indent: -0.0576019pt;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Én Đất (An Đạt)</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 5.69278pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 9pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Eldad Reef</span></p></td><td style="border-bottom: solid #000000 1pt; border-color: rgb(0, 0, 0); border-left: solid #000000 1pt; border-right: solid #000000 1pt; border-style: solid; border-top: solid #000000 1pt; border-width: 1pt; overflow-wrap: break-word; overflow: hidden; padding: -9.432pt -9.432pt -9.432pt -9.432pt; vertical-align: middle;"><br /></td></tr></tbody></table></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.75576pt; margin-top: 45.3308pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng 1 liệt kê các đảo chủ yếu mà các nước kiểm soát, số liệu diện tích tự nhiên của các đảo lấy từ công trình địa lí về Trường Sa của Hancox và Prescott.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những ước tính về diện tích này không nhất định là đáng tin cậy, đặc biệt là khi thủy triều lên và xuống, sai khác về diện tích là rất lớn. Vì vậy những con số này chỉ có ý nghĩa tham khảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79532; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.8651123046875pt; margin: 1.86511pt 6.51959pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số những đảo, đá này, tính theo diện tích tự nhiên, chỉ có 11 đảo là có thể thích hợp cho con người sinh sống.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng trong Phán quyết Trọng tài biển Đông năm 2016, những “đảo” này đều bị coi là đá. 11 đảo chủ yếu này do Đài Loan, Việt Nam và Philippines chia nhau chiếm giữ: Đài Loan kiểm soát đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (Thái Bình), Việt Nam kiểm soát đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) ở phía Tây và đảo Song Tử Tây (đảo Nam Tử), đảo Sinh Tồn (đảo Cảnh Hồng), đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu) ở phía Bắc; Philippines kiểm soát 6 đảo ở phía Bắc và phía Đông là đảo Thị Tứ (đảo Trung Nghiệp), đảo Song Tử Đông (đảo Bắc Tử), đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo Bến Lạc (đảo Tây Nguyệt), đảo Bình Nguyên (đảo Phí Tín), đảo Vĩnh Viễn (đảo Mã Hoan). </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.2 Biển Đông trước thế kỉ 20 </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80553; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.000556945800781pt; margin-right: 6.55316162109375pt; margin-top: 9.35516357421875pt; margin: 9.35516pt 6.55316pt 10pt 9.00056pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại thể có thể lấy năm 1900 làm mốc để phân chia lịch sử biển Đông thành hai phần là cổ đại và hiện đại. Trước đó, hoàn toàn chưa xảy ra tranh chấp chủ quyền các đảo ở biển Đông, giai đoạn lịch sử này đã được thảo luận chi tiết trong cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong - Nam Hải trước thế kỉ 20</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của tôi. Ở đây chỉ đưa ra các giải thích có tính khái quát. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80552; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.54840087890625pt; margin-top: 2.147216796875pt; margin: 2.14722pt 6.5484pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể chia lịch sử biển Đông trước thế kỉ 20 thành 2 thời kì là cổ đại và cận đại, và lại có thể tiến một bước khi lấy khoảng năm 960 làm ranh giới để phân chia biển Đông cổ đại thành hai giai đoạn là viễn cổ- trung cổ và cận cổ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 1.84891pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Viễn cổ-Trung cổ </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80571; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.135223388671875pt; margin: 9.13522pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ nhất của biển Đông cổ đại là từ thời viễn cổ đến khi nhà Tống ở Trung Quốc thành lập (khoảng năm 960). Có 2 lí do chính để lấy năm 960 làm ranh giới. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trước và sau năm này, Việt Nam độc lập với Trung Quốc, còn trước đó trong một thời gian dài Việt Nam là một phần của Trung Quốc, hoạt động của “người Trung Quốc” ở biển Đông lúc đó rất khó phân biệt rạch ròi nên thuộc về lịch sử của “người Trung Quốc” hay là lịch sử của “người Việt Nam” sau này. Tuyệt đại bộ phận thời gian sau khi độc lập, Việt Nam là nước độc lập (ngoại trừ những gian đoạn ngắn bị Trung Quốc xâm lược). Thời kì sau đó hoạt động ở biển Đông có thể phân biệt rõ ràng là của người Trung Quốc hay của người Việt Nam. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trước triều Tống, vận tải đường biển của Trung Quốc ở biển Đông kém phát triển, kể từ sau triều Tống, Trung Quốc mới tham dự mạnh mẽ vào hàng hải ở biển Đông, ghi chép và hiểu biết về biển Đông mới tăng lên rõ rệt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80691; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.55316162109375pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.55316pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ thời cổ đại, biển Đông đã là nơi các dân tộc ven biển sinh sống và phát triển. Người châu Á xa xưa nhất thuộc ngữ hệ Nam Đảo là những người đầu tiên đến biển Đông, trong số những người châu Á kế đó thì tộc Bách Việt đến biển Đông thứ hai, còn tộc Hoa Hạ thì đến sau hơn nữa. Mãi đến sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính Nam Việt, Trung Quốc mới tiếp giáp với biển Đông trong thời gian ngắn. Năm 111 TCN, sau khi nhà Hán thôn tính nước Nam Việt, Trung Quốc mới chính thức trở thành nước ven biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80539; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.83221435546875pt; margin: 1.83221pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong giai đoạn này, việc khai thác và sử dụng biển Đông của Trung Quốc rất hạn chế, nói gì đến kiểm soát nó. Bắt đầu từ thời Tây Hán, thương mại và giao thông ở biển Đông đã hưng thịnh, nhưng trong thời gian hơn 1000 năm sau đó, Trung Quốc với vai trò là nơi sản xuất và thị trường của thương mại biển Đông lại thiếu động lực và kinh nghiệm trực tiếp tham dự vào giao thông thương mại ở biển Đông, cho nên hoàn toàn không có sự hoạt động mạnh trong giao thông ở biển Đông. Người Phù Nam, Cham, Ấn Độ, Ba Tư và Ả Rập... lần lượt trở thành nhân vật chính của giao thông biển Đông, người Trung Quốc chỉ đóng góp một phần vào giao thông đường biển gần bờ dọc theo bờ biển Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), Giao Chỉ. Lợi ích chính trị, kinh tế của Trung Quốc chủ yếu lấy việc kiểm soát đối với đất liền, đối với Trung Quốc biển Đông không có nhiều ý nghĩa chiến lược. Tùy Dượng Đế từng có mưu đồ mở rộng sức ảnh hưởng ở biển Đông, nhưng rất nhanh chóng kết thúc vì sự diệt vong của nhà Tùy. Nhà Đường cũng không có ham muốn kiểm soát biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80851; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.850555419921875pt; margin: 1.85056pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì này không có bằng chứng đáng tin cậy nào có thể chứng minh rằng khi đó Trung Quốc đã biết về các đảo ở biển Đông được ghi chép lại, không có bằng chứng cho thấy rằng người Trung Quốc đã từng có hoạt động sản xuất trên các đảo ở biển Đông, càng không có bằng chứng cho thấy rằng Trung Quốc từng kiểm soát các đảo ở biển Đông. Điều này hoàn toàn không lạ bởi vì nhận thức về biển thời cổ đại bắt nguồn từ việc phát triển các tuyến đường biển. Nhận thức của Trung Quốc về biển Đông (khi đó gọi là Trướng Hải) thời nhà Đường chỉ hạn chế ở phạm vi các tuyến đường biển xung quanh mà các nước ngoài khai thác. Trước thời Tùy, tuyến đường biển ở biển Đông là tuyến đường ven biển đi qua vịnh Đông Kinh (còn gọi là vịnh Bắc Bộ), đương nhiên khó phát hiện các đảo ở biển Đông. Đến thời kì nhà Tùy và nhà Đường, tuyến đường đi tắt (tuyến đường xuyên biển ) từ Chiêm Thành đến Quảng Châu mới được mở ra, đi qua vùng biển phụ cận quần đảo Hoàng Sa, nên mới có khả năng phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. Vào thời nhà Đường, người Ả Rập chiếm vai trò độc tôn trong giao thông ở biển Đông, có lẽ họ đã phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa sớm nhất, nhưng vì ghi chép không chính xác nên khó mà xác nhận được; còn về quần đảo Trường Sa, do nằm cách xa tuyến đường giao thông nên càng có ít người biết đến. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80664; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.757232666015625pt; margin: 9.75723pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần phải chỉ ra là kể từ sau khi bị nhà Hán thôn tính, trong thời kì dài hơn 1000 năm Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc trong khoảng thời gian này là lịch sử chung của Trung Quốc hiện đại và Việt Nam hiện đại. Khi đó, hoạt động của “người Trung Quốc” ở biển Đông, bao gồm các hoạt động sản xuất (gần bờ) và vận tải đường biển (quãng đường ngắn), trên mức độ rất lớn là thuộc về người Việt vốn bị gọi là “bọn phiên di Cao Lương” (高涼生口: Cao Lương sinh khẩu). Vì vậy, ngay cả người Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với biển Đông trong thời kì này thì theo luật quốc tế cũng khó có thể độc chiếm quyền này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.75576pt; margin-top: 28.0099pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông thời Cận cổ </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80597; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 1.49884033203125pt; margin-top: 17.03515625pt; margin: 17.0352pt 1.49884pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ hai của biển Đông cổ đại từ khi nhà Tống ở Trung Quốc thành lập đến trước thời cận đại (từ năm 961 đến khoảng năm 1840). Nhà Tống là một quốc gia coi trọng ngoại thương. Do khu vực con đường tơ lụa đi qua bị Khiết Đan (nước Liêu), nước Kim và Đại Hạ (Tây Hạ) khống chế, nên kể từ khi thành lập nhà Tống đã bắt đầu coi trọng thương mại biển. Với sự gia tăng sức mạnh trên biển, Trung Quốc bắt đầu phát triển thành một cường quốc lớn trong thương mại ở biển Đông. Nhưng cùng lúc đó, các thương nhân Ả Rập, Ba Tư và Cham... vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong vận tải đường biển ở biển Đông. Họ xây dựng các khu cư trú người nước ngoài ở các hải cảng của Trung Quốc, thế lực của họ lớn tới mức nhà Tống phải ủy nhiệm người Cham (có giả thuyết là người Ả Rập) Bồ Thọ Canh làm quản lí tàu thuyền ở Tuyền Châu. Sau khi Mông Cổ chinh phục Trung Quốc, nhà Nguyên tiếp tục duy trì thế mạnh trên biển. Vào nửa cuối thế kỉ 13, người Mông Cổ đã tiến hành 4 cuộc hải chiến ở biển Đông: hải chiến Nhai Châu giữa Mông Cổ và Tống, hải chiến Mông Cổ và Đại Việt, hải chiến Mông Cổ với Cham và hải chiến Mông Cổ với Java. Ngoài thất bại trong cuộc chiến cuối cùng, ba cuộc chiến kia đều chiến thắng đối thủ, điều này cho thấy sức mạnh hải quân nhà Nguyên khi đó rất lớn. Thời kì nhà Nguyên, người Ả Rập cũng bị người Mông Cổ chinh phục khiến cho vận tải đường biển của người Ả Rập tương đối suy yếu. Trong thời kì này Trung Quốc mới có thể cạnh tranh được với người Ả Rập ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80747; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.773880004882812pt; margin: 9.77388pt 6.51959pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng đến thời Minh, Trung Quốc lại sớm bắt đầu việc cấm biển. Chu Nguyên Chương quy định tư nhân không được đi biển. Trong thời kì Minh Thành Tổ Chu Đệ, có việc Trịnh Hòa, đi biển Tây (Tây dương) nhưng cũng chỉ là thời huy hoàng ngắn ngủi. Sau khi Trịnh Hòa mất Trung Quốc lại quay trở lại việc cấm biển. Triều Minh muốn xây dựng “hệ thống bá chủ” (宗藩體 制: tông phiên thể chế), tức là biến quan hệ thương mại quốc tế đơn thuần vốn có trở thành một thủ đoạn chính trị, và việc “triều cống” của các nước trở thành phương thức thương mại duy nhất với Trung Quốc. Tuy nhiên, làm như thế trái lại đã khiến thế lực của Trung Quốc ở biển Đông đã bị hạn chế rất nhiều. Ngoài buôn lậu và cướp biển bị chính quyền Trung Quốc xem là phi pháp, tuyệt đại bộ phận thương mại và giao thông ở biển Đông đều là “thuyền chở đồ triều cống” của nước ngoài, hoặc thuyền buôn của phương Tây (đến Ma Cao). Trong thời nhà Minh, trọng tâm sự chú ý của Trung Quốc đối với vùng biển xung quanh là phòng thủ biển chống lại “Oa Khấu” (Wakou)- những kẻ buôn lậu và cướp biển Trung Quốc cùng với một số kẻ “giang hồ” Nhật Bản. Những kí ức về Oa Khấu còn liên tục kéo dài đến năm 1840 thời Thanh. Khi đó, cuốn “Dương phòng tập yếu” do tỉnh Quảng Đông biên soạn còn đề cập rất nhiều đến Oa Khấu. Cấm biển thời Thanh thậm chí còn nghiêm ngặt hơn thời Minh. Đến thời Càn Long (giữa thế kỉ 18) quy định chỉ giữ lại một cảng để buôn bán với nước ngoài là Quảng Châu, Trung Quốc bước vào thời kì “bế quan tỏa cảng”. Chính sách cấm biển tuy có đôi lúc bị đảo ngược, nhưng về cơ bản toàn bộ thời Minh, Thanh việc cấm biển vẫn là chủ yếu. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8039; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.770339965820312pt; margin: 9.77034pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn chung toàn bộ thời cận cổ, các triều Tống, Nguyên tương đối coi trọng lợi ích trên biển ở biển Đông, trong khi triều Minh, Thanh thì ngược lại. Sau thời Trịnh Hòa, sự kiểm soát của Trung Quốc đối với biển Đông trong phần lớn thời gian là rất yếu, giao thông ở biển Đông cũng không phát triển. Trong sách “Hải lục” của người thời Thanh có nhắc đến vào cuối thế kỉ 18 có 4 tuyến đường biển ở biển Đông, thuyền và thủy thủ của Trung Quốc do thiếu kĩ thuật nên chỉ có thể đi trên hai tuyến đường biển ở ven bờ, còn hai tuyến đường kia, một tuyến cần phải đi xuyên qua đường biển nằm giữa Hoàng Sa và Trung Sa, tuyến khác cần phải đi xuyên qua đường biển phụ cận Trường Sa, tất cả đều chỉ có tàu bè nước ngoài mới có thể đi qua được. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80819; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.715576171875pt; margin: 9.71558pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ thời Tống, những ghi chép về các đảo ở biển Đông tương đối nhiều, nhưng tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa rất khác nhau, cần phải thảo luận riêng. Mặc dù rất có thể Hoàng Sa đã được các nhà hàng hải thời trước thế kỉ 10 biết đến, nhưng không có bằng chứng chắc chắn. Hơn nữa, trước thời Tống địa vị trong giao thông ở biển Đông của Trung Quốc không hề mạnh mẽ, nên rất ít có khả năng người Trung Quốc phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80539; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.496917724609375pt; margin: 9.49692pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi bàn luận về việc Trung Quốc phát hiện quần đảo Hoàng Sa trước thời Tống, học giả Trung Quốc ít ra đã phạm hai sai lầm. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lấy bộ phận khái quát thành tổng thể, lấy “Trướng Hải sinh từ thạch” trong thư tịch cổ để nói thành người Trung Quốc phát hiện “các đảo san hô ở Nam Hải rộng lớn bao gồm Tây Sa và Nam Sa”, thật ra ngay cả những từ thạch này đúng là đá san hô thật thì cũng chỉ cho thấy rằng Trung Quốc biết ở biển Đông có những đá san hô này. Ở khu vực ven biển Đông cũng có đá san hô, nên phát hiện đá san hô hoàn toàn không đồng nhất với phát hiện ra Hoàng Sa và Trường Sa. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “cưỡng đoạt” lịch sử, coi những việc được ghi chép trong thư tịch Trung Quốc là việc do người Trung Quốc làm. Ví dụ, những ghi chép của Giả Đam thời Đường về các tuyến đường biển ở biển Đông thật ra đó chỉ là ghi chép lại những điều do người nước ngoài biết được kể lại, nhưng lại được diễn giải thành bằng chứng cho việc người Trung Quốc khai phá các tuyến đường này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80929; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.424560546875pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.23406982421875pt; margin: 9.23407pt 6.51935pt 10pt 8.42456pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mãi đến đầu đời nhà Tống (1018) mới xuất hiện ghi chép có thể khẳng định thật sự đó là quần đảo Hoàng Sa, trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tống hội yếu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” khi chép việc sứ giả Cham đi sứ Trung Quốc có nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi đến Quảng Châu, nếu thuyền bị gió thổi trôi đến Thạch Đường, thì đi mãi cũng không đến được.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo mô tả về tuyến đường và vị trí địa lí, Thạch Đường ở đây chắc chắn là Hoàng Sa. Vì vậy, xét đoán từ bằng chứng theo sử liệu này thì Cham là người phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa sớm nhất. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80707; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.483734130859375pt; margin: 9.48373pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời gian dài, Hoàng Sa là cái tên mà các nhà hàng hải các nước nghe đến là sợ, nơi nguy hiểm cần phải hết sức tránh khi đi biển. Có thể từ thời Minh ở Trung Quốc, bắt đầu có ngư dân đến nơi này đánh cá. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều nói ngư dân của mình đã đến khu vực này đánh cá từ rất lâu, nhưng thời điểm bắt đầu chính xác thì không chắc chắn, vì cuộc sống của những “người dân lớp dưới” này nói chung không được ghi chép trong sử sách. Những năm gần đây, khảo cổ ở Hoàng Sa có được thành quả to lớn, nhưng thành quả chủ yếu đều là di vật tàu đắm của các thời kì, hoàn toàn không thể chứng minh về hoạt động ngư nghiệp. Một số dấu vết của cuộc sống con người cũng được tìm thấy ở Hoàng Sa , nhưng vì có sự tương đồng trong văn hóa, phong tục của Việt Nam và Trung Quốc, các đồ dùng của người Việt Nam rất giống với đồ dùng của người miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là người Hải Nam, họ cùng viết chữ Hán, cùng thờ cúng bà Thiên Hậu (do chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa Trung Quốc), nên những vết tích về đời sống con người này khó xác định thuộc về ai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80545; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau thời nhà Tống, Trung Quốc có rất nhiều ghi chép về biển Đông và Hoàng Sa, nhưng tuyệt đại bộ phận sách địa lí đều không chỉ ra chính xác sự quy thuộc của Hoàng Sa, ngược lại có một số sách viết là Hoàng Sa nằm trong biên giới Việt Nam hoặc thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ, cuốn sách hướng dẫn hàng hải “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thuận phong tương tống</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có viết rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc “biển Giao Chỉ”, khi đi sứ Nam Dương, sứ giả nhà Minh là Ngô Huệ đã miêu tả rằng đi vào biên giới Giao Chỉ trước khi đi qua quần đảo Hoàng Sa. Trong hệ thống phương chí của Trung Quốc, kể từ triều Vạn Lịch thời Minh đã có ghi “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn Châu có biển Trường Sa, biển Thạch Đường</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng kèm theo câu nói này đều có chú giải là “sách cổ viết” và “chưa tra cứu rõ sự thực”. Nhưng truy ngược về cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quỳnh quản chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” mà họ dựa vào, trong đó chỉ đề cập đến câu “phía Đông là Thiên Lí Thạch Đường, Vạn Lí Trường Sa” của Cát Dương Quân, khi đó Thiên Lí Thạch Đường và Vạn Lí Trường Sa đều để chỉ quần đảo Hoàng Sa, nó được liệt kê cùng với tên các nước ngoài như Chân Lạp ở phía Tây và Chiêm Thành ở phía Nam, và không có ý nghĩa về sự quy thuộc lãnh thổ. Vì vậy, những bằng chứng này hoàn toàn không thể chứng minh việc Trung Quốc đặt Tây Sa dưới sự quản lí của Vạn Châu. Địa lí chí cấp quốc gia càng có tính chính thức hơn, ví dụ trong 7 bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhất thống chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” từ thời Nguyên đến thời Thanh, những ghi chép “chưa tra cứu rõ sự thực” này hoàn toàn không được đưa vào. Điều này đã cho thấy chính quyền trung ương Trung Quốc không hề xem những nơi này thuộc về Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80018; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.635589599609375pt; margin: 9.63559pt 6.51959pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các bản đồ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thiên hạ nhất thống chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” và các bản đồ Đông Nam di, Tây Nam Di từ thời Minh trở về sau, phần nhiều đều có các tên Thạch Đường và Trường Sa xuất hiện, nhưng vị trí cụ thể của chúng rất khó xác định. Bản đồ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thiên hạ nhất thống chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” phải được xem là bản đồ thế giới, các địa điểm trên bản đồ không phải tất cả đều là địa điểm ở Trung Quốc; trên bản đồ, Trường Sa và Thạch Đường lẫn lộn trong tên các nước ngoài, khó mà xác định là một bộ phận của Trung Quốc, có bản đồ thậm chí còn dùng màu sắc và giới tuyến biểu thị nó nằm ở phía ngoài lãnh thổ quốc gia Trung Quốc. Trường Sa và Thạch Đường xuất hiện trong các bản đồ Tây Nam di, Đông Nam di càng giống như một bộ phận của nước ngoài. Lãnh thổ trong các bản đồ cấp quốc gia của Trung Quốc đều dừng lại ở đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều không nằm trong đó. Bản đồ các tỉnh (tỉnh Quảng Đông), bản đồ các châu, phủ (Quỳnh Châu và Vạn Châu) cũng đều không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ phòng thủ biển của Trung Quốc thường có bao gồm những vùng không thuộc về Trung Quốc nhưng trọng yếu đối với việc phòng thủ biển của Trung Quốc (như Đài Loan thời Minh). Dù vậy, trên những bản đồ này cũng không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thời cổ đại rõ ràng không thuộc khu vực hành chính của Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80384; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.78564453125pt; margin: 9.78564pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong luật quốc tế, quy định phát hiện đơn thuần không thể sản sinh ra chủ quyền, hoạt động tư nhân đơn thuần cũng không thể sản sinh chủ quyền, tác dụng của bản đồ cũng không được đánh giá cao, còn bằng chứng về sự quản lí thực tế của nhà nước mới là trọng yếu. Tuy nhiên, những bằng chứng về sự quản lí đối với Hoàng Sa mà Trung Quốc đưa ra vừa mơ hồ vừa phân tán. Địa điểm trong đo đạc Tứ Hải thời Nguyên không thể kiểm chứng được, nhưng nhiều khả năng nó ở miền Trung Việt Nam (tức Lâm Ấp) hơn là ở Hoàng Sa. Ngay cả khi việc đo đạc thực hiện ngay tại Hoàng Sa, nhưng do công trình đo đạc của họ có nhiều địa điểm nằm ngoài lãnh thổ, khó có thể vì thế mà cho rằng Trung Quốc có thể thể hiện chủ quyền một cách chắc chắn. Bằng chứng việc Trung Quốc tuần tra ở Hoàng Sa rất mơ hồ: ghi chép trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vũ kinh tổng yếu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” thời Tống trên thực tế là ghi chép một lần xuất chinh chứ không phải ghi chép về việc tuần tra; ghi chép về tuần tra của tướng Sài Công thời Minh rất khó chứng minh rằng ông ta đã tuần tra đến Hoàng Sa; các ghi chép trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuần la kí lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Ghi chép tuần tra) của Hoàng Tả thời Minh thật ra chẳng qua là việc các nhà sử học Trung Quốc bẻ cong thông tin địa lí do người đời sau chú giải thành tuyến đường tuần tra; Thất Châu Dương mà Ngô Thăng thời Thanh khi tuần tra đảo Hải Nam đi qua phải là các đảo Thất Châu ở đông bắc Hải Nam. Có bằng chứng thuyết phục cho thấy Trung Quốc khi đưa quân ra nước ngoài đã đi qua quần đảo Hoàng Sa, cũng có bằng chứng cho thấy có thể Trịnh Hòa đã đi qua quần đảo Hoàng Sa trong chuyến đi biển Tây (Tây dương). Nhưng những sự kiện này đều là những ví dụ về cuộc viễn chinh và chuyến đi biển đặc biệt, khó được xem là thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80664; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.02935791015625pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.5101318359375pt; margin: 9.51013pt 6.51959pt 10pt 9.02936pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, trước thời cận đại, dù Trung Quốc có rất nhiều ghi chép về quần đảo Hoàng Sa, cũng có hoạt động tư nhân ở quần đảo Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc vừa không sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ của mình vừa không có bằng chứng thuyết phục chứng tỏ đã quản lí Hoàng Sa, rất khó để cho rằng Trung Quốc đã có chủ quyền đối với Hoàng Sa từ thời cổ đại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chủ quyền lịch sử của Việt Nam </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80748; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 17.03515625pt; margin: 17.0352pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam hiện nay trong lịch sử là hai quốc gia. Phần phía Bắc với tộc người Việt là chủ thể, trước thế kỉ 10 bị Trung Quốc thống trị, sau khi độc lập năm 958 tiếp tục giữ địa vị độc lập trong thời gian dài, tên gọi là Đại Việt. Đây là quốc gia chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Trung Quốc. Phần phía Nam là Chiêm Thành (còn gọi Champa) đã dựng nước từ thế kỉ 2 TCN với tộc người Cham là chủ thể. Nước này trong vòng văn hóa Ấn Độ. Trong lịch sử, Đại Việt và Chiêm Thành từng đánh nhau trong thời gian dài, cuối cùng vào thế kỉ 18, chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam (còn gọi là Đàng Trong) đã tiêu diệt hoàn toàn Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ đến miền Nam Việt Nam, sau đó lại chiếm được lãnh thổ ở châu thổ sông Mekong từ tay Cao Miên để hình thành nên nước Việt Nam hiện nay. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80722; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.56756591796875pt; margin-top: 9.505401611328125pt; margin: 9.5054pt 6.56757pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Việt và Chiêm Thành hoạt động rất mạnh mẽ trong giao thông ở biển Đông thời cổ đại, nhất là Chiêm Thành. Trong các ghi chép có thể xác nhận, Chiêm Thành là nước phát hiện quần đảo Hoàng Sa sớm nhất, nhưng kiểu “quyền sơ khai” hình thành trên cơ sở phát hiện không thể chuyển hóa thành chủ quyền đích thực. Trong khoảng thời gian rất dài sau khi Việt Nam giành độc lập từ Trung Quốc, những ghi chép về Hoàng Sa của Việt Nam hầu như là con số không. Như trên đã trình bày, cùng thời kì này Trung Quốc cũng thiếu bằng chứng có sức thuyết phục để chứng minh ý đồ chủ quyền và sự quản lí hữu hiệu của mình. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80851; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.101356506347656pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.748504638671875pt; margin: 9.7485pt 6.51959pt 10pt 9.10136pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng bắt đầu từ thế kỉ 17, Việt Nam bắt đầu dần dần quản lí Hoàng Sa. Giữa hoặc nửa sau thế kỉ 17, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” do Đỗ Bá vẽ bắt đầu nói đến việc chính quyền chúa Nguyễn ở miền Nam Việt Nam (còn gọi là Đàng Trong) hàng năm đều cử người đến vớt của rơi của các tàu gặp nạn ở một nơi gọi là bãi Cát Vàng (Hoàng Sa than). Phía Việt Nam cho rằng bãi Cát Vàng ở đây chính là Tây Sa (Việt Nam gọi là Hoàng Sa). Việc chúa Nguyễn hàng năm cử người đến Hoàng Sa vớt của đều được nhắc đến trong 3 loại tác phẩm độc lập khác. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong sách của người Pháp Pierre Poivre nhắc đến việc ông nghe nói rằng chúa Nguyễn cử người đến “Paracels” vớt của. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải ngoại kỉ sự</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của nhà sư Trung Quốc Đại Sán Hán Ông cũng đã tường thuật việc chính quyền Việt Nam hàng năm cử đội Hoàng Sa đi đến “Vạn Lí Trường Sa” trục vớt của rơi. Từ mô tả phương hướng có thể thấy rằng Vạn Lí Trường Sa ở đây rất có thể chính là quần đảo Hoàng Sa, mà Vạn Lí Trường Sa cũng là tên gọi quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc khi đó. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">g và cũng là bằng chứng có sức thuyết phục nhất, chính là sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phủ biên tạp lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Lê Quý Đôn, trong đó có nói đến việc chính quyền hàng năm đều phái đội Hoàng Sa đến Đại Trường Sa (bãi Cát Vàng, Hoàng Sa chử) trục vớt của rơi. Ghi chép này rất tỉ mỉ khiến người ta tin chắc nơi được nói đến ở đây chính là Hoàng Sa hiện nay. Trong 4 tác phẩm này, đặc biệt là 2 tác phẩm sau, đều đã nói rõ chúa Nguyễn đã thật sự phái đội Hoàng Sa đến quần đảo Hoàng Sa hàng năm để trục vớt của rơi. Những hoạt động này mang ý đồ thể hiện chủ quyền mạnh mẽ:</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nó là hành động của nhà nước;</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nó là hành động hàng năm và có quy luật; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cuối cùng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nó mang hàm ý của quản lí hành chính. Có thể nói, từ cuối thế kỉ 17 đến đầu thế kỉ 19, Việt Nam đã bước đầu xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.799; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.115760803222656pt; margin-right: 6.6168212890625pt; margin-top: 9.792984008789062pt; margin: 9.79298pt 6.61682pt 10pt 9.11576pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đến đầu thế kỉ 19, sau khi nhà Nguyễn thành lập, Việt Nam càng quản lí hữu hiệu Hoàng Sa hơn. Đặc biệt là trong hai thời kì 1815-1816 và 1833-1836, hoàng đế Gia Long và hoàng đế Minh Mạng lần lượt phái thủy quân đến Hoàng Sa dựng cờ, đo đạc thủy văn, xây miếu dựng bia và trồng cây để làm cột mốc. Những sự kiện này không những được ghi chép trong sách sử chính thức của nhà nước “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Nam thực lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”..., còn được ghi chép trong ít nhất 4 tác phẩm của phương Tây khi đó. Từ đầu đến cuối thế kỉ 19, trong không ít tư liệu, bản đồ và sách địa lí tương tự của phương Tây đều thừa nhận Hoàng Sa (Paracel Islands) là lãnh thổ của Việt Nam. Tác phẩm “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trung Quốc cũng thừa nhận Vạn Lí Trường Sa là phên dậu bên ngoài của Việt Nam. Mặc dù học giả Trung Quốc đã phủ nhận Hoàng Sa là quần đảo Tây Sa, và cũng phủ nhận Paracel là quần đảo Tây Sa, nhưng qua phân tích tỉ mỉ, đặc biệt là từ năm 1808, sau khi các nước phương Tây đã biết rõ vị trí chính xác của Hoàng Sa thì kiểu hoài nghi này của Trung Quốc không còn chỗ đứng. Những bằng chứng này cho thấy từ nửa sau thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 19, Việt Nam đã từng bước xác lập sự quản lí đối với Tây Sa, đến giữa thế kỉ 19, hình thức chủ quyền này đã được xác lập hoàn toàn và đã được thế giới thừa nhận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.81085; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.000556945800781pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.80072021484375pt; margin: 9.80072pt 6.51959pt 10pt 9.00056pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ một bản sử liệu mà người viết mới phát hiện có thể thấy được trong những năm 1830 Việt Nam quản trị Hoàng Sa như thế nào. Trong tờ báo của phương Tây năm 1839 khi miêu tả về Cochin China (Đàng Trong) có viết: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80865; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 6.65521240234375pt; margin-top: 9.465011596679688pt; margin: 9.46501pt 6.65521pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">It is well known that the present government has a well appointed navy, the largest and best armed in Eastern Asia. This year some petty acts of piracy had been committed on the coast, which so much incensed the King, that a large part of the fleet was immediately put under sailing orders; and, cruizing about the Paracels and other places, fell in with several craft from Haenan. There being some guns on board, these fishermen and traders were declared pirates, and brought in triumph to the harbor of Phuyen. In the meanwhile, an Amoy junk coming up from Singapore, happened to fall in with one of these cruizers, and was ordered to heave to. Upon refusing to comply with this request, the suspicion that this was a regular buccaneer increased, and she was finally boarded by force. The sailors, having been transported to the next military station, were put in prison, and the property was confiscated. The commander; however, was a very spirited man and drew up a suitable petition to the local authorities, wherein he explained the legality of his pursuits and also sent in the register of the junk with a permit to trade to the Southern seas. This document contains an order of Kee-lung addressed to all the prefects of the maritime provinces, to allow Chinese junks to sail to the Indian Archipelago, and puts the lawfulness of this trade beyond doubt. After a few weeks of delay, the magistrates finally set them free, but made them pay a heavy fine for not lowering immediately the sails, when the man of war ordered them to do so. They then re-embarked their cargo, met with a very severe gale, lost their mast, and being without water, abandoned the vessel and arrived entirely destitute at Keamoon. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.81594; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 7.28765869140625pt; margin-top: 9.781723022460938pt; margin: 9.78172pt 7.28766pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... The only rich man is the King, he has fine palaces, large treasures, excellent fortresses and vessels far superior to the navy of the Celestial Empire.</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.81594; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 7.28765869140625pt; margin-top: 9.781723022460938pt; margin: 9.78172pt 7.28766pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Ai cũng biết rằng triều đình hiện nay có thuỷ binh được trang bị tốt, một đội thủy binh lớn nhất và vũ trang tốt nhất ở Đông Á. Năm nay, có một số vụ cướp biển nhỏ đã được xảy ra ở bờ biển, điều này khiến Nhà vua phẫn nộ nhiều đến nỗi đã lập tức ra lệnh cho một phần lớn của hạm đội ra khơi; và trong khi chạy đến Hoàng Sa và những nơi khác, đã gặp một số tàu từ Hải Nan. Có súng trên tàu nên những ngư dân và thương nhân này bị cho là cướp biển, và mang về bến cảng Phú Yên. Trong khi đó, một chiếc tàu của Amoy (Hạ Môn) từ Singapore đi tới, đã tình cờ gặp một trong những tàu tuần dương này, được lệnh phải dừng lại. Tàu từ chối thực hiện lệnh này khiến càng bị nghi ngờ thêm rằng đây là một tàu thường xuyên của cướp biển, và cuối cùng tàu này đã bị quân lính dùng vũ lực lên tàu. Các thủy thủ, sau khi được chuyển đến trạm binh tiếp theo, bị bỏ tù và bị tịch thu tài sản. Tuy nhiên, chỉ huy tàu là một người rất có tinh thần và đã đưa ra một kiến nghị thích hợp với chính quyền địa phương, trong đó ông giải thích tính hợp pháp của việc ông theo đuổi và cũng nạp kèm sổ đăng kí của tàu với giấy phép buôn bán đến các vùng biển phía Nam. Tài liệu này có chứa một lệnh của Kee-lung (Cơ Long, Đài Loan -ND) gửi đến tất cả các tỉnh trưởng của các tỉnh vùng biển, cho phép các tàu thuyền của Trung Quốc chạy đến quần đảo Ấn Độ, và cho thấy chắc chắn tính hợp pháp của hoạt động buôn bán này. Sau một vài tuần trì hoãn, cuối cùng các phán quan đã trả tự do cho họ, nhưng bắt họ phải trả một khoản tiền phạt nặng vì không chịu ngừng ngay khi được chỉ huy hải quân ra lệnh. Sau đó, họ đưa hàng xuống tàu lại, gặp gió giật rất mạnh, bị mất cột buồm và không có nước ngọt, đã bỏ tàu đến Keamoon trong tình cảnh cùng khổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.81594; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 7.28765869140625pt; margin-top: 9.781723022460938pt; margin: 9.78172pt 7.28766pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... Người giàu có duy nhất là Nhà vua, ông ta có những cung điện đẹp đẽ, kho báu lớn, pháo đài tốt và tàu chiến hơn hẳn thủy quân của Thiên triều.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8073; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.741363525390625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.74136pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sử liệu này đã cung cấp mấy thông tin quan trọng: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hải quân Việt Nam lớn mạnh nhất Đông Á khi đó, hơn hẳn so với Trung Quốc; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hải quân Việt Nam thường xuyên tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa, và bắt những thuyền cá Trung Quốc bị nghi ngờ là cướp biển đưa về Việt Nam xét xử; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cuối cùng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Việt Nam áp thuế đối với các thuyền cá qua lại giữa Trung Quốc và Singapore, đã cho thấy sự quản trị hành chính đối với vùng biển này. Sử liệu này rất ăn khớp với các sử liệu khác, đã chứng minh thêm một bước chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và sự kiểm soát đối với biển Đông của Việt Nam trong những năm 1830. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 9.98764pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quần đảo Trường Sa với Brunei và Sulu </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80692; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 17.055206298828125pt; margin: 17.0552pt 6.51935pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Trường Sa trong thời gian dài nằm ngoài các tuyến đường hàng hải chủ yếu của Đông Nam Á, vì vậy nó được ghi chép trong các tư liệu tương đối muộn. Việc phát hiện ra quần đảo Trường Sa sớm nhất vẫn có thể là người Cham, thời gian cũng chắc chắn là sau khi nhà Tống thành lập. Mãi đến thời Nguyên, Minh mới có các ghi chép chính xác của người Trung Quốc về Trường Sa, nhưng nó được miêu tả như là một bộ phận của “Vạn Lí Thạch Đường”, dễ thấy là sự hiểu biết về nó rất hạn chế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80537; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.752197265625pt; margin: 9.7522pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với quần đảo Trường Sa, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam hay các nước khác đều không có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền. Trong các sách địa lí và lịch sử của Trung Quốc, quần đảo Trường Sa cũng giống như quần đảo Hoàng Sa đều được ghi chép mơ hồ. Chỉ được gọi chung chung với những cái tên như “Trường Sa”, “Thạch Đường”, “Thiên Lí Thạch Đường”... Không có ví dụ đáng tin cậy nào về việc quản lí đối với Trường Sa. Thật ra, ngay cả Hoàng Sa tương đối ở gần mà vẫn không có bằng chứng chắc chắn về sự quản lí, nên rất khó thể tưởng tượng chuyện trái ngược là tiến hành quản lí đối với Trường Sa ở xa xôi và phân bố phân tán hơn rất nhiều. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80643; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.70220947265625pt; margin: 9.70221pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng trong thời kì này, Việt Nam cũng không có bằng chứng rõ ràng về sự kiểm soát đối với Trường Sa. Trong sách sử của Việt Nam có ghi chép đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa từng hoạt động vào thế kỉ 19, phạm vi hoạt động của đội này bao gồm “Bắc Hải”, Bắc Hải ở đây có khả năng là vùng biển ở khu vực Trường Sa, nhưng do ghi chép quá ít nên không thể xác nhận được. Hơn nữa, khác với đội Hoàng Sa sau đó được thủy quân thay thế, trong lịch sử không có ghi chép gì thêm về hoạt động của đội Bắc Hải. Có thể thấy, ngay cả khi Việt Nam thật sự có hành động chính thức nhất định đối với Trường Sa, thì cũng còn cách rất xa so với việc quản trị thật sự. Còn các bằng chứng khác như bản đồ... cũng không thể chứng minh lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả Trường Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80397; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.778076171875pt; margin: 9.77808pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng trong thời gian này, các nước ven biển cổ đại ở phía nam biển Đông như Brunei và Sulu... cũng có quyền lịch sử không thể xem nhẹ đối với quần đảo Trường Sa, ví dụ có tài liệu lịch sử của Trung Quốc cho thấy vào thời Minh các nước này có thể là chủ lực trong vận tải biển ở quần đảo Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 10.0276pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thời cận đại phương Tây làm chủ biển Đông </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80553; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.899757385253906pt; margin-right: 6.54833984375pt; margin-top: 17.055191040039062pt; margin: 17.0552pt 6.54834pt 0pt 8.89976pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế kỉ 16 phương Tây bắt đầu tiến vào biển Đông, từ đó ảnh hưởng của họ ở biển Đông ngày càng lớn. Giữa thế kỉ 19, họ bắt đầu xâm lược các nước ven biển Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Brunei, Sulu..., cho đến cuối thể kỉ 19 bá quyền phương Tây ở biển Đông đạt đến điểm đỉnh. Các nước ven biển Đông, ngoài Trung Quốc, đều trở thành thuộc địa của các cường quốc phương Tây – Việt Nam thuộc Pháp, Borneo thuộc Anh và Hà Lan, Philippines ban đầu thuộc Tây Ban Nha, sau thành thuộc Mĩ. Trung Quốc mặc dù vẫn là quốc gia độc lập nhưng hải quân nhỏ yếu và tư duy quân sự chủ yếu tập trung vào phòng thủ biển ven bờ, còn đối với biển Đông thì không có ý định cố nắm lấy và nằm ngoài tầm với. Do đó, các cường quốc phương Tây với tàu to súng lớn đã làm chủ cục diện biển Đông, gây ảnh hưởng đến khu vực này trong một số mặt sau đây: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80983; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.74761962890625pt; margin: 9.74762pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, các nước phương Tây dùng kĩ thuật hiện đại của họ để tiến hành thăm dò và đo đạc biển Đông nhiều lần, vẽ ra hải đồ chính xác, đã làm thay đổi cơ bản nhận thức về biển Đông và các đảo ở biển Đông. Các nước phương Tây cũng đã bảo vệ quyền tự do và an toàn hàng hải ở biển Đông bằng cách thiết lập một hệ thống cứu hộ quốc tế và chống cướp biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80983; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.74761962890625pt; margin: 9.74762pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sự xâm lược thực dân của các nước phương Tây đã phá vỡ cục diện ban đầu của các nước ven biển Đông, trong đó chịu ảnh hưởng nhất là Việt Nam. Sau khi từng bước trở thành thuộc địa của Pháp, dù trong sách vở Hoàng Sa vẫn được xem là lãnh thổ của Việt Nam, nhưng sau năm 1860 Việt Nam đã mất khả năng kiểm soát nó trên thực tế. Do các hoạt động của Việt Nam ở Hoàng Sa cơ bản là do nhà nước tổ chức, nên sau khi hoạt động của nhà nước chấm dứt, không có hoạt động tư nhân của người dân kế thừa. Vì thế, trễ nhất là sau năm 1867, không còn hoạt động của người Việt Nam ở Hoàng Sa. Cuộc xâm lược của Tây Ban Nha đối với Sulu và của Anh đối với Brunei đã làm hai nước này mất đi sức ảnh hưởng đối với quần đảo Trường Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80567; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.23406982421875pt; margin: 9.23407pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, các nước phương Tây đều không có thái độ tích cực đối với vấn đề chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông. Ví dụ Pháp, với tư cách là nước bảo hộ của Việt Nam, không quan tâm tới Hoàng Sa hoặc Trường Sa. Dù vào năm 1899 từng lập kế hoạch xây dựng đèn biển ở Hoàng Sa, nhưng kế hoạch này cuối cùng không được thực hiện, nếu không việc này có thể được coi là một hành động tuyên bố chủ quyền. Anh cũng không tích cực với quần đảo Trường Sa, nửa cuối thế kỉ 19 nước này từng hai lần cấp giấy phép khai thác hai đảo ở Trường Sa, điều này đã được ghi chép trong hồ sơ, nhưng từ đầu đến cuối đều không có hành động khai thác trên thực tế. Nguyên nhân chủ yếu của thái độ tiêu cực này là do các đảo ở biển Đông có diện tích nhỏ bé, tài nguyên lại nghèo nàn, không thể sinh lợi; về mặt quân sự không có vị trí chiến lược lại khó duy trì việc đóng quân. Vì thế, các đảo biển Đông dễ lấy này đều bị xem là vô giá trị và không bị thôn tính. Kết quả là trong khoảng thời gian từ 1860 đến 1899, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc khu vực chân không về chủ quyền trong quản trị chính thức. Ngoại lệ duy nhất là bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham), người Tây Ban Nha đã giành được chủ quyền cho Philippines. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80688; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.178955078125pt; margin: 9.17896pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bên được lợi nhất từ trạng thái chân không chủ quyền các đảo ở biển Đông là Trung Quốc. Thế kỉ 19 là thời kì ngư dân Trung Quốc hoạt động với quy mô lớn tại các đảo ở biển Đông. Từ sau năm 1860, hoạt động của ngư dân bắt đầu mở rộng đến Trường Sa. Trong khoảng thời gian này, ngư dân Trung Quốc trở thành người khai thác duy nhất ở Hoàng Sa và Trường Sa. Những hoạt động tư nhân này của người dân đem lại ưu thế cho Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền các đảo ở biển Đông sau này. Ngoài ra, vào cuối thế kỉ 19, ý thức lo lắng về biên giới biển của Trung Quốc bắt đầu tăng lên, các phần tử trí thức tư nhân bắt đầu coi trọng địa vị của các đảo ở biển Đông, có một số sách vở dân gian của Trung Quốc mơ hồ coi Hoàng Sa (hoặc bao gồm cả Trường Sa) là lãnh thổ Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80431; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.582962036132812pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.70220947265625pt; margin: 9.70221pt 6.51959pt 10pt 8.58296pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong cái nhìn của nhà nước Trung Quốc, Hoàng Sa và Trường Sa đều không phải là lãnh thổ của Trung Quốc. Phạm vi tuần tra của hải quân Trung Quốc chỉ đến cực Nam đảo Hải Nam; trong sách địa lí có thẩm quyền của nhà nước, cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Trước năm 1909, không có bất kì bằng chứng nào có thể chứng minh nhà nước có ý muốn quản lí đối với những đảo này: lời bàn của Quách Tung Đảo không có hiệu lực pháp lí; đề nghị xây dựng đèn biển ở Đông Sa của Hart không được thực hiện; cái gọi là phản đối tàu đo đạc của Đức là không có căn cứ. Ngược lại, trong vụ hai tàu bị đắm năm 1895 và 1896, chính phủ Trung Quốc biểu thị rõ ràng Hoàng Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80582; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.726959228515625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.78057861328125pt; margin: 9.78058pt 6.51935pt 10pt 8.72696pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khi các nước phương Tây tiến vào biển Đông, họ cũng đồng thời đem hệ thống luật quốc tế của phương Tây đến đây. Các nước thực dân bá chủ dựa vào quan điểm của luật quốc tế để xử lí vấn đề biển Đông, còn Trung Quốc cũng đã xác nhận tính thích dụng của luật quốc tế đối với Trung Quốc thông qua các hiệp ước và thực tiễn ngoại giao. Vào giữa và nửa sau thế kỉ 19, quan niệm lãnh hải của phương Tây đã thay thế quan niệm biên giới biển truyền thống giữa các nước Đông Á. Trong quan niệm truyền thống thời kì nhà Thanh, giữa Trung Quốc và Việt Nam có biên giới biển rõ ràng, biên giới biển hai nước tiếp giáp nhau, ở giữa không có “vùng biển quốc tế”. Ví dụ ở trên mặt biển biển Đông, hai bên lấy vùng nước đối diện bãi Đồi Mồi ở cực nam đảo Hải Nam để phân chia ranh giới, vượt qua ranh giới này là tiến vào “Di Dương” (biển của bọn di) của Việt Nam. Nhưng sau khi Trung Quốc và Việt Nam (thuộc Pháp) đều ủng hộ việc lấy đường bờ biển làm cơ sở để giới hạn lãnh hải thì giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xuất hiện “vùng biển quốc tế”. Việc các nước phương Đông thừa nhận “vùng biển quốc tế” là một thắng lợi của nguyên tắc tự do hàng hải, đồng thời cũng đặt nền móng cho luật biển quốc tế hiện nay. Từ đó về sau, khi bàn bạc đến biên giới biển mà tách rời với đất liền và chủ quyền lãnh thổ thì thiếu đi tính hợp lí. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80617; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.755760192871094pt; margin-right: 2.91204833984375pt; margin-top: 9.51373291015625pt; margin: 9.51373pt 2.91205pt 10pt 8.75576pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù các hiệp ước phân giới trong thời kì này không có liên quan rõ ràng đến các đảo ở biển Đông nhưng chúng đã để lại những điểm gây tranh cãi cho các tranh chấp về đảo sau này. Trong đó, đặc biệt là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Pháp-Thanh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” được kí kết giữa Trung Quốc và Pháp tại Bắc Kinh năm 1887 và “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước Paris</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” giữa Mĩ và Tây Ban Nha năm 1899 là nổi bật nhất. Trong đoạn 3 của “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Pháp-Thanh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” quy định “các đảo trên biển” lấy đường thẳng từ Bắc đến Nam đi qua xã Trà Cổ ở vịnh Bắc Bộ làm ranh giới, ở phía Tây thuộc Việt Nam, ở phía Đông thuộc Trung Quốc. Đường ranh giới này kết thúc ở đâu không hề được quy định rõ. Vì vậy, việc nó có bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa hay không trở thành điểm tranh cãi trong tranh chấp về Hoàng Sa giữa Trung Quốc và Pháp vào thập niên 1930. “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước Paris</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” đã hoạch định địa giới giao nhận giữa Mĩ và Tây Ban Nha, nhưng bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham) đã bị "mất" một cách khó hiểu bởi thái độ thờ ơ của Mĩ tương tự như Anh và Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80747; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.673919677734375pt; margin: 9.67392pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ bảy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hệ thống luật quốc tế mà phương Tây đưa đến đã xác lập các nguyên tắc cho việc phán đoán sự quy thuộc các đảo ở biển Đông thời kì này. Căn cứ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật liên thời gian</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Intertemporal Law) trong luật quốc tế, chủ quyền các đảo biển Đông thời kì này phải tuân theo quan điểm của luật quốc tế khi đó, tức là phải có “ý thức chủ quyền” và “chiếm đóng hữu hiệu” một cách rõ ràng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80285; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.5194091796875pt; margin-top: 9.73138427734375pt; margin: 9.73138pt 6.51941pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong tuyên truyền của Trung Quốc, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền quản lí của Trung Quốc ở biển Đông có lịch sử hơn 2000 năm, từ thời Hán đã phát hiện và từng bước hoàn thiện sự quản lí đối với Nam Hải, đặc biệt là các đảo, đá ở Nam Sa và các vùng biển liên quan</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Câu khẳng định này đã nhập nhiều luận điểm khác nhau vào làm một nên đã nảy sinh hiểu lầm rằng Trung Quốc đã có chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông “từ xưa đến nay”. Trên thực tế, có rất nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy rằng từ xưa đến nay biển Đông là vùng biển công cộng không thuộc bất kì quốc gia nào. Mặc dù đối với các đảo biển Đông, ngoài Việt Nam đã từng có sự kiểm soát thực tế đối với quần đảo Hoàng Sa trong lịch sử, trước thế kỉ 20 không có quốc gia nào muốn thôn tính chúng một cách thật sự. Tình trạng này kéo dài cho đến thế kỉ 20, sau khi một thế lực mới nổi xuất hiện mới có sự thay đổi. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.3 Người Nhật khai thác ở quần đảo Đông Sa (Pratas)</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80819; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.942962646484375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 17.03515625pt; margin: 17.0352pt 6.51935pt 10pt 8.94296pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bước vào thế kỉ 20, biển Đông cũng đột nhiên bước vào một thời kì tranh chấp. Bắt đầu với tranh chấp đảo Đông Sa (Pratas) giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Hoàng Sa và Trường Sa cũng lần lượt xuất hiện tranh chấp. Dù chủ quyền của đảo Đông Sa hiện nay không có tranh chấp (ngoài tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan), nhưng việc xem xét lại giai đoạn lịch sử này sẽ giúp ích rất nhiều đối với việc nhận thức chính xác lịch sử biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80529; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.7669677734375pt; margin: 9.76697pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Đông Sa nằm cách Sán Đầu khoảng 250 km về phía Nam và bao gồm một đảo san hô vòng (đảo Đông Sa) và hai bãi đá ngầm tạo thành. Vào đầu thế kỉ 18 người Trung Quốc gọi là “Nam Áo Khí” (南澳氣), người phương Tây gọi là “đảo Phố Lạp Tha Sĩ” (蒲拉他士/Pú lā tā shì: Pratas Island). Có lẽ từ rất sớm nó đã là vùng hoạt động của ngư dân Trung Quốc, nhưng cho tới đầu thế kỉ 19 mới có ghi chép thành văn chính xác. Năm 1868, Tổng ti thuế vụ Hải quan Trung Quốc Hách Đức (Sir Robert Hart, người Anh) từng đề nghị xây dựng đèn biển trên đảo Đông Sa nhưng không được thực hiện. Trung Quốc mất đi cơ hội khẳng định chủ quyền đối với Đông Sa. Năm 1883, một tàu của Hà Lan bị mắc cạn ở Đông Sa, hàng hóa bị ngư dân Trung Quốc cướp sạch. Người Hà Lan đã gửi công hàm cho phía Trung Quốc để kháng nghị, nhưng chưa rõ kết quả của việc này. Trung Quốc lại một lần nữa mất đi cơ hội khẳng định chủ quyền.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80032; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.770721435546875pt; margin: 9.77072pt 6.51959pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào đầu thế kỉ 20, đã xuất hiện một bên mới trong tranh chấp biển Đông đó là Nhật Bản, một cường quốc mới nổi ở Đông Á. Kể từ thời Minh Trị duy tân Nhật Bản đã đi theo con đường bành trướng ra bên ngoài. Nhưng năm 1870, lần đầu tiên Nhật Bản thôn tính Lưu Cầu (Ryukyu); năm 1880, Nhật Bản chiếm quần đảo Tiểu Lạp Nguyên (Ogasawara); năm 1895, trước tiên Nhật Bản chiếm đảo Senkaku (Điếu Ngư) rồi thông qua “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước Mã Quan</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để đoạt lấy Đài Loan và quần đảo Bành Hồ từ tay Trung Quốc; năm 1905, Nhật Bản đánh bại nước Nga để giành đặc quyền ở Mãn Châu, đồng thời giành được quần đảo Kuril và miền Nam đảo Sakhalin; năm 1910, Nhật Bản chính thức thôn tính Triều Tiên. Trong các lần bành trướng, Nhật Bản đã nhanh chóng đánh bại và thay thế Trung Quốc trở thành nước lớn ở khu vực Đông Á. Bản thân Nhật Bản là một quốc đảo, sự bành trướng của nước này cũng là bắt đầu từ các đảo. Các đảo nhỏ nằm rải rác ở khu vực Đông Á, đặc biệt là “đảo không người” trở thành đối tượng hàng đầu trong sự bành trướng của Nhật Bản. Sau khi giành được quần đảo Ogasawara và đảo Senkaku, dựa vào uy danh sau Chiến tranh Giáp Ngọ, người Nhật Bản bắt đầu mở rộng sự chú ý đến biển Đông. Lấy đảo Senkaku và quần đảo Ogasawara làm ví dụ, mô thức thông thường của Nhật Bản là xua tư nhân hành động trước: đầu tiên tư nhân thăm dò và khai thác sau đó nhà nước xác nhận là đảo không người, cuối cùng thôn tính.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đảo biển Đông cũng không là ngoại lệ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80664; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.524917602539062pt; margin: 9.52492pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1901, một tàu do người Nhật là Tây Trạch Cát Thứ (Yoshiji Nishizawa) mua trên đường đi từ Nhật Bản đến Cơ Long thuộc Đài Loan đã đi nhầm đường đến phía Nam Ryukyu, cuối cùng tàu dạt đến “đảo không người”. Đảo này chính là đảo Đông Sa, nhưng khi đó các thuyền viên đều không biết đến đảo này, cũng như không biết rõ vị trí chính xác của đảo. Thuyền viên lưu lại trên đảo 2 ngày, phát hiện trên đảo không có cư dân, nên đã lấy một ít mẫu bùn cát về Cơ Long làm hóa nghiệm. Kết quả phát hiện đất bùn trên đảo có chứa phốt phát, có giá trị khai thác. Nishizawa quyết định tăng cường việc khai thác. Vì vậy vào năm 1902, Nishizawa đến đảo Đông Sa khảo sát, đồng thời mang về một ít quặng và hải sản. Năm 1903, ông ta lại đến đảo Đông Sa, mang theo một nhà hóa học, nhưng gặp bão không thể đến được. Sau đó, do Chiến tranh Nhật-Nga, kinh tế tiêu điều, trong tình trạng thiếu vốn, cuộc khảo sát của Nishizawa đành phải dừng lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các mỏ phốt phát trên các đảo nhỏ ở vùng biên giới xa xôi là một trong những động lực để Nhật Bản khai thác các đảo khi đó, năm 1885 khi chính phủ Nhật Bản khảo sát đảo Senkaku, cũng đã khảo sát hàm lượng phốt phát trong bùn đất giống như vậy.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8053; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.942962646484375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.803253173828125pt; margin: 9.80325pt 6.51935pt 10pt 8.94296pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1901, một người Nhật Bản khác nảy sinh hứng thú đối với đảo Đông Sa. Đó chính là nhà thám hiểm về đảo nổi tiếng Ngọc Trí Bán Hữu Vệ Môn (Tamaki Hanemon), ông ta là nhân vật chủ chốt trong khai thác phát triển đảo Đại Đông (Daito) vào nửa sau thế kỉ 19. Khác với Nishizawa, ông biết đảo Đông Sa qua hải đồ và đến thám hiểm có kế hoạch. Vào tháng 11/1901, ông hỏi Ngoại vụ tỉnh (tương đương Bộ Ngoại giao-ND) Nhật Bản đảo Đông Sa thuộc về nước nào, Ngoại vụ tỉnh không trả lời được, nên đã ra lệnh cho Lãnh sự ở Hong Kong điều tra. Chính quyền Anh tại Hong Kong trả lời: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có vẻ không thuộc nước nào, nhà Thanh hình như đang do dự liệu có đưa nó vào lãnh thổ nhà Thanh (Trung Quốc) hay không, cần phải điều tra rõ ý đồ của nhà Thanh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trong tình hình điều tra chưa có tiến triển, Ngoại Vụ tỉnh đã trả lời đảo này là không thuộc về nước nào. Vì vậy, trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 8/1901, Tamaki đã tổ chức mấy chục người tiến hành thám hiểm đảo Đông Sa trong 3 tháng. Nhưng kết quả khảo sát của ông ta dường như cho thấy giá trị khai thác không lớn, vì vậy mà không có hành động tiếp theo. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80643; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.64056396484375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.715576171875pt; margin: 9.71558pt 6.51935pt 10pt 8.64056pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba lần đổ bộ lên đảo như đã trình bày ở trên chính là những khảo sát ban đầu của Nhật Bản đối với Đông Sa, phía Trung Quốc đều không có phản ứng gì. Nếu như nói thời gian khảo sát của Nishizawa là tương đối ngắn, thì thời gian khảo sát đại quy mô kéo dài 3 tháng của Tamaki không thể coi là không dài. Nhưng đối với lần khảo sát này, không những chính phủ Trung Quốc khi đó không biết mà ngay đến ngư dân sau đó cũng không đề cập đến, và trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng hợp hồ sơ đảo Đông Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cũng không có ghi chép. Có thể thấy rằng chính phủ Trung Quốc khi đó thiếu sự quản lí đối với Đông Sa, điều này càng củng cố thêm lí do để người Nhật cho rằng đảo Đông Sa là “đảo không người”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.94842529296875pt; margin-top: 9.758056640625pt; margin: 9.75806pt 2.94843pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Chiến tranh Nga-Nhật, Nishizawa tiếp tục ý định khai thác đảo Đông Sa. Tháng 8/1906, Nishizawa chỉ huy nhân viên điều khiển tàu “Trường Phong Hoàn” đổ bộ lên đảo Đông Sa lần thứ hai, mang về một lượng lớn mẫu vật. Mùa hè năm 1907, Nishizawa chỉ huy 120 người đổ bộ lên đảo Đông Sa lần thứ 3. Lần này Nishizawa có sự chuẩn bị khi đến, mở đường xây nhà, treo cờ Nhật Bản trên đảo, đặt tên đảo là đảo Nishizawa (Tây Trạch), sau đó lại chiêu mộ thêm nhiều nhân viên từ Nhật Bản và Đài Loan, bao gồm thầy thuốc và nhà hóa học, chính thức khai thác phốt phát.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo báo chí, trước khi chính thức khai thác Nishizawa cũng đã hỏi ý kiến của nhiều cơ quan liệu đảo này có thuộc về nước nào hay không, bao gồm “Sứ quán nhà Thanh tại Nhật Bản, Lãnh sự các nước ở Yokohama, Quan đạo Thượng Hải, Phòng chính trị Hong Kong Anh”, câu trả lời cuối cùng đều là “hoàn toàn không thuộc nước nào”, và cuối cùng đã được Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản cho phép mới tiến hành.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu điều này là đúng thì nó càng chứng tỏ thêm rằng khi đó Trung Quốc không biết về đảo này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80379; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.793701171875pt; margin: 9.7937pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không có ghi chép nào về người Trung Quốc trong hồ sơ của Nishizawa, nhưng trong lời kể của ngư dân Trung Quốc sau đó, được ghi chép lại có nêu việc người Nhật Bản xua đuổi người Trung Quốc như thế nào. Ví dụ ngư dân Lương Thắng khai rằng: đầu tiên người Nhật xua đuổi ngư dân, không cho phép họ đánh cá ở vùng phụ cận, sau khi bị từ chối liền phá hủy thuyền tam bản; người Nhật còn phá hủy miếu Đại Vương và nơi ở trên đảo, thậm chí còn đào bới các ngôi mộ trên đảo, đốt xương rồi ném xuống biển, vì vậy anh ta không dám quay lại đảo Đông Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.4 Việc điều tra của Trung Quốc </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.79682; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.5736083984375pt; margin-top: 17.03515625pt; margin: 17.0352pt 6.57361pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc Nishizawa khai thác Đông Sa (Pratas) được truyền thông Nhật Bản đưa tin đầu tiên. Báo chí Nhật Bản xem đây là một sự tích vinh quang khi “phát hiện đảo không người”, “vĩ đại như việc Columbus tìm ra lục địa mới châu Mĩ”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó truyền thông Hong Kong đăng lại việc này mới thu hút sự quan tâm. Phản ứng của chính phủ Trung Quốc cho thấy thiếu sự quản lí chính thức đối với đảo Đông Sa. Quan chức Trung Quốc đầu tiên chú ý đến vấn đề này là tổng đốc Lưỡng Giang (Giang Tây, Giang Nam) Đoan Phương. Ông biết được việc này qua báo chí, vào tháng 9/1907 ông gửi điện cho Bộ Ngoại vụ nhà Thanh yêu cầu điều tra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/10, Bộ Ngoại vụ chỉ thị Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn, một mặt chỉ ra rằng “người Hoa sợ khó cầu an, ít có người đến (đảo này)”, mặt khác lại cho rằng “Người Mân (Phúc Kiến), Việt (Quảng Đông) nào mà sành sỏi đi biển và có hiểu biết sâu rộng về địa lí, đều biết đảo này thuộc nước ta, ở địa phương chắc có bản đồ thư tịch có thể tra cứu”, và yêu cầu Lưỡng Quảng nghiên cứu xem “Tên gọi cũ của đảo này là gì? Có người cư trú hay không? ... Có đúng là có việc (người Nhật Bản khai thác) hay không? ”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8053; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.832183837890625pt; margin: 9.83218pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ bức điện của Bộ Ngoại vụ thấy rằng cái gọi là “... đều biết đảo này là thuộc nước ta” có lẽ là lời kể trong bức điện của Đoan Phương hoặc là lời lẽ của báo chí Hong Kong, Bộ Ngoại vụ thật ra không hề biết rõ tình hình của đảo này. Mô tả ban đầu về kinh vĩ độ vị trí của đảo cũng sai (viết thành 14° 42</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">’ </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">’’ </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vĩ Bắc, 116° 42</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">’ </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">’’ </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kinh Đông).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lỗi này có thể cũng từ bức điện của Đoan Phương. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80691; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.899757385253906pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.23406982421875pt; margin: 9.23407pt 6.51959pt 10pt 8.89976pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trương Nhân Tuấn sau khi nhận được lệnh, cùng với các ti tiến hành khảo sát, gửi điện trả lời vào ngày 15/10. Dựa theo kinh vĩ độ (sai) của đảo, trong bức điện có nhận định rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dường như không thuộc quyền quản lí của tỉnh Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng vẫn chưa biết tình hình đảo này. Cuối cùng yêu cầu rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nghe nói nơi này sóng to gió lớn, tỉnh Quảng Đông lại không có quân và tàu lớn, rất khó điều tra tận nơi, không biết có nên mời quý Bộ chuyển điện tín đến [hạm đội] Nam Dương, đưa thuyền lớn đi điều tra hay không?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80509; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.512298583984375pt; margin: 9.5123pt 6.51959pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trả lời của Trương Nhân Tuấn đã cho thấy hai tình trạng. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nhận thức ít ỏi của nhà nước Trung Quốc về đảo Đông Sa, ngay đến tên gọi và vị trí của đảo cũng không biết, phía Quảng Đông cũng không biết việc người Nhật Bản chiếm đảo Đông Sa. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tỉnh Quảng Đông thiếu thuyền đến đảo Đông Sa tuần tra, phải nhờ thuyền của thủy quân Nam Dương, điều này cho thấy rằng thủy quân Quảng Đông không có khả năng tuần tra bình thường ở đảo Đông Sa. Kết hợp với các bằng chứng khác,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều này chứng tỏ rằng phạm vi tuần tra biển của thủy quân Trung Quốc thời kì cuối Thanh giới hạn ở vùng biển gần bờ, ngay đến tuần tra đảo Đông Sa thủy quân cũng không có khả năng, chứ đừng nói đến quần đảo Tây Sa và Nam Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80761; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.538055419921875pt; margin: 9.53806pt 6.51959pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi chờ thủy quân Nam Dương chi viện, Đoan Phương hỏi Lãnh sự quán Nhật Bản ở Nam Kinh, Lãnh sự Nhật Bản trả lời rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo này trên thực tế ở phía tây nam Đài Loan, phía đông nam Hong Kong, cách Hong Kong hơn 170 hải lí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tức đảo Phố Lạp Tha Sĩ trong Tân dịch Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ thuyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoan Phương theo đó tra cứu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân dịch Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ thuyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (新譯中國江海險要圖說),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cuối cùng phát hiện ra rằng trong hải đồ phương Tây đảo này được đặt tên là “đảo Phố Lạp Tha Sĩ” (Pratas)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và biết vị trí chính xác của nó, cũng từ những tư liệu của người Anh ông biết thêm rằng “thuyền cá Trung Quốc đến tránh bão ở cảng này”, và nhận định rằng nơi này “đích xác thuộc sự quản lí của Quảng Đông”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ông gửi những kết luận này cho Trương Nhân Tuấn trong một bức điện ngày 4/11, đồng thời nhờ Trương Nhân Tuấn tìm kiếm những bản đồ trước đó, vì lúc đó những thứ ông ta có thể tìm đều là bản đồ mới đo mới vẽ, không đủ để chứng minh chủ quyền một cách thuyết phục. Trương Nhân Tuấn gửi điện trả lời “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tìm khắp sách vở bản đồ của tỉnh Quảng Đông, đều không có bằng chứng xác thực ghi chép về đảo này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vẫn cần điều tra thực địa để đưa ra kết luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80664; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.403900146484375pt; margin: 9.4039pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quân Nam Dương mãi không thể điều tàu đến được, vì vậy gần một năm sau đó cũng không có tiến triển. Lúc này, trái lại người Anh có đôi chút sốt ruột, họ sợ sau khi Nhật Bản chiếm đảo Đông Sa sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh ở Quảng Đông và biển Đông. Khá lâu không thấy phía Trung Quốc có phản ứng gì, tháng 8/1908 Lãnh sự quán Anh tại Quảng Châu gửi thư cho Ủy viên Dương vụ Quảng Đông rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo này không có cư dân, rõ ràng là đất không thuộc về ai. Nhưng hàng năm đều có thuyền cá Trung Quốc đến đảo. Vào năm 1882 và 1902 chính phủ Anh đề nghị xem có nên xây một đèn biển trên đảo này hay không. Sau đó vì không thể phán đoán đảo này thuộc nước nào, và nên do ai xây dựng, do đó không tiến hành nữa. Nay tuân theo chủ trương của Bộ Ngoại giao nước chúng tôi, tình hình đảo này và nước mà nó thuộc về cần được điều tra chi tiết... Vì vậy dùng công hàm đặc biệt này thỉnh cầu tra xét tường tận từ trong hồ sơ của dinh tổng đốc xem đảo này có thuộc về Trung Quốc hay không, chính phủ Trung Quốc có văn bản tuyên bố rõ ràng hay không. Xin chỉ rõ từng điểm một.”</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ủy viên Dương vụ Quảng Đông trả lời rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo này đúng là đảo thuộc về Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của ông này khác với Trương Nhân Tuấn, đại khái khi đó phía tỉnh Quảng Đông đã có ý nhận định đảo Đông Sa thuộc về tỉnh mình, và mặc dù nội bộ vẫn tìm kiếm bằng chứng để tiện giao thiệp với Nhật Bản, nhưng với Anh thì vẫn khẳng định rõ chủ quyền.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80664; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.403900146484375pt; margin: 9.4039pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoan Phương sau khi biết chuyện, ngày 14/9/1909 vội vàng gửi thư cho đề đốc Nam Dương Tát Trấn Băng, đốc thúc phải nhanh chóng phái tàu điều tra. Để tiện việc giao thiệp với Nhật Bản, ông cho rằng Anh “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trước tiên nói [không] thuộc Trung Quốc. sau đó nói có thuyền cá Trung Quốc đến đó hàng năm, ngụ ý đảo này thuộc Trung Quốc. Sau đó nói chính phủ Anh muốn xây dựng đèn biển, có hỏi phía Trung Quốc đảo này có phải thuộc Trung Quốc hay không</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, có thể suy đoán rằng phía Anh “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">biết rõ đảo này bị quân Nhật chiếm, thấy phía Trung Quốc không lên tiếng truy hỏi, do đó dùng lời bóng gió, ngầm nhắc nhở ta phải tuyên bố và liệu định cụ thể hơn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80456; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 9.4339599609375pt; margin: 9.43396pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, việc điều tàu vẫn còn gặp trở ngại, mãi cho đến ngày 1/2/1909 thủy quân Nam Dương mới phái “tàu Phi Ưng” từ Hong Kong ra đi, ngày 2/2 đến được đảo Đông Sa. Trong khi điều tra ở đó, Trung Quốc mới biết rõ lần đầu rằng tên tiếng Trung của đảo này là đảo Đông Sa. Đồng thời qua quan sát họ cũng thấy rằng trên đảo khi đó không có người Trung Quốc mà chỉ có người Nhật hoạt động, và cũng đề cập đến việc người Nhật Bản phá hủy miếu Thiên Hậu và xua đuổi thuyền cá của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Trung Quốc đến được Đông Sa. Báo cáo của chuyến đi lần này rất sơ sài, có thể thấy là cuộc khảo sát không được tỉ mỉ. Vì vậy, Trương Nhân Tuấn phái tàu Phi Ưng và một tàu bắt buôn lậu (tàu do người Anh quản lí) đến đảo Đông Sa lần nữa để khảo sát chi tiết. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80204; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51953125pt; margin-top: 9.765869140625pt; margin: 9.76587pt 6.51953pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai tàu lại đến đảo Đông Sa ngày 19/2. Lần khảo sát này chi tiết hơn lần trước rất nhiều, khi lên đảo họ được người Nhật tiếp đãi. Mặc dù khi đó Nishizawa không có trên đảo, người Nhật vẫn rất hợp tác khi trả lời các câu hỏi, bầu không khí rất tốt, tiếc là người phụ trách không biết nhiều về ngọn nguồn của đảo này. Sau đó, nhân viên khảo sát cũng đã đi viếng toàn đảo và hỏi han ngư dân xung quanh, cuối cùng viết thành “Báo cáo của ủy viên” tương đối tường tận, trong đó có nội dung hỏi đáp với người Nhật và lời khai của ngư dân.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong báo cáo này có mấy điểm đáng chú ý: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hoạt động khai thác của Nishizawa mang tính chất tư nhân, hoàn toàn không có sự tham dự trực tiếp của chính phủ Nhật Bản; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vào năm 1909, Toàn quyền Đài Loan (Nhật Bản) từng phái người đến thị sát, điều này cho thấy chính phủ Nhật Bản sau đó đã biết việc Nishizawa khai thác ở Đông Sa; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, những người Nhật này hoàn toàn không biết đảo này thuộc nước nào; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, người Nhật thường xuyên xua đuổi thuyền cá của Trung Quốc ở đó, và phá hủy các kiến trúc có trước của Trung Quốc trên đảo; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ngư dân Trung Quốc thường xuyên hoạt động tại đó chịu tổn thất rất lớn nhưng không biết phải báo cáo cho ai. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80365; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.899757385253906pt; margin-right: 2.9195556640625pt; margin-top: 9.51373291015625pt; margin: 9.51373pt 2.91956pt 10pt 8.89976pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến lúc đó, chính quyền và xã hội Trung Quốc mới biết về sự việc trên đảo Đông Sa. Sau khi nắm vững những tư liệu này, ngày 15/3 Trương Nhân Tuấn đã xin ý kiến của Bộ Ngoại vụ về việc Bộ Ngoại vụ hay tỉnh Quảng Đông sẽ đứng ra để giao thiệp với Nhật Bản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/5, Bộ Ngoại vụ điện trả lời Trương Nhân Tuấn, quyết định để tổng đốc Lưỡng Giang Đoan Phương đứng ra giao thiệp với Nhật Bản trước. Nhưng Trương Nhân Tuấn đợi không thấy thư trả lời của Bộ Ngoại vụ, nên ngày 17/3 đã gửi công hàm cho tổng lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Châu Lại Xuyên Thiển Chi Tiến (Asanoshin Laikawa), giao thiệp giữa Trung Quốc và Nhật Bản về Đông Sa mở đầu từ đó.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376pt; margin-top: 18pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.5 Việc giao thiệp giữa Trung Quốc và Nhật Bản </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80234; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 17.03515625pt; margin: 17.0352pt 6.51935pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17/3/1909, Trương Nhân Tuấn gửi công hàm cho tổng lãnh sự Nhật Bản tại Quảng Châu nói: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện kiểm tra mặt biển Huệ Châu có đảo Đông Sa mà xưa nay là nơi thuyền cá các cảng của Phúc Kiến, Quảng Đông đi đánh cá cập bến, đó chính là đất đai của Quảng Đông. Gần đây có doanh nhân của quý quốc thuê công nhân khai thác phốt phát ở đây, tự ý kinh doanh, là việc bất hợp pháp, nhờ quý quan lãnh sự ra lệnh doanh nhân này lập tức rút lui</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">điều tra xử lí để giữ tình hữu nghị</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh sự Nhật Bản trả lời rằng đang gửi điện cho Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản để tìm hiểu tình hình. Thời gian này, công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản là Hồ Duy Đức thấy báo chí Nhật Bản đưa tin về việc này nên hỏi Trương Nhân Tuấn. Trương Nhân Tuấn và Bộ Ngoại vụ quyết định tiến hành theo hai hướng cùng một lúc, giao thiệp giữa tỉnh Quảng Đông với Lãnh sự Nhật Bản và giữa Công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản với Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.7997; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.957359313964844pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 2.13323974609375pt; margin: 2.13324pt 6.51959pt 10pt 8.95736pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 21/3, Laikawa gặp Trương Nhân Tuấn, xác định rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo này vốn không thuộc Nhật Bản, chính phủ ngài cũng không có ý chiếm đóng, chỉ nên xem là đảo hoang vô chủ, nếu Trung Quốc cho rằng đảo này là vùng đất của mình, thì cần phải có sách địa phương chí và bằng chứng xác thực đảo này do quan nào, doanh nghiệp nào quản lí, để đem những bằng chứng này gửi điện về cho Bộ Ngoại vụ giải quyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79928; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.115760803222656pt; margin-right: 6.5867919921875pt; margin-top: 2.1788330078125pt; margin: 2.17883pt 6.58679pt 10pt 9.11576pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trương Nhân Tuấn chỉ ra rằng: (1) Ngư dân Trung Quốc đánh cá ở đây; (2) Trên đảo trước đây có miếu thờ thần biển do Trung Quốc xây dựng, hiện nay tuy bị Nhật Bản phá dỡ nhưng vẫn có dấu tích có thể xác nhận được; (3) Đất đai của các nước không cứ nhất định phải có người cư trú mới có thể có quyền quản lí. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79928; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.115760803222656pt; margin-right: 6.5867919921875pt; margin-top: 2.1788330078125pt; margin: 2.17883pt 6.58679pt 10pt 9.11576pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Laikawa phản bác rằng đánh cá ở đây chỉ có thể xem là hoạt động của tư nhân, thứ miếu thờ thần biển nếu đã không còn thì khó mà kiểm tra chi tiết được, chỉ có bằng chứng quản lí thật sự mới có thể thuyết phục phía Nhật Bản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản Hồ Duy Đức giao thiệp với Ngoại vụ tỉnh Nhật Bản, ông cũng nhận được câu trả lời tương tự.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79598; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.438957214355469pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 2.15692138671875pt; margin: 2.15692pt 6.51959pt 10pt 8.43896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo báo Nhật Bản đưa tin: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Nhật Bản biểu thị rằng đảo Đông Sa hiện tại tuy không biết thuộc về nước nào, nhưng Nhật Bản quyết không chiếm làm của mình. Hơn nữa, Nhật Bản cũng có thể thừa nhận đảo này thuộc về Trung Quốc, nếu Trung Quốc có thể đưa ra bằng chứng đích xác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi được truyền thông Hong Kong hỏi, lãnh sự Nhật Bản tại Hong Kong bày tỏ rằng ông không rõ việc này, và cũng đã phủ nhận việc này do chính phủ Nhật Bản làm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói như vậy là mâu thuẫn với việc Nishizawa được Ngoại vụ tỉnh chấp thuận trước đó, có thể giải thích điều này là do khi đó Lãnh sự Nhật Bản tại Hong Kong chưa chắc đã biết về sự đồng ý của Ngoại vụ tỉnh, nhưng cũng có thể khi đó Nhật Bản đã quyết định không tranh đoạt đảo này, lãnh sự muốn không dính dáng với nó trước nhà Thanh. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79928; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.187759399414062pt; margin-right: 6.56756591796875pt; margin-top: 2.0888671875pt; margin: 2.08887pt 6.56757pt 10pt 9.18776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trương Nhân Tuấn cảm thấy phía Nhật Bản ngang ngược và vô lí. Nhưng công bằng mà nói, thái độ của Nhật Bản không phải là quá tệ: ít nhất Nhật Bản cũng thừa nhận đảo này vốn không thuộc lãnh thổ Nhật Bản, chỉ cần Trung Quốc đưa ra bằng chứng quản lí thực chất, thì Nhật Bản sẽ đồng ý từ bỏ tranh chấp; mà bằng chứng về quản lí thực chất mà phía Nhật Bản yêu cầu cũng hợp tình hợp lí, còn xa mới đạt đến yêu cầu về bằng chứng quản lí mà các thành viên tòa trọng tài đưa ra phán quyết sau này (năm 1929) trong vụ kiện tranh chấp đảo giữa Palmas Mĩ và Hà Lan. Ví dụ, Nhật Bản cho rằng chỉ cần đưa ra bằng chứng như bản đồ, sách vở... là có thể đồng ý rồi, nhưng trong vụ kiện đảo Palmas bản đồ rất khó để trở thành bằng chứng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79683; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51953125pt; margin-top: 1.8607177734375pt; margin: 1.86072pt 6.51953pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về phía Nhật Bản chỉ có toàn quyền Đài Loan bày tỏ ý kiến, cho rằng đảo Đông Sa là đảo phụ thuộc của Đài Loan, được Trung Quốc cắt nhượng cho Nhật Bản trong Chiến tranh Giáp Ngọ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng lập luận như vậy không có chút căn cứ, chính phủ Nhật Bản hiển nhiên cũng không đồng ý với cách lập luận này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80537; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 2.1534423828125pt; margin: 2.15344pt 6.51959pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ này của Nhật Bản có thể liên quan với tình hình quốc tế. Khi đó Chiến tranh Nhật-Nga vừa kết thúc, và Nhật Bản đã thu hút sự chú ý của Anh, Pháp, Hoa Kỳ … Để bảo vệ lợi ích truyền thống của họ ở biển Đông (3 nước đều có thuộc địa ở biển Đông), 3 nước này đương nhiên không muốn Nhật Bản mở rộng thế lực đến khu vực biển Đông. Việc Anh bóng gió gợi ý với Trung Quốc việc xây dựng đèn biển ở Đông Sa chính là một ví dụ. Sau chiến tranh Nhật Bản cũng cần phục hồi và giấu mình chờ thời. Sau khi xảy ra sự kiện tàu “Nhị Thần Hoàn” (Tatsu Maru) năm 1908, tinh thần chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc dâng cao, tranh chấp đảo Đông Sa không khác gì đổ thêm dầu vào lửa (xem phần sau). Ngoài ra, việc khai thác ở đảo Đông Sa của Nhật Bản từ đầu đến cuối chỉ là sự khai thác mang tính chất tư nhân, Nishizawa thậm chí còn chưa thành lập công ti. Mặc dù toàn quyền Đài Loan ủng hộ việc thôn tính đảo Đông Sa, và quan chức địa phương Đài Loan cũng từng đến đảo khảo sát, nhưng Đài Loan chỉ là thuộc địa, không thể đại diện hoàn toàn cho thái độ của Nhật Bản. Hơn nữa, Đài Loan cũng không chính thức ủng hộ hành vi của Nishizawa, ví dụ như không đưa đảo Đông Sa vào khu vực hành chính của Đài Loan, cũng như không chính thức quản lí nó. Như vậy, chính phủ Nhật Bản can thiệp vào vụ này không sâu, cũng không hề cố hết sức để chiếm lấy đảo Đông Sa. Vì thế, ngay từ đầu chính phủ Nhật Bản đã chỉ thị cho Laikawa không cần phải khăng khăng cho rằng đảo Đông Sa là của Nhật Bản, chỉ cần yêu cầu phía Trung Quốc đưa ra bằng chứng, nếu phía Trung Quốc không thể đưa ra bằng chứng mới xem xét đưa ra đối sách tiếp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80388; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.860565185546875pt; margin: 1.86057pt 6.51959pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Trương Nhân Tuấn bắt đầu bắt tay vào việc tìm kiếm bằng chứng, nhưng bằng chứng lại không hề dễ tìm. Nguyên nhân chủ yếu là mặc dù ngư dân hoạt động nhiều ở đảo Đông Sa, nhưng chính phủ Trung Quốc trên thực tế không có bằng chứng vững chắc về đảo Đông Sa. Gần hai năm sau sự việc, chính phủ Trung Quốc vẫn mơ hồ về vị trí của đảo Đông Sa, ví dụ vào ngày 24/3, Bộ Ngoại vụ Trung Quốc còn gửi thư yêu cầu Trương Nhân Tuấn xác minh kinh vĩ độ và xem đảo Đông Sa có phải là “đảo Bích Liệt Tha” (碧列他) không.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27/3, Trương Nhân Tuấn trả lời:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80486; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 6 tháng 9 năm Đinh Mùi nhận được điện của Bộ Binh </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(鈞部: </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân bộ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nói có một vùng đảo thuộc quyền quản lí nằm ở 14</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 42’ 2” vĩ Bắc, 116</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 42’ 14” kinh Đông. Tra hải đồ của Anh, nơi này chỉ toàn là biển, không có đảo nào. Cách Quảng Đông quá xa, tự thấy khó nói là đất của Quảng Đông. Quảng Đông cũng không có tàu thuyền lớn nào có thể đi xa để khảo sát ngoài biển, không khỏi nhìn biển mà thở dài. Tiếp đó nhận điện Ngọ Soái, đảo này ở 20</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 42’ vĩ Bắc, 116</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 43’ kinh Đông. Tra lại hải đồ của Anh mới biết tên đảo này là Bồ Lạp Tha Sĩ (</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">蒲拉他士/Pú lā tā shì:</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pratas), tức đảo Đông Sa thuộc Quảng Đông, đó không phải là đảo bị người Nhật chiếm ở 14</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vĩ Bắc. Hiện đã tra rõ đảo sau cách biên giới biển Quảng Đông rất gần và có tên là đảo Tây Sa ở vùng biển Hải Nam, đã phái người đến đảo Tây Sa và thuê tàu của Hải quan đến điều tra để có thêm bằng chứng. Truy kĩ từ Trung Quốc giang hải hiểm yếu đồ </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(中國江海險要圖),</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chỉ rõ đảo này thuộc Quảng Đông cách Ma Cao 13 lí, có thể quả quyết là thuộc Quảng Đông, dựa vào đó để đấu tranh. Bộ Binh tra cứu bản đồ thấy có tên đảo là Bích Liệt Tha, đó phải là phiên âm của đảo Bồ Lạp Tha Sĩ (Pratas). Người Nhật gần đây đổi tên thành Tây Trạch (Nishizawa) mưu đồ cắt bỏ tên gọi Đông Sa của nước ta, bản đồ nước ta tường tận về đất liền mà sơ lược về biển, thiên về khảo chứng phương hướng xa gần, lâu nay ít đo đạc ghi chép thực tế, có nhiều sai sót. Các đảo ven bờ thường chỉ có tên đất mà không có hình vẽ, ghi chép chi tiết. Đành chịu không thể khảo cứu trong sách cũ. Vẫn phải dựa vào hải đồ của Anh. Các bằng chứng khác hiện đang cố gắng thu thập, chủ yếu không nằm ngoài ngư nghiệp. Nhu viễn kí </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[柔遠記]</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Giang hải hiểm yếu đồ thuyết có ghi chép nhiều mặt, đem dùng để đấu tranh không phải là không có hiệu quả”.</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoạn trả lời này có mấy điểm đáng chú ý là:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 42’ 2” vĩ Bắc, 116</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 42’ 14” kinh Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” nằm ở khoảng 100 km về phía tây bãi cạn Scarborough (đảo Hoàng Nham). Nơi này được tổng đốc Lưỡng Quảng miêu tả là “cách Quảng Đông quá xa, tự thấy khó nói là đất của Quảng Đông”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Tổng đốc Lưỡng Quảng thừa nhận địa lí học của Trung Quốc “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tường tận về đất liền mà sơ lược về biển, thiên về khảo chứng phương hướng xa gần, lâu nay ít đo đạc ghi chép thực tế, có nhiều sai sót. Các đảo ven bờ thường chỉ có tên đất mà không có hình vẽ, ghi chép chi tiết. Đành chịu không thể khảo cứu trong sách cũ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Đây chính là lí do vì sao Trung Quốc khó mà đưa ra bằng chứng thực tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đến cuối cùng vẫn phải dựa vào hải đồ của Anh, mà “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giang hải hiểm yếu đồ thuyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” lại là bản dịch từ hải đồ của Anh. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chính phủ Trung Quốc còn thiếu các bằng chứng quản lí nó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bản đồ tìm được khi đó tương đối gọi là do Trung Quốc vẽ nằm trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc triều nhu viễn kí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (1881) của Vương Chi Xuân, phần dư đồ ven biển trong đó có địa danh Đông Sa, thật ra có không ít bản đồ của Trung Quốc ghi tên “Nam Áo Khí”, nhưng nhà nước không biết, do đó đây là bản đồ duy nhất có thể tìm thấy. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80541; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.770156860351562pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.77016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vấn đề Tây Sa được đề cập ở đây sẽ còn được thảo luận ở chương tiếp sau. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80064; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.309356689453125pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 9.115203857421875pt; margin: 9.1152pt 6.51935pt 10pt 8.30936pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 29/3, Trương Nhân Tuấn mang mấy tấm bản đồ đến giao thiệp với Laikawa. Laikawa rất thẳng thắn bày tỏ rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dựa trên bằng chứng cho thấy đảo này thuộc về Trung Quốc, dù chưa hoàn chỉnh, nhưng theo lời của tổng đốc Quảng Đông, thì có vẻ như không thể phủ nhận, tuy nhiên phải đảm bảo cho ổn thỏa, nếu không chính phủ vẫn xem là đảo vô chủ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở đây, phía Nhật Bản biểu thị rằng chỉ có bằng chứng bản đồ như vậy vẫn chưa đủ. Nói như vậy đúng ra vẫn chưa hạ thấp, thật ra hải đồ của Anh chỉ là hải đồ chứ không có liên quan đến vấn đề chủ quyền. Và bản đồ trong“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc triều nhu viễn kí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cũng thiếu đánh dấu biên giới quốc gia rõ ràng. Theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt, thật sự khó mà chứng minh Đông Sa thuộc Trung Quốc. Nhưng Nhật Bản khi đó hoàn toàn không có ý tranh đoạt Đông Sa với Trung Quốc. Do đó, chủ đề thảo luận nhanh chóng chuyển sang vấn đề bồi thường.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80025; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.741363525390625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.09027099609375pt; margin: 2.09027pt 6.51935pt 10pt 8.74136pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trương Nhân Tuấn hỏi Laikawa: lấy gì để đảm bảo ổn thỏa? Laikawa đáp rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc kinh doanh Nishizawa rất tốn kém, môt khi rút đi tất tổn thất nhiều – sau khi rút đi, của cải của ông ta như nhà cửa, mấy đoạn đường sắt... cần phải có biện pháp thích hợp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý của phía Nhật Bản là chỉ cần phía Trung Quốc chịu bồi thường cho Nishizawa, Nhật Bản sẽ bằng lòng rút khỏi cuộc tranh chấp về đảo Đông Sa. Trương Nhân Tuấn thì lấy tổn thất của ngư dân Trung Quốc ra để phản bác. Hai bên đồng ý sẽ đàm phán tiếp về vấn đề này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80174; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.909332275390625pt; margin: 1.90933pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đến đây, các trở ngại trong tranh chấp đảo Đông Sa đã được loại bỏ hết. Trong mấy tháng đàm phán sau đó, hai nước Trung-Nhật triển khai đàm phán xung quanh vấn đề bồi thường và trao trả như thế nào, nhưng không còn là vấn đề cơ bản nữa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những vấn đề này bao gồm: (1) Nhật Bản yêu cầu Nishizawa vẫn có thể khai thác khoáng sản trên đảo, Trung Quốc nhất quyết muốn thu mua tất cả tài sản; (2) Nếu Trung Quốc nhất quyết thu mua thì giá tài sản của Nishizawa được định là bao nhiêu? Nishizawa có cần nộp thuế đối với hải sản và khoáng sản mà ông khai thác trong mấy năm qua không? (3) Tổn thất của ngư dân Trung Quốc và tổn thất của ngôi miếu bị phá hủy là có thật hay không, định giá bao nhiêu? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80483; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.928558349609375pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.75396728515625pt; margin: 1.75397pt 6.51959pt 10pt 8.92856pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, vào ngày 11/10, hai bên kí thỏa thuận, phía Trung Quốc thu mua tài sản của Nishizawa, định giá 160 000 đồng tiền bạc; Nishizawa trả lại các khoản tiền về thuế, tàu cá, miếu thờ... được định là 30 000 đồng. Sau khi Nishizawa giao cho phía Trung Quốc tài sản và số phân chim hiện có theo danh sách cho phía Trung Quốc, trong vòng nửa tháng phía Trung Quốc sẽ giao khoản tiền cho lãnh sự Nhật Bản tại Quảng Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thỏa thuận này, từ góc độ luật quốc tế, điều đáng chú ý là câu chữ về các khoản thuế. Các khoản thuế này đồng nghĩa với việc Nishizawa phải nộp thuế cho phía Trung Quốc theo thu nhập trước đó, và có nghĩa là Nhật Bản thừa nhận đảo Đông Sa trước đó không phải là đất vô chủ mà là đảo do chính phủ Trung Quốc quản lí. Ngày 15/11, đại biểu hai nước Trung, Nhật cùng đến đảo Đông Sa, tiến hành kiểm kê và chuyển giao tài sản. Tranh chấp Đông Sa chính thức kết thúc. </span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.81594; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.04376220703125pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 18pt; margin: 18pt 6.51935pt 10pt 9.04376pt; padding: 0pt 0pt 0pt 0.0719986pt; text-align: justify; text-indent: -0.0719986pt;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.6 Trung Quốc củng cố chủ quyền đối với đảo Đông Sa và việc gia tăng ý thức phòng thủ biển ở Trung Quốc </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80761; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.245361328125pt; margin-right: 6.1162109375pt; margin-top: 1.75396728515625pt; margin: 1.75397pt 6.11621pt 10pt 9.24536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi tranh chấp đảo Đông Sa kết thúc, Trung Quốc lập tức tăng cường sự quản lí đối với đảo Đông Sa. Các biện pháp bao gồm: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80761; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.245361328125pt; margin-right: 6.1162109375pt; margin-top: 1.75396728515625pt; margin: 1.75397pt 6.11621pt 10pt 9.24536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Khảo sát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Ngày 13/2/1910, Tri phủ dự khuyết Quảng Châu Thái Khang dẫn đầu đoàn nhân viên khảo sát đảo Đông Sa. Sau khi trở về, viết thành báo cáo “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trù tính về tiếp nhận mời gọi doanh nhân đảm nhận việc sản xuất trên đảo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, đề xuất nhiều biện pháp như mời gọi doanh nhân khai thác phốt phát, thu hoạch hải sản, đảm nhận làm nghề cá ở đảo; mộ người bảo vệ, sửa chữa tàu thuyền; mời Ti quan thuế vụ Cửu Long phái thuyền đến đo đạc, vẽ bản đồ...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80454; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.903594970703125pt; margin: 1.90359pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Mời gọi doanh nhân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Dựa trên kiến nghị này, Đạo Khuyến nghiệp, Cục Thiện hậu và Ti Bố chính tỉnh Quảng Đông kết hợp đưa ra thông báo mời gọi đầu tư. Tiến hành mời gọi đầu tư vào phốt phát và nghề cá. Để thuận tiện cho việc khảo sát của doanh nhân, vào ngày 27/3, Thái Khang và hơn 20 doanh nhân đến đảo Đông Sa khảo sát thực địa, thế nhưng điều kiện khắc nghiệt trên đảo làm giảm bớt nhiều ý muốn khai thác của doanh nhân, việc mời gọi đầu tư kết thúc mà không có kết quả.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80379; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.860748291015625pt; margin: 1.86075pt 6.51935pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Nhà nước khai thác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Sau khi mời gọi đầu tư thất bại, Trung Quốc quyết định kinh doanh đảo Đông Sa theo hình thức nhà nước điều hành. Vào tháng 6/1910 chương trình quốc doanh được thông qua, cho phép Thái Khang mời kĩ sư Nhật Bản và mộ công nhân Trung Quốc. Tháng 7, thành lập “Ủy ban quản lí đảo Đông Sa”. Hai tháng sau đó, Ủy ban tổ chức cho nhân viên thu lấy một lô phốt phát, nhưng nguồn tiêu thụ không tốt, thu lợi rất ít, không thể tiếp tục làm được, cuối cùng vào cuối tháng 9 quyết định ngừng công việc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/11, Ti sự đảo Đông Sa Hồng Niệm Tông tiến hành nghiệm thu tài sản trên đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80235; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.91754150390625pt; margin: 1.91754pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(4) Trung – Nhật hợp tác khai thác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Sau khi khai thác quốc doanh thất bại, Trung Quốc đành phải hợp tác với Nhật Bản một lần nữa. Năm 1911, qua sự trung gian giới thiệu của lãnh sự Nhật Bản Laikawa, Đạo Khuyến nghiệp tỉnh Quảng Đông và Thương hội Osawa đã kí hợp đồng, cho doanh nhân Nhật Bản tiến hành khai thác hải sản (như ốc biển...) của đảo Đông Sa, Trung Quốc được 60% lợi nhuận, Nhật Bản được 40%. Nhưng lợi nhuận của doanh nhân Nhật Bản rất ít, nên đã tuyên bố ngừng công việc vào tháng 10 cùng năm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.79734; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.885360717773438pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 2.126983642578125pt; margin: 2.12698pt 6.51959pt 10pt 8.88536pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(5) Ngư nghiệp và quản lí ngư dân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Vào năm 1910, tỉnh Quảng Đông ra thông cáo, báo cho ngư dân Huệ Châu biết rằng họ có thể đến đánh cá ở vùng phụ cận đảo, nếu trên biển có sóng gió hoặc sự cố, có thể lên đảo sẽ có người đóng trên đảo tiếp đãi. Cũng có thể xây dựng lại miếu, nhưng cần trình báo và được nhà nước cho phép mới có thể tiến hành.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, tỉnh Quảng Đông còn thử soạn thảo chương trình ngư nghiệp chi tiết hơn, nhưng vì đã cho Nhật Bản nhận thầu nên chương trình không được dùng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.81733; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.490158081054688pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.921478271484375pt; margin: 1.92148pt 6.51959pt 10pt 9.49016pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(6) Tuần tra và quản lí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Trong thời gian hợp tác Trung–Nhật, Ti sự đảo Đông Sa Hồng Niệm Tông nhiều lần đến đảo tuần tra, báo cáo sự tiến triển của các hạng mục trên đảo. Trong báo cáo còn miêu tả trên đảo có một “ủy viên quản lí sự vụ trên đảo, một người quản lí công nhân, một dũng mục, một thầy thuốc, 13 lính canh, trông coi tài sản trên đảo” trực thuộc sở Khuyến nghiệp tỉnh Quảng Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80613; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.86761474609375pt; margin: 1.86761pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Trung Quốc không thành công trong việc khai thác đảo Đông Sa, nhưng thông qua một loạt hành động như kể trên, Trung Quốc đã thực thi đầy đủ chủ quyền đối với đảo Đông Sa. Sau năm 1909, đảo Đông Sa đã xuất hiện phổ biến trên nhiều bản đồ của Trung Quốc và của tỉnh Quảng Đông (xem phần II.8). Điều này cho thấy quyền quản lí của Trung Quốc đối với đảo Đông Sa đã chính thức được thiết lập. Sau thời Dân quốc, Sở Thực nghiệp tỉnh Quảng Đông lại đưa ra thông báo chiêu thương đối với đảo Đông Sa. Điều này đã cho thấy sự liên tục trong việc kiểm soát đảo Đông Sa thời Dân quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80204; margin-bottom: 10pt; margin-left: 9.000556945800781pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.841583251953125pt; margin: 1.84158pt 6.51935pt 10pt 9.00056pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong sự kiện đảo Đông Sa, phản ứng của người dân Trung Quốc rất thú vị. Một mặt, khi ngư dân bị xua đuổi khỏi đảo Đông Sa vào năm 1907, họ căm giận mà không biết kêu ai, cũng không thấy bất cứ tờ báo nào đưa tin. Mặt khác, khi Trung Quốc và Nhật Bản giao thiệp vào năm 1909, báo chí bắt đầu đưa tin và tình hình của quần chúng sôi sục xuất hiện. Ví dụ, thượng tuần tháng 3/1909, Hội nghiên cứu Tự Trị Huệ Châu cử đại biểu đến Quảng Châu,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tổ chức họp chung với Hội nhân sĩ doanh nhân tỉnh, hợp sức để đưa ra bằng chứng trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quốc văn kiến lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cho thấy rằng Trung Quốc đã biết đến Đông Sa từ lâu. Lại có Quan Tả Điền từng đi đến Đông Sa chỉ ra “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hai ba chục năm trước, có học giả Hồ Duy Đồng ở Nam Hải dâng thư lên quan, miêu tả tỉ mỉ vùng đảo nơi này, rất quan trọng. Vẫn chưa thể tìm thấy nguyên văn tờ trình này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hội Tự Trị tỉnh Quảng Đông dưới sự lãnh đạo của nhân sĩ Chu Khổng Bác lại tập hợp nhiều người cùng bàn luận về vấn đề đảo Đông Sa, quyết định áp dụng ba bước để giải quyết: (1) Nhanh chóng công bố cho trong và ngoài nước biết để tạo áp lực dư luận; (2) Trình thư lên chính phủ, yêu cầu chính phủ đảm bảo chắc chắn lợi ích của ngư dân; (3) Tranh đấu đến cùng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80428; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify; text-indent: 0.273598pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/4, Chu Khổng Bác lại tổ chức hội nghị, đề xuất việc gửi điện cho chính phủ, yêu cầu bảo vệ lợi ích ở đảo Đông Sa. Sau đó, liên tục có người gửi thư cho tổng đốc Quảng Đông và tổng đốc Lưỡng Giang, yêu cầu bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lúc này, “chủ nghĩa dân tộc” ở Quảng Đông dâng cao. Vào tháng 2/1908 xảy ra vụ án Nhị Thần Hoàn (Tatsu maru) giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Tàu Nhị Thần Hoàn chở vũ khí đang dỡ hàng tại vùng biển bên ngoài đảo Lộ Hoàn của Ma Cao, bị thủy quân nhà Thanh bắt được. Hai bên tranh cãi liệu sự việc xảy ra ở vùng biển của Trung Quốc hay ở vùng biển của Bồ Đào Nha, liệu thủy quân Trung Quốc có quyền truy bắt buôn lậu ở Ma Cao hay không. Cuối cùng, nhà Thanh thừa nhận vùng biển này thuộc Ma Cao, đồng thời xin lỗi và bồi thường cho Nhật Bản. Sự việc này dẫn đến cao trào chống Nhật ở Quảng Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80428; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify; text-indent: 0.273598pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuộc đàm phán phân chia ranh giới ở Ma Cao năm 1908-1909 ngay sau đó, phía Trung Quốc cũng có sự nhượng bộ đối với Ma Cao. Đồng thời, ở Đông Bắc còn có tranh chấp đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Vì vậy thời gian này ở Quảng Đông đã dấy lên cao trào chống Nhật, bài ngoại như tẩy chay hàng hóa của Nhật.... Lúc đó lại thêm tranh chấp đảo Đông Sa, càng khiến tình cảm quần chúng ngày càng sôi sục. Truyền thông Nhật Bản nhận định rằng sự kiện đảo Đông Sa “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đang lúc lòng người bị kích động, khí thế hừng hực, sợ không thể ngăn chặn được. Và vấn đề đột nhiên nẩy sinh bị lợi dụng như một cái cớ để xúi giục tẩy chay, thật đáng lo ngại. Các cấp thẩm quyền ngoại giao phải công bằng vô tư, điều tra rõ sự thực và nhanh chóng giải quyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thời gian này, Trung Quốc cũng đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, và Pháp cũng quyết định không lên tiếng vì sợ kích động chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80317; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 2.4683837890625pt; margin-top: 2.11199951171875pt; margin: 2.112pt 2.46838pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, sau sự kiện đảo Đông Sa, chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề các đảo ở biển Đông. Các đảo ở biển Đông không còn là các đảo không quan trọng, mà là lãnh thổ cần phải tuyên bố rõ ràng. Năm 1909, việc Trung Quốc giành được Đông Sa và tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa đều phản ánh ý thức về quyền lợi biển của Trung Quốc đang tăng lên. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80388; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.870956420898438pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.1171875pt; margin: 2.11719pt 6.51935pt 10pt 8.87096pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Đông Sa là đảo được giải quyết vấn đề chủ quyền sớm nhất trong số các đảo ở biển Đông. Sau khi bước vào thời Dân quốc, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục tăng cường sự quản lí ở Đông Sa, khuyến khích doanh nhân Trung Quốc khai thác Đông Sa, không cho phép doanh nhân nước ngoài (người Nhật Bản) khai thác. Người Nhật Bản vẫn quan tâm đối với hải sản trên đảo như trước, đặc biệt là một thứ hải sản loại tảo tên là hải nhân thảo (rong biển). Năm 1926, một công ti ở Quảng Đông được cấp giấy phép độc quyền khai thác rong biển, lại lén cho người Nhật kinh doanh rong biển, bị chính quyền tỉnh Quảng Đông phát hiện, giấy phép của công ti này đã bị hủy bỏ. Năm 1927, một công ti khác có được quyền kinh doanh hải sản ở đảo Đông Sa, nhưng liên tục xảy ra xung đột với ngư dân Nhật Bản đến thu hoạch trộm rong biển, năm 1932 còn gây thành vụ án đẫm máu. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80388; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.870956420898438pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.1171875pt; margin: 2.11719pt 6.51935pt 10pt 8.87096pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1933, doanh nhân Nhật Bản đổ bộ trái phép lên đảo, chiếm kho tàng và thiết bị trên đảo, dẫn đến sự giao thiệp ngoại giao Trung-Nhật. Tranh chấp về rong biển mãi đến khi bùng nổ chiến tranh Trung-Nhật năm 1937 vẫn chưa kết thúc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong những tranh chấp này, chính phủ Nhật Bản đều không thách thức chủ quyền của Trung Quốc đối với Đông Sa. Tổng thuật về những tranh cãi đó có thể tham khảo chuyên luận của tác giả khác,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> không trình bày chi tiết trong cuốn sách này.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80388; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.870956420898438pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.1171875pt; margin: 2.11719pt 6.51935pt 10pt 8.87096pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I.7 Kết luận: Bình luận về tranh chấp đảo Đông Sa </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80483; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.5194091796875pt; margin-top: 9.35516357421875pt; margin: 9.35516pt 6.51941pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp đảo Đông Sa là cuộc tranh chấp đầu tiên về các đảo biển Đông từ khi lịch sử được ghi chép lại đến nay. Nhật Bản là một cường quốc biển mới nổi trước đây đã khuấy động biển Đông vốn yên tĩnh trước đây. Từ mấy chương tiếp theo có thể thấy rằng trong suốt nửa đầu thế kỉ 20, các tranh chấp ở biển Đông đều có liên quan đến Nhật Bản. Sự xuất hiện của Nhật Bản, một mặt đã làm bừng tỉnh ý thức quyền lợi biển và tình cảm chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, mặt khác cũng đã đụng chạm đến lợi ích của các nước Anh, Pháp, Mĩ..., khiến họ càng chú ý tới tình hình biển Đông. Có thể nói, cho đến Hòa ước San Francisco được kí kết năm 1951, Nhật Bản là trục chính trong vấn đề biển Đông, và vấn đề biển Đông sau chiến tranh cũng có dính dáng đến Hiệp ước San Francisco vốn có chỗ mập mờ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80571; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 3.01202392578125pt; margin-top: 1.877227783203125pt; margin: 1.87723pt 3.01202pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong toàn bộ sự kiện đảo Đông Sa, có mấy điểm có thể giúp ích cho việc nhận thức vấn đề luật quốc tế về các đảo ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80571; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 3.01202392578125pt; margin-top: 1.877227783203125pt; margin: 1.87723pt 3.01202pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Đông Sa nằm trong vùng biển gần của Trung Quốc, và sự việc ngư dân Trung Quốc phát hiện và khai thác nó sớm nhất là điều đáng tin cậy. Vì vậy, căn cứ luật quốc tế, Trung Quốc có các quyền ban đầu đối với nó. Hơn nữa, trước khi người Nhật khai thác đảo này, không có bất cứ quốc gia nào tuyên bố chủ quyền đối với nó. Ví dụ, các nhà hàng hải phương Tây đã biết đến từ rất sớm, vẽ lên trên bản đồ và đù vẽ đảo này, nhưng không tuyên bố nó là của họ. Năm 1883, Hà Lan kháng nghị với Trung Quốc vì có tàu bị va vào đá ngầm, đây có thể xem là sự thừa nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Trung Quốc ở Đông Sa (nhưng phía Trung Quốc dường như không biết việc này). Vì vậy, với sự kiện đảo Đông Sa, không có quốc gia nào có quyền lịch sử có thể sánh được với Trung Quốc. Tình huống hoàn toàn khác với tình huống của Hoàng Sa và Trường Sa. Hoàng Sa và Trường Sa đều khó có thể khẳng định rằng chúng đã được người Trung Quốc phát hiện ra,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Hoàng Sa có bằng chứng về sự kiểm soát của Việt Nam;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Trường Sa luôn có bằng chứng về hoạt động hàng hải và đo vẽ của các nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo các ghi chép đáng tin cậy, người Trung Quốc chỉ mới đến đến đánh cá ở biển Đông vào khoảng những năm 1860,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các nước khác hoàn toàn không có quyền lịch sử. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80537; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.798957824707031pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 1.967529296875pt; margin: 1.96753pt 6.51959pt 10pt 8.79896pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trước tranh chấp đảo Đông Sa, chính phủ Trung Quốc thiếu sự quản lí đối với đảo Đông Sa. Điều này thể hiện một số mặt sau đây: đầu tiên, sau khi bị xua đuổi, ngư dân Trung Quốc hoàn toàn không có bất cứ kênh nào để phản ánh, chính quyền địa phương không hề hay biết. Chính phủ Trung Quốc phải qua tổng đốc Lưỡng Giang vốn không có quan hệ trực tiếp mà chỉ thông qua báo chí mới để ý đến việc này; thứ hai, chính phủ Trung Quốc thiếu nghiêm trọng các thông tin về vị trí và những điều liên quan khác về đảo Đông Sa, phải dùng tư liệu do lãnh sự Nhật Bản cung cấp và mất đến hai năm để xác minh nhiều lần mới biết được vị trí chính xác, tên gọi chính xác và tên mà người Trung Quốc thường gọi của đảo này; thứ ba, chính phủ Trung Quốc thiếu năng lực quản lí thường xuyên đối với đảo Đông Sa, khi kiểm chứng khẩn cấp tình hình thực tế của Đông Sa, hải quân Quảng Đông không có tàu có thể đi xa đến Đông Sa mà phải đợi tới một năm rưỡi mới có thể mượn tàu của hạm đội Nam Dương để đến thăm dò. Cuối cùng, sau khi xảy ra sự việc thì chính quyền Trung Quốc mới tìm kiếm tư liệu khắp nơi để “chứng minh” đảo này thuộc Trung Quốc, và cuối cùng bằng chứng chủ yếu vẫn là bản đồ hàng hải của Anh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80596; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Nhật Bản mới đầu nhận thức đảo Đông Sa là đảo không người (đất vô chủ), điều này có căn cứ nhất định. Trước hết, năm 1901 Nhật Bản đã hỏi ý kiến chính quyền Anh ở Hong Kong về sự quy thuộc của đảo Đông Sa, nhưng nhận được câu trả lời “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có vẻ không thuộc về ai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Thứ hai, năm 1901, Tamaki Hanemon tiến hành cuộc khảo sát 3 tháng trên đảo nhưng không hề bị Trung Quốc kháng nghị. Thứ ba, năm 1906 khi Nishizawa khai thác đảo Đông Sa có hỏi “công sứ nhà Thanh tại Nhật Bản, lãnh sự các nước tại Yokohama, Quan đạo Thượng Hải, chính quyền Anh ở Hong Kong”, câu trả lời cuối cùng đều là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoàn toàn không thuộc nước nào</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Có thể thấy, nhận thức của nhiều nước trên thế giới lúc đó đều xác định rằng đảo này hoàn toàn không thuộc về nước nào (có thể Hà Lan là ngoại lệ duy nhất). Cuối cùng, ngay đến công sứ nhà Thanh ở Nhật Bản cũng cho rằng đảo này không phải của Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8053; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.8197021484375pt; margin: 1.8197pt 6.51935pt 10pt 8.85656pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù Nhật Bản khuyến khích cá nhân khai thác đảo vô chủ ở hải ngoại, nhưng ít ra điều đó hoàn toàn không phải không coi trọng đạo lí vào thời đó. Ngay khi đàm phán Trung-Nhật mới bắt đầu, Nhật Bản đã quyết định chỉ yêu cầu Trung Quốc đưa ra bằng chứng ở mức độ thấp nhất thì có thể coi như chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Đông Sa đã được chứng minh. Ví dụ này có thể dùng để luận chứng cho tình hình đảo Senkaku (Điếu Ngư), Trung Quốc thường nói rằng đảo Senkaku bị Nhật Bản “cướp đoạt” trước và sau khi “Hiệp ước Mã Quan” được kí kết, cũng nói rằng vì Đài Loan đã được cắt nhượng rồi nên Trung Quốc không thể nói đến việc của đảo Senkaku.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sự việc đảo Đông Sa cho thấy Nhật Bản không ngang ngược đến như vậy. </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: line-through; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80636; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.741363525390625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51935pt 10pt 8.74136pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tranh chấp đảo Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản giải quyết thông qua đàm phán chứ không qua Tòa Trọng tài quốc tế. Điều này cho thấy vấn đề luật pháp quốc tế liên quan đến chủ quyền đảo Đông Sa chỉ có tác dụng là tiền lệ cho hai bên trong đàm phán chứ chưa phải là tiền lệ và có hiệu lực ràng buộc đối với bên thứ ba. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80537; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.899757385253906pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 1.85888671875pt; margin: 1.85889pt 6.51935pt 10pt 8.89976pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong sự kiện đảo Đông Sa Trung Quốc biểu hiện ra sự thiếu hiểu biết và thiếu bằng chứng về sự kiểm soát của mình (ví dụ thiếu bản đồ, sách vở, không có sự quản lí thường xuyên, ngư dân bị xua đuổi không biết báo cáo với ai, nhà nước không có kênh thường xuyên chính thức để biết tình hình trên đảo...), thực tế cho thấy “bằng chứng lịch sử” của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, bãi Scarborough và quần đảo Trường Sa ở xa hơn càng yếu hơn, càng không cần nói đến sự kiểm soát đối với vùng biển. Điều này giúp ích rất nhiều trong việc lí giải chính xác “bằng chứng lịch sử” của Trung Quốc khi phân tích luật quốc tế về các đảo đó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80303; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.090728759765625pt; margin: 2.09073pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ bảy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thực tế cho thấy chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc thật sự có thể ảnh hưởng đến sự quy thuộc chủ quyền các đảo ở một mức độ nhất định. Các đảo ở biển Đông trước đây vốn được nhiều người coi là đảo không người, nếu một nước khác có thái độ không kiên quyết thì có thể họ cần phải cân nhắc cân bằng lợi ích của các đảo này với tổn thất gây ra bởi chủ nghĩa dân tộc gây ra. Điều này có thể giúp lí giải thái độ của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa khi đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80303; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.090728759765625pt; margin: 2.09073pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80303; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8277587890625pt; margin-right: 6.51934814453125pt; margin-top: 2.090728759765625pt; margin: 2.09073pt 6.51935pt 10pt 8.82776pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản có chú thích <a href="https://docs.google.com/document/d/1AUzJm-lNGR1XpGxzafmhByG-7h8sARxYjCZ8022kvqE/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây</a>.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: justify; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="font-size: 12pt; text-align: justify; text-decoration-line: none; white-space: pre-wrap;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></p><br /></span></span><p><span style="font-family: verdana;"> </span></p>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-33712445091175633922023-05-05T05:17:00.010-07:002023-05-11T01:07:04.849-07:00MỞ ĐẦU CUỘC TRANH CHẤP HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA (1909-1936) - Lê Oa Đằng (Ch. II)<p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-397e950f-7fff-8171-414d-c92cd53e591b"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 20pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG II </span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80136; margin-bottom: 10pt; margin-left: 22.30615234375pt; margin-right: 23.8604736328125pt; margin-top: 9.35516357421875pt; margin: 9.35516pt 23.8605pt 10pt 22.3062pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">MỞ ĐẦU CUỘC TRANH CHẤP HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA </span><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1909-1936) </span></span></h1><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8001; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 28.058837890625pt; margin: 28.0588pt 6.51959pt 10pt 8.85656pt; text-indent: 0.187202pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.1 Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8001; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.856559753417969pt; margin-right: 6.51959228515625pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 6.51959pt 10pt 8.85656pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện đảo Đông Sa (Pratas) đã kích thích mạnh mẽ chính phủ Trung Quốc vốn bắt đầu coi trọng quyền lợi biển, khiến họ quyết tâm khai thác biển Đông. Năm 1909, khi tranh chấp Đông Sa còn đang diễn ra, ngày 26 và 31/3 truyền thông Trung Quốc đưa tin rằng gần đây có một tàu chiến của châu Âu tiến đến đảo Tây Sa (Hoàng Sa).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này đã khơi dậy sự cảnh giác của tổng đốc Quảng Đông Trương Nhân Tuấn, ông quyết định tiến hành dò xét và tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nay lại tra thấy có Tây Sa, ở gần cảng Du Lâm thuộc Nhai Châu... đặc phái phó tướng Ngô Kính Vinh đến thám sát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về việc nhóm Ngô Kính Vinh đến thám sát Hoàng Sa, hiện nay không tìm thấy báo cáo gốc, và sử liệu Trung Quốc không nêu rõ ràng. Tuy nhiên, trong ghi chép của Beauvais, Tổng Lãnh sự Pháp tại Quảng Châu, có thể thấy một số tình tiết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba người Ngô Kính Vinh, Vương Nhân Đường, Lâm Quốc Tường xuất phát trên chiếc tàu “Khai Biện” (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kaipan</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) thuê của hải quan, ngày 15/4 trở về Hong Kong, ngày 19 đã giao nộp báo cáo. Họ chỉ ra rằng Hoàng Sa có 15 đảo, 8 ở phía Đông, 7 ở phía Tây. Họ không phát hiện có người nước ngoài trên đảo, nhưng thấy có dấu tích rõ ràng của người nước ngoài để lại. Họ đã gặng hỏi tỉ mỉ ngư dân Trung Quốc sống trong những ngôi nhà nhỏ sơ sài trên đảo, đã xác nhận có 2 người Đức, 1 người Nhật và người làm thuê Mã Lai đã từng lên đảo, khoan rất nhiều lỗ trên đảo, dường như để phân tích thổ nhưỡng nhằm khảo sát phốt phát trên đảo có giá trị khai thác hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.75576pt; margin-top: 2.38756pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: line-through; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dẫn thuật của Trương Nhân Tuấn chỉ ra rằng trong báo cáo có đề cập đến tình hình địa lí cơ bản của Hoàng Sa, đồng thời chủ trương “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu cứ để bỏ hoang mà không quản lí thì thật là đáng tiếc vì không những đó là bỏ đi địa lợi mà lại còn không coi trọng lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi biển</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, một mặt Trương Nhân Tuấn thành lập “Trù biện Tây Sa đảo sự vụ xứ” (Phòng xử lí sự việc đảo Hoàng Sa), đưa ra “Đại cương biện pháp thám sát lại đảo Tây Sa”, một mặt chuẩn bị phái ba người là thuỷ sư đề đốc Lí Chuẩn, bổ dụng đạo Quảng Đông Lí Triết Tuấn và phó tướng Ngô Kính </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vinh... chỉ huy các tàu “Phục Ba”, “Sâm Hàng”, “Quảng Kim” đến “tuần thị” đảo Tây Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chuyến đi không được thuận buồm xuôi gió, theo báo cáo sau chuyến đi của Trương Nhân Tuấn: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu tháng, phái tàu Phục Ba, Sâm Hàng đến khảo sát các đảo ở Tây Sa ở ngoài cảng Du Lâm. Hai tàu này lâu năm cũ nát, vũ khí hỏng hóc, dễ bị bão đánh chìm, ngoài ra không thể phái tàu nào khác được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng cuối cùng chuyến đi vẫn hoàn thành. Căn cứ tấu báo của nhân viên đi cùng, ngày 19/5 ba tàu chiến xuất phát từ Quảng Châu, ngày 21/5 đến Hong Kong, ngày 25 đến Du Lâm, dừng lại ở Du Lâm 10 ngày, rồi ngày 4/6 xuất phát tiến về phía Tây Sa, ngày 5 đến được Tây Sa, lưu lại 3 ngày trên các đảo La Bát, Đại Đăng, Địa Lợi, ngày 8/6 bắt đầu trở về Quảng Châu.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một tường thuật khác về hành trình của họ do P.A. Lapique, một nhà quan sát thời sự quốc tế ở Hong Kong thời đó, cung cấp, nói rằng do thuỷ quân không hợp với việc đi biển xa (Lapique cho biết Lí Chuẩn là đề đốc của “thuỷ quân đường sông”) và cũng do phải chờ gió thuận, họ đã lưu lại ở cảng Du Lâm thuộc Hải Nam một thời gian rất dài. Do đó, mãi đến ngày 6/6 họ mới đến được Hoàng Sa, rồi vào 4 giờ ngày 7/6 thì từ Hoàng Sa quay trở về, vì vậy thời gian dừng lại ở Hoàng Sa không đến 24 giờ. Tường thuật của Lapique không đúng, có thể do ông đã lẫn lộn lịch cũ và lịch mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong chuyến đi tới Hoàng Sa, Lí Chuẩn đã thực hiện 3 việc chủ yếu là: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lên đảo khắc đá, đổ bộ lên mỗi đảo họ đều dựng bia đá, dựng cờ hoàng long của Đại Thanh; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ghi chép về địa hình và sản vật;</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đối chiếu danh sách các đảo do phương Tây đưa ra (khi đó có “Tây Sa chí”, bản dịch sách hàng hải của Anh) đặt tên lại cho các đảo, và vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có vấn đề sai lệch về thời gian đối với chuyến đi của Lí Chuẩn, một loạt tài liệu chính thức đều chỉ ra rằng năm 1909 (năm Tuyên Thống thứ nhất) ông ta vâng lệnh đi đến Hoàng Sa, nhưng cũng có tường thuật chỉ ra rằng ông ta đến Hoàng Sa vào năm 1907 (năm Quang Tự thứ 33), thậm chí trên đá có khắc chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm Quang Tự thứ 33 nhà Đại Thanh Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lí Chuẩn tuần duyệt đến đây</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Khởi nguồn của sai sót này là từ cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí Chuẩn tuần hải kí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, do phóng viên của “Tuần báo Quốc văn” viết ra, sau khi phỏng vấn Lí Chuẩn nhân lúc xảy ra sự kiện 9 hòn đảo nhỏ giữa Trung Quốc và Pháp trong những năm 1930. Khi đó Lí Chuẩn tuổi đã cao, qua thời gian nhiều tình tiết bị sai sót, trong đó nhầm lẫn thời gian thành năm 1907 (năm Quang Tự 33).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Xét thấy cuốn sách này là tự thuật của chính Lí Chuẩn hơn 20 năm sau vào lúc mà tranh chấp Hoàng Sa bùng phát, nên không thể không xem xét có thể có phần sai sót, nhớ sai hoặc nói quá trong đó. Ví dụ, sách này nói vào mùa xuân năm 1907 Lí Chuẩn đã đến Đông Sa tuần thị, phát hiện người Nhật Bản đã xây dựng văn phòng và đường sắt trên đảo, và đã giao thiệp với họ. Nhưng thật ra cho đến mùa hè năm 1907, Nishizawa mới bắt đầu đưa người đến Đông Sa và bắt đầu công việc xây dựng. Như vậy, vào mùa xuân năm 1907 lấy đâu ra để có đường sắt và văn phòng? Ngoài ra, căn cứ hồ sơ của Đông Sa, năm 1909 mới có việc Trương Nhân Tuấn phái thuyền đến tuần tra khảo sát Đông Sa, như vậy nếu năm 1907 Lí Chuẩn đã tuần tra khảo sát Đông Sa thì Trương Nhân Tuấn cần gì đợi 2 năm mới bắt đầu giao thiệp với người Nhật Bản ?</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ảnh hưởng xấu của tường thuật sai về thời gian tàu đi tuần tra Tây Sa rất sâu đậm, cho đến hiện nay vẫn còn có một số bài viết nói rằng Lí Chuẩn tuần tra biển năm 1907. Công trình học thuật thuộc loại nghiêm túc của Trung Quốc như “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải cương vực nghiên ccứu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國南海疆域研究: Nghiên cứu cương vực Nam Hải của Trung Quốc), mặc dù việc này đã được xác nhận xảy ra vào năm 1909,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng sách này vẫn tiếp tục sử dụng những chi tiết sai lầm trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí Chuẩn tuần hải kí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, như nêu rằng khi đó Lí Chuẩn đã khắc các chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm Quang Tự thứ 33 nhà Đại Thanh Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lí Chuẩn đến đây tuần duyệt</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Cuốn sách“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nghiên cứu cương vực Nam Hải của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” này còn phạm những sai sót khác về lịch sử Hoàng Sa đầu thế kỉ 20, ví dụ trong phụ lục của sách có một đoạn miêu tả về Hoàng Sa, nêu rằng năm 1902 nhà Thanh phái quan chức đến thị sát Tây Sa và dựng bia kỉ niệm, khắc các chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">năm 28 Quang Tự nhà Đại Thanh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chi tiết này không hề có bất cứ căn cứ nào, người viết cũng tìm không ra bất cứ ghi chép liên quan nào, xem như đó là sử liệu không thật. Tuy nhiên, có sách học thuật vẫn trích dẫn để “chứng minh” chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kiểu sai sót này cũng cần phải được làm sáng tỏ hơn nữa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quá trình tuyên bố chủ quyền lần này cũng thể hiện tính chất khác lệ thường. Trước khi tuyên bố chủ quyền, nhân viên được đặc phái thăm dò đường thuỷ trước, điều này cho thấy nhà cầm quyền hoàn toàn không hiểu rõ tình trạng thuỷ văn của khu vực Hoàng Sa. Để tìm chiến hạm có thể đi đến Hoàng Sa được, Tổng đốc Lưỡng Quảng phải mượn chiến thuyền từ tổng đốc Phúc Kiến, Chiết Giang, điều này cho thấy Lưỡng Quảng không có sẵn thuyền có khả năng đi tới Hoàng Sa để tuần tra thường xuyên. Lần tuyên bố chủ quyền này chắc chắn là một tuyên bố thành công, Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng chủ quyền đối với Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính sự kiện tuyên bố chủ quyền đặc thù này đã cho thấy rằng sự kiểm soát của Trung Quốc trước đó đối với Hoàng Sa ít ra là rất yếu kém, nếu không muốn nói là không tồn tại, vì nếu không như vậy thì không cần tiến hành bằng phương thức tuyên bố chủ quyền kiểu khác lệ thường này. Trong mấy trăm năm mà Trung Quốc chỉ có hai ba việc cụ thể nhưng đầy nghi vấn có thể có liên quan đến sự “kiểm soát” đối với Tây Sa, điều đó đã cho thấy đầy đủ rằng trước năm 1909 Trung Quốc thiếu sự kiểm soát có tính thực chất ở Hoàng Sa,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lần tuyên bố khác lệ thường này càng làm rõ điểm này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù phía Trung Quốc gọi chuyến đi này là “tuần tra”, và sử dụng từ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trọng thân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (重申: lập lại) trong báo cáo một tháng sau khi trở về, nhưng nhận thức của Lí Chuẩn lại là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đất này </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ nay</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sẽ là lãnh thổ của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn trong cộng đồng quốc tế, nhìn chung đều thừa nhận rộng rãi rằng đây là lần đầu Trung Quốc có ý muốn kiểm soát Hoàng Sa. Sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (China Sea Directory) do Hải quân nước Anh xuất bản năm 1937 viết “Quần đảo Tây Sa... được chính phủ Trung Quốc đưa vào bản đồ vào năm 1909” (They were annexed by the Chinese government in 1909).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hành động của Trung Quốc ồn ào như vậy, thế giới đều biết, nhưng Pháp cũng như các nước khác không hề đưa ra sự kháng nghị đối với sự kiện này, mặc dù vào năm 1899 họ đã chuẩn bị giành lấy chủ quyền qua việc xây dựng hải đăng ở Hoàng Sa. Sau khi Ngô Kính Vinh khảo sát Hoàng Sa lần đầu tiên, một ngày sau khi Trương Nhân Tuấn tuyên bố muốn đổ bộ lên đảo lần thứ hai (ngày 3/5), Lãnh sự quán Pháp tại Quảng Châu là Beauvais liền gửi thư cho Bộ Ngoại giao Pháp (Minister for Foreign Affairs, Paris),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trình bày đầu đuôi sự việc, chỉ ra rằng quần đảo Hoàng Sa nằm gần tuyến đường hàng hải biển Đông và có tầm quan trọng chiến lược; cũng đã phân tích quyền lợi đối với Hoàng Sa của hai bên Trung-Pháp, đồng thời viện dẫn các ví dụ về việc Pháp từng có kế hoạch xây dựng hải đăng ở đây, ngư dân Việt Nam và ngư dân Trung Quốc cùng đánh cá ở đây cùng với việc Trung Quốc từng tuyên bố Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc..., và kết luận rằng:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Beauvais đồng ý Pháp có quyền lợi đối với những đảo này không kém hơn Trung Quốc, Pháp cũng rất dễ dàng tìm được luận cứ ủng hộ chủ trương (chủ quyền) của mình. Tuy nhiên, nếu như hành động này không đáng, thì theo cái nhìn của ông, chi bằng Pháp cũng có thể làm ngơ đối với tranh chấp này, bởi vì bất cứ sự can dự nào của Pháp đều có thể sẽ làm dấy lên một làn sóng tình cảm dân tộc mới của Trung Quốc. Điều đó gây tổn hại cho Pháp nhiều hơn so với cái lợi có được từ việc chiếm đóng đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình cảm dân tộc ở đây chỉ hai sự kiện xảy ra ở Quảng Đông, đó là vụ án tàu Nhị Thần Hoàn Trung-Nhật năm 1908 và vụ phân chia biên giới Trung-Bồ năm 1909 (xem I.6), khi đó cả hai đều dẫn tới phong trào và dư luận tẩy chay hàng hóa Nhật Bản và chống các cường quốc xâm lược trong dân chúng. Ngoài ra vào năm 1899, nhân trào lưu các cường quốc lập đất tô giới ở Trung Quốc, Pháp đã thuê Quảng Châu Loan (Trấn Giang) 99 năm (cùng thời kì còn có nước Anh thuê Tân Giới và Uy Hải, Đức thuê Thanh Đảo). Nếu như sự kiện Hoàng Sa khiến cho tình cảm dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy, chống lại Pháp, đưa đến sự bất ổn trong sự thống trị của nước này ở Quảng Châu Loan, thì lợi bất cập hại. Do đó, trong toàn bộ sự kiện nước Pháp trước sau giữ im lặng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ im lặng của Pháp khiến Pháp và Việt Nam bị đặt vào trạng thái bất lợi sau này vì đã “thừa nhận ngầm” trong vấn đề yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng để nhắc đến là Beauvais từng giữ chức nhiều năm ở Hải Khẩu, hiểu biết nhiều về Hải Nam và Hoàng Sa, thư này cũng miêu tả rằng trên quần đảo Hoàng Sa khi đó, ngư dân Trung Quốc và Việt Nam thỉnh thoảng xảy ra xung đột đổ máu khi đánh cá, thừa cơ trộm cắp cá của nhau, và do ngư dân Việt Nam thích đem theo vợ con khi đi xa nên ngư dân Trung Quốc thường “thừa gió bẻ măng”, bắt cóc phụ nữ và trẻ em Việt Nam này rồi bán ở Hải Nam, tại các cảng của Hải Nam thường có thể gặp những phụ nữ và trẻ em bị đem bán này.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.2 Sự kiện Hà Thụy Niên và Trung Quốc củng cố kiểm soát Hoàng Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Lí Chuẩn đi tuần Tây Sa, Trương Nhân Tuấn thành lập “Trù biện Tây Sa đảo sự vụ xứ” (Văn phòng xử lí công việc Hoàng Sa), ngoài việc đã đặt tên tiếng Trung cho 15 hòn đảo,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> văn phòng này còn đề xuất một loạt kế hoạch khai thác Hoàng Sa, bao gồm: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Đề xuất lấy Du Lâm và Tam Á làm căn cứ địa cho việc khai thác Hoàng Sa; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Lập ra kế hoạch khai thác phốt phát; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Lên kế hoạch xây dựng trạm vô tuyến và hải đăng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, chẳng bao lâu Trương Nhân Tuấn bị điều đi nhận chức khác, tổng đốc mới Viên Thụ Huân do tài chính eo hẹp đã bãi bỏ “Văn phòng xử lí công việc Hoàng Sa”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vào tháng 10/1909, những kế hoạch này đều không được thực thi. Tiến triển duy nhất là ở trên bản đồ, Hoàng Sa và Đông Sa đã được vẽ vào bản đồ của Trung Quốc và của tỉnh Quảng Đông. Cần chỉ ra là chuyên gia Trung Quốc sau này cho rằng “trọng tâm của việc điều hành Tây Sa chuyển từ Vạn Châu sang Nhai Châu”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đây chẳng qua là để làm tròn trịa giả thuyết “Tây Sa ban đầu thuộc Vạn Châu” (ở Trung Quốc có thuyết cho rằng thời cổ Hoàng Sa thậm chí Trường Sa thuộc sự quản lí của Vạn Châu, thuyết này không đứng vững được).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trên thực tế, không hề có công văn hay bài báo nào khi đó đề cập đến quan hệ giữa Vạn Châu và quần đảo Hoàng Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1911 Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, trong mấy năm sau khi bước vào thời kì Dân quốc chẳng có ai để ý đến đảo Hoàng Sa. Năm 1917, thương nhân Hà Thừa Ân của Công ti Hải Lợi xin chính quyền tỉnh Quảng Đông khai thác phốt phát và hải sản ở Hoàng Sa nhưng bị Ti Tài vụ quản lí về khoáng sản cho rằng phải giải quyết theo quy trình khai thác khoáng sản, Hà Thừa Ân không đồng ý, việc này kết thúc. Một thương nhân khác là Đặng Sĩ Danh vào năm 1919 cũng đề xuất việc khai thác “đảo Linh Châu” (tức đảo Đông, Lincoln Island) cũng bị khước từ. Năm 1921, thương nhân huyện Hương Sơn (Trung Sơn) Hà Thụy Niên, thương nhân Hồng Kông Lương Quốc Chi, thương nhân Quảng Đông Lưu Huệ Nông, thương nhân Quảng Đông Đàm Hồng... nối tiếp nhau đề xuất xin khai thác. Phía sau thương nhân Hồng Kông Lương Quốc Chi là thế lực người Nhật Bản. Sự quan tâm của người Nhật với tài nguyên quần đảo Hoàng Sa bắt đầu vào tháng 2/1917, khi Tiểu Tùng Trọng Lợi (Komatsu Shigetoshi), Trì Điền Kim Tạo (Ikeda Kinzo)… lên quần đảo Hoàng Sa khảo sát và vẽ bản đồ, xác nhận trên các đảo này (đặc biệt là đảo Phú Lâm) có tài nguyên có thể khai thác. Công ti Nhật Bản khác có hứng thú là Công ti thực nghiệp Nam Hưng Nhật Bản, đại diện pháp nhân của nó là Bình Điền Mạt Trị (Sueji Hirata) vào tháng 6 năm này trên đường đến đảo Đông Sa bị dạt đến đảo Hoàng Sa, cũng đã phát hiện ra tài nguyên khoáng sản của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1918, ông ta đến Hoàng Sa lần thứ hai, mang về mẫu hóa nghiệm. Tháng 3/1919, ông ta xin chính phủ Nhật Bản được khai thác quần đảo Hoàng Sa, nhưng chính phủ Nhật Bản phát hiện trong “Hải quân thuỷ lộ chí” rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Vì vậy, kế hoạch khai thác đành phải tạm dừng lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1920, lại có một công ti Nhật Bản là Tam Tỉnh Vật Nghiệp (Mitsui & Co) cũng muốn khai thác Hoàng Sa, gửi thư cho Tư lệnh hải quân Pháp ở Sài Gòn dò hỏi xem quần đảo Hoàng Sa có phải là lãnh thổ của Pháp không, phía Pháp đã trả lời một cách thận trọng và mơ hồ (xem II.4), Mitsui & Co đành phải tạm thời huỷ bỏ ý định khai thác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1921, Sueji Hirata chuyển hướng sang Trung Quốc. Giống như đảo Đông Sa (xem I.6), lúc này chính quyền Quảng Đông cấm thương nhân nước ngoài khai thác đảo Hoàng Sa. Hirata được sự ủng hộ của Đằng Điền Vinh Trợ (Fujita Eisuke), lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Đông, được ông này giới thiệu, Hirata </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tìm đến thương nhân Hong Kong Lương Quốc Chi sinh ở Hương Sơn, hi vọng người này đứng ra xin quyền khai thác.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng kế hoạch của Hirata tiến hành quá muộn, khi Lương Quốc Chi nộp đơn vào tháng 4 thì Bộ Nội chính của chính phủ quân phiệt đã phê chuẩn đơn của thương nhân Hương Sơn Hà Thụy Niên, nhưng chưa công bố. Hà Thụy Niên là thương nhân giàu có chuyên nghề buôn bán giữa Hong Kong và Ma Cao, cũng là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, có thể đã nhiều lần trình bày với Tôn Trung Sơn kế hoạch khai thác Hoàng Sa. Như trong đơn có nêu, ông ta được biết người Nhật đã nhiều lần đến thăm dò Hoàng Sa, lo lắng đến chuyện “hải quyền quốc thổ” bị mất nên hi vọng mình có thể tiến hành sự nghiệp khai thác Hoàng Sa để “ngăn chặn sự nhòm ngó của người nước ngoài”. Tôn Trung Sơn ủng hộ kiến giải của ông ta, tháng 3 ông ta nộp đơn và được hội nghị chính vụ thông qua nhanh chóng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáp ứng đơn này, ngày 30/3/1921, chính quyền tỉnh Quảng Đông thuộc chính quyền quân sự Trung Hoa Dân quốc miền Nam chính thức đưa quần đảo Hoàng Sa vào quyền quản lí của Nhai Châu,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đặt quần đảo Hoàng Sa vào một khu vực hành chính. Có chuyên gia Trung Quốc cũng cho rằng đây là việc chuyển quyền quản lí quần đảo Hoàng Sa từ Vạn Châu sang Nhai Châu. Điều này cũng giống với việc làm tròn trịa thuyết “Tây Sa ban đầu thuộc Vạn Châu” chứ không có căn cứ gì. Mặc dù đây là việc này do chính quyền miền Nam của tỉnh Quảng Đông thực hiện nhưng chính quyền Bắc Dương vẫn tiếp tục thừa nhận sự phân định này sau khi giành được Quảng Đông, và chính quyền miền Nam được tái lập năm 1923 cũng tiếp tục thừa nhận sự phân định này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do Hà Thụy Niên nộp đơn trước và chính phủ đã phê chuẩn quyền ưu tiên khai thác của ông, nên đơn của Lương Quốc Chi bị từ chối. Nhưng điều này không xua tan nhiệt tình khai thác Hoàng Sa của người Nhật. Hirata lại làm quen với Hà Thụy Niên qua sự giới thiệu của tổng lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Châu Fujita Eisuke, thương thảo việc hợp tác khai thác phốt phát ở Tây Sa thông qua cổ phần của Lương Quốc Chi. Hà Thụy Niên có quyền khai thác trong tay nên chiếm thế thượng phong. Cuối cùng, hai bên đã bí mật kí kết “Hợp đồng thành lập công ti thực nghiệp hợp tác quần đảo Tây Sa”: trong vốn cổ phần của “Công ti thực nghiệp vô hạn quần đảo Tây Sa”, Hà Thụy Niên không phải bỏ ra một đồng nào, Lương Quốc Chi đại diện nhóm đầu tư góp vốn 1 triệu cổ phần; phân chia lợi nhuận Hà Thụy Niên được 35%, Lương Quốc Chi được 65%.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trong bản đăng kí của công ti nộp cho tỉnh Quảng Đông vào tháng 11 lại giấu đi cơ cấu vốn và báo cáo thiếu về số vốn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1922, huyện trưởng Nhai Châu Tôn Dục Bân phái chuyên viên Trần Minh Hoa đến Hoàng Sa điều tra, phát hiện người Nhật đang thật sự khai thác phốt phát. Lại có tin đồn Lương Quốc Chi mặc dù ở tại Hong Kong, nhưng thật ra là người Nhật mạo xưng rằng mình là người Trung Quốc quê ở Phúc Kiến, và trong Công ti thực nghiệp vô hạn quần đảo Tây Sa, Hà Thụy Niên chỉ chiếm 3/7, Lương Quốc Chi ngược lại chiếm 4/7, hầu như toàn bộ là người Nhật Bản và Đài Loan thực hiện việc khai thác tài nguyên trên đảo. Vì vậy, ông ta lo ngại rằng công ti của Hà Thụy Niên trên thực tế là do người Nhật Bản mượn danh nghĩa người Trung Quốc để tiến hành khai thác, thực chất là muốn tước đoạt tài nguyên của người Trung Quốc. Thông tin này vừa truyền ra, sự căm giận của quần chúng lại sôi sục, các đoàn thể ở Nhai Châu phản đối tới tấp, yêu cầu huỷ bỏ quyền kinh doanh của “gian thương” Hà Thụy Niên.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hà Thụy Niên thanh minh rằng Lương Quốc Chi thật ra là người Hoa. Chính quyền tỉnh vốn đã điều tra rõ nhưng không cưỡng lại được làn sóng phản đối khi đó, cuối cùng đã huỷ bỏ quyền kinh doanh (huỷ bỏ quyền kinh doanh lần thứ nhất). Hà Thụy Niên không hề tuyệt vọng. Tháng 3/1923 lấy lí do rằng việc sáng lập công thương nghiệp bị vu khống, ông nộp đơn cho tỉnh Quảng Đông yêu cầu giữ lại đề án ban đầu. Sau khi kiểm tra đối chiếu lại, chính quyền tỉnh Quảng Đông đồng ý với kiến giải của Hà Thụy Niên, cấp lại cho ông ta quyền chuyên doanh.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước khi bị huỷ bỏ quyền chuyên doanh lần đầu tiên, Hà Thụy Niên cũng có tham gia công việc của doanh nghiệp. Nhưng sau khi được hồi phục quyền kinh doanh, Hà Thụy Niên hầu như dựa toàn bộ vào sự khai thác của người Nhật Bản, bản thân chỉ là pháp nhân trên danh nghĩa, tất cả việc kinh doanh đều giao cho người Nhật Bản nắm giữ, ngồi hưởng lợi nhuận do người Nhật chuyển cho. Người Nhật khai thác trên đảo trước sau khoảng 9 năm, đã xây dựng một bộ thiết bị hoàn chỉnh bao gồm công xưởng, doanh trại, đường ray, bến tàu, hồ chứa nước và thiết bị chưng cất... trên đảo Phú Lâm. Việc khai thác xem ra có hiệu quả.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 1/1926, Bộ Hải quân chính quyền miền Nam ra lệnh Cục Đo đạc đường biển rằng đảo Đông Sa, đảo Hoàng Sa thuộc khu vực quân sự của Hải quân.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 2, Lí Đức Quang, cư dân Quỳnh Đông, xin phép khai thác hai đảo ở Hoàng Sa, thúc đẩy chính quyền tỉnh kiểm tra một lần nữa tiến độ khai thác của Hà Thụy Niên. Kết quả lại phát hiện trên đảo phần lớn là người Nhật Bản. Vì vậy, chính quyền tỉnh chuẩn bị bãi bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên lần thứ hai, đúng lúc này có thương nhân Phùng Anh Bưu xin phép khai thác phân chim trên đảo. Do đó, khi chuẩn bị huỷ bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên chính quyền tỉnh đồng thời phê chuẩn quyền kinh doanh cho Phùng Anh Bưu. Nhưng lúc này Giáo sư Quảng Tung Linh của Đại học Trung Sơn báo cáo với chính quyền tỉnh rằng Phùng Anh Bưu từng làm việc cho người Nhật, nên tuyệt đối không thể phê chuẩn cho ông ta. Vì thế, quyết định này bị trì hoãn lại. Đến tháng 2/1928, Phùng Anh Bưu lại nộp đơn xin quyền kinh doanh, chính quyền tỉnh Quảng Đông lại thảo luận việc bãi bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên để giao cho Phùng Anh Bưu. Cuối cùng đã quyết định tổ chức đoàn bao gồm Đại học Trung Sơn, Ti Dân chính, Bộ Hải quân... do chuyên viên Hội nghị Chính trị phân hội Quảng Châu Thẩm Bằng Phi dẫn đầu lên đường đến Hoàng Sa khảo sát.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thật ra, vào năm 1926 khi chính phủ Trung Quốc muốn huỷ bỏ quyền chuyên doanh của Hà Thụy Niên lần thứ hai, Hirata đã muốn rút khỏi việc kinh doanh rồi. Tháng 7, những người Nhật thuộc Công ti thực nghiệp Nam Hưng bắt đầu vội vã rời khỏi đảo Phú Lâm, đến tháng 9 rút hết, đảo Phú Lâm bị bỏ hoang.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lúc này, một người Nhật khác là Tế Đằng Đằng Tứ Lang (Saito Toshiro) đã thay thế vị trí của Hirata, tiếp tục hợp tác với Hà Thụy Niên để khai thác đảo Phú Lâm. Tuy nhiên vào ngày 23/10/1927, một toán quân Trung Quốc khoảng 30 người bất ngờ tấn công người Nhật trên đảo, bắt toàn bộ người Nhật và giam giữ họ trên đảo. Ngày 24/11, Thẩm Khởi Phụng, một người Hồng Kông chỉ huy 25 người đổ bộ lên đảo Phú Lâm, yêu cầu quân đội Trung Quốc và người Nhật Bản đều phải rời khỏi đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về lai lịch của toán quân Trung Quốc này và Thẩm Khởi Phụng, phía Trung Quốc hầu như không có ghi chép gì, vì vậy vẫn còn rất nhiều điểm không thể giải thích được. Sau đó, có thể Thẩm Khởi Phụng đã khai thác Hoàng Sa một thời gian ngắn. Nhưng vào năm 1928 khi đoàn khảo sát Hoàng Sa đến nơi, trên đảo không có một bóng người.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22/5, đoàn khảo sát Hoàng Sa xuất phát trên tàu “Hải Thụy”, ngày 28 đến quần đảo Hoàng Sa, ngày 31 quay về rồi viết báo cáo điều tra. Chuyến đi của đoàn điều tra đã khảo sát các hạng mục của các đảo như địa thế địa lí, địa chất, phân chim, khoáng sản, nông sản, thuỷ sản cũng như tính khả thi của việc xây dựng cảng biển... Đoàn khảo sát cũng đã xác nhận thực tế kinh doanh trên đảo đều do người Nhật tiến hành, mặc đù đại bộ phận thiết bị doanh trại đã bị vứt đi nhưng đã tìm thấy một cuốn nhật kí của người Nhật bỏ lại trên đảo, từ đó biết được rất nhiều chi tiết việc khai thác của người Nhật. Chỉ có điều trên các đảo khi đó, ngoài phân chim và vài loại hải sản trên một hai đảo ra, không có giá trị gì cho việc kinh doanh cả. Đại học Trung Sơn đề nghị nhượng lại cho Đại học Trung Sơn phụ trách khai thác nguồn phân chim còn lại...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, chính quyền tỉnh Quảng Đông quyết định giao nguồn phân chim của quần đảo Hoàng Sa cho Đại học Trung Sơn quản lí, rốt cuộc đã huỷ bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên. Sau khi Đại học Trung Sơn có được quyền quản lí, vì lí do thời cuộc và kinh phí, lần lữa mãi vẫn không đến Hoàng Sa khai thác được. Đến năm 1929, họ đành phải yêu cầu chính phủ phê chuẩn cho thương nhân nhận làm. Sau đó các thương nhân như Tống Tích Quyền, Nghiêm Cảnh Chi và Tô Tử Giang... lần lượt đấu thầu được quyền kinh doanh. Chỉ có điều việc khai thác của các công ti đều chỉ duy trì được khoảng 1 năm thì tuyên bố thất bại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tình hình cứ duy trì như vậy đến khi tranh chấp Trung - Pháp về Hoàng Sa bùng phát.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, vào năm 1925 Trung Quốc còn đề nghị xây dựng trạm khí tượng ở Hoàng Sa; năm 1926 Cục trưởng đo đạc đường biển Hứa Kế Tường còn đến đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) điều tra để xây dựng,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng vì vấn đề tài chính mà không thể xây dựng được. Tháng 4/1930, hội nghị khí tượng Viễn Đông được tổ chức ở Hồng Kông với sự tham gia của 4 bên là Trung Quốc, Pháp, Philippines, Hồng Kông, quyết định để chính phủ Trung Quốc xây dựng đài khí tượng ở Hoàng Sa. Tháng 7, chính phủ Quốc Dân ra lệnh quyết định xây dựng ở Hoàng Sa một trạm vô tuyến và một trạm khí tượng, nhưng do khó khăn về tài chính, không có tiền để phân bổ, nghe nói mãi đến năm 1936 mới xây dựng xong,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> người viết không tìm thấy bằng chứng trong hồ sơ lưu trữ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, trong thời gian từ năm 1909 đến 1930, các biện pháp chủ yếu của Trung Quốc về thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa bao gồm:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Nhập Tây Sa vào Nhai Châu về hành chính;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Cấp quyền chuyên doanh khai thác cho các thương nhân như Hà Thụy Niên…; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Chuyên viên chính phủ dẫn đoàn đổ bộ lên đảo khảo sát. Ngoài ra, còn có các kế hoạch khai thác và kế hoạch xây dựng trạm khí tượng vẫn nằm trên giấy... </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những biện pháp này đã củng cố quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.3 Nhật Bản phát triển kinh doanh quần đảo Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản gần như có sự quan tâm đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng một lúc, sự quan tâm đối với quần đảo Trường Sa thậm chí còn lớn hơn đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngay từ năm 1907, một người Nhật tên Cung Khi (Miyazaki), được sự khuyến khích của chủ trương “Thuỷ sản Nam tiến” đã đi thuyền cá đến hoạt động ở quần đảo Trường Sa. Năm 1917, những người Nhật gồm Shigetoshi Komatsu và Ikeda Kanzo... khi điều tra ở Hoàng Sa cũng tiến hành khảo sát và đo đạc ở Trường Sa, đã phát hiện tài nguyên phốt phát ở Trường Sa, đưa đến cao trào điều tra về Trường Sa. Năm 1918, Sueji Hirata, năm 1919 Keisaburo Hashimoto và Junji Kamiyama, năm 1920 Hidekichi Saito và Sanzo Nozawa... cũng lần lượt đến Trường Sa khảo sát. Trong đó cuộc khảo sát của Hashimoto, để có được tính chính thức còn mời riêng kĩ sư Matsujiro Kamoshita và kĩ thuật viên Lingliang Sakurai của Bộ Nông Thương đi cùng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những chuyến khảo sát này đã giúp người Nhật biết rõ về nguồn khoáng sản phong phú của Trường Sa, do đó họ tới tấp xin phép chính phủ Nhật Bản cho khai thác. Vào tháng 3/1912, đồng thời với việc xin phép chính phủ Nhật Bản cho khai thác Hoàng Sa, Sueji Hirata cũng xin phép khai thác Trường Sa. Ngày 13/5/1919, Keisaburo Hashimoto với tư cách là nghị viên Viện Quý tộc đã thỉnh nguyện Ngoại trưởng Nhật Bản Nội Điền Khang Tai (Yasuya Uchida), đưa quần đảo Trường Sa vào bản đồ Nhật Bản và tiến hành khai thác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng cuối cùng, quyền khai thác này dành cho công ti phốt phát Chu Thức ở đảo Lassa có quân đội đứng sau. Giám đốc Hằng Đằng Quy Long (Kitaka Hengo) là nhà địa chất nổi tiếng của Nhật Bản, là tiến sĩ nông học đầu tiên của Nhật Bản, cũng là nhà khoa học chủ trì khai thác đảo Daito, có quan hệ mật thiết với hải quân. Thông qua quan hệ với hải quân, ông ta đã mời trung tá hải quân dự bị Unosuke Ogura giúp đỡ tiến hành khảo sát Trường Sa. Dưới sự chủ trì của Ogura, ngày 14/2/1918, một nhóm người bắt đầu thực hiện cuộc điều tra đầu tiên ở Trường Sa, đã đến 5 đảo gồm đảo Song Tử Đông (đảo Bắc Tử), đảo Song Tử Tây (đảo Nam Tử), đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo Thị Tứ (đảo Trung Nghiệp) và đảo Ba Bình (đảo Thái Bình), cũng đã dựng cột mốc chiếm hữu trên đảo và phân tích phốt phát ở đó. Từ tháng 11/1920 đến tháng 3/1921, Ogura một lần nữa lại dẫn nhóm đổ bộ lên nhiều đảo như đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo An Bang (đảo An Ba), đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu), đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) để tiến hành khảo sát. Qua hai lần khảo sát, về cơ bản tất cả các đảo có thể gọi tên đều đã được khảo sát. Ghi chép khảo sát của ông ta được đưa vào cuốn sách “Đảo bão tố” (Bạo Phong chi đảo).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuốn sách này lần đầu tiên ghi lại một cách có hệ thống tên bản địa của một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa qua phỏng vấn ngư dân Hải Nam đánh cá ở đó, rất có giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử hoạt động của ngư dân Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Việc ghi chép và chỉnh lí tư liệu tương tự của Trung Quốc phải mãi đến sau những năm 1930 mới xuất hiện.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/6/1919, công ti Lassa đã xin Sở tài phán địa phương Tokyo quyền khai thác khoáng sản ở 5 đảo nhỏ nêu trên. Sau khi Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân Nhật Bản tiến hành nghiên cứu sự quy thuộc của quần đảo Trường Sa, xác định các đảo này là đảo không người. Đơn của công ti Lassa được phê chuẩn vào tháng 4/1921, giấy phép khai thác được chính phủ Nhật Bản cấp phát.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhật Bản chính thức đặt tên cho nó là quần đảo Tân Nam. Tên gọi quần đảo Tân Nam này là cách đặt tên đầu tiên của quần đảo Trường Sa theo ý nghĩa hiện đại. Trong sách cổ, Trung Quốc dùng các tên gọi Trường Sa, Thạch Đường... để chỉ quần đảo Trường Sa nhưng không xác định rõ phạm vi cũng như bao gồm những đảo, đá nào; còn trong bản đồ hàng hải và thư tịch của phương Tây các đảo, đá này có tên gọi riêng nhưng không có tên gọi chung cho toàn bộ giống như quần đảo Paracel (tức quần đảo Hoàng Sa). Quần đảo Tân Nam có phạm vi tương đối cố định. Thời điểm trước và sau khi Thế chiến hai kết thúc, tên gọi này cũng được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu lịch sử của phương Tây.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi công ti Lassa bắt đầu khai thác khoáng với quy mô lớn trên các đảo ở Trường Sa thì đảo Trường (đảo Ba Bình) đã trở thành đại bản doanh của Trường Sa, trên đảo xây dựng văn phòng, cầu tàu, nhà kho, đường ray và các công trình kiến trúc khác. Dân số trên đảo Ba Bình lúc đông nhất có hơn 100 người. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động thương nghiệp có tổ chức với quy mô lớn trên các đảo của Trường Sa. Trong mấy năm sau đó, người Nhật đến thăm dò và khai thác tổng cộng 9 đảo nhỏ, chủ yếu là đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây, đảo Tây Thanh (đảo Tây Thược / Loại Ta), đảo Tam Giác (đảo Trung Nghiệp / Thị Tứ), đảo Trường (đảo Thái Bình / Ba Bình), đảo Trung Tiểu (đảo Nam Thược), đảo Hoàn (đảo Amboyna / đảo An Bang), đảo Nam Tiểu (đảo Hồng Hưu / Nam Yết) và đảo Tây Điểu (đảo Nam Uy / Trường Sa Lớn). Chín đảo nhỏ này là các đảo chính của quần đảo Tân Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Nhật Bản tích cực nghiên cứu về chủ quyền của Nam Sa. Năm 1927 các quan chức ngoại giao Nhật Bản lấy danh nghĩa tư nhân hỏi dò phía Anh, Pháp, Mỹ (Philippines) xem họ có yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa hay không. Pháp và Mỹ đều đưa ra câu trả lời phủ định, trong khi thái độ của Anh thì tương đố mơ hồ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhật Bản dò hỏi Philippines là dựa trên nguyên nhân địa lí: họ cho rằng về địa lí có thể thấy Trường Sa là một bộ phận của Philippines về mặt hành chính.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi xem xét về yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, Nhật Bản không dò hỏi phía Trung Quốc. Nguyên nhân được đề cập trong một bản báo cáo năm 1933, đó là vì trong cuộc tranh chấp về Đông Sa, Trung Quốc đã sử dụng hai cuốn sách (“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc triều nhu viễn kí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” và “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giang hải hiểm yếu đồ thuyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”) để chứng minh đảo Đông Sa thuộc Trung Quốc, cả hai đều không có nhắc đến Trường Sa. Vì vậy, phía Nhật Bản cho rằng Trung Quốc không có liên hệ gì với Trường Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Được khuyến khích, năm 1929 Hải quân Nhật Bản điều động tàu vận tải Giao Châu (Koshu) đến quần đảo Trường Sa để điều tra. Tháng 3, Tề Đằng Anh Cát (Saito Hideyoshi), Linh Mộc Khuê Nhị (Suzuki Keiji) kiến nghị với Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Hải quân sáp nhập “quần đảo Tân Nam” vào bản đồ Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản tiến hành nghiên cứu tích cực để chuẩn bị tuyên bố chính thức với các nước chủ quyền đối với Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4, Nhật Bản dựng bia đá trên “quần đảo Tân Nam” thay cho bia gỗ dựng năm 1917. Tuy nhiên, chính vào tháng này do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, công ti Lassa ngừng khai thác khoáng sản, 3 thành viên công ti và 130 thợ mỏ đều rút về Nhật Bản. Yêu sách của Nhật Bản đối với Trường Sa cũng tạm dừng lại. Chính vì điều này mà phía Pháp đi sau về trước, đi đầu trong việc tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù bắt đầu từ cuối thời Thanh ngư dân Trung Quốc liên tục hoạt động ở Trường Sa, nhưng những hoạt động đó là rất tản mạn và thuộc về tư nhân, không thể so sánh với việc khai phá của Nhật Bản cả về quy mô, tính tổ chức lẫn thời gian. Việc khai phá của Nhật Bản có dạng nửa công nửa tư, đặc biệt có sự hậu thuẫn của hải quân Nhật Bản, trong đội ngũ thám trắc thời kì đầu là do các sĩ quan hải quân giải ngũ và tại ngũ chỉ huy. Khác biệt rõ nét nhất là việc khai thác của Nhật Bản đã được chính phủ Nhật Bản phê chuẩn quyền kinh doanh. Điều này có nghĩa là loại hình kinh doanh này nhận được sự ủng hộ của nhà nước. So với việc Anh phê chuẩn quyền kinh doanh hai đảo nhưng không có hoạt động khai thác trên thực tế nửa cuối thế kỉ 19, bằng chứng chủ quyền về mặt “quản lí hữu hiệu” của Nhật Bản mạnh hơn; nhưng về mặt ý định chủ quyền thì không đủ, vì phía Anh đã xuất bản công báo còn phía Nhật Bản không có công bố.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">So sánh các bằng chứng chủ quyền của Nhật Bản đối với quần đảo Trường Sa và của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa thời kì này có thể nói là rất giống nhau. Hai bên đều cấp phát quyền kinh doanh, hai bên đều có thực tế khai thác trên đảo (mặc dù khai phá ở Tây Sa chủ yếu là người Nhật Bản), hai bên đều chính thức đổ bộ lên đảo khảo sát. Điều mà Nhật Bản thua kém Trung Quốc là sự kiểm soát của họ với Trường Sa không nhận được sự thừa nhận của quốc tế. Mặc dù việc Nhật Bản dựng cột mốc biên giới trên đảo có thể xem như thể hiện ý định chủ quyền, nhưng khi Nhật Bản chuẩn bị công khai hóa thêm một bước cho thứ chủ quyền này, thì do khủng hoảng kinh tế bất ngờ xảy ra, nên đã chậm chân hơn Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">So với tranh chấp đảo Đông Sa, phản ứng của Trung Quốc khá thú vị. Mặc dù sau này Trung Quốc tuyên bố liên tục có chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng vào lúc đó chính phủ Trung Quốc, cả chính phủ Bắc Dương ở Bắc Kinh lẫn chính phủ Quảng Châu ở miền Nam, đều không có phản ứng đối với sự kiện khai phá lâu dài và quy mô lớn của Nhật Bản, cũng không có báo chí đưa tin. Các hồ sơ lưu trữ mà tác giả đọc được cũng không có nội dung về Nam Sa (Trường Sa). Ngược lại, khi xảy ra sự kiện tàu cá Nhật Bản đánh cá ở Đông Sa lần lượt vào năm 1924 và 1930, phía Trung Quốc đã đưa ra kháng nghị ngay lập tức.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước việc người Nhật khai thác khoáng sản ở Hoàng Sa, tinh thần quần chúng Trung Quốc sục sôi mãnh liệt (xem phần II.2). Vì vậy, việc Trung Quốc không lên tiếng đối với sự khai phá của người Nhật ở Trường Sa chỉ có hai khả năng: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc cho rằng Trường Sa thuộc Trung Quốc nhưng không biết việc người Nhật Bản tiến hành khai phá ở đó; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc biết Nhật Bản khai phá ở Trường Sa, nhưng tuyệt nhiên không cho rằng Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Ngay cả tình huống thứ nhất là đúng, trong thời gian 10 năm dài mà không biết người Nhật khai phá ở đó chứng tỏ Trung Quốc tuyệt nhiên không thực sự quan tâm mấy đến Trường Sa. Trên thực tế, trước năm 1933, chính phủ Trung Quốc trước sau không dùng bất cứ hình thức nào để biểu thị Trung Quốc có chủ quyền đối với Trường Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ thế kỉ 20 đến trước những năm 1930, thái độ của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông chủ yếu là tích cực kinh doanh khai phá để thu được lợi ích kinh tế; thứ hai cũng có suy nghĩ phát triển thế lực đến biển Đông để chống lại thế lực của Anh và Pháp ở Đông Nam Á. Nhưng mục đích đầu tiên là quan trọng hơn. Dường như trong tất cả hành động, điều mà Nhật Bản theo đuổi là lợi ích có được trên thực tế hơn là lợi ích về danh nghĩa. Ở Đông Sa, qua giao thiệp với Trung Quốc, Nhật Bản đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Đông Sa. Ở Hoàng Sa, Nhật Bản muốn thông qua Pháp và Trung Quốc để giành được quyền khai thác khoáng sản, cuối cùng đã thực hiện khai phá Tây Sa với giấy phép khai thác của Trung Quốc. Ở Trường Sa, trong tình hình không có người phản đối, Nhật Bản khai thác khoáng sản với quy mô lớn trong nhiều năm nhưng không kịp thời tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.4 Sự thay đổi thái độ của Pháp</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến giữa những năm 1920, Pháp không có sự quan tâm quá lớn đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Như Beauvais, tổng lãnh sự Pháp ở Quảng Châu (Trung Quốc), đã chỉ ra trong một bức điện năm 1909, rằng lợi ích của Pháp nằm ở việc duy trì quyền lợi tổng thể của mình ở Trung Quốc, còn Hoàng Sa so với điều này tuyệt nhiên không quan trọng, do đó, thật không đáng để Pháp vì Hoàng Sa mà kích động tinh thần dân tộc của người Trung Quốc (xem II.1).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có bằng chứng cho thấy từ năm 1910 đến năm 1925, Pháp có không ít hoạt động ở Hoàng Sa. Ví dụ, Hải quân Pháp từng đến quần đảo Hoàng Sa trong các chuyến đi không định kì để giải cứu “phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị ngư dân Trung Quốc bắt cóc” cũng như tiến hành việc truy bắt buôn lậu vũ khí và thuốc phiện ở Hoàng Sa. Tàu tuần tra của Pháp còn bắt một tàu Nhật Bản đang chở phốt phát, thuyền viên Nhật Bản thanh minh rằng họ được phía Pháp phê chuẩn mới hoạt động ở đây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong nhật kí của người Nhật mà Thẩm Bằng Phi nhặt được khi khảo sát Hoàng Sa cũng có ghi chép mấy lần tàu tuần tra Pháp hoạt động ở khu vực xung quanh.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Pháp chỉ hi vọng duy trì hòa bình và an toàn đường thuỷ ở khu vực này, thái độ chủ quyền của họ không khác biệt so với năm 1909.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/9/1920, khi chuẩn bị khai thác Hoàng Sa, công ti Mitsui của Nhật Bản có hỏi dò Rémy, Tư lệnh Hải quân Pháp ở Sài Gòn, về chủ quyền của Hoàng Sa, ông ta trả lời: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không có văn kiện chính thức nào ở bộ Tư lệnh có thể xác định tình trạng của quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tôi tin rằng tôi có thể khẳng định chắc chắn chúng không phải lãnh thổ của Pháp, mặc dù điều này hoàn toàn dựa trên trí nhớ của tôi, tôi cũng không có biện pháp cung cấp bất cứ văn kiện nào để chứng minh điểm này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dù lời của Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn với ngữ khí dè dặt và xuất phát từ lập trường cá nhân, nhưng điều đó cũng cho thấy sự thiếu quan tâm của nước Pháp đối với chủ quyền của Hoàng Sa lúc đó. Năm 1921, chính quyền quân sự miền Nam Trung Quốc tuyên bố đưa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) vào quyền quản lí của huyện Nhai Sơn. Hai sự kiện này bắt đầu gợi sự chú ý của Pháp. Bộ Thuộc địa Pháp và chính quyền Đông Dương bắt đầu thảo luận việc chọn thái độ đối với Hoàng Sa. Nhưng cuối cùng phía Pháp thể hiện bằng việc tiếp tục im lặng. Nguyên nhân chủ yếu là chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa đối với Pháp là một con bài dùng để mặc cả đổi lấy lợi ích khác. Pháp thậm chí còn thảo luận về việc có nên công khai thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc để đổi lấy việc Trung Quốc hứa vĩnh viễn không xây dựng căn cứ quân sự ở Hoàng Sa, cũng như không cho nước khác thuê nó để xây dựng căn cứ quân sự.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, nếu như Pháp đưa ra phản đối với chính phủ miền Nam, cũng có thể gặp phải vấn đề pháp lí, vì chính phủ miền Nam không phải chính phủ hợp pháp của Trung Quốc mà phía Pháp thừa nhận còn chính phủ Bắc Dương lại không kiểm soát Hoàng Sa trên thực tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, trong những năm 1920 Pháp không tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa nhưng cũng không chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Trong nội bộ, họ cho rằng lợi ích chủ quyền Hoàng Sa không phải không thể không đánh đổi được, và thật ra họ còn nghĩ tới chuyện dùng nó trong đàm phán với Trung Quốc. Đối với Trường Sa, Pháp về cơ bản không cho rằng nó là lãnh thổ của Pháp mà xem chúng là đất vô chủ (terra nullius). Nhưng kiểu thái độ này bắt đầu thay đổi vào giữa những năm 1920. Kiểu chuyển biến này có mấy nguyên nhân sau đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là do Việt Nam yêu cầu. Ngày 3/3/1925, Thân Trọng Huề, thượng thư Bộ binh triều Nguyễn gửi cho quan bảo hộ Pháp một thư chính thức, yêu cầu Pháp thay mặt Việt Nam đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ông nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Hoàng Sa xưa nay luôn luôn thuộc chủ quyền của nước An Nam, việc này không có gì để bàn cãi cả. Trước khi Trung Quốc đoạt lấy quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909, dựa theo điều ước bảo hộ, về mặt đối ngoại, nước Pháp đáng lí phải thay An Nam thi hành quyền bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do trước đây vùng đất này hoàn toàn bị bỏ lơ, không được để ý đến, mới dẫn tới việc phía Trung Quốc có ý đồ chính thức chiếm lấy.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không rõ lí do vì sao Thân Trọng Huề khi đó lại đột nhiên đưa ra yêu cầu này. Nhưng điều nêu trong thư rằng Việt Nam là thuộc địa, không có quyền tự chủ ngoại giao, chỉ có thể giao thiệp thông qua nước Pháp lại đúng theo thực tế. Xem lại thư của Pháp năm 1909, trong đó có nêu rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đối với những đảo này Pháp có quyền lợi giống như Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng quyền lợi miêu tả trong thư chỉ dựa trên hiện trạng ngư dân Việt Nam cũng đánh cá ở Hoàng Sa.... Có lí do tin rằng chính quyền thuộc địa Pháp khi đó biết rất ít về quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Hoàng Sa (xem I.2). Nhưng sau khi Thân Trọng Huề đưa ra quan điểm Hoàng Sa xưa nay thuộc An Nam, phía Pháp đã càng tìm thấy bằng chứng lớn hơn để đòi chủ quyền đối với Hoàng Sa, tức chủ quyền dựa trên lịch sử. Nếu đã có các lí do dựa hiện trạng như Trung Quốc thì khi cộng thêm với những lí do dựa trên lịch sử chẳng lẽ chủ quyền Hoàng Sa không nghiêng về phía Pháp sao?</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pháp cảm thấy lo ngại trước sự bành trướng thế lực của Nhật Bản ở biển Đông. Từ trước tới nay, trong con mắt của Anh, Pháp… Hoàng Sa và Trường Sa đều là những khu vực nguy hiểm cho hàng hải, và trở ngại cho vận chuyển ở biển Đông. Anh và Pháp đã khảo sát Hoàng Sa và Trường Sa nhiều lần trong thế kỉ 19, nhưng mục đích của họ là chuẩn bị dữ liệu cho các tuyến hàng hải để tàu có thể tránh những khu vực nguy hiểm này khi đi biển. Mặc dù có tiềm lực khai thác phốt phát trên một số đảo, nhưng Anh, Pháp nhận thấy những tiềm lực này có hạn. Vì lẽ đó Hoàng Sa và Trường Sa đều không phải là lợi ích cốt lõi của Anh, Pháp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sau những năm 1920, Nhật Bản ra sức bành trướng xuống biển Đông. Họ duy trì việc khai thác phốt phát, dù không rõ lợi nhuận thế nào nhưng hành động của “thương nhân” Nhật Bản thật ra được một bộ phận quân đội, đặc biệt là hải quân, hậu thuẫn. Vì vậy, Anh, Pháp nghi ngờ mục đích thật sự của việc này là nhằm xâm nhập biển Đông. Dù Nhật Bản chưa hề tuyên bố chủ quyền, cũng không đưa quân lên đảo nhưng hai nước Anh, Pháp đều cảm thấy lợi ích chính của mình bị uy hiếp, và cho rằng Nhật Bản đang che đậy các mục đích chính trị của họ. Do đó, từ giữa những năm 1920 trở đi, vì những lí do chiến lược, thái độ của Pháp cũng trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ giữa đến cuối những năm 1920, Pháp đã tăng cường nghiên cứu về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1925, Pháp cử chiến hạm de Lanessan, do tiến sĩ Krempf, Giám đốc Nha hải dương học Đông Dương (Oceanographic Service of Indochina) chỉ huy tiến hành khảo sát và đo đạc Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng điều này chưa đủ để lập luận rằng hành động này là hành động tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa. Kể từ thế kỉ 19, Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản đều đã từng đến quần đảo Hoàng Sa để tiến hành đo đạc, cộng đồng quốc tế không coi những hành động này là hành động tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa. Hành động của Pháp ngoài đo đạc ra còn có khảo sát, khảo sát có thể xem là một bộ phận của thực thi chủ quyền, nhưng chỉ khảo sát thôi thì không thể giải thích phần lớn vấn đề.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua điều tra, toàn quyền Đông Dương thấy cần phải nghiên cứu sâu về tình trạng pháp lí của Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là vào năm 1928, sau khi công ti Tân Lân Bắc Kì (The New Phosphates Company of Tonkin) xin chính quyền Đông Dương quyền khai phốt phát ở Hoàng Sa và Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, ông viết thư hỏi ý kiến Khâm sứ Trung Kì Aristide Eugène Le Fol. Qua điều tra kĩ càng, đặc biệt là sau khi đã tham khảo hồ sơ lịch sử của Việt Nam, vào ngày 22/1/1929 Aristide Eugène Le Fol viết cho Toàn quyền một bức thư quan trọng, trình bày tỉ mỉ quan hệ giữa Việt Nam với Hoàng Sa cũng như thái độ nước Pháp nên thể hiện.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong thư chủ yếu đã đề cập mấy điểm dưới đây:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Hoàng Sa trong lịch sử thuộc lãnh thổ Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 19 đã liên tục được vua Việt Nam quản lí (đây cũng là lần đầu phía nhà nước Việt Nam/Pháp chính thức xác nhận Tây Sa tức Hoàng Sa).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù hiện nay không có ngư dân Việt Nam hoạt động ở đó, nhưng vua Việt Nam và một số nhân vật chính trị của Pháp đều coi chúng là lãnh thổ của Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Pháp với tư cách là nước bảo hộ của Việt Nam, lẽ ra đảm nhận trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ Việt Nam, nhưng trước đây (hơn 40 năm) nước Pháp đã không làm như vậy, đặc biệt là đối với hành động tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc năm 1909, nước Pháp không có trách nhiệm cần phải có.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, về mặt địa lí, Hoàng Sa là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Hoàng Sa có vị trí chiến lược quan trọng, trong tác chiến có thể bị các nước khác dùng làm căn cứ tiến hành tấn công Đông Dương; Hoàng Sa còn ở trên tuyến đường giao thông trọng yếu trong vận tải đường biển giữa Đông Dương, Bắc Kì (chỉ miền Bắc Việt Nam), Viễn Đông và Thái Bình Dương, quân địch chiếm đóng Hoàng Sa rất dễ cắt đứt giao thông giữa các khu vực kể trên, gây nguy hiểm cho an ninh Đông Dương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong phần cuối thư, Aristide Eugène Le Fol yêu cầu toàn quyền Đông Dương giải quyết vấn đề Hoàng Sa càng sớm càng tốt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với việc này, phía Paris vẫn còn do dự không quyết, còn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier cũng có khuynh hướng chờ đợi. Nhưng với sự công khai bức thư, trong vòng mấy tháng dư luận về vấn đề Hoàng Sa không những sôi sục ở Sài Gòn mà thậm chí còn lan truyền đến Paris. Quốc hội Pháp gửi thư đến Bộ Thuộc địa yêu cầu có hành động ở Hoàng Sa. Do đó Bộ Thuộc địa lại lần nữa ra lệnh cho Pasquier giải thích lập trường. Cuối cùng vào tháng 3/1930, Pasquier tin rằng nước Pháp có bằng chứng để đòi chủ quyền Hoàng Sa nhưng ông vẫn lo lắng về phản ứng của Trung Quốc. Tháng 6, Bộ Ngoại giao Pháp gây thêm áp lực với Pasquier. Cuối cùng cho đến tháng 10, Pasquier mới quyết tâm đối đầu với Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa. Điều này phản ánh trong bức điện của ông gửi cho Paris ngày 18/10/1930. Năm 1931, “Báo Dư luận” ở Sài Gòn đăng bài viết yêu cầu Pháp “thu hồi” quần đảo Hoàng Sa. Nhưng mãi đến cuối năm 1932 Bộ Ngoại giao Pháp cuối cùng mới có quyết định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng chú ý là mặc dù nguyên nhân dẫn đến một loạt thư từ qua lại trong hơn hai năm này phần lớn là những trọng tâm thảo luận của phía Pháp về vụ Hoàng Sa, còn Trường Sa được đề cập đến không nhiều, hơn nữa đặt ở vị trí rất không quan trọng. Pháp có lẽ cho rằng lúc đó chỉ có Hoàng Sa là nằm dưới sự quản lí của Trung Quốc, vì vậy tranh chấp Hoàng Sa mới cần phải lo lắng đến phản ứng của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1932, Trung Quốc lại cấp giấy phép khai thác Hoàng Sa. Nhân cơ hội này, ngày 4/12, Pháp chính thức gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp, khẳng định rõ Pháp có chủ quyền đối với Hoàng Sa, và nói thêm rằng nếu Trung Quốc có ý kiến phản đối về vấn đề này thì có thể đưa ra tòa trọng tài. Có 3 lí do chính: Việt Nam thời Gia Long, Minh Mạng đã xác lập sự quản lí đối với Hoàng Sa; năm 1898 quan chức Trung Quốc từng tuyên bố với phía Anh rằng quần đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc; năm 1899, chính quyền Đông Dương thuộc Pháp chuẩn bị xây dựng hải đăng ở Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự việc năm 1898 được nói đến ở đây</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là chỉ vụ một tàu chở đồng của Đức (Bellona) và một tàu chở đồng của Nhật Bản (Imegi Maru) lần lượt bị mắc cạn năm 1895 và 1896 tại đá Bắc (North Reef) và nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group), ngư dân Trung Quốc cướp sạch hàng hóa trên tàu và mang về Hải Khẩu bán. Do hai tàu này đều do công ti của Anh bảo hiểm, Công sứ Anh Henry Bax-Ironside và lãnh sự Anh ở Hải Khẩu O’Brien Butler đưa ra kháng nghị với phía Trung Quốc đồng thời thay mặt công ti Anh đòi chính phủ Trung Quốc bồi thường. Trong công hàm Tổng lí nha môn gửi Công sứ Anh vào ngày 8/8/1899 có dẫn lại phản bác của tổng đốc Lưỡng Quảng về việc này: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Tây Sa là các đảo bỏ hoang, tức không thuộc Trung Quốc, cũng không thuộc An Nam, nó không thuộc bất cứ khu vực hành chính nào của Hải Nam, không ai phải chịu trách nhiệm về an ninh của nó</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Paracels were abandoned islands which belonged no more to China than to Annam. They are not administratively attached to any district of Hainan and no special authority is responsible for policing them). Cuối cùng, công ti của Anh không nhận được tiền bồi thường. Việc này được đại sứ quán Anh ở Bắc Kinh và lãnh sứ quán Anh ở Hải Khẩu ghi lại.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Pháp chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa. Cũng là sự khởi đầu của tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa. Tháng 4/1932, Pháp lại gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đồng thời bày tỏ sự phản đối với việc tỉnh Quảng Đông chuẩn bị tiến hành bỏ phiếu về quyền khai thác phân chim ở Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1932, Pháp phái binh lính đến tuyên bố chủ quyền ở đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng). Ngày 15/6, Pháp thông qua pháp lệnh số 156 tuyên bố đặt quần đảo Hoàng Sa dưới sự quản lí của tỉnh Thừa Thiên thuộc Trung Kì, và gọi nó là Đặc khu Paracels (Delegation of the Paracels).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1934, Pháp xây chùa Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng).</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.5 Trung Quốc và Pháp giao thiệp về Hoàng Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ Ngoại giao Trung Quốc sau khi nhận được công hàm của Pháp lập tức hỏi ý kiến Bộ Nội chính, tỉnh Quảng Đông, tỉnh Quảng Tây và Bộ Hải quân. Lần đầu tiên họ biết rằng “Thất Châu Dương” mà người Pháp nói đến trong bản dịch tiếng Trung chính là [vùng biển] quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), sau đó họ tìm thấy nhiều tư liệu chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Qua các thư từ nội bộ, có thể thấy rằng các bộ ngành của Trung Quốc đều rất tin tưởng rằng Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 29/9/1932, đại sứ Trung Quốc tại Pháp Cố Duy Quân gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Pháp để phản bác yêu sách của Pháp, lí do biện bác chủ yếu có 6 điểm:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, theo Công ước Pháp-Thanh 1887 thì ranh giới biển giữa Trung Quốc và Pháp nằm ở kinh độ 108° 2’ E mà quần đảo Tây Sa nằm ở phía Đông đường ranh giới này, nên phải thuộc Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong quần đảo Tây Sa, ngoài hai đảo ra không có tài nguyên gì, ở quần đảo này chỉ có ngư dân Hải Nam qua lại, không có người Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vào năm 1816 Việt Nam còn là nước chư hầu (phiên thuộc) của Trung Quốc, không có khả năng xâm chiếm lãnh thổ của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền Tây Sa năm 1909 và khi chính quyền tỉnh Quảng Đông tuyên bố nhập Tây Sa vào khu vực hành chính của họ năm 1921, Pháp đều không phản đối. Sau năm 1921, tỉnh Quảng Đông có ít nhất 5 lần phê chuẩn quyền khai thác khoáng sản ở Tây Sa, Pháp cũng không phản đối. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, cộng đồng quốc tế mấy lần yêu cầu chính phủ Trung Quốc xây dựng hải đăng ở Tây Sa, điều này cho thấy thế giới công nhận Tây Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Năm 1930, trong một hội nghị quốc tế được tổ chức ở Hong Kong có một trạm trưởng trạm khí tượng của Đông Dương thuộc Pháp tham dự cũng đề nghị Trung Quốc xây dựng hải đăng trên đảo Tây Sa, điều này chứng tỏ phía Pháp cũng công nhận Tây Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phía Pháp nói rằng quan chức Trung Quốc từng phủ nhận quần đảo Tây Sa thuộc Trung Quốc, việc này chưa rõ thực hư, nhưng ngay cả có thật thì đó cũng chẳng qua là quan chức triều đại trước không làm tròn trách nhiệm mà thôi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới đây giải thích đơn giản một chút điểm thứ nhất và điểm thứ năm. Ngày 26/6, tại Bắc Kinh hai nước Trung-Pháp kí “Trung-Pháp tục nghị giới vụ chuyên điều” (Công ước Pháp-Thanh / Công ước Constans), trong đó Điều 3 quy định:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với vấn đề biên giới ở Quảng Đông, hiện giờ ngoài biên giới do các đại thần hai nước phân định, tại khu vực từ phía Đông cho đến phía Đông Bắc Móng Cái, vùng nào chưa giải quyết được đều đưa về cho Trung Quốc quản lí. Đối với các đảo ngoài biển, chiểu theo đường vạch đỏ được các đại thần phân định biên giới hai nước vẽ, và kéo dài về phía Nam, đường này đi qua biên phía đông của ngọn đồi ở xã Trà Cổ, tức là lấy đường này làm ranh giới (xã Trà Cổ tên Hán là Vạn Chú, nằm ở phía Nam Móng Cái và phía Tây Nam núi Trúc). Từ đường đó về phía Đông, các đảo trên biển đều thuộc về Trung Quốc, từ đường đó về phía Tây, núi Cửu đầu (tên Việt là Cách Đa) và các đảo nhỏ trên biển đều thuộc về Việt Nam</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo bản dịch tiếng Pháp là:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Quảng Đông, hai bên thỏa thuận rằng những điểm tranh chấp ở về phía Đông và phía Đông Bắc Móng Cái mà ở phía bên kia của đường biên giới do Uỷ ban phân giới xác định thì chúng được phân cho Trung Hoa. Những đảo ở về phía Đông của đường kinh tuyến Paris 105° 43’ Đông, tức là đường thẳng Bắc Nam đi qua điểm cực đông đảo Trà Cổ (hay Vạn Chú) và tạo thành đường biên giới, cũng được giao cho Trung Hoa. Các đảo Cô Tô và những đảo khác ở phía Tây kinh tuyến này thuộc về An Nam</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, trên bản đồ đoạn cực Đông của biên giới hai nước Trung-Việt đính kèm Công ước có vẽ một đường màu đỏ theo hướng Bắc Nam (Hình 2), và chú thích rõ “khởi đầu từ biên giới phía Bắc do đại thần hai nước phân định, đường đỏ này chạy về phía Nam đi qua biên phía Đông ngọn đồi ở xã Trà Cổ, lấy đường này làm ranh giới”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường đỏ này nằm ở kinh độ 105</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 43’ Đông tính từ kinh tuyến Paris, theo kinh tuyến Greenwich là 108</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 3’ 13”. Đường đỏ này được vẽ rất ngắn, nhưng kéo dài xuống sẽ đi qua bán đảo Đông Dương, biển Đông và các đảo ở biển Đông đều ở phía Đông đường kéo dài này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEikWhjrWNHWvbmh58dD5rA2JjaPU2FR0eegiTUkxOGcTfMXvm2c5AedCPM8AXTOytjz4Ns0gBSGZSoJB65Wu4thnBzJyNbCZl0zalsBlNu8F3J5L3Nm1BH597E5rJ3Vy2ssCegJWlmjLCdiHpnIIVF07coGAsc-8NOVBYnqWPu2pOh5gyTQtseD536e6w/s499/CarteSino_Tonkin1887.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="397" data-original-width="499" height="376" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEikWhjrWNHWvbmh58dD5rA2JjaPU2FR0eegiTUkxOGcTfMXvm2c5AedCPM8AXTOytjz4Ns0gBSGZSoJB65Wu4thnBzJyNbCZl0zalsBlNu8F3J5L3Nm1BH597E5rJ3Vy2ssCegJWlmjLCdiHpnIIVF07coGAsc-8NOVBYnqWPu2pOh5gyTQtseD536e6w/w472-h376/CarteSino_Tonkin1887.jpg" width="472" /></span></a></div><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 2: Bản đồ phân định biên giới Trung-Việt năm 1887 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới được quy định trong Công ước kéo dài liên tục qua bán đảo Đông Dương, mà quần đảo Hoàng Sa ở phía Đông đường biên này cho nên theo Công ước thì Hoàng Sa thuộc Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điểm thứ năm nói tới Hội nghị khí tượng Viễn Đông được tổ chức ở Hong Kong từ 29/4 đến 3/5/1930. Chủ tịch hội nghị này là trạm trưởng Trạm thiên văn Hong Kong, có tổng cộng hơn 10 người tham dự là các trạm trưởng, trong đó có đại biểu viện Nghiên cứu khí tượng trung ương Nam Kinh, trạm quan sát khí tượng Thanh Đảo, trạm quan sát khí tượng đảo Đông Sa, trạm thiên văn Từ Gia Hội ở Thượng Hải, trạm thiên văn Manila, trạm thiên văn Hải Phòng... cũng như đại biểu hàng không Hải quân Anh. Chương trình nghị sự chủ yếu bao gồm một loạt công việc có liên quan đến khí tượng và an ninh hàng hải ở biển Đông, bao gồm việc lập ra tín hiệu bão địa phương thống nhất (Local Storm Signal Code) và tín hiệu bão Viễn Đông (Non-Local Storm Signal Code), thời gian thông báo dự báo khí tượng thống nhất, cũng như phương thức dùng sóng ngắn tiến hành thông tin. Sự việc có liên quan là vào ngày 30/4 trạm trưởng trạm thiên văn Manila “đề nghị Hội nghị thừa nhận Đài quan sát khí tượng Đông Sa do chính phủ Trung Quốc xây dựng là cơ quan khí tượng quan trọng nhất ở biển Trung Quốc (biển Đông), hơn nữa tàu thuyền đi qua biển Trung Quốc cũng được lợi rất nhiều, đồng thời hi vọng cũng sẽ xây dựng thêm trạm ở Tây Sa (Paracel) và Macclesfield Bank để tăng cường an toàn hàng hải. Quyết nghị để trạm trưởng Trạm quan sát đảo Đông Sa đệ trình chính phủ Trung Quốc tham gia xây dựng cơ quan khí tượng ở trên hai đảo này”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây chính là điều 9 của quyết nghị. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo điều tra của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, mặc dù trạm trưởng trạm thiên văn Từ Gia Hội, Thượng Hải (L. Froc) là người Pháp nhưng trạm thiên văn này do Giáo hội Thiên Chúa xây dựng, chỉ là cơ quan khoa học, trừ việc được sự bảo vệ của chính quyền tô giới Pháp, không thể xem là quan chức của Pháp. Tuy nhiên, trạm thiên văn Hải Phòng, đặt ở khu vực thuộc Pháp, được sự tài trợ của chính phủ Pháp, hoàn toàn là cơ quan thuộc chính phủ Pháp, nên trạm trưởng của nó (E. Bruzon) có thể được xem là quan chức của Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27/9/1933, phía Pháp trả lời phía Trung Quốc. Thư trả lời phản bác từng lí do của Trung Quốc:</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vào năm 1930 Trung Quốc đồng ý áp dụng “nguyên tắc 3 hải lí” để phân định lãnh hải, quần đảo Tây Sa cách đảo Hải Nam 145 hải lí không thể cho là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ý đồ trong công ước phân giới năm 1887 là phân chia rõ biên giới Trung-Việt ở khu vực Móng Cái (Moncay), trong khi quần đảo Hoàng Sa cách Móng Cái quá xa, nằm ngoài phạm vi áp dụng của Công ước; nếu như không xem đường đỏ là biên giới cục bộ mà có thể kéo dài để có thể áp dụng cho quần đảo Hoàng Sa thì không những nhiều đảo của Việt Nam phải xếp vào lãnh thổ Trung Quốc mà ngay đến phần lớn đất liền của chính Việt Nam cũng vậy, quả thật đó là điều không thể. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngư dân đảo Hải Nam đánh cá ở Hoàng Sa, về mặt luật pháp và thông lệ quốc tế, không nảy sinh bất cứ hiệu lực nào. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 1909, Trung Quốc tuyên bố chiếm giữ Hoàng Sa với trong và ngoài nước, hiển nhiên trước thời điểm đó không có chủ quyền đối với Hoàng Sa, trong khi đó năm 1816 vua Gia Long chính thức quản lí đảo này thì đã có sử sách chứng minh.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc Hội nghị khí tượng Viễn Đông đề nghị xây dựng hải đăng trên đảo này, nhiệm vụ duy nhất của đại biểu Pháp tham gia hội nghị là tập trung về mặt khoa học, không có quyền can dự vào vấn đề chính trị, do đó không đại diện cho lập trường của Pháp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7/6/1934, Trung Quốc lại phản bác Pháp: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, cái gọi là “nguyên tắc 3 hải lí” vẫn là lấy biên giới các vùng lãnh thổ ven biển của Trung Quốc làm khởi điểm chứ không hạn chế ở Quỳnh Nhai; nếu không thì các thuộc địa cách xa nước Pháp hơn 145 hải lí cũng không phải là lãnh thổ của Pháp sao? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đường phân giới năm 1887, điều khoản quy định “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ đường đỏ về phía Đông, các đảo trên biển đều thuộc về Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, không hề nói đến khu vực đất liền của Việt Nam, cho nên vẫn áp dụng thích hợp cho quần đảo Tây Sa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc vua Gia Long, không có sử sách nào của Trung Quốc có ghi chép Tây Sa thuộc Việt Nam, đó là do phía Việt Nam ghi chép không xác thực, khi đó Việt Nam là nước chư hầu của Trung Quốc, không có lí gì để xâm chiếm lãnh thổ Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc Lí Chuẩn tuyên bố chủ quyền năm 1909 là nghi thức kỉ niệm việc đặt tên lại các đảo, Trung Quốc đã chiếm hữu Tây Sa từ thời xa xưa lúc Phục ba tướng quân Mã Viện của nhà Hán Nam chinh, hơn nữa mười mấy năm thời Dân quốc đến nay liên tục thực thi chủ quyền đối với Tây Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong vụ 9 đảo nhỏ (xem phần II.6, II.7), Pháp nói với Trung Quốc rằng “trong sách địa lí và bản đồ của Trung Quốc, chưa từng nhắc đến và liệt kê ra 9 đảo nhỏ mà Pháp chiếm, địa lí Trung Quốc cũng chỉ ra rằng đảo Tri Tôn - đảo cực Nam của Tây Sa (Paracels) là chỗ cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc”. Kiểu diễn đạt này mặc dù phủ nhận 9 đảo nhỏ là lãnh thổ Trung Quốc nhưng ít nhất cũng thừa nhận chỗ cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Tri Tôn, đảo cực Nam của quần đảo Tây Sa. Điều đó đủ để chứng minh rằng Pháp biết rõ quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mãi đến năm 1935 phía Pháp mới trả lời. Đối với điểm thứ nhất, Pháp thừa nhận lập luận của Trung Quốc nhưng cho rằng “chính phủ Trung Quốc đã không ngừng mở rộng lãnh hải của tỉnh Quảng Đông ra toàn bộ Biển Đông để tranh giành chủ quyền của đảo này”. Đối với điểm thứ 2, Pháp cho rằng không có cụm từ “các đảo trên biển” trong bản tiếng Pháp, do đó vẫn một mực cho rằng Công ước chỉ xác định sự quy thuộc các đảo trong lãnh hải của Trung Quốc và lãnh hải của Bắc bộ trong phân giới Trung -Việt mà thôi. Đối với điểm thứ 3, Pháp vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Đối với điểm thứ 4, lập luận của Trung Quốc được ghi nhận để tham khảo. Đối với điểm thứ 5, Pháp nêu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">để chỉ rõ 9 đảo nhỏ mà phía Pháp chiếm không có dính dáng gì với đảo này, Sứ quán Pháp tại Trung Quốc dẫn ra bản đồ Trung Quốc chỉ để giải thích rằng 9 đảo nhỏ này không thuộc lãnh thổ không thể tranh cãi của Trung Quốc mà thôi. Không thể cho rằng phía Pháp đã thừa nhận quần đảo Tây Sa là lãnh thổ Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Hơn nữa, bản đồ tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc năm 1897 không có quần đảo Hoàng Sa, và việc Trung Quốc có thái độ tiêu cực về sự kiện tàu Anh bị đắm năm 1897, đủ để chứng minh lập luận cho rằng bắt đầu từ thời Hán Trung Quốc đã có chủ quyền ở Hoàng Sa là không đúng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1933, “sự kiện 9 đảo nhỏ” từ việc Pháp tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa đã khiến thái độ của Trung Quốc đối với Hoàng Sa càng thêm cứng rắn (xem phần II.6, II.7). Ngoài giao thiệp về ngoại giao, Trung Quốc cũng chuẩn bị tiến thêm một bước trong thực thi chủ quyền. Ngày 27/10/1933, Trung Quốc thông báo cho phía Pháp sẽ xây dựng trạm quan sát khí tượng trên đảo Hoàng Sa, Pháp phản đối và yêu cầu Trung Quốc ngưng kế hoạch này lại, ngay cả đại sứ Trung Quốc tại Pháp Cố Duy Quân cũng cho rằng trong tình trạng có tranh chấp chủ quyền, làm như vậy “thật bất tiện”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông cho rằng hiện tại Pháp vẫn nhấn mạnh giải quyết hòa bình, sách lược tốt nhất của Trung Quốc là nhanh chóng giải quyết theo pháp luật chứ không nên tùy tiện xây dựng hải đăng để làm xấu đi quan hệ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trước sự phản đối của Pháp và khuyến cáo của Cố Duy Quân, Trung Quốc vẫn kiên trì muốn chuẩn bị xây dựng hải đăng. Do việc xây dựng trạm khí tượng và hải đăng ở Hoàng Sa thực sự có sự cần thiết của nó, ngành hàng hải và ngành thiên văn, đặc biệt là dưới sự nỗ lực thúc đẩy của trạm trưởng trạm thiên văn Từ Gia Hội (E. Gherzi, người Pháp), cuối cùng Pháp đã nhượng bộ. Tháng 7/1935, trạm trưởng trạm thiên văn Từ Gia Hội nhận được thư của đại sứ Pháp tại Trung Quốc Henry Auguste Wilden. Thư này nói rằng nếu Trung Quốc đồng ý xây dựng hải đăng và trạm khí tượng ở Hoàng Sa mà không đề cập tới hoặc giải quyết chủ quyền Hoàng Sa thì Pháp sẽ không phản đối việc xây dựng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Trung Quốc có thái độ không rõ ràng trong việc có cam kết làm như vậy hay không. Cho đến trước khi nổ ra chiến tranh Trung – Nhật năm 1937 vẫn không có văn bản cam kết nào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 2/1937, chính quyền tỉnh Quảng Đông không báo cho Bộ Ngoại giao biết mà lại chuẩn bị cử người đến điều tra ở Hoàng Sa để chuẩn bị cho việc khai thác. Cố Duy Quân một lần nữa lại cho rằng hành động này không thoả đáng,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pháp cũng bày tỏ sự phản đối.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng tăng cường nghiên cứu về lịch sử Hoàng Sa, đặc biệt là nghiên cứu các sách vở, bản đồ mua từ Việt Nam, cũng như tìm kiếm “Đại Nam nhất thống chí”, “Hoàng Việt địa dư chí” và tác phẩm của giáo sĩ Jean-Louis Taberd</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... vốn cho phép Pháp chứng minh Việt Nam có chủ quyền đối với Hoàng Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 18/2/1937, Pháp gửi công hàm cho đại sứ Trung Quốc tại Pháp Cố Duy Quân, bày tỏ mong muốn tiến hành đàm phán trực tiếp về vấn đề Hoàng Sa, nhưng nếu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cố hết sức mà không thành công thì không thể không đề nghị cách đưa ra tòa trọng tà</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">i”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 19/4, đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc lại đưa ra yêu cầu này với phía Trung Quốc. Nhưng chính phủ Trung Quốc “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trước sau luôn cho rằng không có bất kì nghi ngờ nào về việc quần đảo [Tây] Sa thuộc về Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 26/5, phía Trung Quốc lại chỉ thị đại sứ quán tại Pháp giao thiệp với phía Pháp, đưa ra bằng chứng mới về quần đảo Hoàng Sa, cho rằng: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> việc vua Gia Long cắm cờ ở quần đảo Tây Sa không được ghi chép trong sử liệu Việt Nam, chỉ là “truyền thuyết vu vơ”; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “Đại Nam nhất thống chí” chỉ có ghi chép về đảo Hoàng Sa, nhưng đó có phải là quần đảo Tây Sa hay không thì còn nghi vấn; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, miếu cổ được ghi chép trong “Đại Nam nhất thống chí” là do ngư dân Trung Quốc xây dựng; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bản đồ do Việt Nam xuất bản, cho đến năm 1926 vẫn không có vẽ quần đảo Tây Sa; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ năm,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ năm 1909 đến nay, Pháp đã nhiều lần thừa nhận Tây Sa không thuộc Việt Nam. Bằng chứng loại này gồm: (1) Năm 1909, Pháp không có hành động gì trước việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền Tây Sa; (2) Năm 1920, khi tư lệnh hải quân Pháp Rémy trả lời Công ti Nhật Bản có cam đoan rằng Tây Sa không thuộc sở hữu của Pháp; (3) Khi hải quân Việt Nam gửi điện hỏi ý kiến hải quân Pháp về chủ quyền Tây Sa, hải quân Pháp trả lời rằng họ chỉ biết Trung Quốc tuyên bố chủ quyền năm 1909; (4) Toàn quyền Đông Dương cho rằng trừ phi có thông tin mới, nếu không thì nên xem Tây Sa là sở hữu của Trung Quốc; (5) Toàn quyền Đông Dương Pasquier nói rằng có thể giữ lại quần đảo Tây Sa để trao đổi lợi ích với Trung Quốc; (6) Nghị sĩ Thượng nghị viện Pháp Bergeon nói rằng hiện nay An Nam đã không có quan hệ gì với Tây Sa; (7) Toàn quyền Doumer nói rằng Trung Quốc cần phải ngăn chặn nước khác chiếm hữu quần đảo này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cần phải nói rằng bằng chứng Trung Quốc đưa ra trong lần này là khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, không tìm thấy văn kiện của công hàm đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp gửi cho Pháp trong hồ sơ lưu trữ, nên khó xác định đại sứ quán có gửi công hàm cho phía Pháp hay không. Không lâu sau đó, Nhật Bản bắt đầu xâm lược Hoàng Sa, giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng bùng nổ chiến tranh toàn diện, tranh chấp Hoàng Sa giữa Trung Quốc và Pháp tạm kết thúc một giai đoạn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, bắt đầu từ năm 1931, quần đảo Hoàng Sa đã bước vào thời kì tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp. Pháp đề nghị đưa vấn đề Hoàng Sa ra tòa trọng tài quốc tế, nhưng Trung Quốc không đồng ý. Từ năm 1932 đến năm 1938, mặc dù cả hai bên đều tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa, nhưng không bên nào thiết lập được sự quản lí hoàn chỉnh và hiệu quả đối với quần đảo này. Trung Quốc và Pháp đều không có quân đội phòng thủ và nhân viên thường trú ở quần đảo Hoàng Sa. Mỗi bên đều từng xây dựng một số công trình trên một số đảo, không có ghi chép về việc nổ ra xung đột giữa hai bên. Tình trạng này tiếp tục kéo dài đến tháng 3/1938 thì Pháp đưa binh đến chiếm đóng Hoàng Sa.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.6 Pháp chiếm đóng quần đảo Trường Sa và tranh chấp Pháp-Nhật</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như trình bày ở phần trước, thái độ xử lí của Pháp đối với Trường Sa hoàn toàn khác đối với Hoàng Sa. Ở Hoàng Sa, Pháp cân nhắc thái độ của Trung Quốc, nhưng ở Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn không nằm trong sự cân nhắc của Pháp. Vì trong mắt người Pháp, Trường Sa là đất vô chủ. Sau năm 1925, cùng với việc gia tăng sự chú ý đối với Hoàng Sa, Pháp cũng đã nâng sự chú ý đối với Trường Sa. Trong một văn kiện nội bộ ngày 23/3/1925, toàn quyền Đông Dương cho rằng cần phải sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, vào năm 1927 khi lãnh sự Nhật Bản tại Hà Nội Kurosawa hỏi ý kiến chính quyền Đông Dương về tình trạng pháp lí của Trường Sa, Pháp không trả lời tùy tiện mà tiến hành điều tra nghiên cứu trong nội bộ trước. Kết quả người Pháp thu được là Trường Sa không có quan hệ gì với Pháp hoặc Việt Nam. Từ cuối năm 1927 đến cuối năm 1928, báo cáo của toàn quyền Đông Dương gửi Bộ Thuộc địa Pháp và Tổng bộ châu Á Thái Bình Dương của Pháp chỉ ra: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy Pháp xưa nay chưa từng tuyên bố chủ quyền đối với các đảo này, về mặt logic, chúng đúng ra là một bộ phận của quần đảo Indonesia hơn là của bán đảo Đông Dương”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đảo này cả về mặt chính trị lẫn về mặt địa lí đều không có quan hệ với đường bờ biển An Nam, cách nó bởi rãnh biển sâu 1000 đến 2000 mé</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">t”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời với việc này, năm 1927 nước Pháp cũng phái chiến hạm de Lanessan đến quần đảo Trường Sa tiến hành khảo sát (không gặp phải sự phản đối của Trung Quốc).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thông qua những nghiên cứu này, Pháp về cơ bản đã đi đến kết luận rằng quần đảo Trường Sa là đất vô chủ. Có báo cáo cho rằng nếu đã nhận định quần đảo Trường Sa là đất vô chủ thì Pháp cần phải thực hiện các hành động phù hợp luật quốc tế để tuyên bố chủ quyền.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1929, Bộ Ngoại giao Pháp gửi điện cho đại sứ quán Pháp tại Manila để hỏi xem Philippines có yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa hay không. Thư trả lời của đại sứ quán Pháp cho thấy rằng Philippines không quan tâm tới Trường Sa. Cùng năm, lãnh sự quán Nhật Bản tại Hà Nội lại lần nữa hỏi dò chính quyền Đông Dương về yêu sách chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa, Pháp một mặt không trả lời, mặt khác quyết tâm tăng nhanh hành động ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/4/1930, toàn quyền Đông Dương phái chiến hạm Malicieuse đến Trường Sa, cắm cờ Pháp trên đảo Trường Sa Lớn và bắn 21 phát súng chào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trên một bản đồ nội bộ của Pháp có vẽ khu vực Pháp muốn chiếm hữu là khu vực từ 111° E đến 117° E và từ 7° N đến 11° N.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phương pháp dùng kinh độ, vĩ độ xác định khu vực này giống với các giới hạn điều ước mà Mỹ sử dụng khi giành được Philippines từ tay Tây Ban Nha. Thời gian này vẫn chưa có tên gọi thống nhất cho quần đảo Trường Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Anh chú ý đến việc này trước nhất. Ngày 30/4, trong bức điện của tổng lãnh sự Anh tại Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao có nêu: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Spratly hoặc đảo Bão Tố mà nước Pháp tuyên bố sáp nhập dường như chính là đảo mà nước Anh đã sáp nhập vào năm 1877. Chính quyền tại khu vực nói rằng họ nhận lệnh của Bộ Ngoại giao Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự việc xảy ra năm 1877 được nói đến ở đây là việc chính quyền Borneo phê chuẩn cho thương nhân quyền được khai thác đảo Spratly (đảo Trường Sa Lớn) và đảo Amboyna Cay (đảo An Bang). Tháng 9/1877, một người Mỹ là Graham và hai người Anh là Simpson và James nộp đơn cho chính quyền Labuan, Sabah thuộc Anh, yêu cầu được cắm cờ Anh và khai thác phốt phát ở đảo Spratly (đảo Trường Sa Lớn) và đảo Amboyna Cay (đảo An Bang) thuộc Trường Sa .W.H. Treacher. toàn quyền Labuan kiêm toàn quyền Borneo, kí văn kiện xác nhận đơn này và chỉ rõ đơn này đã được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh phê chuẩn, tuy nhiên nếu trong 10 năm không khai thác hoặc liên tục trong 5 năm không khai thác, giấy phép này sẽ bị huỷ bỏ. Đồng thời, Treacher còn kiến nghị, vì hai đảo này không nằm trong địa giới của Labuan, người xin phép cần phải đến văn phòng toàn quyền Borneo để đăng kí. Ba người làm theo. Do đó, vào năm 1877, trên tờ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công báo thuộc địa Hong Kong và các khu định cư Eo biển</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Government Gazettes of the Colonies of Hong Kong and the Straits Settlement), Anh đã công bố các vấn đề về quyền kiểm soát và quản trị đối với hai đảo này. Từ đó, hai đảo này được ghi chép là lãnh địa của Anh trong hồ sơ lưu trữ của nước Anh.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1888, một công ti khai thác phốt phát khác là Công ti Trung ương Borneo (Central Borneo Company) cũng đề xuất quyền khai thác hai đảo này. Do đó, năm 1889 chính quyền thuộc địa Borneo phái một tàu của Anh đến khảo sát hai đảo này, phát hiện ra rằng năm 1877 mấy thương nhân xin phép khai thác phốt phát ở đây không hề tiến hành khai thác, vì thế giấy phép cấp cho họ lúc đầu bị mất hiệu lực. Được sự đồng ý của Bộ Thuộc địa và Bộ Ngoại giao Anh, chính quyền Borneo cấp giấy phép khai thác hai đảo này cho Công ti Trung ương Borneo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Không có ghi chép chi tiết về mọi việc phát triển như thế nào sau đó nhưng hình như công ti này cũng không thật sự tiến hành khai thác. Bức điện buổi tối cùng ngày của tổng lãnh sự tại Sài Gòn giải thích thêm rằng thật ra Pháp tuyên bố chủ quyền toàn bộ tất cả các đảo từ 7° N đến 11° N, từ 111° E đến 117° E.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Anh đã nhanh chóng hoàn chỉnh tài liệu lịch sử, đánh giá tầm quan trọng của đảo này. Ngày 21/5, Anh dùng tài liệu lịch sử làm bằng chứng để giao thiệp với Pháp, cho rằng đảo này trước đây đã là một bộ phận của nước Anh, chưa từng bị nước Anh từ bỏ, và là lãnh thổ của Anh.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pháp cảm thấy rất bất ngờ, vì phía Pháp không biết gì về việc này, sau khi nghiên cứu bằng chứng của Anh, Pháp đưa ra phản bác, cho rằng không có bằng chứng nào cho thấy người đứng đơn khi đó đã từng cắm cờ Anh ở trên đảo, và đảo này cũng không thuộc một khu vực hành chính cụ thể nào, vì vậy không được coi là có bằng chứng chiếm đóng hữu hiệu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù hai nước Anh, Pháp giao thiệp trong thời gian dài về vấn đề này, nhưng họ thỏa thuận không công khai cách giải quyết. Tuy Pháp cảm thấy lí lẽ của Anh rất yếu, nhưng ảo tưởng rằng không có ai phản đối sẽ càng có lợi cho Pháp hơn; nước Anh chia làm hai phe, một phe chiếm thượng phong vui vẻ bằng lòng, hi vọng có thể kéo Pháp vào biển Đông để tạo ra vùng đệm trong xung đột giữa Anh và Nhật; phe khác cho rằng lí lẽ của Pháp căn bản là không đầy đủ, hơn nữa vẫn chưa công khai tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, vì vậy Anh nên chủ động phái hải quân chiếm lĩnh những đảo này thay vì đánh võ mồm với Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 23/9/1930, Pháp thông báo cho các bên về sự kiện này qua thông cáo báo chí (Communiqué), tuyên bố rằng Pháp đã chiếm quần đảo Trường Sa, còn Anh không công khai phản đối điều này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, thông cáo này dường như không truyền tới tai Trung Quốc và Nhật Bản, vì vậy hai nước này không biết gì về việc này, và phản ứng của họ hoàn toàn khác so với năm 1933.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để bịt miệng người Anh, Pháp quyết tâm làm càng đầy đủ hơn về mặt thủ tục. Do đó, ngày 13/4/1933, chiến hạm Alerte và Malicieuse của Pháp cùng với tàu trắc lượng Astrolabe và de Lanessan chạy đến Trường Sa. Họ tiến hành nghi thức tuyên bố chủ quyền chính thức hơn trên 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa, bao gồm việc đi lên từng đảo và dùng bình thuỷ tinh đựng hồ sơ có chữ kí của thuyền trưởng được niêm kín và đặt cố định trên đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng nói là khi Pháp chiếm quần đảo Trường Sa, có nêu rằng trên các đảo Trường Sa có hoạt động của người Trung Quốc. Năm 1930, trên đảo Spratly có 3 người. Năm 1933, lại báo cáo “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khi đó trên đảo Tây Nam theo tính toán thì có 7 cư dân, trong đó có 2 trẻ em. Trên đảo Đế Đô, theo ghi nhận thì có 5 cư dân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên đảo Tư Lạp Lạp có 4 cư dân, tăng 1 người so với năm 1930. Trên đảo La Loan có miếu thờ, nhà lá, giếng nước...do người Hoa để lại. Trên đảo Itu Aba, tuy không thấy dấu chân người nhưng phát hiện một tấm bia có chữ Trung Quốc..</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một số người Trung Quốc còn biểu thị hành động phản kháng phía Pháp, ví dụ đợi sau khi người Pháp rút đi, chặt đứt cột cờ của người Pháp...</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/7/1933, thông tấn xã của Pháp đã thông báo về hành động này. Pháp quyết định không áp dụng cách xác định đảo theo phạm vi tọa độ mà liệt kê chi tiết các đảo chính. Vì vậy, vào ngày 25/7, chính phủ Pháp đã chính thức tuyên bố rằng Pháp đã chiếm đóng quần đảo Trường Sa, đồng thời liệt kê tên và vị trí của 6 trong số các đảo: Spratly (Trường Sa), Amboyna Cay (An Bang), Itu Aba (Ba Bình), Les Deux Iles (Song Tử), Loaita (Loại Ta) và Thitu (Thị Tứ). Pháp tuyên bố có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Spratly (chứ không chỉ giới hạn ở 6 đảo có cắm cờ).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 21/12 cùng năm, Pháp tuyên bố đặt quần đảo Spratly dưới quyền quản lí của tỉnh Bà Rịa thuộc Nam Kì.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số các nước có liên quan, chỉ có Nhật Bản tiến hành phản đối công khai. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua một nghị quyết của nội các ngày 15/8 đưa ra tuyên bố phản đối với Pháp, nhấn mạnh công ti Lassa của Nhật Bản đã khai thác phốt phát ở quần đảo Trường Sa từ năm Đại Chính thứ 7 (1918) đến nay, chính phủ Nhật Bản đã dành sự trợ giúp cho việc khai thác này; Nhật Bản đã quản lí và khai thác quần đảo Trường Sa nhiều năm, quần đảo Tân Nam (Trường Sa) không phải “đất vô chủ” (terra nullius). Vào ngày 21/8 Nhật Bản chính thức gửi thư cho Bộ Ngoại giao Pháp, phản đối yêu sách chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa, tuyên bố Nhật Bản có chủ quyền đối với Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ năm 1937 đến năm 1939, Nhật Bản càng dồn dập tiến hành 5 lượt giao thiệp ngoại giao với Pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines có một nghị sĩ từng đề cập tới Trường Sa, cho rằng Trường Sa là lãnh thổ của Philippines, yêu cầu chính quyền Philippines giao thiệp. Tuy nhiên, toàn quyền Mỹ tại Philippines không đồng ý, chỉ ghi chép vào hồ sơ việc này chứ không áp dụng bất cứ hành động nào về mặt ngoại giao. Cách làm của Philippines và Mỹ cũng đồng nghĩa với việc không phủ nhận quyền lợi của Pháp ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Anh vẫn giữ im lặng trước công chúng, cho đến 6 năm sau mới thừa nhận quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Pháp, nhưng khi đó Trường Sa đã bị Nhật Bản chiếm đóng mất rồi.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.7 Thái độ của Trung Quốc đối với sự kiện 9 đảo nhỏ</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phản ứng của Trung Quốc về sự kiện trên có rất nhiều điểm nghi vấn cần phải làm sáng tỏ. Tài liệu của phía Trung Quốc nói Trung Quốc đã tiến hành phản đối và dân tình sôi sục..., nhưng các tư liệu nước ngoài lại cho rằng Trung Quốc vẫn giữ im lặng. Điều này rốt cuộc như thế nào? Trên thực tế, trình tự thời gian phản ứng của Trung Quốc cơ bản như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 15/7/1933, báo chí Trung Quốc mới bắt đầu đưa tin về sự kiện này. Bức điện đặc biệt ngày 15 của “Thân báo” tường thuật “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có người đến Bộ Ngoại giao hỏi về lịch sử của 9 đảo nhỏ ở Tây Sa và nước ta nên áp dụng các bước giao thiệp nào, theo người phụ trách thì Bộ Ngoại giao chưa nhận được báo cáo chính thức, chỉ thấy trên báo chí và xưa nay không nghe tới các đảo này, chúng cũng không có vị trí quan trọng về mặt quân sự, không rõ dụng ý hành động này của Pháp, đối với việc này trước tiên Bộ Ngoại giao sẽ gửi điện cho lãnh sự quán ở Philippines, ra lệnh lập tức điều tra rõ lịch sử, vị trí, diện tích, số ngư dân Trung Quốc cư trú và tình trạng ngư nghiệp của các đảo này, sau đó sẽ nghiên cứu biện pháp ứng phó, lúc này không phải bày tỏ điều gì</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, ngày 17/7 Bộ Ngoại giao gửi điện cho lãnh sự quán tại Manila hỏi: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rốt cuộc quần đảo nhỏ này nằm ở đâu? Có phải là quần đảo Tây Sa (Îles Paracels) không và trên đảo hiện nay có người Trung Quốc cư trú không?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng ngày, họ cũng gửi điện cho đại sứ quán tại Pháp và Bộ Hải quân, hỏi ý kiến về nội dung tương tự.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 18/7 lại gửi điện cho đại sứ quán tại Pháp dò hỏi thái độ của Bộ Ngoại giao Pháp đối với việc này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, Bộ Ngoại giao không biết cái gọi là “9 đảo nhỏ” ở đâu, và điều họ quan tâm nhất là liệu 9 đảo nhỏ có phải là quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) không. Điều này là do hồi năm 1932 Pháp đã lên tiếng tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa với Trung Quốc, và Trung Quốc sợ rằng Pháp đã lặng lẽ chiếm Hoàng Sa rồi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ Hải quân trả lời Bộ Ngoại giao sớm nhất: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét địa điểm 115° kinh Đông, 10° vĩ Bắc nằm giữa đảo Philippines và An Nam, không có 9 đảo nhỏ nào. Địa điểm này nằm ở phía Bắc giữa đảo Philippines và An Nam, cái gọi là 9 đảo thuộc quần đảo Tây Sa (Îles Paracels) rất gần đảo Quỳnh Châu...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, và đã liệt kê ra 9 đảo của Hoàng Sa cho là 9 đảo nhỏ này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua tin tức báo chí, các địa phương và đoàn thể dân chúng cũng bắt đầu chú ý đến việc này, tới tấp gửi thư đến Bộ Ngoại giao yêu cầu “bảo vệ quốc thổ”. Lúc này, dư luận đều cho rằng 9 đảo nhỏ là quần đảo Hoàng Sa, và cái mà những đoàn thể này muốn bảo vệ cũng đương nhiên là quần đảo Hoàng Sa. Ví dụ, ngày 25/7, Uỷ ban chỉnh lí Đảng vụ Hán Khẩu gửi điện “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo báo chí đăng tin thì Pháp đã chiếm 9 đảo nhỏ ở Tây Sa của ta, nếu việc này không phải tin đồn thì kẻ cướp đã làm tổn hại chủ quyền lãnh hải của ta, và càng ảnh hưởng đến toàn bộ việc phòng thủ biển</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Tổng chỉ huy Lộ quân 19 gửi điện: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau nỗi đau Đông Bắc, người Pháp lại bắt chước chiếm lấy quần đảo Tây Sa của chúng ta</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hội Hậu viên Ngoại giao Dân quốc gửi điện: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đảo Thất Châu Dương Tây Sa xưa nay thuộc bản đồ nước ta... người Pháp giờ đây đột nhiên thừa dịp ta gặp nguy nan ngang nhiên chiếm đóng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 28/7, phân hội chính phủ Tây Nam yêu cầu chính phủ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dựa vào lí lẽ để phản đối nghiêm khắc phía Pháp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, yêu cầu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chính quyền tỉnh Quảng Đông đưa ra phản đối với lãnh sự quán Pháp ở Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 2/8, đoàn đại biểu hội đồng hương Quỳnh Nhai ở Bắc Kinh gửi thư cho Bộ Ngoại giao: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">điều tra riêng thì các đảo san hô này chính là tên gọi khác của quần đảo Tây Sa thuộc Quỳnh Nhai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng ngày, chính quyền tỉnh Quảng Đông đưa ra kháng nghị tới lãnh sự quán Pháp tại Quảng Châu. Ngày 3/8, Hội Công nhân kháng Nhật thành phố Nam Kinh kháng nghị việc Pháp chiếm đóng 9 đảo nhỏ, và gửi điện thông báo cho cả nước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/7, chính phủ Pháp chính thức đăng lên công báo, tuyên bố 9 đảo nhỏ thuộc về nước Pháp, lúc này tên và tọa độ của các đảo đã được công bố.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng do khoảng cách xa xôi và sự chênh lệch múi giờ, vào ngày 27 Bộ Ngoại giao vẫn gửi điện cho lãnh sự quán tại Pháp “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">báo chí đưa tin vào ngày 25 chính phủ Pháp chính thức tuyên bố 9 đảo nhỏ nước này chiếm thuộc lãnh thổ Pháp, có chắc chắn tên, kinh độ và vĩ độ của 9 đảo nhỏ được đề cập không, và liệu chúng có thuộc quần đảo Tây Sa (Îles Paracels) không, mong nhanh chóng điều tra xác minh tỉ mỉ và gửi điện trả lời Bộ Ngoại giao</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng ngày, Cố Duy Quân gửi điện trả lời, nói rằng vẫn chưa nắm rõ vị trí cụ thể.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng ngày, Bộ Ngoại giao cũng nhờ lãnh sự quán ở Philippines và tỉnh Quảng Đông kiểm tra lại một lần nữa xem 9 đảo nhỏ có phải thuộc quần đảo Tây Sa không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc đó đúng vào dịp tròn một năm sự kiện tranh chấp Trung - Pháp đối với Hoàng Sa xảy ra ngày 18/9 năm trước, nhiều thư từ và điện báo đều đã liên kết sự kiện 9 đảo nhỏ với việc mất lãnh thổ ngày 18/9 để công kích. Chính phủ Dân quốc dù khi đó vẫn chưa làm rõ được 9 đảo nhỏ có phải là quần đảo Tây Sa hay không nhưng cũng không thể không bày tỏ thái độ trước được. Ngày 26/7, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thân báo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” đưa tin: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: các đảo san hô giữa Philippines và An Nam chỉ có ngư dân của ta cư trú trên đảo, và được quốc tế công nhận là lãnh thổ Trung Quốc, mới biết được công báo của Pháp lại chính thức tuyên bố chiếm đóng, dựa vào điều gì mà làm như vậy, chính phủ Pháp cũng chưa công bố lí do, Bộ Ngoại giao ngoài việc gửi điện cho đại sứ quán tại Pháp hỏi tình hình thực tế ra sao, hai Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân hiện đang tích cực tìm biện pháp đối phó, sẽ đưa ra phản đối nghiêm khắc đối với hành động này của phía Pháp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong toàn bộ sự kiện 9 đảo nhỏ, đây là bản tuyên bố duy nhất do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra, trong đó nêu rõ “các </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo san hô nằm giữa Philippines và An Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” thuộc “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lãnh thổ Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng rõ ràng trong nhận thức của Bộ Ngoại giao, 9 đảo nhỏ ở đây vẫn là chỉ quần đảo Tây Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đến cuối tháng 7 mới có người uốn nắn nhận thức sai lầm của chính phủ Trung Quốc và báo chí. Ngày 31/7, phóng viên Vương Công Đạt của “Anh văn Bắc Bình thời sự nhật báo” (英文北平時事日報: Nhật báo thời sự Bắc Bình tiếng Anh) gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là La Văn Cán:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gần đây vấn đề về 9 đảo Nam Hải của Pháp rất ồn ào, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết nước ta đang bắt tay vào điều tra và chuẩn bị đưa ra kháng nghị, mà tiền đề chính của kháng nghị là nếu đó đúng là quần đảo Tây Sa...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hôm nay điều tôi muốn kiến nghị là: chúng ta không được làm trò cười về mặt ngoại giao! Bởi vì đó không phải là quần đảo Tây Sa, càng không phải là lãnh thổ Trung Quốc, điều đó đã được chứng minh bằng mấy ngày đêm tra xét học thuật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">......</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự thực này, hiện nay đã chứng minh là rất chính xác, tôi từng thảo luận với Bonavita về sơ đồ sẽ đăng tải trên báo của chúng tôi, hiện đang gửi để đọc duyệt. Uỷ viên Uỷ ban Quốc phòng Trương Kì Vân nói rằng ở Nam Hải ngoài Tây Sa ra không có đảo nào khác, điều này thật sự là nỗi nhục lớn của giới học thuật nước ta....</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua tài liệu, báo chí nước ngoài cũng như thảo luận với trung tá Bonavita, tùy viên quân sự đại sứ quán Pháp ở Bắc Bình, Vương Công Đạt biết được vị trí chính xác của 9 đảo nhỏ, liệt kê chi tiết tên các đảo, đã vẽ ra sơ đồ 9 đảo nhỏ mà Pháp chiếm, và trước đó đã có đăng trên báo và tạp chí. Là một phóng viên tin tức còn non trẻ (khi đó Vương Công Đạt chưa tốt nghiệp đại học, chỉ làm kiêm nhiệm ở báo), thông tin có được lại nhanh chóng và chuẩn xác hơn hệ thống ngoại giao, báo chí, học thuật khổng lồ. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc không biết gì về biển Đông, học giả về địa lí đầy quyền uy kiêm nhân viên quan trọng của chính phủ là Trương Kì Vân thậm chí còn cho rằng ‘</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Nam Hải ngoài Tây Sa ra không có quần đảo khác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’, sự thiếu hụt tri thức và cách làm qua loa đại khái khiến người ta phẫn nộ. Chẳng trách Vương Công Đạt cười vào mũi ông ta.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 29/7 tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Manila gửi điện trả lời, chỉ ra 9 đảo nhỏ này nằm cách quần đảo Tây Sa vào khoảng 350 hải lí về phía Nam nhưng không chỉ ra tên các đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mãi đến ngày 31/7, Cố Duy Quân mới từ Pháp gửi điện về nói rằng cái gọi là 9 đảo nhỏ thật ra là 7 đảo nhỏ nằm giữa Việt Nam và Philippines, cũng đề cập đến việc Nhật Bản bảo lưu quyền phản hồi đối với Pháp, nhưng vị trí cụ thể vẫn chưa rõ, chỉ còn việc các đảo nhỏ này có phải thuộc Trung Quốc hay không, Bộ Hải quân phải có hải đồ mới có thể tra cứu, kiến nghị Hải quân cần phải khảo sát thực địa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 1/8, Cố Duy Quân lại gửi điện, báo cho Bộ Ngoại giao biết tên gọi của 7 đảo nhỏ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lúc này, Bộ Ngoại giao cuối cùng cũng hiểu rõ sơ bộ rằng 9 đảo nhỏ không phải quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao không chú ý nhiều đến 9 đảo nhỏ này, ngược lại hết sức lo lắng về quần đảo Hoàng Sa, vì lúc này có tin toàn quyền Nhật Bản ở Đài Loan cũng có thể yêu cầu Nhật Bản chiếm quần đảo Hoàng Sa theo cách tương tự như Pháp. Vì vậy, ngày 2/8, Bộ Ngoại giao chuyển thông điệp cho Bộ Hải quân và tỉnh Quảng Đông, yêu cầu Bộ Hải quân phái tàu chiến trú phòng, và tỉnh Quảng Đông cùng phụ giúp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về 9 đảo nhỏ, Bộ chỉ nói “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dự định sẽ tuyên bố bảo lưu quyền của ta đối với thông báo của Pháp trước khi chưa điều tra xác minh rõ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm tắt về 9 đảo nhỏ bị Pháp chiếm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” được viết vào khoảng ngày 3/8, về phương án cho 9 đảo nhỏ đã đề xuất: (1) Điều tra tỉ mỉ vấn đề các đảo này theo các khía cạnh quan hệ khác nhau; (2) Gửi công hàm cho Đại sứ quán Pháp, đề nghị tra cứu trả lời về tên cũng như kinh độ, vĩ độ của các đảo mà Pháp chiếm đóng, và trước khi kiểm tra rõ các đảo mà Pháp chiếm đóng, chính phủ Trung Quốc tuyên bố bảo lưu quyền lợi đối với chúng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, ngày 4/8 Bộ Ngoại giao gửi công hàm đến đại sứ quán Pháp ở Nam Kinh:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gần đây theo báo chí đưa tin, hiện chính phủ Pháp đã dựng cờ, chiếm đóng 9 đảo nhỏ nằm giữa An Nam và Philippines trên biển Trung Quốc; và chính thức tuyên bố các đảo nhỏ này từ nay sẽ thuộc lãnh thổ nước Pháp. Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến hành động này, muốn nhờ quý Công sứ kiểm tra lại tên gọi, vị trí cũng như kinh, vĩ độ của các đảo này. Trước khi xác minh chắc chắn, đối với tuyên bố kể trên của chính phủ Pháp, chính phủ Trung Quốc bảo lưu quyền lợi đối với chúng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, vào ngày 5/8 Đại sứ quán Pháp đưa ra bản đồ vị trí các đảo cho phía Trung Quốc, và xác định rõ những đảo nhỏ này cách quần đảo Tây Sa 300 hải lí về phía Nam, không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bởi vì lãnh thổ Trung Quốc chỉ tới đảo Đặc Lí Đồn (特里屯/Tè lǐ tún - phiên âm của Triton), với hai bằng chứng được đưa ra: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc phân tỉnh đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” xuất bản tháng 3/1932, cực Nam trong bản đồ chỉ đến Tây Sa và có ghi “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Đặc Lí Đồn là điểm cực Nam của nước ta</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tối tân thế giới hình thế nhất lãm đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” xuất bản tháng 3/1933 do Hồng Mậu Hy chủ biên, điểm cực Nam trong bản đồ thứ 6 của sách này cũng chỉ là đảo Đặc Lí Đồn. Và chú thích nêu rõ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cực Nam, vĩ độ 15° 46’, đảo Đặc Lí Đồn, thuộc quần đảo Tây Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 10/8 Đại sứ quán Pháp lại gửi đến bảng liệt kê tên và tọa độ chi tiết các đảo. Đến lúc này, Bộ Ngoại giao cuối cùng mới xác định được vị trí 9 đảo nhỏ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong tuần sau đó, các bộ trong chính phủ, các lãnh sự, sứ quán của Trung Quốc bận liên hệ với nhau, cũng bận giải thích cho các đoàn thể đã có gửi điện trước đó rằng 9 đảo nhỏ không phải là quần đảo Tây Sa. Bộ trưởng La Văn Cấn còn gửi thư cho Vương Công Đạt, cảm ơn anh ta đã cung cấp cho những tư liệu đầy đủ, giúp ích rất nhiều. Ngoài ra, Bộ Ngoại giao còn hỏi ý kiến tỉnh Quảng Đông; “s</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ứ quán Pháp nhắc đến đảo Đặc Lí Đồn Triton Island (15° 46’ vĩ Bắc) được ghi chép trong sử địa nước ta là lãnh thổ cực Nam của nước ta, đủ cho thấy phía Nam đảo Đặc Lí Đồn không có liên quan đến chủ quyền Trung Quốc..., quý tỉnh có bằng chứng vững chắc nào khác đủ để chứng minh phản lại rằng 9 đảo này thuộc lãnh thổ nước ta không?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bốn ngày sau tỉnh Quảng Đông trả lời: Khi tàu chiến Pháp chiếm 9 đảo nhỏ này thì có ngư dân Trung Quốc đánh cá ở đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn lãnh sự quán ở Manila cũng nêu: Có hơn 9 đảo nhỏ ở đây, và có ngư dân Trung Quốc từ Hải Nam đánh bắt đồi mồi và cá, người Nhật từ lâu cũng đã khai thác phân chim ở đây.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này dân chúng cũng bắt đầu biết được 9 đảo nhỏ không phải quần đảo Tây Sa, nhưng thư từ của báo chí, đảng bộ, đoàn thể xã hội, chính quyền địa phương... ở các nơi vẫn tới tấp gửi đến Bộ Ngoại giao và chính phủ, cho rằng ngư dân Hải Nam từ lâu đã đánh cá ở đây, 9 đảo nhỏ thuộc Trung Quốc, yêu cầu chính phủ bảo vệ chủ quyền. Ngày 16/8, Hội Nông dân huyện Ninh Hải, tỉnh Chiết Giang gửi điện cho chính phủ, đề xuất kháng nghị việc Pháp chiếm 9 đảo nhỏ. Ví dụ, ngày 18/8, Tổng Công đoàn thành phố Thượng Hải gửi điện yêu cầu chính phủ đưa ra kháng nghị với phía Pháp. Ngày 22/8, Hội Thương mại thành phố Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang đã yêu cầu chính phủ phản đối Pháp. Ngày 23/8, Công đoàn thuyền viên dân thuyền huyện Ngân, Chiết Giang đưa ra kháng nghị việc Pháp chiếm 9 đảo nhỏ. Ngày 26/8, Công đoàn ngành tơ lụa Thượng Hải gửi điện yêu cầu chính phủ kháng nghị và giao thiệp với phía Pháp. Không nêu hết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù dân tình sôi sục, nhưng chính phủ lại chậm chạp không có hành động chính thức. Đến ngày 20/8, Bộ Ngoại giao vẫn còn tiếp tục điều tra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 23/8, Nhật Bản đưa ra kháng nghị chính thức với Pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phía Trung Quốc vẫn không có hành động gì. Cuối cùng, sự kiện này bị bỏ mặc. Báo chí đành phải than vãn: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sự ‘điều tra kĩ càng’</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Bộ Ngoại giao vẫn chưa biết ngày nào mới có thể ‘tìm ra được đối sách phù hợp’”, “tiền đồ thật đáng sợ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong toàn bộ sự kiện, đến ngày 26/7 khi tình hình vẫn chưa rõ ràng và chính phủ Trung Quốc cho rằng 9 đảo nhỏ là quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), người phát ngôn nói rằng 9 đảo nhỏ là lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi xác định rõ 9 đảo nhỏ không phải là Tây Sa (Hoàng Sa), lại chỉ gửi một công hàm bảo lưu quyền lợi, không hề có bất kì kháng nghị và giao thiệp tiếp theo nào, và cũng không đưa ra phản bác đối với bằng chứng phía Pháp đưa ra rằng 9 đảo nhỏ không thuộc Trung Quốc, trái ngược hoàn toàn thái độ của Nhật Bản. Được ghi chép nhiều nhất trong hồ sơ chỉ là kháng nghị của tỉnh Quảng Đông, còn người Pháp không hề coi kháng nghị của chính quyền địa phương vốn không có quyền ngoại giao là kháng nghị chính thức của nhà nước. Đây chính là lí do vì sao tư liệu nước ngoài đều cho rằng Trung Quốc không phản đối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể có mấy nguyên nhân khiến chính phủ Trung Quốc tỏ thái độ như vậy: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bằng chứng phía Pháp đưa ra thực sự có sức mạnh, Trung Quốc khó bác bỏ; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chính phủ Trung Quốc cũng biết việc ngư dân đến đánh cá không phải là bằng chứng có sức mạnh, còn tiếng nói của người dân là do không hiểu luật quốc tế, và Bộ Ngoại giao thì biết rất rõ điều này; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trường Sa khi đó là đối tượng tranh chấp giữa Pháp và Nhật, Trung Quốc hi vọng sẽ được lợi từ tranh chấp này. Ngày 1/9, Bộ Tham mưu đệ trình thư “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý kiến về quan hệ và biện pháp về mặt quân sự của việc Pháp chiếm 9 đảo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cho rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đối với việc Pháp chiếm 9 đảo tạm thời giữ thái độ bình tĩnh là có lợi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, bởi vì: tuy về mặt lịch sử 9 đảo nhỏ có khả năng là lãnh thổ của Trung Quốc, có ngư dân Trung Quốc cư trú, do đó có thể lấy đó làm lí do để duy trì là lãnh thổ nước ta, nhưng không rõ liệu có các công trình về chính trị, giao thông và sự nghiệp hay không cũng như có từng tuyên bố với nước ngoài hay không, hãy tạm giữ bình tĩnh bảo lưu quyền đánh cá để thoái thác, dường như cũng không làm tổn hại đến quốc thể. Về mặt quân sự, hải quân Trung Quốc mỏng yếu, ngay cả các đảo ven biển như quần đảo Chu Sơn, đảo Hải Nam, và quần đảo Tây Sa cũng không thể bảo vệ, nói gì đến 9 đảo nhỏ này; nếu Nhật Bản chiếm 9 đảo nhỏ thì cửa ra vào của Trung Quốc bị phong tỏa hoàn toàn; còn Pháp chiếm đóng thì thế lực Nhật Bản không thể xâm nhập vào. “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nay chi bằng ném khúc xương để cho hai chó Nhật, Pháp tranh nhau</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, để Pháp, Anh và Mỹ liên kết thành một phòng tuyến chống lại Nhật Bản là có lợi cho Trung Quốc. Về mặt ngoại giao, nếu như cố gắng chiếm 9 đảo nhỏ thì chẳng những không giành được mà còn tạo cho Nhật Bản có cái cớ để tranh đoạt quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), như thế thì bất lợi cho Trung Quốc. Vì vậy, việc cần kíp hiện nay là đẩy nhanh việc xây dựng ở quần đảo Tây Sa, và thực thi chủ quyền ở Tây Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Văn kiện này đã giải thích tương đối đầy đủ nguyên nhân vì sao chính phủ Trung Quốc không đưa ra yêu sách chủ quyền đối với 9 đảo nhỏ mặc dù dân tình sôi sục.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.8 Trung Quốc mở rộng biên cương trên bản đồ lần thứ nhất</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện Pháp chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa đã dấy lên sự quan tâm của quan chức và người dân Trung Quốc đối với vấn đề biên giới biển. Phía nhà nước đã tiến hành hành động “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở rộng biên giới trên bản đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Bộ Nội vụ Dân quốc thành lập Uỷ ban thẩm tra bản đồ thuỷ bộ (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thuỷ lục địa đồ thẩm tra uỷ viên hội</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), tiến hành thẩm định tên tiếng Trung, tên tiếng Anh các đảo ở biển Đông và công bố “Bảng đối chiếu tên tiếng Trung và tiếng Anh các đảo ở Nam Hải Trung Quốc” (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải các đảo tự Hoa Anh danh đối chiếu biểu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong tập san số 1 của Uỷ ban này vào tháng 1/1935, có 132 đảo, đá đã được thẩm định.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi đó, quần đảo Trung Sa hiện nay được gọi là “quần đảo Nam Sa”, còn quần đảo Nam Sa hiện nay được gọi là “quần đảo Đoàn Sa”. Còn tên gọi các đảo, đá đó hầu như đều sử dụng phiên âm hoặc dịch ý của tên tiếng Anh, gần như có thể khẳng định rằng Uỷ ban đã phiên âm / dịch dựa vào bản đồ hàng hải và tài liệu đường biển của Anh để lập bảng này. Ngay cái tên quần đảo Đoàn Sa cũng là dịch từ Tizard Group. Trong tập san số 2 vào tháng 4, Uỷ ban này đã xuất bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải các đảo tự đồ” </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國南海各島嶼圖: </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ các đảo, đá ở Nam Hải Trung Quốc)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Hình 3), xác định điểm cực Nam của Trung Quốc ở Tăng Mẫu Ám Sa (phiên âm từ tên tiếng Anh James Shoal [bãi ngầm James]). Đây là bản đồ biển Đông tương đối chi tiết đầu tiên mà chính phủ Dân quốc chính thức xuất bản.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Mở rộng biên cương trên bản đồ” (địa đồ khai cương) theo tác giả là: chính phủ Dân quốc vẽ lên bản đồ của mình lãnh thổ và vùng biển mà họ không kiểm soát khi đó, chứ hoàn toàn không quan tâm rốt cuộc họ có quyền lợi lịch sử và thực tế hay không, cũng không quan tâm đến việc liệu họ có khả năng kiểm soát hay không, cứ vẽ ra trước rồi nói. Ở đây, để giúp lí giải việc mở rộng biên cương trên bản đồ thời Dân quốc, trước tiên cần nhìn lại bản đồ thời Dân quốc đến nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ Trung Quốc từ năm 1900 trở về trước cơ bản chuẩn xác về hình dáng biên giới quốc gia của Trung Quốc, nhưng hoàn toàn không thể kiểm tra theo cái nhìn hiện đại đối với nước ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lấy “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quốc đồ chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (海國圖志) của Ngụy Nguyên làm ví dụ, hầu như tất cả các quốc gia và khu vực ở Đông Nam Á đều được vẽ không chuẩn xác. Điều này phản ánh trình độ nhận thức của Trung Quốc về địa lí biển Đông lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước phương Tây. Đến khoảng cuối thế kỉ 19, bản đồ liên quan đến biển Đông do Trung Quốc xuất bản mới bắt đầu tham khảo thư tịch và tư liệu nghiên cứu của nước ngoài, kết nối với nước ngoài để bước vào “hiện đại hóa”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản đồ mới chính thức xuất bản và có tính thẩm quyền cuối thế kỉ 19, biên giới phía Nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sang thế kỉ 20, các bản đồ vẫn tiếp tục sử dụng cương vực này. Ví dụ “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” (大清帝國全圖) năm 1905 (1905, Hình 4),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đây là một trong số bản đồ biên giới Trung Quốc được vẽ theo phương pháp “hiện đại” do Trung Quốc xuất bản. Từ bản đồ có thể thấy biên giới phía Nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1908, La Nhữ Nam biên soạn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cận thế dư địa đồ thuyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國近世輿地圖說: Hình 5), đây là bộ tác phẩm địa lí vĩ đại của Trung Quốc gồm 8 tập 23 quyển. Có mấy điểm cần đặc biệt chú ý: (1) Trong sách có số lượng lớn trang đề cập đến phòng thủ biển của Trung Quốc, vì vậy tác giả không phải là người coi nhẹ phòng thủ biển; (2) Tác giả là người Quảng Đông nên chắc hẳn hiểu rõ địa lí Quảng Đông; (3) Tác giả đã dùng số lớn trang để giới thiệu địa lí học (phương Tây), hiển nhiên là người có trình độ học thuật hiện đại nhất định. Câu chữ trong sách viết rõ ra rằng biên giới phía Nam Trung Quốc là cực Nam đảo Hải Nam. Dù trong bản đồ toàn thể Trung Quốc hay trong bản đồ Quảng Đông đều không tìm thấy các đảo ở biển Đông.</span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhPPAglzrvstkW2Khu5Wo2_twNmg2soKwwxM6-GU7lEUbztvjSD-_1gNFbozXI60frV1dYlUa97jWB3Dy8MiZvGAR9uAzJN99kqwB7WPmbd2uuRmMhus8zPBqhgIXQZWeZ7WUmaWo28U3qlBpFL2PAsND5EmoOKJVfnyOVT4dBFF8U04G18kLZoeffeXA/s1086/zhong_guo_nan_hai_ge_dao_yu_tu_1935.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1086" data-original-width="814" height="712" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhPPAglzrvstkW2Khu5Wo2_twNmg2soKwwxM6-GU7lEUbztvjSD-_1gNFbozXI60frV1dYlUa97jWB3Dy8MiZvGAR9uAzJN99kqwB7WPmbd2uuRmMhus8zPBqhgIXQZWeZ7WUmaWo28U3qlBpFL2PAsND5EmoOKJVfnyOVT4dBFF8U04G18kLZoeffeXA/w534-h712/zhong_guo_nan_hai_ge_dao_yu_tu_1935.png" width="534" /></span></a></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 3: Bản đồ các đảo ở biển Nam Trung Hoa (1935)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIi4R7m3iBOJ6TYnyJc6YVE3th6dEQUnxCxfEVyGJjrHLh55Ix1WZ97jqXqkaLyHQGq3vvXbcuVmCllDtvB-LAQm2SJD_Y1xOpicBVWSR-8mIbFXv_9-ug21HURLr_z-nQbYgU8ta8qal3wRaTtbuZzzowQwKh0vfwmbuDqYlBk6GlePuWIlFjQczVcA/s2184/Dai_Thanh_toan_do_1905.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1560" data-original-width="2184" height="438" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIi4R7m3iBOJ6TYnyJc6YVE3th6dEQUnxCxfEVyGJjrHLh55Ix1WZ97jqXqkaLyHQGq3vvXbcuVmCllDtvB-LAQm2SJD_Y1xOpicBVWSR-8mIbFXv_9-ug21HURLr_z-nQbYgU8ta8qal3wRaTtbuZzzowQwKh0vfwmbuDqYlBk6GlePuWIlFjQczVcA/w612-h438/Dai_Thanh_toan_do_1905.jpg" width="612" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 4: Đại Thanh đế quốc toàn đồ (1905) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTxEF2ovPzeuSBe6ZrWx1CTxap07rbppteib543L4vqBjfVs6k9pc9gWHqUCnd1cDuciX26Ekp6NKqXQHA3-gP8IDGyHIjzpT1D658oYkwF35nG7ilfSkvMnhnd26cGaQPTFpERH5Yi-WXC7A8eAvWCPNoHqtrPnv-o76DEtu3Shmn-fDGPsnFE5016Q/s2044/Screenshot_2023-04-29-16-06-16-48_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1302" data-original-width="2044" height="398" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTxEF2ovPzeuSBe6ZrWx1CTxap07rbppteib543L4vqBjfVs6k9pc9gWHqUCnd1cDuciX26Ekp6NKqXQHA3-gP8IDGyHIjzpT1D658oYkwF35nG7ilfSkvMnhnd26cGaQPTFpERH5Yi-WXC7A8eAvWCPNoHqtrPnv-o76DEtu3Shmn-fDGPsnFE5016Q/w624-h398/Screenshot_2023-04-29-16-06-16-48_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" width="624" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 5: Trung Quốc cận thế dư địa đồ thuyết (1908)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một bản đồ khác năm 1908 là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhị thập thế kỉ Trung ngoại đại địa đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (二十世紀中外大地圖: Bản đồ lớn Trung Quốc và nước ngoài thế kỉ 20). Trong bản đồ này, biên giới phía Nam của Trung Quốc cũng chỉ đến cực Nam đảo Hải Nam. Bản đồ châu Á của tập bản đồ này (Hình 6), hoàn toàn không biểu thị các đảo ở biển Đông, trong khi phần lớn bản đồ cùng thời kì của thế giới khi đó đều có thể hiện các đảo ở biển Đông. Trong khi đó, quần đảo Andaman của Ấn Độ và quần đảo Natuna ở biển Đông lại được thể hiện trên bản đồ. Bản đồ này có hai quyển thượng và hạ, quyển hạ là phần bản đồ thế giới, tiếc là tác giả chưa thể tìm được quyển hạ, nên không thể biết Trung Quốc vẽ Đông Nam Á như thế nào khi đó. “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quảng Đông dư địa toàn đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (廣東輿地全圖: Hình 7)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> xuất bản năm 1909 là bản đồ sớm nhất vẽ Tây Sa (Hoàng Sa) và Đông Sa (Pratas) vào địa giới Trung Quốc trong số bản đồ cuối thời Thanh mà tác giả xem được. Năm 1909, Lí Chuẩn tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa, đây là lần đầu tiên kể từ thời Cận đại, Trung Quốc tuyên bố và thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ này phản ánh đầy đủ tiến trình lịch sử lúc bấy giờ. Đáng chú ý là mặc dù bản đồ này đã phản ánh yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông, nhưng trong bản đồ không có Trung Sa (Macclesfield Bank) và quần đảo Nam Sa (Trường Sa), điều này cho thấy rằng khi đó hai quần đảo này vẫn không nằm trong tầm mắt của Đế quốc Đại Thanh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ những bản đồ mà tác giả thu thập được, có thể thấy rằng trước năm 1909 Trung Quốc không vẽ các đảo ở biển Đông như là một bộ phận của Trung Quốc hay của tỉnh Quảng Đông trong bản đồ Trung Quốc. Năm 1909, sau hành động của Lí Chuẩn, Hoàng Sa mới bắt đầu được chính phủ và người dân Trung Quốc coi là một bộ phận của nước này. Còn Trường Sa và Trung Sa vẫn chưa được bất cứ tấm bản đồ nào đưa vào phạm vi lãnh thổ Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những năm đầu Dân quốc, đối với các đảo ở biển Đông các bản đồ về cơ bản vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống cuối thời Thanh. Trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc tân dư đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國新興圖)</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xuất bản ở Thượng Hải năm 1915</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (1915, Hình 8), cực Nam của Trung Quốc vẫn chỉ đến đảo Hải Nam, giống như “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhị thập thế kỉ Trung ngoại đại địa đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bản đồ lớn Trung Quốc và nước ngoài thế kỉ 20) năm 1908. Đây là lần tái bản, có thể suy đoán lần xuất bản đầu tiên cũng tương tự như vậy. Cho đến lần xuất bản thứ ba của “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc tân dư đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” năm 1917,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tình hình vẫn không thay đổi, cực Nam Trung Quốc vẫn là đảo Hải Nam. Có thể thấy rằng mặc dù năm 1909 Lí Chuẩn đã đến Hoàng Sa tuyên bố chủ quyền, nhưng một bộ phận đáng kể người vẽ bản đồ Trung Quốc, đặc biệt là không phải người Quảng Đông vẫn không coi Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Có thể thấy “Tây Sa là một bộ phận lãnh thổ Trung Quốc” vẫn chưa trở thành nhận thức chung của xã hội vào lúc đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8WHfufrsuxUfTrgN8rz0J469khLOfOC6Ik_EghNEOqsZimhwoLWE5fH6XeZZez0b9PlxfTUMj-bA_brvLWLPEeOwAzhpTokld1AgfAhXhPAXH5r7WeFDvo6DtiUJrbZTRf0gn9kvYfifZXNOpNIOravL4YXuws0Uki3FOpV83elAkHcpxkLfoC5i49Q/s1418/IMG_20230429_163249.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1273" data-original-width="1418" height="538" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8WHfufrsuxUfTrgN8rz0J469khLOfOC6Ik_EghNEOqsZimhwoLWE5fH6XeZZez0b9PlxfTUMj-bA_brvLWLPEeOwAzhpTokld1AgfAhXhPAXH5r7WeFDvo6DtiUJrbZTRf0gn9kvYfifZXNOpNIOravL4YXuws0Uki3FOpV83elAkHcpxkLfoC5i49Q/w600-h538/IMG_20230429_163249.jpg" width="600" /></span></a></div><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 6: Nhị thập thế kỉ Trung ngoại đại địa đồ (Bản đồ lớn Trung Quốc và nước ngoài thế kỉ 20) (1908) </span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj69Y2W4-YdSVoQeLtJt5PpOL-8_lVprRB33MW_2TzvQq0kHJGfghoS13f1hAnZkfJ_Id9wmdR1Cn80T6J53ekj4lQXjuhGsDFizuUnJgH6THYd69RPzKE7BEssEfr2M2MV3sKHiaHrls3g3ZmHDR7iyuatJGASaGu22uJIZxcilsE-gRhK6sHegwAYBQ/s1838/Quang_Dong_Du_Dia_Toan_Do_1909.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1588" data-original-width="1838" height="518" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj69Y2W4-YdSVoQeLtJt5PpOL-8_lVprRB33MW_2TzvQq0kHJGfghoS13f1hAnZkfJ_Id9wmdR1Cn80T6J53ekj4lQXjuhGsDFizuUnJgH6THYd69RPzKE7BEssEfr2M2MV3sKHiaHrls3g3ZmHDR7iyuatJGASaGu22uJIZxcilsE-gRhK6sHegwAYBQ/w600-h518/Quang_Dong_Du_Dia_Toan_Do_1909.jpg" width="600" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 7: Quảng Đông dư địa toàn đồ (1909)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_uSysIFg4MKyoPWEkTmASkm1-nOLgIWf4nnPXXp19gR1ciGUIHnGk5X3Iqtw4g5aDR8iCc8HrwKyCcsI_4pYQ0DSoZslz1KYFbgYlzk8WzuBqhBrydhJFKKY6giCyl480b-625t6f09f1juRrse736pfTnHPDjHyYYTs8g7eIQ60-GjyDhoigV2ktYQ/s1868/IMG_20230429_165220.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1350" data-original-width="1868" height="437" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_uSysIFg4MKyoPWEkTmASkm1-nOLgIWf4nnPXXp19gR1ciGUIHnGk5X3Iqtw4g5aDR8iCc8HrwKyCcsI_4pYQ0DSoZslz1KYFbgYlzk8WzuBqhBrydhJFKKY6giCyl480b-625t6f09f1juRrse736pfTnHPDjHyYYTs8g7eIQ60-GjyDhoigV2ktYQ/w605-h437/IMG_20230429_165220.jpg" width="605" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 8: Trung Quốc tân dư đồ (1915) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiVVKy78X4D_YRgX9sntiUW4fy7Ec1J3-BiSbH8Y4D4FFRQ2JTzPrQ9Z0H9i6Drn9M6yWJ5CVqI0Q1uru4kS8ftIpMXN20xMEINJiMPO3P6hm9xsMc2PbpLff1d3JfomivTNQ0xMUtUqICNyYRd8m9gtqb5XHOEzMXBd-YMBvuz0wf8EqR6lVxw28tVIw/s1944/Trung_Hoa_Dan_Quoc_Tan_Khu_vuc_Do_1917.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1562" data-original-width="1944" height="481" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiVVKy78X4D_YRgX9sntiUW4fy7Ec1J3-BiSbH8Y4D4FFRQ2JTzPrQ9Z0H9i6Drn9M6yWJ5CVqI0Q1uru4kS8ftIpMXN20xMEINJiMPO3P6hm9xsMc2PbpLff1d3JfomivTNQ0xMUtUqICNyYRd8m9gtqb5XHOEzMXBd-YMBvuz0wf8EqR6lVxw28tVIw/w601-h481/Trung_Hoa_Dan_Quoc_Tan_Khu_vuc_Do_1917.jpg" width="601" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 9: Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ (1917)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (中華民國新區域圖, 1917) (Hình 9) như tên gọi cho thấy, trọng điểm ở chữ “tân” (mới), và quần đảo Hoàng Sa cũng được đưa vào trong cương vực của Trung Quốc. Bản đồ này cũng là bản đồ sớm nhất mà tác giả đã xem có dùng khung vuông phụ để bổ sung các đảo ở biển Đông dưới dạng lồng bản đồ nhỏ vào trong bản đồ toàn quốc. Khu vực ở biển Đông thuộc về Trung Quốc trong bản đồ vẫn chỉ là Tây Sa (Hoàng Sa) và Đông Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa (Trường Sa) vẫn chưa được bao gồm vào trong lãnh thổ Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“T</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rung Quốc địa lí duyên cách đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國地理沿革圖: Bản đồ phát triển và thay đổi về địa lí Trung Quốc) xuất bản năm 1922, là một tập bản đồ lịch sử, nhưng cái bản đồ mà Dân quốc chọn dùng là bản đồ Trung Quốc năm 1918. Trong bản đồ này, Tây Sa cũng xuất hiện với dạng khung vuông trên bản đồ toàn quốc, có thể thấy hình thức này đã bắt đầu phổ biến. Giống như bản đồ trên, chỉ có Tây Sa (Hoàng Sa) và Đông Sa (Pratas) thuộc bản đồ Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc tân hình thế đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國新形勢圖: Bản đồ địa hình mới của Trung Quốc)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (1922, Hình 10) là một tập bản đồ tham khảo cho sách giáo khoa địa lí trung học, không chi tiết bằng tập bản đồ phía trên, nhưng có thể đủ để cho thấy phạm vi bản đồ Trung Quốc trong cái nhìn dòng chính của xã hội khi đó. Giống hai tấm bản đồ trên, cực Nam Trung Quốc chỉ đến Tây Sa (Hoàng Sa), còn Trung Sa (Macclesfield )và Nam Sa (Trường Sa) đều không nằm trong đó. Ngay cả đến “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa tích loại phân tỉnh đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華析類分省圖)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 1931, bản đồ của Trung Quốc vẫn không thay đổi, cực Nam vẫn ở Hoàng Sa.</span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhlbwyuEg5G5xsNXkSRaZZ2qgbyCOnxcvzKaiULe8AjEtxXqMM0loVP6o4mev9OxnWH2Bp52dm7zMfoJ0wLSLlO8c3cGmppqhg_x_XP3qk69wvRWTETNHDxwdfw4GHKeMqGPIkeEqfxzxA73s0BfnaTmsHnD2Y3CdZOzxwDxOMpS5kYjPw22sEdg_CEEA/s1789/Screenshot_2023-04-29-17-24-05-77_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1371" data-original-width="1789" height="481" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhlbwyuEg5G5xsNXkSRaZZ2qgbyCOnxcvzKaiULe8AjEtxXqMM0loVP6o4mev9OxnWH2Bp52dm7zMfoJ0wLSLlO8c3cGmppqhg_x_XP3qk69wvRWTETNHDxwdfw4GHKeMqGPIkeEqfxzxA73s0BfnaTmsHnD2Y3CdZOzxwDxOMpS5kYjPw22sEdg_CEEA/w628-h481/Screenshot_2023-04-29-17-24-05-77_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" width="628" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 10: Trung Quốc tân hình thế đồ (Bản đồ địa thế mới của Trung Quốc) (1922)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1934, để kỉ niệm 60 năm “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thân báo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” ra đời, báo này đã đặc biệt tổ chức một nhóm chuyên gia địa lí (bao gồm Đinh Văn Giang, Ông Văn Hạo, Tăng Thế Anh) dùng nhân lực và vật lực to lớn biên soạn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc tân địa đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國新地圖 - Hình 11). Đây có thể coi là bản đồ có thẩm quyền nhất thời kì Dân quốc. Tập bản đồ này dùng khổ giấy octavo để in, là một sáng kiến của Trung Quốc thời đó. Do giá cả và sử dụng thuận tiện, bản in thứ 16 được phổ biến rộng rãi hơn các bản in sau này. Mặc dù lúc này đã xảy ra sự kiện 9 đảo nhỏ khi Pháp tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thân báo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cũng đưa tin về sự kiện này với thái độ gay gắt, nhưng trong tập bản đồ do báo này chủ biên, bản đồ Trung Quốc vẫn chỉ bao gồm Hoàng Sa và Đông Sa, Trường Sa vẫn chưa được đưa vào lãnh thổ Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, bắt đầu từ thời Dân quốc đến trước năm 1917, quần đảo Hoàng Sa vẫn chưa được giới vẽ bản đồ Trung Quốc thống nhất nhìn nhận là lãnh thổ Trung Quốc. Sau năm 1917, trên tuyệt đại bộ phận bản đồ, quần đảo Hoàng Sa mới trở thành một bộ phận của Trung Quốc. Nhưng từ năm 1917 đến năm 1934, theo tác giả thấy, trên bản đồ Trung Quốc lãnh thổ Trung Quốc chỉ là đến quần đảo Hoàng Sa, còn Trung Sa và Trường Sa tuyệt nhiên không phải là phần lãnh thổ được thể hiển trên bản đồ Trung Quốc. Tuy nhiên, vào năm 1935 sau khi Bộ Nội chính công bố tên gọi các đảo, giới vẽ bản đồ Trung Quốc cũng nhanh chóng theo kịp tiến độ của chính phủ.</span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEikXoVo_YbDFMLbEB8vqIHhHdySabWLnREB290XifycZEsTZCXfCQRoJTZ0K_B4UzuKsHG8NGFfU2q2U75tKm3CgzH0wiRZCwXRJUMMQZMf-p_bMi9cFCo-s7oXHseIycb7G8_vs3_gvYNcBkxqqA-WbCLcXPvHHxsvw-8ZmhOdQnAPTdwDM3SA7XPavA/s2051/THDQ_TanDiaDo_1934.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1481" data-original-width="2051" height="466" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEikXoVo_YbDFMLbEB8vqIHhHdySabWLnREB290XifycZEsTZCXfCQRoJTZ0K_B4UzuKsHG8NGFfU2q2U75tKm3CgzH0wiRZCwXRJUMMQZMf-p_bMi9cFCo-s7oXHseIycb7G8_vs3_gvYNcBkxqqA-WbCLcXPvHHxsvw-8ZmhOdQnAPTdwDM3SA7XPavA/w646-h466/THDQ_TanDiaDo_1934.jpg" width="646" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 11: Trung Hoa Dân quốc tân địa đồ (1934)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản in thứ hai “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc tân địa đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國新地圖, 1936) (Hình 12) do “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thân báo”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> biên tập đã được điều chỉnh để xuất bản dưới dạng khổ giấy sextodecimo. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù trên bản đồ toàn quốc vẫn chưa thêm quần đảo Đoàn Sa (quần đảo Trường Sa) vào, nhưng trong bản đồ tỉnh Quảng Đông đã xuất hiện dòng chữ quần đảo Nam Sa (Trung Sa hiện nay) và quần đảo Đoàn Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lưu ý rằng trong bản đồ này không xuất hiện đảo Hoàng Nham (Scarborough). Có thể thấy rằng trong giai đoạn đầu khi chính phủ Dân quốc mở rộng biên cương trên bản đồ, vấn đề đảo Hoàng Nham có phải là một bộ phận của Trung Quốc hay không vẫn chưa đạt được sự đồng thuận của giới biên tập bản đồ.</span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsoDo3Nhyq-_OVFBdFLoAXtEkXqT_R4BUASIFAq_yqTzewIxIrpdL3PLcKKEBJ9B0HGat0ruN21vE_yuHvG83utcEygE2SYFiMMeU0oZAwTbb6_D41wqpder92um9GxqeLY1I_iuaBCHS0jQUaMd0MMVBJIhtpXot3i-xKdUBcLMVOVDuus5uHMxBi6A/s2007/Screenshot_2023-04-29-21-41-06-84_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1352" data-original-width="2007" height="418" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsoDo3Nhyq-_OVFBdFLoAXtEkXqT_R4BUASIFAq_yqTzewIxIrpdL3PLcKKEBJ9B0HGat0ruN21vE_yuHvG83utcEygE2SYFiMMeU0oZAwTbb6_D41wqpder92um9GxqeLY1I_iuaBCHS0jQUaMd0MMVBJIhtpXot3i-xKdUBcLMVOVDuus5uHMxBi6A/w618-h418/Screenshot_2023-04-29-21-41-06-84_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" width="618" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 12: Trung Hoa Dân quốc tân địa đồ chi Quảng Đông tỉnh (Tỉnh Quảng Đông trong bản đồ Trung Hoa Dân Quốc mới) (1936) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc bưu chính dư đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國郵政輿圖; Bản đồ bưu chính Trung Hoa Dân quốc) là một bản đồ khác xuất bản năm 1936 (Hình 13), bao gồm nhiều đảo ở biển Đông hơn. Đảo Hoàng Nham cũng xuất hiện trong đó, gọi là “Nam Thạch”, được vẽ như là một bộ phận của quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trung Sa sau này). Ở phần cực Đông của quần đảo Trung Sa (xa hơn về phía Đông so với đảo Hoàng Nham), còn có một địa điểm mà hiện nay thường không được vẽ trong các bản đồ biển Đông, cũng được vẽ giống như đảo, địa điểm này là bãi Quản Sự (Stewart Shoal).</span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgbiH5R5Vn3nM0GSuHtGJNLePy3qaweDAjzWr6ybkZJpwYKifwgc8MMLW96dzji6dSnqW9NcfgR9ikrv1rBfLxiK6z07ZooYfaEazOGFIOfsB4gWJC5MSxOkWf0DynHu1L8FnAFcAT-S9p-_7bgK9Q-U4nzpgFuPU81fx38LN38HuRaBQplHpbc4teO6w/s1789/Screenshot_2023-04-29-22-04-12-51_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f~2.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1286" data-original-width="1789" height="435" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgbiH5R5Vn3nM0GSuHtGJNLePy3qaweDAjzWr6ybkZJpwYKifwgc8MMLW96dzji6dSnqW9NcfgR9ikrv1rBfLxiK6z07ZooYfaEazOGFIOfsB4gWJC5MSxOkWf0DynHu1L8FnAFcAT-S9p-_7bgK9Q-U4nzpgFuPU81fx38LN38HuRaBQplHpbc4teO6w/w604-h435/Screenshot_2023-04-29-22-04-12-51_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f~2.jpg" width="604" /></span></a></div><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Hình 13: Trung Hoa Dân Quốc bưu chính dư đồ (Bản đồ bưu chính Trung Hoa Dân Quốc) (1936)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc tỉnh thị địa phương tân đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國省市地方新圖: Bản đồ mới tỉnh và thành phố Trung Quốc) (Hình 14) xuất bản vào năm 1939. Lúc này, mở rộng biên giới trên bản đồ đã nhận được sự thừa nhận rộng rãi của các nhà khoa học bản đồ của Trung Quốc. Những địa điểm không được ghi tên trên bản đồ năm 1936 đã được ghi rõ từng tên một trên bản đồ này. Bản đồ này được tập trung biên soạn như một bản đồ chuyên về các đảo ở biển Đông. Trong tất cả tập bản đồ tác giả đã xem, đây là bản sớm nhất loại này</span><span style="color: #ff9900; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tên của đảo Hoàng Nham được gọi là đá Tư Ca Ba Lạc (斯卡巴洛礁: sī kǎ bā luò - phiên âm của Scarborough). Điều thú vị là trong bản đồ này, đảo Hoàng Nham không phải là một bộ phận của quần đảo Trung Sa, nó và bãi ngầm Đặc Lỗ (特魯路/Tè lǔ lù - phiên âm của Truro [Shoal]) đều được đánh dấu riêng biệt, có thêm các chữ “thuộc Trung Quốc”. Ngoài ra, bãi ngầm ở cực Đông của quần đảo Trung Sa, trước đây chưa có tên cũng đã có tên trên bản đồ này, tên là bãi Quản Sự.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bãi Quản Sự (Stewart Shoal) cũng là một bãi đá ngầm chìm dưới nước, chỗ cạn nhất cách mặt biển 45 mét. Bãi ngầm này (cùng với bãi ngầm Bát Tiên và bãi ngầm Lập Địa từng được liệt kê thuộc quần đảo Trường Sa) đều không được đánh dấu trên các bản đồ do Bắc Kinh xuất bản hiện nay. Xem lại tài liệu đặt tên các đảo ở biển Đông của Dân quốc năm 1947, bãi Quản Sự không xuất hiện trong tài liệu này, nhưng bãi ngầm Bát Tiên và bãi ngầm Lập Địa đều được liệt kê trong đó. Vì sao năm 1947 và sau đó, bãi Quản Sự không được liệt kê vào? Không có lời giải thích công khai. Có ý kiến cho rằng vì mấy nơi này quá gần đường 9 đoạn do Trung Quốc vẽ ra sau đó, mà đường 9 đoạn lại không có toạ độ cụ thể, nên rất khó xác nhận chúng có nằm trong đường 9 đoạn hay không, do đó không nhắc đến chúng nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhO1-nfit1fR1oG6Xb_F01t0RUgyl0_mglR4WtNGZwvI2qXQjElYPCR449x2-1sH5rY7Qe0fmgEVAQgS_vBQYUt7ye7wjqqxeozDb9TUvmwlHzgZr31TheH_FZmO8fLtAPKssu6TUvCi1AmXA42H92rLImFGjRJP_sjCqJDFWihec8v3lQYkrOKKSaI3g/s1765/Screenshot_2023-04-29-22-16-02-06_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-family: verdana;"><img border="0" data-original-height="1765" data-original-width="1359" height="626" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhO1-nfit1fR1oG6Xb_F01t0RUgyl0_mglR4WtNGZwvI2qXQjElYPCR449x2-1sH5rY7Qe0fmgEVAQgS_vBQYUt7ye7wjqqxeozDb9TUvmwlHzgZr31TheH_FZmO8fLtAPKssu6TUvCi1AmXA42H92rLImFGjRJP_sjCqJDFWihec8v3lQYkrOKKSaI3g/w481-h626/Screenshot_2023-04-29-22-16-02-06_e2d5b3f32b79de1d45acd1fad96fbb0f.jpg" width="481" /></span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 14.6667px; white-space: pre-wrap;">Hình 14: Trung Quốc tỉnh thị địa phương tân đồ (1939)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó có thể thấy rằng trong các bản đồ từ cuối thời Thanh đến thời Dân quốc, phạm vi của biển Đông về cơ bản đã tăng thêm theo thái độ của chính phủ. Điều đáng chỉ ra là so với quá trình Nhật Bản sáp nhập đảo Đại Đông (đảo Daito) và đảo Điếu Ngư (Senkaku) vào cuối thế kỉ 19, hành động tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham rất qua loa đại khái. Để xác nhận đảo Daito là đất vô chủ, Nhật Bản đã qua 3 lần lên đảo khảo sát mới biết được trên đảo không có người, cũng như không có dấu vết quản lí của nhà nước, cuối cùng mới tiến hành sáp nhập. Trước khi cuối cùng sáp nhập đảo Điếu Ngư, Nhật Bản đã tiến hành quan sát 10 năm, rồi sau 3 lần khẳng định không có bất cứ dấu vết kiểm soát của nước khác mới đưa vào quản lí hành chính.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải đảo dữ đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國南海島嶼圖: Bản đồ các đảo ở biển Nam Trung Quốc) chính phủ Dân Quốc vẽ Trường Sa vào lãnh thổ của mình, nhưng khi xuất bản bản đồ này thì họ hoàn toàn dựa vào tư liệu nước ngoài, thậm chí trước đó chưa từng phái bất cứ tàu thuyền nào đến Trường Sa thăm dò, đo đạc. Không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã từng tiến hành điều tra, nghiên cứu về lịch sử và hiện trạng các đảo này để làm sáng tỏ các câu hỏi như: có dấu vết kiểm soát của nước khác trên đảo Scarborough (Hoàng Nham) hay không? Quần đảo Trường Sa rốt cuộc nên bao gồm bao nhiêu đảo? Thật sự Trung Quốc có thể tuyên bố chủ quyền bao nhiêu đảo?... Tác giả thậm chí còn nghi ngờ liệu các quan chức phụ trách có hiểu rõ luật quốc tế không, có hiểu các bãi san hô nằm dưới mặt biển như bãi ngầm James (Tăng Mẫu </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ám sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) có quyền được coi là lãnh thổ hay không? Hoặc là phải chăng về căn bản họ không biết bãi Tăng Mẫu (Tăng Mẫu </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">than</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - tên gọi khi đó) là một bãi ngầm?</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi vẽ những đảo này (Trường Sa và đảo Scarborough) vào bản đồ, Trung Quốc cũng không phái tàu thuyền đến để tuyên bố chủ quyền, nói chi đến việc bảo vệ chủ quyền ở đó. Vì vậy, hành động đó của chính phủ Dân quốc là một ví dụ điển hình của việc “mở rộng biên cương trên bản đồ”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó không có nước nào lưu ý nghiêm túc đến “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải đảo dữ đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Vì trong thực tiễn luật quốc tế khi đó, không ai lấy bằng chứng bản đồ làm bằng chứng chính thức hợp pháp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1928, trong vụ tranh chấp chủ quyền đảo Palmas thì Mỹ và Hà Lan mới vừa kiện ra Tòa Trọng tài, trong phán quyết Trọng tài không chấp nhận bản đồ là bằng chứng chủ quyền hợp pháp. Quốc tế thừa nhận quản lí thực tế chứ không phải tuyên bố miệng. Nhưng trong giao thiệp ngoại giao về quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng không đưa ra giao thiệp ngoại giao nào. Vì vậy, cộng đồng quốc tế cơ bản đều không để mắt đến chủ trương của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thật ra, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tập san của Uỷ ban thẩm định bản đồ thuỷ bộ” </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">công bố “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng đối chiếu tên gọi tiếng Trung và tiếng Anh các đảo ở biển Nam Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có phải là một tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Đông với bên ngoài hay không, đó cũng là vấn đề lớn. Uỷ ban thẩm tra bản đồ thuỷ bộ là một cơ quan trực thuộc Bộ Nội chính, mà mục đích thành lập uỷ ban này là để tiêu chuẩn hóa bản đồ phát hành trong cả nước, bao gồm bản đồ các nước trên thế giới (ví dụ bản đồ địa chất thế giới, bản đồ cảng quân sự các nước trên thế giới...).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, đối tượng phân phối của tập san này là các nhà xuất bản bản đồ của Trung Quốc chứ không phải là cơ quan ngoại giao các nước. Tiêu đề phụ của số ra mắt của nó là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nhằm thẩm tra bản đồ thuỷ bộ để báo cho ngành xuất bản</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hơn nữa, do kinh phí thiếu thốn uỷ ban này đã bị bãi bỏ sau khi chỉ xuất bản 3 số tập san,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thành quả và ảnh hưởng của nó rất có hạn. Cơ quan tương tự, mới được thành lập lại vào năm 1946.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Riêng về “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng đối chiếu tên gọi tiếng Trung và tiếng Anh các đảo ở biển Nam Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, bảng này không đưa thêm giải thích nào khác ngoài việc liệt kê các đảo, ví dụ như nói các đảo này là lãnh thổ của Trung Quốc. Chỉ có 4 chữ tiêu đề “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam Hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có thể nói lên rằng những đảo này thuộc về Trung Quốc. Nhưng vào những năm 1930, “Trung Quốc Nam Hải” cũng là tên gọi chính thức của biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(cũng gọi là “Nam Trung Quốc hải” [biển Nam Trung Quốc]). Vì vậy bốn chữ này vừa có thể biểu thị thuộc về Nam Hải của Trung Quốc mà cũng có thể chỉ biểu thị vị trí địa lí. Phía Trung Quốc đương nhiên có lí do để diễn giải theo cách là những đảo này thuộc về Trung Quốc, nhưng hàm nghĩa của nó suy cho cùng vẫn còn mơ hồ. Hơn nữa, tập san này không có bản tiếng nước ngoài, và Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng không công bố với nước ngoài. Vì vậy, khi đó hầu như không có nước ngoài nào biết về tài liệu này, cũng không biết yêu sách của Trung Quốc. Ví dụ, nước Mỹ không biết Trung Quốc có ý đồ chủ quyền đối với đảo Hoàng Nham (xem chương V, VI), trên thế giới cũng không có nước nào biết Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Ví dụ sau khi Nhật Bản tuyên bố chiếm quần đảo Trường Sa vào năm 1939 (xem III.1), bức điện của Đại sứ quán Mỹ tại Nhật Bản đã gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Anh lẫn Pháp đều tuyên bố chủ quyền đối với đảo Trường Sa, nhưng khi Nhật Bản cũng tuyên bố chủ quyền, Anh đã rút lại tuyên bố của mình và ủng hộ Pháp để thúc đẩy Pháp chú ý đến tầm quan trọng của việc tăng cường bảo vệ chủ quyền của mình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Bức điện không nhắc đến yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thậm chí xét đến ngay cả Mỹ là một nước trong khu vực này (khi đó đang chiếm Philippines) cũng không biết yêu sách của Trung Quốc, rất khó tin rằng Trung Quốc đã công khai tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các đảo này, đặc biệt là chủ quyền của quần đảo Trường Sa và đảo Scarborough. Có học giả Đài Loan cho rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tuyên bố này là phương thức theo quy phạm nội bộ, không hề bày tỏ lập trường này của Trung Hoa Dân quốc với các nước trên thế giới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, ngay cả ở Trung Quốc cũng không có bằng chứng nào cho thấy chính phủ đã đưa quần đảo Trường Sa vào yêu sách lãnh thổ. Vào tháng 4/1937, có ngư dân báo cáo rằng ở Hoàng Sa có người Nhật xua đuổi họ, vì vậy chính phủ phái chuyên viên Hoàng Cường của Phòng Thanh tra khu hành chính thứ 9, tỉnh Quảng Đông đến điều tra, cuối cùng sự việc được xác nhận là không đúng sự thực. Trong báo cáo này có viết như sau: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo này (chỉ quần đảo Tây Sa - tác giả) nằm ở giữa 15° đến 17°vĩ Bắc, 110° đến 112° kinh Đông, cách cảng Du Lâm huyện Nhai 145 dặm về phía Đông Nam, là lãnh thổ cực Nam của nước ta.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cũng trong báo cáo này có nhắc đến việc Nhật Bản chiếm “đảo Hoàng Sơn” (Loaita), nhưng không coi là Nhật Bản đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi nhận được báo cáo, Bộ Ngoại giao bày tỏ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ trưởng Vương Thâm của Bộ gửi lời khen ngợi, mọi vấn đề liên quan đến chủ quyền quần đảo này Bộ cần tiếp tục đàm phán với phía Pháp để sớm giải quyết. Về đảo Hoàng Sơn, theo thuyền trưởng Lương, đây là một trong số 9 đảo nhỏ, xét 9 đảo nhỏ đã bị Pháp chiếm hữu từ lâu nên có vẻ không có liên quan đến quần đảo Tây Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn Uỷ ban quân sự chính phủ Dân quốc, sau khi nhận được báo cáo thì một mặt khẳng định quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) là “lãnh thổ cực Nam của nước ta”, mặt khác cũng không bày tỏ việc Nhật Bản chiếm “đảo Hoàng Sơn” là xâm chiếm lãnh thổ của Trung Quốc mà chỉ nhấn mạnh tính quan trọng của quần đảo Tây Sa và sự cần thiết phải nhanh chóng đóng giữ và xây dựng hải đăng ở Tây Sa...</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ góc độ pháp lý thấy rằng, mở rộng biên cương trên bản đồ cũng không chiếu theo trình tự pháp luật đã định. Hiến pháp thời kì Dân quốc rất hỗn loạn, nhưng không gây trở ngại việc dùng góc độ của hiến pháp để xem xét các quy định lãnh thổ. Trong “Dự thảo hiến pháp Thiên Đàn” năm 1913 có ghi: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 2: Lãnh thổ Trung Hoa Dân quốc theo cương vực vốn có của nó. Lãnh thổ và phân vùng hành chính của nó sẽ không được thay đổi trừ khi thông qua luật</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “Ước pháp Trung Hoa Dân quốc” thông qua ngày 1/5/1914 có nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 3: Lãnh thổ Trung Hoa Dân quốc theo cương vực đế quốc sở hữu trước đây</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “Hiến pháp Trung Hoa Dân quốc” thông qua ngày 10/10/1923 (tức Hiến pháp Tào Côn) có nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ Trung Hoa Dân quốc theo cương vực vốn có của nó. Lãnh thổ và phân vùng hành chính của nó không được thay đổi trừ khi thông qua luật</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Những bản hiến pháp này đều khẳng định: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lãnh thổ của Trung Hoa Dân quốc là kế thừa lãnh thổ của nhà Thanh, tức cực Nam chỉ đến Tây Sa; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sự biến đổi của lãnh thổ phải qua việc sửa đổi pháp luật. Trình tự mở rộng biên cương trên bản đồ do một xuất bản phẩm của uỷ ban cấp thấp đưa ra, thậm chí cũng chưa đến mức độ pháp quy, càng không phải là một đạo luật được quốc hội thông qua.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đương nhiên, vào năm 1935, Trung Quốc ở vào giai đoạn chưa có hiến pháp chính thức. “Ước pháp thời kì huấn chính” năm 1931 có tính chất tạm thời không đề cập trình tự thay đổi của lãnh thổ. Nhưng trong “Hiến pháp 1955” chính thức khởi thảo cũng có “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 4.... Lãnh thổ Trung Hoa Dân quốc không được thay đổi nếu không qua Quốc dân đại hội quyết nghị</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cho thấy sự thay đổi của lãnh thổ đòi hỏi phải thông qua quyết nghị của cấp cao, đó là tinh thần nhất quán. Mở rộng biên cương trên bản đồ hiển nhiên đã làm trái với điều này.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">II.9 Kết luận: Lợi ích không như nhau của Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử biển Đông trong nửa đầu thế kỉ 20 có thể gọi là lịch sử lấy Nhật Bản làm trục chính. Trước thế kỉ 20, các nước đều không quan tâm nhiều đến vấn đề chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa. Anh và Pháp vào nửa sau thế kỉ 19 từng lần lượt chú ý tới chủ quyền của Trường Sa và Hoàng Sa, nhưng thái độ đều khó nói là tích cực. Nguyên nhân của điều này không gì khác hơn là những đảo, đá nhỏ này vừa thiếu giá trị kinh tế vừa thiếu giá trị chiến lược. Mãi đến đầu thế kỉ 20, Nhật Bản vốn là nước ngoài khu vực đột ngột xông vào biển Đông, trước tác động của việc Nhật Bản bắt đầu bành trướng ra bên ngoài, các nước mới chú ý đến vấn đề các đảo ở biển Đông. Tranh chấp Đông Sa có thể được coi là điềm báo, Hoàng Sa và Trường Sa cũng lần lượt rơi vào vòng tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Hoàng Sa, vào năm 1909 Trung Quốc đã lần đầu tuyên bố chủ quyền và vào năm 1921 đã gộp nó vào khu vực hành chính huyện Nhai tỉnh Hải Nam. Sau năm 1920, chính quyền tỉnh Quảng Đông đã cấp phát quyền khai thác khoáng sản ít nhất 5 lần, đồng thời tiến hành khảo sát chính thức Hoàng Sa. Trong loạt sự kiện này, nước Pháp đều không phản đối. Nhật Bản thừa nhận chủ quyền Trung Quốc ở Hoàng Sa. Có thể nói một cách tương đối chắc chắn rằng từ năm 1909 đến năm 1931, Trung Quốc đã thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa một cách thực tế hữu hiện và không có tranh chấp. Còn Pháp cho đến cuối năm 1931 mới công khai bày tỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa. Lí lẽ của phía Pháp là Hoàng Sa là lãnh thổ cũ của Việt Nam trước đây, và Pháp với tư cách là nước bảo hộ của Việt Nam cần phải khôi phục lãnh thổ của Việt Nam. Từ năm 1932 đến năm 1938, Trung Quốc và Pháp đều tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa, nhưng cả hai đều không hoàn toàn kiểm soát hữu hiệu Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Trường Sa, dù từ cuối thế kỉ 19 bắt đầu đã có sự hoạt động của ngư dân Trung Quốc nhưng không có bất cứ nước nào quản lí. Trong những năm 1920, Nhật Bản từng khai thác quy mô lớn ở quần đảo Trường Sa, nhưng trong vấn đề tuyên bố chủ quyền thì bị nước Pháp đi trước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào năm 1930 nước Pháp đã tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, năm 1933 lại lần nữa tuyên bố có chủ quyền đối với toàn bộ Trường Sa (đúng ra 7 đảo có nêu tên và các đảo phụ thuộc chúng -ND). Năm 1933 Nhật Bản đưa ra phản đối và giao thiệp về mặt ngoại giao cho đến khi chiếm đóng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Anh giao thiệp kín với Pháp, nhưng Anh nghiêng về ủng hộ Pháp trong giao thiệp Nhật–Pháp. Trung Quốc chính thức đưa ra chủ trương lãnh thổ với Trường Sa, nhưng lại dùng hình thức “mở rộng biên cương trên bản đồ” (đáng ngờ) gộp quần đảo Trường Sa vào bản đồ Trung Quốc. Cứ như vậy, đến những năm 1920 và 1930, cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa đều bước vào thời kì tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các bên tranh chấp các đảo ở biển Đông (Nhật, Pháp, Trung Quốc và Anh) có những quan tâm hoàn toàn khác nhau đối với các đảo này. Trọng tâm của Nhật Bản là lợi ích kinh tế. Dù cả Anh lẫn Trung Quốc đều tính đến vấn đề khai thác các đảo ở biển Đông nhưng chỉ có người Nhật mới thực sự có thể chuyển hóa tài nguyên các đảo ở biển Đông thành lợi ích kinh tế thực sự, ở Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa đều như vậy. Tuy nhiên, Nhật không mấy thiết tha đối với vấn đề chủ quyền của các đảo ở biển Đông: trong tranh chấp Đông Sa, Nhật Bản chỉ yêu cầu Trung Quốc đưa ra bằng chứng Đông Sa thuộc Trung Quốc, sau khi Trung Quốc đưa ra thì Nhật Bản liền thừa nhận Đông Sa thuộc Trung Quốc; ở Hoàng Sa, sau khi Nhật Bản biết Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền, cũng chỉ áp dụng phương thức hợp tác (thông qua Hà Thụy Niên) để khai thác khoáng sản chứ không đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa. Ở Trường Sa, Nhật Bản là nước tiến hành khai thác sớm nhất được sự phê chuẩn của chính phủ, nhưng trong thời gian khai thác 10 năm dài, họ đã không kịp thời tuyên bố chủ quyền lại cũng không xây dựng căn cứ quân sự. Do tác phong nghiêm cẩn trong vấn đề tuyên bố chủ quyền, Nhật vừa chậm chạp lại còn bộc lộ ý định cho đối thủ tiềm tàng, nên đã để Pháp giành được cơ hội trước trong vấn đề Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Pháp không tham gia vào việc khai thác Hoàng Sa và Trường Sa. Tầm nhìn của Pháp không phải giá trị kinh tế mà là chiến lược. Pháp giống như Anh, họ cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa “chiến lược”. Động cơ chủ yếu của tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng vẫn là lợi ích chiến lược, để ngăn Nhật Bản chiếm đóng mà gây ra bất lợi đối với Đông Dương và Borneo. Trước khi có mối “đe dọa” của Nhật Bản, quan tâm của Pháp đối với Hoàng Sa chỉ như là một con bài tiềm năng để mặc cả với Trung Quốc, và họ càng thờ ơ với Trường Sa. Mặc dù sau đó An Nam đưa ra bằng chứng đã từng quản lí Hoàng Sa để thúc đẩy Pháp thay đổi thái độ trong vấn đề Hoàng Sa, nhưng rất khó để nói rằng sự thúc đẩy này có vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình đưa ra quyết sách, theo quan điểm của tác giả, nhiều khả năng là Pháp tìm ra thêm một số lí do để hợp lí hóa hành vi của mình mà thôi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tương tự, đối với Trường Sa thì Anh cũng là lấy giá trị chiến lược làm điểm xuất phát. Khác với Pháp, Anh không muốn xung đột trực tiếp với Nhật Bản mà mong muốn Pháp đóng vai trò trái độn giữa Nhật Bản và các lãnh thổ thuộc Anh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lợi ích chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa có thật hay không? Tác giả thấy rất hoài nghi. Nếu như thật sự có ý nghĩa chiến lược như vậy thì tại sao Nhật Bản không chiếm quần đảo Trường Sa sau khi đã phát triển chúng quá lâu, không vội tuyên bố chủ quyền, và không xây dựng căn cứ quân sự trên đó? Hơn nữa, như có thể thấy ở chương sau, ngay cả trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ý nghĩa chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa hầu như bằng không. Do đó, tác giả cho rằng cả Anh và Pháp đều phóng đại lợi ích chiến lược của các đảo ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự quan tâm của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Đông nằm ở “chủ nghĩa dân tộc” nhiều hơn. Trung Quốc đều đã thử qua kế hoạch khai thác ở Đông Sa và Hoàng Sa, nhưng những khai thác do người Trung Quốc chủ trì đều chẳng có kết quả gì, cuối cùng đành phải để người Nhật Bản khai thác nửa công khai nửa lén lút mới có thể kéo dài thêm, có thể thấy rằng các lợi ích trên giấy tờ không thể biến thành lợi ích thực tế với khả năng thương mại của Trung Quốc vào thời điểm đó. Còn Trung Quốc cũng không tìm cách đóng quân ở Hoàng Sa nên có thể thấy Trung Quốc không có lợi ích chiến lược nào ở Hoàng Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngược lại, chủ nghĩa dân tộc lại luôn là động lực thúc đẩy Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, trong vụ 9 đảo nhỏ, thứ động lực này lại được sử dụng cho quần đảo Trường Sa. Quá trình xây dựng dân tộc hiện đại của Trung Quốc khởi đầu sau cuối thế kỉ 19, nhưng chủ nghĩa dân tộc với “sỉ nhục dân tộc” là hạt nhân khởi đầu sau “21 Điều [đòi hỏi]” Trung—Nhật, và ngày càng nghiêm trọng hơn trong một loạt “sỉ nhục” sau đó. “Mất đất” chính là biểu hiện lớn nhất của “sỉ nhục dân tộc”. Điều này có thể lí giải vì sao trong sự kiện Hà Thụy Niên ở Hoàng Sa và sự kiện 9 đảo nhỏ, báo chí, học giả thậm chí một số chính khách Trung Quốc đều đã thể hiện cuồng nhiệt như vậy. Cần phải chỉ ra rằng cái gọi là mất đất của Trung Quốc, thật ra không hẳn là mất đất thực sự, có loại “mất đất” chỉ là kết quả của sự tưởng tượng và thổi phồng. Ví dụ “Quốc sỉ đồ” (Bản đồ nỗi nhục quốc gia) rất phổ biến khi đó vẽ hầu như toàn bộ Đông Nam Á (Đông Dương, Malaya thuộc Anh và Sulu) vào trong “biên giới quốc gia trước đây”. Trung Quốc vốn dĩ không có ý định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, nhưng sau khi trải qua tranh chấp Hoàng Sa, dân chúng cũng phản ứng gay gắt đối với việc Pháp tuyên bố chiếm đóng Trường Sa, nên cũng áp dụng phương pháp mở rộng biên cương trên bản đồ để “mở rộng biên cương” tới Trường Sa. Nói một cách tương đối, nhân viên thực tế làm công tác ngoại giao và chuyên gia có tri thức luật quốc tế đều tương đối thận trọng hơn và có khả năng nhận thức chính xác vấn đề biên giới của Trung Quốc cũng như quan hệ lợi hại trong những vấn đề này, họ cũng có thể ảnh hưởng đến những người ra quyết sách. Vị vậy, trong vấn đề 9 đảo nhỏ, cho dù khí thế quần chúng sôi sục nhưng chính phủ Trung Quốc cuối cùng không tham gia vào tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ quan điểm luật quốc tế thấy có mấy điểm sau đây là đáng chú ý:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa là bắt đầu vào năm 1909 khi Lí Chuẩn đến Hoàng Sa tuyên bố chủ quyền. Trước đó Trung Quốc chưa tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa, điều này trái ngược với việc Trung Quốc sau này luôn luôn tuyên bố rằng họ đã có chủ quyền đối với Hoàng Sa từ xưa đến nay. Có mấy luận cứ cho điểm này: (1) Các bản đồ và sách địa lí có thẩm quyền chính thức của Trung Quốc trước năm 1909 đều chỉ ra rằng cực Nam của Trung Quốc là Nhai Sơn thuộc đảo Hải Nam; (2) Trước năm 1909, Trung Quốc không tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa; (3) Trước năm 1909 Trung Quốc không thực hiện quyền quản lí Hoàng Sa; (4) Quốc tế đều cho rằng năm 1909 là năm Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lần đầu tiên đối với Hoàng Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong giai đoạn từ năm 1909 đến năm 1931 khi tranh chấp Trung - Pháp nổ ra, Trung Quốc đã có ý định chủ quyền thực sự và quản lí hữu hiệu, bằng chứng bao gồm: (1) Sáp nhập vào khu vực hành chính; (2) Phê chuẩn quyền khai thác; (3) Khảo sát của các tổ chức nhà nước. Các yêu sách trong thời kì này được sự thừa nhận của Nhật Bản cũng như sự thừa nhận ngầm của Pháp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Pháp bắt đầu tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa vào năm 1931, sau 22 năm tính từ năm 1909. Thời gian này mặc dù Pháp có các hành vi (1) đổ bộ lên đảo khảo sát; (2) phái tàu tuần tra, nhưng những hành vi thể hiện kiểm soát hữu hiệu này lại không đủ để sánh với bằng chứng của Trung Quốc. Về phương diện ý thức chủ quyền, Pháp thậm chí càng yếu hơn. Thời gian này, Pháp đều giữ thái độ ngầm thừa nhận đối với hành vi của Trung Quốc, điều này tạo thành sự bất lợi đối với chủ quyền Hoàng Sa. Ngay cả lập luận rằng các hoạt động của Trung Quốc từ năm 1921 đến năm 1928 là hành vi của chính quyền miền Nam, mà chính phủ miền Nam là chính phủ không được nước Pháp thừa nhận, thì cũng không có cách nào để hợp lí hóa thái độ ngầm thừa nhận của Pháp. Bởi vì thực ra khi đó Pháp có lãnh sự quán ở Quảng Châu, lãnh sự quán này luôn giao thiệp với chính quyền miền Nam. Pháp hoàn toàn có thể bày tỏ sự phản đối với chính phủ miền Nam qua lãnh sự quán này. Tuy nhiên, dù đối với vấn đề Hoàng Sa trong thời gian dài Pháp có “thừa nhận ngầm” nhưng lại không hề bày tỏ thái độ “thừa nhận”, trong luật quốc tế điều này cũng cần được xem xét thích đáng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong vấn đề Hoàng Sa, Việt Nam có nhân tố bất lợi có thể hiểu được, do không có cách gì trực tiếp tiến hành giao thiệp với Trung Quốc. Nếu xét đến điểm này, lấy năm 1925 lúc mà Việt Nam đề xuất với chính quyền Pháp đứng ra tranh chấp làm thời điểm Việt Nam phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa thì từ năm 1909 đến năm 1925 chỉ có 16 năm, khoảng thời gian này vẫn không xem là quá lâu.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Nhật Bản là nước tiến hành khai thác tài nguyên hiện đại hóa ở Trường Sa sớm nhất, cũng là nước tiến hành quản lí Trường Sa thông qua hình thức cấp giấy phép sớm nhất. Theo nghĩa này, yêu sách chủ quyền của Nhật Bản đối với Trường Sa có bằng chứng tương đối có sức nặng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Pháp là nước dùng hành động thực tế để tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa sớm nhất. Điều này đã tăng thêm bằng chứng có sức nặng cho yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa của Pháp. Nhưng Anh và Nhật Bản lập tức đưa ra phản đối và bác bỏ. Điều này có nghĩa là yêu sách chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa không được công nhận.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ bảy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sau khi Pháp chiếm đóng Trường Sa, Trung Quốc không đưa ra ý kiến phản đối. Ngay cả tính luôn thái độ bày tỏ không rõ ràng lúc đầu (bảo lưu quyền phản đối), nhưng đó cũng nhằm vào quần đảo Hoàng Sa mà thôi. Sau khi hiểu rõ 9 đảo nhỏ không phải là quần đảo Hoàng Sa, họ không đưa ra phản đối ngay với phía Pháp giống như Nhật Bản.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tám</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lần thứ nhất mở rộng biên cương trên bản đồ của Trung Quốc có thể xem là đã tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa hay không là nghi vấn rất lớn, điều này là vì: (1) câu chữ biểu đạt mơ hồ; (2) tập san chỉ là một cuốn tạp chí mới của cấp rất thấp; (3) không trải qua trình tự pháp luật nghiêm ngặt, không phù hợp với tinh thần hiến pháp; (4) không tuyên bố với bên ngoài; (5) các nước có liên quan đều không hiểu rõ tình hình.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_____________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản có chú thích<a href="https://docs.google.com/document/d/14qckSLcQhRvcJWAzf_Y7DBBFJhIDvJ_YdaNuVI83lMU/edit?usp=sharing" target="_blank"> </a><a href="https://docs.google.com/document/d/14qckSLcQhRvcJWAzf_Y7DBBFJhIDvJ_YdaNuVI83lMU/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây</a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span id="docs-internal-guid-e72a475f-7fff-b8e2-5a64-5101a62fc342" style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></p><div><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-88421538347121109422023-04-14T07:33:00.005-07:002023-05-11T01:06:33.464-07:00CUỘC CHIẾN TRANH GIÀNH CÁC ĐẢO BIỂN ĐÔNG (1953-1989) - Lê Oa Đằng (Ch. IV)<span id="docs-internal-guid-0e320eda-7fff-2d34-2639-092b8c6d14e5" style="font-family: verdana;"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG IV</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CUỘC CHIẾN TRANH GIÀNH CÁC ĐẢO BIỂN ĐÔNG (1953-1989)</span></h1><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.1 Vương quốc Nhân đạo</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 5/1950, Quốc Dân Đảng thua trận rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, Đảng Cộng sản Trung Quốc không lắp ngay vào chỗ trống do Quốc Dân Đảng để lại ở quần đảo Trường Sa khiến cho tình hình biển Đông có sự thay đổi. Hội nghị San Francisco xác định Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Nhật Bản từ bỏ, nhưng không định rõ sự quy thuộc của chúng, dẫn đến tình trạng pháp lí của các đảo biển Đông mơ hồ thêm. Thời gian này, một cảnh mới trong lịch sử biển Đông đã được mở ra, đó lại là một nhóm nhà mạo hiểm bị ám ảnh về quốc gia tư nhân (micronation).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cái gọi là quốc gia tư nhân dùng để chỉ một số thực thể nhỏ bé tự xưng, chiếm hữu trên danh nghĩa tư nhân. Họ tự coi mình là quốc gia độc lập, in và cấp hộ chiếu, thành lập bộ ngoại giao, thậm chí phát hành tem, tiền tệ... Nhưng những “quốc gia” này không được bất cứ quốc gia nào khác công nhận, người ta xem chúng là trò đùa, trò chơi khăm, thậm chí hoang tưởng, ...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nổi tiếng nhất trong số này là Công quốc Tây Lan (Principality of Sealand) nằm ngoài khơi bờ biển phía Đông nước Anh, “nguyên thủ” của nó đã chiếm một giàn khoan 500 mét vuông bị bỏ hoang rồi tự lập thành quốc gia. Thực ra trước khi có Công quốc Sealand rất lâu, đã có một “Vương quốc Nhân đạo” (Kingdom of Humanity) tuyên bố thành lập ở quần đảo Trường Sa (Hình 24), có thể coi đó là vương quốc đầu tiên thuộc loại này trong các quốc gia tư nhân hiện đại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/6/1954, Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc nhận được một thư kì lạ, trong đó Victor Anderson, tự xưng là Bộ trưởng Ngoại giao chính phủ Vương quốc Nhân đạo, tuyên bố thành lập “Vương quốc Nhân đạo”, nói rằng lãnh thổ của nó nằm ở giữa quần đảo Đông Ấn và bán đảo Đông Dương. Theo ý trời, nước này nguyện giúp Đài Loan quan phục Đại lục,nhưng yêu cầu Đài Loan nhượng lại quần đảo Hoàng Sa để trả ơn v.v... Địa chỉ giao dịch là hộp thư 1094, Manila, Philippines. Phía Đài Loan không biết xử trí thế nào với việc này nhưng cũng không dám xem thường, chỉ thị cho Đại sứ quán ở Philippines điều tra nhưng không thu được kết quả gì. Ngày 7/7, Đài Loan lại nhận được thư, lần này là thư của Bộ trưởng Hành chính Vương quốc Nhân đạo Paul Williord, bức thư thậm chí còn đề cập đến việc mua đảo Hải Nam của Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, trên thị trường ở thành phố Manila xuất hiện số lượng lớn tem in phi pháp có chữ “Vương quốc Nhân đạo”, gây sự chú ý của cảnh sát Philippines. Sau khi cảnh sát Philippines điều tra không có kết quả bèn giao cho Cục Điều tra quốc gia tiếp nhận. Cuối cùng Cục Điều tra quốc gia đã lần theo dấu vết một lô bưu phẩm, đã bắt được một người tên là Morton F. Meads vào tháng 6/1955, và tìm thấy lượng lớn giấy chứng nhận, tem và bản đồ trong nhà ông ta. Trên bản đồ vẽ biên giới quốc gia của “Vương quốc Nhân đạo” có phạm vi chính là quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hóa ra Meads vốn là một mục sư người Mĩ từng tham gia quân đội, sau khi giải ngũ năm 1946 ở lại Manila. Ông ta nói rằng năm 1945 ông đi biển thám hiểm, khi đi biển Nam Trung Quốc phát hiện một loạt “đảo mới” không người, đặt tên chúng là Manity Island. Trong đó có một đảo lớn nhất được ông gọi là Amity Island. Ông còn nói trên những đảo này từng có một vị vua và bộ trưởng hành chính theo chính thể quân chủ lập hiến, mà ông ta chính là lãnh sự kiêm chuyên viên thương vụ do vua Willis Ryant bổ nhiệm, phụ trách giao thiệp với chính phủ nước ngoài, thiết lập quan hệ ngoại giao, đồng thời in ấn phát hành tem và tiền giấy... Một tường thuật khác của ông ta là ông cố nội của ông, James George Meads, một thuyền trưởng người Anh, trong những năm 1870 khi đi biển ở biển Đông đã “phát hiện” ra đảo không người ở đây và đã thành lập quốc gia. Ông là người thừa kế, nhưng do không đủ tuổi để quản trị, vì thế đã giao cho Ryant thế chỗ...</span><img height="265" src="https://lh3.googleusercontent.com/4Rlort6DjMMH7Sx2FO-x20jLLANslx0CvTyVhUs_UnnTnC8BOlMu03CvpWVfmhIFFl7YtkFUg9VxzIBV9Mm4Kp-W2EjRrO-qfNUsOvykh6x-Oj5x59oyTpgQCgk-XSYJ7zM0ZuH_r74KzVF87yxGleU" style="font-size: 11pt; margin-left: 0px; margin-top: 0px; text-align: center; white-space: pre-wrap;" width="438" /></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 24: Quốc kì của Vương quốc Nhân đạo (trái) và Lãnh thổ Tự do</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một sự kiện chưa từng có như vậy ngay lập tức trở thành tin nóng ở Manila. Để điều tra rõ về sự tồn tại của Vương quốc Nhân đạo này, vào tháng 6/1955 Philippines đã điều một toán không quân, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Godofredo Hernandez tiến hành trinh sát trên không 3 tuần ở quần đảo Trường Sa. Kết quả cho thấy toàn bộ quần đảo Trường Sa đều là các đảo không người, chỉ có trên đảo Ba Bình có bến thuyền, chỗ ở và công trình quân sự còn sót lại. Do đó, Philippines đi đến kết luận không hề có “Vương quốc Nhân đạo”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Meads lập tức bị Philippines khởi tố các tội danh gây rối loạn trật tự xã hội, phát tán ấn phẩm tạp nham và tranh chấp tài sản... Nhưng do tại tòa án Meads nói nhiều điều vô nghĩa, bị nhận định là tinh thần không bình thường, hoang tưởng, nên mọi cáo buộc đều không bị bác bỏ. Vương quốc Nhân đạo của Meads được xác nhận chỉ là một trò bịp bợm hoặc hoang tưởng, nhưng một lần nữa gây ra sự quan tâm của Philippines đối với quần đảo Trường Sa. Sau khi phái máy bay quân sự trinh sát dò tìm Trường Sa và xác nhận Trường Sa không có người, chính phủ Philippines tổ chức hội nghị bí mật. Có ý kiến cho rằng phải lập tức chiếm lấy, vì doanh trại trên đảo có thể sẽ bị những phần tử buôn lậu hay cộng sản dùng làm căn cứ. Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng Philippines Carlos P. Garcia đề nghị với Tổng thống Ramon del Fierro Magsaysay nhắc lại yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, Trung Hoa Dân Quốc đã nhận biết “lãnh thổ” của Vương quốc Nhân đạo trên thực tế là quần đảo Trường Sa, nên đã gửi công hàm cho Philippines, nhắc lại Trung Quốc có chủ quyền đối với “lãnh thổ” mà “Vương quốc Nhân đạo” chỉ ra. Vì thế Philippines không dám khinh suất hành động hấp tấp. Tháng 7/1955, Bộ Ngoại giao Philippines tuyên bố “Philippines thấy rằng Trung Quốc tuyên bố cái gọi là Vương quốc Nhân đạo là lãnh thổ Trung Quốc, chính phủ Philippines sẽ không cho phép hải quân Philippines đổ bộ lên những đảo này để thám hiểm nữa”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đài Loan cho rằng quần đảo Trường Sa “về mặt quân sự không có giá trị đối với việc phòng thủ Đài Loan và Bành Hồ” “tạm thời không phái quân đến chiếm đóng”, kiên trì giải quyết bằng phương thức ngoại giao.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, sự việc này tạm thời kết thúc một giai đoạn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ các lần bày tỏ thái độ của Philippines, có thể thấy rằng các tuyên bố của họ đều mang tính ngoại giao cao, nhiều nhất chỉ nói rằng “được biết” Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Trường Sa, nhưng chưa bao giờ thừa nhận đòi hỏi này. Còn việc không đưa ra hành động cũng chỉ có thể lí giải là cử chỉ tạm thời. Phong cách ngoại giao của Philippines rất mềm dẻo, địch tiến ta lùi, địch lui ta tiến, điều này thể hiện rõ trong vấn đề biển Đông. Vì Philippines đã hứa sẽ không phái hải quân đổ bộ nên chỉ có thể tìm cách khác. Thế là Tomas Cloma thừa dịp xuất hiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi được Philippines thả ra, Meads vẫn tiếp tục hoạt động. Được biết năm 1963, Vương quốc Nhân đạo cùng với một quốc gia tư nhân yêu sách quần đảo Trường Sa khác là Republic of Morac-Songhrati-Meads (nước Cộng hòa MSM) hợp lại làm một (cũng có thuyết là Vương quốc Nhân đạo chuyển đổi thành nước Cộng hòa MSM),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa. Cho đến đầu những năm 1970, Meads vẫn thay mặt nước Cộng hòa MSM liên tục gửi thư cho Đài Loan, Philippines, Việt Nam, Malaysia thậm chí Liên Hợp Quốc, không ngừng tuyên bố chủ quyền của mình đối với Trường Sa, nhưng những tuyên bố này vẫn chỉ nằm trên giấy. Thư ông ta gửi cho Malaysia đã gây sự chú ý của nước này, dẫn đến cuộc tranh chấp khác (xem IV.11). Cuối cùng, có tin cho rằng tất cả thành viên quan trọng của nước Cộng hòa MSM, ngoại trừ Meads, đều đã chết vào năm 1972 trên đường đi đến Manila do gặp bão làm đắm thuyền.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nước Cộng hòa MSM lúc này mới đi vào im lặng.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.2 Quốc gia Tự do (Freedomland) của Tomás Cloma và tranh chấp quần đảo Trường Sa giữa Đài Loan và Philippines</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cloma sinh năm 1904, khi trưởng thành ông vừa làm biên tập ở một tạp chí hải quân tại Manila vừa học luật. Cuối cùng vào năm 1941, ông lấy được giấy chứng nhận luật sư. Nhưng khi đó Nhật Bản đã tấn công chiếm đóng Philippines, nên kế hoạch ban đầu muốn trở thành luật sư của ông ta đã bị cắt ngang. Sau khi kinh doanh thành công một số vụ làm ăn nhỏ và tích lũy được một số vốn, ông ta bắt đầu đầu tư vốn vào ước mơ lúc thiếu thời của mình là thám hiểm biển. Sau chiến tranh, Philippines trăm thứ đều bị hư hại cần được sửa sang xây dựng lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1948, Cloma thành lập Học viện Hải dương Philippines (Philippines Maritime Institution, PMI), tự làm hiệu trưởng, chuyên đào tạo nhân viên hàng hải. Sau đó, học viện này trở thành cơ sở đào tạo nhân viên hàng hải lớn nhất của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ năm 1947, Cloma phái em trai là Filemon Cloma dẫn thuỷ thủ đi đánh cá ở khu vực phía Bắc Palawan. Sau khi sản lượng ở ngư trường lân cận giảm sút, Filemon Cloma tiếp tục đi về phía Tây tìm kiếm, và phát hiện một vùng biển lớn mà trước đó ông không biết đến, dày đặc đảo, đá, và có tài nguyên ngư nghiệp phong phú.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cloma rất thích thú đối với phát hiện này nên đã tự mình ra biển điều tra thăm dò, và phát hiện những đảo, đá này không có người ở, chỉ có công trình kiến trúc của quân Nhật để lại. Sau khi trở về Manila, Cloma rà soát bản đồ, phát hiện trên các bản đồ mà ông ta có thể tìm thấy đều không có đánh dấu khu vực này, liền cho rằng mình đã phát hiện ra quần đảo mới. Thực ra, đó chính là quần đảo Trường Sa. Sau đó, Cloma đi đến đó lần thứ hai, lần này ông ta mang theo máy quay phim, chụp ảnh và quay phim lại. Ông ta đã đổ bộ lên một số đảo ở đó, và cắm cờ của PMI trên đảo. Đồng thời ông cũng đặt tên những hòn đảo này là Vùng đất Tự do (Freedomland), theo phát âm trong tiếng Philippines (Karajaan) có thể dịch thành quần đảo Kalayaan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo ông, đây đều là những việc xảy ra năm 1947-49, khi đó ông ta còn để di dân lại trên đảo…. Nhưng thời gian và câu chuyện cụ thể thì rất khó để kiểm chứng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cloma từ đầu đến cuối đều tuyên bố mình đã phát hiện ra Vùng đất Tự do. Là một người có nhiều kinh nghiệm biên tập tạp chí ngành hàng hải và là hiệu trưởng của trường hàng hải, quả thực khó tưởng tượng ông ta lại không tìm ra những đảo này trên bản đồ, hơn nữa đã có công trình kiến trúc trên đảo thì chứng tỏ trước đó đã có người ở, lấy đâu ra chuyện “phát hiện mới”? Bất kể như thế nào, từ quá trình anh em Cloma tuyên bố “phát hiện” ngư trường mới này, có thể thấy rằng trước thời điểm đó, dù có người Philippines đánh cá ở đây, số lượng của họ cũng chắc chắn rất ít. Theo lời kể của ngư dân Trung Quốc, sau năm 1949 mới thấy có người Philippines đến Trường Sa đánh cá.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, có thể suy đoán rằng cho đến thời kì đầu sau chiến tranh không có nhiều người Philippines biết đến nơi này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc đầu, Cloma chỉ làm việc đánh cá ở Trường Sa, nhưng sau đó lại có ý nghĩ lớn lao hơn. Ở Manila, Cloma đã quen biết Garcia khi đó còn là nghị viên. Hai người là gốc cùng tỉnh, sau đó duy trì lâu dài sự đồng thuận ngầm trong vấn đề Trường Sa. Nhưng khi ông nói cho Garcia về “phát hiện” này và hỏi ý kiến của Garcia thì không nhận được nhiều sự khích lệ. Mãi đến năm 1953, sau khi trúng cử Phó Tổng thống kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Garcia mới liên kết việc Cloma phát hiện ra Kalayaan với việc yêu sách lãnh thổ của Philippines đối với Trường Sa. Chính phủ không tiện ra mặt, sao không để Cloma lấy danh nghĩa “tư nhân” chiếm trước ? Sự kiện Vương quốc Nhân đạo chính là một sự khởi đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 1/3/1956, Cloma chỉ huy một đội thám hiểm gồm 40 người đến thám hiểm quần đảo Trường Sa. Trước khi xuất phát, Garcia và một nhóm nghị viên phát biểu huênh hoang về việc này. Trong hành trình 38 ngày của Cloma sau đó, họ đã đổ bộ lên 9 đảo chính trong đó có đảo Ba Bình, đảo Trường Sa Lớn và đảo Thị Tứ, phá bỏ các cột mốc, dấu hiệu các công trình có trên đảo. Ngày 15/5, Cloma chính thức gửi thư cho Garcia, tuyên bố mình đã phát hiện một vùng đất ngoài lãnh hải Philippines, không thuộc lãnh thổ bất cứ nước nào. Đồng thời, ông ta còn gửi thư cho truyền thông, tuyên bố chủ quyền đối với vùng này: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">This claim is based on the right of discovery and/or occupation open, public and adverse as against the Whole World</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” (Tuyên bố này dựa trên quyền phát hiện và / hoặc chiếm đóng để mở, công khai và đối lập đối với toàn thế giới.)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sáu ngày sau, ông ta còn tổ chức Hội nghị thông báo lần thứ hai, tuyên bố tên nước là “Lãnh thổ Tự do Freedomland” (The Free Territory Freedomland).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó quân đội Quốc Dân Đảng đã rút khỏi quần đảo Trường Sa, nên không hề biết rõ tình hình việc Cloma đến Trường Sa. Mãi đến sau khi Cloma trở lại Philippines và tổ chức Hội nghị thông báo lần thứ nhất thì Đại sứ quán Đài Loan tại Philippines mới đề cao cảnh giác, báo cáo với Bộ Ngoại giao về việc này. Điện trả lời của Bộ Ngoại giao chỉ thị phải tỏ rõ lập trường với báo chí Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22/5, Cloma gửi công hàm cho Đại sứ Đài Loan tại Philippines Trần Chi Mại để thông báo việc này. Ngay hôm đó, Bộ trưởng Bộ Nội chính Đài Loan Vương Đức Truyền ra tuyên bố: quần đảo này là “một bộ phận của Trung Hoa Dân Quốc”, liệt kê các lí do của phía Trung Quốc: (1) Ngư dân Hải Nam đã đến cư trú và đánh cá từ lâu; (2) Trong hành trình đi phương Tây, Trịnh Hòa từng đến các đảo này; (3) Trong Thế chiến thứ hai Nhật Bản đã sáp nhập chúng vào Đài Loan, và sau Thế chiến thứ hai Trung Quốc đã phái người đến thu hồi; (4) Năm 1949, Đặc Khu hành chính Hải Nam được thành lập, những đảo này được đặt dưới quyền quản lí của Hải Nam; (5) Năm 1950, do tiếp tế khó khăn nên quân lính đóng giữ đã rút đi, nhưng điều này không có nghĩa là Trung Quốc từ bỏ những đảo này, quân lính đóng giữ đã treo cờ trên đảo trước khi rời đi. Vì vậy, những đảo này “bất kể về lịch sử, về địa lí, về pháp lí hay về thực tế, đều là một phần lãnh thổ vốn của nước chúng tôi”, yêu cầu Philippines phải tôn trọng chủ quyền Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng ngày, Đại sứ quán Đài Loan tại Philippines ra thông báo, nhắc lại chủ quyền của Đài Loan đối với Nam Sa (Trường Sa).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 23, Đại sứ quán Đài Loan tại Philippines chính thức kháng nghị Philippines và viện dẫn thêm một số lí do: (1) Thư tịch hàng hải của Anh năm 1912 có nói đến di dân Trung Quốc trên đảo, năm 1918 người Nhật cũng nói đến người Trung Quốc cư trú trên đảo; (2) Hiệp ước Trung-Pháp năm 1887 phân định Nam Sa thuộc Trung Quốc; (3) Sau Thế chiến thứ hai Trung Quốc thu hồi quần đảo Nam Sa; (4) Hòa ước San Francisco và Hòa ước Trung-Nhật đều đã phân định Nam Sa thuộc Trung Quốc. Do đó, Nam Sa không phải đảo vô chủ cũng không phải đảo chưa từng được phát hiện. Giống như trong lãnh thổ Philippines có rất nhiều đảo không có người cư trú, hiện nay ở Nam Sa không có người cư trú không đồng nghĩa với Trung Quốc không có chủ quyền.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, giống như trước đây Philippines vẫn như múa thái cực quyền về phạm vi địa lí của “quần đảo Trường Sa”. Garcia nói: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan sát sơ bộ, các đảo Cloma đề cập đến dường như không trong phạm vi Trường Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, yêu cầu Đài Loan cho xem bản đồ và so sánh với bản đồ của Philippines, đồng thời đề nghị Đài Loạn có thể phái người cùng Cloma đến đó kiểm chứng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong một tuần sau đó, hai nước Đài Loan và Philippines tiếp tục trao đổi, Đài Loan yêu cầu nhân viên Philippines rút khỏi Trường Sa. Ngày 28/5, Ngoại trưởng Đài Loan Diệp Công Chiêu triệu tập Đại sứ Philippines tại Đài Loan Remus, báo cho ông ta biết Bộ Quốc phòng Đài Loan có kế hoạch phái hải quân tuần tra đóng giữ ở đó, nhưng Bộ Ngoại giao cho rằng để tránh tranh chấp vô nghĩa giữa Đài Loan và Philippines, vẫn hi vọng vào cách giải quyết hòa bình, đồng thời để cho Trịnh Tư Ước giải thích ngay trước mặt ông ta vị trí của quần đảo Trường Sa trên bản đồ Trung Quốc. Remus lập luận rằng Cloma chỉ là hiệu trưởng của trường hàng hải thương mại tư nhân, mục đích của ông ấy chỉ là tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực tập kĩ thuật hàng hải cũng như các hành vi thu hút của nhà mạo hiểm. Bản thân ông cũng không tán thành thái độ của Ngoại trưởng Garcia, và sẽ báo cáo việc này với Tổng thống Magsaysay...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phía Philippines không đưa ra câu trả lời rõ ràng, và một số báo Philippines đưa tin Filemon Cloma vẫn chỉ huy 29 người trú đóng ở đảo Ba Bình. Ngày 30/5, Bắc Kinh ra tuyên bố về việc này, khẳng định quần đảo Nam Sa thuộc Bắc Kinh. Thế là ngày 31/5, Diệp Công Chiêu lại triệu tập Remus lần thứ hai, yêu cầu Philippines: (1) Công khai thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Nam Sa; (2) Ra lệnh cho đám người Cloma phải lập tức rời khỏi Nam Sa, trừ phi được chính phủ Trung Quốc cho phép; (3) Nếu đám người Cloma không rút lui, chính phủ Philippines phải tuyên bố công khai rằng nếu sau này xảy ra hậu quả nghiêm trọng, chính phủ Philippines không dành cho bất cứ sự bảo vệ nào. Ông cũng nói với phía Philippines rằng sau khi Cộng sản Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với Nam Sa, tàu chiến Đài Loan không thể không lên đường đi đến Nam Sa, hơn nữa Đài Loan còn uỷ thác Trung tướng hải quân Mĩ Brooke Ingersoll sắp đến thăm Philippines trực tiếp giải thích tình hình với Tổng thống Magsaysay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sau khi hai bộ Quốc phòng và Ngoại giao họp, phía Philippines có kết luận ngược lại: các đảo của Lãnh thổ Tự do Freedomland không thuộc bất cứ nước nào, cũng không thuộc quần đảo Trường Sa, dự định kiến nghị chính phủ Philippines đưa vào bản đồ; vả lại hành vi của Cloma là hành vi tư nhân, không đại diện cho chính phủ Philippines; Philippines không có ý tranh đoạt lãnh thổ với Đài Loan, nay chỉ có thể tạm thời ngăn không cho người tiếp tục đến đó, đối với những người đã ở đó thì hi vọng Mĩ sẽ đứng ra hòa giải dùm...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ở đây Philippines tiếp tục chơi trò mập mờ với nghĩa của phạm vi địa lí, dùng Spratly Island (đảo Trường Sa) chứ không phải là Spratly Islands (quần đảo Trường Sa). Tên trước chỉ để chỉ đảo Trường Sa Lớn ở phía Tây, không nằm trong quần đảo Kalayaan. Còn tên Spratly Islands mà Đài Loan nói đến chỉ là các đảo nhỏ phụ cận đảo Trường Sa Lớn chứ không phải là toàn bộ quần đảo Trường Sa. Philippines không chịu đưa ra bất cứ tuyên bố nào theo yêu cầu của Đài Loan.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 31/5, sau hơn 2 giờ hội đàm giữa Trần Chi Mại và Garcia, cuối cùng Garcia đã hiểu rõ và thừa nhận yêu sách quần đảo Trường Sa của Đài Loan không giới hạn ở đảo Nam Uy (Trường Sa Lớn) mà bao gồm Lãnh thổ Tự do của Cloma. Nhưng Garcia cho rằng sau khi Cộng sản Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, vấn đề trở nên phức tạp, cần phải giải quyết nhanh chóng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ông ta đề nghị mời Mĩ và các nước bạn bè làm trung gian hòa giải, để ngăn các nước cộng sản lợi dụng. </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả hai bên đều cố gắng giữ im lặng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn Cloma thì cử nhân viên ở lại trên đảo Ba Bình, nhưng ra lệnh cho họ không được thực hiện hành vi xâm chiếm thêm nữa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này tương đương với việc để cho sự chiếm đóng của Croma giữ nguyên hiện trạng, Đài Loan hiển nhiên khó đáp ứng yêu cầu này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Cloma thì chủ trương có thể từ bỏ Spratly Island (đảo Trường Sa Lớn) trước tuyên bố chủ quyền của chính phủ Trung Quốc. Đại biện Mĩ tại Philippines thì bày tỏ với Đại sứ Đài Loan tại Philippines rằng “Mĩ chưa bao giờ thừa nhận chủ quyền của bất cứ nước nào đối với quần đảo Trường Sa”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thủ đoạn khác được Philippines sử dụng là tuyên bố đã phát hiện quân cộng sản ở quần đảo Trường Sa, để đề phòng “cộng phỉ lén chiếm”, Philippines không thể không để ý nhiều đến Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi thấy Bắc Kinh đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và giao thiệp với Philippines khó đạt hiệu quả, Đài Loan cũng thay đổi chính sách, tiến hành chuẩn bị về hai mặt ngoại giao và quân sự. Đài Loan tiếp tục giao thiệp với Philippines, kiên trì quan điểm quần đảo Nam Sa thuộc Dân Quốc, từ chối đề nghị của Philippines nhờ Mĩ hòa giải; đồng thời nói rõ với Đại sứ Mĩ tại Đài Loan Karl L. Rankin (Lam Khâm), sẽ kiên trì yêu sách của Dân Quốc đối với quần đảo Nam Sa, không bao giờ xem xét đến bất cứ sự hòa giải hay nhượng bộ nào, nhưng hi vọng Mĩ tiến hành hòa giải. Đại sứ Rankin bày tỏ: (1) Mĩ cho rằng chủ quyền quần đảo Trường Sa chưa rõ ràng; (2) Mĩ không có ý định can dự vào trong cuộc tranh chấp này trong bất cứ tình huống nào, kể cả tiến hành hòa giải về ngoại giao. Ông cũng nói rằng theo phán đoán của Mĩ, tạm thời không có dấu vết của quân cộng sản ở Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi có được sự bảo đảm của Mĩ, Diệp Công Chiêu hẹn gặp Remus lần nữa, ngoài việc bày tỏ một lần nữa rằng chủ quyền Trường Sa thuộc Trung Quốc, ông còn đưa ra kiến nghị mới: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> không yêu cầu Philippines thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa, chỉ yêu cầu Philippines nói rõ với bên ngoài rằng các tuyên bố về ý đồ của Philippines đều bị truyền đạt sai; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có thể tiến hành thương lượng việc khai thác kinh tế trên quần đảo này và đề phòng cộng phỉ lén chiếm. Remus không hề có biểu thị mang tính thực chất nào, ngoài việc bày tỏ rằng đã phản ánh yêu cầu của Trung Hoa trước đó với cấp trên và nhắc lại ý kiến cá nhân mình rằng Cloma là kẻ liều lĩnh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều Mĩ quan tâm là sự thâm nhập của cộng sản ở biển Đông, và giữ thái độ “ trung lập tiêu cực” đối với các tranh chấp lãnh thổ giữa mấy nước đồng minh này. Trong một tài liệu ngày 26/6/1956 đã giải mật cho thấy khi đó máy bay trinh sát của Mĩ thường xuyên tuần tra trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa mỗi tuần một lần, biết rõ động tĩnh của hai quần đảo này như lòng bàn tay. Báo cáo này miêu tả trong cuộc tuần tra ngày 21/6 thấy có cờ của “Lãnh thổ Tự do” trên đảo Ba Bình, nhưng không thấy có người. Mĩ cũng được biết Đài Loan muốn thực hiện hành động đổ bộ nhưng không ngăn cản, chỉ lo xung đột sẽ nảy sinh giữa Việt Nam, Philippines và Đài Loan, ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị giữa các bên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ này khiến Đài Loan hạ quyết tâm xua quân xuống biển Đông, chiếm đóng lại Trường Sa, suy cho cùng việc đóng quân là bằng chứng tốt nhất cho thấy chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Trung Quốc cũng như có quyền quản lí và về chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Từ 1/6 đến 24/9, Đài Loan lần lượt phái 3 đơn vị bộ đội đặc nhiệm đến Trường Sa. Đơn vị thứ nhất do Trung tướng Lê Ngọc Tỉ chỉ huy với hai chiếc tàu chiến “Thái Bình” và “Thái Thương” ngày 1/6 tổ hợp thành đội Lập Uy, ngày 5/6 đến đảo Ba Bình, do sóng to gió lớn, mãi đến ngày 7/6 mới đổ bộ lên đảo treo cờ. Trên đảo Ba Bình, sĩ quan và binh lính cũng phát hiện trong thời gian từ 1950 đến 1956 có nhiều đội tàu nước ngoài đến đảo này có để lại dấu tích, cụ thể có Lưu Cầu (20 lần), Philippines (4 lần), các nước khác (10 lần). Ngày 9/6, đội tàu đến đảo Trường Sa Lớn dựng bia, treo cờ, ngày 11 đến đảo Bến Lạc/Dừa (Tây Nguyệt), ngày 14 trở về Đài Loan. Trên đường đi, đội tàu còn qua một số đảo, đá khác, nhưng không phát hiện người của Cloma, mà phát hiện phần lớn bia đá của Trung Quốc dựng trước đó đã bị phá hoại, và thấy có các tiêu vật đánh dấu của người Philippines để lại, họ đã xóa bỏ hết các tiêu vật này. Trong toàn bộ hành trình, đội tàu Trung Quốc nhiều lần gặp tàu và máy bay Mĩ tuần tra ở khu vực Trường Sa thậm chí trên bầu trời đảo Ba Bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian này, việc xử trí quần đảo Trường Sa của Đài Loan đã kiên quyết không còn tùy tiện như năm 1946. Ngày 1/6, một “nước bạn bè” khác là Việt Nam Cộng hòa cũng tuyên bố có chủ quyền đối với Trường Sa, tình hình diễn biến phức tạp. Đài Loan phải chú ý đến quan hệ giữa Đài Loan, Philippines, Việt Nam và Mĩ. Vì vậy, ngay cả đến Trường Sa “tuần tra”, họ cũng phải tìm một cái cớ khác. Ví dụ Diệp Công Chiêu giải thích với Remus rằng hai tàu chiến Đài Loan ban đầu định đến Đông Sa, nhưng được biết Cloma không ở đảo Thái Bình mới “ra lệnh riêng cho hai tàu thuận đường đi xuống phía Nam, tiến hành tuần tra bình thường ở quần đảo Nam Sa”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đài Loan muốn thiết lập lại căn cứ trên đảo Ba Bình, cũng phải đề nghị trước với Đại sứ Mĩ tại Đài Loan, nói rằng “đã phát hiện công trình kiến trúc trên đảo Thái Bình có biểu ngữ của cộng sản, chứng tỏ đám cộng phỉ Trung Quốc hoặc nhân viên cộng sản Philippines từng lén đến đảo này”, đồng thời cho rằng “nếu cộng phỉ lén chiếm hoặc kiểm soát Nam Sa, điều đó ảnh hưởng đến tự do của vùng biển quốc tế khu vực này, cũng như an ninh của Philippines và Việt Nam”; tháng 11/1955 Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế đề nghị Đài Loan xây dựng trạm đo đạc khí tượng trên đảo Thái Bình... (xem IV.13) Đài Loan cũng dùng đó làm như một cái cớ để nhờ hải quân Mĩ giúp đỡ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào lúc Đài Loan tuần tra Trường Sa lần thứ nhất, ba bên Đài Loan, Mĩ, Philippines đang hòa giải ngoại giao, Cloma lại có hành động mới. Ngày 10/6, Cloma chỉ huy một số người xuất phát từ Manila, tiến hành chuyến đi thứ hai tới Trường Sa. đã đến các đảo chính của Trường Sa, trừ đảo Trường Sa Lớn. Đoàn của ông ta không gặp đội đặc phái của Đài Loan. Họ đã đổ bộ lên đảo Ba Bình, hạ cờ Trung Hoa Dân Quốc mà quân Đài Loan mới treo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22/6, sau khi quay về Philippines, ông gửi thư cho Đại sứ Đài Loan tại Philippines Trần Chi Mại thông báo hành động này và tuyên bố đã đổi tên quần đảo Trường Sa thành “Quần đảo Lãnh thổ Tự do”, đồng thời cử người tới trú đóng trên đảo Ba Bình, lập trạm vô tuyến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong ngoài phối hợp, Garcia nhận cơ hội đề nghị Tổng thống Magsaysay thúc giục chính phủ Philippines ủng hộ yêu cầu của Cloma. Cố vấn pháp luật của Bộ Ngoại giao Philippines đề xuất: “Quần đảo Lãnh thổ Tự do” trước đây chưa từng được khảo sát, không thuộc bất cứ nước nào, chính phủ Philippines có quyền yêu sách chủ quyền với chúng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao thì đề xuất: “Quần đảo Lãnh thổ Tự do” nên đặt dưới sự uỷ trị của Liên Hợp Quốc, và Philippines nên là nước được uỷ trị.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tổng thống Magsaysay bày tỏ thái độ không rõ ràng, cho rằng trước hết cần phải nghiên cứu hết sức tỉ mỉ rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng ông cũng không can thiệp vào hành động của Garcia và Cloma. Rõ ràng, Magsaysay dù không ủng hộ mạnh mẽ việc này, ít nhất cũng ngầm đồng ý, việc ông ta không bày tỏ thái độ rõ ràng chỉ là một nhu cầu về ngoại giao mà thôi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có sự ủng hộ của Garcia, Cloma gây hấn thêm một bước. Ngày 27/6, ông ta tuyên bố gửi trả quốc kì Đài Loan cho phía Philippines hoặc Đại sứ Đài Loan tại Philippines. Đại sứ Trần Chi Mại sau khi biết chuyện đã rất tức giận, yêu cầu chính phủ Philippines thu lấy quốc kì từ tay Cloma rồi trịnh trọng giao trả cho Đài Loan. Garcia trả lời rằng sự kiện quốc kì là sự kiện ngoài ý muốn và chưa được sự đồng ý của chính phủ Philippines, trước đó chính phủ Philippines cũng không biết, cho nên không có dính dáng gì với chính phủ Philippines; và phía Philippines đã cảnh cáo Cloma không được thực hiện hành động mang tính chính trị. Vì vậy, Bộ Ngoại giao Philippines đã có thái độ không can thiệp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Qua nhiều trắc trở, cuối cùng Trần Chi Mại có thể trực tiếp hội kiến Tổng thống Magsaysay. Magasaysay nói đùa rằng Cloma đáng bị xử bắn vì quậy phá, nếu như Đài Loan cần người thì có thể tặng cho. Trần Chi Mại yêu cầu Magsaysay ra một bản tuyên bố công khai về việc này, Magsaysay thì đùn đẩy rằng đã giao cho cố vấn Bộ Ngoại giao là Neri khởi thảo, yêu cầu Trần Chi Mại đợi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày hôm sau, Trần Chi Mại hẹn gặp Neri nhưng Neri bảo ông ta rằng phần lớn người trong chính phủ Philippines đều không ủng hộ Garcia, nhưng hiện tại Garcia lại ủng hộ Cloma, ngay cả Magsaysay cũng không thể làm Garcia quá mất mặt. Ông ta kiến nghị Đài Loan nên nhượng bộ Philippines một số về mặt ngoại giao để quy công cho Garcia, như vậy mới không khiến Garcia hoàn toàn mất thể diện. Ví dụ, nếu Đài Loan có thể chấp nhận vụ “du khách quá hạn”, thì đó cũng coi như là một biện pháp. Cái gọi là “du khách quá hạn” là vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ Đài Loan và Philippines khi đó. Trong nội chiến ở Trung Quốc, một số lượng lớn người Trung Quốc chạy ra nước ngoài qua ngã Hồng Kông và Ma Cao. Có khoảng 3000 nạn dân đến Philippines, được Philippines cho nhập cảnh với thân phận “du khách tạm thời”. Năm 1950, Philippines đã cấm họ xin gia hạn. Nhưng nếu họ muốn hồi hương thì không có nơi nào nhận. Hồng Kông cho rằng họ chỉ lấy Hồng Kông làm điểm trung chuyển, không phải người Hồng Kông. Nhưng Philippines và Trung Quốc Đại lục không có quan hệ ngoại giao, cho nên chỉ có thể yêu cầu Đài Loan tiếp nhận. Tuy nhiên, vì số lượng người quá lớn nên Đài Loan cũng không muốn tiếp nhận, cho rằng nên để toàn bộ bọn họ ở lại Philippines. Hai bên liên tục đàm phán về vấn đề này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với Đài Loan, việc này quan trọng hơn việc ở Trường Sa nhiều, không thể nhân nhượng ngay. Vì vậy, đề nghị này cũng không thể chấp nhận được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, Philippines chỉ sắp xếp để Cloma đến Đại sứ quán Đài Loan trả lại quốc kì ngày 7/7, quan chức Philippines đều không có mặt. Cloma biện bạch rằng khi đó ông ta thấy quốc kì rơi nằm trên mặt đất, sợ tổn hại sự tôn nghiêm của Trung Quốc, do đó đã nhặt mang về trả lại cho Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong khi một ngày trước đó, Cloma đã chính thức tuyên bố thành lập một chính phủ dân chủ ở Lãnh thổ Tự do, và đã bổ nhiệm một loạt “bộ trưởng”. Đồng thời tuyên bố pháp luật của nó nếu không có quy định gì thêm, sẽ giống với pháp luật của Philippines, và khẩn thiết yêu cầu Philippines giữ vai trò nước bảo hộ của Lãnh thổ Tự do. Ngày 20/7, Cloma tuyên bố chuyển “thủ đô” đến Manila. Đối với việc này, Chính phủ Philippines không ủng hộ cũng không phản đối. Tuyên bố mà Magsaysay đã hứa sẽ có cũng không hề thấy đưa ra.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, Cloma bắt đầu triển khai chuyến đi khắp thế giới, tuyên truyền về Lãnh thổ Tự do của ông ta tại Hồng Kông, New York… Ngoài việc gửi thư cho chính phủ các nước, ông còn nộp đơn cho Liên Hợp Quốc, yêu cầu đưa Lãnh thổ Tự do vào hồ sơ Liên Hợp Quốc, đồng thời tuyên bố muốn phát triển thành nơi an trí cho nạn nhân của các nước cộng sản. Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc không nhận đơn của ông ta.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian này, đội đặc phái đơn vị thứ hai do Thượng tá Tạ Quán Niên chỉ huy, với 3 tàu chiến là Thái Khang, Thái Chiêu và Trung Triệu hợp thành đội Uy Viễn, ngày 29/6 rời Đài Loan, ngày 11/7 đến đảo Thái Bình. Trên đảo Thái Bình họ dựng quốc kì, lại phát hiện một số vật phẩm mới do người của Cloma để lại. Đội đặc phái này để lại một bộ phận nhân viên trú đóng trên đảo. Những nhân viên còn lại tiếp tục tuần tra và đã đổ bộ lên đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt), đảo Sơn Ca (bãi Đôn Khiêm), đảo Nam Yết (Hồng Hưu), đảo Trường Sa Lớn ( Nam Uy), đảo Loại Ta (Nam Thược), đảo Song Tử Tây (đá Nam Tử) và đảo Song Tử Đông (đá Bắc Tử). Điều kì lạ là lần tuần tra này phát hiện 7 biểu ngữ của “cộng phỉ” (bao gồm “Mao chủ tịch muôn năm”, “Giải phóng Đài Loan đánh đổ năm đại gia tộc”...)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn có 6 biểu ngữ tiếng Pháp, không biết do ai để lại. Cuối cùng, ngày 29/7 đội quay về Đài Loan. Quân đóng trên đảo Ba Bình thành lập Bộ Chỉ huy phòng thủ Trường Sa,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ đó Đài Loan tiếp tục đóng quân trên đảo Ba Bình trì đến nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đội đặc phái đơn vị thứ ba là “đội Ninh Viễn”, ngày 24/9 xuất phát, tuần tra lần lượt các đảo nói trên theo hai tiền lệ trước đó. Thành quả lớn nhất của lần này là phát hiện tàu của Filemon Cloma (PMI IV) ở gần đảo Song Tử Đông, đó trở thành cuộc chạm trán đầu tiên giữa Dân Quốc và Philippines ở biển Đông. Thượng tá Hồ Gia Hằng lập tức chặn tàu của Philippines lại và mời Filemon Cloma lên tàu của mình. Cuộc “thẩm vấn” diễn ra trong “bầu không khí cực kì thân thiện”. Filemon Cloma thừa nhận hoạt động của mình ở quần đảo Trường Sa là hành vi tư nhân, bọn họ liên tục đánh cá ở Trường Sa, vì trục trặc máy móc mà dừng lại gần đảo Song Tử Đông. Cuối cùng, quan quân Đài Loan mời họ cơm tối, sau khi kiểm tra tàu và tịch thu vũ khí, buộc Filemon Cloma kí giấy cam kết không xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc nữa mới để tàu rời đi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi biết được việc này, Cloma kháng nghị sứ quán Dân Quốc rằng: “Chúng tôi khó tin Trung Hoa Dân Quốc sẽ áp dụng chính sách đối phó cứng rắn tương tự trong cuộc chiến tranh mà họ tự gọi là chống cộng”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông ta còn tuyên bố Lãnh thổ Tự do bước vào tình trạng khẩn cấp. Đài Loan thì vẫn theo kênh ngoại giao, thông qua Philippines trả lại vũ khí thu được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, Cloma tiếp tục bôn ba cho Lãnh thổ TTự do. Lúc này, do có tin Đài Loan chuẩn bị khai thác quần đảo Trường Sa (xem IV.6), Cloma cũng gấp rút hành động. Ông ta gửi thư cho Lãnh sự quán Đài Loan tại Philippines, tuyên bố rằng mình đã khai thác tài nguyên phốt phát ở Trường Sa, cũng đã nộp đơn xin phép chính phủ Philippines và đang đàm phán với các chủ mua Nhật Bản, New Zealand... các việc sau trên thực tế đều là kế hoạch xa vời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 2/1957, sau khi trải qua một thời gian yên tĩnh, Garcia lấy tư cách Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng, gửi cho Cloma một bức công hàm, trả lời tường tận đơn khai thác phốt phát ở Lãnh thổ Tự do của Cloma. Công hàm đã cho thấy cách nhìn của chính phủ Philippines đối với Trường Sa:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đã nhận được thư của ông đề ngày 14/12/1956 gửi cho Tổng thống Magsaysay liên quan đến hoạt động khai khoáng của ông ở Lãnh thổ Tự do bao gồm một số đảo của cái gọi là quần đảo Spratly. Theo Bộ Ngoại giao, Bộ coi những đảo, đảo nhỏ, bãi cạn và bãi cát này, bao gồm “Lãnh thổ Tự do” mà ông nói đến, ngoài 7 đảo thuộc “quần đảo Trường Sa”, đều là đảo vô chủ, trong đó có một số mới nổi lên mặt nước, ngoài một số trong bản đồ thế giới đánh dấu là chưa đưa vào hải đồ và sự tồn tại của chúng còn nghi vấn, chúng đều chưa bị chiếm, không có người cư trú, nói cách khác, điều đó tương đương với việc nói rằng chúng đều có thể được người dân Philippines khai thác kinh tế và di cư đến. Trước khi có bất kì quốc gia nào thiết lập chủ quyền độc quyền đối với các đảo này theo các nguyên tắc được luật pháp quốc tế công nhận, và chưa có được sự công nhận của quốc tế, thì công dân Philippines có quyền tiến hành các hoạt động như vậy như bất kì quốc gia nào khác theo luật pháp quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với 7 hòn đảo được quốc tế gọi là quần đảo Trường Sa, theo Hòa ước San Francisco kí kết với Nhật ngày 8/9/1951, chính phủ Philippines cho rằng những đảo này là nằm dưới sự uỷ trị trên thực tế của Đồng minh chiến thắng trong Thế chiến thứ hai, bởi vì trong hòa ước này, Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi và yêu sách đối với các đảo này, mà cho đến nay, Đồng minh chưa có đưa ra cách xử lí lãnh thổ nào liên quan đến chúng. Vì vậy, chỉ cần quần đảo này vẫn ở trong trạng thái này thì công dân của bất cứ nước Đồng minh nào, dựa trên sự bình đẳng về cơ hội và đối xử liên quan đến kinh tế xã hội và thương mại, đều có thể tiến hành khai thác kinh tế và di dân đến ở các đảo này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines là nước Đồng minh đánh bại Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai, và cũng là một trong những nước kí kết Hòa ước với Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét về vị trí địa lí của những đảo và đảo nhỏ bao gồm trong Lãnh thổ Tự do, nằm gần sát biên giới phía Tây Philippines, chúng có quan hệ về lịch sử và địa lí với các đảo của Philippines, và có giá trị chiến lược to lớn đối với quốc phòng và an ninh nước ta, chưa nói đến giá trị kinh tế tiềm tàng trong các lĩnh vực khai thác ngư nghiệp, san hô và hải sản cũng như phốt phát, chỉ cần công dân Philippines tiến hành theo đuổi công việc của họ hợp pháp thì chính phủ Philippines sẽ không thờ ơ đối với việc nhân dân Philippines tiến hành khai thác kinh tế và di dân ở những hòn đảo không có người ở và chiếm đóng này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đài Loan nhanh chóng phản đối và bác bỏ thuyết về uỷ trị và đảo vô chủ. Lúc này Garcia lại diễn lại trò cũ, đầu tiên cho rằng đây là nội dung trong báo cáo gửi cho tổng thống của Bộ Ngoại giao hồi tháng 6 năm trước, và trước đó đã liên lạc với Đài Loan và tuyên bố nhiều lần rằng nội dung này không thể hiện thái độ của chính phủ Philippines, và thái độ cuối cùng vẫn là do tổng thống quyết định. Trần Chi Mại truy hỏi và nói bức thư này là đại diện sự trả lời của Tổng thống, vì vậy có khác với trước đây. Garcia giải thích rằng dù sự việc tuy như vậy nhưng tuyệt đối không đại diện cho ý kiến của Tổng thống. Cần phải cố hết sức tránh xung đột Đài Loan và Philippines, chính phủ Philippines có thể hỏi ý kiến Cloma về việc có thể hợp tác với Đài Loan để khai thác tài nguyên ở Trường Sa hay không...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đài Loan tuyên bố rằng chỉ sau khi thừa nhận chủ quyền của Đài Loan đối với Trường Sa thì mới có thể bàn bạc vấn đề hợp tác. Tuy nhiên, Garcia lại một lần thể hiện thủ đoạn ngoại giao khéo léo, nhanh chóng tổ chức họp báo vào ngày 23/2, tuyên bố quần đảo Trường Sa không thuộc sở hữu của bất cứ quốc gia nào, bất cứ nước Đồng minh chiến thắng Nhật Bản nào cũng đều có quyền tiến hành khai thác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Garcia cũng rất có thủ đoạn trong giao thiệp với người Trung Quốc, ví dụ ông ta từng chủ động tiết lộ với quan chức ngoại giao Đài Loan rằng trong sự kiện này việc ông ủng hộ Cloma là bất đắc dĩ, vì ông và Cloma là đồng hương, ban đầu cũng đã đầu tư vốn cho công ti Trường Sa của Cloma, nếu như từ chối Cloma, bản thân cũng sẽ mất vốn... Những lời nói thiếu cân phân này, về mặt ngoại giao có thể coi là trò cười, nhưng lại chiếm được cảm tình của nhân viên ngoại giao Đài Loan, trong điện văn của họ không thiếu lời biện hộ cho Garcia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Garcia cũng rất khéo léo khi chọn thời điểm này để ra tuyên bố vừa chính thức vừa phi chính thức Khi đó Magsaysay vẫn còn tại vị, Garcia có thể chối rằng đó không phải là quyết định cuối cùng của chính phủ. Một tháng sau, Tổng thống Magsaysay mất vì tai nạn máy bay. Garcia trong tư cách Phó Tổng thống lên thay thế. Khi lên làm Tổng thống, ông ta ngược lại không mạnh dạn tích cực như vậy. Rõ ràng là ông ta biết rằng nếu lên tiếng với tư cách Tổng thống thì khó có thể rút lại về mặt ngoại giao. Mặc dù trong vấn đề Trường Sa, Garcia liên tục có vướng mắc với Đài Loan, nhưng sau khi Garcia trúng cử Tổng thống lại có quan hệ tốt đẹp với Đài Loan. Năm 1960, Garcia đến thăm Đài Loan, trở thành nguyên thủ quốc gia đầu tiên đến thăm Đài Loan với tư cách quốc khách quý báu. Điều này, với Đài Loan đang cần sự thừa nhận của quốc tế, đương nhiên là một sự kiện lớn vô cùng “hãnh diện”. Đài Loan dành sự khoản đãi với nghi thức rất long trọng, động viên số người xếp hàng hai bên đường đón tiếp lên đến cả chục ngàn người, các bên khen ngợi hết lời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, con người Garcia này thực sự giỏi chờ thời cơ để hành động, giỏi ra quyết định, thủ đoạn ngoại giao cực kì thông minh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, Cloma vẫn tiếp tục hoạt động ở Trường Sa. Vào ngày 5/7/1965, Cloma chỉ huy người đổ bộ lên đảo Song Tử Tây, Đài Loan sau khi biết được qua tin tình báo, đã tiến hành phản đối, nhưng chẳng ích gì. Trường Sa quá lớn để có thể phòng chống, Đài Loan cơ bản không thể ngăn chặn được hoạt động của Cloma. Cloma còn liên hệ với Hội xã thương mại Đông Dương của Nhật Bản để chuẩn bị cùng khai thác tài nguyên phốt phát ở Trường Sa. Ông cũng kêu gọi cần phải đặt quần đảo Trường Sa dưới sự uỷ trị của Liên Hợp Quốc, và Mĩ cần phải can dự, thậm chí còn phản đối với truyền thông rằng tàu chiến Đài Loan “Trường Giang Luân” “xâm nhập” Lãnh thổ Tự do. Tóm lại, Cloma luôn có thể tìm đến “điểm nóng” của truyền thông, khiến cơ quan ngoại giao Đài Loan mệt mỏi trong ứng phó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tàu cá Philippines đánh cá ở Trường Sa cũng trở thành trạng thái bình thường.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hơn nữa, dưới sự thúc đẩy của Garcia, quan hệ Đài Loan và Philippines bước vào thời kì trăng mật, Đài Loan cũng không muốn rắc rối với Philippines trong vấn đề Trường Sa. Vì vậy, trong những năm 1960, các hoạt động của người Philippines ở Trường Sa dần trở thành "trạng thái bình thường mới".</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.3 Anh từ bỏ Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra, tình hình ở Đông Á ngày càng trở nên căng thẳng. Pháp liên tiếp bị thất bại ở Đông Dương, đặc biệt là thất bại lớn ở Điện Biên Phủ, vì vậy phụ thuộc nghiêm trọng vào viện trợ của Mĩ. Còn Anh thậm chí còn có kế hoạch sử dụng Hoàng Sa do Pháp kiểm soát làm căn cứ rút lui nếu Trung Quốc xâm lược Hồng Kông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, Anh, Mĩ và Pháp ngày càng cần một chính sách chung về châu Á. Hoa Kì cũng đã bắt đầu can dự sâu hơn vào các vấn đề biển Đông. Nhưng đến năm 1954, tình hình có xu hướng hòa dịu, Triều Tiên kí kết hiệp định đình chiến; Việt Nam kí “Hiệp định Geneva”. Pháp cuối cùng muốn rút khỏi Việt Nam, Mĩ bắt đầu chấn chỉnh lại sự bố trí ở biển Đông. Tháng 9/1954, Mĩ và các nước Đông Nam Á kí “Hiệp ước Manila” (Manila Act), thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO). Các nước kí Hiệp ước gồm có: Úc, Pháp, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan, Anh và Mĩ. Hiệp ước quy định nghĩa vụ phòng thủ tập thể giữa các nước kí Hiệp ước. Vì vậy, Mĩ cho rằng các bên (Trung Hoa Dân Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Pháp, Việt Nam, Anh và Philippines) ở biển Đông cần phải xác định rõ lập trường và yêu sách. Tháng 8/1955, Mĩ gửi công hàm cho Anh hỏi về lập trường của nước này đối với Trường Sa. Tháng 10 phía Anh trả lời: Anh có chủ quyền truyền thống ở đảo Trường Sa và bãi An Bang, và từ trước đến nay chưa hề thừa nhận chủ quyền của nước khác tại quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Anh có 5 thuộc địa hay nước bảo hộ ở Đông Nam Á: Malaysia, Singapore, Sarawak, Bắc Borneo (Sabah) và Brunei. Một số khu vực gần Nam Sa không có cơ quan ngoại giao riêng và Toàn quyền Đông Nam Á của Anh tại Singapore (British Commission General for Southeast Asia) xử lí các vấn đề ngoại giao. Sau chiến tranh, Anh chuẩn bị chấn chỉnh lại thuộc địa ở Đông Nam Á. Sau sự kiện Cloma, Toàn quyền Đông Nam Á yêu cầu Văn phòng Ngoại giao (Foreign Office) điều tra quan hệ giữa Borneo và Trường Sa. Sau một số lượt đào bới hồ sơ, vẫn không có gì khác hơn việc phê chuẩn quyền khai thác đảo Trường Sa Lớn và bãi An Bang vào năm 1877.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù báo cáo đưa ra những ý kiến tích cực, nhưng phía Anh cho rằng quần đảo Trường Sa “phân tán, không người cư trú, thiếu lợi ích kinh tế, cũng không tiện đóng quân”, hơn nữa tạm thời thấy rằng cộng sản Trung Quốc vẫn chưa có lực lượng chiếm đóng các đảo này, vì vậy không tạo thành mối đe dọa với Anh; và trong cái nhìn của Anh, bằng chứng chủ quyền của Bắc Borneo đối với Trường Sa là không đầy đủ. Vì vậy, Bộ Ngoại giao kết luận rằng Anh vẫn nên giữ nguyên thái độ ban đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một sự kiện khác lúc đó cũng đáng được nhắc đến. Tháng 7/1955, một công ti đăng kí tại Hồng Kông- Công ti hữu hạn Thái Bình Dương Borneo (Borneo Pacific Company Limited) xin phép Anh được khai thác phốt phát ở Trường Sa. Bộ Ngoại giao Anh cho rằng điều này sẽ khiến Anh bị lôi cuốn vào tranh chấp Trường Sa, do đó đã khuyên công ti này không nộp đơn. Nhưng ý đồ khai thác thực tế của công ti này bị nghi ngờ là có liên quan đến dầu mỏ. Brunei phát hiện ra dầu mỏ vào năm 1897 và kể từ đó trở thành một khu vực khai thác dầu mỏ quan trọng. Sau Thế chiến thứ hai, dầu mỏ ở thềm lục địa bắt đầu thu hút sự chú ý. Công ti dầu khí Hoàng gia Shell (Shell) nhạy bén chú ý đến nguồn tài nguyên dầu khí gần Trường Sa, nên sau sự kiện Cloma họ đã liên hệ với chính quyền Singapore, yêu cầu cho phép hải quân phái tàu bảo vệ một chuyên gia địa chất của công ti này đến khảo sát địa chất ở khu vực đó. Quân đội Anh đã chuẩn bị phái tàu chiến Dampier thi hành nhiệm vụ này, nhưng Bộ Ngoại giao đã soạn ra điện văn (ngày 12/6/1956) chuẩn bị từ chối: một là, Bộ Ngoại giao cho rằng việc hải quân Hoàng gia Anh tham gia vào các hoạt động như vậy cho một công ti thương mại là không phù hợp; hai là, các đảo này đang bị Trung Quốc hoặc Philippines chiếm đóng, nước Anh không tiện ra mặt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo lí thuyết, điện văn phải được Thủ tướng Anthony Eden kí tên xác nhận mới có thể gửi đi, nhưng thực tế không đúng như vậy, vào lúc được trình cho Eden thì điện văn đã được Bộ Ngoại giao gửi đi rồi. Không ngờ, Eden biết rõ tính quan trọng của dầu mỏ, sau khi đọc đã phê vào điện văn “muốn từ bỏ dầu mỏ sao?”, và trả về Bộ Ngoại giao. Nhân viên Bộ Ngoại giao lập luận rằng việc khai thác dầu khí ở khu vực đó là không thực tế, nhưng cảm thấy không có cách nào thuyết phục Eden, cuối cùng quyết định trì hoãn việc này, dù sao thì điện văn cũng đã gửi đi rồi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, kế hoạch của Công ti dầu khí Hoàng gia Shell không thể thành hiện thực, chính quyền Singapore gác lại việc này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, thái độ của Anh giống như trước đó, vẫn chỉ là duy trì [chủ quyền] trên giấy. Thái độ của Anh đã trực tiếp ảnh hưởng đến chứng lí của Malaysia và Brunei (thuộc địa của nước này lúc đó nhưng độc lập sau này) trong vấn đề chủ quyền Trường Sa. Anh mặc dù không công khai tuyên bố từ bỏ đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Trường Sa, nhưng đã bị xem là một trường hợp từ bỏ yêu sách lãnh thổ trong luật quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, trong sự kiện Cloma, Hà Lan cũng thông qua Đại sứ nước này tại Philippines tuyên bố với Bộ Ngoại giao Philippines: Hà Lan tuyên bố chủ quyền đối với một phần của quần đảo Trường Sa, đồng thời cho rằng yêu sách này được Anh ủng hộ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vào lúc đó, Hà Lan mặc dù đã rút khỏi Indonesia nhưng vẫn sở hữu phần phía Tây của đảo New Guinea, cũng thuộc Đông Nam Á. Vì tuyên bố này chỉ được Philippines đề cập trong giao thiệp với Đài Loan,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> hiện nay không rõ phạm vi cụ thể và bằng chứng mà Hà Lan đưa ra năm đó cho yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa là gì. Trong những năm 1960 New Guinea bị Indonesia thôn tính, kể từ đó Hà Lan cũng không có cơ sở pháp lí và thực tế để thiết lập sự kiểm soát ở Trường Sa. Về việc liệu chủ quyền đối với Trường Sa mà nước này tuyên bố trong những năm 1950 có thể nhờ đó mà chuyển giao cho Indonesia hay không, về mặt lí luận cũng có thể thảo luận. Tuy nhiên, hiện nay Indonesia không đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với Trường Sa, do đó thảo luận này ít có ý nghĩa thực tế.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.4 Pháp và Nam Việt</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bước vào thập niên 1950, sự thống trị của Pháp ở Đông Dương ngày càng lực bất tòng tâm. Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 đánh dấu sự thất bại của Pháp ở Việt Nam, Pháp không đủ sức tiếp tục cuộc chiến. Ngày 20/7/1954, Ngoại trưởng 9 nước Mĩ, Liên Xô, Pháp, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Bắc Việt, Nam Việt, Campuchia, Lào kí kết “Hiệp định Geneva” (Geneva Accords) tại Geneva,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pháp tuyên bố sẽ rút khỏi Đông Dương, Việt Nam bị chia làm hai với vĩ tuyến 17° N là ranh giới, tạm thời thành lập hai chính phủ ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam, trước tháng 7/1956 hai bên thông qua tổng tuyển cử để quyết định việc thống nhất. Tuy nhiên, tháng 10/1955, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) Ngô Đình Diệm đã truất phế Hoàng đế Bảo Đại của Quốc gia Việt Nam thông qua cuộc trưng cầu dân ý có thao túng, thành lập nước Việt Nam Cộng hòa (Republic of Vietnam). Còn Bắc Việt (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Democratic Republic of Vietnam) cũng không muốn tiến hành tổng tuyển cử. Theo đó Bắc và Nam Việt Nam bắt đầu cuộc đối đầu và chiến tranh lâu dài. Phe Cộng sản với Trung Quốc và Liên Xô là đại biểu chỉ công nhận chính phủ Bắc Việt, không công nhận chính phủ Nam Việt. Phe phương Tây thì ngược lại. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do Hoàng Sa và Trường Sa đều ở phía Nam Vĩ tuyến 17° Bắc, nên thuộc về miền Nam Việt Nam; còn đảo Bạch Long Vĩ ở vịnh Bắc Bộ thì thuộc về miền Bắc Việt Nam. Ở phía Hoàng Sa, tháng 2/1956, tàu chiến Pháp Francis Garnier đến Hoàng Sa, sau khi phát hiện quân Cộng sản Trung Quốc đã đổ bộ lên cụm đảo An Vĩnh (Tuyên Đức) nên không còn hứng khởi trong việc giúp Việt Nam phòng thủ quần đảo Hoàng Sa. Ngày 28/4/1956, quân Pháp rút khỏi đảo Hoàng Sa (San Hô) và quân đội Nam Việt tiếp quản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Như vậy, Pháp chuyển giao quyền lợi ở Hoàng Sa cho Quốc gia Việt Nam, nước Việt Nam Cộng hòa lại kế thừa quyền lợi của Quốc gia Việt Nam. Trong toàn bộ quá trình này, Việt Nam đều không hề từ bỏ đòi hỏi chủ quyền đối với Hoàng Sa. Đầu những năm 1950, quân đội Trung Quốc (Bắc Kinh) cũng tiến vào chiếm đóng đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa. Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản vẫn duy trì tình trạng đối đầu Đông và Tây ở Hoàng Sa như giữa Trung Quốc và Pháp trước năm 1949.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình Trường Sa thì phức tạp hơn một chút. Sự thống trị của Pháp ở Việt Nam ngày càng lực bất tòng tâm, nhưng vẫn khăng khăng chủ quyền Trường Sa là của Pháp chứ không phải của Việt Nam. Ví dụ vào ngày 8/9/1953, trong một văn bản, Bộ Ngoại giao Pháp chỉ ra: Khi Pháp chuyển Nam Kì cũ lại cho Việt Nam vào năm 1949, các đảo này không thuộc về Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một quan chức Pháp khác chỉ ra trong văn bản chuyển nhượng Nam Kì năm 1949 có viết rõ bao gồm đảo Côn Lôn (Poulo Condore, Côn Đảo), nhưng không có viết quần đảo Trường Sa, điều này cho thấy quần đảo Trường Sa không phải là một phần để bàn giao.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 1/1956, quân đội Pháp phái tàu chiến Francis Garnier đến tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời ra lệnh dỡ bỏ tất cả cột mốc của nước khác, dựng lại cột mốc của Pháp. Thời gian này, hải quân Viễn Đông của Pháp liên tục có hoạt động ở Trường Sa. Tháng 8/1951, một chiếc máy bay Pháp đã tuần tra trên bầu trời đảo Trường Sa Lớn, xác nhận trên đảo không có quân đội; tháng 5/1955, hải quân Pháp ở Viễn Đông còn tiến hành trinh sát Trường Sa lần cuối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam luôn luôn khẳng định có chủ quyền đối với Trường Sa. Như trình bày ở trên, trong Hội nghị San Francisco năm 1951, Việt Nam đã tuyên bố rõ ràng yêu sách lãnh thổ của mình đối với Trường Sa (và Hoàng Sa). Từ năm 1949 đến 1955, hai bên Pháp, Việt liên tục tranh cãi về vấn đề này. Ngoài mâu thuẫn ở Trường Sa, quan hệ giữa nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) và Pháp vào lúc này cũng xấu đi toàn diện. Đầu năm 1955, Pháp chuẩn bị rút khỏi Việt Nam, miền Nam Việt Nam do phe thân Mĩ kiểm soát. Sau khi được Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng, Ngô Đình Diệm đã triệt để dựa vào Mĩ. Cuộc tranh giành Trường Sa giữa Việt Nam và Pháp cũng ngày càng trở nên công khai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4/1956, Nam Việt lục soát căn cứ của Pháp ở vịnh Cam Ranh khi chưa được phép, đồng thời muốn ngăn chặn các hoạt động của quân đội Pháp ở vịnh Cam Ranh, và cuộc đối đầu giữa hai bên càng trở nên tồi tệ hơn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện Cloma, ban đầu Pháp không coi trọng vấn đề này. Quan chức ngoại giao Pháp ở Manila dường như không biết Pháp đã tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa từ lâu Trong điện văn báo cáo về Paris, họ chỉ dùng cụm từ “cuộc tranh cãi lố bịch của ‘bọn người lùn’” (ridiculous quarrel of “pygmies”) để miêu tả tranh cãi giữa Philippines với Trung Quốc (Đài Loan), đồng thời cho rằng Philippines tạo cho Trung Quốc (Đài Loan) một cái cớ để can thiệp vào biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Việt Nam cũng nhanh chóng có phản ứng. Do Việt Nam là nước mới độc lập, cũng do tình hình chính trị phức tạp thời gian dài, quan hệ giữa Quốc gia Việt Nam và Philippines không quá sâu sắc. Mãi đến tháng 7/1955, Philippines mới công nhận Quốc gia Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa mới đầu không có phản ứng quá nhanh đối với sự kiện Cloma, nhưng lại rất lưu ý đến chiều hướng hoạt động của Trung Quốc. Vì vậy, sau khi cộng sản Trung Quốc ra tuyên bố có chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa ngày 29/5/1955, họ đã phản ứng ngay lập tức. Ngày 1/6, Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 29/5 về quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, chính phủ Việt Nam cho rằng cần phải nhắc lại một lần nữa chủ quyền truyền thống đối với hai quần đảo này. Chủ quyền này từng được công nhận trong Hội nghị San Francisco. Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị hòa bình từng ra tuyên bố vào ngày 7/9/1951 nói rằng để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về Việt Nam. Không gặp bất cứ sự phản đối nào lúc đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, Bộ Ngoại giao Pháp cũng không thể không nhanh chóng có phản ứng. Ngày 4/6, Bộ Ngoại giao Pháp gửi công hàm cho Philippines và Đài Loan, tái khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Trường Sa, và lưu ý rằng các tàu Pháp thường xuyên tuần tra quần đảo Trường Sa, lần gần đây nhất chỉ cách đó vài tháng (ám chỉ tàu Francis Garnier).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sở dĩ Pháp vẫn một mực đòi chủ quyền đối với Trường Sa là vì sau khi kí “Hiệp định Geneva”, hải quân Pháp ở Viễn Đông vẫn có ý định đóng lâu dài ở vịnh Cam Ranh, do cho rằng nếu như có căn cứ hải quân này thì Trường Sa sẽ có điều kiện xây dựng thành một căn cứ tình báo tiền duyên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tin tức truyền đến Sài Gòn, gây ra phản ứng mạnh mẽ của chính phủ miền Nam. Ngày 8/6, Bộ Ngoại giao Nam Việt ra một bản tuyên bố khác, công bố lí do Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa: (1) Trường Sa trong lịch sử thuộc Việt Nam; (2) Sau năm 1933 Pháp bắt đầu kiểm soát Trường Sa, giao cho Nam Kì quản lí, sau khi Nam Kì được chuyển lại cho Việt Nam, Việt Nam đương nhiên đã kế thừa chủ quyền đối với Trường Sa. Ngày 31/6, Công sứ Việt Nam tại Philippines đưa ra kháng nghị với Philippines , đồng thời tuyên bố Trường Sa thuộc Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, Đại sứ Pháp tại Sài Gòn không đồng ý chủ trương của chính phủ Pháp và yêu cầu Bộ Ngoại giao Pháp làm sáng tỏ lập trường của mình, hoặc là ủng hộ chủ quyền của Nam Việt đối với quần đảo Trường Sa, hoặc nói thẳng rằng Pháp có chủ quyền đối với quần đảo này. Paris liên tiếp tổ chức mấy hội nghị liên bộ, kết luận rằng đó là tình thế khó xử, một số người cho rằng Trường Sa thuộc Việt Nam, hơn nữa nước Pháp không đáng vì chuyện này mà trở mặt hoàn toàn với Việt Nam, nhưng một số người khác lại cho rằng cho dù phải từ bỏ Trường Sa cũng cần trải qua trình tự pháp luật, do quốc hội chính thức biểu quyết. Lúc này đang gặp khủng hoảng kênh đào Suez và chiến tranh độc lập ở Algeria, nước Pháp ngày càng bị cuộc chiến ở Bắc Phi làm cho suy sụp, không có khả năng ủng hộ ý tưởng của hải quân Pháp, nhưng nếu từ bỏ lãnh thổ lần nữa sẽ tạo thành hiệu ứng tâm lí tiêu cực cho người Pháp. Sau 9 tháng tiến hành thảo luận kéo dài, cuối cùng hội nghị quyết định đối phó một cách thụ động, luôn giữ lập trường mơ hồ, bỏ mặc vấn đề trôi đi. Dù sao Pháp cũng biết rõ rằng nếu không thể tiếp tục ở lại vịnh Cam Ranh thì việc giành chỗ đứng ở Trường Sa sẽ không còn thực tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, sau năm 1956 hải quân Pháp hoàn toàn rút khỏi Đông Nam Á.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, mặc dù về pháp lí Pháp không từ bỏ chủ quyền Trường Sa, nhưng trên thực tế nước này đã rút khỏi tranh chấp Trường Sa tế từ năm 1957, tình huống giống như Anh. Việc Pháp từ bỏ Trường Sa nằm trong dự liệu. Ngoài đảo Ba Bình ra, Trường Sa hoàn toàn không có nguồn nước ngọt. Mất đi sự chi viện của Việt Nam, Pháp không có bất cứ căn cứ nào ở biển Đông, về cơ bản không thể đứng chân ở Trường Sa. Đơn độc thành lập tỉnh hải ngoại ở quần đảo hoang vắng này là một ý tưởng không thực tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy thì theo pháp luật, Việt Nam Cộng hòa có kế thừa “chủ quyền” của Pháp đối với Trường Sa không? Khi Pháp bàn giao miền Nam cho chính quyền Bảo Đại có bao gồm Trường Sa không? Trường Sa không thuộc Nam Kì lúc giao cho Việt Nam là quan điểm chủ đạo trong nội bộ chính phủ Pháp. Ví dụ tiêu biểu về căn cứ pháp lí cho quan điểm này có thể dùng công thư ngày 16/6/1955 của Toàn quyền Pháp (General Commmisioner of France) kiêm Quyền Tổng Tư lệnh Đông Dương (Acting Commander in Chief in Indochina) Pierre Jacquot gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Căn cứ chủ yếu là lập luận cho rằng trong hiệp định bí mật giữa Pháp và Hoàng đế Bảo Đại ngày 15/3/1949 có nêu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đặt quần đảo Paracel và đảo Côn Lôn dưới chủ quyền lãnh thổ Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (The Paracel and Poulo Condor Island fall under Vietnamese territorial sovereignty), nhưng quần đảo Trường Sa không được đề cập đến trong văn kiện này. Tuy nhiên, các khía cạnh pháp lí của quan điểm này đáng để thảo luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nguyên văn của phần liên quan trong hiệp định giữa Pháp và Hoàng đế Bảo Đại ngày 8/3/1949 như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Notwithstanding previous treaties of which she might have taken advantage, France solemnly reaffirms her decision to pose no obstacle in law or in fact to the inclusion of Cochin China within Viet-Nam, defined as formed by the union of the territories of Tonkin (North Viet-Nam), Annam (Central Viet-Nam), and Cochin China (South Viet-Nam).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất chấp việc Pháp có thể đã có lợi trong các hiệp ước trước đây, Pháp long trọng tái khẳng định quyết định của mình không gây trở ngại về luật pháp hay trên thực tế đối với việc đưa Nam Kì vào Việt Nam, được định nghĩa như được hình thành từ sự hợp nhất lãnh thổ của Bắc Kì (Bắc Việt Nam), Annam (Trung Việt Nam), và Cochin China (Nam Việt Nam)</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong toàn bộ hiệp định cũng như phụ lục giải thích của nó đều không xuất hiện quần đảo Paracel và đảo Côn Lôn. Trong hiệp định chính thức nêu Cochin China (Nam Kì) với tư cách một chỉnh thể khi hợp nhất với Bắc Kì và Trung Kì. Còn cụm từ “đặt quần đảo Paracel và đảo Côn Lôn dưới chủ quyền lãnh thổ Việt Nam” do công thư năm 1955 nói trên chỉ ra là nằm trong hiệp định bí mật ngày 15/3/1949</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chứ không phải là một bộ phận của hiệp định không chính thức.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ngày 4/6/1949, Đại hội Quốc dân Pháp thông qua hiệp định Nam Kì sáp nhập vào Việt Nam có một bộ phận có liên quan như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Article II, The territory of Cochin China is reattached to the Associated State of Viet-Nam in accordance with the terms of the joint declaration of June 5, 1948, and the declaration of the French Government of August 19, 1948. Cochin China in consequence ceases to have the status of an overseas territory.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều II, Lãnh thổ Nam Kì được sáp nhập vào Quốc gia Liên hiệp Việt Nam theo các điều khoản của tuyên bố chung ngày 5 tháng 6 năm 1948, và tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 19 tháng 8 năm 1948. Do đó, Nam Kì không còn tư cách của một lãnh thổ hải ngoại</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là luật chính thức “trao trả” Nam Kì cho Việt Nam, trong đó không đề cập đến bộ phận nào đó của Nam Kì không được “trao trả”. Hiệp định ngày 5/6/1948 (tức Hiệp định Vịnh Hạ Long)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và tuyên bố của chính phủ ngày 19/8/1948</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mà hiệp định này đề cập đến cũng đều không nói đến việc Nam Kì sẽ bị “phân chia”. Do đó, dựa vào lí giải pháp lí thì Nam Kì được “trao trả” cho Việt Nam với tư cách là một chỉnh thể.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong thời gian Pháp cai trị, Trường Sa không phải là một khu vực hành chính độc lập, mà trực thuộc tỉnh Bà Rịa. Vì vậy, về hành chính, Trường Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam với tư cách là một khu vực hành chính. Trừ phi có sắc lệnh, hiệp ước hay tuyên bố khác, không có cách nào phủ nhận rằng Trường Sa cũng được trao trả cho Việt Nam cùng với Nam Kì khi Pháp trao trả. Trong luật quốc tế có một quy tắc quy định rằng khi thuộc địa giành được độc lập thì có quyền xác lập biên giới quốc gia dựa theo biên giới quốc gia hoặc khu vực hành chính thời thuộc địa, điều này cũng áp dụng cho Việt Nam và quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, theo ghi chép trong các tài liệu của Pháp, khi kí hiệp ước bí mật vào ngày 15/3/1949 phía Việt Nam chủ động đề xuất liệt kê riêng Hoàng Sa và đảo Côn Lôn (có thể vì cảm thấy hai vùng đảo xa này rất quan trọng);</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nếu như Việt Nam không chủ động đòi hỏi như vậy, Pháp căn bản sẽ không liệt kê riêng đảo xa nào là bộ phận của Nam Kì để “trao trả” cho Việt Nam, mà chỉ ngầm thừa nhận toàn bộ khu vực quản lí của Nam Kì, bao gồm toàn bộ các đảo xa đều thuộc loại “trao trả”, vì vậy không thể nói rằng trong mật ước không liệt kê Trường Sa thì có nghĩa là Trường Sa cũng có thể không nằm trong danh sách “trao trả”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khi đó ở Việt Nam, khái niệm địa lí quần đảo Hoàng Sa bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa (xem sắc lệnh số 143 bên dưới). Việt Nam cũng có thể tranh biện khi nhận bàn giao quần đảo Hoàng Sa đã cũng đã nhận bàn giao Trường Sa rồi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (kiểu lí giải này đương nhiên có kẽ hở, vì Hoàng Sa và Trường Sa khi đó không thuộc về cùng một khu vực hành chính).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, trừ phi có hiệp ước hoặc tuyên bố chính thức, hoạch định ra giới hạn của Nam Kì “trao trả” cho Việt Nam, loại bỏ Trường Sa ra ngoài; nếu không thì quan điểm Trường Sa được trao trả cho Việt Nam cùng với Nam Kì càng có thể đứng vững trong luật quốc tế. Vì vậy, việc Pháp (không còn chọn lựa nào nào khác) từ bỏ Trường Sa lúc đó không hề ảnh hưởng quyền kế thừa hợp pháp của Việt Nam đối với Trường Sa. Hơn nữa, trong bày tỏ thái độ, Pháp chủ yếu dùng hình thức công văn nội bộ, lần bày tỏ thái độ công khai duy nhất là trong tuyên bố của Đại sứ Pháp tại Philippines, điều đó không hề có hiệu lực pháp luật đối với Việt Nam. Hơn nữa, sau năm 1957, nước Pháp đã không bày tỏ ý kiến về vấn đề này, cũng không phản đối hành động chiếm đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam. Vì vậy, dù về pháp lí hay về ngoại giao, bằng chứng của Việt Nam cũng đều đầy đủ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất luận như thế nào, Việt Nam từ đó thay thế Pháp trở thành bên có liên quan trong tranh chấp Trường Sa. Ngày 22/8, Việt Nam Cộng hòa phái tàu hộ vệ “Tốt Động”, dưới sự chỉ huy của Đại úy Trần Văn Phương đổ bộ lên đảo Trường Sa Lớn. Họ hạ quốc kì Trung Hoa Dân Quốc xuống, kéo quốc kì Việt Nam lên, lập bia đá, chính thức tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Sau khi Đài Loan biết tin, lập tức đưa ra kháng nghị với Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nam Việt sau đó lập tức đưa ra phản bác, tuyên bố ngạc nhiên và cũng bất ngờ đối với sự phản đối của Trung Quốc, vì quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam và Nam Việt đã nhiều lần nhắc lại trong văn bản hồ sơ, đồng thời yêu cầu Đài Loan không được tiến hành bất cứ hành động quân sự nào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thời gian này, Đại biện Mĩ tại Đài Loan James B. Pilcher hẹn gặp Diệp Công Chiêu, nói rằng có được cam kết của phía Nam Việt, nếu Đài Loan không thực hiện hành động ở Trường Sa, chính phủ Nam Việt cũng không nhắc đến việc này nữa. Do đó, Bộ Ngoại giao Mĩ hi vọng Đài Loan không nên để chuyện này leo thang vượt quá cấp độ ngoại giao.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ Quốc phòng vẫn mong muốn đến đảo Trường Sa Lớn thực hiện hành động. Nhưng Bộ Ngoại giao khuyến cáo phải nghĩ đến đại cục, nếu phát hiện quốc kì Nam Việt ở đảo Trường Sa Lớn thì có thể hạ xuống, nhưng không cần dựng quốc kì Trung Hoa Dân Quốc lên.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thế là Đài Loan phái “đội Ninh Viễn” thực hiện chuyến đi thứ 3 đến Trường Sa, ghé đảo Trường Sa Lớn một lần nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Việt không hề có phản ứng ngoại giao đối với việc này, mà chỉ sáp nhập thêm một bước quần đảo Trường Sa vào khu vực hành chính trên giấy tờ. Ngày 22/10, trong Sắc lệnh số 143 (Edict 143/VN, hình 25), Nam Việt thay đổi việc phân chia các tỉnh và khu vực, đưa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy mới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đáng chú ý là khi đó Việt Nam vẫn gọi chung Trường Sa và Hoàng Sa là “Hoàng Sa”, nên cách viết Trường Sa trong Sắc lệnh này là “Hoàng Sa (Spratley)”. Chemilier- Gendreau cho rằng Sắc lệnh này sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Phước Tuy,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều này là sai. Đài Loan ngay sau đó đã kháng nghị việc này, đồng thời nhắc lại chủ quyền Trường Sa thuộc Trung Quốc. Nam Việt phản bác rằng đây là việc nội bộ của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 482px; overflow: hidden; width: 425px;"><img height="499.9181562216042" src="https://lh3.googleusercontent.com/kLhFAysV1MponCX6AP1Ow-rM7UAUsQIxFPm0BFJy0g3yvPqoxBPXmOdtRtQEMR30aJ6p5MJq7VFA1z0g8sjyf9PH54wRSgbkBezCBTdICHwFNEWnc2ZB7EEZnZCQ9mBwqt6LgYYHnTiFRn5MmQ1Fo_M" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="425" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 25: [Danh sách đính kèm] Sắc lệnh 143 của Việt Nam</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù có những mâu thuẫn này, đối với Đài Loan, Nam Việt dễ giao thiệp hơn nhiều so với Philippines. Nguyên nhân quan trọng nhất đại khái là do bản thân tình hình trong nước của Nam Việt không ổn định, không thể dành hết sức tranh giành lợi ích ở biển Đông như Philippines được. Hơn nữa thủ đoạn ngoại giao của Philippines linh hoạt cũng là điều Nam Việt khó so sánh được.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.5 Sự bày tỏ thái độ của Bắc Kinh và thái độ của Bắc Việt</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện Cloma, vào ngày 29/5/1956 Bắc Kinh tuyên bố một lần nữa rằng họ có tất cả quyền lợi ở quần đảo Trường Sa: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Thái Bình (Ba Bình) và đảo Nam Uy (Trường Sa Lớn) kể trên ở biển Nam Trung Hoa, cũng như một số đảo nhỏ xung quanh chúng, tên gọi chung là quần đảo Nam Sa (Trường Sa). Những đảo này từ trước đến nay là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền hợp pháp không thể tranh cãi đối với những đảo này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Bắc Kinh không phái bất cứ đơn vị vũ trang hoặc hành chính nào đến chiếm giữ Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ như vậy của Bắc Kinh có thể là một hành động làm cho có. Thứ nhất, khi đó hải quân và không quân Trung Quốc hết sức yếu, Trường Sa cách đất liền Trung Quốc khoảng 2000 km, rất xa xôi, dù cố gắng đến được cũng rất khó duy trì việc đóng quân; thứ hai, Cộng sản Trung Quốc nếu tiến vào Trường Sa, tất nhiên đầu tiên sẽ dẫn đến xung đột với Đài Loan vốn đã quay trở lại Trường Sa, mà hải quân Trung Quốc so với hải quân Đài Loan vẫn có khoảng cách. Thứ ba, nhân tố quan trọng hơn là khi đó Mĩ là quốc gia kiểm soát thực tế tình hình biển Đông, ba quốc gia trong tranh chấp biển Đông- Philippines, Đài Loan và Việt Nam Cộng hòa đều là đồng minh của Mĩ. Mĩ có thể giữ trung lập với các nước này, nhưng nhất định không thể khoan nhượng cho thế lực cộng sản như Trung Quốc và Bắc Việt thâm nhập biển Đông. Còn hải quân Trung Quốc thì rõ ràng không phải là đối thủ của hải quân Mĩ. Từ những năm 1960 Việt Nam đã bắt đầu tuần tra ở Trường Sa, Trung Quốc không có khả năng can thiệp vào việc này. Lúc đó Trung Quốc và Ấn Độ thù địch nhau, hải quân Trung Quốc thậm chí không có cả khả năng hộ tống kiều dân bị Ấn Độ xua đuổi, nói chi đến việc giao tranh với hải quân Nam Việt hay hải quân Đài Loan, cho nên không thể không né tránh các tàu chiến của Đài Loan đi tiếp tế quân trú đóng trên đảo Ba Bình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, tất cả những gì mà Trung Quốc có thể làm chỉ là phản đối suông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, ngoài tuyên bố chủ quyền bằng miệng ra, Trung Quốc còn tiến hành thu thập tư liệu và hồ sơ để tiện chứng minh chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Khi vừa mới xây dựng chế độ, hiểu biết của Đảng Cộng sản về Hoàng Sa và Trường Sa rất ít ỏi, chủ yếu đều là từ xã luận và bài viết của báo chí cuối những năm 1940. Trung Quốc tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về mình, nhưng không nêu ra được bằng chứng lịch sử và pháp lí. Năm 1950, khi Tổng thống Philippines Quirino đưa ra chủ quyền đối với Trường Sa, Trung Quốc chỉ tuyên bố “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyệt đối không cho phép quần đảo Đoàn Sa (Trường Sa) và bất kì nào đảo khác thuộc Trung Quốc ở Nam Hải bị nước ngoài xâm phạm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1951, khi Chu Ân Lai tuyên bố phản đối bản dự thảo “Hòa ước San Francisco”, tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, nhưng vẫn không nắm rõ quan hệ giữa đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy) và quần đảo Trường Sa. Bài “Giới thiệu đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa)” đăng trên “Nhân dân Nhật báo” có nhiều chỗ sai sót.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Để đảo ngược tình trạng này, năm 1951 Vụ trưởng Vụ châu Á Trần Gia Khang bắt đầu chủ trì công tác thu thập hồ sơ và tư liệu. Từ năm 1951 đến năm 1956, đã thu thập được 14 mục lục hồ sơ và 16 mục lục tư liệu tham khảo. Chỉ từ đó mới xem là có hiểu biết sơ bộ về lịch sử, tranh chấp và pháp lí của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1956, khi xảy ra sự kiện Cloma, vào ngày 5/6 và 8/7, Thiệu Tuân Chính ở Khoa Lịch sử, Đại học Bắc Kinh đã đăng hai bài trên “Nhân dân nhật báo” lập luận để chứng minh chủ quyền của chính phủ Trung Quốc đối với biển Đông, chứng lí đã phong phú hơn rất nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu những năm 1950, Trung Quốc chỉ có thể giới hạn các hành động thực tế của mình ở Hoàng Sa. Về thời gian Trung Quốc tiến vào chiếm đóng đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) ở Hoàng Sa có nhiều tường thuật khác nhau. Ở Trung Quốc, thường được cho là vào ngày 13/5/1950,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng cụ thể tiến vào chiếm đóng như thế nào thì không rõ. Ngay cả khi năm 1950 là đúng thì mức độ kiểm soát của Trung Quốc đối với Hoàng Sa vào thời điểm đó vẫn là điều còn đáng nghi ngờ. Tháng 1/1951, tình báo Pháp không phát hiện tàu tiếp tế qua lại định kì giữa đảo Phú Lâm và Đại lục nên phía Pháp suy đoán rằng không có quân Trung Quốc đóng trên đảo Phú Lâm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 5/1954, 7 ngư dân Hải Nam bị mắc cạn ở Hoàng Sa nhưng không được người Trung Quốc cứu, cuối cùng thì được máy bay tuần tra của Mĩ phát hiện, đưa về căn cứ không quân Clark ở Philippines. Sau đó Mĩ thông qua kênh ngoại giao Anh giao thiệp để đưa những ngư dân này trở về Trung Quốc, nhưng kết quả cuối cùng không biết thế nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một tường thuật khác nói là năm 1955.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo một tài liệu giải mật của Mĩ, ngày 25/8/1955, cơ quan tình báo Mĩ trinh sát thấy quân đội Trung Quốc đã chiếm đảo Phú Lâm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Xét thấy khi đó máy bay của Mĩ, Pháp và Đài Loan thường xuyên bay qua Hoàng Sa để tuần tra do thám, nếu như trước năm 1955 trên đảo có quân đội Trung Quốc trú đóng thì khó có khả năng không bị phát hiện. Vì vậy, đó có thể là năm Trung Quốc bắt đầu thực sự chiếm đóng đảo Phú Lâm bằng quân sự. Tài liệu đó cũng nhắc đến ngày 9/6/1956, máy bay tuần tra TF72 của Đài Loan phát hiện trên đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền) có các hoạt động của quân đội hoặc dân binh Trung Quốc. Đài Loan lập tức thông báo cho Mĩ và Nam Việt phát hiện này, hai nước đều rất lo lắng. Quân đội Mĩ thậm chí còn xem xét đến việc ba bên Đài Loan, Mĩ, Việt Nam cùng nhau phối hợp đánh đuổi quân cộng sản, và cũng dự tính điều động máy bay của quân đội Mĩ tiến hành oanh tạc đảo Phú Lâm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng sau đó dường như quân đội Trung Quốc đã chủ động rút khỏi đảo Hữu Nhật, nhờ đó tránh được nguy cơ xảy ra xung đột. Do đó, sẽ chính xác hơn khi nói rằng quân đội Trung Quốc chính thức đóng quân tại đảo Phú Lâm ở Tây Sa vào năm 1955. Còn trước đó trên đảo Phú Lâm có thể chỉ có ngư dân, nhân viên điều tra, tàu cá vũ trang hoặc dân binh Trung Quốc,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chứ không phải quân lính chính quy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1959, Trung Quốc thành lập “Văn phòng Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa” thuộc Khu Hành chính Hải Nam, tỉnh Quảng Đông, củng cố quyền kiểm soát đối với phía Đông Hoàng Sa. Năm 1969, Văn phòng này đổi tên là “Uỷ ban cách mạng quần đảo Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa”. Trung Quốc mặc dù ngoài miệng khẳng định lại chủ quyền đối với Tam Sa, nhưng khi đó chỉ kiểm soát được đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa (Tây Sa). Đối với Trường Sa và bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham) Trung Quốc vừa không có khả năng kiểm soát vừa không đưa ra bất cứ yêu sách nào. Do lo lắng ngư dân khi đi biển đánh cá bỏ trốn hoặc bị mua chuộc làm gián điệp, bắt đầu từ giữa những năm 1950 (khoảng năm 1956)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc đã cấm ngư dân đến Trường Sa đánh cá, mãi đến năm 1984 lệnh cấm này mới được bãi bỏ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đối với bãi Scarborough, hoàn toàn không có ghi chép nào về việc ngư dân Trung Quốc từng đến đây đánh cá trước đó, sau Thế chiến thứ hai quân Mĩ và Philippines đã kiểm soát vùng biển ở khu vực đó nên càng không có tàu cá Trung Quốc ở đó (xem V.8).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắc Việt khi đó không có bất cứ sự quan tâm nào đối với Hoàng Sa và Trường Sa, và cũng không đưa ra bất cứ bình luận nào về Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1956. Sau khi Bắc Kinh ra tuyên bố, ngày 15/6, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm hội kiến Đại biện lâm thời Đại sứ quan Trung Quốc tại (Bắc) Việt Nam Lí Chí Dân, trịnh trọng tuyên bố: “Theo tài liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thấy rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa nên thuộc lãnh thổ Trung Quốc.” Khi đó có mặt Quyền Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc cũng nói: “Từ lịch sử thấy rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ngay vào thời nhà Tống đã thuộc Trung Quốc rồi”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có người chất vấn tư liệu này có thật hay không, do tư liệu này chỉ là bày tỏ thái độ bằng lời nói chứ không phải văn bản, hơn nữa phía Việt Nam có vẻ cũng không thừa nhận phát ngôn này (không được nhắc đến trong tư liệu chỉnh lí của phía Việt Nam). Nhưng tác giả vẫn thiên về hướng việc này là có thật. [</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét tới việc chính phủ Bắc Việt phải nhờ các học giả như Nguyễn Đổng Chi… cung cấp tư liệu về Hoàng Sa để có phản ứng thích hợp sau trận hải chiến tháng 1/1974, khó tin Ung Văn Khiêm và Lê Lộc dám trả lời khẳng định về lịch sử kiểu đó - ND</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 23/8/1958, giữa Trung Quốc và Đài Loan bùng nổ trận pháo kích Kim Môn, khủng hoảng eo biển Đài Loan bùng phát bất cứ lúc nào. Ngày 2/9, 4 pháo hạm và 8 tàu ngư lôi của Quân Giải phóng Trung Quốc phát động cuộc tấn công vào tàu đổ bộ USS Meijian của Mĩ chở vật tư quân sự cùng đoàn đi thăm trận địa gồm cố vấn quân sự Mĩ và nhà báo trong ngoài nước hợp và vào 3 pháo hạm Đài Loan đang hộ tống.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có khả năng do muốn có cơ sở để phản đối việc Mĩ xâm nhập ranh giới cho trận hải chiến ở eo biển Đài Loan ngày 2/9 một cách hợp pháp, vào ngày 4/9, Trung Quốc ra tuyên bố về bề rộng lãnh hải 12 hải lí:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lí. Quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm đại lục Trung Hoa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, nhóm đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa (Macclesfield), quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi vùng biển quốc tế (high seas).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">……………………………….</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(4) Các nguyên tắc quy định tại các điểm 2) và 3 ) cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, nhóm đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa , quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc..</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố này đã khẳng định một lần nữa chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa. Mĩ đưa ra phản đối về tuyên bố này, thứ nhất không thừa nhận tính hợp pháp của chính phủ Đảng Cộng sản, cũng như không thừa nhận tính có hiệu lực của đề xuất 12 hải lí, và nói chung cũng không tin rằng bề rộng 12 hải lí phù hợp với luật pháp quốc tế (Mĩ chỉ thừa nhận bề rộng 3 hải lí). Mĩ còn cho rằng theo luật quốc tế, máy bay và tàu chiến có quyền đi qua vô hại ở “lãnh không và lãnh hải”, không cần được Trung Quốc phê chuẩn. Ngoài ra, Mĩ cũng bảo lưu ý kiến đối với sự quy thuộc của Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 24/3/1972, Mĩ điều máy bay quân sự bay vào vùng trời trong phạm vi 12 hải lí của quần đảo Hoàng Sa, bay bên ngoài vùng trời 3 hải lí để tỏ thái độ không thừa nhận Hoàng Sa có lãnh không 12 hải lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ cũng có nhu cầu trinh sát quân sự lâu dài với Trung Quốc Đại lục.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới tác dụng chung của các nhân tố kể trên, trong thời gian dài Mĩ điều máy bay và tàu quân sự tiến vào lãnh hải và lãnh không Trung Quốc. Trung Quốc không có cách gì ngăn chặn hành động của Mĩ, chỉ có thể liên tục đưa ra “cảnh cáo nghiêm khắc” trên báo chí. Thời gian từ 1958 đến 1971, trên “Nhân dân nhật báo” và báo “Quân Giải phóng”, Trung Quốc đã đưa ra tổng cộng 497 lần “cảnh cáo nghiêm khắc”, trong đó 235 lần là nhằm vào quần đảo Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn ở quần đảo Trường Sa, do Trung Quốc vừa không đóng quân lại vừa không có khả năng kiểm soát tới, thậm chí nói chung không có cách gì biết được hành động của Mĩ tại đó nên không đưa ra cảnh cáo đối với hành động của Mĩ tại Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Bắc Việt Nam thì bày tỏ sự tán đồng tuyên bố ngày 4/9 của Bắc Kinh. Ngày 7/9, báo “Nhân dân” của Bắc Việt Nam đăng bài bình luận: “Nhân dân Việt Nam hoàn toàn tán thành tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 14/9, trong công hàm ngoại giao (Hình 26) Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng bày tỏ việc Bắc Việt công nhận và tán đồng bản tuyên bố của Trung Quốc về quyết định lãnh hải. Đây là lần thứ hai Bắc Việt Nam bày tỏ thái độ về mặt ngoại giao, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa, chính thức hơn so với lần thứ nhất:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thưa Đồng chí Tổng lí,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lí rõ:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lí của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lí của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lí lời chào rất trân trọng</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 542px; overflow: hidden; width: 414px;"><img height="542" src="https://lh5.googleusercontent.com/ShGx-Za-V7YoV4iPi2l_LndbrbRG_3XQQmv2ru4MJ_kGj9Nyx0BYWYojcRVaXbGfzVYdEEW_h2oTM-4kWBfTu0tDkUGvu0kdJLKAphnvOf0ncQLVpyoeVvfFwLWwNkLFqnZknqJ7uIZ-imjFgor0ezo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="414" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 26: Công hàm Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai năm 1958</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong công hàm này, Phạm Văn Đồng nêu “ghi nhận và tán thành” tuyên bố của Trung Quốc về lãnh hải. Điều này chắc chắn hàm chứa “ghi nhận và tán thành” tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong bản tuyên bố của Trung Quốc. Đây cũng là nguyên nhân vì sao sau này Trung Quốc chỉ trích Việt Nam “lật lọng”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 9/5/1965, để đáp lại việc quân đội Mĩ xác định vùng biển bao gồm cả Hoàng Sa trong đó là “khu vực chiến đấu” (Combat Zone) lúc đó, Vụ trưởng Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Trang đưa ra tuyên bố:</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “Ngày 24/4/1965, Tổng thống Mĩ Johnson quy định toàn bộ Việt Nam và vùng biển lân cận - trong phạm vi cách bờ biển Việt Nam khoảng 100 hải lí và một phần lãnh hải quần đảo Hoàng Sa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là ‘khu vực chiến đấu’ của lực lượng vũ trang Mĩ. Tiếp đó, Bộ Quốc phòng Mĩ quyết định công khai điều một số đơn vị của Hạm đội 7 và cái gọi là ‘Đội cảnh vệ bờ biển’ vào vùng biển này tiến hành hoạt động và kiểm tra tàu thuyền qua lại”, “điều này trái với luật pháp quốc tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những phát biểu này, Bắc Việt một lần nữa xác định rõ việc coi quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận của Trung Quốc. Kiểu bày tỏ thái độ này có bối cảnh thời đại nhất định. Trước năm 1965, việc Mĩ tiến vào vùng biển Hoàng Sa tác chiến có chút nghi ngại, bởi vì Hoàng Sa mặc dù ở phía Nam vĩ tuyến 17° N nhưng do có tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam, nếu tiến vào Hoàng Sa tác chiến thì có khả năng vi phạm luật quốc tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong cuộc tiếp xúc bí mật giữa Mĩ và Trung Quốc ở Ba Lan, Mĩ cũng từng giao thiệp với Trung Quốc về vấn đề này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mãi đến năm 1965, căn cứ vào nhu cầu của tình hình, Tổng thống Johnson mới ban bố khu vực chiến đấu này, gặp phải sự phản đối kịch liệt của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hiển nhiên, nếu Bắc Việt ủng hộ yêu sách của Bắc Kinh, thì Mĩ sẽ không dám đóng quân ở Hoàng Sa để làm căn cứ tấn công Bắc Việt vì lo ngại sự phản ứng của Bắc Kinh, hoặc ít nhất sẽ không tuần tra ở Hoàng Sa, điều này đương nhiên có lợi cho Bắc Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn từ góc độ luật quốc tế, có thể thấy rằng những bày tỏ thái độ này đồng nghĩa với việc khẳng định thái độ của Bắc Việt về vấn đề này lần nữa. Ngoài ra, rất nhiều báo, bản đồ, sách giáo khoa... của Bắc Việt Nam xuất bản lúc đó đều coi Hoàng Sa là một bộ phận của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/5/1965, báo “Nhân dân” của Bắc Việt có bài báo nói rằng:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“ngày 10/5, một chiếc máy bay quân sự của Mĩ vượt qua lãnh không Trung Quốc phía trên đảo Vĩnh Hưng và đảo Đông thuộc quần đảo Tây Sa, tỉnh Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Xét vị thế của báo “Nhân dân” vốn là một tờ báo của đảng (tương đương với “Nhân dân nhật báo” của Đảng Cộng sản Trung Quốc) thì đây cũng có thể coi là thái độ chính thức của chính phủ Bắc Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, có nhiều trường hợp trong các bản đồ và sách giáo khoa của Bắc Việt công nhận quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc. Ví dụ, năm 1970 sách “Địa lí tự nhiên Việt Nam” do Nhà xuất bản Giáo dục và “Phân vùng lãnh thổ tự nhiên Việt Nam” do Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật Việt Nam của Bắc Việt xuất bản đều chỉ rõ cực Đông của lãnh thổ Việt Nam là 109° 21’ E, còn Hoàng Sa và Trường Sa đều ở phía Đông của kinh tuyến này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1974, trong “Sách giáo khoa địa lí lớp 9 Trung học phổ thông” của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam có viết “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, Châu Sơn... làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Hình 27).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 347px; overflow: hidden; width: 443px;"><img height="364.6045146448975" src="https://lh6.googleusercontent.com/yO8OfNPelrlSd62JXj5WkK2Lo88i_jyjHgrsda8BRfT1V-hrE7VUQKq1ZEECqZyT_4mBvQDANDJF6Zq0hrL8yGoSzmV2bgrysOSHUZj7BR_N2SJwriVLz32gILQdrPkgj_oGCixX7c2bXk04FLIs2Sk" style="margin-left: 0px; margin-top: 7.09317e-12px;" width="443" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 27: “Địa lí tự nhiên Việt Nam”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 5/1972, trong “Tập bản đồ thế giới” (Hình 28) do Cục Đo đạc và Bản đồ, Phủ Thủ tướng Việt Nam in ấn không dùng tên gọi của Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa mà dùng tên gọi của Trung Quốc là Tây Sa và Nam Sa để đánh dấu hai quần đảo này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 368px; overflow: hidden; width: 502px;"><img height="379.44888888888886" src="https://lh4.googleusercontent.com/grCREYHF9ISjmBv0Uj6F6rCQdDLyqunW2EA0w6u0XoymTYXkHI1Tb2CV-_XsMKZqG70A4kZJDX1ENMBYVBOaFF2JovvtY4UMUidIK4ltSawVBIXTq_pNm56K09swLGJJimqlVFvdKMHe3xn7R2vUL7I" style="margin-left: -12.3443px; margin-top: 0px;" width="514.3442622950819" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 28: “Tập bản đồ thế giới” do Cục Đo đạc và Bản đồ, Phủ Thủ tướng Việt Nam in ấn (1972)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kết hợp của những bằng chứng này và các tuyên bố chính thức của Bắc Việt Nam ở trên cho thấy đầy đủ rằng Bắc Việt đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là một phần của Trung Quốc trước năm 1974. Sự công nhận này có ý nghĩa gì về mặt luật pháp quốc tế sẽ được thảo luận sau.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.6 Giao thiệp giữa Đài Loan và Nam Việt về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau năm 1956, sự kiện Cloma nhạt dần. Cho đến cuối những năm 1960, Đài Loan và Nam Việt không xảy ra xung đột ở Hoàng Sa và Trường Sa dù rằng vẫn có một loạt giao tranh ngoại giao. Hai bên đều mong muốn “bình thường hóa” lãnh thổ mà mình kiểm soát trên thực tế. Do khu vực kiểm soát trên thực tế của hai bên khác nhau, Nam Việt và Đài Loan công thủ khác nhau trong vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa: ở Trường Sa, Đài Loan ở vào thế công; ở Hoàng Sa, Nam Việt Nam ở vào thế công.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Hoàng Sa, hành động của Nam Việt dồn dập. Từ năm 1938, quân đội Nam Việt (hoặc lính bảo an) bắt đầu cùng quân Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (San Hô). Sau Thế chiến thứ hai, Nam Việt cũng cùng quân đội Pháp quay trở lại đảo Hoàng Sa. Tháng 4/1956, theo hiệp định Geneva quân Pháp rút toàn bộ khỏi quần đảo Hoàng Sa, do đó Việt Nam phải phái quân đến thay thế. Như vậy, đảo Hoàng Sa thuộc Hoàng Sa hoàn toàn do quân đội Nam Việt đóng giữ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 2 cùng năm, qua tình báo, Đài Loan biết được cộng sản Trung Quốc đã tiến chiếm đảo Phú Lâm, xây dựng doanh trại cũng như các cơ sở khác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này đặt Đài Loan, vốn ngoài tầm với đối với Hoàng Sa, vào tình thế lưỡng nan. Một mặt, Đài Loan xuất phát từ nhu cầu chủ quyền, không muốn Nam Việt đóng quân ở Hoàng Sa; mặt khác xuất phát từ nhu cầu chống cộng lại không muốn nhìn thấy Nam Việt dễ dàng rút khỏi Hoàng Sa, để cộng sản Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo này. Vì vậy, họ chỉ có thể ngầm đồng ý để Nam Việt đóng quân ở Hoàng Sa trong khi lại một mực đòi chủ quyền với Nam Việt. Như đã đề cập trong phần trước, Đài Loan và Nam Việt đã trao đổi tin tình báo về việc quân đội cộng sản Trung Quốc đổ bộ lên đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền), thậm chí có thể cùng nhau hành động, điều đó cho thấy tâm lí mâu thuẫn của Đài Loan, </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 1/1959, Nam Việt chuẩn bị khai thác phân chim ở quần đảo Hoàng Sa, “Công ti khai thác Quần đảo Tây Sa” được thành lập để khai thác kí hợp đồng với Công ti Hữu Phát Singapore (đại diện là Trần Gia Phát). Đài Loan lại rơi vào thế lưỡng nan, Đài Loan liên tục nghe ngóng tin tức nhưng lại không hành động lần nữa. Sau đó, Bộ Quốc phòng và Bộ Kinh tế đều thúc giục Bộ Ngoại giao tỏ rõ thái độ. Cuối cùng, vào tháng 11, Bộ Ngoại giao mới giải thích với Bộ Quốc phòng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) thuộc Tây Sa đã bị cộng phỉ chiếm lấy từ năm 1952, quần đảo này lại không nằm dưới sự kiểm soát thực tế của phía ta, hơn nữa quan hệ của hai nước Trung-Việt trên lập trường cùng chống cộng sản đang tốt đẹp và phía ta cũng đã tuyên bố với phía Nam Việt lập trường của ta về chủ quyền Tây Sa, vậy có lợi hay không khi đưa ra phản đối với phía Việt Nam về vụ này, không tăng giao lưu mà chỉ gây tranh chấp qua lại giữa hai nước đồng minh là điều vô bổ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng Đài Loan bỏ mặc việc này. Nam Việt có thể cùng công ti của Singapore khai thác quặng phốt phát thuận lợi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng việc này lại gây ra sự chú ý của Bắc Kinh. Bắc Kinh bắt đầu thâm nhập vào các đảo do Nam Việt kiểm soát, phương pháp áp dụng là phái “ngư dân” (thực ra là quân Giải phóng hoặc dân quân) lén lút đến các đảo do Việt Nam kiểm soát để tiến hành xâm chiếm từng bước. Ngày 19/2, Bắc Kinh phái 81 “ngư dân” đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Sâm Hàng, Duncan Island), dựng doanh trại và treo quốc kì. Hành động này bị phía Nam Việt phát hiện. Chẳng bao lâu, đội tuần tra của hải quân Nam Việt đổ bộ lên đảo, cùng với quân trú đóng trên đảo (khoảng 10 người) tạm giữ “ngư dân” Trung Quốc, ban đầu áp giải đến đảo Hoàng Sa (San Hô), đồng thời tịch thu hai máy phát sóng và một lô khí tài, rồi lại đưa về Đà Nẵng thẩm vấn. Trong số “ngư dân” này lại có người có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh, rõ ràng không phải là ngư dân bình thường. Nhưng Nam Việt cũng không muốn vì việc này mà lật mặt cộng sản Trung Quốc, vì vậy tuyên bố họ là “ngư dân bình thường”, lấy lí do nhân đạo đưa họ trở lại Hoàng Sa, cấp cho nước và lương thực, rồi trục xuất.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời Nam Việt thông qua Campuchia tỏ rõ lập trường mình với Trung Quốc (Campuchia là quốc gia duy nhất có thiết lập quan hệ ngoại giao với hai nước Nam và Bắc Việt Nam, khi đó trở thành kênh chính thức duy nhất để Nam Việt tiếp xúc với Bắc Kinh). Hành động của Nam Việt đã ngăn chặn kế hoạch thâm nhập sâu hơn vào phía Tây Hoàng Sa của Trung Quốc. Bắc Kinh khi đó chưa dám manh động, ngoài lí do hải quân còn nhỏ yếu, chủ yếu là do Mĩ thường xuyên thực hiện các cuộc tuần tra trên không ở các khu vực bao gồm Hoàng Sa và bờ biển đông nam Trung Quốc sau khi Bắc Kinh tuyên bố lãnh hải 12 hải lí vào năm 1958</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Bắc Kinh gọi đây là xâm phạm lãnh không và cảnh cáo nghiêm khắc). Bắc Kinh hoàn toàn không muốn mạo hiểm chiếm lấy toàn bộ Hoàng Sa để xảy ra xung đột với quân Mĩ. Đối với hành động ngăn chặn cộng sản Trung Quốc xâm nhập của Nam Việt, Đài Loan cũng vui mừng, phấn khởi, ngoài việc nhắc lại lập trường chủ quyền với phía Việt Nam (để đảm bảo chắc chắn có căn cứ khi giao thiệp sau này), hoàn toàn không can thiệp cũng như không bác bỏ các tài liệu về chủ quyền mà Nam Việt liên tục chỉnh lí và đưa ra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ phân tích trên có thể thấy rằng trừ đảo Phú Lâm ra, đại bộ phận các đảo của Hoàng Sa đều nằm trong sự kiểm soát của Nam Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Việt còn thử khẳng định chủ quyền theo phương thức khác, nhưng Đài Loan đều cố biến chuyện lớn thành chuyện nhỏ. Ví dụ tháng 8/1960, Nam Việt dự định phát hành tem kỉ niệm Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi biết chuyện, Đài Loan vội vàng thương thuyết với Nam Việt, và kế hoạch này bị dừng lại. Tháng 12 cùng năm, Hoàng Sa và Trường Sa được đưa vào bản đồ trong các ấn phẩm của Bộ Kinh tế Nam Việt. Đại sứ quán Đài Loan tại Việt Nam tiến hành giao thiệp về việc này, hai bên đồng ý không tuyên truyền xuất bản phẩm này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/7/1961, Nam Việt Nam ban bố Sắc lệnh số 174/NV,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chuyển Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam, đặt tên là xã Định Hải, thuộc huyện Hòa Vang.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với mấy sự việc trước, do tương đối bí mật nên quan chức Đài Loan có thể xử lí linh hoạt, nhưng việc công bố sắc lệnh này của Nam Việt gây ra phản ứng mạnh mẽ của dư luận Đài Loan và Hoa kiều, Bộ Ngoại giao Đài Loan buộc lòng phải đáp trả. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Đài Loan ra thông cáo báo chí, nhắc lại chủ quyền đối với Hoàng Sa; ngày 29/7, Đài Loan chính thức đưa ra phản đối ngoại giao với Nam Việt.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 3/8, Nam Việt trả lời rằng việc này thuần túy thuộc công việc nội bộ của Nam Việt, không thể không bác bỏ yêu sách mà Đài Loan đưa ra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do có sự phản đối của Đài Loan, Nam Việt đã chỉnh sửa và đưa ra tuyên bố về chủ quyền tương đối chi tiết lần đầu tiên đối với Hoàng Sa và Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kể từ đó, Bộ Ngoại giao Đài Loan cũng thừa nhận rằng khó thể thực hiện thêm bất kì hành động nào nữa. Bộ Nội chính Đài Loan nghiên cứu về khả năng di dân đến Hoàng Sa, nhưng Bộ Ngoại giao trả lời: quần đảo đã bị Nam Việt và cộng sản Trung Quốc chiếm đóng, thực hiện điều đó rất khó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, kế hoạch này cũng đã bị huỷ bỏ. Năm 1969, Nam Việt sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Trường Sa, chính Đài Loan khơi mào tranh chấp. Tháng 4/1956, sau khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đài Loan Diệp Công Chiêu đến thăm Nam Việt, trên đường quay trở về bay qua vùng trời quần đảo Trường Sa “thị sát”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nam Việt đưa ra kháng nghị, nhắc lại chủ quyền của mình đối với Trường Sa. Sự kiện này chỉ dấy lên sóng gió nhỏ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh cãi lớn hơn là Đài Loan chuẩn bị kế hoạch khai thác ở Trường Sa. Sau khi xảy ra sự kiện Cloma, Đài Loan liền chuẩn bị khai thác Trường Sa. Tháng 6/1956, Hội phát triển Ngư nghiệp, Bộ Kinh tế đề xuất việc xây dựng một khu vực nền tảng nghề cá ở đảo Ba Bình thuộc Trường Sa trong hai vòng năm. Cụ thể, 8 dự án lớn sẽ được thực hiện trên đảo, bao gồm đài phát sóng và trạm quan sát khí tượng, đê chắn sóng và bến tàu, hải đăng và biển báo, nhà công cộng và nhà kho, bể chứa dầu, nhà máy nước đá và kho lạnh, thiết bị cấp nước, và xưởng sửa chữa tàu thuyền để cho 200 tàu đánh cá nhỏ sử dụng. Hội trưởng “Lưu Cầu cách mạng đồng chí hội” của người Lưu Cầu (Ryukyu) tại Đài Loan là Thái Chương đã chủ động đề xuất hợp tác giữa Trung Quốc và Ryukyu, với ngư dân Ryukyu là những người tiên phong trong việc khai thác. Cũng có đề nghị đưa ngư dân đại lục chạy trốn từ Hồng Kông đến quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, có không ít Hoa kiều Philippines cũng đề xuất đến Trường Sa khai thác phát triển nghề cá. Những đề xuất này đã khơi dậy sự quan tâm của chính phủ Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ tháng 8 đến tháng 10, Đài Loan tổ chức nhiều hội nghị báo cáo để tiến hành nghiên cứu. Trong một thời gian, việc khai thác Trường Sa trở thành chủ đề nóng, thậm chí có phương án đầy tham vọng (ví dụ ban đầu chỉ đề nghị khai thác đảo Ba Bình, sau đó thì đề nghị khai thác tất cả các đảo). Tuy nhiên, do các đảo ở xa xôi, kinh phí hạn hẹp, ngoại giao phức tạp, việc liên quan đến nhiều bộ, các bên đùn đẩy cho nhau, thậm chí bàn mà không quyết, quyết mà không làm, mãi đến năm 1959 vẫn chưa có hành động thực tế. Cho đến tháng 8/1958, Đài Loan mới lấy lí do Hội nghị Hàng không dân dụng quốc tế năm 1955 yêu cầu Đài Loan xây dựng trạm khí tượng trên đảo Thái Bình, để gửi công hàm cho Mĩ, yêu cầu phía Mĩ giúp đỡ xây dựng trạm khí tượng. Còn về vấn đề khai thác, cuối cùng phương án dè dặt nhất đã được quyết định, dùng quân nhân đã giải ngũ đến Trường Sa khai thác khoáng sản ở “ biên giới thực”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù quan chức Đài Loan nhiều lần yêu cầu phải bảo mật trong giai đoạn thảo luận, nhưng qua thảo luận tất bật nhiều năm, tin tức bị phát tán, Nam Việt cũng đã biết được tin từ báo chí Hồng Kông và Đài Bắc. Ngày 27/4/1959, công sứ Nam Việt tại Đài Loan Nguyễn Công Huân đưa ra kháng nghị chính thức với Bộ Ngoại giao Đài Loan về dự định phái người đến Trường Sa khai thác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày hôm sau Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đài Loan Hoàng Thiếu Cốc gặp Nguyễn Công Huân, Nguyễn Công Huân đã đưa ra 3 bằng chứng cho cho thấy Nam Việt có chủ quyền ở Trường Sa: năm 1933 Pháp chiếm hữu Trường Sa và sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa, Trung Quốc không bày tỏ ý kiến phản đối; sau khi độc lập, Nam Việt Nam đã kế thừa chủ quyền của Pháp ở Trường Sa; tại Hội nghị San Francisco Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, không có ai phản đối. Đài Loan chưa thương lượng với Việt Nam đã đơn phương bí mật chuẩn bị kế hoạch khai thác, Nam Việt không thể không coi đó là hành vi xâm lược. Hoàng Thiếu Cốc thì tuyên bố các đảo ở biển Đông mấy trăm năm nay đều là lãnh thổ Trung Quốc, và khuyên Nam Việt lấy đại nghiệp chống cộng làm trọng, chớ nên gây ra tranh chấp, đồng ý sẽ gửi cho Nam Việt trả lời chính thức.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mười mấy ngày sau, Đài Loan gửi thư trả lời cho Nam Việt, đầu tiên làm rõ “Việc AFP đưa tin ngày 18/4 rằng người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã quyết định phái quân nhân giải ngũ đến quần đảo Trường Sa để khai thác khoáng sản trên quần đảo này là không chính xác, người phát ngôn Bộ Ngoại giao chưa bao giờ đưa ra phát ngôn như vậy.” Thứ hai, nhấn mạnh 3 điểm quan trọng trong chủ quyền của Đài Loan đối với Trường Sa: (1) mấy trăm năm nay cấu thành một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc; (2) sau Thế chiến thứ hai, tiếp thu từ Nhật Bản và Bộ Nội vụ đã công bố tên gọi của các đảo, bãi ngầm, đá của quần đảo này, chính phủ Pháp, Việt Nam không đưa ra phản đối; (3) năm 1956 Việt Nam tuyên bố sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy (ngày 20/10, Việt Nam công bố Sắc lệnh số 143/NV, sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), Đài Loan đưa ra kháng nghị.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, Bộ Ngoại giao cũng gửi thư cho Bộ Quốc phòng, trách Bộ Quốc phòng bảo mật không tốt, sau này phải tránh phát tán tin tức trên báo chí, “để tránh gây ra sự nhòm ngó các nước láng giềng, làm trở ngại quan hệ Trung-Việt và gây thêm khó khăn cho chúng ta.”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, Nam Việt nhờ Mĩ tiến hành hòa giải. Lúc này, quan hệ Đài-Việt vẫn khá tốt. Đài Loan xử lí nhún nhường, việc khai thác qua một năm vẫn dừng lại ở bước thu thập tư liệu và các công tác thực nghiệm. Cho đến sau này cũng không thực thi thực sự.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Nam Việt không tin tưởng phía Đài Loan, quyết định áp dụng biện pháp mạnh dạn hơn ở Trường Sa, tức là phái hạm đội đến Trường Sa tuần tra, giống như Đài Loan đã làm. Ngày 13/6/1961, hai tàu tuần tra của hải quân Nam Việt đến gần đảo Ba Bình, bị quân trú đóng Đài Loan phát hiện. Khi được hỏi, phía Nam Việt Nam nói là đó là chuyến huấn luyện đi xa, đi nhầm vào nơi này, quân trú đóng Trung Quốc không tìm hiểu thêm, yêu cầu họ rời đi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thực ra tàu Nam Việt không hẳn không có ý điều tra. Ngày 23/4/1962, lại có hai tàu chiến Nam Việt đến gần đảo Ba Bình và yêu cầu đổ bộ lên đảo, bị quân Đài Loan từ chối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 18/5/1963, Nam Việt Nam lên giọng tuyên bố rằng một hạm đội gồm 10 tàu hợp thành xuất phát trong ngày, đi đến “quần đảo Trường Sa mà Philippines yêu sách để xác định lại lần nữa chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này”, và còn tuyên bố là đó là “tuần tra theo thông lệ” hàng năm từ năm 1959 đến nay.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 22/5, quân Nam Việt đến đảo Ba Bình thả neo, thuyền trưởng Nguyễn Nguyệt Trường lên đảo hội đàm với Tư lệnh quân trú đóng Diêu Bình Luân, hỏi trên đảo có cư dân không, đồng thời tuyên bố Trường Sa vẫn là lãnh thổ Việt Nam. Sau đó rời đảo đi đến đảo khác. Trong chuyến đi này, Nam Việt đã phá huỷ bia đá Đài Loan dựng trên đảo Trường Sa Lớn năm 1946 và lập bia đá của Nam Việt, đồng thời cũng dựng bia đá của Nam Việt ở một số đảo không người khác. Đài Loan vội vã ra lệnh cho quân trú đóng đến các đảo kiểm tra xem xét. Tháng 6, chi đội Dương Uy đến đảo Sơn Ca (bãi Đôn Khiêm), đảo Nam Yết (Hồng Hưu) và đảo Loại Ta (Nam Thược) kiểm tra, phát hiện Nam Việt đã dựng bia đá bằng xi măng trên đảo Loại Ta, sĩ quan và binh lính lập tức phá bỏ. Tháng 10, chi đội Dương Uy lại tuần tra các đảo lần nữa, đổ bộ lên đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy), bãi An Bang (An Ba), đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp) và đá Song Tử Đông (Bắc Tử), đã phá huỷ cột mốc ranh giới mà Nam Việt dựng lên.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 19/5/1964, Nam Việt lại tiến hành tuần tra “theo thông lệ”, đến gần đảo Ba Bình, đo đạc thuỷ văn và yêu cầu lên đảo, sau khi bị quân trú đóng Đài Loan từ chối thì rời đi. Tháng 5/1967, hai tàu chiến của Nam Việt lại đến đảo Ba Bình. Loại hành động dựng cột mốc của mình, phá huỷ cột mốc của đối phương này hầu như trở thành tiết mục theo thông lệ hàng năm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hai bên Đài-Việt mỗi lần đều triển khai giao thiệp về vấn đề này, mỗi bên đều nhắc lại chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng cũng đồng ý dùng phương thức ngoại giao để giải quyết, không làm to chuyện. Trong những năm 1960, tranh chấp Trường Sa chủ yếu triển khai giữa Nam Việt và Đài Loan, đến năm 1968, Philippines bắt đầu tiến vào Trường Sa một lần nữa, gia nhập đội ngũ đổ bộ lên đảo dựng mốc giới.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.7 Phát hiện dầu khí ở biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào những năm 1960, tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông tạm lắng xuống, Chiến tranh Việt Nam là một nguyên nhân quan trọng. Năm 1955, Bắc Việt quyết định thống nhất Việt Nam bằng vũ lực. Với sự ủng hộ của Bắc Việt, Đảng Cộng sản ở miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng), tháng 1/1960 phát động vũ trang cách mạng, dùng sách lược nông thôn bao vây thành thị đọ sức với chính phủ Nam Việt. Chính phủ Ngô Đình Diệm của Nam Việt mặc dù nhận viện trợ Mĩ và có cố vấn quân sự Mĩ vẫn liên tiếp thất bại. Để chống lại chủ nghĩa cộng sản, Mĩ không thể không tăng cường giúp đỡ quân sự cho chính phủ Nam Việt. Tháng 5/1961, Phó Tổng thống Johnson trong thời gian thăm Việt Nam đã kí tuyên bố chung với Ngô Đình Diệm, phái 100 lính đặc nhiệm của quân đội Mĩ đến, mở đầu việc can thiệp quân sự chính thức. Thời gian này, do sự kiện bức tường Berlin mà Chiến tranh lạnh ngày càng leo thang. Chiến tranh Việt Nam xem như “chiến tranh nóng duy nhất trong Chiến tranh lạnh”, trở thành phương thức tốt nhất để biểu hiện quyết tâm bảo vệ thế giới tự do của Mĩ. Năm 1962, hai nước Xô, Trung ganh đua ủng hộ Bắc Việt và Việt Cộng để tranh giành địa vị lãnh đạo phe cộng sản. Trong tình hình chiến tranh Việt Nam leo thang, tầm quan trọng của biển Đông đối với Mĩ đã tăng lên. Quân đội Mĩ ngoài việc tiếp tục sự hiện diện của họ ở biển Đông từ sau Thế chiến thứ hai, còn xem biển Đông là phòng tuyến phong tỏa Bắc Việt và là chiến trường hậu thuẫn Nam Việt tấn công Bắc Việt trên biển. Năm 1965, Mĩ quyết định nâng cấp từ “Chiến tranh Đặc biệt” lên “Chiến tranh Cục bộ”. Ngày 9/5, Quân đội Mĩ định nghĩa vùng biển biển Đông bao gồm Hoàng Sa trong đó thành “khu vực chiến đấu” (Combat Zone). Thời gian này, toàn bộ vùng biển Đông đều bị quân Mĩ kiểm soát. Thực lực hải quân của Bắc Việt và Trung Quốc có hạn, chỉ có thể giới hạn ở vùng bờ biển nước mình. Để chống cộng, ba bên Đài Loan, Philippines, Việt Nam đều không muốn mở rộng tranh chấp lãnh thổ. Đến cuối thập niên 1960, “hiện trạng” của Trường Sa là Đài Loan chiếm đảo Ba Bình, Việt Nam có tuần tra Trường Sa định kì hàng năm, Philippines thì chủ yếu dựa vào “hành động cá nhân” kiểu như của Cloma ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì này, sự quan tâm của các nước vẫn là các lợi ích chiến lược và an ninh, cùng với nhân tố mang tính dân tộc như “chủ quyền lãnh thổ”. Trường Sa không hề thể hiện có lợi ích kinh tế quá lớn. Dù Trường Sa có ngư trường, và cũng có tài nguyên phốt phát nhất định trên các đảo, nhưng khoảng cách xa xôi, tiếp tế khó khăn; đảo nhỏ bé, khó để xây dựng căn cứ. Những khó khăn thực tế này đều làm giảm nhiệt tình khai thác Trường Sa của các nước. Philippines ở gần nhất, có thể vẫn có một số lợi ích ngư nghiệp nhưng cũng không phải quá quan trọng. Đài Loan tuyên bố khai thác Trường Sa nhưng dù đã thảo luận mười mấy năm vẫn dừng lại trên giấy. Vì vậy, xung đột Trường Sa luôn dừng lại trong phạm vi có thể kiểm soát. Tuy nhiên, việc phát hiện dầu khí ở biển Đông đã thay đổi triệt để tiến trình này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc trắc lượng biển và nghiên cứu địa chất đáy biển ở Đông Hải (biển Hoa Đông) và biển Đông đã bắt đầu từ trước Thế chiến thứ hai, về mặt này Nhật Bản đã tích lũy không ít số liệu. Chỉ có điều vào lúc đó, việc khai thác dầu khí dưới đáy biển vẫn là chuyện ngoài tầm với, vì không có ai chuyên môn nghiên cứu lĩnh vực này. Sau Thế chiến thứ hai, việc khai thác dầu khí dưới biển trở nên khả thi, thăm dò dầu khí ở đáy biển dần trở thành điểm nóng của giới khoa học và giới công nghiệp. Ở biển Hoa Đông và biển Đông, công trình có liên quan đến dầu khí ở đáy biển sớm nhất có khả năng là “Sự phân bố của các trầm tích tầng đá lục địa ở Đông Á” do các nhà địa chất học Mĩ F. P. Shepard, K.O. Emery và H.R. Gould công bố năm 1949.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, trọng tâm nghiên cứu ở biển Đông của báo cáo này vẫn là tầng trầm tích đáy biển ven bờ bán đảo Đông Dương, chưa có nhiều nghiên cứu về địa chất vùng xa bờ biển Đông, công nghệ được sử dụng chưa đủ để khẳng định ở đáy biển Đông có dầu hay không. Sau đó, K.O. Emery chuyển sang nghiên cứu địa chất ở bang California của Mĩ và vịnh Ba Tư (Persian Gulf)). Đến cuối những năm 1950, ông đã trở thành giáo sư địa chất biển, Học viện Công nghệ Massachusetts, và bắt đầu quan hệ hợp tác lâu dài với giáo sư Hiroshi Niino ở Khoa Địa chất, Đại học Thuỷ sản Tokyo, cùng nhau tiến hành khảo sát địa chất đáy biển Hoa Đông và biển Đông. Ngay từ những năm 1930, Hiroshi Shinno đã tham gia nghiên cứu địa chất biển trên khắp Nhật Bản, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và số liệu về địa lí địa chất khu vực này. Sự hợp tác của hai người nhanh chóng mang lại kết quả. Tháng 10/1955, họ cùng nhau nộp một bài viết có tên là “Đá trầm tích vùng biển cạn của biển Hoa Đông và biển Đông”, được công bố trên tạp chí học thuật của Mĩ là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tập san Hội Địa lí học Hoa Kì</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” vào tháng 5/1961.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Qua nghiên cứu hơn 1 000 mẫu đất đá gần bờ của vùng bờ biển kéo dài từ Hoàng Hải đến vịnh Bắc Bộ, bài báo đã thảo luận cấu tạo địa chất của Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông, đưa ra giả thuyết ở nơi giáp giới của Hoàng Hải và biển Hoa Đông cũng như phần trung tâm của vịnh Bắc Bộ có thể có trầm tích cacbon hữu cơ (tức dầu mỏ). Bài viết này được cho là bài viết sớm nhất cho rằng đáy biển Hoa Đông và biển Đông có dầu mỏ dựa vào số liệu thực nghiệm của khảo sát thực tế (chứ không phải là chỉ là lí luận và suy đoán).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả nghiên cứu này đã khơi ra một loạt hoạt động khảo sát tiếp sau. Năm 1958, Hội nghị hải dương thứ nhất của Liên Hợp Quốc đã lập ra 4 công ước lớn như “Công ước thềm lục địa” (xem V.2), đã thúc đẩy thêm một bước việc khảo sát tài nguyên thềm lục địa biển Đông. Ở phía biển Đông có hai lực lượng khảo sát quan trọng nhất – Cục Đo đạc biển của hải quân Mĩ và Liên Hợp Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quân Mĩ chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cuộc chiến chống tàu ngầm mà khảo sát địa hình đáy biển, đồng thời cũng mong muốn nhân tiện thu được nhiều hơn tư liệu có ích về địa chất. Trong những năm 1960, Hải quân Hoa Kì đã tiến hành nghiên cứu thường xuyên và liên tục về địa từ và sóng địa chấn ở biển Hoa Đông và biển Đông, và đã đạt được những tiến bộ đáng kể và thu được nhiều dữ liệu có ích. Hành động chủ yếu bao gồm: năm 1961, tàu khảo sát “Pioneer” được phái đi khảo sát tổng hợp về hải dương biển Đông; Năm 1966, tàu “Likhoboff” được cử đi khảo sát địa chất thuỷ văn và lực từ ở biển Đông; năm 1967, “Dự án Địa từ” được tổ chức để tiến hành đo đạc từ tính hàng hải quy mô lớn ở biển Đông và phía Bắc thềm lục địa quần đảo Sunda, mặt cắt từ tính hàng hải quần đảo Hoàng Sa, Macclesfield (Trung Sa) và Trường Sa; tháng 9/1967 đến tháng 2/1968, cùng với Việt Nam, Thái Lan, Malaysia tiến hành quan trắc hàng hải theo mặt cắt với chiều dài 20 000 km ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, bên thăm dò biển Đông quan trọng hơn là Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc không lâu đã thành lập Uỷ Ban Kinh tế Châu Á và Viễn Đông (Economic and Social Commission for Asia and the Far East, ECAFE), năm 1974 đổi tên là Uỷ ban Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, ESCAP), như là tổ chức điều phối thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Viễn Đông. Dựa trên thành quả khảo sát của K.O. Emery cũng như một số nghiên cứu tiếp sau đó (chủ yếu là bắt nguồn từ tư liệu địa từ công khai của hải quân Mĩ), cần một tổ chức có tính khu vực để cùng khai thác. Vì vậy, vào năm 1966 Liên Hợp Quốc đã thành lập cơ quan chung CCOP (Committee for the Coordination of Join Prospecting for Mineral Resources in Asian Offshore Area: Uỷ ban điều phối các hoạt động thăm dò chung về tài nguyên khoáng sản ở khu vực ngoài khơi châu Á) để cùng chia sẻ số liệu đo đạc đáy biển, điều hợp việc khảo sát tài nguyên khoáng vật dầu mỏ ở vùng biển Đông Á. Nước thành viên ban đầu có Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và Philippines, sau đó là Mĩ, Anh, Pháp và Tây Đức gia nhập với tư cách là nước cố vấn hoặc điều phối. Tiếp sau đó, Thái Lan, Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt), Campuchia, Malaysia và Indonesia cũng lần lượt gia nhập. Do đó, Uỷ ban này đã trở thành cơ quan chính thức khảo sát tài nguyên dầu mỏ biển Hoa Đông và biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở biển Hoa Đông, từ tháng 10 đến tháng 11/1968, CCOP tổ chức đoàn khảo sát liên hợp 4 bên Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tiến hành khảo sát quy mô lớn hơn trên biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Báo cáo điều tra</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chỉ ra thềm lục địa biển Hoa Đông và đáy biển Hoàng Hải có rất nhiều khả năng có dầu và khí thiên nhiên; còn khu vực giữa Nhật Bản và Đài Loan, tức vùng biển gần đảo Điếu Ngư (Senkaku) thì có tiềm năng trở thành khu vực khai thác dầu khí có trữ lượng phong phú tầm cỡ thế giới. Điều này đã gây ra tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với đảo Điếu Ngư.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở biển Đông, vào năm 1968 CCOP cũng nộp một báo cáo khác, chỉ ra rằng vùng ven bờ và vùng biển lân cận của Việt Nam, vùng biển phía Đông và phía Nam của quần đảo Trường Sa chứa đựng tài nguyên dầu khí phong phú.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian từ tháng 6 đến tháng 8/1969, tàu khảo sát “Hunter” của Mĩ dưới sự chỉ huy của Viện Nghiên cứu Hải dương Hoa Kì, đã tiến hành khảo sát 5 lần ở khu vực biển Đông. Báo cáo khảo sát cho thấy vùng biển này chủ yếu là các núi có đáy là đá magma, giữa các ngọn núi đều có bồn trũng do trầm tích hình thành, có khả năng chứa khối lượng lớn dầu khí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Những báo cáo này, đã kích thích thêm một bước các nước tăng tốc việc kiểm soát chủ quyền đối với các đảo biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những hoạt động đo đạc này dường như cùng lúc với việc các nước Đông Nam Á nối tiếp nhau đưa ra yêu sách thềm lục địa và phân định vùng biển: năm 1961, Philippines công bố Luật đường cơ sở lãnh hải (xem IV.8); năm 1966, Malaysia công bố Luật thềm lục địa (xem IV.11); năm 1967, Nam Việt Nam tuyên bố thềm lục địa và tài nguyên thềm lục địa thuộc quyền quản lí riêng của Việt Nam (xem IV.9); năm 1968, Philippines tuyên bố phạm vi thềm lục địa (xem IV.8); năm 1968, Indonesia và Malaysia đạt được thỏa thuận phân định vùng biển (xem IV.11); năm 1970, Nam Việt Nam công bố “Luật dầu khí” (xem IV.9)... Cuộc tranh giành biển Đông giữa các nước bước vào giai đoạn mới.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.8 Philippines chiếm đóng quần đảo Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Công bố luật lãnh hải</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines đi đầu trong vòng mới của cuộc chiến tranh giành các đảo với việc ban hành luật lãnh hải. Với tư cách là một quốc gia quần đảo, Philippines dốc hết sức vào cuộc tranh giành quyền lợi biển. Năm 1958 Liên Hợp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật biển lần thứ nhất, và kí “Công ước Luật biển Geneva”, Công ước này cấu thành từ 4 hiệp ước, lần lượt là “Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp”, “Công ước về Thềm lục địa”, “Công ước về Hải phận Quốc tế” và “Công ước về Nghề cá và Bảo tồn tài nguyên sống ở vùng biển quốc tế”. Sau khi kí, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất (cũng là một bên kí Công ước nhưng mãi đến sau khi xảy ra tranh chấp đảo Điếu Ngư, Đài Loan mới phê chuẩn). Ngày 17/6/1961, Tổng thống Garcia ban hành luật số 3046 “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật xác định đường cơ sở của lãnh hải của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Republic Act No. 3046, Act for define the baseline of the territorial sea of the Philippines, June 17, 1961), quy định vùng biển Philippines bao gồm vùng nội thuỷ và lãnh hải, và đã xác định rõ đường cơ sở lãnh hải (Hình 29):</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy các hiệp ước trên quy định vùng nước bên trong biên giới đều thường được xem là một bộ phận vùng biển của quần đảo Philippines; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét rằng tất cả vùng nước bao quanh, đan xen và liên kết giữa các đảo của quần đảo Philippines, bất kể bề rộng hoặc diện tích lớn nhỏ của chúng thường được cho là bộ phận phụ thuộc tất yếu của lãnh thổ đất liền, cấu thành một bộ phận vùng nước nội địa (inland) hoặc nội bộ (internal) của lãnh thổ Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét rằng vùng nước ở ngoài các đảo xa nhất của quần đảo nhưng nằm trong phạm vi biên giới mà các hiệp ước kể trên quy định tạo thành lãnh hải Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét rằng đường cơ sở của lãnh hải của Philippines đã được xác định là các đường thẳng nối các điểm cơ sở thích hợp của các đảo liên tiếp ngoài cùng tạo thành;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước khi các bên liên quan có thể có được thông tin, cái gọi là đường cơ sở nói trên cần được làm sáng tỏ, xác định và mô tả cụ thể.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 464px; overflow: hidden; width: 361px;"><img height="464" src="https://lh6.googleusercontent.com/gQx1-EyBqEz1zF4DzbhwWyN41oDG8m7FolPbcb5shMemNgfPf0qjhm2cdqNt4-26AopnUwbWHc9TYd18n7a8FIyM3CcWNAmHAqdtCnUuRRtFkEOkLvmQsx54teJSUbH-xTWxJsHfYEZykbLVEbN_X0c" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="361" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 29: Đường cơ sở lãnh hải của Philippines</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines còn đưa ra tọa độ của các điểm cơ sở rất chi tiết. Như hình 29 cho thấy, theo luật này, bên trong đường cơ sở (đường liền nét) là nội thuỷ của Philippines, vùng biển ngoài đường cơ sở nhưng trong đường ranh giới của hiệp định (đường chấm vạch) là lãnh hải của Philippines. Đáng để chỉ ra là đường cơ sở lãnh hải của Philippines khi đó không bao gồm quần đảo Trường Sa và bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham), chúng cũng đều ở ngoài đường giới hạn lãnh hải (tức đường phân định của hiệp ước) (một phần của một số bãi ngầm thuộc Trường Sa nằm trong đường phân định của hiệp ước, ở đây không đi sâu nghiên cứu).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguyên nhân khiến bãi Scarborough không được bao gồm vào có thể là do sau khi ban bố Luật này Philippines mới cắm cờ, bắt buôn lậu và tiễu phỉ ở bãi Scarborough (xem phần sau). Nguyên nhân không bao gồm quần đảo Trường Sa có thể là do chú ý đến quan hệ quốc tế. Điều này cũng lại một lần nữa cho thấy rằng Garcia tương đối biết giữ chừng mực.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật này có thể xem là di sản cuối cùng mà Garcia để lại cho quyền lợi biển của Philippines. Mấy tháng sau, ông ta bị thua trước Macapagal của Đảng Tự do cánh tả (Diosdado Pangan Macapagal, cha của Tổng thống Arroyo sau này) trong cuộc tổng tuyển cử. Macapagal không có nhiều hành động cho biển Đông. Nhưng 4 năm sau đó (ngày 30/12/1965) Ferdinand Marcos lên nắm quyền, tình hình biển Đông lại có sự thay đổi. Marcos và Garcia đều thuộc Đảng Quốc dân phe hữu. So với Garcia, ông ta chống cộng kiên quyết hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 10/1966, để đối phó với chiến tranh Việt Nam, ông ta đã chủ trì hội nghị của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á tại Manila, lấy lí do ủng hộ quân Mĩ, ông đã phái quân Philippines đến Việt Nam, khiến cho quan hệ đồng minh với Mĩ càng trở nên thân thiết hơn. Cuối nhưng năm 1960, phong trào cộng sản vũ trang trỗi dậy và phát triển, Quân đội Nhân dân Mới hình thành; học sinh phe tả cũng chịu ảnh hưởng của phong trào cánh tả, phát động Phong trào Bão tố Quý I (First Quarter Storm); các phần tử chủ nghĩa ly khai Hồi giáo ở miền Nam cũng tăng cường hoạt động vũ trang. Trong tình hình này, trong nhiệm kì thứ hai (ngày 21/9/1972), Marcos tuyên bố lệnh giới nghiêm, huỷ bỏ quy định chỉ được phục vụ hai nhiệm kì liên tiếp theo Hiến pháp ban đầu, thậm chí lấy lí do lệnh giới nghiêm để huỷ bỏ bầu cử Tổng thống, đi theo con đường độc tài. Philippines dưới sự lãnh đạo của ông, cùng với lợi ích dầu mỏ, và thêm lí do chống cộng và chủ nghĩa dân tộc, chính phủ đã bắt đầu đưa chính sách mới cho Trường Sa lên hàng đầu. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/3/1968, Philippines ra Tuyên cáo số 370, tuyên bố rằng tất cả khoáng vật và tài nguyên thiên nhiên khác ở đáy biển và trên tầng đất cái ở tất cả thềm lục địa giáp Philippines, bao gồm phạm vi biển từ ngoài khu vực lãnh hải Philippines đến nơi có độ sâu cho phép khảo sát những tài nguyên này, bao gồm các vùng biển lân cận có các giống sinh vật sống định cư, đều thuộc sự quản lí và kiểm soát của Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thông qua lệnh này, thềm lục địa mà Philippines có thể kiểm soát hợp pháp vượt ra ngoài ranh giới của hiệp ước, đặt nền tảng pháp lí cho việc mở rộng hơn nữa các quyền ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiếm đóng quân sự</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, Philippines cũng bắt đầu có hoạt động mới ở Trường Sa. Ngày 5/4/1968, Philippines phái tàu chiến đến gần đảo Ba Bình, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tàu chiến Philippines tiến vào biển Đông. Quân trú đóng Đài Loan hết sức kinh hãi, phát đèn tín hiệu tra hỏi không nhận được trả lời. Quân Đài Loan phải bắn chỉ thiên cảnh cáo thì tàu Philippines mới rời đi. Sau khi biết tin, Bộ Quốc phòng Đài Loan quyết định: (1) khi có sự kiện tương tự như vậy thì cố khuyên giải họ rời đi; (2) phải báo với Bộ Ngoại giao, nhưng tránh dùng công hàm chính thức để thông báo cho chính phủ Philippines nhằm tránh làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo chỉ thị này, tùy viên quân sự ở Đại sứ quán tại Philippines đã đề xuất với hải quân Philippines rằng nếu sau này tàu chiến Philippines muốn đến gần quần đảo Trường Sa thì cần phải thông báo cho phía Đài Loan trước để tránh hiểu nhầm. Phía Philippines trả lời, nói với phía Đài Loan rằng Philippines hiện đang giải quyết vấn đề Sabah, không hề để ý đến Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng chẳng bao lâu, Philippines lại chính thức ra tay hành động. Ngày 23/8/1970, Philippines phái tàu chiến chiếm đảo Vĩnh Viễn (Mã Hoan, đặt tên là Lawak) và cử quân đóng lại trên đảo, ngày 14/4/1971 chiếm đảo Loại Ta (Nam Thược, đặt tên là Kota Island); ngày 18/4/1971 chiếm đóng đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp, đặt tên là Pagasa Island), trên hai đảo này đều cử quân trú đóng, những hành động này đều được thực hiện lặng lẽ, Đài Loan và Bắc Kinh khi đó đều hầu như không biết gì về việc này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, Philippines bước vào mùa tranh cử Quốc hội, nhằm tạo cao trào trong dư luận, lãnh đạo Đảng Tự do đối lập là Ramon V. Mitra đã có bài phát biểu tại phiên họp đặc biệt của Quốc hội ngày 7/7/1971, nói rằng ông lái du thuyền đi câu cá ở vùng biển phía tây Palawan vào cuối tuần trước, và hai lần bị đại bác tầm xa từ hướng “Lãnh thổ Tự do” (tức Trường Sa) bắn tới. Ông dùng ống nhòm quan sát về phía pháo bắn, phát hiện có “quân nước ngoài” trú đóng trên một hòn đảo. Sau đó ông ta đi máy bay tư nhân quan sát, xác nhận đảo này là đảo Vĩnh Viễn, trên đảo có quân Trung Hoa Dân Quốc đóng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, nội dung phát biểu của Mitra chỉ là hư cấu, ông ta là người Palawan, khu vực tuyển cử cũng tại Palawan, có thể ông tương đối hiểu rõ việc ở Trường Sa nên đã thêu dệt ra câu chuyện “đi câu cá bị bắn pháo” để tạo ra điểm nóng. Thực ra, đóng trên đảo Vĩnh Viễn khi đó không phải quân Trung Hoa Dân Quốc mà là quân Philippines. Sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Philippines biết tin, đã lập tức phái người đi điều tra, cũng xác nhận không có sự kiện bắn pháo nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sự việc này đã mang đến cho Philippines một cơ hội ngoại giao. Ngày 8/7, Ngoại trưởng Philippines Carlos P. Rómulo triệu tập Đại sứ Đài Loan tại Philippines Tôn Bích Kì, nói rằng sự kiện bắn pháo tuy là không có thật, nhưng nếu quân trú đóng của Đài Loan ở Trường Sa tùy tiện nổ súng thì không tránh khỏi bị nghi ngờ là khiêu khích; Tổng thống Marcos cho rằng Trường Sa cách Đài Loan rất xa, không ảnh hưởng an ninh Đài Loan, yêu cầu Đài Loan rút quân đóng giữ trên đảo. Tôn Bích Kì trả lời Trường Sa là lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc, đóng quân ở đó có lợi cho quốc phòng của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Tôn Bích Kì không thể ngăn cản Philippines có thêm hành động tiếp. Ngày 10/7, Marcos tổ chức Hội nghị an ninh quốc gia, bao gồm chủ tịch hai viện, các lãnh đạo quan trọng của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và Quân đội cũng tham gia Hội nghị. Sau Hội nghị, Marcos chính thức tuyên bố rằng ông đã phê chuẩn công hàm ngày 8/7 do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đề xuất yêu cầu Đài Loan rút quân khỏi Trường Sa, đồng thời tuyên bố đã đóng quân ở trên 3 đảo chính của Trường Sa (tức 3 đảo nhắc đến ở trên). Hội nghị an ninh quốc gia cho rằng quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị của Đồng minh, tiếp giáp với lãnh thổ Philippines, nếu để mặc cho quân đội nước ngoài chiếm đóng sẽ tạo thành mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Marcos còn cho rằng theo luật quốc tế thì tư nhân không thể có được chủ quyền lãnh thổ một cách hợp pháp, cho nên trên thực tế Lãnh thổ Tự do của Cloma đã chuyển nhượng cho chính phủ Philippines. Ngoài ra, Luật Dầu khí của Philippines đã quy định tất cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản phát hiện ở thềm lục địa Philippines đều thuộc chính phủ Philippines, mà quần đảo Trường Sa ở ngay trên thềm lục địa của Philippines. Sau Hội nghị an ninh, với đề xuất của nhóm Mitra, Quốc hội Philippines lập tức thông qua nghị quyết cấp 1 triệu Peso để khai thác quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài việc đưa ra kháng nghị, Đài Loan không có cách ứng phó nào khác. Ngay cả trong Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 Hội đồng châu Á Thái Bình Dương tổ chức từ ngày 14 đến 16/7 tại Manila, để tránh ảnh hưởng đến sự đoàn kết của các nước, Đài Loan đã chọn không đưa vấn đề này ra thảo luận trong cuộc họp. Ngay trước Hội nghị vào ngày 13, một thông cáo chung được đưa ra, tuyên bố rằng hai bên có quan điểm khác nhau về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, nhưng cả hai đều sẵn sàng giải quyết theo cách hòa bình. Cùng ngày, Nam Việt và Trung Hoa cộng sản cũng ra tuyên bố, phản đối đòi hỏi chủ quyền của Philippines đối với Trường Sa. Ngày 18/7, Marcos tuyên bố Lãnh thổ Tự do mà Philippines chiếm đóng không thuộc quần đảo “Spratly”. Rõ ràng, Philippines cũng tiếp tục giả vờ nhầm lẫn về vấn đề địa danh (xem IV.2).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1971, tình hình thế giới có nhiều biến động. Để chống lại Liên Xô, Mĩ và Trung Hoa cộng sản đã tiến hành “ngoại giao bóng bàn” vào tháng 4/1971, sau đó cố vấn an ninh quốc gia Kissinger bí mật thăm Trung Quốc làm tan băng quan hệ Trung-Mĩ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/1971, Trung Hoa cộng sản tích cực tìm cách giành địa vị đại diện hợp pháp của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc. Ngày 15/7, tại Đại đồng Liên Hợp Quốc, Albania cùng 17 nước khác đề xuất vấn đề “khôi phục quyền lợi hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại tổ chức Liên Hợp Quốc” vào chương trình nghị sự của Đại hội Liên Hợp Quốc khóa 26.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/9, 23 nước đưa ra dự thảo nghị quyết, yêu cầu “t</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hừa nhận đại diện của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại tổ chức Liên Hợp Quốc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong 5 nước thường trực của Hội đồng Bảo an, quyết định khôi phục tất cả quyền lợi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thừa nhận đại diện chính phủ của họ là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, đồng thời trục xuất ngay đại diện của Tưởng Giới Thạch ra khỏi ghế mà họ chiếm giữ phi pháp ở tổ chức Liên Hợp Quốc và tất cả tổ chức dưới quyền</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong cuộc biểu quyết ngày 25/10, dự thảo (sửa đổi) được thông qua với tỉ lệ lớn với 76 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 17 phiếu trắng, thành Nghị quyết số 2758. Từ đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong tư cách là đại diện của Trung Quốc..</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong mấy tháng này, Trung Hoa Dân Quốc bị công kích nặng nề về ngoại giao, và đã cố hết sức để giải quyết vấn đề ghế tại Liên Hợp Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines nhân cơ hội đưa ra vấn đề Trường Sa, ngoài việc bày tỏ kháng nghị và phản đối, thực tế Đài Loan hoàn toàn không có cách nào phản ứng mạnh hơn. Trọng điểm ngoại giao của Trung Hoa cộng sản là sự công nhận của quốc tế, nên vấn đề này cũng nằm ngoài tầm chú ý của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Nam Việt cũng đang có chiến tranh. Lợi dụng các bên không có thời gian chú ý đến, ngày 30/7 Philippines lại lần nữa điều tàu chiến, chiếm đóng đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt, đặt tên là Likas) và đảo Song Tử Đông (Bắc Tử, đặt tên là Parola). Như vậy đến tháng 8/1971, Philippines đã chiếm tổng cộng 5 đảo ở Trường Sa, và đóng quân trên toàn bộ các đảo này. Theo nguồn tin của Đài Loan, ngày 29/7, chi đội hải quân (chiến đội tàu chở chiến xa đổ bộ Thái Hồ, Thái Khang và Trung Túc - đại đội tăng cường) phát hiện quân Philippines đang đổ bộ lên đảo Trung Mĩ (Thị Tứ).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chi đội trưởng Thượng tá Hách Đức Vân chuẩn bị tiến công giành lại nhưng nhận được mệnh lệnh không cho phép khiêu chiến.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 26/10, một ngày sau khi Đài Loan rời khỏi Liên Hợp Quốc, Tổng Tham mưu trưởng Philippines Manuel T. Yan thông báo rằng ngày 23/10, tàu khu trục số 25 và 34 của hải quân Đài Loan thử phái người nhái đổ bộ lên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp) nhưng thất bại vì bị quân trú đóng Philippines chống trả; ngày 26/10 cũng có tàu hải quân Đài Loan thử đổ bộ lên đảo Loại Ta (Nam Thược), cũng bị quân trú đóng Philippines chống lại. Ông tuyên bố, Philippines đã kiểm soát 6 đảo của Trường Sa (ngoài 5 đảo kể trên còn có đảo Song Tử Tây (Nam Tử)), đồng thời tuyên bố hễ đảo nào có quân đội Đài Loan đóng giữ, Philippines đều không đến gần, nhưng mong muốn Đài Loan cũng không tiếp cận các đảo mà quân Philippines chiếm giữ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sửa đổi Hiến pháp</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tiến hành công tác pháp luật. Khi đó Philippines sử dụng Hiến pháp năm 1935.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Philippines comprises all the territory ceded to the United States by the Treaty of Paris concluded between the United States and Spain on the tenth day of December, eighteen hundred and ninety-eight, the limits which are set forth in Article III of said treaty, together with all the islands embraced in the treaty concluded at Washington between the United States and Spain on the seventh day of November, nineteen hundred, and the treaty concluded between the United States and Great Britain on the second day of January, nineteen hundred and thirty, and all territory over which the present Government of the Philippine Islands exercises jurisdiction.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines bao gồm tất cả lãnh thổ được nhượng lại cho Mĩ theo Hiệp ước Paris được kí kết giữa Mĩ và Tây Ban Nha ngày 10 tháng 12 năm 1898, ranh giới được đề cập trong điều 3 của hiệp ước này cùng với tất cả các đảo được nêu ra trong hiệp ước được kí kết tại Washington giữa Mĩ và Tây Ban Nha vào ngày 7 tháng 11 năm 1900, và trong hiệp ước được kí kết giữa Mĩ và Anh ngày 2/1/1930, và tất cả lãnh thổ mà Chính phủ quần đảo Philippines hiện nay đang thực thi quyền lực pháp lí”.</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong điều này, lãnh thổ Philippines có phạm vi được quy định trong các hiệp ước (đều không bao gồm Trường Sa), cũng như những vùng đất mà chính phủ lúc đó (chỉ thời kì 1935) thực thi quyền tài phán (nhưng khi đó Philippines không hành xử quyền tài phán ở Trường Sa), nên trong Hiến pháp này, Trường Sa đã bị loại trừ. Vì vậy, Philippines cần phải sửa đổi Hiến Pháp mới tiện đưa Trường Sa vào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ năm 1970 Philippines tiến hành soạn thảo Hiến pháp, dù mục đích chủ yếu nhất không phải để sửa đổi phạm vi lãnh thổ mà là thay đổi chế độ Tổng thống thành chế độ Quốc hội, nhưng họ cũng muốn nhân cơ hội này để giải quyết luôn vấn đề pháp lí của lãnh thổ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 26/7/1971, dân biểu Jose de Venecia Jr. đề xuất đưa Lãnh thổ Tự do vào trong phạm vi lãnh thổ của Hiến pháp mới. Còn Chủ tịch Uỷ ban Lãnh thổ Quốc gia (Committee on National Territory) thậm chí chủ trương đưa Lãnh thổ Tự do, Sabah (Malaysia), quần đảo Mariana (Mĩ), đảo Guam (Mĩ) và đảo Bataan vào trong Hiến pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, do cách làm thế này liên quan quá nhiều đến quan hệ ngoại giao, điều khoản sửa đổi lãnh thổ quốc gia thông qua ngày 17/2/1972, đã sử dụng hình thức diễn tả chiết trung và mơ hồ:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The national territory comprises the Philippine archipelago, with all the islands and waters embraced therein, and all the other territories belonging to the Philippines by historic or legal title, including the territorial sea, the air space, the subsoil, the sea-bed, the insular shelves, and the submarine areas over which the Philippines has sovereignty or jurisdiction. The waters around, between, and connecting the islands of the archipelago, irrespective of their breadth and dimensions, form part of the internal waters of the Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ quốc gia bao gồm quần đảo Philippines, với tất cả các đảo và vùng nước bao bọc trong đó, và tất cả các lãnh thổ khác thuộc về Philippines qua sở hữu (danh nghĩa) lịch sử hoặc pháp lí, bao gồm lãnh hải, vùng trời, đất dưới lòng đất, lòng biển, các thềm đảo và các khu vực ngầm mà Philippines có chủ quyền hoặc quyền tài phán. Vùng nước xung quanh, giữa và nối các đảo của quần đảo, bất kể bề rộng và kích thước của chúng, tạo thành một phần nội thuỷ của Philippines.</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo đó, lãnh thổ Philippines hoàn toàn không dùng hình thức liệt kê, nhưng cũng không giới hạn trong phạm vi mà các hiệp ước quy định. Vì vậy, chính phủ Philippines sẽ có thể tuyên bố chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ không phải là một phần của Philippines trong hiến pháp ban đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chuyển nhượng nước Lãnh thổ Tự do (Freedomland)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trở ngại pháp luật thứ hai là tranh chấp với nước FreedomLand của Cloma. Cho dù Marcos tuyên bố FreedomLand đã chuyển nhượng cho Philippines nhưng trên thực tế khi đó không có cái gọi là quá trình chuyển nhượng. Cloma cũng cho rằng mặc dù trước đó ông ta từng yêu cầu đặt FreedomLand dưới sự bảo hộ của Philippines, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc chuyển nhượng, hơn nữa chính phủ Philippines cũng không bày tỏ thái độ rõ ràng. Ngày 30/9/1973, trong một buổi tọa đàm Cloma còn tuyên bố: nếu như chính phủ Philippines tôn trọng quyền tự chủ của ông ta đối với Freedomland, ví dụ treo cờ của Freedomland, lập cột mốc ranh giới, khai thác tài nguyên khoáng sản..., thì ông ta sẽ bằng lòng kí hiệp định với chính phủ Philippines, chuyển giao chủ quyền của Freedomland cho Philippines với những điều kiện nào đó. Khai thác tài nguyên khoáng sản ở đây là chỉ việc Cloma từng cấp một số “giấy phép chuyển nhượng khai thác mỏ”, cũng như việc tiếp xúc với một công ti dầu khí Mĩ về công việc có liên quan đến khai thác dầu khí dưới đáy biển theo như ông tuyên bố. Tại Quốc hội Lập hiến, Cloma tiếp tục chỉ trích chính phủ Philippines lấy danh nghĩa bảo hộ mà trên thực tế lại trợ giúp các nhân viên tiến hành thăm dò dầu khí và người “chiếm đoạt” đất đai ở khu vực này, đã xâm phạm quyền lợi của Freedomland, đồng thời ông lấy danh nghĩa “nguyên thủ của Freedomland” gửi điện cho Marcos, tố cáo “hành vi phi pháp” này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng chính phủ Philippines không hề để ý đến yêu sách này của Cloma. Tháng 3/1972, Uỷ ban Sử dụng hòa bình đáy biển Liên Hợp Quốc (The UN Committee on the peaceful uses of the seabed and the ocean floor) tổ chức hội nghị lần thứ 72. Đại biểu Trung Quốc đề xuất rằng chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa là thuộc về Trung Quốc, và yêu cầu Uỷ ban đưa điều này vào biên bản. Quyền Ngoại trưởng Philippines đã đưa ra tuyên bố ngay tại chỗ với các bảo lưu, và cũng yêu cầu Uỷ ban đưa vào biên bản: Philippines có chủ quyền đối với 53 đảo, đá của Freedomland, đồng thời tuyên bố những đảo, đá này đã nằm trong sự chiếm đóng và kiểm soát hiệu quả của Philippines, sự chiếm đóng này là công khai và độc quyền (which is open and adverse to all claims); ông ta đồng thời cũng công kích yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa của Trung Quốc (chỉ Trung Quốc Cộng sản), dẫn đến sự công kích kịch liệt của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy Philippines ngày càng có xu hướng không chú ý đến chính mình cũng như lo lắng bị Trung Quốc tấn công, Cloma quyết định chủ động giải quyết vấn đề tình trạng của Freedomland. Ngày 29/3/1972, Cloma thông qua bạn của mình – vốn là cựu quan chức ngoại giao Dr. Juan Arreglado, ra tuyên bố biểu thị rằng Cloma sẵn sàng tiến hành đàm phán về việc thiết lập quan hệ bảo hộ giữa Freedomland với chính phủ Philippines. Arreglado thì tuyên bố đã đề nghị đàm phán với Chủ tịch Quốc hội Philippines, mục đích là để cho Freedomland sớm trở thành nước được bảo hộ (protected state) của Philippines, đồng thời cho rằng điều này là để được sự công nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Philippines ở Trường Sa, cũng như đây là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề Trường Sa. Nhưng chính phủ Philippines không trả lời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung tuần tháng 4, để kỉ niệm 16 năm chuyến thám hiểm đầu tiên đến Freedomland, Croma có kế hoạch dẫn một nhóm người đến quần đảo Trường Sa để kiểm tra và ăn mừng. Do các đảo chính đều bị phía quân đội Philippines chiếm, hành động của nhóm Cloma bị ngăn lại, cuối cùng chỉ đành mất công quay về. Ngày 24/4, Cloma thành lập Uỷ ban Cố vấn (Advisory Council) của Chính phủ Freedomland do Arreglado đảm nhận chức Chủ tịch, cựu dân biểu Quốc hội Jose C .de Venecia đảm nhận chức Chủ tịch Danh dự, Luật sư Mena D. Teganas đảm nhận chức Bí thư. De Venecia đại diện Freedomland đề xuất với chính phủ Philippines hai việc: một là ủng hộ chủ quyền của Freedomland đối với Trường Sa; hai là chính thức kí thỏa thuận, giành được chủ quyền đối với Trường Sa từ Freedomland. Ngày 21/5, Cloma chính thức lên án Marcos đã xâm lược Freedomland với giới báo chí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu năm 1974, Cloma và Uỷ ban Cố vấn (đã đổi tên là Uỷ ban Tối cao -Supreme Council) soạn thảo Hiến pháp mới của Lãnh thổ Tự do, đề xuất tình trạng của Freedomland là “Đại Công quốc” (Principality), hoan nghênh nhân dân các nơi trên thế giới đến Đại Công quốc làm ăn sinh sống. Có nhiều người từ các nước châu Á, châu Âu đã gia nhập “Đại Công quốc”. Trong đó có một người là Thân vương Mariveles (Prince John B. de Mariveles). Lúc này, Marcos đã tiến hành đảo chính, thành lập chính phủ quân sự. Cloma năm đó 71 tuổi không thể không tăng nhanh hành động. Ngày 24/8, Đại Công quốc đã chuẩn bị văn kiện kế vị. Ngày 5/11, tại Manila, Cloma đã kí văn kiện (Documents 1096, Succession, 1974), từ bỏ chức Chủ tịch Đại Công quốc, đồng thời giao vị trí này cho Thân vương Mariveles. Đồng thời kí một văn kiện khác (số 1097) đổi tên Đại Công quốc thành Vương quốc Colonia (Kingdom of Colonia), do Thân vương Mariveles đảm nhận chức Quốc vương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi biết được việc này Marcos ra lệnh bắt Cloma, đổng thời tống giam ông ta với tội danh “giả danh lừa bịp” cáo buộc ông ta từng tự xưng Đô đốc hải quân Philippines, lại mặc quân phục hải quân phi pháp. Trong ngục, Cloma bị ép buộc kí một bản chứng thư, bán Freedomland cho chính phủ Philippines với giá 1 Peso (Deed of Cession to Philippines President Marcos), chỉ sau đó mới được thả. Từ đó, Philippines đã “thanh toán” quan hệ phức tạp giữa hai bên về mặt pháp lí qua việc mua “Freedomland”. Tuy nhiên, do Văn kiện 1096 được kí trước, văn kiện mua bán được kí sau, hơn nữa Cloma kí văn kiện dưới sự cưỡng ép, văn kiện mua bán có hiệu lực hay không vẫn còn tranh cãi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có học giả cho rằng, sơ hở về pháp luật này có thể khiến Vương quốc Cloma đóng một vai trò nhất định trong giải quyết tranh chấp Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban Cố vấn Freedomland, Arreglado lại cho rằng sự chuyển nhượng này là có hiệu lực.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, thời điểm ông ta bày tỏ quan điểm này là ngay dưới chế độ độc tài của Marcos, mức độ xuất phát từ nhận thức riêng của ý kiến của ông ta vẫn đáng để khảo cứu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Chính phủ lưu vong” của Vương quốc Colonia lập tức dời đến đảo Labuan thuộc bang Sabah của Malaysia. Thống đốc bang Sabah đã tiếp đãi thân mật Thân vương Mariveles, đồng thời giới thiệu ông ta với chính phủ Malaysia. Chính phủ Malaysia được cho là từng mời vương quốc Colonia gia nhập Liên bang Malaysia, nhưng bị từ chối một cách lịch sự. Tuy vậy, vương quốc Colonia và chính phủ Malaysia vẫn duy trì quan hệ tốt, Malaysia cho phép chính phủ lưu vong cư trú tại Sabah, đồng thời cho phép công dân có “hộ chiếu” do chính phủ này cấp được xuất nhập cảnh.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Colonia thì cung cấp cho Malaysia tư liệu về tài nguyên khoáng sản có liên quan của Trường Sa. Nghe nói điều này đã khiến Malaysia quan tâm đến Trường Sa, theoheo đó đã phái quân chiếm đóng đá Hoa Lau [Đạn Hoàn, Swallow Reef] (mặc dù thuộc quần đảo Trường Sa nhưng không trong phạm vi tuyên bố của Colonia).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1981, Vương quốc đổi tên là Vương quốc Colonia St John (Kingdom of Colonia St John). Nghe nói sau đó còn thiết lập quan hệ lãnh sự với Costa Rica. Ở đây gác lại không trình bày thêm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc ngầm đồng ý</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề thứ ba mà chính phủ Philippines gặp phải là sự ngầm thừa nhận của Trung Quốc. Liên tục trước nay Trung Quốc đều một mực cho rằng quần đảo Trường Sa là một bộ phận của Trung Quốc, đương nhiên do khoảng cách quá xa, nên nhất thời Trung Quốc khó có thể đe dọa trực tiếp quần đảo Nam Sa, nhưng sau khi Trung Quốc chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974 từ Nam Việt Nam, việc Trung Quốc kéo quân thẳng xuống phía Nam đã trở thành mối đe dọa thực tế. Hơn nữa, lập trường không chịu giúp đỡ Nam Việt về quân sự của Mĩ khiến Philippines càng thêm lo lắng (xem IV.9). Ngoại trưởng Philippines Rómulo chuyển giao yêu sách đối với Trường Sa của Trung Quốc cho Đại sứ Mĩ tại Philippines William H.Sullivan. Sullivan lập tức yêu cầu Bộ Ngoại giao làm rõ cam kết quốc phòng đối với Philippines, tức là liệu phạm vi áp dụng của “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” có bao gồm Trường Sa hay không. Sau khi bàn bạc với các phụ tá, Kissinger quyết định không chủ động đưa ra cam kết đối với việc phòng vệ quần đảo Trường Sa. Năm 1976, khi Philippines bị Trung Quốc phản đối khai thác mỏ ở bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc), Marcos đã chủ động yêu cầu Mĩ làm rõ liệu phạm vi sử dụng của “Hiệp ước phòng thủ chung giữa Mĩ và Philippines” có bao gồm quần đảo Nam Sa hay không. Nhưng nhiều lần cố gắng, cuối cùng phía Mĩ đồng ý đưa ra cam kết rằng “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” chỉ áp dụng thích hợp với máy bay, tàu chiến... của Philippines hoạt động ở bãi Cỏ Rong, tiền đề của nó phù hợp với quy định “giải quyết hòa bình tranh chấp và kiềm chế sử dụng vũ lực” của Điều 1 trong “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do Mĩ không muốn giúp đỡ Philippines phòng vệ Trường Sa, với quân đội rất nhỏ yếu của mình, nếu Trung Quốc cực lực phản đối, Philippines khó duy trì sự chiếm đóng và khai thác ở quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, tình hình thế giới vào những năm 1970 với Trung Quốc và Đài Loan tranh giành sự công nhận của quốc tế lại đem đến cho Philippines thời cơ tốt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau năm 1949, Trung Quốc đã nhiều lần triển khai tuyên truyền chống Philippines, bao gồm phát tán sản phẩm tuyên truyền và phát thanh... Cùng với sự đối đầu Trung-Xô, đặc biệt là sau khi Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, và sau trận chiến đảo Trân Bảo (Damansky Island) giữa Liên Xô và Trung Quốc năm 1969, Trung Quốc càng tăng cường hơn nữa quan hệ với các nước phương Tây để phá vỡ thế cô lập ngoại giao lâu nay. Về phía Philippines, khi Philippines bị bão vào năm 1970, Trung Quốc đã tặng cho Philippines thực phẩm đồ hộp trị giá 80 000 USD, mở ra cánh cửa tiếp xúc trực tiếp giữa Trung Quốc với Philippines. Cùng với sự tan băng quan hệ Trung-Mĩ và việc Trung Quốc giành được ghế ở Liên Hợp Quốc, sự qua lại giữa Trung Quốc và Philippines được tăng cường thêm một bước. Năm 1971, trong bài phát biểu về tình hình trong nước, Marcos nhấn mạnh rằng Philippines cần tìm kiếm một lộ trình thực tế và tăng cường quan hệ buôn bán với phe Liên Xô. Ngoại trưởng Rómulo cũng mong muốn tìm kiếm việc thiết lập quan hệ với phe cộng sản. Nhưng so với các nước phương Tây, Philippines có liên hệ chặt chẽ với Đài Loan, hơn nữa trong nước có vấn đề thực tế là số lượng lớn “Hoa kiều” chưa gia nhập quốc tịch.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, cũng khó mà thiết lập quan hệ với Trung Quốc ngay được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu những năm 1970, Philippines đã cử mấy đoàn đại biểu thăm Trung Quốc, đều thu được nhiều kết quả, khiến Philippines phải cân nhắc kĩ hơn vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng trong thời gian này, Philippines vẫn duy trì cách tiếp cận “hai Trung Quốc”, tức là đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao với cả Bắc Kinh lẫn Đài Loan. Sau khi quan hệ Trung-Nhật tan băng năm 1972, Philippines trở thành nước bạn lớn nhất của Đài Loan ở châu Á Thái Bình Dương, trong khi quyết tâm của Trung Quốc trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippines càng lớn hơn. Trung Quốc liên tục sử dụng “ngoại giao nụ cười”, một mặt triển khai ngoại giao bóng rổ, một mặt liên tục mời các nhân vật cấp cao Philippines đến Trung Quốc. Từ ngày 20 đến 29/9/1974, Imelda, vợ của Marcos, đi thăm Trung Quốc, đánh dấu một bước quyết định trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời gian thăm Bắc Kinh, Imelda nhận được sự tiếp đãi trọng thể nhất, không những được Chu Ân Lai, Giang Thanh... đón tiếp, thậm chí ngay cả Mao Trạch Đông cũng bất ngờ mời đến gặp. Mao Trạch Đông khi đó đang bị bệnh, đã lâu không tiếp kiến khách quốc tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông đã đứng đón Imelda ở cửa phòng tiếp khách, ông ta thậm chí gây bất ngờ khi cầm và hôn vào tay Imelda, đồng thời cũng mời bà và Marcos lần sau cùng đến thăm Trung Quốc lần nữa. Ngoài việc tiếp đãi long trọng, Trung Quốc còn vung nhiều tiền cho Philippines, đồng thời mở cửa thị trường trong nước cho nông sản của Philippines, và còn cung cấp dầu thô cho Philippines với giá rất ưu đãi. Khi đó, do Philippines trấn áp người Hồi giáo ở miền Nam, nguồn cung ứng dầu thô của các nước Ả Rập cho Philippines trở nên không ổn định, và Philippines đang cần gấp dầu thô. Trung Quốc bán cho Philippines 750 000 tấn (khoảng 5,7 triệu thùng) với giá USD 7,5 /thùng, trong lúc giá bán của các nước Ả Rập là USD 11 /thùng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau chuyến đi này, Imelda hoàn toàn trở thành “phe thân Trung Quốc”, và ngay lập tức ra sức thúc đẩy việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Dựa trên tình cảm cá nhân của Imelda (và Marcos), sự thân thiện và chính sách kinh tế của Trung Quốc, xu hướng quốc tế liên tục có nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, cùng với suy nghĩ thực tế về lãnh thổ Trường Sa, bất chấp truyền thống và ảnh hưởng mạnh mẽ của Đài Loan ở Philippines, Marcos cũng quyết tâm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Ngày 7/6/1975, Marcos và Imelda dẫn đầu một đoàn nhân sĩ quản lí cao cấp và giới công thương đến Bắc Kinh, nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt của Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong cùng một loạt quan chức đứng đầu chính phủ Trung Quốc... cũng như mấy ngàn người dân (khi đó Chu Ân Lai đã bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình là Thủ tướng trên thực tế) tại sân bay. Vào ngày hôm đó, Marcos và Imelda đã được Mao Trạch Đông tiếp đón, ngay cả Chu Ân Lai vốn bệnh nằm liệt giường cũng gặp mặt Marcos ở trong bệnh viện. Sau đó, Chu Đức, Giang Thanh, Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong... cũng lần lượt gặp Marcos. Đó có thể xuất phát từ sự thành thật mà cũng có thể là một loại sách lược, Marcos rất tôn sùng Mao Trạch Đông, trong diễn văn tại tiệc chiêu đãi ngày ông đến, ông đã nói rằng “Trung Quốc là lãnh tụ đương nhiên của Thế giới thứ ba”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Được sự tôn sùng như vậy, lại có việc Philippines bày tỏ việc thừa nhận “một nước Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc”, Trung Quốc hoàn toàn không để tâm đến hoạt động của Philippines ở biển Đông. Ngày 9/6, hai nước ra “Tuyên bố chung Trung Quốc- Philippines”, tuyên bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuộc đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước Trung Quốc và Philippines đã thảo luận vấn đề Trường Sa, nhưng nội dung cụ thể đến nay chưa công bố. “Thông báo chung Trung Quốc- Philippines” hoàn toàn không đề cập đến tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, chỉ tuyên bố:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ hai nước cho rằng khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị và xã hội giữa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Philippines sẽ không hề cản trở việc hai nước và nhân dân hai nước chung sống hòa bình cũng như xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Chính phủ hai nước đồng ý nguyên tắc nêu trên, không dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình tất cả các tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Trung Quốc miêu tả: “Khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh đạo của hai nước đã đạt được sự hiểu biết rằng các vấn đề liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp nên được giải quyết thông qua tham vấn hữu nghị khi mà hai bên cho là phù hợp.”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mấy năm sau đó, Philippines đã lần lượt công bố các thỏa thuận lúc bấy giờ. Ví dụ trong sự kiện bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc) năm 1976, Rómulo xác nhận rằng khi Marcos thăm Trung Quốc đã từng thảo luận tranh chấp Trường Sa, nhưng ông tuyên bố “không có vấn đề gì với Trung Quốc trong vấn đề Spratly”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 3/1978, trước lúc Phó Thủ tướng Trung Quốc Lí Tiên Niệm thăm Philippines, báo chí nước ngoài tiết lộ Philippines đã chiếm thêm một đảo ở Trường Sa (bãi Lan Can/ bãi Dương Tín/ Panata). Trong buổi họp báo sau chuyến thăm của Lí Tiên Niệm, Marcos tiết lộ trong cuộc gặp với Đặng Tiểu Bình năm 1975, hai bên có thỏa thuận rằng bất cứ xung đột trong bất cứ vấn đề nào ở Trường Sa đều phải thông qua “con đường ngoại giao thông thường thực sự để giải quyết, điều này có nghĩa là dùng biện pháp hiệp thương, trong không khí hữu nghị và hợp tác” để giải quyết vấn đề.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một bài phát biểu nội bộ của Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa ngày 30/7/1977 càng cho thấy rõ hơn cách nghĩ của Trung Quốc. Ông chỉ ra rằng “không có sự đồng ý của Trung Quốc thì việc tiến hành khai thác bất cứ tài nguyên nào ở quần đảo Trường Sa và đáy biển xung quanh đều là bất chính”, hiện nay “nước khác” có thể khai thác khu vực này theo ý muốn của mình, nhưng “khi thời cơ đến, chúng ta sẽ thu hồi, không cần đàm phán vì quần đảo này xưa nay thuộc về Trung Quốc”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Học giả Lo cho rằng do khi đó chỉ có Philippines tiến hành khai thác ở khu vực này, vì vậy nước khác trong phát biểu của Hoàng Hoa chỉ có thể là Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trên thực tế, vào lúc đó Malaysia cũng đang khai thác tài nguyên ở biển Đông, vả lại Malaysia còn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sớm hơn Philippines (ngày 31/5/1974), vì vậy nước khác trong bài phát biểu này có thể chỉ cả Philippines và Malaysia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, cho đến trước những năm 1990, ngay cả khi Philippines có hành động ở Trường Sa, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lặng, đặc biệt trái ngược khi so với thái độ của họ đối với Việt Nam. Trung Quốc nhiều lần nói thu hồi lại chủ quyền ở Trường Sa nhưng không có hành động, thậm chí không có tuyên bố mạnh mẽ hơn. Ví dụ khi Philippines chiếm bãi Lan Can (Dương Tín) vào năm 1978, Lí Tiên Niệm khi đến thăm Philippines tuyên bố rằng giữa Trung Quốc và Philippines không có điều lo lắng trong vấn đề Trường Sa (no trouble would ensue over the Spratly Island between China and Philippines)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1980, khi Philippines chiếm đóng đá Công Đo (Tư Lệnh), Trung Quốc cũng giữ im lặng như lần trước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kiểu thái độ nhún nhường này của Trung Quốc đối với Philippines cơ bản giống thái độ đối với Malaysia (xem phần sau). Chỉ có chỗ hơi khác một chút là: so thái độ nhún nhường mà Malaysia biểu hiện ra thì thái độ của Philippines cứng rắn hơn nhiều. Nhưng Trung Quốc cũng hết sức nhẫn nhịn, điều này cho thấy rằng Trung Quốc thực sự có thỏa thuận ngầm với Philippines khi đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, chính sách không can thiệp vào việc Philippines khai thác Trường Sa khi đó, rất có khả năng là một thỏa thuận ngầm mà Trung Quốc và Philippines đã đạt được lúc này. Nếu đúng như vậy, thì sẽ có nghĩa là Trung Quốc cũng tiếp tục chính sách “gác lại tranh chấp” khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, giữ việc “duy trì hiện trạng” ở quần đảo Trường Sa, thậm chí khoan dung hơn (cho phép Philippines tiến hành khai thác rầm rộ). Chính kiểu thái độ này đã đẩy nhanh tiến độ kiểm soát thực tế của Philippines ở Trường Sa, và củng cố vững chắc sự có mặt của Philippines ở Trường Sa. Sự kiểm soát thực tế của nước này bao gồm 3 khía cạnh: pháp lí, quân sự và khai thác dầu khí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tăng cường kiểm soát trên thực địa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về pháp lí, ngày 11/6/1978, Marcos ban bố Sắc lệnh số 1596 của Tổng thống, chính thức sáp nhập nhóm đảo Kalayaan (Kalayaan Islands Group, tức quần đảo Trường Sa không bao gồm đảo Trường Sa Lớn và các đảo, đá ở phía Tây của nó) vào lãnh thổ Philippines (Hình 30):</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 448px; overflow: hidden; width: 368px;"><img height="448" src="https://lh6.googleusercontent.com/a9wSm3BBwLYnvEHXk29G9LDHWpGM2uVjQvrPB4DhE9PzTfncemou_wzaT5cd4po0YyJzTHlULl4YnjUTfldFCCatM_NyTvsUmVpUcu-0kEjlbaAmmoqI2T_N1_0tMHmWRw6zyVBjc0RpmfjhLzFAnTo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="368" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 30: Sự thay đổi đường biên giới trên biển của Philippines</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy quan hệ gần gũi của một cụm các đảo và đá của biển Đông nằm trong nhóm đảo gọi là Kalayaan (Kalayaan Islands Group) (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi) có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh và sự tồn tại kinh tế của Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy phần lớn phạm vi kể trên là một bộ phận thềm lục địa của quần đảo Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét thấy những khu vực này về mặt pháp lí không thuộc bất cứ quốc gia hay dân tộc nào, tuy nhiên vì lí do lịch sử, nhu cầu thiết yếu, cũng như việc chiếm đóng và kiểm soát hữu hiệu được xác lập phù hợp với luật pháp quốc tế, những khu vực này hiện nay phải được xem là thuộc về và nằm dưới chủ quyền của Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét rằng dù có một số quốc gia tuyên bố chủ quyền tại một vài khu vực ở đây, nhưng yêu sách của họ trở nên vô hiệu do từ bỏ, họ không thể vượt trội hơn Philippines về mặt pháp lí, lịch sử hay sự hợp lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, hôm nay tôi, Tổng thống Philippines Marcos, dựa vào quyền lực mà Hiến pháp trao cho, ban hành sắc lệnh dưới đây:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục 1, khu vực nằm trong các giới hạn sau đây: nhóm đảo Kalayaan (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi), bao gồm đáy biển, lòng đất dưới đáy biển, thềm lục địa và vùng trời thuộc chủ quyền và nằm dưới chủ quyền của Philippines. Khu vực này qua đó thành lập một thị trấn tự trị đặc biệt của tỉnh Palawan, gọi là “Kalayaan</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng ngày, ông ta còn công bố Sắc lệnh 1599, thành lập vùng đặc quyền kinh tế:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục 1, thành lập một khu vực gọi là vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực trong vòng 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải; nếu như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của một nước liền kề thì ranh giới chung phải theo thỏa thuận với quốc gia liên quan hoặc theo các nguyên tắc phân giới được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo miêu tả này, vùng đặc quyền kinh tế cũng có quyền lợi giống như thềm lục địa. Nói cách khác, thềm lục địa mà Philippines yêu sách cũng kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải. Ngày 7/12, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Enrile tuyên bố Philippines đã kiểm soát 7 đảo nhỏ ở quần đảo Kalayaan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi kí kết “Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc” năm 1982, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất. Ngày 10/12/1982, khi kí Công ước, Philippines tuyên bố: “(4) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc kí kết này sẽ không xâm hại hoặc làm tổn hại đến chủ quyền của Philippines trong việc thực hiện các quyền chủ quyền trên các lãnh thổ của mình, chẳng hạn như quần đảo Kalayaan và vùng biển phụ thuộc nó</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, sau khi ranh giới hiệp ước của Philippines được vạch ra năm 1898, nó đã trải qua nhiều giai đoạn: trước khi độc lập, biên giới hiệp ước chỉ là một đường quy thuộc các đảo; đến năm 1955, Philippines bắt đầu đề xuất vùng biển bên trong đường biên giới hiệp ước là lãnh hải Philippines; năm 1961, Philippines xác định thêm một bước đường cơ sở lãnh hải, vùng biển phía trong đường cơ sở lãnh hải là nội thuỷ của Philippines, vùng nước nằm giữa đường biên giới hiệp ước và đường cơ sở lãnh hải là lãnh hải của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1979, Philippines đề xuất vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải, đồng thời đưa ra chủ quyền của Kalayaan cũng như khu vực “đường ranh giới đảo Kalayaan” thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về quân sự, tháng 3/1976, Philippines thành lập Quân khu miền Tây Philippines, và xây dựng căn cứ hải quân vịnh Ulugan trên đảo Palawan. Đồng thời, trên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp), Philippines đã xây dựng sân bay, máy bay loại nhỏ có thể cất và hạ cánh ở đó. Philippines có máy bay chiến đấu T-28 và máy bay vận tải C-47, định kì 1 tuần 2 lần đến đảo làm nhiệm vụ. Thời gian này Philippines có ưu thế trên không, máy bay quân sự cất cánh từ đảo Palawan của Philippines đến Trường Sa vẫn có thể tác chiến 30 phút sau đó (chưa nói tới sân bay trên đảo Thị Tứ), trong khi máy bay bay từ đất liền Việt Nam chỉ có thể có thể tác chiến 10 phút sau khi đến Trường Sa. Năm 1976, quân Việt Nam đóng trên đảo Song Tử Tây (Nam Tử) nổ súng vào máy bay quân sự Philippines (đảo Song Tử Tây rất gần đảo Song Tử Đông (Bắc Tử) do Philippines chiếm). Marcos ban đầu tăng thêm binh lực ở quần đảo Trường Sa, cho đến năm 1978, tổng quân số của Philippines trên các đảo, đá gần 1 nghìn người, vượt xa quân số của Việt Nam (khoảng 350 người).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/4/1982, Thủ tướng Philippines Cesar E.A. Virata đã đi thị sát công trình quân sự trên đảo Thị Tứ (Pagasa). Thời gian này, Philippines đang có kế hoạch xây dựng bến cảng mới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo nghiên cứu khi đó của Đài Loan, Philippines đã chiếm 7 đảo, đá gồm Loại Ta (Nam Thược), Thị Tứ (Trung Nghiệp), Bến Lạc (Tây Nguyệt), Song Tử Đông (Bắc Tử), Vĩnh Viễn (Mã Hoan), Bình Nguyên (Phí Tín) và bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc). Trừ đảo Bình Nguyên và bãi Cỏ Rong không rõ tình hình đóng quân, các đảo khác đều có 1 trung đội trú đóng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1978, Philippines chiếm bãi An Nhơn / Lan Can (Dương Tín, Panata, Lankiam Cay, khi đó báo chí Trung Quốc gọi là đảo Bạc Nạp Tháp [帕納塔/ Pa na ta: phiên âm của Panata - ND) ước chừng nằm giữa đảo Thị Tứ và đảo Ba Bình. Theo Thứ trưởng Quốc phòng Philippines Barbero, mục đích là “củng cố và tăng cường vị thế của Philippines tại quần đảo Spratly và biển Đông”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 5/1980, Philippines phản đối Malaysia xây dựng đèn biển ở bãi Công Đo (Tư Lệnh, Commodore Reef) (sau này xác nhận chỉ là xây dựng một cột mốc). Để ngăn chặn sự mở rộng của Malaysia ở Trường Sa (xem phần sau), Philippines đã chiếm bãi Công Đo vào tháng 8.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây cũng là đảo, đá cuối cùng ở Trường Sa mà Philippines chiếm giữ trước năm 1999.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng với tăng cường chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tích cực có kế hoạch đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông. Để thoát khỏi khủng hoảng năng lượng, lợi ích dầu mỏ chính là một trong những động cơ để Philippines đẩy nhanh việc chiếm đóng Trường Sa. Hợp tác với các công ti nước ngoài, ngoài việc bù đắp cho sự thiếu hụt công nghệ ở Philippines, còn có thể giúp bảo hiểm thêm cho sự kiểm soát của Philippines trong khu vực khai thác thông qua lợi ích dầu mỏ của bên thứ ba: dù hầu hết các công ti dầu mỏ này là các công ti tư nhân, nhưng họ có khả năng vận động hành lang mạnh mẽ trong giới chính trị phương Tây. Không nước nào có thể bỏ qua việc lợi ích ở nước ngoài của công ti dầu mỏ nước mình bị xâm phạm. Vì thế, vào những năm 1970 Philippines đã trở thành nước ven biển tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông sớm nhất. Tháng 2/1976, Philippines công bố rằng công ti dầu khí của Philippines sẽ cùng Công ti Salen của Thụy Điển thăm dò dầu khí ở bãi Cỏ Rong, sau đó có thêm công ti Mĩ (bao gồm Amoco) cùng tham gia, tạo thành tập đoàn khoảng 10 công ti.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những hành động này gặp phải sự chống đối của Trung Quốc và Việt Nam. Ví dụ ngày 14/6 Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Nam Sa cũng như quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa quần đảo Đông Sa đều là một bộ phận lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, tài nguyên của những đảo này và vùng phụ cận chúng đều thuộc sở hữu của Trung Quốc. Bất cứ nước nào cử quân đội đến, chiếm đóng và khai thác tài nguyên ở Nam Sa đều là không thể chấp nhận được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Nhưng Philippines phớt lờ sự phản đối của Trung Quốc và Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Romulos cho rằng bãi Cỏ Rong nằm trong phạm vi thềm lục địa của Philippines, cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Philippines dựa trên điều ước thềm lục địa có liên quan mà phân định ra; sự tham gia của công ti Mĩ và Thụy Điển có thể khiến Mĩ giúp bảo vệ quyền lợi của Philippines... Như trình bày phần trước, trong không khí thân thiện và có sự thỏa thuận ngầm khi Trung Quốc và Philippines mới thiết lập quan hệ ngoại giao, việc tỏ thái độ của Trung Quốc chỉ có tính hình thức, thậm chí không thể không có khẩu khí nghiêm khắc do cũng có ý nhắm vào Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc thăm dò của Philippines và công ti Thụy Điển cũng như công ti Mĩ hoàn toàn không gặp bất cứ trở ngại nào. Tháng 6/1976, tại bãi Cỏ Rong, Công ti Salen đã khoan thăm dò giếng Sampaguita 1. Năm 1977, Công ti Amoco đã khoan thăm dò hai giếng khác (A1, B1). Nhưng cả 3 giếng dầu khoan trong 2 năm này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đều không phát hiện được dầu khí. Tháng 5/1978, Công ti Salen lại khoan thăm dò giếng Sampaguita 2 tại bãi Cỏ Rong và khoan thăm dò giếng Kalamansi 1 ở bãi Templier (Trung Hiếu). Tháng 11/1981, Công ti Salen lại một lần nữa được trao quyền khoan thăm dò giếng Sampaguita 3 ở bãi Cỏ Rong, nhưng hầu như cũng không có dầu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, ngày 18/6/1976, Philippines phân định cụm đá Sinh Tồn (Trịnh Hòa, Union Banks), bãi Kiêu Ngựa (An Độ,Ardasier Reef) thuộc quần đảo Trường Sa và vùng biển phụ cận chúng thành “vùng đặc biệt” cho doanh nghiệp nước ngoài thăm dò.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng do vị trí địa lí nhạy cảm, không có công ti dầu khí nào muốn khai thác tại khu vực đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả khai thác dầu khí của Philippines ở vùng biển Trường Sa còn rất hạn chế, nhưng việc mời gọi công ti dầu khí phương Tây vào cùng với việc phê chuẩn quyền khai thác dầu khí, đã tăng cường quyền kiểm soát thực tế và pháp lí của Philippines đối với một bộ phận Trường Sa về mặt dân sự. Ngoài ra, Philippines đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc khai thác dầu khí duyên hải dọc theo bờ biển phía Tây của đảo Palawan, những khu vực này tuy không thuộc quần đảo Trường Sa nhưng gần và thậm chí có bộ phận chồng lấn đường 9 đoạn, có lúc bị truyền thông và các ấn phẩm nghiên cứu của Trung Quốc xem là một trong những bằng chứng của việc “Philippines lấy cắp dầu mỏ ở Nam Hải”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, trong khoảng thời gian này, do ngư dân truyền thống của Hải Nam bị cấm đến biển Đông đánh cá, ngư dân Philippines dần dần trở thành lực lượng đánh cá chính ở biển Đông. Các điểm đến của họ thậm chí vươn tới tận gần quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trung Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, thông qua một loạt các biện pháp trong những năm 1970, Philippines đã từ kiểm soát quân sự, khai thác cũng như pháp luật (trong nước) mà giành được quyền kiểm soát một số đảo của Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bình luận tóm tắt về luật quốc tế</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại những điều nói trên, theo luật quốc tế, cho đến cuối những năm 1970, lí do và logic trong đòi hỏi chủ quyền đối với các đảo biển Đông của Philippines có thể tóm tắt như sau: (1) Các đảo mà Philippines chiếm không phải một bộ phận của quần đảo Trường Sa, mà là một quần đảo độc lập (Freedomland); (2) Tình trạng pháp lí của quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, không thuộc về bất cứ nước nào; (3) Cloma “phát hiện” “Freedomland” sớm nhất, đồng thời đã thành lập “Lãnh thổ Tự do Freedomland”, và trở thành một bộ phận của Philippines thông qua các hình thức bảo hộ hoặc chuyển nhượng; (4) Các đảo này gần Philippines, cùng nằm trên thềm lục địa và trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, có tầm quan trọng không thể thay thế đối với an ninh và lợi ích của Philippines; (5) ngày 14/9/1975, Marcos khi trả lời nhà báo về Trường Sa còn nhấn mạnh quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, nên do Đồng minh xử lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những lí do này đều là không đáng để cân nhắc. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điểm thứ nhất </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rõ ràng là ngụy biện, dù phạm vi cụ thể của Spratly Islands trong lịch sử đúng là có chỗ mơ hồ, thiếu rõ ràng, nhưng Spratly Islands trong “Hòa ước San Francisco” bao gồm các đảo, đá rất rõ ràng bên cạnh đảo Trường Sa Lớn, hơn nữa trong giao thiệp giữa Đài Loan, Việt Nam và Philippines, Đài Loan nhiều lần chỉ rõ rằng “Freedomland” cũng nằm trong quần đảo Trường Sa, nhưng trải qua hơn 20 năm Philippines vẫn còn vướng mắc về vấn đề này, về căn bản đó là cách làm thừa nước đục thả câu. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “Hòa ước San Francisco” đúng là không quy định sự quy thuộc của Trường Sa, nhưng cũng không quy định Trường Sa là đất uỷ trị. Trong hiệp ước quy định rõ đất uỷ trị chỉ có các đảo ở Bắc Thái Bình Dương mà Nhật Bản được uỷ thác quản lí trước đó cũng như quần đảo Ryukyu có thể trở thành đất uỷ trị (nhưng cuối cùng lại không). Và ngay cả khi quần đảo Trường Sa là lãnh thổ được uỷ trị, thì không có cơ sở pháp lí nào để Philippines tiếp quản quần đảo này. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Lãnh thổ Tự do của Cloma có thể trở thành một “quốc gia” hay không về luật quốc tế là một vấn đề rất lớn, vả lại cái gọi là Cloma “phát hiện” quần đảo Trường Sa rõ ràng không thể đứng vững. Ông ta thực hiện được các hoạt động ở quần đảo Trường Sa là nhờ vào việc Quốc Dân Đảng tạm thời rút khỏi quần đảo này sau khi thoái lui sang Đài Loan, trong khi Việt Nam và Pháp lại không có khả năng đóng quân ở đó khiến quần đảo này nhất thời trở thành không người ở. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là Đài Loan, Việt Nam (Pháp) đã “từ bỏ” (abandon) quần đảo Trường Sa. Nói cách khác, quần đảo Trường Sa khi đó không hề là đất vô chủ, nói Cloma chiếm nó trước là không có cơ sở theo luật quốc tế. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Sự gần gũi với Philippines hoàn toàn không là một lí do chính đáng để có được lãnh thổ. Dù các đảo ở biển Đông hoang vu nhưng các đảo do Philippines chiếm giữ hầu như đều là nổi lên mặt nước quanh năm, và theo nguyên tắc đất quyết định biển, những đảo này không thể tự động trở thành lãnh thổ của một nước nào đó chỉ vì chúng nằm trên thềm lục địa của nước đó (chỉ có bãi ngầm là có thể như vậy). Còn tính trọng yếu đối với an ninh và lợi ích cũng không phải là lí do phù hợp với nguyên tắc của luật quốc tế. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mặc dù “Hòa ước San Francisco” quy định rằng Nhật Bản phải từ bỏ quần đảo Trường Sa nhưng không hề nói đến Trường Sa như là lãnh thổ uỷ trị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ưu thế pháp lí của Philippines đối với Trường Sa ở chỗ:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vào đầu thời kì sau Thế chiến thứ hai Philippines đã công khai yêu sách lãnh thổ của mình đối với quần đảo Trường Sa ngay sau khi giành được độc lập (1946), chỉ 13 năm sau khi Pháp công khai yêu sách lãnh thổ của họ (1933), vẫn còn trong thời hạn hiệu lực để đưa ra phản đối. Hơn nữa, khi xét đến việc Philippines là thuộc địa của Mĩ trước Thế chiến thứ hai, không có quyền tự chủ về ngoại giao, và người bản địa Philippines cũng đã đưa ra đòi hỏi lãnh thổ với Trường Sa, chỉ vì Mĩ không đồng ý nên không có cách nào đưa ra quốc tế, thì đây là lí do có thể hiểu được. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Philippines (đặc biệt nước Sulu với tư cách là một bộ phận của Philippines hiện nay) có liên hệ lịch sử với quần đảo Trường Sa, nhưng trong những năm 1970, Philippines hoàn toàn không chú ý đến điểm này để lí giải thêm. Philippines cũng chưa thể đưa ra bằng chứng có sức thuyết phục cho thấy rõ ngư dân Philippines có quan hệ mật thiết với quần đảo Trường Sa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khi xét đến việc Philippines chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa từ những năm 1970 đến nay thì việc chiếm đóng đó đã trở thành một hiện trạng. Mặc dù không thể hoàn toàn hình thành “thời hiệu” do bị các nước khác liên tục phản đối, nhưng nếu như đưa ra Tòa án Quốc tế thì “hiện trạng” này vẫn là một điểm pháp lí đáng để cân nhắc.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.9 Hải chiến Trung-Việt ở Hoàng Sa và hậu quả của nó</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước năm 1974, Trung Quốc và Nam Việt Nam nói chung đều giữ thái độ kiềm chế ở Hoàng Sa, không có xung đột quân sự trực tiếp. Như trình bày ở phần trước, điều này phần lớn có liên quan đến sự có mặt của quân Mĩ ở biển Đông, Nhưng sau khi bước vào những năm 1970, đã xuất hiện hai thay đổi lớn. Thứ nhất, năm 1971 Tổng thống Mĩ Nixon thăm Trung Quốc, phá bỏ thành công tảng băng giữa Mĩ và Trung Hoa cộng sản. Hai nước đều dựa vào nhu cầu của mình để điều chỉnh lập trường, cùng chống Liên Xô. Lợi dụng thời kì trăng mật này, Trung Quốc đã có thể mở rộng địa bàn ở biển Đông. Thứ hai, và quan trọng hơn, do chiến sự Việt Nam bất lợi và phong trào phản chiến trong nước lên cao, tháng 11/1968 Mĩ tuyên bố ngừng ném bom Bắc Việt Nam, kết thúc “Chiến tranh Cục bộ”. Sau đó, các bên bắt đầu vừa đánh vừa đàm. Sau khi lên nắm quyền, chính quyền Nixon công bố chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, từng bước rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Ngày 27/1/1973, bốn bên (Bắc Việt, Mĩ, Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) kí hiệp định hòa bình tại Paris. Mĩ chính thức rút khỏi Việt Nam, để lại mớ hỗn độn cho chính phủ Nguyễn Văn Thiệu của Nam Việt, và cũng không còn nghĩa vụ bảo vệ Hoàng Sa. Đối với Mĩ, tăng cường quan hệ với Trung Quốc phù hợp lợi ích chiến lược là giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh hơn là duy trì một chính quyền Nam Việt đã làm họ thất vọng và mệt mỏi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù Nam Việt đã tiếp nhận một số tàu chiến khi quân Mĩ rút đi nhưng những tàu chiến này đều là tàu tuần duyên cũ của Mĩ, hỏa lực mạnh nhất sử dụng trong Hải chiến Hoàng Sa (HQ-16) không ngoài một khẩu pháo nòng 127 ly.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hơn nữa, với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhân viên quân sự, không được huấn luyện đầy đủ, khó có khả năng trong thời gian rất ngắn có thể thực sự hình thành sức chiến đấu. Trên thực tế, do thiếu quân, Nam Việt đang dần giảm bớt quân trú đóng ở các đảo phía Tây của Hoàng Sa. Cuối năm 1973, chỉ để lại quân đóng trên đảo Hoàng Sa (San Hô), quân trên đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền) và đảo Quang Ảnh (Kim Ngân) đều được rút hết, chỉ duy trì sự kiểm soát phía Tây của Hoàng Sa qua các cuộc tuần tra theo lệ. Việc thiếu vắng binh lực Nam Việt trở thành điều kiện có lợi để Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắc Việt thời gian này ở vào tình thế chính trị rất tế nhị. Trong chiến tranh Việt Nam, Bắc Việt được hai nước Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc bất hòa trong một thời gian dài, việc chọn bên của Bắc Việt Nam rất quan trọng. Sau khi Hồ Chí Minh thuộc phe có truyền thống thân Trung Quốc qua đời, phe thân Liên Xô của Lê Duẩn lên nắm quyền, đã bằng mặt không bằng lòng với Trung Quốc. Nhưng thời gian này, Bắc Việt vẫn công nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, hơn nữa trong chiến tranh Việt Nam cũng vẫn dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, và không áp dụng hành động thực chất nào ở Hoàng Sa. Còn Liên Xô khi đó không có binh lực ở biển Đông vốn đã bị Mĩ kiểm soát, cũng không tạo thành trở ngại đối với việc Trung Quốc chiếm đoạt Hoàng Sa. Những nhân tố này đã tạo thành thời cơ ngắn ngủi hiếm hoi để Trung Quốc đánh chiếm phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1973, lợi dụng cơ hội ngừng bắn, Nam Việt đã tăng cường khai thác biển Đông, liên tiếp kí hợp đồng với các công ti dầu khí của Âu, Mĩ để khai thác dầu khí ở biển Đông. Ngày 6/9/1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nam Việt Lê Công Chất công bố lệnh: theo quyết định của Nội các ngày 1/9, điều chỉnh đưa các đảo ở Trường Sa vào xã Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với Nam Việt, quần đảo Trường Sa từ lâu đã được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy, lần này chỉ là một điều chỉnh nhỏ về hành chính, nhưng việc này lại đúng dịp trở thành thời cơ để Trung Quốc thực hiện hành động. Trung Quốc không ứng ngay lập tức, nhưng trên thực tế đã chuẩn bị cho cuộc chiến ở Hoàng Sa. Quyết định chiếm lấy Hoàng Sa là từ lãnh đạo tối cao Mao Trạch Đông, và được lãnh đạo tối cao sau này là Đặng Tiểu Bình đích thân chủ trì. Theo hồ sơ giải mật của cơ quan tình báo Mĩ, công việc chuẩn bí mật đánh chiếm Hoàng Sa đã bắt đầu từ tháng 9. Vào trung tuần tháng 12/1973, mỗi ngày đều có mấy trăm binh sĩ Trung Quốc đóng ở Bắc Hải, Quảng Tây, buổi sáng ra đi trên 6 tàu cá, buổi chiều quay về, kiểu thao luyện này kéo dài liên tục 10 ngày.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhìn trở lại, việc này rõ ràng là để chuẩn bị cho đổ bộ tác chiến. Nam Việt không biết gì về việc này. Sau ngừng bắn vài tháng, ngày 4/1/1974 Nam Việt Nam tuyên bố mở lại chiến sự Việt Nam, phần lớn hải quân đóng ở khu vực sông Mekong để chống lại quân Giải phóng Nam Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/1, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố phản đối hành động điều chỉnh phân chia hành chính quần đảo Trường Sa của Nam Việt, tuyên bố hành động này làm dấy lên “sự phẫn nộ của nhân dân Trung Quốc”. Trung Quốc đột ngột đưa ra tuyên bố nhiều tháng sau sự việc, thực sự là một tín hiệu, nhưng Nam Việt không chút cảnh giác với điều này mà lại chuyên chú vào việc đấu võ mồm với Bắc Kinh. Ngày 12/1, phía Nam Việt Nam nhận được tin báo có tình hình bất thường ở Hoàng Sa, nên đã cử một tàu chiến tiến hành trinh sát. Ngày 14 phát hiện “ngư dân” Trung Quốc đã đổ bộ lên đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền) không có người đóng giữ (nhưng có công trình của Nam Việt để lại). Ngày 15, hải quân Nam Việt Nam tấn công đảo Hữu Nhật, xua đuổi tàu cá 402 gần đó, đồng thời bắt sống “ngư dân” trên đảo đưa về. Mặc dù tình huống bất ngờ, nhưng vì sự kiện “ngư dân” đổ bộ từng xảy ra trước đó (xem IV.5), Nam Việt không loại trừ đây là chính sách quấy rối của Trung Quốc để phối hợp với cuộc tấn công của Bắc Việt. Nhưng lúc này, Nam Việt đã đề cao sự cảnh giác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 15, Tổng thống Nam Việt thăm Đà Nẵng và phái tàu HQ-16 đến Hoàng Sa. Trên tàu còn có sĩ quan liên lạc người Mĩ Gerald Emil Kosh, đi cùng tàu theo yêu cầu của tòa Tổng Lãnh sự Mĩ tại Đà Nẵng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng khi họ đến Hoàng Sa, phát hiện tình hình còn nghiêm trọng hơn so với họ tưởng tượng. Ngày 16, một tốp “ngư dân” Trung Quốc khác lại lần nữa đổ bộ lên đảo Hữu Nhật dưới sự yểm trợ của tàu chiến. Đồng thời, Trung Quốc đã phái người chiếm đóng đảo Quang Hòa (Sâm Hàng) và đảo Duy Mộng (Tấn Khanh).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17, hải quân Nam Việt Nam lại lần nữa đánh chiếm đảo Hữu Nhật và đổ bộ lên đảo Quang Ảnh (Kim Ngân). Nhưng Trung Quốc đã phái 4 ca nô, 2 tàu chiến và một số “tàu cá” hợp thành hạm đội đến nhóm đảo Lưỡi Liềm (Vĩnh Lạc) để đối đầu với tàu chiến Nam Việt trên biển. Ngày 18, tàu Trung Quốc đã ngăn cản kế hoạch đánh chiếm đảo Quang Hòa của Nam Việt. Hai bên chẳng chịu nhường nhau, có lúc các tàu xảy ra va chạm nhưng chưa tạo thành xung đột quân sự trực tiếp. Lúc này, ở nhóm Lưỡi Liềm, Nam Việt chiếm giữ 3 đảo, Trung Quốc chiếm 2 đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tối ngày 18, Bộ Tổng tư lệnh Nam Việt đưa cho hạm đội lệnh khó thể thi hành: “thu hồi đảo Quang Hòa một cách hòa bình”. Hải quân chỉ có thể tuân theo. Vì vậy, khoảng 8:30 sáng ngày hôm sau, 20 lính hải quân đổ bộ lên đảo Quang Hòa, định kêu gọi quân Trung Quốc rời khỏi đảo. Nhưng trong lúc họ vừa lội lên bờ thì quân Trung Quốc nổ súng bắn chết 2 lính Nam Việt.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với sự kiện này phía Trung Quốc có cách tường thuật khác: lính Nam Việt nổ súng trước khiến nhiều “ngư dân” Trung Quốc bị thương, “ngư dân” tiến hành phản công, vì vậy phía Việt Nam khiêu khích trước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất kể như thế nào, sự kiện nổ súng lần này khiến tình hình lập tức leo thang. Sĩ quan chỉ huy quân Nam Việt ở Hoàng Sa Hà Văn Ngạc xin chỉ thị của Sài Gòn, nhưng không có cách nào liên lạc được với hai quan chức chỉ huy tối cao của hải quân Nam Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một người đang ngồi trên máy bay từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, còn người kia thì đến sân bay đón tiếp ông ta. Bấy giờ, sĩ quan chỉ huy thứ ba là Đỗ Kiếm ra lệnh nổ súng đánh trả. Đồng thời ông cũng yêu cầu Hạm đội 7 Mĩ trợ giúp, nhưng không được phản hồi. Theo lệnh của Kiếm, 4 tàu chiến Việt Nam đã mở cuộc tấn công vào 6 tàu chiến Trung Quốc. Tuy nhiên, năng lực tác chiến của hải quân Nam Việt thấp một cách đáng ngạc nhiên. Một khẩu pháo trên một tàu không hoạt động được, nhanh chóng bị phía Trung Quốc bắn trúng mất đi khả năng chiến đấu; một chiếc tuy bắn trúng một tàu chiến Trung Quốc nhưng khẩu pháo trên tàu lập tức bị nổ, trong lúc hoảng loạn đã bắn vào tàu HQ-16 khiến tàu này bị mất lực đẩy, cũng mất khả năng tác chiến; chiếc tàu cuối cùng bị tàu chiến Trung Quốc bắn trúng boong tàu, thuyền trưởng chết tại chỗ, tàu cũng bắt đầu chìm. Chỉ trong vài chục phút ngắn ngủi, 4 tàu chiến của Nam Việt Nam đã bị phía Trung Quốc đánh bại. 3 tàu rút lui về Việt Nam, được đón tiếp như những anh hùng, việc bắn chìm 2 tàu chiến Trung Quốc thì được tuyên truyền là một chiến thắng lớn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20, quân đội Trung Quốc tập kết dưới sự yểm trợ của máy bay Mig 21 và Mig 23 mở cuộc tổng tấn công vào ba đảo do quân Nam Việt chiếm đóng, 500 lính bộ binh đổ bộ lên 3 đảo. Chỉ hơn 20 phút đã kiểm soát toàn bộ tình hình 3 đảo. Trận chiến đấu ở đảo Hữu Nhật là quyết liệt nhất, nhưng quân Nam Việt ở vào tình thế bất lợi không thể chống lại quân Trung Quốc đông hơn khoảng 10 lần, bị hỏa lực của Trung Quốc áp chế hoàn toàn, chỉ có thể bó tay chịu chết; quân Nam Việt Nam trên đảo Quang Ảnh thậm chí lén rút chạy bằng tàu trước khi quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo. Cuối cùng, quân Nam Việt thảm bại, hơn 100 người tử trận, hơn 40 người bị thương, nhân viên trên đảo kể cả Kosh đều bị bắt. Trung Quốc có hai tàu chiến bị bắn chìm, tình hình thương vong cụ thể đến nay vẫn chưa được công bố.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Hải chiến Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc liền ra tuyên bố nói rằng từ ngày 15/1 đến nay nhà cầm quyền Sài Gòn Nam Việt ngang nhiên xâm nhập cụm đảo Vĩnh Lạc (Lưỡi Liềm), đâm hỏng tàu cá Trung Quốc, cưỡng chiếm đảo Cam Tuyền (Hữu Nhật) và đảo Kim Ngân (Quang Ảnh), tấn công vũ trang vào đảo Sâm Hàng (Quang Hòa), làm chết và bị thương nhiều ngư dân và dân quân Trung Quốc, còn nổ súng tấn công trước vào tàu Trung Quốc đang làm nhiệm vụ tuần tra. Trong tình thế “không thể nhịn được nữa” Trung Quốc đã tiến hành “phản kích tự vệ” anh dũng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn phía Việt Nam thì muốn thông qua quan sát viên tại LHQ đưa sự việc cho Hội đồng bảo an để họp khẩn cấp. Tuy nhiên, vì Trung Quốc đã giành được ghế ở LHQ và có quyền phủ quyết, Mĩ không có phản ứng tích cực, còn Nam Việt không phải là thành viên LHQ nên cuối cùng sự việc không thể tới Hội đồng bảo an được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ thể hiện lập trường trung lập đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 19/1, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mĩ tuyên bố: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không quan tâm đến quần đảo này hoặc ủng hộ đòi hỏi chủ quyền đặc thù của bất cứ bên nào tại đây. Mĩ hi vọng sự việc có thể giải quyết thông qua đàm phán hòa bình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều Mĩ quan tâm nhất khi đó là việc Kosh bị bắt. Ngày 23/1, Ngoại trưởng Mĩ Kissinger đã đàm phán với đại biểu Trung Quốc về sự kiện quần đảo này, chủ đề đàm phán đầu tiên là yêu cầu trả tự do cho Kosh. Một tuần sau Kosh và 3 sĩ quan cao cấp của Nam Việt đã được đưa đến Hồng Kông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, trong cuộc chiến bùng nổ ở Hoàng Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên đều tuyên bố đối phương khiêu chiến trước, kết quả là Trung Quốc đã đánh bại Nam Việt và giành được quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Từ đó quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng và quản lí liên tục cho đến hiện nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau thất bại ở Hoàng Sa, Nam Việt tăng cường nhanh chóng sự hiện diện quân sự ở Trường Sa. Ngoài việc Nam Việt luôn luôn coi Trường Sa là lãnh thổ của mình, một ý nghĩa quan trọng khác của Trường Sa đối với Nam Việt ở chỗ: Việt Nam là một nước nghèo dầu mỏ, việc phát hiện dầu khí ở biển Đông có sức thu hút đối với Nam Việt. Nam Việt rất quan tâm đến lợi ích dầu mỏ ở biển Đông. Ngày 7/9/1967, Nam Việt tuyên bố thềm lục địa và tài nguyên thềm lục địa đều thuộc sự quản lí độc quyền của Việt Nam Cộng hòa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 1/12/1970, Nam Việt ban hành “Luật Dầu khí”, xác định các thủ tục và quy định cấp phép cho các công ti nước ngoài quyền thăm dò, lắp đặt đường ống và các khu vực khai thác khoáng sản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 16/7/1973, Nam Việt chia vùng biển phía Đông Vũng Tàu thành 8 khu vực khai thác mỏ, và cấp quyền khai thác khoáng sản cho các công ti Shell, Pegasus, Esso (của Mĩ), và Sunningdale (của Canada).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 6/9, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải (Phước Hải Commune);</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngày 28/9, tuyên bố đóng quân và xây dựng trạm Radar trên đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy), đồng thời nhấn mạnh rằng điều này “rất quan trọng đối với việc thăm dò dầu khí sắp bắt đầu dưới thềm lục địa”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 31/1/1974, Nguyễn Văn Thiệu phái một đội đặc nhiệm do mấy trăm binh sĩ hợp thành do “Đỗ Xuân Hồng” dẫn đầu, chỉ huy hạm đội gồm các tàu hộ vệ, tàu khu trục và tàu đổ bộ hợp thành lên đường đến quần đảo Trường Sa. Ngày 1/2 đã chiếm cồn cồn cát Southwest [Cay] (Nam Tử, đặt tên là đảo Song Tử Tây); ngày 3 chiếm bãi Sand [Cay] (Đôn Khiêm, đặt tên là đảo Sơn Ca); ngày 5, chiếm đảo Sin Cowe (Cảnh Hồng, đặt tên là đảo Sinh Tồn); ngày 14, chiếm đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu); ngày 17, chiếm đảo Trường Sa (Nam Uy); ngày 20, chiếm bãi Amboyna (An Ba, đặt tên là đảo An Bang).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đội đặc nhiệm dựng cột mốc ranh giới trên các đảo đồng thời để lại người đóng giữ, xây dựng công sự phòng ngự. Đây là lần đầu tiên Nam Việt phái quân đội đóng giữ quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong đó, quá trình Nam Việt chiếm đá Song Tử Tây có phần kịch tính. Đá Song Tử Tây sớm đã bị Philippines chiếm vào năm 1971 (một nguồn tin khác là vào năm 1968) và có quân lính thường trú. Tuy Nam Việt rất muốn chiếm các đảo ở Trường Sa ngay, nhưng không muốn có xung đột trực tiếp với Philippines vốn cũng là một bên trong liên minh chống cộng. Một hôm, đúng dịp sinh nhật một sĩ quan Philippines đóng tại đá Song Tử Đông cách đó 3 km, toàn thể sĩ quan binh lính trên đảo Song Tử Tây đều đến đá Song Tử Đông tham gia tiệc sinh nhật. Nam Việt lấy danh nghĩa tăng cường liên hệ giữa hai quân đội bạn đã cử một số gái mại dâm đến dùng sắc đẹp quyến rũ quân đóng trên đảo Song Tử Đông, và kéo dài thời gian họ ở lại trên đảo này [vụ này có vẻ wikipedia thêm thắt cho thêm phần kịch tính vì tàu hải quân VNCH lúc đó không được phép chở theo phụ nữ khi hành quân - ND]. Vì tin tưởng vào đồng minh, người Philippines không có sự nghi ngờ về điều này. Sau khi vui vẻ xong, lúc quay về đá Song Tử Tây, quân lính Philippines bất ngờ phát hiện trên đảo đã đổi màu cờ, quân Nam Việt Nam đã ở đó bày trận chờ sẵn. Người Philippines vội vàng quay về đá Song Tử Đông và báo cáo cấp trên. Cấp trên sau khi cân nhắc nhân tố quân sự và ngoại giao, quyết định rằng nên giữ vững đá Song Tử Đông là hơn, tránh xung đột với Nam Việt đang phẫn nộ. Từ đó, đá Song Tử Tây đã rơi vào tay Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù có những điều khó chịu này, quan hệ giữa Nam Việt và Philippines không bị ảnh hưởng nhiều. Năm 1975, khi hải quân Bắc Việt đánh chiếm đá Song Tử Tây, quân lính Nam Việt chạy đến đá Song Tử Đông do Philippines kiểm soát để tránh bị Bắc Việt bắt giữ. Sau này, Philippines từng nghĩ đến việc dùng vũ lực để “thu hồi” đá Song Tử Tây đang bị cộng sản kiểm soát, nhưng phát hiện ra rằng trong thời gian ngắn Bắc Việt đã xây dựng công sự trên đảo nên đã bỏ cuộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với việc đưa quân đến Trường Sa, ngày 14/2 Nam Việt ra tuyên bố với lời lẽ cứng rắn: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa thấy cần phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới cho bạn cũng như thù biết rõ rằng: Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần đất bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy. Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chánh đáng của mình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có người dự liệu Trung Quốc sẽ thừa thắng xông lên, tiến quân thẳng xuống Trường Sa. Nhưng Trung Quốc không hề có hành động quân sự nào ngoài việc đưa ra phản đối như trước đây. Nguyên nhân hiện thực nhất là ngoài tầm với: Trường Sa suy cho cùng cách đất liền Trung Quốc xa hơn rất nhiều so với Hoàng Sa, máy bay chiến đấu của Trung Quốc không có cách nào tác chiến ở cự ly dài, còn hải quân so với Nam Việt không có ưu thế mang tính áp đảo, một khi chiến sự kéo dài, việc tiếp tế sẽ khó theo kịp. Hơn nữa, một khi tấn công vào biển Đông, sẽ không chỉ đối mặt với một kẻ địch là Nam Việt mà Philippines thậm chí Đài Loan đều có thể tham gia vào nữa. Vì Mĩ đều có quan hệ đồng minh quân sự với họ, nên cũng khả năng không thể không tham gia. Vì vậy, Trung Quốc sẽ ở vào tình thế không thuận lợi, cả về quân sự lẫn ngoại giao. Hơn nữa, lúc đó Trung Quốc còn muốn lôi kéo Philippines, do đó không có ý kích động Philippines trong vấn đề biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hành động của Nam Việt ở Trường Sa khiến Đài Loan và Philippines lo lắng. Đài Loan điều động 4 tàu chiến đến phòng thủ khu vực xung quanh đảo Ba Bình, đồng thời tái khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa với phía Nam Việt. Đảo Sơn Ca (bãi Đôn Khiêm) cách đảo Ba Bình chỉ có 6 hải lí, nghe nói khi có báo động bão, quân trú đóng Nam Việt hai lần sang đảo Ba Bình tạm lánh, họ được cho cơ hội. Tuy nhiên, Đài Loan không muốn đổ thêm dầu vào lửa khi Việt Nam đang tức giận vì thất bại ở Hoàng Sa, mà chỉ muốn giữ vững đảo Ba Bình, nên tuyên bố “nếu quân Nam Việt Nam muốn đổ bộ lên đảo Thái Bình sẽ cố gắng khuyên họ rời đi, để hai bên giảm thiệt hại xuống mức nhỏ nhất”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 1/2 Tưởng Kinh Quốc chỉ thị nghiên cứu trục xuất quân chiếm đóng Nam Việt và Philippines khỏi đảo Trường Sa, nhưng bị huỷ bỏ do có sự phản đối mạnh mẽ của Bộ Quốc phòng </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi phản đối, Philippines cũng kêu gọi giải quyết hòa bình vấn đề thông qua tham vấn trực tiếp và hữu nghị với các nước liên quan. Mĩ cũng khuyến cáo Nam Việt không nên mở rộng hành động quân sự quá mức mà phải hành động có chừng mực.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, sau khi Nam Việt chiếm bãi An Bang, đã tuyên bố trên Hãng Thông tấn Nam Việt vào ngày 22/2 rằng họ đã hoàn thành kế hoạch củng cố chủ quyền ở Trường Sa, và đã chiếm 4 đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, dù tình hình Trường Sa từng căng thẳng trong một thời gian nhưng cuối cùng không xảy ra xung đột. Từ đó, Nam Việt và Đài Loan cùng với Philippines chia nhau quần đảo Trường Sa. Ngày 14/2/1975, nhân dịp tròn 1 năm ngày chiếm đóng 6 đảo ở Trường Sa, Nam Việt công bố “Bạch thư về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa” dài hơn 100 trang, là bản văn trình bày và phân tích lịch sử và pháp lí về Hoàng Sa và Trường Sa hoàn chỉnh nhất của phía Nam Việt từ trước tới lúc đó. Không rõ thái độ của Đài Loan đối với Hải chiến Hoàng Sa. Nghe nói năm đó, khi được biết tàu chiến của Quân Giải phóng đi qua Eo biển Đài Loan, Tưởng Giới Thạch đã hạ lệnh cho phép qua, còn nói “chiến sự Hoàng Sa khẩn cấp”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tường thuật kiểu này được cho là hư cấu,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng cũng có nhận định rằng đúng là có sự đồng ý ngầm nhất định.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trên thực tế, Hải chiến Hoàng Sa năm đó diễn ra trong thời gian rất ngắn, quy mô cũng rất nhỏ, hoàn toàn không có chuyện điều động tàu chiến qua Eo biển Đài Loan. Cái gọi là tăng quân chỉ là 3 tàu ở biển Hoa Đông đến biển Đông ngày 21/2, khi đi qua Eo biển Đài Loan đúng là không gặp bất cứ sự cản trở nào. Nhưng khi đó Hải chiến Hoàng Sa đã kết thúc, đương nhiên không có nhu cầu tăng viện. Lập trường của Đài Loan cũng được phân tích ở tiết trước là rất mâu thuẫn, do đó có thể việc Đài Loan không trợ giúp trong vấn đề Hoàng Sa là lựa chọn bất đắc dĩ. Nhưng trong vấn đề Trường Sa, do Đài Loan bản thân tự mình đã chiếm đóng đảo, nên thái độ đã rõ ràng hơn nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mâu thuẫn giống như vậy còn có Bắc Việt. Trong sự kiện Hoàng Sa, phản ứng của Bắc Việt và “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” rất mù mờ. Bắc Việt không hề tuyên bố Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc giống như trước đây. Quan chức Bắc Việt cơ bản giữ im lặng, chỉ tuyên bố hi vọng rằng sự kiện được giải quyết hòa bình. Hãng AP của Pháp viện dẫn “nhân sĩ có uy tín” của Bắc Việt nói: bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là sự nghiệp thiêng liêng của mỗi dân tộc, tranh chấp lãnh thổ cần phải xử lí cẩn thận, cần phải dựa trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng hòa thuận hữu nghị để bàn bạc giải quyết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 26/1, Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam được Trung Quốc công nhận công bố lập trường 3 điềm: (1) Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là sứ mệnh thiêng liêng của mỗi một dân tộc; (2) Trong vấn đề biên giới và lãnh thổ, giữa các nước láng giềng thường xuyên xảy ra tranh chấp do lịch sử để lại, có lúc rất phức tạp, cần phải nghiên cứu tỉ mỉ; (3) Các nước có liên quan cần phải dựa trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng hòa thuận để nghiên cứu những vấn đề này, đồng thời giải quyết thông qua thương lượng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trần Bình, đại diện tại Bắc Kinh, trong cuộc họp báo vài ngày sau dịp kỉ niệm tròn một năm ngày kí kết Hiệp định Hòa bình Paris tuyên bố: vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với mỗi một dân tộc đều là một sự nghiệp thiêng liêng. Đối với những vấn đề phức tạp kiểu như tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại cần phải xử lí cẩn thận, vấn đề Hoàng Sa cần phải giải quyết thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hữu nghị.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn gửi cho phía Trung Quốc một bức “Thư cảm ơn”, bày tỏ sự biết ơn đối với các đồng chí Trung Quốc đã đánh đuổi quân Ngụy, giải phóng Hoàng Sa giúp họ. Điều này đương nhiên điều này ngụ ý rằng Trung Quốc phải trao trả phần phía Tây Hoàng Sa cho Chính phủ miền Nam Việt Nam. Hành động này rõ ràng làm Trung Quốc tức giận đến mức trả lại bức thư còn nguyên, đồng thời trao trả tất cả tù binh cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu chứ không phải là Chính phủ miền Nam Việt Nam được Trung Quốc công nhận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này đánh dấu bước khởi đầu thời Trung Quốc tách rời Bắc Việt và Chính phủ miền Nam Việt Nam.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.10 Việt Nam thống nhất và cuộc đấu lí Trung-Việt về Hoàng Sa, Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Là một nước thuộc phe cộng sản, trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất Bắc Việt nhận được sự giúp đỡ của hai phía Liên Xô và Trung Quốc. Cuối những năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc bất hòa, Bắc Việt bị buộc phải chọn bên. Hồ Chí Minh thuộc phe truyền thống thân Trung Quốc đứng về phía Trung Quốc, và nhận được sự giúp đỡ toàn lực của Trung Quốc cho Bắc Việt trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Lê Duẩn của phe thân Liên Xô lên nắm quyền. Năm 1971, Trung Quốc lại kết thân với “Đế quốc Mĩ” để cùng chống lại Liên Xô, trở thành “kẻ phản bội chủ nghĩa cộng sản”. Dựa trên ý thức hệ, Bắc Việt đã bằng mặt không bằng lòng với Trung Quốc, chỉ duy trì sự hữu nghị bên ngoài. Năm 1974, Bắc Việt và Trung Quốc triển khai đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ. Bắc Việt tuyên bố rằng Công ước Pháp Thanh năm 1887 đã quy định đường phân giới là kinh tuyến 108° 3’ E; nhưng Trung Quốc lại cho rằng đường phân giới này chỉ nói đến các đảo trong vịnh Bắc Bộ mà thôi, không phải là đường phân giới biển (xem V.5). Hai bên ra về chẳng vui, giữa Bắc Việt và Trung Quốc đã xuất hiện rạn nứt khác. Sau khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, dù Bắc Việt không bày tỏ phản đối, nhưng thái độ mơ hồ khiến Trung Quốc rất bất mãn, tạo tiền đề cho tranh chấp biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 1/1974, Chiến tranh Việt Nam tiếp tục lại. Sau một năm giao tranh ác liệt, năm 1975 quân đội của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đột nhiên thảm bại, quân đội chính quy tan rã sụp đổ, các thành phố lớn lần lượt thất thủ. Ngày 30/4/1975, Sài Gòn thất thủ. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập Chính phủ Lâm thời, thành lập “nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam”. Ngày 2/1/1976, Nam và Bắc Việt Nam chính thức thống nhất, thành lập “nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (nước Việt Nam mới).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào đêm trước lúc Sài Gòn sắp thất thủ, Phó Tổng tư lệnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Lê Trọng Tấn được lệnh “giải phóng” quần đảo Trường Sa. Trong thời gian từ 14 đến 19/4, hải quân từ căn cứ ở Đà Nẵng đã chiếm được 6 đảo ở Trường Sa do Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Để làm yên lòng các công ti dầu mỏ đã kí hợp đồng khai thác với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ngày 6/5, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố trên đài phát thanh rằng miền Nam tiếp tục tiến hành thăm dò dầu khí đồng thời chuẩn bị “cùng tất cả chính phủ và công ti dầu khí nước ngoài tiến hành đàm phán để cùng tiến hành thăm dò trên cơ sở tôn trọng chủ quyền độc lập”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 7/5, Hãng Thông tấn miền Nam Việt Nam đưa tin “trong tháng 4 Quân Giải phóng đã giải phóng các đảo ở ven biển Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ, ở quần đảo Trường Sa, Quân Giải phóng tấn công và đã giải phóng đảo Song Tử Tây, đảo Sơn Ca, đảo Nam Yết, đảo Sinh Tồn, đảo Trường Sa và đảo An Bang do quân Ngụy chiếm giữ”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cho thấy: (1) Chính quyền miền Nam Việt Nam là chính quyền quản lí 6 đảo; (2) Chính quyền miền Nam Việt Nam đã kế thừa yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Bắc Việt, “báo Nhân Dân” và “Báo Quân đội Nhân dân” đã đăng trên toàn trang bản đồ toàn quốc Việt Nam trong cùng ngày 15/5, cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa đều xuất hiện trên bản đồ này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 28/5, “báo Quân đội Nhân dân” đăng bài viết tuyên bố “từ nay những hòn đảo xa xôi này mãi mãi quay trở về trong vòng tay của nhân dân nước ta”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thông tấn xã Bắc Việt (NVA) đưa tin: Quân đội Việt Nam đã “giải phóng 6 hòn đảo yêu quý của Tổ quốc”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự thay đổi thái độ đối với Trường Sa và Hoàng Sa của Bắc Việt lộ ra hoàn toàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 9/1975, Lê Duẩn dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam thăm Trung Quốc, chính thức đề xuất yêu sách lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa với phía Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình chỉ rõ với Lê Duẩn rằng:“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vấn đề quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa giữa chúng ta tồn tại bất đồng. Trong vấn đề này, lập trường của hai Đảng cũng đều rõ ràng. Lập trường của chúng tôi là chúng tôi có đầy đủ bằng chứng cho thấy quần đảo Tây Sa và Nam Sa từ xưa đến nay đã thuộc về Trung Quốc... Vấn đề này có thể tạm gác lại để sau này thảo luận</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn phía Việt Nam thì ghi chép lại lời của Đặng Tiểu Bình đã nói: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai nước có tranh chấp trong vấn đề hai quần đảo, hai bên có thể thảo luận</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian này, Bắc Việt vừa giành được thắng lợi, việc thống nhất hai miền vẫn chưa được thực hiện. Bắc Việt cũng tạm thời không đủ sức cuốn hút vào vấn đề này, nên giữ thái độ nhúng nhường. Năm 1976, sau khi Nam Bắc thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã loại bỏ phe thân Trung Quốc do Hoàng Văn Hoan đứng đầu, đã gạt bỏ các chướng ngại nội bộ. Nước Việt Nam mới bắt đầu khẳng định rõ ràng lập trường của mình đối với các đảo ở biển Đông. Ngày 12/5/1977, Việt Nam ra “Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Có lẽ do cân nhắc đến phản ứng của Trung Quốc, Tuyên bố này không trực tiếp nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ đề cập trong Điều 5 rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đảo và quần đảo thuộc Lãnh thổ Việt Nam ngoài vùng lãnh thổ nói ở khoản 1 nêu trên có lãnh hải, vùng tiếp giáp; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng như đã quy định trong khoản 1, 2, 3, 4 của Tuyên bố này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có chuyên gia Trung Quốc cho rằng trong Tuyên bố này Việt Nam đưa ra yêu sách rộng lớn đối với vùng biển Đông, đặc biệt đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam, và Việt Nam có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng ở đó. Họ chỉ trích hành động này của Việt Nam là sẽ ngấm ngầm công khai hóa tranh chấp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng sự thực là khi đó Việt Nam vẫn muốn giải quyết vấn đề êm thấm thông qua đàm phán hai bên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 6/1977, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng thăm Trung Quốc, gặp gỡ Phó Thủ tướng Trung Quốc Lí Tiên Niệm. Hai bên tranh cãi về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Lí Tiên Niệm nói: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đồng chí Việt Nam trước đây cũng thừa nhận hai quần đảo này là lãnh thổ Trung Quốc... Thế nhưng từ năm 1974 về sau, lập trường của các đồng chí Việt Nam đã có sự thay đổi, đặc biệt là năm 1975 phía Việt Nam nhân cơ hội giải phóng miền Nam đã xâm chiếm 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa của chúng tôi, tiếp đó chính thức đề xuất với chúng tôi yêu sách lãnh thổ đối với quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa. Hơn nữa, còn tạo dư luận trong nước Việt Nam và trên thế giới, tuyên truyền quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng trong công hàm năm 1958 gửi cho Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng đã thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. Phạm Văn Đồng phản bác rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong kháng chiến, đương nhiên chúng tôi phải đặt việc chống đế quốc Mĩ lên vị trí cao hơn tất cả... Chúng ta nên lí giải các tuyên bố của mình như thế nào, kể cả những gì nói trong công hàm tôi gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai? Cần phải được hiểu theo bối cảnh lịch sử khi đó</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Lí Tiên Niệm lập tức phản bác rằng lối giải thích như vậy không thể khiến người ta tin phục được. Với tư cách quốc gia, xử lí vấn đề lãnh thổ cần phải nghiêm túc hẳn hoi, không thể vì nhân tố chiến tranh mà giải thích kiểu như vậy. Hơn nữa, khi Phạm Văn Đồng gửi công hàm ngày 14/9/1958, chiến tranh chưa nẩy ra ở Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kể từ đó, tranh chấp về chủ quyền hai quần đảo giữa Trung Quốc và Việt Nam đã được mọi người biết đến. Năm 1978, đúng lúc Philippines đẩy nhanh việc chiếm đóng Trường Sa, vào ngày 29/12 Trung Quốc ra tuyên bố, nhắc lại chủ quyền đối với các đảo biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam lập tức phản bác rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoàn toàn bác bỏ luận điệu ngang ngược trong tuyên bố về vấn đề quần đảo Trường Sa của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 29/12/1978.Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố gay gắt tương đối hiếm có này trở thành sự khởi đầu của cuộc tranh cãi giữa Trung Quốc và Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa, cũng trở thành ngòi nổ khiến quan hệ Trung-Việt nhanh chóng xấu đi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, trong vài năm sau khi thành lập nước Việt Nam mới, bên cạnh những xung đột về chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông, những lí do khiến quan hệ Trung-Việt xấu đi nghiêm trọng là do: Việt Nam ngã về Liên Xô, kí “Hiệp ước hợp tác hữu nghị Xô-Việt” (ngày 3/11/1978), trong vấn đề các đảo ở biển Đông, Liên Xô cũng hoàn toàn đứng về phía Việt Nam, chỉ trích Trung Quốc “ngang ngược lộng hành”;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam phát động “phong trào bài Hoa”; ở biên giới có xung đột quy mô nhỏ; việc phát động chiến tranh Việt Nam-Campuchia để tiêu diệt Khmer đỏ bị Trung Quốc xem là “bá quyền khu vực”... đều dẫn đến thái độ thù địch rất lớn giữa Trung Quốc và Việt Nam. Để lấy lòng tin của Mĩ, Đặng Tiểu Bình nhân cơ hội chỉnh đốn quân đội, nắm lại binh quyền, nhân lúc quân tinh nhuệ Việt Nam đều ở Campuchia, ngày 17/2/1979 Trung Quốc đã phát động chiến tranh chống Việt Nam (Chiến tranh Đông Dương lần thứ 3), gọi đó là “Cuộc chiến phản công tự vệ”. Trong thời gian ngắn quân đội Trung Quốc đánh chiếm khu vực rộng lớn ở miền Bắc Việt Nam, nhưng với sự chống trả của du kích địa phương, quân đội Trung Quốc gánh chịu thương vong nặng nề. Việt Nam lại điều động quân tinh nhuệ dày dạn trận mạc từ Campuchia về đánh trả. Kết quả là Trung Quốc đã chủ động rút khỏi Việt Nam vào ngày 16/3 sau khi phá huỷ toàn bộ công trình và tư liệu sản xuất ở miền Bắc Việt Nam. Hai bên đều tuyên bố mình giành được thắng lợi. Cuộc chiến biên giới sau đó kéo dài 10 năm, mãi đến cuối những năm 1980 quan hệ hai bên mới hòa dịu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, cuộc tranh cãi về lịch sử chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc với Việt Nam vẫn tiếp tục. Hai bên một mặt tiếp xúc đàm phán (nhưng trong vấn đề các đảo biển Đông thì không vui ra về), mặt khác ra văn bản luận chiến. Cuộc tranh cãi lên đến đỉnh điểm vào năm 1979. Ngày 16/3/1979, “Báo Nhân Dân” của Việt Nam đăng “Bị vong lục của Bộ ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gay khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong đó nói rằng “nhà cầm quyền Bắc Kinh ngang nhiên đưa quân dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa”. Còn Trung Quốc thì ngày 15/5 đăng bài “Nguồn gốc của tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa” trên “Nhân dân nhật báo” để đáp trả.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếp đó, vào ngày 7/8/1979 Việt Nam ra “Tuyên bố của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa”, tuyên bố:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1, Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước phong kiến Việt Nam chiếm lĩnh, tổ chức, kiểm soát và thăm dò những quần đảo này sớm nhất. Quyền sở hữu này là có hiệu lực, phù hợp luật quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ tư liệu lịch sử và pháp lí chứng minh Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong Tuyên bố này Việt Nam cũng liệt kê việc Trung Quốc “xuyên tạc” những quan điểm của Việt Nam trong các điểm 2, 3 và 4, đồng thời chỉ trích Trung Quốc thông đồng với bọn xâm lược Mĩ âm mưu “phản bội nhân dân Việt Nam”’ năm 1972, “hành vi của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và ổn định của Đông Nam Á, thể hiện rõ dã tâm bành trướng, chủ nghĩa sô vanh nước lớn, bản tính hiếu chiến, bản tính lật lọng và bội tín của nước này.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếp đó, ngày 28/9/1979 Việt Nam công bố “Chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Sách trắng 1979), đã bổ sung tư liệu mới trên cơ sở “Bạch thư về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Bạch thư 1975) do Việt Nam Cộng hòa công bố tháng 5/1975.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn phía Trung Quốc thì liên tiếp công bố 3 bài viết dài trên “Nhân dân nhật báo” để đáp trả: “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa” ngày 31/1/1980; “Bác bỏ lập luận sai trái của nhà đương cục Việt Nam đưa cái gọi là Hoàng Sa, Trường Sa gán cho quần đảo Tây Sa, Nam Sa của nước ta” ngày 31/1/1980; và “Quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ của Trung Quốc” ngày 7/4/1980.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Luận cứ lịch sử có liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc hiện nay về cơ bản đều được khai thác vào thời kì này, trong đó nhóm Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi và Ngô Phượng Bân... được Uỷ ban Ngoại sự quốc gia tổ chức, thành lập Tổ Nghiên cứu vấn đề các đảo biển Đông để tìm kiếm tư liệu và sắp xếp bằng chứng trong phạm vi cả nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong mấy chục năm sau đó, bằng chứng lịch sử của Trung Quốc về cơ bản không vượt qua phạm vi này. Còn Việt Nam tái bản sách “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa-lãnh thổ Việt Nam” (Sách trắng 1982) vào ngày 28/1/1982 để đáp lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Luận chiến Trung-Việt có đặc điểm phổ biến của luận chiến giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Tức là dốc hết sức để tiến hành trong việc tổ chức, luận chứng vì chính trị, tùy tiện phóng đại bằng chứng, thiếu phân tích lịch sử và pháp lí khách quan. Bằng chứng lịch sử thời cổ có liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa, trong Chương I đã thảo luận sơ lược qua, có thể tham khảo cuốn sách “Lịch sử biển Đông bị bóp méo” của tác giả.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 12/11/1982, Việt Nam ra “Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam” (Hình 31), quy định 12 điểm cơ sở lãnh hải ở vùng biển Đông Nam. Đối với các điểm cơ sở khác, điều 3 quy định: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh đã được quy định trong Công ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp và nhà Thanh kí ngày 26 tháng 6 năm 1887. Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thuỷ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ được công bố sau khi vấn đề đường cửa vịnh được giải quyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; điều 4 quy định: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn kiện tiếp theo phù hợp với điểm 5 của bản Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng để chỉ ra là đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ở ven bờ biển Việt Nam dùng đường cơ sở thẳng, mà một số điểm cơ sở là đảo ở xa đất liền (điểm xa nhất hơn 70 hải lí), cách làm kiểu này đã mở rộng diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải lên rất nhiều, cũng gia tăng diện tích có thể đòi hỏi của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, cách làm kiểu này không phù hợp với tiêu chuẩn của Điều 7 “Công ước Luật biển”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 583px; overflow: hidden; width: 515px;"><img height="583" src="https://lh3.googleusercontent.com/ZKdlX6_SlAYDT8zqC7Gk61paQfBVFKj7LBgeZ1BNmhqUaPRJ5tz0RR7oQqmYHEwnfF8VIOWwvZ4Q8lToOVGobzIN8vrjcG38vZ_PsVzg8ZJC4c9io9tk4bXFKAE_3v9UDyedexXu7ZV2r1-D7Kp3G5U" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="515" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 31: Đường cơ sở lãnh hải của Việt Nam </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những năm 1980, Việt Nam tiếp tục chiếm các đảo và tăng cường đóng quân ở Trường Sa. Theo nghiên cứu của Đài Loan năm 1982, Việt Nam đã chiếm 6 đảo, đá là bãi Đôn Khiêm (đảo Sơn Ca), đảo Hồng Hưu (đảo Nam Yết), đảo Cảnh Hồng (đảo Sinh Tồn), đá Nam Tử (Song Tử Tây) và đảo Nam Uy (Trường Sa Lớn)... Ngoài đảo Sơn Ca, đảo đảo Nam Yết có một trung đội tăng cường đóng, các đảo khác, mỗi đảo có từ 20 đến 40 bộ đội địa phương và dân quân đóng giữ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, Việt Nam cũng nâng cấp khu vực hành chính cho Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 9/12/1982, Việt Nam công bố pháp lệnh thành lập huyện Hoàng Sa ở Hoàng Sa, trực thuộc sự quản lí của tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, thành lập huyện Trường Sa ở Trường Sa, trực thuộc sự quản lí của tỉnh Đồng Nai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 28/12 huyện Trường Sa lại được sáp nhập đặt dưới quyền của tỉnh Phú Khánh.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam cũng tăng cường sự quản lí đối với Trường Sa. Ngày 21/6/1980 ở gần đảo Sinh Tồn, phía Việt Nam đã kiểm tra và bắt giữ tàu đi biển của thuyền trưởng Nghiêm Minh Đức và 14 thuyền viên Đài Loan. Cuối cùng họ bị cảnh cáo, tịch thu tàu và thả về nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam còn tích cực mời gọi Liên Xô cùng khai thác tài nguyên dầu khí ở biển Đông để đối đầu lại với Trung Quốc. Ngày 3/7/1980, Việt Nam và Liên Xô kí Hiệp định cùng khai thác dầu khí ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng thời gian với đó, phía Trung Quốc gấp rút xây dựng căn cứ ở Hải Nam và Hoàng Sa. Quan hệ Trung-Việt tiếp tục căng thẳng, trực tiếp dẫn đến xung đột trên biển năm 1988.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bình luận “sự thay đổi thái độ” của Việt Nam về mặt pháp lí</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về ngoại giao, chính phủ Bắc Việt có tổng cộng 3 lần trực tiếp thừa nhận hoặc ngầm biểu thị Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc (nói chính xác hơn là 3 lần thừa nhận Hoàng Sa, 2 lần thừa nhận Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, xem IV.5). Vậy thì sự thay đổi thái độ của Bắc Việt, nhất là nước Việt Nam mới sau năm 1974 có cấu thành một estoppel (nói ngược) theo nghĩa luật quốc tế không? Liệu thái độ của chính phủ Bắc Việt Nam có nghĩa là Việt Nam đã mất đi yêu sách lãnh thổ của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa không?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số các tuyên bố trước đây của Bắc Việt, công hàm của Phạm Văn Đồng năm 1958 là tiêu biểu nhất. Trong phản bác của Trung Quốc đối với lập trường của Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như Trường Sa), công hàm Phạm Văn Đồng chiếm vị trí nổi bật. Trong bản công hàm này, Phạm Văn Đồng đưa ra tuyên bố “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ghi nhận và tán thành</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Điều này chắc chắn ẩn chứa “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ghi nhận và tán thành</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” tuyên bố của Trung Quốc đối với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, đó cũng chính là nguyên nhân Trung Quốc chỉ trích Việt Nam “tráo trở lật lọng”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về điểm này, cách giải thích chính thức nhất của Việt Nam là “Tuyên bố của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa” ngày 7/8/1979. Điểm 2 viết: Việc Trung Quốc coi công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo đó, là một sự xuyên tạc thô bạo, bởi vì tinh thần và lời văn của công hàm ấy chỉ đóng khung trong việc công nhận lãnh hải 12 hải lí của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với giải thích của Việt Nam nên hiểu như sau: Thứ nhất, cần xét đến bối cảnh thời đại lúc đó. Trung Quốc nói Phạm Văn Đồng là Thủ tướng Việt Nam, điều này không đúng. Trên thực tế, Phạm Văn Đồng chỉ là Thủ tướng của Bắc Việt (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Sau Hiệp định Geneva năm 1954, Việt Nam chính thức bị chia thành hai quốc gia ở miền Nam và miền Bắc, miền Bắc là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Nam là Quốc gia Việt Nam (sau đó được thay thế bằng nước Việt Nam Cộng hòa), gọi tắt là Nam Việt. Mặc dù sự phân chia này là tạm thời, nhưng điều này không phủ định tính hợp pháp của hai quốc gia này. Trung Quốc thường trực tiếp coi Bắc Việt là Việt Nam là không chính xác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó Bắc Việt và Nam Việt đánh nhau, Liên Xô và Trung Quốc ra sức giúp đỡ Bắc Việt, ngoài cung cấp tiền bạc, lương thực, súng ống… còn cử chuyên gia và nhân viên quân sự đến Bắc Việt. Ngoài vai trò cố vấn, những nhân viên này còn có tác dụng làm lá chắn sống do sống ở những nơi quan trọng ở miền Bắc Việt Nam – Mĩ không muốn trực tiếp gây chiến với Liên Xô và Trung Quốc nên phải tránh tấn công những nơi này. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đều thuộc phe cộng sản, với mục tiêu lớn chung là chống Mĩ và đánh bại khối phương Tây, không tránh quyền biến trong hành động.Theo Việt Nam, ở đây là Việt Nam “chân thành tin cậy Trung Quốc, cho rằng sau chiến tranh tất cả vấn đề lãnh thổ sẽ được giải quyết tốt đẹp trên cơ sở vừa là đồng chí vừa là anh em”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bắc Việt thừa nhận chủ quyền và phạm vi lãnh hải của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa khiến hải quân Mĩ không thể tiến vào và lợi dụng những nơi này (nếu không sẽ thành thù địch với Trung Quốc) có lẽ cũng là xuất phát từ suy nghĩ tương tự. Thực ra, cân nhắc về mặt chiến thuật này có thể chỉ là thứ yếu, Bắc Việt có lẽ lo ngại rằng nếu chống lại Trung Quốc về những vấn đề này thì Trung Quốc sẽ giảm bớt, hoặc thậm chí ngừng giúp đỡ Bắc Việt. Vì vậy, theo những gì Việt Nam nói sau này, làm như vậy hoàn toàn là một kiểu tính toán quyền biến xuất phát từ lợi ích chung của phe cộng sản cũng như lợi ích tự thân của Bắc Việt, hoàn toàn không phản ánh ý muốn thực sự của Bắc Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, công hàm Phạm Văn Đồng “cố ý” không (trực tiếp) đề cập đến vấn đề lãnh thổ, chỉ nhắc đến vấn đề lãnh hải 12 hải lí, có nghĩa là Phạm Văn Đồng thừa nhận quy định 12 hải lí của Trung Quốc chứ không thừa nhận tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Vì vậy, điều này “không có hiệu lực theo mặc định”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, ngay cả khi hai cách biện giải này của Việt Nam có lí thì cũng không đứng vững về mặt pháp lí. Cách biện giải thứ nhất đại khái là thật, Bắc Việt khi đó đã tràn đầy oán hận (mãn phục oán ngôn) với Trung Quốc. Ngay từ năm 1954 Chu Ân Lai và Liên Xô đã gây áp lực rất mạnh đối với Bắc Việt, khiến Bắc Việt từ bỏ vùng lãnh thổ đã giành được ở phía Nam vĩ tuyến 17° N. Bắc Việt cần Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ, buộc lòng phải chịu nuốt viên thuốc đắng này. Trong vấn đề Hoàng Sa, sự bày tỏ thái độ của Bắc Việt Nam cũng rất có thể là sự bày tỏ thái độ bắt buộc phải đưa ra vì muốn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của Trung Quốc. Như vậy, rốt cuộc đó có phải xuất phát từ suy tính lúc đó hay là chỉ là một kiểu biện giải sau khi sự việc xảy ra? Tác giả không tìm ra tài liệu ghi chép gốc nên không thể kết luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách biện giải thứ hai càng thiếu sức thuyết phục. Mặc dù trong công hàm Phạm Văn Đồng thực sự không thừa nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, thế nhưng ông ta đã “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố này của Trung Quốc và không có bảo lưu, điều đó có nghĩa là cũng tán thành chủ trương Hoàng Sa thuộc Trung Quốc. Nếu như công hàm này không có đoạn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, mà chỉ có đoạn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lí của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, thì cách biện giải của Việt Nam hiện nay còn có chỗ để có thể tranh luận. Cách dùng từ ngữ của công hàm này hiện nay không có nghĩa khác về mặt pháp lí. Đương nhiên, xét đến bối cảnh khi đó, nếu như Phạm Văn Đồng không thêm vào đoạn trên thì Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dẫu sao, dù lúc đó Bắc Việt không tự nguyện nhưng tuyên bố đã đưa ra rồi thì không thể thu lại. Khi đưa ra Tòa án quốc tế, bản công hàm chính thức có hiệu lực pháp lí rất lớn. Huống chi, miền Bắc còn bày tỏ thái độ về vấn đề này trong hai lần khác: lần bày tỏ thái độ của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm ngày 15/6/1956 và lần tuyên bố của Cục trưởng Cục Báo chí Bộ Ngoại giao Lê Trang ngày 9/5/1965. Trong những phát biểu này, Bắc Việt Nam đã xác định rõ một lần nữa việc coi Hoàng Sa là một bộ phận của Trung Quốc. Đối với lần thứ nhất, phía Việt Nam có vẻ không thừa nhận có phát ngôn này (không thấy nhắc đến trong những tư liệu đã chỉnh lí của phía Việt Nam). Nhưng tác giả vẫn thiên về hướng điều đó là có thật. Đối với lần thứ hai, “Tuyên bố” có giải thích: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Năm 1965, Mĩ mở rộng chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống miền Bắc Việt Nam, tuyên bố khu vực chiến đấu của lực lượng vũ trang Mĩ bao gồm Việt Nam và vùng kế cận cách bờ biển Việt Nam khoảng 100 hải lí. Lúc này, công cuộc chống Mĩ cứu nước đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải chiến đấu bằng mọi hình thức nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, lại thêm lúc ấy Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ hữu nghị với nhau. Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 9 tháng 5 năm 1965 chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh lịch sử đó mà thôi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù những bày tỏ thái độ của Việt Nam giống như giải thích có thể là mang tính sách lược (khiến Mĩ kiêng dè với phản ứng của Trung Quốc), nhưng nhìn từ góc độ luật quốc tế những bày tỏ thái độ này lại một lần nữa khẳng định thái độ của Bắc Việt trong vấn đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, rất nhiều báo chí, bản đồ, sách giáo khoa... của Bắc Việt Nam xuất bản khi đó đều xem Hoàng Sa là một bộ phận của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những bằng chứng này kết hợp với những bày tỏ thái độ chính thức ở trên đã cho thấy đầy đủ khi đó Bắc Việt thật sự thừa nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong luật pháp quốc tế, có loại lí thuyết về “không được nói ngược” (equitable estoppel). Trong luật pháp nhiều nước, yêu cầu của lí thuyết này chính là yêu cầu phía đương sự có lời nói đi đôi với việc làm, cần phải giữ chữ tín, không thể nói một đằng làm một nẻo. Trong luật quốc tế, các hệ thống quốc tế cũng yêu cầu một quốc gia duy trì tính nhất trí trên cùng một lập trường sự thực hoặc pháp lí. Ngăn không cho nói ngược thường được giải thích bằng ngạn ngữ chữ La tinh “allegans contraria non audiendus est”, nghĩa là một người không thể được lợi từ sự tiền hậu bất nhất của mình. Vì vậy, trong luật quốc tế, nguyên tắc này nhằm ngăn chặn một nước được hưởng lợi từ kiểu thái độ bất nhất này trong khi làm lợi ích của nước khác bị tổn hại. Nguyên tắc này có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định, tính có thể dự đoán và tính bất biến của quan hệ quốc tế. Mặc dù trong quan hệ quốc tế, không thiếu những tranh cãi về mức độ và phạm vi của "estoppel" nên được tuân thủ,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng khi liên quan đến vấn đề pháp lí như tranh chấp lãnh thổ..., “estoppel” là một nguyên tắc tương đối quan trọng, là một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá một quốc gia có chữ tín hay không, có chính nghĩa hay không. Nguyên tắc này rất quan trọng dù tại tòa án quốc tế hay trong dư luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, về mặt luật pháp quốc tế, công hàm Phạm Văn Đồng (và các bày tỏ thái độ tương tự khác) xem ra rất bất lợi cho Việt Nam. Nhưng khi phân tích tỉ mỉ lại không phải vậy. Vì mấu chốt của vấn đề là từ đầu đến cuối chỉ có Bắc Việt (tức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc chứ không phải Nam Việt vốn kiểm soát Hoàng Sa và Trường Sa trên lí luận và thực tế. Nam Việt chưa bao giờ thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Thái độ của Bắc Việt khác với Nam Việt, cũng không thể đại diện cho nước Việt Nam sau khi thống nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong luật pháp quốc tế, quan hệ kế thừa quốc gia là một vấn đề cực kì quan trọng. Quan hệ kế thừa quốc gia sau Thế chiến thứ hai của Việt Nam biến đổi cực kì phức tạp: theo “Hiệp định Geneva” năm 1954, Việt Nam “tạm thời” chia làm hai miền theo vĩ tuyến 17° N: Bắc Việt và Nam Việt. Mặc dù hai quốc gia này cuối cùng sẽ thống nhất, nhưng trước khi thống nhất mỗi bên đều là quốc gia có chủ quyền. Để phân biệt quốc gia và chính phủ, “Nam Việt” dưới đây dùng để chỉ quốc gia nằm ở miền Nam Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ của Nam Việt ban đầu là chính phủ “Quốc gia Việt Nam” (State of Vietnam) do Hoàng đế Bảo Đại đứng đầu, sau năm 1956 trở thành chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Republic of Vietnam). Năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bị Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lật đổ, chính phủ này thành lập chính phủ nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Một năm sau, Bắc Việt và Nam Việt hợp nhất với nhau thành nước Việt Nam mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù trải qua mấy chính quyền, thời gian từ 1954 đến 1976, Nam Việt đều là một quốc gia có chủ quyền. Điều này là do: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan hệ của Bắc Việt và Nam Việt dựa trên các hiệp định quốc tế, giống như Bắc và Nam Triều Tiên. Rất nhiều nước lựa chọn thiết lập quan hệ ngoại giao với một trong hai quốc gia này, ví dụ Mĩ và 86 nước khác lựa chọn thiết lập quan hệ với Nam Việt, trong khi Trung Quốc (Bắc Kinh) và các nước khác thì lựa chọn thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Việt. Nhưng cũng có nước đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao với cả Bắc Việt lẫn Nam Việt, ví dụ như Campuchia. Có thể thấy, về quan hệ quốc tế hai quốc gia đều là quốc gia hợp pháp không loại trừ lẫn nhau. Tuy Nam Việt bị Liên Xô phủ quyết nên không thể chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc, nhưng vẫn tham gia một số uỷ ban đặc biệt của Liên Hợp Quốc. Vì vậy, quan hệ giữa Nam và Bắc Việt Nam gần giống quan hệ giữa Nam và Bắc Triều Tiên, hoàn toàn không giống quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Bắc Việt thừa nhận miền Nam Việt Nam là một quốc gia độc lập. Mặc dù trong “Hiệp định Geneva” không hề trực tiếp gọi hai quốc gia này bằng từ “quốc gia” mà chỉ dùng từ “khu vực’ (zone), nhưng một hiệp định quốc tế chính thức khác lại thể hiện rõ ràng điều này- “Hiệp định hòa bình Paris” (Paris Peace Accords) kí kết năm 1973 đã thể hiện rõ ràng hai miền đều là quốc gia. Hiệp định này là văn kiện chính thức mà bốn bên Bắc Việt, Nam Việt (Việt Nam Cộng hòa), Mĩ và Chính phủ Cách mạng lâm thời (miền Nam Việt Nam) (Provisional Revolutionary Government) kí kết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong đó Điều 14 viết:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 14: Miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước lãnh không biệt chế độ chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kĩ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam nói trong điều 9 (b).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South Viet-Nam will pursue a foreign policy of peace and independence. It will be prepared to establish relations with all countries irrespective of their political and social systems on the basis of mutual respect for independence and sovereignty and accept economic and technical aid from any country with no political conditions attached. The acceptance of military aid by South Viet - Nam in the future shall come under the authority of the government set up after the general elections in South Viet- Nam provided for in Article 9 (b).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở đây chỉ ra rõ miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với các nước khác trên cơ sở “tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Điều này cho thấy miền Nam Việt Nam là một quốc gia “độc lập” và có “chủ quyền”, đồng thời cũng có nghĩa là sự việc “Nam Việt là một quốc gia độc lập có chủ quyền” cũng được Bắc Việt thừa nhận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời kì chiến tranh Việt Nam, chính quyền hợp pháp ở Nam Việt đương nhiên là Chính phủ Nước Việt Nam Cộng hòa, và đánh nhau với chính phủ hợp pháp này là quân du kích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do Đảng Cộng sản miền Nam Việt Nam lãnh đạo. Vào năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Do đó, quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời cũng gần giống như quan hệ giữa chính phủ Quốc Dân đảng và chính phủ Đảng Cộng sản thời nội chiến Quốc- Cộng ở Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cái nhìn của Trung Quốc, Chính phủ Cách mạng Lâm thời là chính quyền hợp pháp của miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời chính thức thành lập ngày 6/6/1969, chính phủ Trung Quốc lập tức gửi điện mừng, chính thức công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời và thiết lập quan hệ ngoại giao. Bức điện trên Tân Hoa xã ngày 15/6 viết:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thủ tướng Quốc Vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai gửi điện cho Chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát, nhiệt liệt chúc mừng tuyên bố thành lập của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Trung Quốc tuyên bố chính thức công nhận đoàn đại biểu thường trú tại Trung Quốc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đoàn đại sứ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời là chính phủ “thực sự hợp pháp” của miền Nam Việt Nam, đồng thời công nhận đoàn đại biểu của chính phủ này tại Trung Quốc là đoàn đại sứ tại Trung Quốc, điều này có nghĩa là Trung Quốc đã công nhận miền Nam Việt Nam là một quốc gia độc lập. Trên thực tế, số nước công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ cách mạng lâm thời lên đến gần 30 nước. Có thể thấy, miền Nam Việt Nam là một quốc gia độc lập được cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Bắc Việt và Trung Quốc, công nhận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 2/7/1974, đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự Hội nghị Biển Liên Hợp Quốc lần thứ 3 đã phản đối đại biểu chính quyền Sài Gòn của miền Nam Việt Nam tham dự hội nghị lần này, trong phát biểu có nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện nay ở miền Nam Việt Nam tồn tại hai chính quyền, đó là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và nhà cầm quyền Sài Gòn. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam. Trong tình hình này, đại biểu nhà cầm quyền Sài Gòn đơn phương tham dự hội nghị lần này là không thỏa đáng, không hợp lí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong tuyên bố này Trung Quốc cho rằng miền Nam Việt Nam, do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đại diện, là một quốc gia độc lập, nếu không thì không thể tham dự Hội nghị Biển Liên Hợp Quốc vốn chỉ các quốc gia có chủ quyền mới có thể tham dự (Trung Hoa Dân Quốc của Quốc dân Đảng không có chủ quyền thì không thể tham dự hội nghị này).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo “Hiệp định Geneva”, vĩ tuyến 17° N là ranh giới giữa Nam Việt và Bắc Việt. Vĩ độ cực Bắc của quần đảo Hoàng Sa vừa vặn nằm trong khoảng giữa vĩ tuyến 15° đến 17° N, toàn bộ đều nằm ở phía Nam Vĩ tuyến 17° N. Cơ quan hành chính của Pháp vốn đóng ở nhóm đảo Lưỡi Liềm (quần đảo Vĩnh Lạc - Crescent group) từ năm 1950 đã được chính quyền Bảo Đại tiếp quản, năm 1956 quân trú đóng Pháp cũng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa thay thế. Vì vậy, cả về mặt pháp luật lẫn trên thực tế, quần đảo Hoàng Sa đều là lãnh thổ của Nam Việt chứ không phải là lãnh thổ của Bắc Việt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, việc Bắc Việt công nhận Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc không hề ảnh hưởng đến thực tế kiểm soát và yêu sách lãnh thổ của Nam Việt. Bắc Việt cũng không có cách gì đem lãnh thổ không thuộc về mình cắt cho Trung Quốc. Còn Nam Việt, cả chính quyền Bảo Đại, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lẫn Chính phủ Cách mạng Lâm thời được Trung Quốc công nhận đều không thừa nhận Hoàng Sa là một bộ phận của Trung Quốc. Năm 1974, Trung Quốc chiếm được phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa từ trong tay quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau khi sự việc xảy ra, chính phủ Việt Nam Cộng hòa kịch liệt lên án Trung Quốc và đưa kháng nghị cho Liên Hợp Quốc. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời được Trung Quốc công nhận cũng không đứng về phía Trung Quốc, mà chỉ thừa nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa có tranh chấp, đồng thời cho rằng cần phải giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với mỗi một dân tộc đều là một sự nghiệp thiêng liêng. Đối với vấn đề phức tạp như tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại cần phải xử lí thận trọng, vấn đề Hoàng Sa cần phải giải quyết thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở bình đẳng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, trên thực tế Nam Việt có chủ quyền ở Hoàng Sa (từ góc độ của Việt Nam) và có quyền kiểm soát (phía Tây Hoàng Sa), không thừa nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, và cũng không từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa sau khi mất quyền kiểm soát.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần phải chỉ ra là, sau Hải chiến Hoàng Sa cũng là lúc Bắc Việt thay đổi thái độ. Khi chỉ xét thái độ riêng của Bắc Việt thì rõ ràng ho đã vi phạm nguyên tắc “estoppel” (không được nói ngược). Nhưng tiếp sau là bước then chốt: sự thống nhất của Việt Nam hoàn toàn không phải Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam mà là sự thống nhất hòa bình của miền Nam và miền Bắc Việt Nam trên cơ sở bình đẳng. Theo Điều 15 của “Hiệp định hòa bình Paris”:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam Việt Nam thoả thuận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The reunification of Viet-Nam shall be carried out step by step through peaceful means on the basis of discussions and agreements between North and South Viet Nam, without coercion or annexation by either party, and without foreign interference. The time for reunification will be agreed upon by North and South Viet Nam</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau thất bại quân sự của chính quyền Việt Nam Cộng hòa tháng 4/1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời giành được chính quyền toàn quốc ở miền Nam Việt Nam, và thành lập nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (giống như Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại Quốc Dân đảng giành lấy chính quyền và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa). Về mặt pháp lí, nó vẫn là Nam Việt và kế thừa tất cả quyền lợi của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả yêu sách chủ quyền ở Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 8/1975, sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa không còn tồn tại, nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng nộp đơn xin trở thành nước thành viên của Liên Hợp Quốc, đã được 123 nước thành viên ủng hộ tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, nhưng bị Mĩ phản đối nên không thành. Trung Quốc bỏ phiếu tán thành dự thảo nghị quyết này, và cho rằng hành vi của Mĩ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rõ ràng vi phạm hoàn toàn các quy tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nghị quyết có liên quan của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cho thấy Trung Quốc tiếp tục công nhận chính phủ nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp của miền Nam Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Bắc Việt (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trải qua hiệp thương và trù bị, cuối cùng đạt được thỏa thuận thành lập nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nước Việt Nam mới) thống nhất vào ngày 3/7/1976.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước Việt Nam mới này hoàn toàn không phải là Bắc Việt thôn tính Nam Việt, mà là sự thống nhất giữa Bắc Việt và Nam Việt. Do trước khi thống nhất, Bắc Việt và Nam Việt đều là quốc gia độc lập được quốc tế công nhận, nước Việt Nam mới sau khi thống nhất đương nhiên kế thừa tất cả quyền lợi của Bắc Việt và Nam Việt. Tất nhiên Nam Việt liên tục có đòi hỏi chủ quyền với Hoàng Sa (từ góc độ của Việt Nam), nên nước Việt Nam mới kế thừa tất cả quyền lợi của Nam Việt, đương nhiên cũng có quyền tiếp tục đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt lí luận, thái độ của nước Việt Nam mới đối với Hoàng Sa có thể dựa theo Nam Việt, mà cũng có thể dựa theo Bắc Việt. Nhưng trong tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Nam Việt và Trung Quốc mới là hai bên đương sự. Theo luật quốc tế, Bắc Việt chỉ là bên thứ ba không có liên quan về pháp lí, nó hoàn toàn không có quyền lợi và nghĩa vụ quyết định sự quy thuộc của chủ quyền, thái độ của nó cùng lắm chỉ là cách nhìn của bên thứ ba. Vì vậy, yêu sách của Nam Việt quan trọng hơn đối với nước Việt Nam mới, còn thái độ từng có của Bắc Việt hoàn toàn không có tính quyết định. Vì vậy, nước Việt Nam mới đã kế thừa thái độ của Nam Việt cũng là lẽ đương nhiên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, chủ trương của Trung Quốc trong vấn đề estoppel (không được nói ngược) có một số sai sót: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc sai lầm khi đánh đồng Bắc Việt là Việt Nam mà không chú ý rằng nước Việt Nam mới là quốc gia mới được hình thành từ sự hợp nhất của Bắc Việt và Nam Việt; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc hiện nay im lặng không đề cập đến việc đã từng công nhận Nam Việt là một quốc gia, càng không đề cập đến việc chính phủ nào của Nam Việt cũng đều chủ trương Hoàng Sa là lãnh thổ của Việt Nam; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trước khi Việt Nam thống nhất, Nam Việt mới là bên đương sự ở quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa với Nam Việt chứ không phải với Bắc Việt. Bắc Việt với tư cách là bên thứ ba ngoài cuộc tranh chấp, thái độ của bên này về pháp lí đối với cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Nam Việt hoàn toàn không có ảnh hưởng thực chất nào; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nước Việt Nam mới đã kế thừa tất cả quyền lợi của Nam Việt và Bắc Việt, cũng đã kế thừa một cách tự nhiên yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa của Nam Việt từ trước đến nay, thái độ mà Bắc Việt từng có, hoàn toàn không ảnh hưởng về mặt pháp lí đến lập trường của nước Việt Nam mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng hợp những điều trình bày ở trên thì các văn kiện kiểu như công hàm Phạm Văn Đồng với tư cách là một văn kiện chính thức đối với bản thân Phạm Văn Đồng hoặc chính phủ Bắc Việt là có sức ràng buộc. Việc thay đổi thái độ của Phạm Văn Đồng và chính phủ Bắc Việt đối với Hoàng Sa sau năm 1974 là một dạng “estoppel”. Tuy nhiên, do nước Việt Nam mới là một quốc gia mới được hình thành do sự hợp nhất của Nam Việt và Bắc Việt, và Nam Việt (chứ không phải Bắc Việt) luôn luôn kiên trì có chủ quyền đối với Hoàng Sa mới là bên đương sự về chủ quyền Hoàng Sa, nước Việt Nam mới sau khi kế thừa quyền lợi của Nam Việt, việc nước này có thái độ không giống với chính quyền Bắc Việt trước năm 1974 về vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn không cấu thành “estoppel” theo luật pháp quốc tế. Vì vậy, Trung Quốc dùng nguyên tắc “không được nói ngược” để chỉ trích Phạm Văn Đồng hoặc chính phủ Bắc Việt “nói lời không giữ lời” là có lí có chứng, nhưng khi Trung Quốc dùng nó để chỉ trích và tố cáo nước Việt Nam mới thì không nảy sinh tác dụng pháp lí nào theo luật pháp quốc tế.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.11 Malaysia, Brunei và Indonesia</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ cuối những năm 1960, một số đối thủ cạnh tranh mới nổi lên trong tranh chấp biển Đông: Malaysia, Brunei và Indonesia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế chiến thứ hai, Anh tổ chức lại Malaya thuộc Anh thành Liên bang Malaya. Năm 1957, Malaya độc lập, Tunku Abdul Rahman trở thành Thủ tướng đầu tiên của Malaya. Tương lai của Borneo thuộc Anh khi đó vẫn còn đang tranh luận. Năm 1961, sau khi trải qua thời gian dài thảo luận, đấu tranh gay gắt cũng như dân chúng bày tỏ ý kiến, Anh và Malaya đồng ý để Sabah và Sarawak lấy tư cách quốc gia cùng với Liên bang Malaya hợp thành quốc gia mới; hơn nữa để cân bằng quyền lợi của người Hoa ở Singapore, Singapore độc lập cũng lấy tư cách quốc gia gia nhập Liên bang Malaysia mới. Dân Brunei thì không đồng ý hợp nhất với Malaya (cho dù Quốc vương thiên về như vậy). Do đó,vào ngày 16/9/1963, Liên bang Malaysia bao gồm Malaya, Singapore, Sabah và Sarawak chính thức được thành lập. Việc thành lập Malaysia gặp phải sự phản đối của Indonesia và Philippines. Indonesia khi đó dưới thời Sukarno cổ xúy toàn thể người Malaya tổ chức thành “Đại Melayu” (Đại Mã Lai Do). Mãi tới cuộc bạo động ở Indonesia ngày 30/9/1965, Suharto lên nắm quyền mới từ bỏ tham vọng này. Còn Philippines thì đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với phần phía Bắc Sabah vì phần lãnh thổ này trước đây vốn là thuộc nước Sulu cho Anh thuê, nên phải trả lại cho Philippines. Mãi cho đến sau khi Marcos lên nắm quyền năm 1966, yêu sách này mới được từ bỏ (nhưng cho đến hiện nay vấn đề Sabah vẫn còn gây tranh cãi). Trước cuộc tuyển cử Liên bang lần thứ nhất năm 1964, lãnh đạo Đảng Nhân dân hành động Lí Quang Diệu ở Singapore đã biểu hiện sức thu hút mạnh mẽ đối với cử tri. Hơn nữa, với việc gia nhập của Singapore, nước có số người Hoa áp đảo, đã khiến tỷ lệ chung của người Hoa trong Liên bang Malaysia lên tới 40%, đe dọa nghiêm trọng đến địa vị chính trị của người Malaya bản địa. Tunku Abdul Rahman quyết định buộc Singapore ra khỏi Liên bang Malaysia. Không có cách nào, Singapore tuyên bố độc lập ngày 9/8/1965 . Như vậy, Malaysia hiện nay chỉ mới chính thức được thành hình sau năm 1965.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khác với Việt Nam và Philippines, chính sách mà Malaysia thực hiện là “lẳng lặng làm giàu”, khai thác dầu khí ven bờ biển Đông trước chứ không vội yêu sách chủ quyền. Thực ra, Malaysia đã bắt đầu khai thác dầu khí gần bờ ngay cả trước khi liên bang được thành lập. Borneo thuộc Anh từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đã bắt khai thác dầu khí ở ven bờ biển của Bắc Borneo. Sarawak và Sabah đã lần lượt bắt đầu khoan thăm dò dầu khí ở thềm lục địa gần bờ vào năm 1957 và 1958.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kể từ năm 1966, nhờ đổi mới công nghệ, tiến độ thăm dò dầu khí ngoài khơi đã được đẩy nhanh hơn rất nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1966, Malaysia căn cứ vào “Công ước về thềm lục địa” của Liên Hợp Quốc năm 1958 đã đề ra “Luật về dầu mỏ” (Petroleum Mining Act, 1966) và “Luật về thềm lục địa” (Continental Shelf Act, 28 July, 1966). Năm 1968, Malaysia đã vẽ ra khu vực khai thác mỏ ở vùng biển phía Đông nước này, trong đó có hơn 80 000 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nằm trong đường 9 đoạn của Trung Quốc, bao phủ bãi North Luconia (Bắc Khang), bãi South Luconia (Nam Khang) mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền cũng như bãi ngầm James (Tăng Mẫu) mà Trung Quốc tuyên bố là cực Nam lãnh thổ của họ. Những bãi ngầm có liên quan đến Trung Quốc này đều nằm ở đoạn Sarawak, Malaysia cấp quyền khai thác cho công ti Sarawak Shell (Sarawak Shell BHD), một công ti con của công ti Shell của Mĩ. SSB phân chia khu vực khai thác này thành 4 khu vực địa lí (Baram Delta, Balingian, Central Luconia và S.W. Luconia). Bắt đầu từ năm 1970, Malaysia và các công ti hợp tác lần lượt khoan thăm dò dầu khí trong khu vực khai thác mỏ (mà theo Trung Quốc) thuộc phạm vi quần đảo Trường Sa (bãi Nam Khang, bãi Bắc Khang và bãi Tăng Mẫu). Trong khu vực tam giác châu Baram và khu Balingian đều phát hiện trữ lượng dầu phong phú. Năm 1975, tại vùng biển phía Bắc bãi James (Tăng Mẫu) phát hiện mỏ khí đốt thuộc loại lớn trên thế giới (mỏ khí Mindoro) với trữ lượng 500 tỷ mét khối, sản lượng hàng năm 10 tỷ mét khối. Năm 1982, Malaysia chuyển nhượng quyền khai thác khu vực lô S.W. Luconia (gần bãi Bắc Khang) cho công ti khai thác liên hợp với công ti Pháp Elf Aquitaine đứng đầu thông qua hợp đồng phân chia lợi nhuận sản xuất (Production Sharing Contract).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dầu khí ven bờ ngày càng trở thành ngành sản xuất quan trọng của Sarawak.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc phát hiện dầu mỏ ở đoạn Sabah không thành công như ở Sarawak. Sabah đã duyệt cấp các lô này cho 3 tập đoàn Esso, Sabah Shell/Pecten (SSPC) và PETRONAS Carigali / BP / Oceanic, năm 1971, SSPC và Esso lần lượt phát hiện nguồn tài nguyên dầu quan trọng ở khu Erb West và Tembungo. Tuy nhiên, việc khoan thăm dò ở nơi khác thu hoạch không được nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1974, Malaysia thành lập Công ti dầu khí quốc gia (PETRONAS), thay mặt nhà nước quản lí toàn bộ tài nguyên dầu mỏ của Malaysia, kí kết lại hợp đồng từ đầu với công ti nước ngoài dùng hình thức hợp đồng phân chia lợi nhuận sản xuất để khích lệ hơn nữa nhiệt tình khai thác của công ti nước ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Suharto lên cầm quyền ở Indonesia, Malaysia và Indonesia xây dựng được quan hệ tốt đẹp, bắt đầu đàm phán về đường phân giới trên bộ và trên biển. Về vấn đề đường phân giới trên biển, đàm phán diễn ra rất thuận lợi, hai bên đều đồng ý lấy trung tuyến làm đường phân giới. Ngày 27/10/1969, hai nước đã kí kết hiệp định về thềm lục địa. Tại đoạn Đông Malaysia thuộc vùng biển biển Đông, hai bên đồng ý lấy đường gấp khúc gồm 4 đoạn nối 5 điểm làm đường phân giới lãnh hai hai nước (Article I, 1-C)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 32). Ngày 17/3/1970, hai nước kí hiệp định về lãnh hải giữa Eo biển Malacca (có hiệu lực ngày 10/3/1971).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn ở biển Đông, do khoảng cách giữa hai nước lớn hơn 24 hải lí nên không cần phải tiến hành đàm phán về lãnh hải.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do khi đó vẫn chưa có quy định về vùng đặc quyền kinh tế nên không có hiệp định liên quan giữa Malaysia và Indonesia. Nhưng hai bên có lẽ ngầm thừa nhận thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế cùng sử dụng một đường phân giới chung. Trong hiệp định về thềm lục địa, thềm lục địa mà Indonesia và Malaysia tuyên bố đều có chồng lấn với đường 9 đoạn của Trung Quốc. Trong đó phần chồng lấn của Indonesia với đường 9 đoạn của Trung Quốc khoảng 50 000 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, còn Malaysia do gần với phía Trung Quốc hơn nên diện tích vùng chồng lấn với đường 9 đoạn lớn hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 348px; overflow: hidden; width: 485px;"><img height="348" src="https://lh6.googleusercontent.com/_s-VcVBhZQj96CvZ5zVwROfoy_6rKeZJJx5hXK8jGnk_tAtBxigCnWWKM8dTG_Gj958qH0wfyRt6oixkgWIThfwdCZF0WYG3V3aX_BRapKnIXSiILmpAUrBPcZpeohys25jNBJSgyYTUGMeC6FU8AS8" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="485" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 32: Đường phân giới trên biển giữa Malaysia và Indonesia </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, qua việc trao quyền thăm dò dầu khí và phân định vùng biển, Malaysia đã “xâm phạm” “vùng biển” của Trung Quốc cả trên thực tế lẫn trên pháp lí. Nhưng Trung Quốc không hề đưa ra phản đối và cũng dường như không có phản ứng gì. Việt Nam và Philippines cũng không có phản ứng cụ thể nào, vì yêu sách về biển Đông của họ không vươn xa về phía Nam (tới 4° N) như của Trung Quốc. Yêu sách của Việt Nam chỉ đến khoảng 7° N, còn đường yêu sách của Philippines nằm xa hơn về phía Bắc một ít. Việc khai thác ở ven biển của Malaysia không hề chồng lấn với đường yêu sách của Việt Nam và Philippines. Phản ứng nhẹ nhàng của Trung Quốc có thể có mấy nguyên nhân sau: thứ nhất, Malaysia không công khai yêu sách (chẳng hạn như ra tuyên bố) chủ quyền đối với Trường Sa; thứ hai, vùng biển của Malaysia có nhiều bãi ngầm, vừa không thể đóng quân vừa khó khai thác; thứ ba, theo luật quốc tế, Trung Quốc không thể yêu sách chủ quyền đối với các bãi ngầm, hơn nữa những bãi ngầm đó rất gần Malaysia, trong khi bằng chứng và truyền thống lịch sử về việc khai thác dầu khí gần bờ của Malaysia đều rất đầy đủ, tùy tiện đưa ra phản đối sẽ để lại ấn tượng bá đạo với cộng đồng quốc tế; thứ tư, mục tiêu chính của Trung Quốc khi đó là Việt Nam, nếu Việt Nam không phản đối, Trung Quốc cũng không cần đưa ra phản đối riêng biệt; cuối cùng, vào những năm 1970 Malaysia đã bắt đầu nhích lại gần Trung Hoa cộng sản. Khác với đường lối chống cộng của Tunku Abdul Rahman, Thủ tướng Abdul Razak Hussein theo đuổi chính sách trung lập, không liên kết. Tháng 5/1974 ông ta thăm Trung Quốc, trở thành quốc gia vốn chống cộng ở Đông Nam Á thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đầu tiên (Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sớm nhất nhưng đã cắt đứt quan hệ trong những năm 1960). Đối với Malaysia Trung Quốc đại khái cũng có thỏa thuận ngầm giống như với Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia lần đầu tiên đưa ra đòi hỏi lãnh thổ đối với một số đảo ở quần đảo Trường Sa vào năm 1971. Vào thời điểm đó, “Cộng hòa MSM” (xem 4.1), nước kế thừa nhà nước tư nhân “Vương quốc Nhân đạo” nói trên, đã gửi thư cho các nước Đông Nam Á, tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Chính phủ Malaysia nhận được thư, dấy lên nghi vấn về tình trạng của Trường Sa. Vì vậy, trong công hàm gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 3/2, Đại sứ Malaysia tại Việt Nam bày tỏ: Malaysia cho rằng các đảo ở khu vực 9° N và 112° E ở quần đảo Trường Sa thuộc Malaysia, và cũng dò hỏi thái độ của Việt Nam đối với bức thư của nước Cộng hòa MSM.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 20/4, Nam Việt Nam lập tức gửi công hàm, tuyên bố Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Malaysia không bày tỏ thái độ thêm về vấn đề này nữa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng nước này đã bắt đầu chú ý đến vấn đề chủ quyền các đảo ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, “Tinh châu nhật báo” (Sin Chew Daily) của Malaysia ngày 11/4/1980 đưa tin: Malaysia trước đó đã sớm chú ý đến một bản đồ của Trung Quốc xuất bản năm 1975 có vẽ một vùng biển lớn ở gần bờ biển của Đông Malaysia nằm trong biên giới Trung Quốc (chính là nói đến đường 9 đoạn, tác giả), đã đưa ra kháng nghị với Trung Quốc nhưng phía Trung Quốc im lặng. Đây cũng có thể là nguyên nhân mà Malaysia cảm thấy cần phải hành động thêm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 21/12/1979, giới chức Malaysia đã bất ngờ xuất bản một tấm bản đồ thềm lục địa Malaysia, tên gọi chính thức là: Peta Baru Menunjukkan Sempadan Perairan dan Pelantar Benua Malaysia (New Map Showing the Territorial Waters and Continental Shelf Boundaries of Malaysia,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sau đây gọi tắt là “Bản đồ năm 1979”, Hình 33, Hình 34). Ranh giới biển của bản đồ này hầu như có tranh chấp với tất cả các nước láng giềng, lập tức khiến các nước xung quanh chú ý và phản đối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban đầu vào năm 1969 và 1970 giữa Malaysia và Indonesia đã cơ bản đạt được hiệp định về vấn đề lãnh hải và thềm lục địa. Nhưng hiệp định chưa giải quyết hai đảo nhỏ ở biển Sulawesi thuộc phía Tây Borneo – đảo Ligitan và đảo Sipadan. Hai đảo khi đó do Malaysia kiểm soát nhưng Indonesia cho rằng mình mới là nước có chủ quyền. Khi hiệp thương hai nước quyết định tạm thời gác lại tranh chấp. Nhưng trong bản đồ năm 1979 nêu trên, hai đảo này được đưa vào lãnh thổ của Malaysia. Indonesia liền đưa ra phản đối. Mãi đến năm 1997, hai bên đồng ý đưa tranh chấp hai đảo này ra Tòa Trọng tài Quốc tế. Cuối cùng năm 2002, Tòa án phán quyết chủ quyền thuộc về Malaysia với tỷ số phiếu 16:1.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản đồ này, Malaysia cũng đưa vào lãnh thổ của mình đảo Batu Puteh, vốn không bị tranh chấp và từ lâu nằm dưới sự kiểm soát của Singapore. Singapore lập tức đưa ra phản đối ngoại giao. Năm 1994, hai bên Singapore và Malaysia đồng ý đưa vụ việc đảo này ra Tòa án Trọng tài Quốc tế. Năm 2008, Tòa án phán quyết chủ quyền đảo này thuộc về Singapore với tỷ số phiếu 12:4.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, cách vẽ lãnh hải ở Eo Malacca trên bản đồ này cũng gây tranh chấp với Indonesia và Singapore, không phân tích chi tiết ở đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 287px; overflow: hidden; width: 445px;"><img height="287" src="https://lh6.googleusercontent.com/Sg1GEZvBx6xq5y2hizrksrwlY-qUb0SKviCK-54C4KmvAPdvtdMOK2Mm8U72nJFoNoB7qWH6FYNedm9Jm_pdk6O-U_wSBDvS8ltN9rzseJ5TeiLJP6fdB-q8Ik0KPZDzTyKPxFhSLeBiunSsj9vWOw" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="445" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 33: Bản đồ năm 1979, phần Tây Malaysia</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 365px; overflow: hidden; width: 452px;"><img height="365" src="https://lh5.googleusercontent.com/P7JvZoffVTbpXz8Xr61fSCydNb7zbh4UNQbWM2qHt15-GSVefzmtSxQALBvwFhymeFXaufLhwL4dbB7VdHTXL3IUKcjYbmcJcyMqaWlYjraClEtpQo_BwDOWFf4dcrc6aW9bu3JMR1t7Xzo8Cv1Z1Q" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="452" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 34: Bản đồ năm 1979, phần Đông Malaysia </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ này cũng gây ra những tranh cãi khác ở biển Đông dọc theo phần phía Đông Malaysia. Trên bản đồ đã xuất hiện một đường giới hạn thềm lục địa của Malaysia (1979 Malaysia Continental Limit Line). Đoạn phía Tây của nó bắt đầu từ đường ranh thềm lục địa giữa Malaysia và Indonesia năm 1969, kéo dài thành một đường song song cách Borneo khoảng 200 hải lí đến chỗ đường ranh giới Anh-Mĩ năm 1930 (biên giới phân định Borneo thuộc Anh và Philippines thuộc Mĩ). Các đảo, đá bên trong đường này, bao gồm bãi Glasgow [Shoal] (Nam Lạc), bãi ngầm Phù Mĩ (Hiệu Úy, North East Shoal), đá Công Đo (đá Tư Lệnh, Commodore Reef), đá Gloucester Breakers (đá Pha Lãng), đá Kì Vân (đá Nam Hải, Mariveles Reef), đảo An Bang (bãi An Ba, Amboyna Cay) ở khu vực phía Nam đường này (bao gồm 12 đảo nhỏ và đảo chìm) đều được đưa vào lãnh thổ Malaysia.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Malaysia liên tục khai thác dầu khí trên một số bãi ngầm nhưng không chính thức đưa ra đòi hỏi chủ quyền. Nghe nói năm 1975 Malaysia từng nêu ra với Trung Quốc rằng đường 9 đoạn trên bản đồ Trung Quốc vẽ quá gần bờ biển Malaysia.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu đúng thì đó là phản đối sớm nhất liên quan đến đường 9 đoạn. Không biết được khi đó Trung Quốc phản ứng ra sao. Nhưng ngoài yêu sách mơ hồ này ra, Malaysia không hề trực tiếp đưa ra đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa. Ví dụ khi Nam Việt Nam chiếm đảo An Bang năm 1975 cũng như khi nước Việt Nam mới chiếm đảo này lần nữa vào năm 1977 (sau đó lại rút đi), Malaysia không hề kháng nghị. Còn khi Philippines đưa quần đảo Kalayaan vào lãnh thổ của mình năm 1978, Malaysia cũng không đưa ra phản đối. Vì vậy, khá bất ngờ khi Malaysia bỗng nhiên đưa nhiều đảo, đá vào lãnh thổ của mình trên bản đồ năm 1979.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong đường ranh giới này, Malaysia hoàn toàn không hề tính tới quyền lợi của Brunei. Brunei nằm giữa Sarawak và Sabah. Khi hai bang này gia nhập Liên Bang Malaysia năm 1958 đã đạt được hai hiệp định (xem phần sau) với Brunei (khi đó vẫn là nước bảo hộ của Anh) không gia nhập Liên bang, quy định đường phân giới hai phía Đông Tây của Brunei lần lượt là ranh giới với Sabah và Sarawak. Tuy nhiên, bản đồ năm 1979 của Malaysia hoàn toàn không chú ý đến sự tồn tại của Brunei mà vẽ đá Louisa (Nam Thông, Louisa Reef)... nằm giữa đường phân giới (kéo dài) hai phần Đông và Tây (tức thuộc về Brunei) vào lãnh thổ Malaysia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chẳng có gì lạ khi bản đồ này vừa xuất bản đã lập tức gây ra tranh chấp ngoại giao. Phản ứng dữ dội nhất là Nam Việt và Philippines, họ lập tức đưa ra phản đối. Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Inglis gửi công hàm ngoại giao, cho rằng Malaysia đã xâm phạm chủ quyền của Philippines ở “quần đảo Kalayaan” và Sabah; còn Nam Việt Nam thì bày tỏ rằng việc Malaysia đưa đảo An Bang (bãi An Ba) và đá Hoa Lau (đá Đạn Hoàn, Swallow Reef) vào lãnh thổ là xâm phạm chủ quyền của Nam Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đài Loan cũng đưa ra kháng nghị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng thái độ của Trung Quốc rất mềm mỏng, chỉ phản đối riêng với phía Malaysia. Ngày 15/4/1984, phân xã Hồng Kông của Tân Hoa xã khi đăng bài tổng thuật việc các nước phản đối Malaysia phát hành bản đồ này chỉ nhắc đến Indonesia, Singapore, Philippines, Philippines, Việt Nam và Thái Lan, không nhắc đến việc Trung Quốc phản đối. Khi nhắc đến Trung Quốc, bài báo chỉ nói đến việc Malaysia phản đối bản đồ Trung Quốc xuất bản năm 1975, đồng thời dẫn lời báo “Tinh châu nhật báo” của Malaysia rằng bản đồ năm 1979 này nên được xem là có ngụ ý rằng Trung Quốc không có quyền yêu sách vùng biển này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với phản đối của Trung Quốc mãi đến tháng 6/1980 mới được Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia nêu ra trong buổi chất vấn ở Quốc hội, nhưng ông ta không tiết lộ nội dung của kháng nghị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Trung Quốc đối với Malaysia thậm chí còn mềm mỏng hơn so với thái độ đối với Philippines. Đối với Philippines, Trung Quốc luôn nhắc lại công khai chủ quyền đối với Trường Sa chứ không phải chỉ phản đối trong tư riêng. Nguyên nhân của sự mềm mỏng này có thể là: Việt Nam là nước phản đối Malaysia dữ dội nhất vào lúc đó (đặc biệt là tranh chấp ở đảo An Bang) trong khi Trung Quốc và Việt Nam đang đánh nhau, việc phản đối nhẹ nhàng có lợi cho việc lôi kéo Malaysia chống lại Việt Nam về mặt dư luận quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia không chỉ mở rộng biên cương trên bản đồ. Ngày 28/4/1980, Malaysia chính thức tuyên bố có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1978, Malaysia đã lặng lẽ dựng cột mốc trên các đảo, đá như đảo An Bang (bãi An Ba), đá Hoa Lau (đá Đạn Hoàn) cũng như đá Công Đo (đá Tư Lệnh), điều này có nghĩa là về hành động Malaysia đã chính thức tuyên bố chủ quyền đối với các đảo của Trường Sa. Nhưng những hành động này đều bị các nước láng giềng chống lại: cột mốc trên đảo An Bang bị quân Việt Nam đổ bộ lên lại phá bỏ năm 1979; cột mốc trên đá Công Đo cũng bị Philippines phá bỏ năm 1980. Hai nước Việt Nam và Philippines lần lượt đóng quân ở hai nơi đó cho đến hiện nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thấy rằng việc dựng cột mốc không đủ để xác lập việc kiểm soát với các đảo, đá, Malaysia tính đến việc trực tiếp chiếm đảo, mục tiêu chính là đá Hoa Lau. Từ năm 1981 đến 1982, Malaysia bắt đầu chuẩn bị việc chiếm đóng đá Hoa Lau, để đổ bộ lên đá Hoa Lau quân đội Malaysia đã tiến hành chuẩn bị ròng rã nửa năm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1982, Việt Nam lại phản đối Malaysia vì vụ đá Hoa Lau một lần nữa, và vào tháng 11 trong tuyên bố lãnh hải mới, đã liệt kê rõ đá Hoa Lau là lãnh thổ của Việt Nam. Sau đó Malaysia đưa ra phản đối với Việt Nam vào tháng 1/1983. Ngày 25/3, Việt Nam bác bỏ phản đối của Malaysia. Vì vụ này mà quan hệ hai nước trở nên căng thẳng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối tháng 6, Malaysia tham dự cuộc tập trận hàng năm của Hiệp ước phòng thủ 5 nước (Five Power Defence Arrangement, đồng minh quân sự Anh, Úc, New Zealand, Malaysia, Singapore). Dưới vỏ bọc của cuộc tập trận, ngày 22/8 quân Malaysia đổ bộ lên đá Hoa Lau, đây là đảo, đá đầu tiên mà Malaysia chiếm đóng bằng quân sự ở biển Đông. Ngày 4/9 khi tin này được công bố, Việt Nam lập tức (ngày 7/9) đưa ra phản đối, Ngoại trưởng Malaysia thì tuyên bố đá Hoa Lau “luôn là, hiện nay cũng là một phần của lãnh thổ Malaysia”, đồng thời phản bác rằng việc Việt Nam chiếm đóng đảo An Bang đã xâm phạm chủ quyền của Malaysia, vì đảo An Bang cũng “đã và hiện là một phần của lãnh thổ Malaysia”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, Malaysia cố liên tục thuyết phục Việt Nam rút khỏi đảo An Bang nhưng không có kết quả. Tháng 8/1983, Malaysia đã chiếm đóng đá Suối Cát (đá Lạp Dương / Quang Tinh, Dallas Reef, tiếng Malaysia là Terumbu Laya).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines không có yêu sách lãnh thổ đối với đảo An Bang, do đó không đưa ra phản đối. Còn sự mềm mỏng của Trung Quốc lúc này là rất đáng chú ý. Nếu như bên liên quan là Philippines, và giả sử Việt Nam đưa ra phản đối với Philippines, Trung Quốc ít ra cũng sẽ khẳng định lại chủ quyền của mình trên danh nghĩa với Philippines, để cho thấy ý định đối đầu với Việt Nam, nhưng sau khi Malaysia chiếm đóng đá Hoa Lau, ngày 14/9 Trung Quốc chỉ tuyên bố “g</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ần đây đá Đạn Hoàn nằm ở quần đảo Trường Sa của nước chúng tôi bị quân đội nước ngoài chiếm đóng phi pháp, có nước liên tục đưa ra đòi hỏi lãnh thổ đối với một số đảo, đá ở quần đảo Trường Sa của nước chúng tôi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, và đồng thời nhắc lại chủ quyền đối với Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cách làm kiểu không chỉ rõ tên này là rất ít. Việc Trung Quốc có thái độ khác nhau đối với Philippines và Malaysia, ngoài các yếu tố phân tích ở trên, còn có thể là để đáp lại thái độ mềm mỏng tương đối và liên tục nhất quán trước đó của Malaysia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ tháng 11 đến tháng 12/1986, Malaysia chiếm đóng thêm đá Kì Vân (Mariveles Reef), đá Kiêu Ngựa (Tinh Tử, Ardasier Reef, tiếng Malaysia là Terumbu Ubi-Ubi).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Như vậy, cho đến năm 1990, Malaysia đã cho quân chiếm đóng tổng cộng 4 đảo, đá. Việc xử lí của Malaysia đối với đá Hoa Lau tương đối độc đáo so với các nước có liên quan ở biển Đông. Nước này bồi đấp đảo với quy mô lớn sớm nhất ở đá Hoa Lau, biến nó từ một đảo đá thành một đảo nhân tạo, có công trình như sân bay và các cơ sở khác. Nhưng mục đích của họ không phải là để quân sự hóa mà là xây dựng nó thành một trung tâm du lịch và nghỉ dưỡng quốc tế. Năm 1990, đảo này mở cửa cho bên ngoài, đến nay vẫn là một điểm du lịch hấp dẫn. Hiện nay, sự kiểm soát của Malaysia trên đá Hoa Lau rất vững chắc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bằng chứng cho yêu sách chủ quyền của Malaysia đối với một phần quần đảo Trường Sa rất mơ hồ. Nhìn tổng thể, có vẻ xuất phát từ sự gần gũi về địa lí hoặc do nằm trên thềm lục địa của Malaysia. Ví dụ vào ngày 13/5/1983, khi thảo luận về chủ quyền của Malaysia đối với bãi An Bang, Thứ trưởng phụ trách pháp luật của Malaysia nói rằng đó là một vấn đề địa lí đơn giản (a simple geographic matter).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng có lúc lại có vẻ cho rằng chủ quyền của họ có liên quan với quyền lợi lịch sử nào đó. Ví dụ phát ngôn của Thứ trưởng Ngoại giao vừa nêu trên nhấn mạnh rằng đá Hoa Lau và bãi An Bang xưa nay luôn là một phần của Malaysia. Một ví dụ khác là tháng 5/1983, Thư kí Quốc hội của Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia (Parliamentary Secretaries to the Minister of Foreign Affairs, tương đương Trợ lí Bộ trưởng) Kadir Sheik Fadzir tuyên bố “ đá Hoa Lau đã và hiện nay là một phần của lãnh thổ Malaysia, điều này không liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế mà Malaysia yêu sách”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này càng cho thấy rõ ràng hơn về nguyên nhân lịch sử. Nhưng Malaysia có vẻ xưa nay chưa hề giải thích quyền lịch sử nào mà họ có đối với phần đảo, đá này của Trường Sa. Thực ra một ví dụ dễ dàng là vào năm 1877 và 1888 Borneo thuộc Anh đã hai lần cấp quyền khai thác đảo Trường Sa (Nam Uy) và đảo An Bang (bãi An Ba) (xem II.6). Nếu như Anh chuyển nhượng quyền lịch sử này cho Malaysia thì Malaysia có thể có quyền lịch sử này. Nhưng trong những dịp công khai trước nay Malaysia không hề viện dẫn ví dụ này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Brunei</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những năm 1950 Brunei không gia nhập Liên bang Malaya mà là chọn tiếp tục là nước bảo hộ của Anh. Mấy chục năm sau đó, trong thảo luận và tranh thủ với người Anh, Brunei đã hướng tới quyền tự trị lớn hơn và thậm chí là độc lập. Cuối cùng, ngày 1/1/1984, Brunei chính thức tuyên bố độc lập. Năm 1958, Brunei cùng với Sarawak và Sabah (thuộc Anh) lần lượt kí lệnh số 1518 và 1519 (Order in Council 1958 no. 1518 & 1519), quy định tiếp tục sử dụng đường ranh giới biển là đường ranh ngoài của vùng biển dưới 100 fathom (1 fathom = 600 feet ≈ 186 mét) định ra trước đó. Ở phía Tây với Sarawak và ở phía Đông với Sabah, đường ranh giới biển được hình thành đại khái bằng một đường thẳng kéo dài ra biển vuông góc với bờ biển (Hình 35). Phần kéo dài của hai đường ranh giới quy định này chỉ giới hạn trong vùng nước có độ sâu không quá 186 mét. Bản đồ của Malaysia năm 1979 không chú ý đến vấn đề thềm lục địa của Brunei, coi đường giới hạn của hai pháp lệnh này dừng lại ở nơi sâu 186 mét. Vùng biển nằm giữa phần kéo dài của hai đường này, từ đường đẳng sâu 186 mét cho đến 200 hải lí được Malaysia tự quy định là thềm lục địa của mình. Nếu không tính đến yêu sách tiềm năng của Brunei thì cách làm này phù hợp với luật tập quán và “Công ước”, nhưng trong luật về thềm lục địa của Malaysia năm 1966, định nghĩa của thềm lục địa cũng dừng lại ở vùng biển có độ sâu 200 mét,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều này không ngăn cản việc Malaysia mở rộng thềm lục địa đến vùng biển 200 hải lí trong bản đồ năm 1979.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Brunei là quốc gia khai thác dầu khí sớm nhất ở Đông Nam Á. Ngay từ năm 1899 đã bắt đầu khoan dầu trên bờ, năm 1933 có giếng dầu gần bờ (offshore) đầu tiên, năm 1959 giàn khoan ngoài khơi cách bờ biển 3 hải lí được đưa vào sử dụng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 339px; overflow: hidden; width: 263px;"><img height="358.6671235661789" src="https://lh3.googleusercontent.com/IV66z7Xng4qWpUS2CQiwXEaPdvxZiLHFQnpApBiajt3IcVmXJXW-NN9luwWLfy2ifyiu7t_VmRgV0NecUmqD8Xk9FctM9Mae15ffdCl9ggatts1CV4AScEuvxid3Yn3rnA9A2WjffquduouhF4Ik-88" style="margin-left: 0px; margin-top: 1.45384e-11px;" width="263" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 35: Ranh giới biển của Brunei năm 1958 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố năm 1954 (1954 Proclamation)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cho phép Brunei có thể giao quyền thăm dò và khai thác ở vùng biển ngoài 3 hải lí đến bên trong đường đẳng sâu 200 feet (60,96 mét), đã đẩy nhanh thêm một bước sự phát triển ngành dầu khí ven bờ của Brunei.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1963, Công ti dầu khí Shell Brunei (BSP) giành được quyền khai thác dầu khí ven bờ bên ngoài 3 hải lí. Cùng năm tại khu vực Southwest Ampa đã phát hiện một mỏ dầu lớn; năm 1970, ở phía Đông khu vực Champion phát hiện mỏ dầu lớn khác; năm 1975 tại địa điểm chếch về phía Nam khu vực Champion phát hiện mỏ dầu Magpie. Ngoài ra, còn phát hiện một số mỏ dầu nhỏ. Những mỏ dầu này nằm ở trong vùng có độ sâu dưới 200 feet, đem đến cho Brunei lợi ích dầu khí rất lớn. Năm 1968, Brunei cấp cho BSP quyền khai thác bên ngoài đường đẳng sâu 200 feet đến đường đẳng sâu 600 feet; năm 1981 lại cấp cho BSP quyền khai thác ở trong đường có độ sâu 4000 feet (BSP cũng lần lượt từ bỏ một nửa khu vực trong khu khai thác ban đầu cho các công ti khác). Trong những khu vực mới này trữ lượng dầu khí tương đối nhỏ, chỉ có mỏ khí thiên nhiên Fairley (1969) có trữ lượng lớn. Các mỏ dầu, khí của Brunei tập trung ở gần bờ. Mặc dù đường 9 đoạn cách Brunei chỉ có mấy chục hải lí nhưng cũng chỉ có hai mỏ dầu nằm ở trong đường này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban đầu, Brunei không có yêu sách lãnh thổ ở Trường Sa. Một trong những nguyên nhân là trước năm 1984 Brunei không có quyền ngoại giao, còn Anh không phải là nước kí “Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển”, do đó Brunei cũng không tham gia Công ước. Điều ước mà Brunei tuân theo vẫn là “Công ước về thềm lục địa” năm 1958, trong đó quy định bề rộng của thềm lục địa cho tới chỗ có “độ sâu nước biển bên trong không vượt quá 200 mét, hoặc tuy vượt quá giới hạn này nhưng độ sâu của nước biển này vẫn cho phép tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển này có thể khai thác được”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu sử dụng quy định đường đẳng sâu 200 mét thì sẽ không có bãi ngầm, đảo hay đá nào của quần đảo Trường Sa nằm trên thềm lục địa của Brunei.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ năm 1979 của Malaysia là nhân tố quan trọng kích động Brunei mở rộng thềm lục địa. Vì bản đồ này mở rộng thềm lục địa ra đến 200 hải lí mà không hề cân nhắc đến lợi ích của Brunei, cũng không xét đến lệnh số 1518 và 1519 mà hai bên đã đồng ý từ lâu. Vì vậy, sau khi giành độc lập năm 1984, Brunei lập tức tính đến việc gia nhập “Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển” (ngày 5/5/1984 kí, ngày 5/11/1986 phê chuẩn). Từ năm 1987 đến 1988, Brunei đã công bố 3 bản đồ (Maps Showing Territorial Waters of Brunei Darussalam (1987), Maps Showing Continental Shelf of Brunei Darussalam (1988) và Maps Showing Fishery Limits of Brunei Darussalam (1988) ), đã lần lượt thể hiện rõ lãnh hải, thềm lục địa và giới hạn vùng đánh cá (tương đương với vùng đặc quyền kinh tế) của Brunei. Trong bản đồ năm 1988 (Hình 36), đá Louisa (Nam Thông, Louisa Reef) đã nằm trên thềm lục địa của Brunei. Đá Louisa là một đảo đá hầu như bị chìm hoàn toàn khi thuỷ triều lên, và hầu như không đủ điều kiện để đòi hỏi lãnh hải theo luật pháp quốc tế. Năm 1978 trong một loạt hành động của Malaysia ở các đảo biển Đông như “dựng cột mốc chủ quyền” cũng bao gồm cả đá Louisa. Thềm lục địa mà Brunei chủ trương trên bản đồ không giới hạn ở 200 hải lí mà mở rộng ra giới hạn lớn nhất gần 350 hải lí. Đường giới hạn của nó càng gần trung tâm biển Đông hơn so với đường yêu sách của Malaysia, đã bao gồm bãi ngầm chìm tương đối lớn khác là bãi Vũng Mây hoặc (bãi /đá Nam Vi, Rifleman Bank) và một bãi ngầm tương đối nhỏ khác là Owen [Shoal]. Bãi Vũng Mây có chiều Đông Tây dài 24 km, Nam Bắc dài 56 km, toàn bộ chìm dưới nước, bên trong có thể chia thành mấy phần như đá Ba Kè (Bồng Bột bảo, Bombay Castle), Johnson Patch (bãi ngầm Thường Tuấn), Kingston Shoal (bãi ngầm Kim Thuẫn) và Orleana Shoal (bãi ngầm Áo Nam)...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Ba Kè (Bồng Bột bảo, Bombay Castle) là bãi ngầm cạn nhất ở góc Đông Bắc của bãi Vũng Mây, chìm dưới nước 3 mét. Năm 1989 Việt Nam chiếm đóng đá Ba Kè, xây dựng một đèn biển trên đó và cử người trông coi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 388px; overflow: hidden; width: 299px;"><img height="410.66355140186914" src="https://lh5.googleusercontent.com/stlGRGiDuRBGQ76YGhAGp0qcKR__gFKl2Lqky9fyrc-BEeoHT-cfDvIdM6BDOS6DMdNda3-QgxvqbiW69Cl665JDGOVNhw86gnn1F2lFXzG7tRER61pLJ3-mpfPeve4pzCLS6Qpf7KtF0TMNwcr4lYg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="299" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 36: Sự thay đổi yêu sách biên giới biển của Brunei</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì Brunei là nước nhỏ và yếu, hơn nữa đá Louisa cũng không thể cư trú được, cho nên tuyên bố chủ quyền đối với nó chỉ là nói ngoài miệng, thực tế họ chưa cử người đổ bộ lên đảo, nói chi tới phái quân đóng giữ. Các mỏ dầu, khí của Brunei đều ở gần bờ, hiện nay họ cũng không có kế hoạch khai thác dầu khí xa bờ, do đó cũng không quá tích cực “bảo vệ chủ quyền”. Đá Louisa trên thực tế bị Malaysia kiểm soát. Cũng chính vì như vậy, các nước (trừ Malaysia) hầu như đều không có lời chỉ trích nào nhằm vào Brunei. Ngoài việc không ngừng nhắc lại yêu sách, Malaysia không hề có hành động ngoại giao nào nhắm vào riêng chỉ Brunei.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indonesia</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biên giới hiện nay của Indonesia được định từ thời kì thuộc địa Hà Lan, người Hà Lan cho đến năm 1920 mới kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Indonesia hiện nay. Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Indonesia, về mặt khách quan đã tạo điều kiện cho người Indonesia lật đổ ách thống trị thực dân. Sau khi Nhật Bản bại trận, Hà Lan mưu tính quay trở lại Indonesia. Nhưng Sukarno hợp tác với người Nhật trong Thế chiến thứ hai đã củng cố quyền lợi thành công, và sau chiến tranh lập tức tuyên bố độc lập. Trãi qua chiến tranh giành độc lập, mưu đồ của thực dân cho việc quay trở lại Indonesia đã bị thời đại vứt bỏ và cuối cùng đã thất bại vào năm 1949.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi độc lập, Indonesia đã kế thừa quyền lợi của phần lớn các thuộc địa Đông Ấn của Hà Lan. Năm 1963, đất thuộc địa cuối cùng ở Đông Nam Á của Hà Lan – Tây New Guinea cũng được chuyển giao cho Indonesia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giống như Philippines, toàn bộ lãnh thổ Indonesia đều là đảo, nên cũng rất quan tâm đến quyền lợi biển. Sau khi tham dự Hội nghị biển Liên Hợp Quốc không lâu, Indonesia liền ra “Tuyên bố về quốc gia quần đảo” (ngày 18/2/1960) và “Luật vùng biển Indonesia” (Pháp lệnh số 4 ngày 18/2/1960), tuyên bố đường cơ sở lãnh hải, quy định vùng biển bên trong đường cơ sở là nội thuỷ của Indonesia, và trong phạm vi 12 hải lí tính từ đường cơ sở là lãnh hải Indonesia. Đường cơ sở lãnh hải đoạn ở biển Đông, từ mũi Datu ở chỗ giao giới của Kalimantan và Sarawak kéo dài về phía bắc đến rìa ngoài của các đảo như đảo Laut thuộc quần đảo Natuna.., rồi hướng về phía Tây Nam đến quần đảo Anambas, sau đó rẽ về phía Nam đến đảo Bintan ở Eo biển Singapore. Vì vậy, phần đường lãnh hải này do có quần đảo Natuna nên tạo thành một đường cơ sở hình túi nhô ra bên ngoài. Do Indonesia là một quốc gia quần đảo, cho nên kiểu đường cơ sở thẳng này phù hợp với luật quốc tế. Ngày 27/6/1969, Indonesia và Malaysia đã kí hiệp định về thềm lục địa. Ở đoạn phía Đông Malaysia thuộc vùng biển Đông, hai bên đã lấy đường cơ sở lãnh hải tại quần đảo Natuna của Indonesia làm cơ sở, đồng ý lấy đường gấp khúc 4 đoạn nối 5 điểm liên tiếp làm đường phân định lãnh hải của hai bên (Article I, 1-C)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 37).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do quần đảo Natuna nằm vắt ngang giữa Đông Malaysia và Tây Malaysia, hơn nữa tính chất quốc gia quần đảo của Indonesia cho phép quy định vùng biển bên trong đường cơ sở lãnh hải là nội thuỷ, do đó tàu thuyền và máy bay không thể tùy tiện đi qua. Nội thuỷ được hình thành bên trong quần đảo Natuna và giữa quần đảo này với các đảo khác của Indonesia giống như bức bình phong giữa Đông Malaysia và Tây Malaysia, gây bất tiện nghiêm trọng cho Malaysia. Về vấn đề này hai bên đã tiến hành đàm phán trong thời gian dài, cuối cùng vào ngày 3/2/1981, hai bên đạt được “Hiệp định lãnh hải và lãnh không giữa Cộng hòa Indonesia và Malaysia”. Trong đó, Malaysia thừa nhận Indonesia là quốc gia quần đảo, tôn trọng nội thuỷ của Indonesia; trong khi Indonesia tôn trọng “các quyền truyền thống” của Malaysia như hàng hải, hàng không, thông tin và đặt cáp giữa Đông và Tây Malaysia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 354px; overflow: hidden; width: 527px;"><img height="358.219241147974" src="https://lh6.googleusercontent.com/Ft_adg02ZMbOUxZj_urosDrYvKKyIw2RUcJJVuafa14HQs34ZZLWj6BhBbKTSH1EOrABZNcaOIIrbJWdrc712gbFovC1VZmGoljGL-oWlIoXVeQxWsYAJkMc-DUDpeL0BfrAJ61eFErvUxGrhxUhTxM" style="margin-left: 0px; margin-top: -2.10962px;" width="527" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 37: Biển giới biển giữa Malaysia và Indonesia ở vùng phụ cận quần đảo Natuna.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Natuna là lãnh thổ duy nhất của Indonesia (được thảo luận trong sách này) đối diện với biển Đông. Ở đây cần phải nhìn lại đôi chút về lịch sử của nó. Natuna nằm giữa Đông Malaysia và Tây Malaysia (khoảng 4° N), được tạo thành từ 272 hòn đảo, tổng diện tích 2110 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Và dân số chỉ có 90 000 người. Quần đảo Natuna từ xưa đến nay là phạm vi hoạt động của người Malaysia. Thế kỉ 16, di dân Patani và Johor bắt đầu thành lập chính quyền ở đây. Một quý tộc bản địa là Wan Seri Bulan kết hôn với một quý tộc Datuk Lingkai al-Fathani của Patani, và con cháu của họ trở thành người cai trị của Natuna.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế kỉ 19, chính quyền Wan Muhammad al- Fathani chấp chính. Ngày 25/1/1848, một tàu của Anh gặp nạn ở Natuna, ông đã cứu các thuyền viên, vì vậy ông được Thống đốc Malacca của Anh là William John Butterworth tặng cho một khẩu pháo bằng đồng. Những sự kiện này cho thấy rõ rằng lịch sử ban đầu của quần đảo Natuna có liên quan mật thiết với bán đảo Malaysia hơn là với quần đảo Indonesia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ thế kỉ 17, bán đảo Malaysia trở thành nơi tranh giành giữa Anh và Hà Lan. Ngày 24/3/1824, hai bên kí “Hiệp ước 1824” (Treaty of 1824) đặt cơ sở cho lãnh thổ của Malaysia và Indonesia hiện nay, trong đó quy định Hà Lan chuyển nhượng thuộc địa trên bán đảo Malaysia cho Anh, không yêu sách lãnh thổ đối với Singapore nữa; đổi lại, Anh chuyển giao thuộc địa ở đảo Sumatra cho Hà Lan, hơn nữa cũng không phát triển thuộc địa ở phía Nam eo biển Malaysia nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, Singapore đã trở thành đường phân giới phạm vi ảnh hưởng của hai nước ở vùng biển Malacca. Nhưng quy định điều ước này không ngăn cấm Hà Lan mở rộng sang các đảo ở phía Bắc Singapore. Vào cuối thế kỉ 19, Hà Lan đã thôn tính quần đảo Natuna. Bản đồ thời kì Đông Ấn thuộc Hà Lan đã đưa quần đảo Natuna vào phần của Đông Ấn thuộc Hà Lan, và phân chia khu vực quần đảo bằng các đường đứt đoạn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 38) Khi giành được độc lập, Indonesia đã kế thừa toàn bộ lãnh thổ của Đông Ấn thuộc Hà Lan, đương nhiên cũng bao gồm cả quần đảo Natuna.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên mạng Trung Quốc có ý kiến cho rằng vào thời Thanh quần đảo Natuna chủ yếu chỉ gồm di dân Trung Quốc. Sau khi quân Thanh tiến vào tiêu diệt chính quyền Nam Minh, ở ven biển tỉnh Quảng Đông có mấy trăm tàn quân và mấy trăm gia đình ngư dân không muốn chịu sự thống trị của Mãn Thanh đã chạy đến quần đảo Natuna. Trương Kiệt Tự, người gốc Triều Châu tỉnh Quảng Đông, từng xây dựng vương quốc trên đảo An Ba Na (đảo Natuna) trước khi người Hà Lan xâm lược. Thế kỉ 19, Trương Kiệt Tự mất, nội bộ xảy ra tranh chấp, người Hà Lan mới thừa cơ tiêu diệt vương quốc họ Trương.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây có vẻ là chuyện hư cấu của các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc, vì trong thư tịch chính thức không có ghi chép nào như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 501px; overflow: hidden; width: 406px;"><img height="531.6044390865458" src="https://lh6.googleusercontent.com/FZ-o56dYvKz00WtdIDb8Pu4I1a6mCLUMLZHgV7VZK6q5FX0R709RFQzQD_4y21IO_pNKrbZrqhuqZ5sBlXeQa_sSFq1V3FNC07M-BskNbhq5ZUZvxq4cnuobdnsYBQ6pGwFDMTezOtY5bPiJDGxrNe8" style="margin-left: -7px; margin-top: -2.90822e-11px;" width="412.99999999999994" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 38: Bản đồ xung quanh quần đảo Natuna thời kì quần đảo Đông Ấn thuộc Hà Lan (1937)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indonesia cách xa Trung Quốc, vốn không có liên quan với Trung Quốc về mặt địa lí. Tuy nhiên, đường 9 đoạn của Trung Quốc vẽ đến phía Bắc quần đảo Natuna, điều này đã lôi kéo Indonesia vào tranh chấp biển Đông. Bắt đầu từ năm 1966, Indonesia bắt đầu phân định các khu khai thác theo hiệp định ở trên biển. Năm 1970, Công ti Agip của Ý phát hiện mỏ khí thiên nhiên trữ lượng rất phong phú ở khoảng 225 km phía Đông Bắc quần đảo Natuna, ước đoán trữ lượng có thể khai thác là 46 nghìn tỷ (trillion) feet khối (tcf). Ngày 21/3/1980, Indonesia ra “Tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia”, tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng năm, lô này (D-Alpha) được trao cho công ti quốc doanh Pertamina và tập đoàn Exxon của Mĩ với tỷ lệ cổ phần 50:50. Tuy nhiên, mỏ dầu này chứa tới 71% carbon dioxide, giá thành khai thác rất cao, mãi đến trước thập niên 1990 vẫn chưa thể khai thác được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì đường 9 đoạn của Trung Quốc không có tọa độ, mà cách vẽ của nó gần quần đảo Natuna là khoảng trống giữa vạch thứ 3 và thứ 4, nên khó khẳng định lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa ở phía Bắc quần đảo Natuna có đi vào phạm vi đường 9 đoạn hay không. Nếu như đã tiến vào, cũng không có cách gì xác nhận vùng chồng lấn có diện tích bao nhiêu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng theo tuyên bố năm 1980 và “Luật vùng đặc quyền kinh tế” năm 1983,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia kéo dài 200 hải lí từ quần đảo Natuna, chắc chắn đã tiến vào phạm vi đường 9 đoạn của Trung Quốc. Theo ước tính của các chuyên gia Trung Quốc, khu khai phát theo hiệp định đã xâm nhập vào đường 9 đoạn của Trung Quốc hơn 50 000 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Trước những năm 1990, Indonesia không nhận ra rằng sẽ họ có tranh chấp với Trung Quốc, và cảm thấy bất ngờ với việc “đột nhiên” bị cuốn vào tranh chấp với Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó, tất cả bên tranh chấp đều đã xuất hiện. Đáng chú ý là yêu sách của ba bên này về cơ bản đều dựa vào nguyên tắc đường bờ biển, và không bên nào nêu ra quyền lịch sử đối với quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo Lí Kim Minh, điều này hoàn toàn là vì tài nguyên dầu khí mới phát hiện ở biển Đông. Tác giả không phủ nhận rằng tài nguyên dầu khí có thể là lực tác động lớn nhất để 3 bên này tích cực khai thác khu vực ven biển. Tuy nhiên, ba bên này về cơ bản đều đã tiến hành phân giới lãnh hải ở biển Đông ngay sau khi độc lập, và họ đều bắt đầu khai thác dầu khí từ rất sớm, các mỏ dầu của họ đều tập trung ở thềm lục địa gần bờ của mình. Dầu mỏ rất quan trọng đối với kinh tế của cả Malaysia lẫn Brunei. Họ cũng không nhất thiết muốn tranh chấp với Trung Quốc nếu Trung Quốc không vẽ đường chín đoạn đến tận “ngưỡng cửa nhà” họ và tuyên bố chủ quyền đối với các bãi cạn không thể kiểm soát cách xa Trung Quốc cùng các rạn đá gần như chìm dưới mặt nước.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.12 Trung Quốc tiến xuống Trường Sa và hải chiến Trung-Việt ở Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc khảo sát ở vùng biển Trường Sa bắt đầu từ năm 1973, Viện Nghiên cứu Hải dương Nam Hải, Viện Khoa học Trung Quốc đã bắt đầu tiến hành khảo sát vùng biển thuộc khu vực Hoàng Sa và Macclesfield (Trung Sa), một trong những mục đích cũng là tìm kiếm dầu mỏ trong vùng biển gần. Sau Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, nhu cầu phát triển công nghiệp to lớn khiến nhu cầu dầu mỏ của Trung Quốc tăng mạnh. Bắt đầu từ những năm 1960 Trung Quốc đã thăm dò dầu mỏ ở ven bờ biển Đông, trong đó phát hiện dầu mỏ ở vùng biển Oanh Ca, đảo Hải Nam năm 1963 là phát hiện quan trọng đầu tiên của Trung Quốc về dầu mỏ ở biển Đông. Năm 1977, giếng dầu biển sâu đầu tiên là “Oanh 1” đã được khai thác tại đây. Nhưng mãi đến cuối thập niên 1970, thu hoạch vẫn còn rất hạn chế, chỉ khoan thăm dò không đến 20 giếng dầu ở ven biển.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1977, giếng “Loan 1” ở bồn trũng vịnh Bắc Bộ chỉ khai thác được 50 đến 53 m³/ngày; năm 1979, giếng “Loan 9” của vùng biển Oanh Ca (bồn trũng Quỳnh Đông Nam) mới khai thác được dầu mỏ mang tính công nghiệp (sản lượng dầu thô 37 đến 64 m³/ngày); còn ở bồn trũng cửa sông Châu Giang đến năm 1980 mới khai thác 7 giếng dầu, sản lượng dầu thô tổng cộng 296 m³/ngày.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Những thành quả này đều tụt xa phía sau rất nhiều so với tiến độ khai thác dầu khí ven bờ biển Đông của Malaysia, Brunei thậm chí Việt Nam cùng thời kì. Từ đầu năm 1980, lĩnh vực khai thác dầu mỏ ở biển Đông của Trung Quốc đi theo hướng quy mô hóa. Năm 1982, Tổng Công ti Dầu mỏ Hải dương Trung Quốc (CNOOC) thành lập, là sự kiện có tính cột mốc của dầu mỏ ngoài khơi. Sau cải cách và mở cửa, giống như các quốc gia khác, Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành mời gọi công ti dầu mỏ nước ngoài tiến hành khai thác dầu khí ven bờ bằng hình thức hợp tác trao đổi thị trường đối với khu vực đáy biển. Dù khi đó khu vực khai thác của Trung Quốc vẫn tập trung ở 3 khu vực quan trọng là vịnh Bắc Bộ, phía Đông đảo Hải Nam và cửa sông Châu Giang, nhưng họ đã rất chú ý đến tài nguyên dầu mỏ ở khu vực Trường Sa, cáo buộc các nước Philippines, Malaysia, Việt Nam... cướp đoạt tài nguyên dầu mỏ ở Trường Sa “thuộc về Trung Quốc”. Đồng thời, dựa vào nguyên tắc “thu hồi lãnh thổ quốc gia”, sau khi giành được quyền kiểm soát Hoàng Sa, Trung Quốc cũng bắt đầu nóng lòng muốn có quyền kiểm soát đối với Trường Sa. Đúng như Ngoại trưởng Hoàng Hoa nói khi nào đến lúc thì Trung Quốc sẽ thu hồi (xem IV.8).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bước tiến của Trung Quốc tới Trường Sa bắt đầu bằng nghiên cứu khoa học</span><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến năm 1978, Trung Quốc chủ yếu dùng tàu khảo sát “Thực Nghiệm” tiến hành 11 lần khảo sát tổng thể ở phần phía Bắc biển Đông. Xa nhất về phía Đông đến đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough), và “vượt qua phía Bắc quần đảo Trường Sa”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1983, những hạng mục điều tra này xong một giai đoạn, có hơn 80 bài viết được viết và giành được giải nhất giải thưởng thành quả khoa học kĩ thuật của Viện Khoa học Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1983, sau khi được hải quân Trung Quốc huấn luyện (xem phần dưới), Đội Khảo sát khoa học lại chuẩn bị tiến xuống phía Nam. Tháng 7/1984, tháng 6/1985 và tháng 4/1986, tàu “Thực Nghiệm 3” đi đến vùng biển Trường Sa tiến hành khảo sát trong 3 năm liên tiếp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 5/1987, tàu “Thực Nghiệm 2” và “Thực Nghiệm 3” lại đi khảo sát một lần nữa. Trong những đợt khảo sát này, nhân viên khảo sát đổ bộ lên 10 đảo đá (bãi Bông Bay [bãi Bồng Bột, Bombay Shoal], đá Tiên Thực [bãi Sabin, Sabina Shoal], bãi Cỏ Mây [đá Nhân Ái, Second Thomas Reef], đá Long Điền [đá Ngưu Xa Luân, Boxall Reef], đá Vành Khăn [đảo Mĩ Tế, Mischief Reef], đá Tiên Nga [đá Suối Ngọc, Alicia Annie Reef], bãi Suối Ngà [đá Tín Nghĩa, First Thomas Shoal], đá Phù Mĩ [đá Hải Khẩu, Investigator Northeast Shoal], đá Đồi Mồi [đá Hạm Trưởng, Royal Captain Captain Shoal] và bãi Trăng Khuyết [đá Bán Nguyệt, Half Moon Shoal]) và để lại vật đánh dấu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, Trung Quốc cũng đã tăng cường chuẩn bị về hành chính và pháp lí. Ngày 20/4/1983, Uỷ ban Địa danh Trung Quốc công bố địa danh tiêu chuẩn một số đảo ở biển Đông (tổng cộng 287 đảo),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vẫn còn sử dụng đến nay. Con số này nhiều hơn con số 172 đảo công bố năm 1947, ngoài tên gọi các đảo, đá vốn có ra, còn tăng thêm mới một số tên gọi đường thuỷ và tên gọi của đảo, đá. Tuy nhiên, 3 địa danh trong bảng tên gọi năm 1947 trước kia (bãi ngầm Lập Địa, bãi ngầm Bát Tiên và bãi Quản Sự) không xuất hiện trong bảng tên gọi mới này. Về điều này, Văn kiện số 280 của Quốc Vụ viện (82) (Thư trả lời của Quốc Vụ viện về phương án đặt tên, đổi tên địa danh các đảo biển Đông) viết: “...</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Đồng ý công bố, sử dụng và cung cấp ra bên ngoài 287 đảo được phê duyệt... 3 địa danh bãi ngầm Lập Địa, bãi ngầm Bát Tiên, bãi Quản Sự trong phương án báo cáo, tạm thời không công bố, cũng không trích dẫn công khai và cung cấp ra bên ngoài.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, cái được công bố lần này là “địa danh tiêu chuẩn một phần”. Lí do không công bố 3 địa danh đó có lẽ là do vị trí của chúng ở bên ngoài đường 9 đoạn, trong đó vị trí địa lí của bãi ngầm Lập Địa và bãi ngầm Bát Tiên còn ở xa về phía Nam hơn bãi ngầm Tăng Mẫu, trái với việc bãi ngầm Tăng Mẫu luôn được tuyên bố là cực Nam lãnh thổ Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về mặt hành chính, ngày 22/10/1981, “Uỷ ban Cách mạng quần đảo Tây, Nam, Trung Sa tỉnh Quảng Đông” (Quảng Đông tỉnh Tây, Nam, Trung Sa quần đảo Cách mệnh Uỷ viên hội) trước đó được đổi tên thành “Văn phòng quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa tỉnh Quảng Đông” (Quảng Đông tỉnh Tây Sa quần đảo, Nam Sa quần đảo, Trung Sa quần đảo Bạn sự xứ) với cơ cấu ngang cấp huyện. Ngày 1/10/1984, Trung Quốc thành lập Khu hành chính Hải Nam trực thuộc tỉnh tiếp quản Văn phòng này. Ngoài ra, năm 1985, Trung Quốc đã bãi bỏ lệnh cấm ngư dân đến quần đảo Trường Sa đánh cá, sau 30 năm ngư dân Trung Quốc lại xuất hiện trở lại ở vùng biển Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành chuẩn bị về mặt quân sự. Ngày 5/5/1980, lữ đoàn 1 thủy quân lục chiến thuộc hạm đội Nam Hải chính thức là đơn vi đầu tiên được thành lập, đây là binh chủng độc lập mới được thành lập cho việc đổ bộ tác chiến. Năm 1981, Trung Quốc cũng chuyển Bộ chỉ huy Hạm đội Nam Hải từ Quảng Châu đến Trạm Giang, đồng thời thành lập một loạt căn cứ tại Hải Khẩu, Du Lâm, Bắc Hải và điều động các công cụ đổ bộ tiên tiến từ phía Bắc đến Hạm đội Nam Hải. Năm 1983, hải quân Trung Quốc đã tổ chức một lần huấn luyện biển xa cho cán bộ hải quân, đội tàu thực tập đi biển xa này do hai tàu tiếp tế loại 20 000 tấn và một tàu vận tải loại 2 000 tấn hợp thành, vận chuyển hơn 100 cán bộ trẻ là thuyền trưởng, nhân viên nghiệp vụ hàng hải... Vào ngày 18/5 đội tàu xuất phát từ Trạm Giang, đi qua quần đảo Hoàng Sa, băng qua biển Đông đến bãi ngầm Tăng Mẫu. Đội tàu thả neo, kéo còi ở bãi ngầm Tăng Mẫu và tiến hành huấn luyện định vị thiên văn. Đây là lần đầu phía quân đội Trung Quốc (tính cả Đại lục lẫn Đài Loan) đến bãi ngầm Tăng Mẫu “chỗ cực Nam Tổ quốc trong truyền thuyết” này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó đội tàu vượt qua Eo biển Balintang đi vào Tây Thái Bình Dương, lấy đảo Iwo Jima làm điểm chuyển hướng, đi qua Eo biển Osumi, qua biển Hoa Đông vượt qua Eo biển Đài Loan trở về căn cứ ở Trạm Giang.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải chiến đá Gạc Ma (Xích Qua)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các hành động liên tiếp này của Trung Quốc khiến Việt Nam đề phòng. Tháng 4/1987, Việt Nam phái quân chiếm đảo đá Bạc (bãi Thuyền Chài, Barque Canada Reef). Trung Quốc lập tức đưa ra phản đối cứng rắn. Ngày 20/4, Trung Quốc chuyển cho Liên Hợp Quốc Tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Đông, Tây, Trung, Nam Sa (A/42/236), lên án Việt Nam xâm lược quần đảo Trường Sa và tuyên bố dành quyền thu hồi lãnh thổ bị mất vào dịp thích hợp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ ngày 16 đến 19/5/1987, hải quân Trung Quốc tiến hành diễn tập quân sự lần đầu ở Trường Sa; cuối tháng 6 lại tiến hành diễn tập đổ bộ ở Hoàng Sa. Từ ngày 8/10 đến 20/11, biên đội tổng hợp của Hạm đội Đông Hải của hải quân Trung Quốc đã tiến hành huấn luyện đi biển đường dài ở Tây Thái Bình Dương và biển Đông, chuyến đi đạt 54 000 hải lí, đã rèn luyện năng lực tác chiến đường xa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hành động của Trung Quốc ở biển Đông như đạn đã lên nòng, chỉ đợi thời cơ tốt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đúng vào lúc này, Liên Hợp Quốc “uỷ thác” Trung Quốc xây dựng Trạm quan trắc mặt biển số 74, đây trở thành cái cớ cho Trung Quốc đến hoạt động ở biển Đông trước năm 1988. Thế nhưng chi tiết cụ thể của quá trình này rất mơ hồ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 2/1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc thông qua “Kế hoạch cùng đo mực nước biển toàn cầu”, quyết định xây dựng 200 trạm quan trắc biển trên phạm vi toàn cầu. Tại đại hội lần thứ 14 của Uỷ ban Hải dương học Liên chính phủ được tổ chức tại Paris vào tháng 3, các nước được yêu cầu tự đăng kí chịu trách nhiệm xây dựng. Đây chỉ thuần túy thuộc về nghĩa vụ, Liên Hợp Quốc hoàn toàn không cung cấp ngân sách, và số liệu quan sát được cũng cho cả thế giới cùng chia sẻ, cho nên các bên hoàn toàn không quá tích cực. Xét từ quá trình, hoàn toàn không chuyện Liên Hợp Quốc yêu cầu Trung Quốc xây dựng trạm quan sát ở Trường Sa mà việc này do Trung Quốc chủ động đề xuất. Theo phía Trung Quốc, việc thành lập Trạm quan sát số 74 đã được đại diện các nước tham gia nhất trí thông qua, thậm chí đại diện Việt Nam cũng bỏ phiếu tán thành.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Xét thấy khi đó Việt Nam rất nhạy cảm đối với những việc liên quan đến chủ quyền, nếu như có biểu quyết danh sách thành lập các trạm quan trắc, rất khó tưởng tượng đại biểu Việt Nam sẽ bỏ phiếu tán thành. Học giả Hayton cho rằng Trung Quốc đã thêm các đảo của Trường Sa vào trong tài liệu, và khi đó không có người chú ý đến việc Trung Quốc “nhét” địa danh này vào trong danh sách.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tôi đoán rằng khi đó có thể có biểu quyết kế hoạch xây dựng các trạm quan trắc, nhưng không có danh sách cụ thể kèm theo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn báo chí Việt Nam thì cho rằng Đại hội căn bản không uỷ thác Trung Quốc xây dựng trạm quan trắc mực nước biển này. Theo Việt Nam, “trạm quan trắc uỷ thác xây dựng” mà Trung Quốc nói đến có số hiệu 74 và 76.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên trong danh sách các trạm quan trắc mực nước biển sẽ xây dựng của Hội nghị (10CPG-OPC-118ANNEX3, ngày 16/2/1987) cũng như trong danh sách “Hệ thống quan sát mực nước biển toàn cầu” (10CGLOSS-116, ngày 27/4/1987) mà Uỷ ban Hải dương học quốc tế gửi cho Uỷ ban Hải dương học Việt Nam sau Hội nghị, đều không có bất cứ một địa điểm trạm nào lập tại Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Trung Quốc chỉ có các trạm quan trắc số hiệu 79, 78, 283 và 247, đều nằm ở phía Bắc Vĩ tuyến 21°35’ N. Trạm quan trắc số 74 là của Mĩ, còn trạm quan trắc số 76 là của Nam Phi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Rốt cuộc sự thật ra sao, vẫn phải chờ điều tra mới rõ được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, Việt Nam cũng rất quen thuộc và cảnh giác trước những thủ đoạn nhỏ nhặt như vậy trong chiến tranh ngoại giao. Ví dụ, tại Hội nghị khí tượng châu Á lần thứ 8 được tổ chức ở Geneva vào năm 1985, danh sách các trạm khí tượng thuộc về hệ thống SYNOP đã được thông qua, trong đó có ghi trạm khí tượng của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam đã chính thức đưa ra phản đối tại Đại hội.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu như sự việc đúng như Trung Quốc nói mà Việt Nam không phát hiện ra thì đó là một sơ xuất ngoại giao của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng bất kể như thế nào, Trung Quốc nói mình đã tiếp nhận nhiệm vụ được Liên Hợp Quốc uỷ nhiệm, xây dựng ở Trường Sa trạm quan trắc số 74. Do đó, từ ngày 15/5 đến 6/6/1987, Trung Quốc phái tàu khảo sát khoa học “Hương Dương Hồng 5” đến quần đảo Trường Sa tiến hành điều tra lựa chọn địa điểm cho trạm hải dương. Khi đó các đảo, đá có thể được gọi là đảo (tức là vẫn ở trên mặt biển khi triều cao -ND) đã bị chiếm đóng toàn bộ, nên Trung Quốc chỉ có thể lựa chọn các bãi, đá thích hợp. Tàu khảo sát đi 2 163 hải lí, đã điều tra trọng điểm mười mấy đảo đá không có người như đá Chữ Thập (đá Vĩnh Thử), đá Châu Viên (đá Hoa Dương), bãi Tốc Tan (đá Lục Môn)... Theo kết quả khảo sát, đá Chữ Thập ( Fiery Cross Reef) nằm giữa đảo Ba Bình (đảo Thái Bình) và đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy), có vùng biển rộng rãi , bề mặt đảo bằng phẳng và tương đối rộng (khoảng 7 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), cơ sở địa chất tốt, với vùng biển sâu 10 đến 30 mét ở phía Nam có thể thả neo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Chữ Thập là một đảo đá ở phía Tây quần đảo Trường Sa, gần đường biển Hoa Nam nhất, chỉ cách đảo Trường Sa Lớn do Việt Nam kiểm soát khoảng 78 hải lí, có thể dùng làm trận địa tiền duyên để chống lại Việt Nam. Đó là một rạn san hô hình lòng chảo kéo dài khoảng 26 km theo chiều Đông Bắc – Tây Nam, rộng khoảng 7,5 km. Theo ghi chép của người Anh thế kỉ 19, trên đá Chữ Thập có mấy mảng đất nhỏ khô ráo (dry patch), trong đó mảng lớn nhất ở phía Tây Nam, thế kỉ XIX hai chiếc tàu của Anh là Fiery Cross và Meerschaun đều từng cập đảo ở mảng đất này. Tên tiếng Anh của đá Chữ Thập bắt nguồn từ tên con tàu thứ nhất.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mảng đất nhỏ khô ráo ở đây dường như phải hiểu là đảo đá (rock), vẫn có thể nổi lên mặt nước khi triều cao. Đến những năm 1980 thế kỉ 20, có hai tường thuật có liên quan đến trạng thái tự nhiên của đá Chữ Thập trước khi Trung Quốc chiếm đóng. Tường thuật đầu nêu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khi triều thấp có một số mỏm đá nổi trên mặt nước, phía Đông Bắc có mỏm đá nổi trên mặt nước 0,6 mét. Thường nước sâu khoảng từ 14 đến 40 mét, khi thuỷ triều cao phần lớn đều ngập nước</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hình như có một bộ phận bãi đá này có thể nổi lên trên mặt nước khi triều cao.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn tường thuật trong báo cáo khi xây dựng trạm quan trắc ghi: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đá Vĩnh Thử (Chữ Thập) là một bãi đá lòng chảo chìm dưới nước kéo dài từ Đông Bắc đến Tây Nam, khi thuỷ triều xuống thấp nhất, chỉ có 3 mỏm đá nổi lên trên mặt nước, toàn bộ việc thi công trạm xây dựng tiến hành dưới nước</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ đoạn báo cáo này thấy rằng có vẻ nó chìm hoàn toàn dưới nước khi triều cao. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lại có tường thuật khác: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khi thuỷ triều lên một mỏm đá lớn nhất nổi lên trên mặt nước, chỉ lớn bằng cái mặt bàn, toàn bộ bãi đá bị một lớp nước biển cạn bao phủ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, ngay cả đá Chữ Thập có thể nổi lên trên mặt nước khi triều dâng lên thì diện tích của nó cũng hết sức nhỏ. Tình trạng (status) của nó trong luật pháp quốc tế khá mơ hồ: giữa bãi triều thấp không thể có lãnh hải và đảo đá có lãnh hải, </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7/8/1987, Cục Hải dương và hải quân Trung Quốc nộp báo cáo cho Quốc Vụ viện và Quân uỷ Trung ương về thời cơ xây dựng trạm, vị trí, quy mô, tính khả thi và các vấn đề có thể gặp phải. Ngày 13/10, tàu công trình được phái đến đá Chữ Thập tiến hành khảo sát một lần nữa, vạch ra phương án xây dựng. Ngày 6/11, Quốc Vụ viện và Quân uỷ Trung ương đồng ý xây dựng trạm quan trắc có người đóng giữ trên đảo Chữ Thập, chủ yếu do hải quân đảm nhận nhiệm vụ xây dựng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam không phải không biết tí gì về hành động của Trung Quốc, khi tàu khảo sát khoa học Trung Quốc đến biển Đông mấy năm trước, Việt Nam đã cảnh giác rồi. Việt Nam cũng tiến hành điều tra nghiên cứu mặt biển khu vực đó, đồng thời cố hết sức chiếm đóng các đảo, đá có thể đứng chân được. Thời gian này, các đảo ở biển Đông đã bị phân chia xong, Việt Nam cũng không bỏ qua các đảo, đá có thể đóng quân còn lại. Năm 1987, Việt Nam còn chiếm đóng bãi Thuyền Chài (đá Bách, Barque Canada Reef). Đá Chữ Thập thuộc loại bãi đá mà Việt Nam cho rằng không tiện đóng quân, nhưng sau khi phát giác Trung Quốc có khả năng đóng quân ở đá Chữ Thập, ngày 18/1/1988 Việt Nam cũng phái nhân viên công trình đến đá Chữ Thập, chuẩn bị tiến hành xây dựng công sự trước một bước. Nhưng đã quá muộn, ngay từ tháng 11 Trung Quốc đã điều tàu tới kiểm soát đá Chữ Thập và đá Châu Viên (đá Hoa Dương, Cuarteron Reef) cách đó 40 hải lí về phía Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc cũng đã điều động 4 tàu chiến tuần tra ở vùng biển xung quanh, tàu chở vật liệu xây dựng của Việt Nam không thể ghé vào được. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng đã xây dựng nhà giàn trên đá Ga Ven (đá Nam Huân).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 30/1/1988, tốp công nhân xây dựng đầu tiên của Trung Quốc đã khởi hành đến đá Chữ Thập. Ngày 31, phía Việt Nam cũng phái 1 tàu vận tải của hải quân Việt Nam và 1 tàu cá vũ trang chở vật liệu xây dựng đến đá Chữ Thập, định xây dựng trạm ở đá Chữ Thập trước Trung Quốc. Tuy nhiên, 2 tàu này bị “biên đội hộ tống” (do mấy chiếc tàu hộ vệ tổ thành) của Trung Quốc sớm chuẩn bị trước xua đuổi. Ngày 2/2 nhân viên xây dựng trạm của Trung Quốc đến đá Chữ Thập, ngày 5/2 họ đã xây dựng nhà giàn đầu tiên ở trên đảo. Ngày 3/2, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tổ chức lễ tuyên thệ trước khi xuất quân ở Trạm Giang, phái 2 tàu đổ bộ và vài tàu công trình đến đá Chữ Thập tăng viện. Đồng thời cũng điều động chiến hạm và máy bay đến vùng biển lân cận để tăng cường cho khu vực biển Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình Trường Sa tiếp tục căng thẳng (Hình 39). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Trung Quốc chiếm đá Chữ Thập, tiêu điểm của hai bên Trung-Việt chuyến đến đá Châu Viên cách đá Chữ Thập 41 hải lí về phía Nam. Ngày 12/2, đúng vào ngày 1 âm lịch, một tàu khu trục và một tàu hộ vệ của Trung Quốc hộ tống một tàu công trình tiến đến đá Châu Viên. Khi đang chuẩn bị đổ bộ, một tàu quét thuỷ lôi và một chiếc tàu vận tải của Việt Nam cũng đồng thời đến đá Hoa Dương chuẩn bị đổ bộ. Thế là hai bên đối đầu tại vùng biển đá Châu Viên. Không lâu, một số lính Việt Nam chèo thuyền cao su chuẩn bị đổ bộ lên đảo từ phía Đông. Không chịu tỏ ra yếu kém, Trung Quốc cũng phái 6 lính tổ thành đội đột kích đổ bộ lên đảo, tiếp cận từ phía Tây. 15 giờ 45 phút phía Trung Quốc đổ bộ lên đá Châu Viên trước, cắm quốc kì lên, nửa tiếng sau, quân Việt Nam cũng đổ bộ lên đá Châu Viên, cũng cắm quốc kì Việt Nam tại nơi cách quốc kì Trung Quốc 15 mét. Hai bên từ đối đầu trên biển phát triển thành đối đầu trên đảo đá. Vài giờ sau, trời bỗng nhiên đổ mưa, nước biển cũng bắt đầu dâng cao, binh lính hai bên đều bị ngâm nửa người dưới nước. Lính Việt Nam chống chịu không nổi, rút lui trước; còn lính Trung Quốc thì kiên trì bám lại trên đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận đối đầu này đã kết thúc như vậy với thắng lợi thuộc về Trung Quốc. Đá Châu Viên là đảo đá thứ hai mà Trung Quốc chiếm đóng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Và như một đối trọng, từ tháng 1 đến tháng 2 Việt Nam đã kiểm soát 5 đảo đá ở gần đó là đá Tây (West Reef), đá Tiên Nữ (đá Vô Khiết, Tennent Reef), đá Lát (đá Nhật Tích, Ladd Reef), đá Lớn (đá Đại Hiện, Discovery Great Reef), đá Đông (East Reef).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 316px; overflow: hidden; width: 432px;"><img height="370.92191435768257" src="https://lh4.googleusercontent.com/aYV5J5VsZleu3QGjdhb5ClnAwUvPsSGRUmHWwlvdeJNFX301_YdoOGjLeDhsTblQxkyU6XYpYa0mVsdNpQyDHj1m6bamXhzzrk9EIAZdKMHGk--CHnkPgBOc7j1wtNzAHRmoczxgAb6x7O3myZwunFU" style="margin-left: -67.8743px; margin-top: 0px;" width="499.8743068391867" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 39: Bản đồ vùng phụ cận hải chiến đá Gạc Ma (đá Xích Qua) năm 1988 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dự liệu khả năng xuất hiện đối đầu, lúc này Trung Quốc đã làm tốt việc chuẩn bị đánh nhau với Việt Nam. Ngày 2/2, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Triệu Tử Dương hỏi Lưu Hoa Thanh, khi đó là Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh hải quân, về phương án chuẩn bị một khi nổ ra đánh nhau ở Trường Sa. Sau khi thảo luận với các tướng lĩnh khác, Lưu Hoa Thanh lấy danh nghĩa Tổng tham mưu trưởng trình bày kiến nghị. Ngày 26/2, Lưu Hoa Thanh báo cáo Triệu Tử Dương, và nội dung phương án trình Chủ tịch Quân uỷ Đặng Tiểu Bình, lãnh đạo trên thực tế của Trung Quốc. Ngày 29/2, Đặng Tiểu Bình phê duyệt đồng ý phương án.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hạ tuần tháng 2, Trung Quốc cử Trần Vĩ Văn (khi đó là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh căn cứ hải quân Du Lâm, đã tham gia 4 trận chiến với Việt Nam) có kinh nghiệm chiến đấu phong phú với Việt Nam làm Tư lệnh biên đội, tiến hành thay quân đối với hải quân ở vùng biển biển Đông. Trước khi xuất phát, ông ta nhận được lệnh rằng mục tiêu của hành động lần này là giữ vững đá Chữ Thập và đá Châu Viên, ngoài ra còn cần phải kiểm soát 4 đến 6 bãi đá gần đó; nhưng đồng thời người đứng đầu Trung ương cũng chỉ thị “ngũ bất, nhất cản” (5 không, 1 đuổi), tức là “không chủ động gây sự, không nổ súng trước, không tỏ ra yếu kém, không chịu thiệt, không để mất thể diện, nếu địch chiếm đảo của ta thì phải đánh đuổi chúng đi.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi dẫn biên đội đến và hoàn thành việc bàn giao nhiệm vụ với hải quân đóng giữ trước đó, Trần Vĩ Văn chia quân thành hai nhóm, một nhóm gồm tàu 510 và 553 được giữ lại để tuần tra ở khu vực đá Chữ Thập và đá Châu Viên; nhóm kia gồm tàu 502 và 503 được điều đến tuần tra đá Ga Ven (Nam Huân), lên đá Ga Ven gia cố nhà giàn, đồng thời tuần tra và khảo sát đá Tư Nghĩa (đá Đông Môn, Hughes Reef), đá đá Xu Bi (Chử Bích, Subi Reef), đá Nam (đá Nại La, South Reef), đá Én Đất (đá An Đạt, Eldad Reef), đá Ba Đầu (đá Ngưu Ách, Whitsum Reef), đá Gạc Ma (đá Xích Qua, Johnson South Reef), đá Len Đao (đá Quỳnh, Lansdowne Reef) và đá Cô Lin (đá Quỷ Hám, Collins Reef).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi biết được các hành động của Trung Quốc, Việt Nam quyết định lấy đá Gạc Ma làm điểm đột phá, châm ngòi trận hải chiến ngày 14/3. Đảo Gạc Ma là một rạn san hô vòng nhỏ nằm ở phía Đông đá Chữ Thập (Vĩnh Thử), ở góc Tây Nam của cụm Sinh Tồn (nhóm bãi đá Cửu Chương , Union Banks and Reef) thuộc cực Nam của phần phía Bắc quần đảo Trường Sa, dài khoảng 5 000 mét, rộng khoảng 400 mét. Nó chỉ cách đảo Sinh Tồn (đảo Cảnh Hồng, Sin Cowe Island) do Việt Nam kiểm soát khoảng 10 hải lí, được đặt tên theo một loại hải sâm đỏ mọc trên đảo đá này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc chỉ một cú đột phá đã đoạt được hoàn toàn quyền kiểm soát mấy đảo đá của Trường Sa. Theo Trung Quốc, ngày 13/3, tàu tên lửa đạn đạo hộ vệ 502 của Trung Quốc đến đá Gạc Ma. 14 giờ 25 phút thả xuống một thuyền nhỏ, chuẩn bị đổ bộ. Khoảng 15 giờ, 3 tàu chiến của Việt Nam cũng đến đá Gạc Ma. Họ chia quân thành 3 nhóm, tàu vận tải 604 thả neo ở đá Gạc Ma, tàu vận tải 605 thả neo ở đá Len Đao (Quỳnh) cách nó 5 hải lí về phía Đông Bắc, tàu đổ bộ 505 đổ bộ lên đá Cô Lin (Quỷ Hám) cách nó 1 hải lí về phía Tây Bắc, quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Gạc Ma trước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày hôm sau, hai tàu tên lửa đạn đạo hộ vệ khác của Trung Quốc là 531 và 556 đến tăng viện. Tàu 556 theo dõi đá Len Đao, còn tàu 531 và tàu 502 đối đầu với tàu Việt Nam ở đá Gạc Ma. Trong tình trạng yếu thế tuyệt đối, tàu vận tải của Việt Nam vẫn phái người đổ bộ lên đá Gạc Ma vào khoảng 6 giờ sáng, đồng thời vận chuyển vật liệu xây dựng và cắm quốc kì Việt Nam trên đảo đá này. Trung Quốc liền phái thêm nhiều lính đổ bộ lên đảo. Cuối cùng có 43 lính Việt Nam và 58 lính Trung Quốc đối đầu trên đảo. “Lính mỗi bên đứng thành một hàng ngang cách nhau 100 mét, từ từ tiến lại gần nhau, vì trên bãi đá nước sâu đến ngực, san hô không bằng phẳng, hai bên lại đều duy trì trạng thái cảnh giác cao độ, vì vậy tiến về phía trước rất chậm, khi cách nhau 30 mét, hai bên dừng lại, hình thành thế đối đầu.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo tường thuật chính thức của phía Trung Quốc, khoảng 8 giờ rưỡi, một lính Việt Nam bước về phía trước mấy bước cắm cờ Việt Nam, một lính Trung Quốc xông ra vật lộn với lính Việt Nam. Một lính Việt Nam thấy vậy nổ súng trước, phía Trung Quốc nổ súng đáp trả. Binh sĩ trên tàu thấy vậy cũng hùa vào nổ súng theo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng tàu Trung Quốc vừa có ưu thế hai chọi một, vừa có hỏa lực vượt trội. Sau mấy phút, tàu vận tải Việt Nam đã bị bắn chìm. Lính Việt Nam trên bãi đá cũng chịu hàng vào lúc 9 giờ. Hải chiến đá Gạc Ma là như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc đó, tàu đổ bộ 505 của Quân đội Việt Nam ở đá Cô Lin (đá Quỷ Hám) gần đó nổ súng vào tàu hộ vệ 531 của Trung Quốc, tàu Trung Quốc nổ súng đáp trả. Chẳng bao lâu, tàu 505 trúng liền 7 phát đạn, mất khả năng chiến đấu, cháy suốt 5 ngày. Tại đá đá Len Đao, khi tàu 556 của Trung Quốc đến đá Len Đao lúc 9 giờ 15 phút thì phát hiện lính Việt Nam đã đổ bộ lên đảo. Tàu 556 cảnh cáo lính Việt Nam và yêu cầu họ rời đi, nhưng lính Việt Nam nổ súng vào tàu 556, tàu 556 bắn trả. Mười mấy phút sau, tàu Việt Nam mất khả năng chiến đấu, rồi chìm ở gần đá Len Đao tối hôm đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận hải chiến này bao gồm 3 chiến trường, từ đầu đến cuối cuộc đối địch trên đá Gạc Ma chỉ kéo dài 3 tiếng 20 phút, thời gian thực chiến chỉ có 40 phút. Một tàu chiến Việt Nam bị bắn chìm, hai tàu bị thương nặng, hơn 400 người bị thương vong và mất tích, 9 người bị bắt. Còn phía Trung Quốc chỉ có 1 người bị thương, giành được thắng lợi hoàn toàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người trong cuộc phía Trung Quốc sau này trả lời phỏng vấn, miêu tả tình hình trên đá Xích Qua khi đó có một số điểm khác so với phiên bản chính thống: sau khi hình thành thế giằng co, chỉ huy Trung Quốc là Trần Vĩ Văn hạ lệnh nổ súng trước, lính Trung Quốc do Vương Chính Lợi chỉ huy xông về phía Việt Nam, “Đỗ Hậu Tường xông vào lính cầm cờ phía Việt Nam, đoạt được cán cờ, bẻ gãy làm đôi”, gây ra đụng chạm thân thể và khiêu khích trước là phía Trung Quốc. Quân Việt Nam chỉ mới đưa súng lên ngắm, súng nổ là do phía Trung Quốc khi xông lên đoạt súng giằng co cướp cò.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phiên bản miêu tả của phía Việt Nam khác hơn: khi giằng co trên đá Gạc Ma thì Trung Quốc nổ súng trước; ở đá Cô Lin (Quỷ Hám) và đá Len Đao (Quỳnh) thì tàu chiến Trung Quốc nổ súng vào hai tàu vận tải Việt Nam khi đang đi qua bình thường, ngoài ra một tàu treo cờ chữ thập đỏ đến ứng cứu người thương vong cũng bị tấn công.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lời tố cáo này bị Trung Quốc bác bỏ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai bên chỉ trích lẫn nhau đối phương nổ súng trước là việc thường thấy, khó phân biệt thật giả. Nhưng bất kể như thế nào, rốt cuộc vấn đề ai nổ súng trước này thực ra không quan trọng. Cốt lõi của chiến sự vẫn là việc Trung Quốc muốn tiến xuống biển Đông, thiết lập chỗ đứng ở Trường Sa, tốt nhất hiển nhiên là có thể không phải đánh nhau, nhưng Trung Quốc từ lâu đã chuẩn bị sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết. Khi đánh nhau, Việt Nam chỉ điều động tàu vận tải, với trọng tải và hỏa lực rõ ràng kém hơn tàu tên lửa đạn đạo hộ vệ của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thực chiến phía Việt Nam khó chịu nổi một đòn. Do đó, càng khó tưởng tượng Việt Nam chủ động khiêu chiến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, Việt Nam đều rớt lại phía sau trong toàn bộ quá trình. Trung Quốc đổ bộ lên đảo nào, thì Việt Nam lẽo đẽo theo sau, hoàn toàn mất thế chủ động.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thất bại của Việt Nam không phải ngẫu nhiên. Sau khi Nam Bắc thống nhất, Việt Nam gần như lập tức đối chọi với Trung Quốc, hoàn toàn ngả về phía Liên Xô vốn đang là kẻ thù của Trung Quốc, vẫn chưa hồi phục sức lực sau cuộc chiến tranh lâu dài mà đã đưa quân sang Campuchia để lật đổ Khmer Đỏ. Trung Quốc tấn công hậu phương Việt Nam, Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba bùng nổ. Dù sau đó không lâu Trung Quốc đã rút quân khỏi Việt Nam, nhưng chiến tranh ở biên giới Trung-Việt còn kéo dài nhiều năm. Việt Nam hầu như không có thời gian và sức lực dành cho việc phát triển kinh tế, dồn rất nhiều nguồn lực vào quân sự, đặc biệt là cho lục quân, do đó hải quân rất yếu kém. Ngược lại, đối với Trung Quốc chiến tranh biên giới chẳng qua như bệnh ghẻ ngoài da. hải quân Trung Quốc tuy cũng không hùng mạnh, nhưng bước vào những năm 1980 đã không ngừng lớn mạnh. Đến năm 1988, thực lực của hải quân Trung Quốc đã hoàn toàn vượt trội Việt Nam. Để chống lại Trung Quốc, năm 1979 Việt Nam cho Liên Xô thuê căn cứ hải quân Vịnh Cam Ranh. Tuy nhiên, trong cuộc xung đột, Liên Xô hoàn toàn đặt mình ngoài cuộc. Liên Xô khi đó đã hòa dịu quan hệ với Mĩ và Trung Quốc, thậm chí có kế hoạch thu hẹp quy mô đóng quân ở Vịnh Cam Ranh. Còn giữa Trung Quốc và Việt Nam thì Mĩ ủng hộ Trung Quốc, nên Liên Xô khó mà vì những hòn đảo này để bị cuốn vào cuộc chiến tranh với Trung Quốc (thậm chí với Mĩ). Việt Nam cũng đã đánh giá thấp quyết tâm của Trung Quốc trong việc xây dựng cứ điểm ở Trường Sa. Trước đó, Việt Nam đã khảo sát các đảo, đá ở khu vực này, hễ nghiên cứu phán đoán thấy địa điểm thích hợp đóng quân thì đã cố hết sức chiếm đóng. Căn bản là Việt Nam không lường trước được quyết tâm của Trung Quốc, ngay cả kiểu đảo đá trong trạng thái tự nhiên chỉ cao hơn mặt biển một hai mét như đá Chữ Thập (Vĩnh Thử), đá Gạc Ma (Xích Qua)..., mà cũng cố chiếm lấy và đóng quân. Ngoài ra, trước đó ngày 10/3, Thủ tướng Việt Nam Phạm Hùng qua đời, ban lãnh đạo Việt Nam đang phải sắp xếp lại, điều này cũng đã ảnh hưởng đến việc chuẩn bị chiến sự của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng liệu Trung Quốc có ý định giành được các đảo này thông qua phương thức chiến tranh hay không vẫn còn là một câu hỏi. Có bài viết chỉ ra rằng trong Hải chiến 14/3, chỉ huy Trần Vĩ Văn còn nhận được một điện báo của cấp trên gửi đến, yêu cầu Biên đội 502 không được chủ động dùng vũ lực. Trong trong vài giờ ngắn ngủi, tổng cộng nhận được 26 bức điện, trong đó 14 bức có các loại chỉ thị “không được phép”. Nếu như lúc đó Trần Vĩ Văn không chống được áp lực (đương nhiên vì khi nhận được điện báo thì súng đã nổ rồi) của nỗi sợ vi phạm chỉ thị, thì Trung Quốc sẽ khó mà giành được thành quả lớn như vậy. Sau khi chiến thắng trở về, Trần Vĩ Văn lập tức bị thẩm tra, điều mà ông ta khó hiểu. Trong khi truyền thông nước ngoài đưa tin rộng rãi, thì truyền thông trong nước Trung Quốc lại giữ im lặng trong thời gian dài. Hai tuần sau, truyền thông trong nước mới từ từ đưa tin muộn màng, nhưng vẫn nói giảm đi chiến quả đến từng chi tiết nhỏ, theo suy đoán là để “không kích động” Việt Nam. Quân uỷ Trung ương công bố lệnh khen thưởng, biểu thị khen ngợi với bộ đội tham chiến, nhưng tên của Trần Vĩ Văn không có trong danh sách lập công. Ngoài dự đoán của rất nhiều người, Trần Văn Vĩ dù được phong quân hàm Thiếu tướng, nhưng không hề có được sự đề bạt về chức vụ, ngược lại bị điều về cơ quan văn phòng cho tới hết phần còn lại của cuộc sống binh nghiệp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có rất nhiều tầng lớp dấu vết cho thấy Việt Nam không hề muốn gây chiến, còn Trung Quốc khi đó cũng không muốn mở rộng đến cấp độ xung đột vũ trang, mà chỉ muốn giành được các bãi đá này trong tình huống không nổ súng. Nhưng do Trần Vĩ Văn vi phạm chỉ thị của Trung ương mới dẫn đến Hải chiến 14/3. Cho nên Hải chiến 14/3 có thể chỉ là một trận chiến hết sức tình cờ. Đương nhiên, liệu khi đó Trung Quốc có thể chiếm được những đảo đá đó trong tình huống không nổ súng hay không, đó vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời chắc chắn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc mở rộng chiếm đóng Trường Sa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Hải chiến 14/3, thế giới lo lắng về xung đột không thể tránh khỏi ở Trường Sa giữa hai nước Trung, Việt. Mĩ bày tỏ sự quan tâm đến tình hình, nhưng không bênh vực bên nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Liên Xô thì chỉ cung cấp sự trợ giúp tình báo cho Việt Nam. Còn Philippines nằm gần Trung Quốc nên càng lo lắng. Philippines một mặt kêu gọi hai bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, cảnh cáo hai bên không được xâm phạm chủ quyền các đảo thuộc về Philippines trong quần đảo Trường Sa; mặt khác dò xét Trung Quốc. Tháng 4, Tổng thống Aquino thăm Bắc Kinh đặc biệt nêu ra mối lo lắng này với Trung Quốc, được biết Trung Quốc có hứa sẽ không tấn công quân đội Philippines ở quần đảo Trường Sa, Philippines mới yên tâm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia nhắc lại chủ quyền với Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dư luận quốc tế chuyển từ ủng hộ Trung Quốc sang ủng hộ Việt Nam. Sau khi sự việc này, ASEAN bắt đầu quan tâm nhiều hơn đối với các vấn đề biển Đông, từng bước thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề biển Đông (xem chương sau).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/5/1988, Trung Quốc gửi Bị vong lục cho Liên Hợp Quốc, phản bác yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Giữa Trung Quốc và Việt Nam lại nổ ra luận chiến một lần nữa. Việt Nam xuất bản Sách trắng thứ 4 về vấn đề biển Đông (bản năm 1988). Còn Trung Quốc thì đăng bài “Biện bạch vụng về” trên “Nhân dân nhật báo” để phản bác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau hải chiến, Việt Nam đã thắt chặt hợp tác với các nước có tranh chấp ở biển Đông khác. Từ ngày 27 đến 29/11 Ngoại trưởng Philippines Raul Manglapus thăm Việt Nam, kí kết “Tuyên bố chung” với Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Trong đó, điều 1 là: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai bên nhất trí giải quyết tranh chấp giữa hai nước liên quan đến quần đảo Trường Sa thông qua các biện pháp hòa bình, bao gồm đàm phán và đưa ra Tòa án Quốc tế</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” điều 4 là: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai nước Việt Nam và Philippines tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chủ quyền của nhau, tránh sử dụng vũ lực trong quan hệ song phương</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đầu tiên Việt Nam và Philippines cùng chuẩn bị để giải quyết vấn đề quần đảo Trường Sa. Mâu thuẫn giữa Philippines và Việt Nam ở Trường Sa không đến mức không thể dàn xếp, rốt cuộc các lãnh thổ mà Philippines yêu sách không bao gồm đảo Trường Sa Lớn ở trung tâm Trường Sa của Việt Nam, Việt Nam cũng không đến mức nhất định phải có được toàn bộ quần đảo Trường Sa (dù yêu sách như vậy). Đặc biệt là sự xuất hiện của một Trung Quốc lớn mạnh chưa từng có khiến nhu cầu đoàn kết, hòa hoãn của hai bên càng trở nên bức thiết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuộc chiến đá Gạc Ma (Xích Qua) ở Trường Sa, Trung Quốc có thể nói là toàn thắng. Qua trận chiến này, Trung Quốc đã kiểm soát được đá Chữ Thập (Vĩnh Thử) và đá Gạc Ma (Xích Qua), xây dựng cứ điểm đầu tiên ở biển Đông. Ngày 2/8, Trung Quốc cử hành lễ khánh thành trạm quan trắc hải dương trên đá Chữ Thập.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Căn cứ này có bến tàu, đê chắn sóng quanh đảo, nhà cửa, đường sá và sân bóng, có trồng cả dừa trên đảo,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> biến nó thành một đảo nhân tạo cỡ nhỏ. Từ đó, đá Chữ Thập trở thành căn cứ trung tâm của Trung Quốc ở Trường Sa. Ngoài đá Chữ Thập, đá Gạc Ma, đá Châu Viên, cho đến cuối tháng 4/1988, Trung Quốc còn đã chiếm đóng đá Tư Nghĩa (đá Đông Môn, Hughes Reef), đá Xu Bi (đá Chử Bích, Subi Reef) và đá Ga Ven (đá Nam Huân, Gaven Reef). Đá Ga Ven chỉ là bãi triều thấp,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> một căn cứ chủ yếu khác ở Trường Sa của Trung Quốc sau đá Chữ Thập.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/4/1988, Trung Quốc lập Hải Nam thành một tỉnh, và “các đảo của quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa và vùng biển của chúng” được biên chế ngang hàng với các huyện và thành phố trực thuộc tỉnh này. Điều này cho thấy Trung Quốc nâng cấp việc quản lí đối với khu vực “Tam Sa” lên một bước . Ngày 2/8/1988, Trung Quốc đã khánh thành bia chủ quyền trên ở đá đá Chữ Thập, đá Gạc Ma, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Xi Bi và đá Tư Nghĩa đang do họ kiểm soát. Tháng 8/1990, các công sự kiên cố có tính vĩnh cửu do Cục Thiết kế Công trình hải quân thiết kế đã được hoàn thành trên các đảo đá như đá Gạc Ma, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Xu Bi và đá Tư Nghĩa. Tháng 4/1991, một sân bay lớn trên đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng, Woody Island) thuộc Hoàng Sa đã được xây xong, sức mạnh quân sự có thể bao phủ Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cho thấy Trung Quốc đã nâng cấp quản lí thêm một bước nữa đối với khu vực “Tam Sa”. Tóm lại, sau năm 1988, Trung Quốc đã chính thức bắt đầu có sự hiện diện quân sự ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng cùng trong thời gian này, Việt Nam cũng đã mở rộng sự hiện diện trên các đảo đá khác. Theo báo chí Trung Quốc, sau Hải chiến 14/3, hải quân Việt Nam lần lượt “xâm chiếm” đá Len Đao (đá Quỳnh, Lansdowne Reef), đá Cô Lin (đá Quỷ Hám, Collins Reef) và đá Núi Thị (đá Bách Lan, Petley Reef), hơn nữa còn xây dựng công trình quân sự trên những đảo đá này. Nước này cũng tăng binh lực, gia cố công trình quân sự trên 6 đảo đá đã chiếm đóng trước hải chiến là đá Lớn (đá Đại Hiện, Discovery Great Reef), đá Núi Le (đá Nam Hoa, Cornwallis South Reef), bãi Tốc Tan (đá Lục Môn, Alison Reef), đá Tiên Nữ (đá Vô Khiết, Tennent Reef), đá Lát (đá Nhật Tích, Ladd Reef) và đá Đông (East Reef). Đến tháng 5/1988, Việt Nam đã chiếm đóng hơn 20 đảo, đá.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối tháng 4/1989, trên đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu, Namyit Island) Tổng tham mưu trưởng Đoàn Khuê và Tư lệnh hải quân Giáp Văn Cương của Việt Nam đã chủ trì lễ kỉ niệm 14 năm Việt Nam “giải phóng” quần đảo Trường Sa, đã thể hiện thêm một bước quyết tâm bảo vệ quần đảo Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải chiến Gạc Ma năm 1988 là lần xung đột quân sự cuối cùng ở khu vực biển Đông. Sau trận chiến, Trung Quốc vốn có thể thừa thắng truy kích, nhân cơ hội tiến xuống phía Nam. Nhưng Trung Quốc không có kế hoạch này, mà quan trọng hơn là tình hình thế giới bất ngờ có những thay đổi long trời lở đất, làm thay đổi hoàn toàn cục diện biển Đông.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.13 Thái độ của cộng đồng quốc tế đối với chủ quyền biển Đông sau Thế chiến thứ hai</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Chiến tranh việc cộng đồng quốc tế có đạt được sự đồng thuận về chủ quyền các đảo biển Đông hay không có vai trò hậu thuẫn nhất định trong việc xác định sự quy thuộc của chúng theo luật quốc tế. Thời kì đầu sau Chiến tranh, Trung Hoa dân quốc đã rất nhanh chóng “tận dụng triệt để” các dịp quốc tế để đưa ra yêu sách chủ quyền đối với các đảo biển Đông. Còn các nước xung quanh, nói chung do mới độc lập, có một khoảng cách đáng kể trong loại nhanh nhạy ngoại giao này. Trung Quốc có một ưu thế nhất định về loại bằng chứng này. Ngoài ra, sau Hải chiến Hoàng Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1974, cộng đồng quốc tế đã có hiểu biết phổ biến về vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, từ đó các bản đồ cũng như các tư liệu đã phản ánh vấn đề “chọn phe” trong cộng đồng quốc tế, ví dụ các nước thuộc phe cộng sản đa số đều ủng hộ Trung Quốc. Kiểu “chọn phe” này cũng có thể thay đổi theo nhu cầu chính trị, ví dụ bản đồ của Liên Xô ban đầu ủng hộ Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, nhưng vào nửa sau những năm 1970 đã chuyển sang “phân định” Hoàng Sa cho Việt Nam. Tiết này chủ yếu tập trung thảo luận tư liệu có liên quan của những năm 1950-60.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc quân đội Mĩ đến biển Đông</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đài Loan cho rằng khi Mĩ đo vẽ bản đồ một số đảo ở biển Đông năm 1956, trước đó đã thực hiện việc “xin phép” phía Đài Loan, điều đó có nghĩa là khi đó Mĩ thừa nhận các đảo ở biển Đông thuộc về Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngọn nguồn của việc này như sau: Do nhu cầu khảo sát, lập bản đồ và quân sự, quân đội Mĩ có kế hoạch tiến hành đo vẽ bản đồ các nơi ở biển Đông vào tháng 9/1956. Theo một thư mật của Bộ Ngoại giao gửi Bộ Quốc phòng Đài Loan: “ngày 21/8, Bí thư thứ nhất của Mĩ tại Đài Loan Donald E. Webster đã gặp Cục trưởng Cục Đông Á, nêu ra việc 6 nhân viên không quân của quân đội Mĩ sẽ đi tàu chiến của hải quân Mĩ đến các đảo/đá sau: ngày 2/9, bãi Scarborough (đá Dân Chủ / đảo Hoàng Nham); ngày 3/9, đá Song Tử (cụm Song Tử, North Danger Reefs); ngày 4/9, đảo Sinh Tồn (đảo Cảnh Hồng, Sin Cowe Island) hoặc đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu, Namyit Island); ngày 5/9, đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy, Spratly Island). Yêu cầu ‘chính phủ nước ta cho phép và tạo điều kiện thuận tiện cho chuyến đi’”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo thư mật này, Mĩ đã phải xin Đài Loan “cho phép” đến những đảo đó đo vẽ bản đồ, nên đương nhiên đã thừa nhận chủ quyền của Đài Loan. Đúng lúc đó, xảy ra sự kiện Cloma, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao đều rất quan tâm. Bộ Quốc phòng lập tức trả lời bằng thư, “chấp thuận yêu cầu của phía Mĩ”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hành động của quân đội Mĩ (Hiran Project) sau đó bị hoãn lại đến tháng 2/1957, và thời gian cho việc đo vẽ bản đồ cũng từ vài ngày kéo dài thành hơn một năm, bao gồm chụp ảnh trên không và xây dựng trạm quan trắc trên mặt đất, 4 địa điểm lựa chọn là đá Song Tử (North Danger), đảo Sinh Tồn (Sin Cowe), đảo Trường Sa Lớn (Spratly) và đá Dân Chủ (Scarborough Shoal).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, khi đó Mĩ biết rõ Đài Loan, Philippines, Việt Nam đang liên tục tranh chấp chủ quyền đối với các đảo biển Đông, trước đó vừa bày tỏ rõ ràng thái độ trung lập, thế thì sao lại có thể thừa nhận riêng rẽ chủ quyền của Đài Loan được? Sự thực là để tránh dính líu vào tranh chấp, Mĩ cũng đã gửi công hàm tương tự cho Đài Loan, Việt Nam và Philippines. Bị vong lục Đại sứ quán Mĩ tại Đài Loan gửi Bộ Ngoại giao Đài Loan viết như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Teams of 10, 7, 4 and 4 men will be at the above respectively and will operate from U.S. Naval vessel utilizing helicopters, life equipment, etc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Embassy will endeavor to keep the Ministry of Foreign Affairs informed concerning team schedules.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Embassy has been advised that the Government of the Republic of the Philippines and Vietnam also have been furnished the above information.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Các đội gồm 10, 7, 4 và 4 người sẽ lần lượt ở các nơi nói trên và sẽ hoạt động từ tàu hải quân Hoa Kì sử dụng trực thăng, thiết bị cứu sinh, v.v.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại sứ quán sẽ cố gắng để Bộ Ngoại giao luôn được thông tin liên quan đến lịch trình của đoàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại sứ quán đã được cho biết rằng Chính phủ Cộng hòa Philippines và Việt Nam cũng đã được cung cấp thông tin trên</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hồ sơ giải mật của quân đội Mĩ cũng nhắc đến việc Đại sứ Mĩ tại Manila và Đài Bắc đang điều đình cho lần đo vẽ bản đồ này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có thể thấy, cái gọi là Mĩ xin phép Đài Loan, chứng tỏ Mĩ thừa nhận chủ quyền của Đài Loan ở 4 đảo này hoàn toàn không đứng vững.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1960, quân đội Mĩ một lần nữa lại yêu cầu Đài Loan cho phép đến đảo Sinh Tồn, đảo Trường Sa Lớn và đá Song Tử ở quần đảo Trường Sa tiến hành đo vẽ bản đồ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Người viết không tìm thấy tư liệu phía Mĩ đề nghị các nước khác. Nhưng lấy sự việc năm 1957 làm ví dụ, cùng với việc Mĩ giữ thái độ trung lập nhất quán trong vấn đề lãnh thổ các đảo biển Đông,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> rất có thể Mĩ cũng đưa ra yêu cầu tương tự với Philippines và Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, năm 1964, Cục Hàng không dân dụng, Bộ Giao thông Đài Loan thiết lập khu vực hạn chế bay ở Đông Sa, Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 27/1/1966 Cục gửi thư cho Bộ Tư lệnh phòng thủ chung Mĩ-Đài Loan, yêu cầu máy bay quân sự Mĩ phải thông báo trước nếu muốn bay qua khu vực hạn chế bay ở Đông Sa, Trường Sa để tránh bị tấn công nhầm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Như vậy, đây là yêu cầu đơn phương của phía Đài Loan; khi đó Mĩ và Đài Loan có hiệp định phòng thủ chung, mà Đài Loan đúng là đã kiểm soát thực tế Đông Sa và đảo Thái Bình (đảo Ba Bình), ngay cả Mĩ đồng ý yêu cầu này, cũng chỉ có thể xem là một sự sắp xếp theo thực tế chứ không thể coi là bằng chứng thừa nhận chủ quyền của Đài Loan đối với Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các tổ chức dân sự như Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế và Tổ chức Khí tượng quốc tế</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27/10/1955, Hội nghị Hàng không khu vực Thái Bình Dương, Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (International Aviation Transport Association) lần thứ nhất được tổ chức ở Manila, đại biểu 16 nước hội viên gồm Trung Hoa dân quốc (Đài Loan), Mĩ, Anh, Nhật Bản, Philippines và Việt Nam (Nam Việt, do Pháp đại diện)... tham dự, Chủ tịch Hội nghị là ông Florres, đại biểu Philippines. Đoàn đại biểu Anh và đại biểu Hiệp hội Vận tải hàng hải quốc tế (IATA) đưa ra dự thảo nghị quyết, yêu cầu chính phủ Trung Quốc xây dựng một trạm khí tượng ở trên đảo Trường Sa, thu thập và công bố thông tin khí tượng trên mặt đất và trên không, mỗi ngày cung cấp 4 báo cáo khí tượng cho PIBAL. Sau khi dự thảo nghị quyết được Uỷ ban Khí tượng thảo luận và chỉnh sửa được Hội nghị tiếp thu, đưa vào dự thảo nghị quyết số 24, thông qua mà không có ý kiến khác và được đưa vào phần 2 của báo cáo cuối cùng (báo cáo và kiến nghị).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nguyên văn biên bản như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) That the network as recommended in resolution 2 of RA V, 1st session, and in resolution 4 of RA II, 1st session of WMO, be considered as constituting the required surface and upper air synoptic networks in so far as they apply to the Pacific Region, with the following changes: (RW-Radiowind; RS-Radiosonde: P-pilot ballon)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Add</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">British North Borneo Upper Air observation </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">96479 Kudat </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">0553N 11651</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 0309 15 21 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China (Taiwan) 46752 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hengchun </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2200N 12045 </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">RW RW</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46734 Pescadores </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2414N 11422E RW/RS RW/RS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46092 Nansha Island </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1023N 11422E RW/RS RW/RS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Delete</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHINA (Taiwan)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46743 Taiwan </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2300N 12013E RW/RS RW/RS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">((a) Mạng lưới như được đề xuất trong nghị quyết 2 của RA V [Hiệp hội khu vực V-ND], phiên 1 và trong nghị quyết 4 của RA II, phiên 1 của WMO [Tổ chức khí tượng thế giới-ND], được coi là cấu thành các mạng đồng bộ trên mặt đất và trên tầng không khí cao cần phải có trong chừng mực chúng áp dụng cho khu vực Thái Bình Dương, với những thay đổi sau: (RW-Radiowind; RS-Radiosonde: P-pilot ballon)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thêm vào</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[Trạm] Quan sát trên không Bắc Borneo thuộc Anh </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">96479 Kudat </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">05°53’ N 116° 51’ E 03 09 15 2121</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc (Đài Loan) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46752 Hengchun </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22° 00’ N 120° 45’ E RW RW</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46734 Bành Hồ </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24°14’ N 114° 22’ E RW/RS RW/RS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46092 Đảo Trường Sa </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10° 23’ N 114° 22’ E RW/RS RW/RS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Loại bỏ</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TRUNG QUỐC (Đài Loan)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46743 Đài Loan </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23° 00’ N 120° 13’ E RW/RS RW/RS)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Căn cứ vào kinh, vĩ độ thì đảo Trường Sa ở đây chính là đảo Ba Bình (đảo Thái Bình) do Đài Loan chiếm đóng. Các nước Philippines và Anh, Pháp... tham dự Hội nghị đã không đưa ra phản dối về việc này. Sau đó, Bộ Giao thông Đài Loan thông báo Bộ Nội chính,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1957, Bộ Giao thông Đài Loan lại một lần nữa gửi thư cho Bộ Nội chính về việc này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vào năm 1960, trạm khí tượng được mở rộng thành đài khí tượng, và báo cáo cho Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) 4 lần một ngày theo hiệp định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, từ năm 1968 đến 1971, Tổ chức Khí tượng thế giới viện trợ Trung Hoa Dân quốc xây dựng 3 đài thám không ở quần đảo Đông Sa và Trường Sa, trong danh mục các trạm quan trắc khí tượng NO.P, T.P.4, Vol.A do tổ chức này biên soạn và phát hành, các trạm khí tượng do Trung Hoa dân quốc xây dựng ở Trường Sa đều được liệt kê trong đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc và Đài Loan cho rằng những ví dụ này thể hiện sự công nhận quốc tế đối với chủ quyền của Trung Quốc (và của Đài Loan) ở quần đảo Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, cả Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) lẫn Tổ chức Khí tượng quốc tế (WMO) đều là tổ chức quốc tế phục vụ dân sự, mục đích của họ là để phối hợp công việc quốc tế về mặt dân sự, lấy “thực dụng” làm xuất phát điểm, vấn đề quy thuộc chủ quyền hoàn toàn không phải là việc họ quan tâm. Việc yêu cầu Đài Loan xây dựng đài khí tượng ở Trường Sa, đại khái chỉ vì Đài Loan đã kiểm soát thực tế ở đó, chỉ có Đài Loan mới có thể cung cấp thông tin liên quan mà thôi. Hơn nữa, liên quan ở đây cũng chỉ có mỗi một đảo Ba Bình, không thể từ đó lí giải chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, phía Việt Nam cũng có ví dụ tương tự, cho thấy các công trình dân sự cũng phải đi theo nước kiểm soát thực tế. Năm 1949, Tổ chức Khi tượng thế giới (World Meteorological Organization, WMO) đăng kí hai trạm khí tượng xây dựng trên quần đảo Hoàng Sa là bộ phận của “An Nam”: mã số trên đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng) là 48859, trên đảo Hoàng Sa (đảo San Hô) là 48860;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đăng kí trạm khí tượng trên đảo Ba Bình (đảo Thái Bình) là một bộ phận của Cochin China (Nam Kì), mã số là 48919</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 40). Theo đó, Việt Nam cho rằng WMO công nhận Hoàng Sa và đảo Ba Bình thuộc về Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, khi đó trên đảo Phú Lâm và đảo Ba Bình đều không có người Pháp và người Việt, nhưng WMO vẫn công nhận trạm khí tượng do Pháp xây dựng trước Thế chiến thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (xem III.1).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 382px; overflow: hidden; width: 573px;"><img height="396.95899978886064" src="https://lh4.googleusercontent.com/89_TcdDxjH8zHitcYS8G6AL3vVlnJ9tNAee1TcIjjFzWHlQ6DKBV-KzbdcEgp04bpok0JPHm3g6JBlSyGyUwsI1MHt6_Moq8I1BRWVTQU1P4GGaYwzadh41m-Hahw5KLdFS0nDFHWMKCRWlTixmtoHA" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="573" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 40: Trạm khí tượng do Tổ chức Khí tượng thế giới đăng kí năm 1949 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4/1973, lại một lần nữa trạm khí tượng ở Hoàng Sa của Việt Nam được đưa vào trong văn kiện của Tổ chức Khí tượng thế giới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau Hải chiến Hoàng Sa, ngày 18/9/1975, khi Trung Quốc tham gia Hội nghị hiệp hội khu vực hai (RA II) của Tổ chức Khí tượng thế giới mới đưa ra kháng nghị đối với trạm khí tượng 48860 của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa (San Hô) thuộc Hoàng Sa, và sửa thành số 59985.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 24/11/1984, tại Hội nghị Khí tượng châu Á lần thứ 8 tổ chức ở Geneva đã nhất trí thông qua danh sách trạm khí tượng thuộc hệ thống SYNOP, trong đó có trạm khí tượng “Trường Sa” do Việt Nam đăng kí tại Hội nghị. Đại biểu Việt Nam Trần Văn An còn tuyên bố: cùng lúc còn có “các trạm khí tượng liên quan đến hai quần đảo này (Hoàng Sa và Trường Sa) được nước khác đăng kí trong phụ lục của nghị quyết cuộc họp, là hoàn toàn bất hợp pháp”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> việc này cho thấy những tổ chức dân sự này lấy sự kiểm soát thực tế làm tiêu chuẩn chứ không phải nguyên tắc chủ quyền làm tiêu chuẩn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, năm 1964 kì họp lần thứ 4 Hội nghị vẽ bản đồ khu vực châu Á và Viễn Đông của Liên Hợp Quốc, Philippines đưa ra dự thảo nghị quyết hợp tác quốc tế trong việc khảo sát biển Đông, trong đề án có đoạn “khu vực này không thuộc phạm vi lãnh thổ của bất cứ một quốc gia nào”. Trung Quốc (Đài Loan) đưa ra ý kiến phản bác: “quần đảo Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc”, còn Liên Xô thì nêu rằng “khu vực này dường như là lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”. Các bên giằng co nhau mãi, cuối cùng kiến nghị khảo sát chỉ mới được thông qua sau khi sửa đổi .</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tại kì họp thứ 6 tháng 10/1970, đại biểu Đài Loan yêu cầu thêm lập trường của Đài Loan tại nhóm công tác thông tin Tokyo tháng 7 vào biên bản Hội nghị (trong cuộc họp nhóm lần đó, Đài Loan đã phân phát một số tài liệu bản đồ và tạp chí yêu sách các đảo biển Đông và tuyên bố chủ quyền của họ đối với Trường Sa), đề nghị này gặp phải sự phản đối của các nước tham dự hội nghị nên không được đưa vào biên bản hội nghị.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cho thấy rằng nếu như chấp nhận cách diễn giải quá mức những nghị quyết của các tổ chức quốc tế này thì càng phải chấp nhận cho các trường hợp chính thức hơn và liên quan đến chủ quyền (ví dụ tại Liên Hợp Quốc), để diễn giải rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa đã không được quốc tế công nhận sao ?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xác định rõ sự công nhận của quốc tế</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thế giới không có lập trường thống nhất đối với sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa, ở đây chủ yếu thảo luận thái độ của nước lớn đối với vấn đề này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ luôn cho rằng Trường Sa và Hoàng Sa là khu vực có tranh chấp, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt lập trường trung lập đối với sự quy thuộc của chúng, có thể thấy điều này từ vụ việc quân đội Hoa Kì khảo sát và lập bản đồ quần đảo Trường Sa nói ở trên. Pháp ủng hộ Việt Nam trong vấn đề quy thuộc của Hoàng Sa, nhưng dường như vẫn chưa công khai từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước Thế chiến thứ hai, Anh từng phản đối việc Pháp chiếm đóng đảo Trường Sa Lớn tháng 4/1930, nhưng trong Thế chiến thứ hai lại công nhận chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa. Tuy nhiên, sau Chiến tranh, Anh lại đưa ra việc họ có chủ quyền ở Trường Sa (xem IV.3). Chính phủ Anh đã công khai từ bỏ đòi hỏi này, nhưng Cao uỷ Anh (High Commissioner) ở Singapore vào năm 1974 tuyên bố “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Spratly thuộc về Trung Quốc, là một bộ phận của tỉnh Quảng Đông..... sau Chiến tranh trả lại Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Anh đã bí mật công nhận yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Paracel có tranh chấp..... Chính phủ Anh ít nhất đã lặng lẽ công nhận yêu sách đối với Paracel của Trung Quốc là đúng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cao uỷ Anh tại Singapore tương đương với Đại sứ Anh tại các nước khác (Singapore là thành viên của Liên hiệp Anh, do đó dùng tên gọi Cao uỷ Ngoại giao). Theo luật quốc tế, thái độ của ông có thể được công nhận là thái độ của Bộ Ngoại giao (thậm chí của chính phủ) Anh hay không đáng được thảo luận. Liên quan đến quần đảo Hoàng Sa, có tin nói rằng Anh đã gửi công hàm cho Bắc Kinh vào năm 1957, nói rõ lập trường của nước này là: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Chúng tôi ngầm công nhận yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Pratas (Đông Sa) và Paracel (Hoàng Sa).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước Thế chiến thứ hai,Nhật Bản ủng hộ quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, nhưng cho rằng quần đảo Trường Sa thuộc về Nhật Bản (xem II.6). Sau Chiến tranh, ngoài việc bày tỏ từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong các hiệp ước như “Hòa ước San Francisco”, không có bày tỏ thái độ nào khác (xem III.8).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Liên Xô đối với Hoàng Sa và Trường Sa trước và sau khi nước Việt Nam mới thành lập có sự thay đổi. Liên Xô ban đầu bày tỏ thái độ ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Hội nghị hòa bình San Francisco, Liên Xô phát biểu ý kiến ủng hộ chúng thuộc “nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” (xem III.8). Nhưng sau khi nước Việt Nam mới thành lập, Liên Xô chuyển sang ủng hộ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này. Thái độ của Liên Xô đối với tuyên bố lãnh hải 12 hải lí của Trung Quốc năm 1958 có lập trường không rõ ràng. Một mặt, Liên Xô gửi công hàm “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Liên Xô được biết và hoàn toàn tôn trọng quyết định trong tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do Trung Quốc tuyên bố các đảo ở biển Đông thuộc nước này, nên cũng có thể suy ra là Liên Xô ủng hộ lập trường này của Trung Quốc. Nhưng mặt khác, trong công hàm này phía Liên Xô viết:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Liên Xô được biết quyết định của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa áp dụng thích dáng cho toàn bộ lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục, Đài Loan và các đảo xung quanh nó, quần đảo Bành Hồ cũng như các đảo khác thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> So với tuyên bố của Trung Quốc, thiếu các chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Đông Sa, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cho thấy dường như ngược lại họ có thái độ dè dặt. Đối với tuyên bố này của Trung Quốc, các nước Đông Âu (bao gồm Romania, Đông Đức, Hungary, Tiệp Khắc và Bulgaria...) và Mông Cổ cũng bày tỏ thái độ tương tự Liên Xô, công nhận và ủng hộ quyết định 12 hải lí của Trung Quốc, nhưng không có nước nào ủng hộ rõ ràng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Đông. Sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, Triều Tiên ủng hộ rõ ràng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, đáng chỉ ra là sau khi Trung Quốc ra tuyên bố lãnh hải 12 hải lí, Mĩ, Anh và các nước phương Tây khác bày tỏ thái độ không ủng hộ tuyên bố này. Điều này phải chăng có nghĩa là các nước này không ủng hộ yêu sách chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông của Trung Quốc? Cũng đáng để tranh luận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số các nước Đông Nam Á, sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia tuyên bố với báo giới quan điểm chính thức của Indonesia: Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc về Trung Hoa Dân quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cũng trong Hải chiến Hoàng Sa, Thứ trưởng Ngoại giao Thái Lan Chatchai Chunhawan phát biểu ý kiến cá nhân, cho rằng Hoàng Sa là của Trung Quốc (dù là Đại lục hay Đài Loan).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng ý kiến cá nhân hoàn toàn không thể coi là thái độ chính thức của nhà nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, sau Thế chiến thứ hai, tuyệt đại bộ phận quốc gia không có lợi ích lãnh thổ đều giữ thái độ trung lập, nhưng cũng có một số ủng hộ Trung Quốc hoặc Việt Nam. Ý kiến của cộng đồng quốc tế về vấn đề này không giống nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ, bách khoa toàn thư và tạp chí nước ngoài</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lẫn Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đều đã đưa ra không ít tư liệu bản đồ, bách khoa toàn thư và tạp chí của bên thứ ba để chứng minh rằng chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã được quốc tế công nhận, nhưng chưa ai thực hiện một phân tích định lượng có hệ thống những tư liệu này. Những tư liệu này nếu xuất bản trước thế kỉ 20, thì có thể có giá trị pháp lí theo góc độ “bằng chứng lịch sử”. Nhưng nếu xuất bản sau tranh chấp chủ quyền, tác dụng sẽ rất hạn chế. Những bản đồ, bách khoa toàn thư và tạp chí của bên thứ ba này khó được coi là thể hiện thái độ chính thức, đặc biệt là các xuất bản phẩm tư nhân của phương Tây không chịu kiểm soát của chính phủ, nhiều nhất chỉ có thể đại diện ý kiến của cá nhân, đặc biệt là bài viết trên báo, càng chỉ có thể đại diện lập trường riêng của tác giả.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn trên thực tế, do thái độ người dân các nước khác nhau, bất kể Trung Quốc, Việt Nam thậm chí Philippines đều có thể tìm thấy bằng chứng có lợi cho mình. Vì vậy, dùng những tư liệu này làm “bằng chứng” là hết sức có hạn. Ở đây người viết đưa ra một số bản đồ có tính đại diện để minh họa cho luận điểm khác nhau của các ấn phẩm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các bản đồ nước ngoài nửa đầu thế kỉ 20, theo người viết nhận thấy, chúng đều không dùng bất cứ hình thức nào (bao gồm chữ viết, màu sắc, đường phân giới...) để đánh dấu sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong Thế chiến thứ hai, bản đồ của Nhật Bản xuất bản đã bắt đầu đánh dấu rõ quần đảo Tân Nam (tức Trường Sa) thuộc về Nhật Bản, đảo Hoàng Nham thuộc về Philippines, còn quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc (Hình 41). Sau Chiến tranh, có nhiều hình thức biểu thị đã xuất hiện:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không đánh dấu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ví dụ bản đồ thế giới trong quyển 27 sách “Meyers Enzykolpadisches Lexikon” (1971) của Đức (Hình 42). Hoàng Sa và Trường Sa được biểu thị, nhưng không chú thích rõ tên gọi và sự quy thuộc. Times Atlas of the World năm 1955 của Anh (Hình 43), Hoàng Sa đánh dấu với tên gọi Paracel, còn Trường Sa thì không có tên gọi toàn bộ quần đảo, hai nơi đều không đánh dấu sự quy thuộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đều đánh dấu là của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Atlas international Larousse (1966) của Pháp (Hình 44). Đây là một bản đồ thường được Trung Quốc trích dẫn. Trên bản đồ, Hoàng Sa và Trường Sa đều dùng phiên âm tiếng Trung để đánh dấu, đồng thời trong ngoặc đơn chú thích rõ chữ Trung Quốc (Chungkuo). Trên một số bản đồ khác dùng phiên âm tiếng Trung đánh dấu hai quần đảo này, nhưng không ghi rõ thuộc về Trung Quốc, cũng có thể coi là công nhận hai quần đảo thuộc Trung Quốc, ví dụ của Pergamon World Atlas của Ba Lan (1968, Hình 45).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đánh dấu Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, không đánh dấu sự quy thuộc của Trường Sa,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ví dụ Goode’s World Atlas của Mĩ (1964, Hình 46).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(4) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đánh dấu Hoàng Sa là của Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ví dụ McGraw-Hill International Atlas của Mĩ (1963, Hình 47), Hoàng Sa được đánh dấu thuộc Việt Nam, Trường Sa không có đánh dấu sự quy thuộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(5) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đánh dấu Hoàng Sa thuộc Trung Quốc, Trường Sa thuộc Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Ví dụ Cassell’s New Atlas of the World của Anh (1961, Hình 48).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(6) </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đánh dấu Hoàng Sa của Trung Quốc, đánh dấu một phần Trường Sa thuộc Philippines, đảo đảo Trường Sa Lớn và đảo đảo An Bang được đánh dấu thuộc Anh,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ví dụ Aldine University Atlas của Anh (1969, Hình 49).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 578px; overflow: hidden; width: 381px;"><img height="628.765044627129" src="https://lh6.googleusercontent.com/Goa-Nh8x2qRYP621bqR8RHRCb3-ChRv-Fv1VveBy09FTi6dkxWwKPrW2ScIaoZZ8xvynQH1Xc5JSnvAJlAyj8TMHL-EdjaSzPE7ubzElaYkuP70H7PL6uam6cNHR-6WABqQsgaqC97ZpCzeo74OdBrk" style="margin-left: 0px; margin-top: 2.9093e-11px;" width="381" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 41: Bản đồ Philippines do Nhật Bản xuất bản (1942) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 368px; overflow: hidden; width: 290px;"><img height="412.69758077821945" src="https://lh5.googleusercontent.com/EKVTgGBjmKWAWf6FuF_2BLD2NvD7gB6DTvRihmdaX05mG_MaePzytitlEERQmPJv7WWOe-3gzrc-yOF52VLIp1rkr5SNjGrCGUzgntYkZgD8Wf34FuSTUAlrKPMxE8oiFK01PiRf28_WuWrRW8S0d0A" style="margin-left: 0px; margin-top: -2.11463e-11px;" width="290" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 42: Bản đồ của Đức xuất bản (Meyers Enzykolpadisches Lexikon, 1971)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 387px; overflow: hidden; width: 306px;"><img height="417.9521815091044" src="https://lh6.googleusercontent.com/wyqg_LvuiJbbozrYFZCI-iH8YukNAk-yKWrcS4emF2IBJBSZ-GKfNHER5N-8qmQBq_tXFNlbjeVD0bMt4A5h_WoOoSIcnWyOBKMgqOs4-BhiRV5wdMzW-QRL8POnvC6Qu7_uumLXEUM0tMvRS9ktCzM" style="margin-left: 0px; margin-top: 2.7075e-11px;" width="328.322188449848" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 43: Bản đồ của Anh xuất bản (Times Atlas of the World, 1955) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 382px; overflow: hidden; width: 318px;"><img height="415.2829551148579" src="https://lh4.googleusercontent.com/rqYHX9aId-N-_mNI8xx86mTbCCvR3C27y2_iq8u1IhpT6ouVsXjyHhsvrNGYP1ldZE3eq9pHbl3VdBidAB16CezkkPrfWSVvGgBHi40yeR5CcpID2ZEtNQ1vXl2pj0t9PJqAYwrr0n0xNPLPJMZ21kY" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="318" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 44: Bản đồ của Pháp xuất bản (Atlas international Larousse , 1966)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 376px; overflow: hidden; width: 342px;"><img height="409.6038647342995" src="https://lh4.googleusercontent.com/bLfANHZyY6WWGxKEBsVGmRX8q0VKJ44BsG-eErWFv3KYpa_0kQIoR1gYz4cJJzApfN_AFwcevJHsn6VZDVOqOmOqU5anMreyVhqYvp4R04NHhOvVxZaHYJYnp-31ZmIP-RhvbOxkuVUlwzbyEwWp1DU" style="margin-left: -15.9968px; margin-top: 0px;" width="373.9936948297604" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 45: Bản đồ của Ba Lan xuất bản (Pergamon World Atlas, 1968) </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 347px; overflow: hidden; width: 327px;"><img height="367.52660377258434" src="https://lh6.googleusercontent.com/teeQXkCaVTIibWSvobMSntwZvU_7DVi0IB3uWMJKhZvGBj3zWlX4LJ6H19o5U0hrjJNW85V_h4x5qcQfA_e9NBDrF1PnwBThjGUTXfG7jYqP-rxa9eMM2gDyEoT10T0Gf0hOv7zrRzdHLkxWpvjzVmk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="327" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 46: Bản đồ của Mĩ xuất bản (Goode’s World Atlas, 1964) (tr.351 bản gốc)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 373px; overflow: hidden; width: 298px;"><img height="425.68342828288394" src="https://lh6.googleusercontent.com/lqgcykB4OL7aEj77cGMg4uqasaHIO1IDwmzi8gden_DBbVo_LFdeGJRxicQZ7bdzJd-JWvG-3itlzzZ4wx1DGRrQlhZXtzBle46dNabVOQvtPW1kpRmcVTW_wWLOfVxXI3o9vZvKFR3iDNhncSulQvM" style="margin-left: 0px; margin-top: -0.413665px;" width="298" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 47: Bản đồ của Mĩ xuất bản (McGraw-Hill International Atlas, 1963) </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 384px; overflow: hidden; width: 287px;"><img height="426.77227722772284" src="https://lh6.googleusercontent.com/F1La_pPQGmtDFy78LvnilXEi4_pIvYUja9pc5POs7TRWTTfEg0ets58jlTKAX3oHT8xd3VhVj15vTXFExjHaUgjAqwXQZjyG4wvOuycIGD2qUbbfEV0eHLcf_Z_B82zoiQGME_YaQTJbnwrVdJRuRFk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="287" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 48: Bản đồ của Anh xuất bản (Cassell’s New Atlas of the World, 1961)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 366px; overflow: hidden; width: 342px;"><img height="394.4271844660194" src="https://lh4.googleusercontent.com/DYa2n6QarGjxOAPQQO3GoTkJjSgt_Uu9J_LiFhZfuDh_zFbrIxvTvALLhIx8Pdn6NtXBD0g9uy0npwxyltiMNQg6neBYlK5ov3Fe0F2r0uOJQeFxhE6ZG1IqsMBa-ry67Ujo4VMHcHWiy_BH2ZGrhzo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="342" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 49: Bản đồ của Anh xuất bản (Aldine University Atlas, 1969)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, thời gian từ sau Thế chiến thứ hai đến năm 1970, thế giới hoàn toàn không có cách hiểu chung về sự quy thuộc của các đảo biển Đông. Qua quan sát và phân tích các loại bản đồ khác nhau, trước năm 1970 quần đảo Trường Sa không có tên gọi như một chỉnh thể trên rất nhiều bản đồ. Ngoài ra, không có bản đồ nào mà tác giả xem được có vẽ đường 9 đoạn của Trung Quốc. Có thể thấy rằng đường 9 đoạn hoàn toàn không phải là khái niệm được quốc tế chấp nhận rộng rãi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuốn “Sử liệu vị biên” (史料彙編) của Trung Quốc có liệt kê 206 bản đồ nước ngoài từ những năm 1940 đến những năm 1970 có đánh dấu các đảo ở biển Đông thuộc Trung Quốc. Trong đó đưa ra một số bản đồ do Việt Nam (Bắc Việt) xuất bản trước năm 1974 mà trên đó Hoàng Sa và Trường Sa được đánh dấu thuộc Trung Quốc dưới nhiều hình thức,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> hoặc không được vẽ trên bản đồ Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này phù hợp với thảo luận trong phần IV.5, IV.9 và IV.10. Như phân tích trong phần IV.10, hoàn toàn không thể dùng điều này để khẳng định thái độ của nước Việt Nam mới đối với sự quy thuộc chủ quyền của chúng, cũng khó lấy làm bằng chứng phản bác yêu sách của nước Việt Nam mới. Ngoài ra, sách này còn đưa ra hai bản đồ do Sài Gòn xuất bản trong những năm 1950, không vẽ Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hiện chưa rõ năm xuất bản cụ thể của hai bản đồ này. Như thảo luận trước đây, Việt Nam đã chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1951 (IV.8). Hai bản đồ này dường như là ví dụ rất cá biệt, và tính chất do tư nhân xuất bản của chúng cũng làm chúng thiếu hiệu lực pháp lí, càng không thể so sánh với yêu sách chính thức của Nam Việt, hơn nữa chúng cũng không vẽ Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Sử liệu vị biên” còn liệt kê ra 3 bản đồ không đưa quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ Philippines (lần lượt năm 1940, 1950 và 1969).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Giống như thảo luận về chứng lí ở phần trước, vì năm 1946 Philippines đã ra tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa, hiệu lực của tuyên bố lớn hơn rất nhiều so với bản đồ. Do đó, ngay cả khi tồn tại bản đồ như vậy cũng không có cách nào phủ định yêu sách của Philippines đối với quần đảo Trường Sa. Hơn nữa, trên các bản đồ đó, không có dấu hiệu nào cho thấy quần đảo Trường Sa thuộc sở hữu của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, đáng để chỉ ra là rất ít bản đồ do nước ngoài vẽ vào thời điểm đó thể hiện đường 9 đoạn. “Sử liệu vị biên” chủ yếu thu thập những bằng chứng có lợi cho Trung Quốc, trong tổng số 206 bản đồ của nước ngoài chỉ có 9 bản đồ có đánh dấu đường 9 đoạn (trong sách viết là ‘đường biên giới quốc gia’), bao gồm Tập bản đồ thế giới tiêu chuẩn Nhật Bản,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tập bản đồ thế giới của Đông Đức (bản giản lược),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tập đại bản đồ thế giới Haack của Đông Đức,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tập bản đồ thế giới mới nhất của Đông Đức,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tập bản đồ dùng cho gia đình Haack của Đông Đức,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phụ lục bản đồ Bách khoa toàn thư của Liên Xô,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bản đồ treo tường “châu Á” của Hungary,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tập bản đồ hiện đại Larousse của Pháp,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và Tập bản đồ thế giới mới của Nhật Bản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong đó, mấy bản đồ của Đông Đức xuất bản có cùng một người biên tập và của cùng một nhà xuất bản, từ góc độ thống kê học, chúng cần được loại ra, nhưng ở đây không nghiên cứu sâu. Xem xét đến việc “Sử liệu vị biên” chỉ thu thập những bằng chứng có lợi cho Trung Quốc, nếu như tính thêm các bản đồ bất lợi cho Trung Quốc, thì tỉ lệ bản đồ có vẽ đường 9 đoạn chiếm sẽ càng thấp hơn. Có thể thấy, đường 9 đoạn không hề được biết đến rộng rãi trước những năm 1970.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">IV.14 Kết luận: Sự cát cứ thời Chiến tranh lạnh</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng với sự thất bại của Quốc Dân đảng, đã xuất hiện tình trạng chân không quyền lực trong thời gian ngắn ở các đảo ở biển Đông. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” để ngỏ chủ quyền các đảo ở biển Đông. Cho đến năm 1956, thái độ của các bên liên quan đối với chủ quyền các đảo có xu hướng rõ ràng: Anh và Pháp trên thực tế đã rút khỏi tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông, còn chính quyền Bắc Kinh và Đài Bắc, Nam Việt đều xác định rõ yêu sách chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa; về vấn đề Trường Sa thì có thêm Philippines. Bắc Việt công nhận yêu sách của Bắc Kinh vào lúc đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ là nước có quyền lực vượt trội duy nhất ở biển Đông nhưng giữ trung lập đối với vấn đề lãnh thổ các đảo ở biển Đông. Một mặt, thái độ này đã khuyến khích việc tranh giành giữa các nước đồng minh xung quanh biển Đông (Đài Loan, Nam Việt và Philippines), mặt khác cũng ngăn chặn sự mất kiểm soát trong tranh chấp giữa họ, ảnh hưởng đến đại cục “chống cộng”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đài Loan cố gắng duy trì quyền kiểm soát Trường Sa, nhưng không đủ sức với tới Hoàng Sa. Hoàng Sa trở thành tuyến đầu trong cuộc đối đầu giữa Nam Việt và Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu những năm 1970 có ba sự kiện lớn làm thay đổi tình hình biển Đông. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> việc phát hiện dầu mỏ ở biển Đông là nhân tố kinh tế đưa đến sức thu hút hơn cho cuộc tranh đoạt các đảo biển Đông. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bắc Kinh thay thế vị trí của Đài Loan tại Liên Hợp Quốc, đấu tranh ngoại giao của hai chính phủ Trung Quốc trong thời gian này đã tạo cơ hội cho các nước Philippines, Malaysia có thể chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa mà không gặp sự cản trở của Trung Quốc. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ thân thiện với Trung Quốc, rút khỏi Chiến tranh Việt Nam và quyết định bỏ rơi Nam Việt, tạo cơ hội cho Trung Quốc bành trướng ở Trường Sa. Đây là nguyên nhân quan trọng để Trung Quốc đánh bại Nam Việt trong Hải chiến Hoàng Sa năm 1974.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sau đó Việt Nam thống nhất, đối đầu Trung-Việt trở thành tiêu điểm của vấn đề biển Đông. Trong Chiến tranh Trung-Việt 1979 và chiến tranh biên giới kéo dài sau đó, Liên Xô đều đứng về phía Việt Nam. Liên Xô thuê Vịnh Cam Ranh, hình thành thế lực đối đầu với Mĩ ở biển Đông. Giữa những năm 1980, Trung Quốc quyết tâm bành trướng xuống Trường Sa, nhưng khi đó các đảo tương đối lớn đã bị các nước khác chiếm đóng. Khi Mĩ, Xô rình rập nhau, Trung Quốc không có cách nào trực tiếp chiếm đoạt đảo, đành phải hướng tầm mắt đến các đảo đá không người mà các nước khác khó chiếm đóng. Cuối cùng, thông qua Hải chiến Gạc Ma, Trung Quốc đã chiếm đóng đá Chữ Thập cùng các đảo đá khác, từ đó đặt chân xuống Trường Sa. Hải chiến Gạc Ma là cuộc chiến tranh nóng cuối cùng ở biển Đông. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, tranh chấp các đảo ở biển Đông bước vào thời kì mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đương nhiên, những năm 1970-80, tranh chấp biển Đông không còn giới hạn ở Trung Quốc và Việt Nam, mà giữa Việt Nam-Malaysia, Philippines-Malaysia, Philippines-Việt Nam thậm chí Malaysia-Brunei cũng đều có mâu thuẫn ở biển Đông. Vào thời điểm năm 1979, Philippines tuyên bố quần đảo Kalayaan thuộc nước này, Malaysia công bố bản đồ năm 1979, đều gây ra sự căng thẳng trong quan hệ giữa các nước. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa họ đều không leo thang thành xung đột vũ trang, vả lại họ đều có mong muốn dùng phương thức hòa bình giải quyết vấn đề.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời kì này, không có thái độ được thế giới chấp nhận chung đối với chủ quyền của các đảo ở biển Đông, và hơn nữa do các bên đều đã đưa ra yêu sách chủ quyền nên việc đơn thuần chiếm đóng không thể xác định chủ quyền (mặc dù có lợi thế hơn đôi chút). Từ luật quốc tế, chủ quyền của các đảo ở biển Đông luôn bị tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">-------------</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">* Đọc bản dịch có chú thích <a href="https://docs.google.com/document/d/1nh-RDu19SZ_Q3hk57mW7MI2u8BGyppRAiuQwRcVqFwo/edit?usp=sharing" target="_blank">ở </a>đây. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: justify; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="font-size: 12pt; text-align: justify; text-decoration-line: none; white-space: pre-wrap;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></p></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-75490660675498592212023-03-10T16:56:00.009-08:002023-05-11T01:06:05.619-07:00 BIỂN ĐÔNG TRƯỚC VÀ SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI (1937-1952) - Lê Oa Đằng (Ch. III)<p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-3b6ae372-7fff-f4b6-ac19-8a229cc61008" style="font-family: verdana;"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG III</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">BIỂN ĐÔNG TRƯỚC VÀ SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI (1937-1952)</span></h1><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.1. Pháp và Nhật Bản kiểm soát các đảo ở biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước khi Nhật Bản phát động chiến tranh toàn diện với Trung Quốc, các nước Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc... đều cảm thấy lo lắng trước sự hiện diện của Nhật Bản ở biển Đông. Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa), Pratas (TQ gọi là Đông Sa) và Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa) đều được Nhật Bản xem là bàn đạp tiềm năng để tấn công Đông Nam Á. Ngày 26/4/1937, có ngư dân Hải Nam báo cáo với chính quyền Quỳnh Nhai, Quảng Đông, gần Hoàng Sa có tàu chiến và tàu cá Nhật Bản xuất hiện, và dường như trên đảo có mở một sân bay.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc cảm thấy rất căng thẳng, trước áp lực Pháp có thể phản đối, đã giao phía Hải Nam tiến hành điều tra kín đáo, kĩ lưỡng càng sớm càng tốt. Văn phòng Chủ nhiệm bình định Quảng Đông lập Tổ điều tra đặc phái phụ trách việc này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ ngày 20 đến ngày 24/6, Tổ điều tra bí mật đến Hoàng Sa thăm dò mới biết điều này không đúng. Nhưng cũng theo lời kể của ngư dân, họ biết được Nhật Bản đã chiếm đóng “đảo Hoàng Sơn” (báo cáo này giải thích tên này chỉ đảo Loại Ta, nhưng hình như phải chỉ đảo Ba Bình) ở Trường Sa rồi. Nhân viên điều tra còn dựng bia ở Hoàng Sa, tổng cộng dựng 13 tấm bia trên các đảo: đảo Phú Lâm 3 tấm, đảo Đá 1 tấm, đảo Linh Châu 3 tấm và đảo Bắc 6 tấm. Điều kì lạ hơn là trên những tấm bia đá này lại ghi năm dựng bia khác nhau, trong đó có 3 bia viết “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thị sát kỉ niệm năm Quang Tự thứ 28 lập</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, 6 bia viết “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thị sát kỉ niệm Đại Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất lập</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, 3 bia viết “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thị sát kỉ niệm Đại Trung Hoa Dân quốc năm thứ 10 lập</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cách làm kiểu như vậy rất dễ khiến người đời sau hiểu nhầm những bia đá này được khắc vào năm ghi trên bia, động cơ không rõ ràng. Cuối cùng, báo cáo cho rằng Trung Quốc cần phải nhanh chóng đóng quân ở Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ủy ban quân sự chính phủ Quốc dân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và chính quyền tỉnh Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đều đồng ý cần phải tăng cường xây dựng ở Hoàng Sa, đề nghị Quảng Đông phái cảnh sát đến đóng cũng như xây dựng trạm quan trắc thiên văn vốn thương thảo đã lâu, thậm chí muốn đề nghị xây dựng công trình sinh hoạt mà cảnh sát cần. Nhưng những kiến nghị này vẫn chỉ dừng lại trên giấy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai nước Trung, Anh vốn đàm phán cùng nhau xây dựng một căn cứ quân sự ở Hoàng Sa để chống lại thế lực của Nhật Bản, nhưng cuối cùng không được thực hiện. Pháp sau đó quyết định tự mình tăng cường phòng ngự Hoàng Sa. Tháng 2/1937, Pháp phái tàu chiến đến khảo sát Hoàng Sa, chuẩn bị xây dựng ở Hoàng Sa công sự phòng thủ. Tuy nhiên, kế hoạch này vẫn chưa thực hiện, sự biến 7/7 nổ ra, chiến tranh toàn diện Trung-Nhật bùng nổ. Sau đó, dã tâm của Nhật Bản đối với các đảo biển Đông càng ngày càng lớn. Tháng 9/1937, quân Nhật chiếm đóng Đông Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hai nước Anh, Pháp càng lo lắng hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 2/7/1937, trinh sát Anh phát hiện có nhân viên Nhật Bản hoạt động ở đảo Thái Bình (Ba Bình). Hóa ra, thời gian từ năm 1935 đến năm 1938, hằng năm Nhật Bản đều tuần tra ở những đảo này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Công ty khai thác biển Hưng Nghiệp Nhật Bản lại bắt đầu quay trở lại đảo Ba Bình khai thác vào tháng 12/1936.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn Pháp vẫn không phái quân đóng giữ. Việc này được công khai trên truyền thông vào tháng 4/1938, đúng vào lúc Thủ tướng Pháp Edouard Daladier thăm Anh. Khi được truyền thông hỏi về việc này ông lại nói không biết người Nhật Bản trên đảo là ngư dân hay là binh lính.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước Anh rất phẫn nộ, tự trách mình về việc liên tục giữ im lặng với công chúng về vấn đề chủ quyền Trường Sa, nước Pháp lại không gánh vác trách nhiệm ngăn cản Nhật Bản. Dưới áp lực của Anh, Pháp không thể không nhanh chóng triển khai lực lượng ở Trường Sa. Năm 1938, Pháp đưa ra phản dối với Nhật Bản vì trên đảo có “người Nhật Bản nhập cư bất hợp pháp”. Tháng 6 Pháp phái binh lính đến đóng ở đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình và xây dựng cơ sở quân sự đồng thời xây dựng một trạm khí tượng trên đảo Ba Bình, nhưng họ không hề xua đuổi người Nhật Bản trên đảo Ba Bình. Người Nhật thì mô tả các tàu của Pháp chỉ là tàu buôn (không thừa nhận là tàu quân sự), và bày tỏ sự phản đối việc người Pháp kéo cờ trên đảo Ba Bình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi đó hai bên cơ bản là “chung sống hòa bình” trên đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước năm 1938, Pháp không có nhân viên thường trú ở Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 6/1938, quân Nhật khi đang tiến hành hội chiến ở Vũ Hán đã tuyên bố sẽ chiếm đảo Hải Nam để cắt đứt tuyến cung ứng trên biển của Trung Quốc. Pháp không thể không tăng tốc kế hoạch đóng quân ở Hoàng Sa. Tháng 6, Pháp phái binh lính đến Hoàng Sa, danh nghĩa là “Đội bảo an An Nam” chống buôn lậu ở Hoàng Sa, đóng quân ở đảo Pattle (đảo San Hô, tức đảo Hoàng Sa) và đảo Phú Lâm, xây dựng trên đảo một hải đăng và trạm vô tuyến,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đồng thời xây dựng một trạm khí tượng trên các đảo. Ngày 15/6, Pháp tuyên bố sáp nhập quần đảo Paracel (Hoàng Sa) với tên gọi Délégation des Paracels (Ban quản hạt lâm thời Hoàng Sa) vào tỉnh Thừa Thiên thuộc Trung Kì, đảo San Hô là trung tâm hành chính.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cho đến lúc đó, nước Pháp đã hoàn thành việc chiếm đóng thực tế Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao Trung Quốc điện rất nhanh ra lệnh đại sứ tại Pháp là Cố Duy Quân đưa ra phản đối với Pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phía Pháp biện giải rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hành động này thuần túy là bảo vệ an ninh cho Việt Nam và và các tuyến đường biển đi qua Việt Nam chứ không hề ảnh hưởng đến lập trường của hai nước Trung Quốc và Pháp, vấn đề căn bản về chủ quyền của quần đảo này vẫn đợi giải quyết dựa theo pháp luật trong tương lai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cố Duy Quân sau khi được phía Pháp hứa hẹn không liên quan tới lập trường chủ quyền cũng cho rằng nếu làm như vậy có thể khiến Trung, Anh, Pháp cùng nhau chống lại Nhật Bản không phải là không được, do đó đánh điện yêu cầu Bộ Ngoại giao cân nhắc liệu nên phản đối nghiêm khắc hay là nhắc lại lập trường bảo lưu tất cả quyền lợi sau này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, tòa Tổng lãnh sự Trung Quốc ở Hà Nội cũng gửi điện cho Bộ Ngoại giao, nói giúp phía Pháp, cho rằng hành động này “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chẳng qua bày tỏ sự kiên quyết với người Nhật</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“tính đến thời buổi nước ta đang nhiều việc, ngoài phản đối suông ra thực sự không có cách nào khác, thay vì phản đối không hiệu quả và làm tổn hại tình cảm, tốt hơn nên ngầm thỏa thuận cùng hợp tác, thời gian này việc quan trọng nhất là trao đổi điều kiện để thuận lợi việc vận chuyển đi lại</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, vào ngày 9/7 Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi điện cho Đại sứ quán tại Pháp ra lệnh tạm hoãn đưa ra bất cứ bày tỏ nào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 13/7 Bộ lại gửi chỉ thị: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía ta nên có biểu thị tương ứng, nhưng chỉ cần dùng một phát biểu ngắn gọn rằng chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền quần đảo này thuộc về Trung Quốc, và trước hết chính phủ Trung Quốc bảo lưu tất cả quyền lợi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">...”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vào ngày 18 Cố Duy Quân đã thông báo cho phía Pháp lập trường của Trung Quốc và nhận được trả lời miệng của Vụ châu Á, Bộ Ngoại giao Pháp, rằng có thể yên tâm về vấn đề chủ quyền, sẽ được giải quyết một cách hữu nghị sau này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chỉ như vậy, Pháp đã đạt được đồng thuận ngầm với Trung Quốc, chính thức tiến vào chiếm giữ Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với việc này, Nhật Bản trái lại đứng trên lập trường ủng hộ Trung Quốc, phản đối sự chiếm đóng của Pháp, lí do đương nhiên là không mong muốn Pháp xây dựng sức mạnh ở Hoàng Sa mà ảnh hưởng chiến lược biển Đông của Nhật Bản. Ngày 4/7 người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nhật Bản khi nhắc đến việc 20, 30 lính bảo an An Nam có vũ trang đổ bộ lên Hoàng Sa đã nói: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi đang quan tâm đến sự phát triển của tình hình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Ông ta tuyên bố một số công dân Nhật Bản cư trú ở “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoàng Sa nơi chúng tôi thừa nhận thuộc lãnh thổ Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Báo chí Trung Quốc cũng đưa tin: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hôm qua (ngày 4/7) người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên bố: ‘Nhật Bản phản đối nước thứ 3 chiếm đóng các đảo (quần đảo Tây Sa) thuộc Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoặc làm bất cứ điều gì ảnh hưởng đến quyền lợi trên các đảo này’ </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7/7, Thứ trưởng Ngoại giao Nhật gặp Đại sứ Pháp tại Nhật đưa thư phản đối, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói chung khi chiến sự Trung Nhật mới nổ ra, phía Pháp từng nói sẽ không có bất cứ hành động nào ở các đảo nằm trong vùng tranh chấp Trung- Pháp, phía Nhật rất lấy làm tiếc về việc Pháp vi phạm thỏa thuận ngầm trên, nhất là khi các đảo này nằm trong khu vực phong tỏa của Nhật</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thái độ của Nhật Bản cũng được ghi trong các tài liệu ngoại giao của Mĩ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phía Pháp nhấn mạnh rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo này là lãnh thổ An Nam, tuy có tranh chấp với phía Trung Quốc nhưng không có liên quan gì đến Nhật, quyết không để nước thứ ba nào can thiệp vào</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, Nhật Bản cũng trở nên hòa hoãn, nói rằng họ chỉ yêu cầu duy trì quyền của tàu cá Nhật đến đảo đánh cá.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, việc Pháp chiếm đóng Hoàng Sa tạm thời lắng dịu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản quyết tâm tiến một bước tranh đoạt các đảo biển Đông. Tuy nhiên,về tình trạng của Trường Sa và Hoàng Sa trong thời chiến, cách nói của các bên không thống nhất. Tài liệu phía Trung Quốc nói: ngày 1/3/1939, quân Nhật xua đuổi quân Pháp đang chiếm đóng khỏi Tây Sa, ngày 31 cùng tháng Nhật Bản chiếm đóng Nam Sa và ngày 9/4 gọi chung Đông Sa, Tây Sa và Nam Sa là quần đảo Tân Nam, thuộc Đài Loan, do huyện Cao Hùng quản lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thế nhưng theo Việt Nam thì Pháp duy trì sự quản lí Hoàng Sa liên tục đến tháng 3 năm 1945. Điều gì đã thực sự xảy ra?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo nghiên cứu của học giả Thụy Điển Tonnesson, trước khi Pháp đưa quân đóng ở Hoàng Sa, Nhật Bản đã phái binh lính đến đóng trên đảo Phú Lâm vào tháng 1/1938, đóng quân ở đảo Pratas vào tháng 4. Nhưng khi quân Pháp đến, quân Nhật không hề tiến hành bất cứ hành động thù địch nào, thậm chí không ngăn cản quân Pháp đổ bộ lên đảo Phú Lâm và treo cờ, chỉ sau khi cờ Pháp được kéo lên thì họ tuyên bố với Pháp rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản đã chiếm đóng Hoàng Sa 60 năm rồi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng tuyên bố này sai. Theo Tổng kiểm soát dân đoàn (Inspecteur Principal de la Garde indigène) được phái đến đóng ở Hoàng Sa là Edmond Grethen, khi đó họ đi tàu tuần tra hải quan đến Hoàng Sa, chỉ đóng quân trên đảo San Hô (Pattle) và đảo Phú Lâm (Boisé). 20 dân binh Việt Nam ở lại trên đảo San Hô (Hoàng Sa), 25 người ở lại trên đảo Phú Lâm. Khi đó trên đảo Phú Lâm còn có người Nhật nhưng không phải là binh lính mà là công nhân công xưởng phốt phát. Công xưởng này được xây dựng đã mấy chục năm, trước đó sử dụng công nhân Đài Loan, nhưng sau đó người Đài Loan sợ vất vả không muốn làm việc, vì thế phía Nhật Bản chuyển sang sử dụng người Việt Nam. Khi lính Việt Nam đổ bộ lên, có khoảng 150 công nhân Việt Nam. Người Nhật Bản không hề chống lại đội bảo an Việt Nam đổ bộ lên đảo, đội bảo an cũng không xua đuổi người Nhật Bản đi. Hai bên chung sống hòa bình trên đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, có lẽ không phải quân Nhật đóng giữ trên đảo Phú Lâm vào lúc đó mà là nhà khai thác Nhật Bản (nói chung có vũ khí) đã quay trở lại đảo Phú Lâm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/2/1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, Hải quân Pháp ở Đông Dương bị suy yếu do binh lực bị điều đi Djibouti ở châu Phi, nên chỉ có thể phản đối (phía Pháp cho rằng hành động này đã vi phạm hiệp định giữa hai bên năm 1907 về việc không được đơn phương chiếm đóng đảo Hải Nam) mà không có cách nào có hành động thực chất.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vào cuối tháng 3, quân Nhật thừa cơ tiến xuống phía nam, đóng quân ở Hoàng Sa. Nhưng hành động của Nhật Bản ở Hoàng Sa khó thể gọi là chiếm đóng. Ở Hoàng Sa, Pháp và Nhật chung sống hòa bình, Pháp đóng quân ở đảo San Hô và đảo Phú Lâm, quân Nhật chủ yếu đóng ở đảo Phú Lâm, hai bên không hề xảy ra xung đột. Khi đó, phía Pháp đại khái là bên quản lí hành chính thực tế, Nhật thì tựa như sống nhờ trên quần đảo Hoàng Sa. Ngày 5/5/1939, Pháp ban hành nghị định số 3282, chia Hoàng Sa thành hai khu vực hành chính là khu Lưỡi Liềm ở phía Đông (Délégation de l’Amphitrite et Dépendance) phía Đông và khu Trăng Khuyết ở phía Tây (Délégation du Croissant et Dépendance).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 6 cùng năm đô đốc Hải quân Pháp Jean Decoux (một năm sau trở thành Toàn quyền Đông Dương) lấy lí do tuần tra lãnh thổ để thăm quần đảo Hoàng Sa, Nhật Bản cũng không phản đối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguyên nhân của điều này là Nhật không muốn gây chiến với Pháp vào đầu Thế chiến II. Ngay cả khi đồng minh của Nhật là nước Đức tuyên chiến với Pháp, Nhật Bản vẫn duy trì sự trung lập. Tháng 6/1940, Pháp bị Đức đánh bại, phải kí hiệp ước đình chiến, trên phần lãnh thổ chưa bị chiếm đóng thành lập chính phủ Vichy (Régime Vichy). Chính phủ Vichy kiểm soát phần lớn thuộc địa của Pháp, trong đó có Đông Dương thuộc Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do chính phủ Vichy là con rối của Đức, sự thù địch giữa Đông Dương thuộc Pháp dưới quyền chính phủ Vichy và Nhật Bản tan biến. Đông Dương thuộc Pháp có một tuyến đường sắt nối Hải Phòng với Vân Nam, là tuyến đường sắt cuối cùng nối Trung Quốc với thế giới bên ngoài. Nhật Bản gây áp lực với Pháp yêu cầu đóng cửa đường sắt. Dù chính quyền Vichy có lập trường thân các nước phe Trục, nhưng trên danh nghĩa vẫn duy trì tính trung lập, nên ban đầu chính quyền Đông Dương không đáp ứng yêu cầu của Nhật Bản. Nhưng trước mối đe dọa xâm lược của quân đội Nhật, chính quyền Vichy cuối cùng quyết định hợp tác với Nhật. Ngày 22/9, hai nước kí hiệp định cho phép Nhật phái một số quân nhỏ tiến vào đóng ở Đông Dương. Từ đó, Đông Dương thuộc Pháp trở thành đồng minh của phe Trục. Cho đến trước năm 1945, Nhật Bản và Đông Dương cơ bản duy trì quan hệ sống chung hòa bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình trạng hòa bình Nhật và Pháp cũng được thể hiện ở Hoàng Sa và Trường Sa. Ở Hoàng Sa, không xảy ra xung đột quân sự giữa Nhật và Pháp. Vì vậy, trong thời gian từ năm 1938 đến năm 1945, Pháp và Nhật đều đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa, thậm chí trên đảo Phú Lâm nhỏ bé có quân đội hai bên đóng đồng thời. Về mặt hình thức, Pháp là bên quản lí. Ngày 17/5/1941, phía Pháp còn ban hành văn kiện, tiếp tục ủy nhiệm Mohamed Hay Mohsine quản lí quần đảo Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tường thuật của Trung Quốc rằng quân Nhật xua đuổi quân Pháp ra khỏi Hoàng Sa vào năm 1938 là không chính xác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Trường Sa, Nhật Bản áp dụng sách lược hoàn toàn khác. Dù từ năm 1938 quân Pháp đã trú đóng ở đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình nhưng vào ngày 7/1/1939 quân Nhật vẫn tiến vào chiếm đóng Trường Sa, và không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Ngày 30/3/1939, chính phủ Nhật thông qua “Quyết định quản lí hành chính quần đảo Tân Nam”, sáp nhập lãnh thổ quần đảo Tân Nam (Trường Sa) vào Đài Loan dưới sự quản lí của thành phố Cao Hùng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyết định này được công bố ra bên ngoài vào ngày 31/3.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng ngày, toàn quyền Đài Loan cũng ban bố hiệu lệnh số 31, xác định rõ sự quản lí của thành phố Cao Hùng với Tân Nam, hiệu lệnh 113 xác định rõ địa giới của Tân Nam, sử dụng phương pháp đường tọa độ khu vực mà Pháp bỏ không dùng năm 1933, khu vực nằm giữa kinh tuyến 111° E đến 117° E và vĩ tuyến 7° NN đến 12°N. Cáo thị số 122 của Toàn quyền Đài Loan cùng ngày xác định đảo chính của quần đảo Tân Nam gồm đảo Bắc Nhị Tử (Song Tử Đông), Nam Nhị Tử (Song Tử Tây), đảo Tây Thanh, đảo Tam Giác, đảo Trung Tiểu, đảo Quy Giáp, đảo Nam Dương, đảo Dài, đảo Bắc Tiểu, đảo Nam Tiểu, đảo Phi Điểu, đảo Tây Điểu, đảo Hoàn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với Pratas và Hoàng Sa thì Nhật Bản không có pháp lệnh như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pháp phản đối Nhật Bản và bắt đầu giao thiệp ngoại giao. Pháp lại lần nữa chỉ ra Nhật Bản vi phạm hiệp định song phương năm 1937, đề xuất điều kiện trao đổi là có thể lại không cho phép Trung Quốc sử dụng đường sắt Vân Nam vận chuyển vật tư. Nhưng Nhật Bản không nhượng bộ. Trên thực tế, mâu thuẫn giữa hải quân và lục quân Nhật Bản rất sâu sắc, Bộ Ngoại giao Nhật rất khó có thể điều phối một kế hoạch chiến lược thống nhất cho họ. Do đó, điều kiện trao đổi của phía Pháp đưa ra chẳng khác gì ‘leo cây tìm cá’.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, Nhật Bản đã xây dựng một loạt công trình, bến cảng và công sự trên quần đảo Trường Sa. Trong thời gian từ năm 1939 đến năm 1945, Nhật Bản kiểm soát thực tế quần đảo Trường Sa. Trên đảo Trường Sa Lớn và đảo Ba Bình tiếp tục có số lượng nhỏ quân Pháp đồn trú ở đó, chung sống hòa bình với quân Nhật. Nhưng trái ngược với quần đảo Hoàng Sa, quân Nhật là người quản lí trên thực tế, còn quân Pháp thì giống như ở nhờ. Quân đội Pháp, Nhật sống yên ổn với nhau ở Hoàng Sa và Trường Sa cho đến tháng 3/1945.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới góc độ pháp luật của Nhật Bản: Đông Sa (Pratas) là lãnh thổ Trung Quốc mà Nhật chiếm, Hoàng Sa là lãnh thổ của Pháp hoặc lãnh thổ Trung Quốc còn Trường Sa là lãnh thổ Nhật Bản. Sự định vị khác nhau của Nhật Bản đối với Hoàng Sa và Trường Sa có liên quan đến nguồn gốc lịch sử và mức độ quan trọng chiến lược khác nhau của nước này đối với hai quần đảo này. Trường Sa là nơi Nhật Bản khai thác nhiều năm, được họ xem là lãnh thổ của mình và nó nằm trên con đường Nam tiến của Nhật, do đó rất được coi trọng. Hoàng Sa xưa nay không phải lãnh thổ của Nhật Bản, hơn nữa vị trí chiến lược cũng không quan trọng như vậy, đặc biệt là sau khi biển Đông trở thành ao nhà của Nhật Bản, vị trí chiến lược của nó giảm đi nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong 6 năm trước đó, nước Anh liên tục tranh cãi ngầm với nước Pháp về chủ quyền của Trường Sa, nhưng sau khi quân Nhật chiếm đóng Trường Sa thì có vẻ gần như ngay lập tức thừa nhận chủ quyền Trường Sa thuộc về Pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ cũng đưa ra phản đối với Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong điện văn của các nước khi đó, hai tên gọi là quần đảo Tân Nam (Sinnan Islands) và quần đảo Tư Phổ Lạp Đặc Lợi (斯普拉特 利: Sī pǔ lā tè lì / Spratly Islands) đều được sử dụng, nhưng phạm vi tương ứng thì hơi khác nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phạm vi của tên gọi Spratly Islands không giống với phạm vi quần đảo Đoàn Sa mà Trung Quốc chỉ ra khi đó cũng như quần đảo Nam Sa (Trường Sa) sau này. Vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Mĩ là Hamilton khi hội đàm với cố vấn ngoại giao Nhật Bản (Counselor of the Japanese Embassy) Yakichiro Suma có hỏi rằng quần đảo Tân nam có phải là tên gọi khác của quần đảo Spratly không? Yakichiro Suma phủ nhận, nói diện tích quần đảo Tân Nam lớn hơn quần đảo Spratly rất nhiều.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, trong bức điện Quốc hội Mĩ gửi Đại sứ quán Mĩ tại Nhật Bản miêu tả thế này:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Sinnan island composed small coral reefs which roughly lie between 7 degrees and 12 degrees north latitude and 111 degrees and 117 degrees east longitude. The Japanese names of the principal coral reefs of the Sinnan Islands are given, among which is included a group described as Spratly Islands.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Tân Nam bao gồm các rạn san hô nhỏ nằm trong khoảng từ 7° đến 12° vĩ bắc và 111° và 117° kinh đông. Tên tiếng Nhật của các rạn san hô chính của quần đảo Tân Nam được đưa ra, trong đó có một nhóm được gọi là quần đảo Trường Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong điện văn này, quần đảo Spratly là một bộ phận của quần đảo Tân Nam. Quần đảo Spratly ở đây có lẽ chỉ là tên gọi chung của 6 đảo nhỏ mà Pháp tuyên bố chủ quyền khi đó. Hơn nữa, bởi vì Nhật Bản dùng kinh vĩ độ để miêu tả phạm vi quần đảo Tân Nam, do đó ngoài 6 đảo nhỏ ở đây còn bao gồm các đảo khác trong phạm vi này. Tuy nhiên, phạm vi quần đảo Tân Nam chỉ giới hạn ở các đảo nằm từ 7</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đến 12</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vĩ Bắc, 111</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đến 117</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kinh Đông, không hề kéo dài đến bãi ngầm Tăng Mẫu ở 4</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">°</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vĩ Bắc, đều nhỏ hơn so với quần đảo Đoàn Sa hoặc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trong bức điện văn đó có nhắc đến việc nước Anh và Pháp cũng đưa ra yêu sách chủ quyền với quần đảo này, nhưng không hề nhắc đến việc Trung Quốc có yêu sách chủ quyền với Nam Sa (Trường Sa).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 8/1944, sau khi chính phủ Vichy sụp đổ, quan hệ giữa chính quyền Đông Dương và Nhật Bản dần trở nên căng thẳng. Tháng 3/1945, Nhật Bản trở mặt với chính quyền Đông Dương, phát động tấn công, lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Cùng thời gian, quân Nhật cũng đánh bại quân Pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa, chiếm lấy trọn vẹn hai quần đảo này. Bắt đầu từ thời gian này cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Nhật Bản kiểm soát thực tế các đảo biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong toàn bộ Thế chiến thứ hai, ngoài cái gọi là “đánh nhau” giữa quân Nhật và quân Pháp, tại Hoàng Sa lẫn tại quần đảo Trường Sa đều không hề xảy ra chiến sự. Tháng 1/1945, trong một bản báo cáo trinh sát bay của quân đội Mĩ có nêu: trên đường bay từ Philippines đến bờ biển Trung Quốc quan sát thấy trên đảo Phú Lâm (Woody Island) có người vẫy cờ Pháp, nghi rằng liệu đó có phải là chiến sĩ quân đồng minh gặp nạn ở đó sau khi ném bom Trung Quốc (quân Nhật) hay không, có cần phải cứu viện hay không. Để làm rõ tình hình thực tế trên đảo Hoàng Sa, Bộ tổng tư lệnh không quân Mĩ trên đảo Mindanao đặc phái phân đội Z của Australia (Z Unit) đến trinh sát đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa để xác định người trên đảo có phải là nhân viên thất lạc của quân Đồng minh hay không ? Là đồng minh quân Pháp? Hay là quỷ kế của người Nhật ? Ngày 4/2/1945, tàu ngầm hiệu Pargo của Mĩ chạy đến gần đảo Phú Lâm, hai người người nhái Australia đổ bộ lên đảo, phát hiện trên đảo có người phương Tây (có thể là người Pháp), và người Nhật, những người này có vẻ đang “trò chuyện vui vẻ với nhau”. Sau khi người nhái bí mật rút lui, tàu ngầm nổi lên mặt nước, tấn công các công trình trên đảo một lúc rồi rút đi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 8/3, máy bay Mĩ oanh tạc các trạm vô tuyến trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) và đảo San Hô (Hoàng Sa). Ngày 2/7, tàu ngầm Cabrilla của Mĩ lại đến đảo Phú Lâm trinh sát, phát hiện trên đảo vẫn có cờ Pháp và cờ Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các hoạt động quân sự ở Trường Sa cũng rất ít. Tháng 1/1945, tàu ngầm USS Bream của Mĩ đến gần đảo Ba Bình, cũng phái hai người nhái Australia lên đảo định đặt chất nổ nhưng hành động này thất bại. Vì vậy, ngày 1/5/1945, quân Đồng minh chuyển sang sử dụng bom xăng (napalm) oanh tạc đảo Ba Bình, máy bay ném bom B-25 oanh tạc 6 lần trong một tuần, quân Nhật chịu tổn thất nặng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những cuộc giao tranh này đều xảy ra vào thời kì cuối cuộc chiến tranh, không hại gì đến tình hình chung cuộc chiến. Điều này cũng chứng tỏ rằng cái gọi là ý nghĩa chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa đối với cuộc chiến đã bị thổi phồng một cách nghiêm trọng. Bất kể Nhật Bản tấn công hay là Đồng minh phản kích, vai trò của Hoàng Sa và Trường Sa trên chiến trường đều cực kì bé nhỏ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 8/1945, quân Mĩ đổ bộ lên đảo Ba Bình,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và kiểm soát quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham (Scarborough). Tháng 8/1945, quân Anh tiếp nhận đầu hàng của Hải quân Nam Dương Nhật Bản tại đảo Trường Sa Lớn. Vì vậy, trước khi chiến tranh kết thúc, quần đảo Trường Sa đã nằm trong tay quân Đồng minh, nhưng quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vẫn do quân Nhật chiếm đóng, không rõ họ rút khỏi Hoàng Sa khi nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thế chiến thứ hai Nhật Bản đã chiếm đóng hầu hết các quần đảo ở biển Đông, thế nhưng kiểu chiếm hữu này phải được xem là hành vi xâm chiếm trong chiến tranh, không cấu thành chủ quyền. Sau khi bại trận, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ các quần đảo ở biển Đông, rút hoàn toàn khỏi tranh chấp ở biển Đông, tranh chấp biển Đông bớt đi một bên tranh chấp quan trọng. Tuy nhiên, sự sắp đặt mơ hồ sau chiến tranh lại khiến sự quy thuộc các đảo biển Đông trở nên càng lộn xộn hơn.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.2. Liên hệ giữa “Tuyên bố Cairo” và các đảo biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thế chiến thứ hai, 4 nước lớn Mĩ, Anh, Xô, Trung muốn phối hợp với nhau về chiến lược nên có kế hoạch tổ chức hội nghị cấp cao của lãnh đạo 4 nước. Tuy nhiên, do năm 1941 Liên Xô và Nhật Bản đã kí kết “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Nhật-Xô</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có hiệu lực 5 năm, nên Stalin không muốn cùng tổ chức hội nghị với Tưởng Giới Thạch, cuối cùng 4 bên quyết định Mĩ, Anh, Trung họp tại Cairo trước, rồi Mĩ, Anh, Xô sẽ họp tại Tehran. Từ ngày 23 đến ngày 27/111943, tại Cairo 3 nước Mĩ, Anh, Trung đã đưa ra thông cáo báo chí gửi cho Nhật Bản. Trong hội nghị Tehran được tiến hành liền sau đó, Stalin bày tỏ sự tán đồng hoàn toàn với nội dung thông cáo này. Vì vậy, thông cáo chung đưa ra ngày 1/12 trở thành sự đồng thuận của 4 cường quốc đối với phía Nhật. Lúc đầu, thông cáo báo chí (Press Communiqué) này không có tiêu đề, trong bản văn cũng không có từ “tuyên bố” nhưng dần dần được gọi là “Tuyên bố Cairo”. Tuyên bố quy định:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">It is their purpose that Japan shall be stripped of all the island in the Pacific which she has seized or occupied since the beginning of the first World War in 1914, and that all the territories Japan has stolen from the Chinese, such as Manchuria, Formosa, and The Pescadores, shall be restored to the Republic of China. Japan will also be expelled from other territories which she has taken by violence and greed</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục tiêu là Nhật Bản phải bị tướt hết tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng đoạt hoặc chiếm đóng từ đầu thế chiến thứ nhất vào năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã cướp lấy của Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ phải được trao lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các vùng lãnh thổ mà nước này đã chiếm được bằng vũ lực và lòng tham</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong “Tuyên bố Cairo” không nhắc đến vấn đề các đảo biển Đông. Năm 1945, trong “Tuyên bố Potsdam” của 3 nước Mĩ, Anh, Trung có viết:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các điều khoản của ‘Tuyên bố Cairo’ sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật Bản được giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ do chúng tôi xác định</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Tuyên bố này đã tái khẳng định “Tuyên bố Cairo”, đồng thời hàm ý rằng quần đảo Trường Sa có thuộc Nhật Bản hay không phải do 3 nước quyết định, nhưng cũng không nhắc đến sự quy thuộc của nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả hai phía Trung Quốc lẫn Pháp (Việt Nam) đều đưa ra cách giải thích “Tuyên bố Cairo” theo hướng có lợi cho phía mình. Phía Trung Quốc cho rằng, Hoàng Sa và Trường Sa là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lãnh thổ mà Nhật Bản cướp lấy của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nên sau chiến tranh phải trả lại cho Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Học giả người Pháp Chemilier-Gendreau lại có cách diễn giải khác: Hoàng Sa và Trường Sa thuộc “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm đoạt bằng vũ lực hoặc lòng tham</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thứ nhất, trong hội nghị kéo dài nhiều ngày, Tưởng Giới Thạch không đề xuất vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa với các nước (có dính dáng trong vấn đề các đảo chỉ là quần đảo Ryukyu [Lưu Cầu]). Sau đó, Trung Quốc không đưa ra ý kiến bảo lưu, cũng không ra tuyên bố nào khác. Hai quần đảo này đã từng gây ra sóng gió trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc nên không có lí do gì khiến Tưởng Giới Thạch để xảy ra sơ suất như vậy. Bà cho rằng nước Pháp tuy không có đại biểu chính thức tham gia hội nghị, nhưng đại biểu của phong trào Pháp tự do (France libre) cũng ở Cairo, họ chủ trương nên đưa vụ việc ra Tòa trọng tài quốc tế. Bà cũng cho rằng, Trung Quốc khi đó không đưa ra quyết định về lập trường đối với hai quần đảo này; hoặc là trước áp lực của đồng minh Trung Quốc phải giữ im lặng vì đại cục của thế chiến thứ hai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, trong tuyên bố cuối cùng, Hoàng Sa và Trường Sa vừa không xuất hiện trong câu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lãnh thổ mà Nhật Bản cướp lấy của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cũng không xuất hiện trong câu “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm đoạt bằng vũ lực hoặc lòng tham</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Toàn bộ vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn để ngỏ cho những kết luận nhằm cân bằng những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Pháp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong Thế chiến thứ hai, các tài liệu thảo luận nội bộ về việc sắp xếp lãnh thổ sau chiến tranh của Bộ Ngoại giao Mĩ có thể cho thấy rằng Hội nghị Cairo không hề có bất cứ sắp đặt gì đối với các đảo biển Đông. Ví dụ tài liệu T-324 “Đảo Spratly và quần đảo khác (quần đảo Sinnan)” soạn thảo ngày 25/5/1943, thảo luận về các phương diện địa lí, cân nhắc chiến lược, lịch sử chiếm đóng của Nhật Bản, các nước tranh chấp khi đó, yêu sách lãnh thổ của Nhật Bản, Pháp và Trung Quốc cũng như thái độ của nước Mĩ đối với các quần đảo này...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi thảo luận về yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, tài liệu này chỉ dựa vào kháng nghị mà Đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp được lệnh gửi Bộ Ngoại giao Pháp vào năm 1933, ngoài ra không có chứng cứ nào khác. Từ phần II.7 có thể thấy rằng trên thực tế Đại sứ quán Trung Quốc không hề gửi kháng nghị này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thảo luận trong tài liệu cũng nói rằng cực Nam trong bản đồ của Trung Quốc xuất bản khi đó chỉ đến quần đảo Hoàng Sa, và cho rằng điều đó “đã làm suy yếu chứng lí của Trung Quốc”. Trong tài liệu không có đề cập đến việc “mở rộng biên giới trên bản đồ” năm 1935, chứng tỏ các nước khác không hề biết đến việc này hoặc biết nhưng không cho rằng nó có hiệu lực pháp lí. Ngoài ra, khi thảo luận lập trường của Mĩ, tài liệu chỉ ra: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Tân Nam (Sinnan) nằm ngoài ranh giới được hoạch định ngày 10/12/1898 của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tài liệu này thảo luận 5 lựa chọn cho quần đảo Tân Nam: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, để Nhật Bản giữ lại, điều này sẽ đưa đến “đe dọa nghiêm trọng”; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giao cho Trung Quốc; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giao cho Pháp hoặc Đông Dương; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, giao cho Philippines; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thành lập một tổ chức quốc tế để kiểm soát và quản lí. Căn cứ vào những thảo luận trên, tài liệu cho rằng nếu giao cho Trung Quốc thì thiếu chứng cứ có tính thực chất (China’s claim does not appear to have substantial foundation).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Hội nghị Cairo, vào ngày 19/12/1944, để chuẩn bị cho Hội nghị Yalta, Ủy ban phân khu Viễn Đông đã đề xuất tài liệu CAC-301 “đảo Spratly và quần đảo khác (quần đảo Sinnan)”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khu vực mà tài liệu này đề cập tới giống với tài liệu T-324 kể trên. Hai tài liệu đều cùng có câu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Sinnan nằm ngoài ranh giới của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, còn trước câu này thì tài liệu CAC-301 lại thêm câu: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ không phải nước tại chỗ (bản quốc), cũng không đề xuất yêu cầu chủ quyền đối với quần đảo cho Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Hơn nữa, tài liệu này cũng phủ định việc sau chiến tranh Nhật Bản có thể tiếp tục chiếm giữ quần đảo Trường Sa:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới sự kiểm soát của Nhật Bản, những quần đảo này là nguy hiểm đối với nước khác, nhưng nếu đã loại trừ Nhật Bản ra khỏi, chúng không hề có lợi ích có tính quyết định đối với các quốc gia và khu vực khác, dù về chiến lược hay về kinh tế. “Tuyên bố Cairo” đã chỉ ra</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rõ ràng rằng không chấp nhận Nhật Bản tiếp tục sở hữu những đảo này sau chiến tranh. Hình thái vật lí của các đảo, đảo nhỏ, bãi cát và bãi đá này đặt ra câu hỏi liệu chúng có thể được tuyên bố là lãnh thổ thuộc chủ quyền của một nước hay không. Nhưng các khu vực lân cận, Trung Quốc, Đông Dương và Philippines, cũng như tất cả những nước khác có đi lại ở biển Đông đều có quan hệ lợi ích đối với chúng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phân tích về chủ quyền liên quan tới Trung Quốc, về cơ bản tài liệu này thống nhất với tài liệu T-324, nhưng có thêm vào câu Trường Sa không hề có tầm quan trọng sống còn đối với lợi ích quốc phòng của Trung Quốc (They are in no way vital to Chinese interests of defense). Nhưng về phương án xử lí, từ 5 phương án ban đầu thay đổi thành 2 phương án: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có thể nghĩ tới việc thành lập một tổ chức quốc tế để quản lí quần đảo Sinnan, nhưng điều này chỉ có thể đạt được khi Pháp đồng ý từ bỏ chủ quyền đối với khu vực này; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trực tiếp giao cho Pháp. Không có phương án giao cho Trung Quốc và Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tài liệu CAC-308 “Quần đảo Paracels” ngày 14/12/1944 được chuẩn bị riêng cho quần đảo Hoàng Sa. Khi xem xét xung đột giữa các nước tranh chấp khi đó – Pháp và Trung Quốc, tài liệu này cho rằng Trung Quốc chiếm ưu thế về tính hợp pháp lịch sử. Cuối cùng, tài liệu CAC-308 đưa ra 3 kiến nghị: (1) Đặt dưới một tổ chức quốc tế: do tổ chức quốc tế được thiết lập để quản lí, nhưng phải sau khi được Trung Quốc và Pháp thừa nhận và từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa; (2) Hai bên thỏa thuận: Mĩ thúc đẩy Trung Quốc và Pháp đàm phán kí kết thỏa thuận song phương; (3) Trao cho Trung Quốc: nếu như Trung Quốc và Pháp không có cách gì đạt được thỏa thuận, thì Mĩ sẽ cần phải quyết định ủng hộ một bên nào đó, trừ phi Pháp có thể cung cấp chứng cứ năm 1816 Trung Quốc trao Hoàng Sa cho An Nam, nếu không yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa rõ ràng ưu thế hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở đây Hara phân tích rằng giao cho Pháp không phải là một lựa chọn. Từ các mục liệt kê ra ở trên có thể thấy đúng là như vậy, nhưng kết luận này được đưa ra là dựa trên chứng cứ mà Mĩ nắm được vào lúc đó, có một sai lầm nghiêm trọng trong chứng cứ đó, phía Mĩ cho rằng Trung Quốc trao Hoàng Sa cho An Nam thông qua phương thức chuyển nhượng vào năm 1816, nhưng luận điểm của Pháp cho rằng năm 1816 An Nam có được chủ quyền Hoàng Sa thông qua phương thức chiếm hữu trước chứ không phải qua chuyển nhượng. Mĩ rõ ràng hiểu sai về điều này. Ấn tượng sai lầm này từ trước chiến tranh vẫn còn lưu trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Mĩ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/1945, để chuẩn bị cho Hội nghị Potsdam, trong tài liệu số 606, Mĩ đã nêu ra điều khoản có liên quan của “Tuyên bố Cairo”, phân tích cụ thể khả năng chấp nhận của Liên Xô đối với từng khoản (do Liên Xô không tham gia Hội nghị Cairo).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tài liệu này chia lãnh thổ được nêu trong “Tuyên bố Cairo” thành 5 loại: (1) Mãn Châu; (2) Đài Loan và quần đảo Bành Hồ; (3) Triều Tiên; (4) Các đảo ở Thái Bình Dương do Nhật Bản chiếm lấy sau năm 1914, bao gồm đảo do Hội Quốc liên ủy trị (Japanese Mandated Islands) và quần đảo Trường Sa (Spratly Islands); (5) Các lãnh thổ khác giành được bằng bạo lực và lòng tham. Quần đảo Trường Sa được xác định rõ thuộc vào loại “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng đoạt hoặc chiếm đóng từ đầu thế chiến thứ nhất vào năm 1914”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Tài liệu còn chỉ ra rằng phương thức xử lí các đảo này không được quy định trong “Tuyên bố Cairo” (The Declaration makes no provision as to their disposition).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tài liệu 1192-PR-41, 42 và 43 ngày 13/2/1946 có phần thảo luận về việc xử trí vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Kết luận của vấn đề Hoàng Sa là nếu như Trung Quốc, Pháp và các nước yêu sách chủ quyền khác thông qua đàm phán không đạt được thỏa thuận, Mĩ sẽ nghiêng theo hướng giao vấn đề này cho tòa trọng tài quốc tế, đồng thời Mĩ hy vọng rằng các nước có tranh chấp liên quan có thể thành lập các cơ quan quốc tế đặc biệt ở Hoàng Sa để quản lí Hoàng Sa, nhằm ngăn chặn các nguy cơ hàng hải ở vùng biển Hoàng Sa (1192-PR-42).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kết luận về vấn đề Trường Sa là: (1) Nhật Bản phải từ bỏ Trường Sa; (2) Nếu như các nước tuyên bố chủ quyền không có cách nào đạt được thỏa thuận thông qua đàm phán, Mĩ sẽ nghiêng về hướng đưa vấn đề này giao cho tòa trọng tài quốc tế; (3) Mĩ hy vọng nước tranh chấp có liên quan có thể xây dựng ở Trường Sa cơ quan đặc biệt để quản lí Trường Sa để ngăn chặn các nguy cơ hàng hải ở vùng biển Trường Sa (1192-PR-43).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tài liệu SWNCC 59/1 ngày 24/6/1946 đã thảo luận một lần nữa các sắp xếp có thể có của Trường Sa. Tài liệu này cho rằng việc giao Trường Sa cho một tổ chức quốc tế sẽ có vấn đề về pháp luật, tức là cần phải được sự đồng ý của các nước có yêu sách chủ quyền, và Pháp khẳng định không đồng ý làm như vậy. Vì vậy, báo cáo kiến nghị chỉ để Nhật Bản từ bỏ những lãnh thổ này là được.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chú ý rằng tài liệu này không đề cập đến phản ứng có thể có của Trung Quốc, điều này một lần nữa cho thấy trong cái nhìn của Mĩ, Trung Quốc không phải là một quốc gia có căn cứ vững chắc để yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, cũng không có lợi ích quan trọng ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những tài liệu nội bộ của Mĩ này cho thấy rằng tại Hội nghị Cairo về cơ bản không có kết luận và sắp xếp nào được đưa ra trực tiếp hoặc gián tiếp về tình trạng của Trường Sa và Hoàng Sa, điều duy nhất có thể khẳng định chỉ là Nhật Bản phải từ bỏ những vùng đất này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn tổng quát về tình trạng pháp lí các đảo biển Đông trong thế chiến thứ hai, Pratas (Đông Sa), Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không giống nhau. Đông Sa là lãnh thổ của Trung Quốc được quốc tế thừa nhận rộng rãi, bị Nhật Bản chiếm đóng trong thời chiến tranh. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Trung Quốc có quyền thu hồi, điều này không hề có ý kiến khác nhau. Hoàng Sa trước chiến tranh là quần đảo tranh chấp giữa hai nước Trung Quốc và Pháp, quốc tế chưa có kết luận rõ ràng. Trong chiến tranh mặc dù Nhật Bản chiếm đóng trong thời gian ngắn nhưng không hề tuyên bố sáp nhập. Vì vậy, sau khi Nhật Bản rút khỏi Hoàng Sa, tình trạng trước chiến tranh cần phải khôi phục lại để hai nước Trung Quốc và Pháp giải quyết sau. Còn Trường Sa trước chiến tranh là đảo tranh chấp giữa hai nước Nhật và Pháp, còn Trung Quốc chỉ là nước đưa ra yêu sách rất không rõ ràng, và trong thời chiến Nhật Bản đã sáp nhập Trường Sa vào Đài Loan, điều này khiến tình trạng của Trường Sa cũng có khả năng được xem là một bộ phận thuộc Đài Loan mà “trả lại” Trung Quốc. Tình trạng pháp lí của Trường Sa phức tạp hơn so với Hoàng Sa và Đông Sa.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.3. Trung Quốc “tiếp thu” các đảo ở biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 14/8/1945, Đồng minh tuyên bố Nhật Bản chính thức đầu hàng và trong cùng ngày ban bố “Lệnh bình thường số 1”, công bố 5 khu vực tiếp nhận đầu hàng. Trong đó khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16° N của Đông Dương do Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng, khu vực phía Nam vĩ tuyến 16° N do Tổng chỉ huy chiến khu Đông Nam Á (Anh) và tư lệnh Australia tiếp nhận đầu hàng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo sắp xếp tiếp nhận đầu hàng này, Hoàng Sa nằm ở 15° đến 17° vĩ bắc, miễn cưỡng có thể tính là nằm trong phạm vi tiếp nhận đầu hàng của Trung Quốc, còn Trường Sa nằm trong khu vực tiếp nhận đầu hàng của Anh và Australia. Thực ra, trước đó rất sớm, việc tiếp nhận đầu hàng của Trường Sa đã được tiến hành rồi: ngày 10/8/1945, tại đảo Spratly (Trường Sa Lớn) Hải quân Anh chính thức tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản; ngày 21/11/ 1945, ba chiếc tàu chiến Mĩ đến đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa) thực hiện xử lí quân chiếm đóng Nhật Bản trên đảo này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn Hoàng Sa không hề có trình tự tiếp nhận đầu hàng chính thức, quân Nhật tự động rút lui khỏi Hoàng Sa về đảo Hải Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần phải chỉ ra là: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tiếp nhận đầu hàng không phải có nghĩa là quy thuộc chủ quyền, ví dụ như Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng ở miền Bắc Việt Nam, sau đó trao lại cho Pháp; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ở Hoàng Sa không có một nghi thức tiếp nhận đầu hàng, bất kể người Pháp hay là người Trung Quốc khi quay lại Hoàng Sa vào năm 1946, đều không có lính Nhật nào trên đảo, vì vậy lấy việc tiếp nhận đầu hàng làm lí do để đến Hoàng Sa là không đứng vững; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nghi thức tiếp nhận đầu hàng ở Trường Sa đã được quân đội Anh hoàn thành vào ngày 10/8 trước khi Thế chiến II kết thúc, vì vậy cái gọi là “tiếp nhận đầu hàng” ở Trường Sa năm 1946 của Trung Quốc là không tồn tại. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc tiếp nhận đầu hàng cùng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam có quan hệ hết sức quan trọng đối với sự phát triển của tình hình Hoàng Sa và Trường Sa sau đó, khi Pháp trở lại biển Đông sau chiến tranh, nước này luôn luôn lo lắng về thái độ của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau chiến tranh, việc quan trọng hàng đầu của Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ phía Nam là “thu hồi Đài Loan”. Ngay khi chiến tranh kết thúc, ngày 29/8 Tưởng Giới Thạch liền bổ nhiệm Trần Nghi làm trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan, ngày 1/9 tuyên bố thành lập “Văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan” và “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan” tại Trùng Khánh, đồng thời ủy nhiệm Trần Nghi kiêm nhiệm Tổng tư lệnh “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan”. Ngày 15/10, Quân đội chính phủ Quốc dân đổ bộ lên cảng Cơ Long. Ngày 25/10, Đài Loan tiến hành lễ tiếp nhận đầu hàng, văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan chính thức hoạt động, Trần Nghi tuyên bố Đài Loan và quần đảo Bành Hồ chính thức đưa vào bản đồ Trung Quốc trở lại, Đài Loan đã được thu hồi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với các đảo biển Đông bao gồm Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa, ban đầu Trung Quốc không hề để ý đến. Mãi đến ngày 19/4/1946, khi Trần Nghi gửi thư cho Bộ Ngoại giao thì mới gây sự chú ý của Trung Quốc đối với các đảo biển Đông. Hóa ra trong thời chiến các trạm khí tượng ở Trường Sa và Hoàng Sa đều do đài khí tượng của Đài Loan quản lí. Sau chiến tranh, 5 nhân viên công tác đài khí tượng do Toàn quyền Đài Loan phái đến đảo Hoàng Sa đã mất tích 2 năm. Trại tù binh San Francisco ở Mĩ gửi thư cho phía Đài Loan, cho biết hai người trong số đó đã được quân Mĩ cứu, nhưng vẫn còn 3 người không rõ tung tích, mong phía Đài Loan giúp đỡ tìm kiếm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, họ tra cứu các ghi chép, vào ngày 8/12/1945, đài khí tượng Đài Loan phái một tàu cứu hộ đến Hoàng Sa tìm kiếm, phát hiện Hoàng Sa không có một bóng người, phần lớn thiết bị đã bị phá hủy, phỏng đoán 3 người còn lại có thể theo người Pháp rút về Việt Nam. Lúc này, trong thư gửi cho trung ương, Trần Nghi mới đề xuất: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc lãnh thổ nước ta, nên để tỉnh chúng tôi hay tỉnh Quảng Đông tiếp thu?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng ngày, Trần Nghi lại gửi thư cho Viện Hành chính đề xuất: (1) Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc, có nên để Đài Loan tiếp thu hay không?; (2) Đông Sa gần Đài Loan, lại có ngư dân Đài Loan hoạt động, dự kiến để Đài Loan tiếp thu; (3) Quần đảo Tân Nam trong thời kì Nhật trị thuộc Cao Hùng quản lí, hiện đang tích cực chuẩn bị tiếp thu, xin chuyển điện cho Bộ Tổng tự lệnh quân đội Mĩ ở Philippines nhờ giúp đỡ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng để nhắc đến là trong “Tuyển tập sử liệu” do Đài Loan xuất bản có nhắc đến việc “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tháng 11 năm Dân quốc thứ 34 (1945), Cục Khí tượng thuộc Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan phái người đến tiếp thu trạm đo đạc khí hậu ở Hoàng Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, đồng thời đưa ra sử liệu: trong giấy thông hành do Tổng tư lệnh Cảnh vệ cấp phát ngày 20/11 có bản tiếng Trung và tiếng Anh, cho phép một tàu cứu hộ ra biển, thời gian có hiệu lực là từ ngày 20/11 đến ngày 30/12. Sau đó “Tuyển tập sử liệu” miêu tả vì “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đi lại khó khăn không thể đến nơi được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng “Tuyển tập lịch sử” lại cho thấy một bức ảnh của một hồ sơ được tạo ra vào năm Dân quốc thứ 63 (năm 1974), trong đó thấy có một tấm bia gỗ viết “Cục Khí tượng Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan đã tiếp thu xong”. Lời ghi chú bên cạnh bức ảnh chỉ rõ đây là “Bia kỉ niệm Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Tây Sa” tháng 11/1945.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “Tuyển tập sử liệu” không giải thích vì sao phía trước nói “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đi lại khó khăn không thể đến nơi được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, sau đó lại nói đến việc dựng bia kỉ niệm ở đó. Hơn nữa vì sao “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đi lại khó khăn không thể đến nơi được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” mà trong thư ngày 19/4/1946 Trần Nghi lại nói rằng ngày 8/12 ông có phái thuyền đến đó? Hiện vẫn không rõ. Rất có thể ngày 8/12 thực sự có “tàu cứu hộ” xuất phát đi Hoàng Sa, mục đích chuyến đi của Đài khí tượng là tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Hoàng Sa hay tìm kiếm nhân viên mất tích, hoặc có thể cả hai. Trên hai tấm giấy thông hành này đều có đóng dấu của Trần Nghi, nhưng không khẳng định ông có đích thân tham dự vào việc này hay không. Tuy nhiên, xét từ bức thư Trần Nghi gửi Viện Hành chính ngày 19/4/1946, việc đi đến Hoàng Sa tháng 12/1945 chắc chắn không thể được coi là hành động tiếp thu Hoàng Sa. Tóm lại, sự kiện năm 1945 này không làm ông chú ý, cũng không nghĩ đến việc “tiếp thu Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam” vào lúc đó, mãi đến khi nhận được thư của phía Mĩ năm 1946 ông mới đem ra bàn với Bộ Ngoại giao và Viện Hành chính.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua đó, các đảo biển Đông bị lãng quên nay mới trở lại tầm ngắm của chính phủ Trung Quốc. Viện Hành chính lập tức gửi thư cho Bộ Ngoại giao và Bộ Nội chính, yêu cầu nghiên cứu các công việc liên quan đến việc tiếp thu. Bộ Ngoại giao cho rằng Hoàng Sa là nơi tranh chấp giữa Trung quốc và Pháp trước chiến tranh, trong Thế chiến thứ hai, ban đầu bị Pháp chiếm đóng rồi bị Nhật chiếm lấy sau đó, nên để Trung Quốc tiếp thu, nhưng chọn để Quảng Đông hay Đài Loan tiếp thu thì do Bộ Nội chính định đoạt; Đông Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, xem như có thể do Đài Loan quản lí sau khi thu hồi; quần đảo Tân Nam thì “không thuộc phạm vi chuyên ngành của Bộ chúng tôi”, do đó trong trả lời không có nhắc đến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếp đó, Trung Quốc bắt đầu tích cực chuẩn bị việc tiếp thu. Đối với Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao bắt đầu chỉnh lí hồ sơ có liên quan đến Hoàng Sa để đề phòng phía Pháp có thể cản trở. Đối với quần đảo Tân Nam,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Ngoại giao chỉ thị tòa Lãnh sự ở Manila tìm đến quân Mĩ đóng ở Philippines để nhờ giúp đỡ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng quân Mĩ đóng ở Philippines cho rằng những đảo này không phải là khu vực quản lí của mình, muốn Trung Quốc đàm phán với Tổng tư lệnh MacArthur ở Tokyo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, Bộ Ngoại giao yêu cầu đại diện ở Nhật đàm phán với McArthur,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng không thấy văn bản về việc này, không biết có liên hệ với McArthur hay chưa cũng như không biết được phản ứng của phía Mĩ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mới đầu, công tác tiếp thu của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam là độc lập. Hoàng Sa và Đông Sa tương đối đơn giản, rất nhanh chóng bắt đầu thực hiện theo trình tự cụ thể, hạ tuần tháng 5 thì đã bắt đầu chỉ định sẽ do đơn vị bộ đội nào tiến hành tiếp thu. Ngày 12/9, đảo Đông Sa do toàn bộ 64D được phái từ một trong những binh đoàn 159B tiến vào chiếm giữ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì khoảng cách tương đối xa, lại có khả năng tranh chấp ngoại giao, nên việc tiếp thu Tây Sa (Hoàng Sa) được thảo luận cùng với Nam Sa (Macclesfield Bank) và Đoàn Sa (Trường Sa) sau đó. Nhưng về vấn đề quần đảo Tân Nam, do nhận thức không đầy đủ về địa lí và lịch sử nên dẫn đến tranh luận rất lớn. Lúc này, do Philippines đã đưa ra yêu sách với quần đảo Tân Nam (xem phần sau), khi tiếp thu quần đảo Tân Nam Trung Quốc không thể không thận trọng hơn. Đâu là ranh giới của quần đảo Tân Nam ? Quần đảo Tân Nam mà người Philippines chỉ ra có phải chính là quần đảo Tân Nam mà Đài Loan chỉ ra không? Quan hệ của nó với quần đảo Nam Sa, quần đảo Đoàn Sa như thế nào đều không thể biết được. Mới đầu có người cho rằng quần đảo Tân Nam chính là quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trung Sa hiện nay),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng qua nghiên cứu của Tổng lãnh sự Manila mới sáng tỏ là quần đảo Tân Nam và quần đảo Nam Sa của Trung Quốc không phải một, mà là quần đảo Đoàn Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Đoàn Sa và quần đảo Tân Nam có phải là một hay không vẫn còn có nghi vấn. Khi mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất năm 1935, Trung Quốc đặt tên cho Spratly Islands (Trường Sa) là Đoàn Sa vốn là tên dịch ra tiếng Trung của Tizard Islands, nó chỉ để gọi các đảo ở phía Bắc quần đảo Tân Nam. Vì vậy trong bản đồ của Trung Quốc, Đoàn Sa có lúc chỉ toàn bộ quần đảo Tân Nam, có lúc chỉ chỉ các đảo phía Bắc của quần đảo Tân Nam. Tình hình lộn xộn này mới được làm sáng tỏ trong bức điện cuối tháng 8 mà Tổng lãnh sự quán ở Manila gửi Bộ Hải quân: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kiểm tra thấy quần đảo Tân Nam (Shinnan Gunto) không phải tên gọi khác của quần đảo Nam Sa (Macclesfield Bank), quần đảo này nằm ở giữa quần đảo Nam Sa, Philippines, Borneo và bán đảo Đông Dương, bao gồm tất cả đảo và đá ở biển Nam Trung Quốc, đảo chính của nó bao gồm quần đảo Đoàn Sa (Tizard Bank), đảo Trung Tiểu (Loaita Bank), đảo Thiên Tân (Thitu Island), đá Bắc Hiểm (North Danger) và đảo Tây Điểu (Spratly hay Storm Island)...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phải mất trọn vẹn hai tháng để làm rõ vấn đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đến tháng 8, Viện Hành chính quyết định giao tỉnh Quảng Đông tạm thực hiện việc tiếp thu “các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Đoàn Sa”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> không biết được vì sao không để Đài Loan tiếp thu, có thể là muốn tiện việc thống nhất hành động. Ngày 20/9, Bộ Nội chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Hải quân cùng tổ chức hội nghị về việc tiếp thu “quần đảo Đoàn Sa”. Hội nghị đã thảo luận các vấn đề địa lí có liên quan đến quần đảo Tân Nam. Hải quân nói quần đảo Đoàn Sa chỉ là một bộ phận của quần đảo Tân Nam, nhưng Đài Loan nói quần đảo Đoàn Sa chính là quần đảo Tân Nam, hơn nữa hai bên đưa ra giải thích khác nhau về vị trí quần đảo Tân Nam, Hải quân nói quần đảo Tân Nam nằm giữa 112° đến 117° kinh Đông, Đài Loan nói giữa 111° đến 117° kinh Đông. Rốt cuộc phải xác định vị trí và tên gọi cũng như phạm vi của quần đảo này như thế nào? Cuối cùng, các bên quyết định: (1) Tỉnh Quảng Đông tiếp thu quần đảo Đoàn Sa càng sớm càng tốt với sự giúp đỡ của Bộ Quốc phòng, phạm vi địa lí tiếp thu do Bộ Nội chính định ra; (2) Về vị trí địa lí quần đảo này và tên gọi các đảo thuộc về nó, Bộ Nội chính cần phải chỉnh vẽ lại trên bản đồ chi tiết; (3) Trước mắt không cần nêu ra vấn đề chủ quyền của quần đảo này với các nước, nhưng để ứng phó với các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tư lệnh Hải quân cần gửi các tư liệu có liên quan cho Bộ Ngoại giao để dùng cho việc giao thiệp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/9, bốn bộ lại họp lần nữa, Bộ Nội chính đưa ra bản vẽ “Nam Hải chư đảo vị trí lược đồ” (南海諸島位置略圖: Lược đồ vị trí các đảo biển Đông) được vẽ và bản dịch “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (南海諸島 名稱一覽表: Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông). Cuộc họp đã thống nhất phân định khu vực tiếp thu theo bản đồ của Bộ Nội Chính, và trước khi tiếp thu hoàn toàn, không công bố ra bên ngoài.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong bản đồ và bảng kê tên gọi này, quần đảo Tân Nam được chính thức đặt tên là quần đảo Nam Sa, “quần đảo Nam Sa” được đặt tên lại là “quần đảo Trung Sa”, còn quần đảo Đoàn Sa là nhóm đảo, đá ở phía Bắc quần đảo Tân Nam, nhưng tên gọi các đảo, đá cơ bản như phiên bản năm 1935.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản đồ này đã xuất hiện đường chữ U do 8 đoạn rời nhau tạo thành,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đây là sự xuất hiện sớm nhất của nguyên mẫu “đường 9 đoạn” sau này trong văn kiện chính thức. Cách vẽ cơ bản giống với “đường 9 đoạn”, bao gồm cả bãi Chiêm Mỗ (詹姆沙: Chiêm Mỗ sa, nay gọi là bãi ngầm Tăng Mẫu / James Shoal). Xét từ quá trình ra đời, có thể thấy rằng mục đích của đường này chỉ là để chỉ định phạm vi các đảo tiếp thu. Trong “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông) không hề bao gồm đá Dân Chủ (đảo Hoàng Nham/ Scarborough Shoal). Sau quá trình chuẩn bị này, ngày 9/10, Bộ Quốc phòng chủ trì tổ chức “Hội nghị tiến quân chiếm đóng quần đảo Nam Hải” với sự tham gia của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội chính, Cục Quân vụ, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tư lệnh Không quân, Bộ Tổng tư lệnh Liên cần... Quyết định rằng Hải quân hoàn thành công tác tiến quân chiếm đóng Tây Sa, Nam Sa (quần đảo Trung Sa) và Đoàn Sa (quần đảo Nam Sa) trước ngày 7/11, việc quân sự của các quần đảo tạm do hành doanh Quảng Châu quản lí, Bộ Ngoại giao phải làm công tác chuẩn bị ngoại giao, nhưng tạm không nêu ra vấn đề chủ quyền với các nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi người Nhật rút đi, xuất hiện khoảng trống quyền lực ở các đảo biển Đông. Năm 1946, người Pháp đã đổ bộ lên đảo San Hô (Hoàng Sa) ở Hoàng Sa và đảo Trường Sa Lớn ở Trường Sa nhưng phía Trung Quốc dường như không biết điều đó (xem III.5), còn Philippines mới độc lập đã tuyên bố có chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng không có hành động thực tế (xem phần sau). Trung Quốc ý thức về những tranh chấp ngoại giao mà Hoàng Sa và Trường Sa sẽ gây ra nên quyết định chiếm đóng các đảo biển Đông càng sớm càng tốt, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa đang có tranh chấp. Hành động này nếu không bí mật thì cũng không hề công khai. Có thể thấy, Trung Quốc biết rõ tình hình quốc tế có tranh chấp về chủ quyền, nên muốn chiếm càng sớm càng tốt để tạo thành sự đã rồi, tạo cơ sở cho các tranh chấp ngoại giao có thể xảy ra sau này. Vì vậy, mặc dù Trung Quốc định nghĩa hành động này là “tiếp thu” nghe có vẻ quang minh chính đại nhưng vẫn tiến hành không công khai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quân mỏng yếu của Trung Quốc bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn trong chiến tranh, không có sẵn để có thể dùng đi “tiếp thu” Hoàng Sa và Trường Sa. May gặp dịp sau chiến tranh Mĩ dư thừa số lượng lớn vật tư quân sự, vì vậy phía Mĩ đã tặng cho Trung Quốc một lô tàu chiến trong Thế chiến II theo “Đạo luật thuê mượn” (Lend-Lease Act), đúng vào lúc có thể dùng vào công tác tiếp thu. Vào ngày 29/10, bốn tàu chiến (Vĩnh Hưng, nguyên là USS Embattle, thuyền trưởng Lưu Nghi Mẫn; Trung Kiến, nguyên là LST-716, thuyền trưởng Trương Liên Thụy; Thái Bình, nguyên là USS Decker, thuyền trưởng Mạch Sĩ Nghiêu; Trung Nghiệp, nguyên là LST-1056, thuyền trưởng Lí Đôn Khiêm) xuất phát từ Thượng Hải, dừng lại ở Hổ Môn một thời gian ngắn, bổ sung nhân viên đo vẽ, ngày 6/11 từ Hổ Môn lên đường đến Du Lâm, Hải Nam, bổ sung vật tư và thuê ngư dân địa phương làm hướng đạo. Sau đó, đoàn chia làm hai nhóm, Diêu Nhữ Ngọc chỉ huy hai tàu “Vĩnh Hưng” và “Trung Kiến” đến Hoàng Sa ngày 24/11, dựng “Bia kỉ niệm Hải quân thu hồi quần đảo Tây Sa” trên đảo Vĩnh Hưng (khi đó vẫn gọi là đảo Vũ Đức hoặc đảo Cây, đảo Phú Lâm, Woody Island), đồng thời để lại một đơn vị quân trú đóng và xây dựng một trạm khí tượng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lâm Tuân thì chỉ huy tàu “Thái Bình” và “Trung Nghiệp” đến đảo Thái Bình (khi đó gọi là đảo Trường) vào ngày 12/12. Đây là lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa được lịch sử ghi chép có thể tra cứu. Trên đảo Thái Bình (Ba Bình), quan quân đã cử hành nghi thức tiếp thu, tuyên bố đảo Thái Bình do tỉnh Quảng Đông quản lí, đồng thời thành lập Ban Quản lí quần đảo Nam Sa trên đảo Thái Bình. Quan quân cũng dựng bia đá, kéo quốc kì và đã phá bỏ kiến trúc cũ của Nhật Bản xây dựng trên đảo Thái Bình. Trên đảo còn thấy bia đá do người Pháp để lại vào tháng 10 cùng năm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhân viên khoa học kĩ thuật cùng đi còn đo vẽ bản đồ địa hình, khảo sát môi trường tự nhiên cũng như thu thập một số khoáng vật và mẫu đất. Bia đá quan quân lập trên đảo Thái Bình khắc chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc dựng lại ngày 12 tháng 10</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Nhưng trên thực tế đó là lần đầu tiên Trung Quốc lập bia ở quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó vào tháng 3/1947 Trung Quốc lại phái tàu Thái Bình đến đảo Đông Sa, đồng thời tuyên bố Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa đều thuộc quyền quản lí của Hải quân.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đến lúc đó, Trung Quốc cho rằng các đảo ở biển Đông “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đều nằm dưới quyền quản lí chủ quyền của chính phủ Trung Quốc một lần nữa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng điều này còn có nhiều nghi vấn. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một lần nữa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” không hề chuẩn xác, đó là lần đầu tiên Trung Quốc quản lí Trường Sa; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc chỉ đến đảo Ba Bình mà đánh đồng với việc đã quản lí toàn bộ Trường Sa là có vấn đề; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khi đó nước Pháp có đóng quân ở Hoàng Sa, Trung Quốc chỉ tiến quân chiếm đóng đảo Phú Lâm ở phía Đông, không hề quản lí toàn bộ Hoàng Sa. Hành động của Trung Quốc bị Pháp phản đối, và Pháp cũng không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu thuyền Trung Quốc dùng khi “thu hồi” Hoàng Sa và Trường Sa đều là tàu thuyền do Mĩ tặng Trung Quốc. Nếu như không có số tàu này, Trung Quốc trên cơ bản có thể không có cách nào “thu hồi” các đảo biển Đông trước nước khác (chẳng hạn như Philippines). Thế nhưng gần đây Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị lại nói “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc và Mĩ lúc đó là đồng minh, quân Trung Quốc lúc đó ngồi trên tàu chiến của Mĩ để thu hồi quần đảo Nam Sa, điểm này các bạn Mĩ phải rất rõ chứ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý Vương Nghị nói bóng gió là việc Trung Quốc ‘thu hồi’ các đảo ở biển Đông được phía Mĩ ủng hộ. Kiểu lập luận này quả là sằng bậy – quân Trung Quốc khi đó không hề ngồi trên “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tàu chiến của Mĩ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, mà là ngồi trên “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tàu chiến của Mĩ tặng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để ‘thu hồi’ quần đảo Trường Sa. Hơn nữa, khi đó không hề có chuyện Mĩ biết trước kế hoạch thu hồi của Trung Quốc. Sau khi Mĩ tặng tàu chiến cho Trung Quốc, những tàu chiến này chính là tàu chiến của Trung Quốc, không có bất cứ quan hệ gì với Mĩ nữa. Nếu không, nếu như Trung Quốc bán hoặc tặng vũ khí cho nước khác, được nước đó dùng để đánh nhau, thì liệu có thể nói là Trung Quốc ủng hộ nước đó đánh nhau không?</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.4. Mở rộng biên cương trên bản đồ lần thứ hai và sự xuất hiện đường đứt đoạn hình chữ U</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay sau khi Trung Quốc tiếp thu và đóng quân ở các đảo biển Đông, Trung Quốc và Pháp đã có tranh chấp về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (xem tiết sau). Trung Quốc khi đó vẫn chưa chính thức công bố việc tiếp thu quần đảo Hoàng Sa, cũng vẫn chưa công bố phạm vi quần đảo Trường Sa. Do đó, để củng cố tính hợp pháp của chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, chính phủ Dân quốc quyết định thảo luận về việc có cần công bố quá trình tiếp thu hay không, công bố thế nào và đâu là phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc muốn nêu ra trong công bố. Về hai vấn đề đầu, thái độ các bên cơ bản giống nhau, tức là cần phải công bố, công bố trong nước thì tốt hơn. Nhưng về vấn đề thứ ba, mặc dù trước khi tiếp thu đã xác định phạm vi quần đảo Trường Sa, nhưng việc có nên công bố theo phạm vi này hay không vẫn còn gây tranh cãi, Lâm Tuân - người chủ trì việc tiếp thu, đã đưa ra 3 phương án về cách tiếp thu của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa để bàn cho việc công bố: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lấy quần đảo Tân Nam của Nhật Bản làm phạm vi, tức là tất cả các đảo, bãi, đá từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 117° kinh Đông, nhưng e là quá gần đảo Palawan của Philippines; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115,5° kinh Đông; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 10° đến 12° vĩ Bắc, 114° đến 115° kinh Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông cho rằng phương án 2 lí tưởng nhất, tức là cần phải từ bỏ các đảo nhỏ ở phía Đông gần với Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Bộ Nội chính cho rằng cần phải tuyên bố chiếm hữu toàn bộ quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính mời các cơ quan có liên quan họp, thảo luận “Phương án xác định và công bố phạm vi và chủ quyền Tây Sa, Nam Sa”, kết quả là: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cực Nam phạm vi lãnh thổ biển Đông phải đến bãi Tăng Mẫu, trước chiến tranh chống Nhật phạm vi này đã được các xuất bản phẩm của các cơ quan, trường học và nhà sách của nước ta lấy làm chuẩn, và từng có việc Bộ Nội chính trình phương án lên, nhưng vẫn theo phương án cũ không thay đổi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc công bố chủ quyền quần đảo Tây Sa, Nam Sa do Bộ Nội chính trình phương án lên chính phủ Dân Quốc sau khi đặt tên, vẫn do Bộ Nội chính thông báo cả nước biết. Trước khi công bố, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân phải cố gắng hết sức tiến quân chiếm đóng tất cả các đảo thuộc quần đảo này càng nhiều càng tốt</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng có thể do Lâm Tuân vẫn kiên quyết, Viện Hành chính có vẻ thấy rằng có thể bàn bạc lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 10/6, Viện Hành chính tổ chức hội nghị 3 bên gồm Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao để thảo luận công việc có liên quan. Công bố phạm vi quần đảo Tây Sa là toàn bộ quần đảo Tây Sa, các ý kiến về cơ bản nhất trí, nhưng phạm vi quần đảo Nam Sa thì có quan điểm khác nhau. Đại biểu Bộ Nội chính Phó Giác Kim cho rằng phải lấy ấn phẩm về phạm vi lãnh thổ Nam HảiHải mà Bộ Nội chính xuất bản trước chiến tranh làm chuẩn, công bố tiếp thu toàn bộ quần đảo Nam Sa. Bộ Quốc phòng thì cho rằng kiến nghị của Lâm Tuân chỉ là kiến nghị của cá nhân, không đại diện Bộ Quốc phòng; “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tuy nhiên, kiểm tra phạm vi kiểm soát của Nhật với quần đảo Nam Sa cũng xác định là bao gồm toàn bộ các đảo, nhưng không xa đến biển quốc tế ở phía Tây, ta tiếp thu từ trong tay người Nhật, hiển nhiên vẫn có thể lấy phạm vi này làm chuẩn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (tức lấy phạm vi quần đảo Tân Nam của Nhật Bản). Bộ Ngoại giao cho rằng trước tiên Bộ Quốc phòng sẽ đưa quân đến trú đóng ở những điểm quan trọng trong quần đảo, sau đó sẽ quyết định phạm vi và cách thức thông báo. Cuối cùng, hội nghị quyết định: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Phạm vi công bố phải theo phạm vi lãnh thổ Nam Hải do Bộ Nội chính đệ trình làm chuẩn; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Việc công bố phải được thực hiện trong nước qua tuyên bố báo chí, và Bộ Nội vụ nên biên soạn lịch sử, địa lí cùng thiết bị cũng như bản đồ giải thích kèm theo của quần đảo Tây Sa, Nam Sa trình chính phủ để lưu hồ sơ, đồng thời thông báo cho các cơ sở và trường học trong nước biết;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 27pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 27pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Về thời gian công bố, phải chờ sau khi tiến quân chiếm đóng các đảo quan trọng của quần đảo Nam Sa (như đảo Song Tử và đảo Nam Uy) và sau khi lập các cột mốc đánh dấu lãnh thổ trên các đảo thứ yếu lân cận rồi mới công bố.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản thẩm tra giải thích của Bộ Ngoại giao, những thảo luận khi đó được miêu tả nhiều hơn. Hải quân đề nghị để tránh va chạm với Philippines phải từ bỏ các đảo vô dụng gần nước này, hạn chế phạm vi Nam Sa ở quần đảo từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115° 30’ kinh Đông. Nhưng hội nghị cho rằng có 4 lí do không thể theo đề nghị của Hải quân: (1) Việc hoạch định cương giới một nước phải lấy chủ quyền thuộc về ai làm căn cứ, không thể vì có tranh chấp với nước khác, sợ tranh chấp mà từ bỏ; (2) Nam Sa đã là lãnh thổ của ta, hơn nữa phạm vi thu hồi xác định trước đó đã xác định tọa độ là “4° đến 12° vĩ Bắc, 111° 30’ đến 117° kinh Đông, cực Nam biên giới nước ta là đảo James ở 4° vĩ Bắc”, không phải nghi ngờ gì nữa; (3) Dù những đảo dự tính bỏ đi không có giá trị kinh tế nhưng về quân sự có lợi cho hoạt động của tàu ngầm, huống chi là chủ quyền ở đó, cũng không thể từ bỏ, “mở rộng lãnh thổ, không lo lãnh thổ quốc gia quá nhiều, người ta muốn còn chẳng được, lẽ nào chúng ta có thể tự mình cam tâm từ bỏ”; (4) Lãnh hải cũng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, liên quan đến chủ quyền, không dễ dàng từ bỏ, vả lại quần đảo Nam Sa cách đảo Palawan trên 12 hải lí, ngoài 3 hải lí lãnh hải mỗi bên ra, hai bên còn cách nhau một khoảng biển quốc tế đáng kể. Về phương thức tuyên bố thì sử dụng phương thức công bố trong nước, không cần sử dụng phương thức tuyên bố quốc tế, vì “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Nhưng chỉ công bố toàn bộ quần đảo là phạm vi thu hồi thì chưa đủ, phải nhanh chóng chiếm đóng thực sự mới là thượng sách.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong lần thảo luận này quyết định không lựa chọn thi hành phương thức công bố quốc tế, tác giả cho rằng lí do thực sự là sợ quốc tế phản đối. Cái gọi là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, theo thảo luận phần trên, ngay cả chưa tới mức cả vú lấp miệng em thì chứng lí cũng yếu kém – Trung Quốc chưa từng nêu ra với quốc tế rằng quần đảo Trường Sa thuộc nước này thì dùng cái gì để nói “đã có căn cứ” ? Động thái của Trung Quốc chẳng qua là thông qua các tuyên bố trong nước cùng lúc với việc kiểm soát thực tế càng sớm càng tốt để tạo ra ấn tưởng giả về “sự đã rồi”. Dù như thế nào, căn cứ theo quyết định hội nghị, ngày 15/7 Viện Hành chính đưa ra huấn lệnh: (1) Về phạm vi Tây Sa, Nam Sa, phạm vi của cả hai đều là toàn bộ quần đảo; (2) Về việc tuyên bố thu hồi các đảo thì Tây Sa không cần tuyên bố (vì đã tuyên bố nhiều lần), và vì Nam Sa chỉ thực sự chiếm đảo Thái Bình nên không cần phải tuyên bố toàn bộ hoặc một phần thuộc về ta; (3) Nước ta cần phải phái quân đến chiếm đóng các nơi như bãi Song Tử và đảo Spratly... (4) Trong tương lai, khi nào và dùng phương thức nào tuyên bố các quần đảo này thuộc về ta hoặc do ta thu hồi cần phải xem tình hình chiếm đóng thực tế ở quần đảo Tây Sa, Nam Sa rồi họp để quyết định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, Ti Phương vực Bộ Nội chính tiến hành công tác đặt tên một lần nữa. Trước đó, Bộ Nội chính đã đổi tên quần đảo Nam Sa trước đây thành quần đảo Trung Sa, đổi tên quần đảo Đoàn Sa trước đây thành quần đảo Nam Sa. Sau khi tiếp thu quần đảo Tây Sa, ngày 3/4, đảo Vũ Đức (Woody Island, trước đây cũng có tên là đảo Lâm) của Tây Sa được đổi tên thành đảo Vĩnh Hưng, đảo Trường (Itu Aba Island) của Nam Sa được đổi tên thành đảo Thái Bình (lấy tên tàu chiến của Trung Quốc khi tiếp thu để đặt tên).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, tiến hành “khử Tây hóa” tên gọi các đảo thêm một bước. Tháng 10, Bộ Nội chính đã xác định phương án.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 12, Bộ Nội chính phê duyệt tên gọi mới của các đảo ở biển Đông, cũng xuất bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo tân cựu danh xưng đối chiếu biểu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">南海諸島新舊名稱對照 表: </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng đối chiếu tên gọi cũ mới các đảo biển Đông).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc với việc xác định tên gọi, Bộ Nội chính cũng vạch ra vị trí các đảo ở biển Đông, và xuất bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (南海諸島位置圖: Bản đồ vị trí các đảo biển Đông) (Hình 15), trên bản đồ có vẽ đường 11 đoạn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo địa lí chí lược</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (南海諸島地理志略: Sơ lược địa lí các đảo ở biển Đông) do Trịnh Tư Ước biên soạn, Ti Phương vực chủ biên xuất bản tháng 11 cũng có đính kèm bản đồ này và bảng đối chiếu tên gọi các đảo bằng tiếng Trung và tiếng Anh rất chi tiết. Tháng 2/1948, Ti Phương vực Bộ Nội chính phát hành “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa dân quốc hành chính khu vực đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國行政區 域圖: Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> các đảo biển Đông và đường đứt đoạn xuất hiện ở trên bản đồ nhỏ ở góc dưới phải của bản đồ lớn. Ba xuất bản phẩm này đều là xuất bản phẩm chính thức của nhà nước, đại biểu cho quyền uy và ý chí của chính phủ. Trong đường 11 đoạn, 2 đoạn ở Vịnh Bắc Bộ sau này bị chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xóa đi, trở thành đường 9 đoạn được mọi người biết đến hiện nay, nước ngoài thường gọi nó là đường chữ U, cũng có người gọi là đường lưỡi bò.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phiên bản ban đầu của “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” là bản đồ đường 8 đoạn tháng 9/1946.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ phần thảo luận trên, có thể thấy rằng sự xuất hiện của bản đồ này nhằm giải quyết phạm vi tiếp thu của Hải quân đối với các đảo ở biển Đông, đặc biệt là phạm vi quần đảo Trường Sa mà lập ra. Vì vậy, hàm nghĩa của đường chữ U này chỉ là để chỉ định phạm vi các quần đảo, đánh dấu chúng là “lãnh thổ” của Trung Quốc. Nó không phải là một đường biên giới biển, cũng như không liên quan gì với bất cứ quyền lợi biển nào. Trong thảo luận của các bộ vào ngày 10/ 6, lãnh hải Trung Quốc được thừa nhận rõ ràng chỉ có 3 hải lí, giữa Trường Sa và đảo Palawan của Philippines có vùng biển quốc tế, do đó đường đứt đoạn không phải là đường lãnh hải.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi đó, mặc dù Tổng thống Mĩ Harry S. Truman tuyên bố đường tài nguyên trong phạm vi 200 hải lí,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng khi vẽ đường này, Trung Quốc chưa hề nhắc đến tuyên bố của Truman, có thể thấy mục đích ban đầu của đường này không liên quan gì với quyền lợi tài nguyên biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 619px; overflow: hidden; width: 435px;"><img height="630" src="https://lh6.googleusercontent.com/ouf_-c-QfTjtU7CjqHELN3f__DQZlNdlSHwKICOne2InyzMbFj43KwED0_38280UjH2lCSe0cuOzBUGUBgOulGTDuouxiCsJdpq3o0g3U-hU_03Mg3-7WJRU_Ne5s02p40sNpAZT1N5vN6U629dBmmo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="435" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 15: “</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bản đồ vị trí các đảo ở biển Đông) do Bộ Nội chính Chính phủ Quốc Dân xuất bản (1947)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, trước thế chiến hai đã thấy đường chữ U trong các bản đồ không chính thức riêng lẻ của Trung Quốc. Vào năm 1941, trong sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân Quốc địa lí tân đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國民國地理新圖: Bản đồ địa lí mới Trung Hoa Dân Quốc) do Hồ Tấn Tiếp chủ biên đã xuất hiện đường phạm vi, bao gồm Đông Sa và Hoàng Sa bên trong.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa tối tân hình thế đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華最新形勢圖: Bản đồ hình thế mới nhất của Trung Hoa) do Đồ Tư Thông chủ biên cũng có đường phạm vi này, nhưng điểm cực Nam kéo dài đến khoảng 15° N.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau sự kiện 9 đảo nhỏ năm 1933, cùng với việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất của Bộ Nội chính, bản đồ mới xuất bản ngoài việc thường ghi rõ 4 quần đảo lớn ra, còn có một số vẽ thêm vào đường phạm vi hình chữ U, nhưng phần lớn đều giới hạn trong 7° đến 9° N.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ đầu tiên vẽ bãi ngầm Tăng Mẫu vào trong đường chữ U thường được xem là bản đồ do Bạch Mi Sơ vẽ năm 1936. Trong tình hình trong nước và quốc tế khi đó, tuyệt đại bộ phận học giả Trung Quốc đều có tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Dưới ngòi bút của họ, lãnh thổ “trước kia” của Trung Quốc càng lớn càng tốt, thậm chí cả những vùng lãnh thổ trước kia căn bản không thuộc Trung Quốc cũng bị xem là “đất đai bị mất” của Trung Quốc, ví dụ Triều Tiên, Việt Nam, Lưu Cầu (Ryukyu), thậm chí Afghanistan và Trung Á... Bạch Mi Sơ là một trong các đại diện. Ông là nhà địa lí học nổi tiếng, vào năm 1925 đã xuất bản sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân Quốc tỉnh khu toàn chí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國省區全志: Ghi chép toàn bộ các tỉnh, khu vực của Trung Hoa Dân Quốc) khoảng 4 triệu chữ (khi đó vẫn chưa có Nam Sa, cũng không có đường 9 đoạn). Năm 1929, sau khi bị loại khỏi Đại học Sư phạm Bắc Kinh, từ một nhà địa lí tương đối thuần túy ông bắt đầu trở nên cực đoan, trở thành coi “sinh mệnh nhân dân gửi vào trời đất, sức mạnh đất nước dựa vào lãnh thổ”, nhấn mạnh địa lí học phải phục vụ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông ta lần lượt xuất bản các bản đồ và sách như “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc quốc sỉ đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國國恥圖: Bản đồ sỉ nhục của Trung Quốc), “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biên cương thất địa sử lược</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (邊疆失 地史略: Sơ lược lịch sử đất biên cương bị mất) cùng các bản đồ và sách khác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ tên sách có thể biết những sách này đều thổi phồng “nỗi nhục”. Đáng chú ý là mặc dù “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc quốc sỉ đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 16) ra sức khuếch đại chủ nghĩa dân tộc nhưng trong bản đồ không có quần đảo Nam Sa, trái lại có quần đảo Sulu của Philippines. Bản đồ khác do Đồ Tư Thông xuất bản năm 1927 là “T</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rung Hoa cương giới biến thiên đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華疆界變遷圖: Bản đồ sự thay đổi biên giới của Trung Hoa)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hình 17), trong bản đồ có hai đường biên giới quốc gia là “biên giới quốc gia hiện tại” và “biên giới quốc gia trước kia”. Biên giới quốc gia trước kia thì bao gồm hầu như toàn bộ Đông Nam Á và quần đảo Sulu, nhưng không có quần đảo Trường Sa, còn biên giới hiện tại chỉ bao gồm quần đảo Hoàng Sa, tương tự như “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc quốc sỉ đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 329px; overflow: hidden; width: 453px;"><img height="329" src="https://lh6.googleusercontent.com/O2U2GgkquxrPcOYe3ldYy2mpv0yw2iMmudSnxa9ADu9ZsL1VwM18IxlSS5hR_Arcg_rnj8WHYFqIqWudSXisIHcdrBdlzkaAgLWQDV0BIlRUw86WqYfgaeEC4vYcZN-pjIsc71BI3tXGNb9CRzSX7XU" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="453" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 16: “Trung Quốc quốc sỉ đồ” của Bạch Mi Sơ </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau lần mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất vào năm 1935, Bạch Mi Sơ nhanh chóng theo kịp tình hình. Vào năm 1936, trong bản in mới của “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc kiến thiết tân đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國建設新圖: Bản đồ mới về kiến thiết Trung Quốc) do ông ta biên soạn có “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (海疆南展後之中國全圖: Bản đồ toàn bộ Trung Quốc sau khi mở rộng biên giới biển về phía Nam) (Hình 18),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> phạm vi của đường này đến khoảng 4° vĩ Bắc, đã bao gồm bãi ngầm Tăng Mẫu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, bản đồ này không giải thích chứng cứ cho phạm vi này một cách thuyết phục, chỉ nêu rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tháng 7 năm thứ 22, Pháp chiếm 6 đảo ở biển Đông, sau đó Cục Đo đạc đường biển Bộ Hải quân đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa, nói chung đó là nơi ngư dân nước ta mưu sinh, chủ quyền của chúng đương nhiên thuộc về ta. Tháng 4 năm thứ 24, tập san của Ủy ban thẩm tra bản đồ thủy bộ trung ương công bố bản đồ các đảo ở Nam Hải của Trung Quốc, phía Nam của biên giới biển kéo dài đến quần đảo Đoàn Sa, cực Nam đến bãi Tăng Mẫu, vừa đúng 4° vĩ Bắc, đó là quá trình phát triển của biên giới biển về phía Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đoạn văn này có chỗ không đúng thực tế: năm 1933, Bộ Hải quân Trung Quốc không hề có chuyện gọi là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”; nhưng cũng cho thấy rõ sự thật về chuyện mở rộng biên giới trên bản đồ. Kết hợp với khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của ông, chứng cứ này phần lớn là chủ quan. Bản đồ này của Bạch Mi Sơ đã trở thành tiền thân của đường chữ U bao trùm toàn bộ biển Đông, cực Nam đến bãi ngầm Tăng Mẫu sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 378px; overflow: hidden; width: 461px;"><img height="378.2013494318182" src="https://lh3.googleusercontent.com/2GcSIjaTbyJNx5lgHsInAXd7Vt94FlW-JPNoEY6GCHR4qOD0MAbUi-x-vJl8iEbEysyCTJR--KD2ybdkD7LSJWHkjYZ5vFUo-sl0c8qzvgjhE2se6YsYP73G--n_NQW9sbh9RqKBpzpxf-ao6R4zbAg" style="margin-left: 0px; margin-top: -0.100675px;" width="461" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 17: “Trung Hoa cương giới biến thiên đồ” của Đồ Tư Thông (1927)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 359px; overflow: hidden; width: 296px;"><img height="359" src="https://lh4.googleusercontent.com/xA_oEEbXDeqKmYC1jkBgpWiZ8nHqZx_wZ3Mun9DaIegcCtzroW8VTL2mVNQKbTSoWXOpCFJY8_QLx8iRM5SKYTGIhQ_l5JstCd6y1phxS1EtMQAyyZbmgMT_GfKNs3RqZij9txTyYeglNwq3WMjws40" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="296" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 18: “Trung Quốc kiến thiết tân đồ” của Bạch Mi Sơ (1936)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, có một nhà bản đồ khác là Trần Đạc cũng vẽ đường chữ U lên trên biển vào khoảng năm 1935 với những thay đổi của nó cũng tương tư như đường của Bạch Mi Sơ. Trong bản in “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc cương vực biến thiên đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國疆域變遷圖: Bản đồ thay đổi cương vực Trung Quốc) năm 1934 của ông, đường chữ U chỉ đến Hoàng Sa và Trung Sa (khi đó gọi là Nam Sa, Hình 19), trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cương vực biến thiên đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Hình 20) xuất bản năm 1936 đường ranh giới từ chỗ biên giới Trung-Triều ở Hoàng Hải kéo dài liên tục đến biển Đông. Phần ở biển Đông gần giống với đường của Bạch Mi Sơ nhưng không biểu thị rõ bãi ngầm Tăng Mẫu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một bản đồ khác là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國分省明細圖: Bản đồ chi tiết phân chia các tỉnh của Trung Quốc) (1940, Hình 21) cũng có đường phạm vi này, diện tích bao phủ lớn hơn phiên bản của Bạch Mi Sơ và đường 9 đoạn sau này, về cơ bản vẽ sát vào đường bờ biển của các nước khác ở ven biển Đông. Xét đến việc từ cuối thời Thanh cho đến năm 1940, Trung Quốc chưa hề có một lần thực thi chủ quyền mang tính thực chất ở quần đảo Trường Sa (không kể việc mở rộng biên giới trên bản đồ) cũng như Trung Quốc khi đó đang có chiến tranh với Nhật, biển Đông cơ bản là bị Nhật Bản kiểm soát, mà các nhà bản đồ Trung Quốc có thể vẽ ra đường biên giới như vậy thì quả thực đáng kinh ngạc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 428px; overflow: hidden; width: 287px;"><img height="428" src="https://lh5.googleusercontent.com/aZbtRWJ1bxIFVHjy34gVY3pvoPpmGqnVLQsXbaO-LHCwGLMbEIF2vRU0uBS5nco1F1Fk6ipH44Z1cguaT1b3SGo2V6g4oaFZTyX7V2q59ma_lgfV67pez9QopEvDwHI6uT_IccGuyZuR-wh96U5MNM0" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="287" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 19: “</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cương vực biến thiên đồ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trần Đạc (1934) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 313px; overflow: hidden; width: 341px;"><img height="307.1881677780782" src="https://lh5.googleusercontent.com/WwTpQU6sZiU5wxjmtbBpT91UwGq9k7YED7bn8p3ryE_-M0Q71Wc9Zn0xN1qNfXGOWZC2oxQ9fFGDI63A19sxfoh2PnvK2ahMqwV-X2MOCfzXOtDYzMnnlCubTh-kwZ7EflLmSmDIsxzVKaGkqhuECE8" style="margin-left: -5.26087px; margin-top: 5.81183px;" width="346.26086956521743" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 20: “</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cương vực biến thiên đồ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trần Đạc (1936) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 312px; overflow: hidden; width: 271px;"><img height="312" src="https://lh6.googleusercontent.com/NWYZBbwpb7D76PFyXT6W7C_VE0jZ22VFIYM8zJwI_XKrWdwoSS6P0_2NEasw_XzdLvmnKT3XBOWQqOX-3nAhds43cOfWskMDfDw_4OUQd_ZFp700fQW5Zscg2ukIjk4qe6m9BrYy6PmaCoRsupVofos" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="271" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 21: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (1940) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” được công bố vào năm 1947, các bản đồ mới đều vẽ thêm đường phạm vi mở rộng đến bãi ngầm Tăng Mẫu giống như vậy. Tuy nhieen, cách vẽ đường phạm vi khi đó là rất không cố định. Ví dụ mặc dù “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國分省新地圖: Bản đồ mới về phân chia tỉnh của Trung Quốc) (1947, Hình 22) đã phản ánh thành quả việc đặt tên quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa cũng như đường phạm vi nhưng chưa vẽ toàn bộ đường phạm vi. Còn bản in lần thứ 5 “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân Quốc tân đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中華民國新圖: Bản đồ mới của Trung Hoa Dân Quốc) do “Thân báo” vẽ (1948, Hình 23) cũng đã tiếp thu thành quả mở rộng biên cương mới nhất. Tuy nhiên, khác với bản đồ trên, đường phân giới biển Đông vẫn tiếp tục dùng đường liền nhưng đường liền này khác với đường 11 đoạn tiêu chuẩn. Vì vậy, việc vẽ đường phạm vi này như thế nào khi đó vẫn chưa có tiêu chuẩn thống nhất. Xét đến việc bản đồ do Trung Quốc xuất bản đều trải qua sự kiểm tra và xác nhận của nhà nước, điều này cho thấy đầy đủ rằng miễn là đường này bao gồm các đảo biển Đông ở bên trong thì đã đạt yêu cầu của Bộ Nội chính, còn về phạm vi và hình thức cụ thể (đường đứt hay là đường liền) đều không quan trọng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phạm vi đường đứt đoạn rất lớn, ngoài Hoàng Sa và Trường Sa ra, những đường này hầu như đều vẽ đến bờ biển các nước Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam..., còn phần Tây Nam của đường đứt đoạn có một vùng biển lớn không có đảo nào. Việc vẽ lên bản đồ một phạm vi lớn như vậy có thể gọi là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Từ việc phân tích sử liệu ở trên, về cơ bản có thể khẳng định rằng việc mở rộng này là do muốn xác định toàn bộ các đảo đã đặt tên năm 1935 là phạm vi lãnh thổ Trung Quốc. Phần Tây Nam mặc dù không có đảo nhưng có các bãi ngầm nằm trong danh mục các đảo năm 1935, nên cũng được khoanh vào trong phạm vi đường đứt đoạn. Các bãi ngầm ở phía Nam như bãi ngầm Tăng Mẫu, trong thời kì Nhật Bản thống trị cũng như trong sách địa lí thông dụng đều không được xem là một bộ phận của quần đảo Trường Sa, nhưng do trong bảng kê tên các đảo năm 1935 đã được xác định là “điểm cực Nam”, vì vậy đường đứt đoạn cũng mở rộng đến mức áp sát bờ biển Borneo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, ở cấp độ chính thức, chính phủ Trung Quốc chưa hề giải thích đường này. Vì sao chính phủ Dân Quốc lại vẽ đường này trên bản đồ biển Đông? Tại sao đường này được vẽ thành đường đứt đoạn? Đường này có hàm nghĩa là gì? Chính phủ Bắc Kinh vì sao lại xóa đi hai đoạn trong số đó? Đối với những câu hỏi này, chính phủ Dân Quốc khi đó không có bất kì giải thích nào. Mãi đến những năm 1990 mới đưa ra cách lí giải về vùng nước lịch sử (xem phần V.4), và cho đến nay phía Bắc Kinh cũng không có bất kì giải thích chính thức nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 325px; overflow: hidden; width: 318px;"><img height="325" src="https://lh3.googleusercontent.com/eyQ6TVEowEDi2D6IvtJECVomEZcF0WHrtv1i6GELW-e8Xp4v9sgprhuUnZk2xxl7e1-eI8I_pXTaQIIueOdFdsRty4Arki97oesPvOITJWQV212q1gA-g9ZMSgidU4zg00UA8EiUzb-xeaNZGZR5bto" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="318" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 22: Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ (1947) </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 359px; overflow: hidden; width: 334px;"><img height="359" src="https://lh5.googleusercontent.com/eqGd55QWrcx9rnOcFg1JFrxV9ZAFSPT3BwpmELbOBX2w4HiJfU4jPV0QQtSkYgJz-Tlewin6aVwCvmVjUtNsqizmHsTyMErpHeITogmSwOCyxm0bSmOR5kzItsQCU6kO3Ela4ah92vedwuu3alFriHc" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="334" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 23: Trung Hoa Dân Quốc tân đồ (Thân báo) (1948)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi công bố đường chữ U [năm 2009], Trung Quốc tuyên truyền rằng trong thời gian dài không có nước nào đưa ra phản đối. Cách nói này tưởng đúng mà sai. Sự thực là bất kể đường chữ U có ý nghĩa là gì thì yêu cầu thấp nhất cho đường chữ U là các đảo trong đó thuộc chủ quyền Trung Quốc, nhưng sau Thế chiến II đều liên tục gặp phải sự thách thức và phủ định bằng lời nói hoặc hành động (xem phần sau).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, cái gọi là không có nước nào đưa ra phản đối về đường chữ U... chỉ là các nói tự lừa đối mình mà thôi. Các nước không chĩa vào đường chữ U rõ ràng có lẽ chỉ là hệ quả của việc Trung Quốc chưa hề đưa ra định nghĩa chính thức về đường 9 đoạn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù sao Trung Quốc cũng đã vẽ một vòng lớn như vậy ở biển Đông, vì vậy lập trường của chính phủ Trung Quốc là kiên định với phần trong vòng lớn này. Đây vừa là một di sản cũng là một mối họa của Trung Quốc. Hiện nay đường 9 đoạn đã trở thành khái niệm mơ hồ nhất, cũng là khái niệm gây tranh cãi nhất. Vấn đề biển Đông khó mà giải quyết, hơn nữa nguyên nhân để nhiều thế lực ngoài khu vực can dự vào phần lớn cũng chính vì đường này. Đó là chuyện về sau.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.5. Pháp quay trở lại Việt Nam và tranh chấp Hoàng Sa lần thứ hai giữa Trung Quốc và Pháp</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thế chiến thứ hai, dù Pháp đầu hàng Đức, nhưng chính phủ Vichy liên tục duy trì sự thống trị ở Đông Dương. Năm 1944, chính phủ Charles de Gaulle lật đổ chính phủ Vichy, Đông Dương trở thành kẻ địch của Nhật Bản. Vì vậy, vào tháng 3/1945 Nhật Bản phát động cuộc tấn công ở Đông Dương, lật đổ chính quyền của Pháp, bỏ tù sĩ quan và quan chức Pháp. Với sự ủng hộ của Nhật Bản, vua Bảo Đại thành lập chính quyền Việt Nam “độc lập”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào ngày 15/8, cùng ngày Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, Việt Nam độc lập đồng minh hội (Việt Minh) đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam tích cực chống Nhật, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã phát động Cách mạng Tháng Tám, đánh chiếm các cơ quan quan trọng của chính quyền Bảo Đại ở các thành phố lớn ở Bắc Việt, quân Nhật luôn làm ngơ, còn trì hoãn việc phóng thích nhân viên chính quyền và tù binh Pháp, họ giao toàn bộ vũ khí thu được từ người Pháp cho Việt Minh. Chỉ trong vài ngày Việt Minh đã chiếm lấy toàn bộ miền Bắc. Chính quyền Bảo Đại ở Huế tuyên bố độc lập vào ngày 23, và ngày 25/8 vua Bảo Đại lại bị buộc tuyên bố thoái vị. Ngày 2/9, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này gọi tắt là Bắc Việt).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế chiến II đã khiến cho sức mạnh của người Pháp ở Đông Nam Á thiệt hại nghiêm trọng, tình hình hỗn loạn ở Việt Nam từng khiến người ta hoài nghi việc Pháp có từ bỏ Đông Dương hay không. Nhưng thế lực thực dân đứng đầu là Anh nhanh chóng quay lại châu Á sau khi Thế chiến II kết thúc, Anh dựa vào quân đội ở Đông Á của mình, đặc biệt là hải quân, nhanh chóng chiếm lại Malaysia, Brunei, Singapore và Hồng Kông. Đồng thời cũng giúp chuyên chở quân đội Pháp và Hà Lan quay trở lại Việt Nam và Indonesia. Theo “Lệnh bình thường số 1”, theo chân quân Anh, quân viễn chinh Pháp dưới sự chỉ huy của Tổng cao ủy (High Commissioner) Georges Thierry d’Argenlieu, bắt đầu tiếp quản miền Nam Việt Nam vào ngày 23/9, mãi đến tháng 5/1946 mới hoàn toàn tiếp quản miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 16° N trở vào Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian này, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào miền Bắc Việt Nam theo “Lệnh bình thường số 1” vẫn ở lại đây. Để Trung Quốc nhanh chóng rút khỏi miền Bắc Việt Nam, Pháp muốn sớm đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. “Hiệp ước Trùng Khánh” Trung-Pháp được kí kết ngày 28/2/1946 quy định rằng Pháp hủy bỏ các điều ước bất bình đẳng với Trung Quốc (bao gồm tô giới và vịnh Quảng Châu); còn Trung Quốc rút khỏi miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 15/3, và muộn nhất vào ngày 31/3 phải giao miền Bắc Việt Nam cho Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, việc rút quân của Trung Quốc trì hoãn đến cuối tháng 5 mới hoàn thành, thời gian này Pháp muốn tiến vào miền Bắc Việt Nam trước thì bị Việt Minh và quân đội Trung Quốc ngăn cản. Pháp chỉ có thể triển khai đàm phán với Việt Minh. Ngày 6/3, Pháp và Việt Minh kí hiệp ước, Việt Minh không theo đuổi độc lập, mà thay vì vậy đồng ý chuyển Việt Nam thành một nước tự do (free state) trong Liên bang Đông Dương nằm trong Khối Liên hiệp Pháp (French Union), còn Pháp đồng ý sau khi quân Pháp đóng quân ở miền Bắc 5 năm thì sẽ tiến hành tuyển cử để thống nhất Nam Bắc. Như vậy, quân đội Trung Quốc mới rút dần khỏi Việt Nam. Mĩ ban đầu ủng hộ Việt Minh, tuy nhiên sau khi Việt Minh ngả theo Liên Xô, để ngăn chặn cộng sản, Mĩ quay sang ủng hộ Pháp vốn đang muốn nhanh chóng quay lại Việt Nam. Việt Nam bắt đầu bước vào tình trạng chiến tranh lâu dài. Trước sức ép, tháng 8/1949, Pháp lại ủng hộ vua Bảo Đại lập ra Quốc gia Việt Nam (gọi tắt là Việt Nam) lấy Sài Gòn làm thủ đô để chống lại Việt Minh được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình Việt Nam phức tạp như vậy, nhưng Pháp không hề từ bỏ ý đồ với Hoàng Sa và Trường Sa. Điều rất kì lạ là Hoàng Sa và Trường Sa không hề được nhắc đến trong các cuộc đàm phán Trung-Pháp hoặc trong Hiệp ước Trùng Khánh. Khi đàm phán, Pháp ở vào thế yếu nên không đề cập đến Hoàng Sa dù rất muốn, đó không là chuyện lạ. Nhưng Trung Quốc vốn có thể lợi dụng thời cơ có lợi này để ép phía Pháp phải nhượng bộ, cũng không nêu ra. Khả năng lớn nhất là sau chiến tranh, lúc mà Trung Quốc “phát hiện” vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa một lần nữa là vào ngày 19/4/1946 thì hiệp ước Trung Pháp đã kí kết rồi. Có thể thấy Trung Quốc không hề quá coi trọng các đảo biển Đông và đó chính là nguyên nhân lớn nhất khiến chính phủ Trung Quốc không tận dụng cơ hội vào lúc đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi kí kết hiệp ước, Pháp nhanh chóng tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, hành động của họ thậm chí còn sớm hơn chính phủ Trung Quốc. Tháng 5/1946, tàu chiến Pháp Escarmouche (Tiền Tiêu) đến Hoàng Sa, quân đội đổ bộ lên đảo San hô (Hoàng Sa) thuộc Hoàng Sa trước, chuẩn bị thay thế quân Nhật sắp rút lui nhưng phát hiện không có ai định cư trên đảo, chỉ có vài ngư dân đang bắt rùa biển.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quân đội Pháp ở lại trên đảo mấy tháng rồi rời đi, không trú đóng thường xuyên. Hành động này sớm hơn nửa năm so với việc Trung Quốc đổ bộ lên Hoàng Sa tháng 11 cùng năm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với việc này, D’Argenlieu viết thư cho Paris, yêu cầu Paris xác nhận lần nữa chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng lúc này Paris đang bận đàm phán với Hồ Chí Minh, mong Trung Quốc rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt nên không trả lời ngay. Mãi đến tháng 6/1946, sau khi Công sứ Pháp ở Nam Kinh phát hiện rằng Trung Quốc có thể sẽ đưa quân đến Hoàng Sa và Trường Sa mới có thư trả lời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thư trả lời nói rằng Trường Sa được xem là lãnh địa của Nam Kì thuộc Pháp còn Hoàng Sa thuộc lãnh thổ An Nam do Pháp bảo hộ. Tình trạng pháp lí của hai quần đảo khác nhau. Vả lại, vào năm 1933 khi Pháp chiếm Trường Sa thì đây là đất vô chủ, chính quyền Nam Kì thuộc Pháp có thể tuyên bố chủ quyền lại lần nữa bằng phương thức tuần tra và thay mới các cột trên đảo. Tuy nhiên, Công sứ ở Nam Kinh không cần chủ động nêu việc này với Trung Quốc, vì khi Pháp tuyên bố chủ quyền năm 1933 Trung Quốc không hề phản đối. Đối với Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao Pháp cho rằng mặc dù Việt Nam có chủ quyền lịch sử, nhưng kiểm soát thực tế hiện thời vẫn là cần thiết. Vì vậy, ngày 22/10 Bộ Ngoại giao ra lệnh cho D’Argenlieu lấy danh nghĩa của An Nam để lập một trạm khí tượng ở Hoàng Sa cùng với một đơn vị nhỏ đóng giữ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng khi đó quan hệ giữa Pháp và chính phủ Hồ Chí Minh bắt đầu căng thẳng. Ngày 20/11, D’Argenlieu yêu cầu Đảng bộ cộng sản ở thành phố Hải Phòng cho dân quân Việt Nam rút lui khỏi thành phố. Ngày 24 chiến sự bùng nổ ở Hải Phòng. Những căng thẳng quân sự này khiến D’Argenlieu nhiều lần trì hoãn lệnh của Bộ Ngoại giao. Do đó, lệnh này vẫn chưa được thi hành kịp thời, Công sứ quán ở Nam Kinh lại truyền thông tin đến: tháng 11 quân đội Trung Quốc sẽ “tiếp thu” quần đảo Hoàng Sa. Ngày 25/11 Pháp phái máy bay trinh sát đến Hoàng Sa nhưng không phát hiện có quân Trung Quốc. Ngày 28/11 Pháp lại ra lệnh cho D’Argenlieu phải phái quân đến Hoàng Sa chiếm đóng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng D’Argenlieu lại trì hoãn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như đã nói ở trên, Trung Quốc vốn không có ý định tuyên bố đã chiếm Hoàng Sa, nhưng ngày 7/1/1947, trong cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao, người phát ngôn Bộ Ngoại giao bị nhà báo hỏi đến việc này nên buộc lòng phải đưa ra tuyên bố thừa nhận đã tiếp quản quần đảo Hoàng Sa. Một câu nói dấy lên làn sóng lớn, dư luận Việt Nam thuộc Pháp xôn xao. Pháp đưa ra phản đối chính thức và tuyên bố sẽ bảo vệ Hoàng Sa vì lợi ích của Việt Nam. Hãng tin AFP đưa tin chuyện năm 1938 Trung Quốc “đồng ý” sự chiếm đóng của Pháp dưới danh nghĩa đế quốc An Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lúc này D’Argenlieu mới chọn cách hành động, ngày 13/1, tàu chiến “Tonkinois” (Bắc Kì) đến đảo San Hô (Hoàng Sa) thuộc Hoàng Sa một lần nữa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo chỉ thị, nó phải thành lập trung tâm hành chính trên đảo San Hô (Pattle Island, khi đó Trung Quốc gọi là đảo Bạch Thác [白托: Baittuo - phiên âm của Pattle]) ở phía Tây và trên đảo Phú Lâm (Woody Island, khi đó Trung Quốc gọi là đảo Vũ Đức [武德: Wude - phiên âm của Woody). Nhưng cùng ngày máy bay được phái đến trinh sát đảo Phú Lâm phát hiện có quân Trung Quốc, hành động trinh sát này khiến Trung Quốc chú ý. Ngày 17/1, khi tàu chiến Pháp đến đảo Phú Lâm thì phát hiện trên đảo đã có quân Trung Quốc đóng rồi. Thuyền trưởng đề xuất đưa họ đến Đông Dương, thậm chí đề nghị cho họ tiền, và bắn bổng lên trời để đe dọa, tình hình căng thẳng. Quân Trung Quốc nhanh chóng gửi điện về Nam Kinh. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Kinh lập tức đưa ra phản đối và tuyên bố quân Trung Quốc đã được lệnh kháng cự đến cùng, yêu cầu phía Pháp rút khỏi đảo này, không được làm tổn hại quan hệ hữu hảo của hải nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pháp sợ Nam Kinh sẽ ủng hộ Việt Minh, đành ra lệnh tàu chiến rút khỏi đảo Phú Lâm, đưa hơn 20 người trở lại đảo San Hô để xây dựng trung tâm chỉ huy,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đồng thời giải thích với phía Trung Quốc rằng việc đổ bộ của tàu chiến Pháp là hành động tự ý của thuyền trưởng chứ không phải ý của chính phủ Pháp, đề nghị phía Trung Quốc bình tĩnh.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhờ đó cuộc khủng hoảng mới không leo thang. Sau đó, hai bên duy trì tình trạng mỗi nước chiếm một đảo ở phía Đông và ở phía Tây quần đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng bắt đầu từ đây lại mở đầu cuộc tranh chấp mới giữa Trung Quốc và Pháp về Hoàng Sa, tức là cuộc tranh chấp Hoàng Sa lần thứ hai. Các lập luận của lần tranh chấp này về cơ bản giống với tranh chấp thứ nhất, so với tranh chấp trước, ngoại trừ một câu hỏi nữa là liệu việc Pháp chiếm đóng Hoàng Sa năm 1938 có được Trung Quốc công nhận hay không thì tôi không đi vào chi tiết. Ngoài ra có một ý mới là Đại sứ Trung Quốc ở Thổ Nhĩ Kì Khâu Tổ Minh đề xuất với Bộ Ngoại giao mấy kiến nghị mới: (1) không cần chú ý đến việc “chiếm đóng thực tế” và thủ tục “thông báo cho nước thứ ba”, vì tư liệu chính thức của Trung Quốc quy định Tây Sa thuộc quyền quản lí của tỉnh Quảng Đông, trước “Công ước châu Phi” năm 1885, điều kiện chiếm đóng dựa theo luật quốc tế lúc chiếm đóng; (2) ta không lập quan chức không có nghĩa là nước ta từ bỏ chủ quyền, vì việc tuần tra phòng thủ biển cũng là công việc hành chính thích đáng; (3) bỏ lơ một khoảng thời gian không đủ để chứng tỏ nước ta từ bỏ chủ quyền.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, Trịnh Quỹ Nhất thuộc Ủy ban tham chính Dân Quốc cũng nêu việc Mã Kiện Anh ở Đại học Đài Loan tìm thấy các đồng tiền thời Vĩnh Lạc tại đảo San Hô thuộc Hoàng Sa, điều đó chứng tỏ thời đó đã có người Trung Quốc hoạt động ở Hoàng Sa, và đó cũng là ý mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng vào lúc đó, Trung Quốc thấy rằng các vấn đề pháp lí chỉ là thứ yếu. Tranh cãi lớn nhất khi đó là liệu có đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Tòa trọng tài quốc tế hay không. Ngày 27/1, Đại sứ Trung Quốc tại Pháp Tiền Thái đưa ra phản đối nghiêm khắc với Vụ châu Á của Pháp, yêu cầu Pháp rút quân khỏi đảo San Hô. Nhưng Pháp phản đối, yêu cầu Trung Quốc đưa ra Tòa Trọng tài quốc tế : “T</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rung Quốc cảm thấy có chứng cớ vững chắc thì tại sao không đưa ra Tòa Trọng tài?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Hơn nữa, họ còn nói với Trung Quốc rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pháp chưa bao giờ quá coi trọng quần đảo Hoàng Sa, nhưng lập trường của Pháp trong 15 năm nay không thể bỗng nhiên thay đổi, Trung Quốc thể hiện sự kiên quyết như vậy, đồng thời có giọng điệu ra lệnh, phía Pháp nhượng bộ sẽ mất mặt, tốt nhất là giao cho Tòa Trọng tài, (một khi Trung Quốc đồng ý) phía Pháp sẽ lập tức rút quân, không cần (có kết quả) của Tòa Trọng tài mới rút quân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Tiền Thái truy hỏi vì sao phía Pháp không thể rút quân trước, phía Pháp nói “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu làm như vậy thì khác nào thừa nhận chủ quyền Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Với việc này phía Trung Quốc sớm đã có chuẩn bị. Trong thư Bộ trưởng Ngoại giao Vương Thế Kiệt gửi cho Tưởng Giới Thạch có viết: Giải quyết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa không ngoài hai biện pháp là hòa bình và vũ lực, Bộ Ngoại giao không chủ trương dùng vũ lực. Phương thức hòa bình thì có ba loại, hoặc hai nước trực tiếp đàm phán, hoặc đưa ra Tòa Trọng tài quốc tế, hoặc giao cho Tòa án Quốc tế. Chỉ có điều hai cách sau</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “những lí do phía Pháp nắm giữ không thể hoàn toàn xác lập chủ quyền của họ đối với Tây Sa, nhưng các điểm căn cứ của phía ta cũng không phải không có chỗ tranh cãi, về mặt pháp lí hai bên đều không đủ chứng cứ, Tòa Trọng tài quốc tế ít nhiều cũng có ý hòa giải, Tòa án Quốc tế thì buộc dựa vào pháp luật để đưa ra phán quyết cuối cùng. Dự đoán quyết định sau này sẽ không ngoài áp dụng thi hành chế độ cùng quản lí, hoặc đưa các đảo của quần đảo này cho hai nước Trung Quốc và Pháp chia nhau quản lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyết định của Tòa Trọng tài quốc tế và Tòa án Quốc tế đều có tính chất bắt buộc phải chấp hành, một khi phán quyết được đưa ra thì hai bên phải tuân thủ thực hiện, đến lúc đó chúng ta sẽ không thể có chỗ để xoay sở, chi bằng hai nước trực tiếp đàm phán, ta có thể cân nhắc tình hình để khi nào tiến hành</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Đồng thời ông ta đề xuất rằng sách lược tốt nhất hiện thời là yêu cầu phía Pháp rút quân khỏi đảo San Hô trước rồi tiến hành đàm phán.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, trọng tâm của hai bên là: Pháp rút quân trước rồi Trung Quốc mới đàm phán; hoặc Trung Quốc đồng ý ra Tòa Trọng tài trước rồi Pháp mới rút quân. Ngày 1/2, phía Pháp lại nhượng bộ lần nữa, đề xuất </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“hiện nay trong vụ này tốt nhất là giao cho một chuyên gia pháp luật của mỗi bên nghiên cứu, nếu không thống nhất được thì đưa ra Tòa Trọng tà</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">i”, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu Trung Quốc đồng ý nguyên tắc giao cho chuyên gia pháp luật nghiên cứu thì phía Pháp có thể thảo luận với Thủ tướng, Ngoại trưởng việc rút quân trước, nhưng vẫn bảo lưu lập trường của mình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn một mực buộc Pháp rút quân trước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 4/2, phía Pháp lại giải thích giải quyết bằng pháp luật chỉ là một trong những phương thức tiếp cận, nếu Trung Quốc đồng ý trên nguyên tắc giao cho chuyên gia pháp luật nghiên cứu thì phía Pháp rút quân tương đối dễ dàng hơn, sau này cho dù nghiên cứu không ổn thỏa, Trung Quốc vẫn có thể không thừa nhận, không chịu ràng buộc của Tòa Trọng tài.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thái độ của Pháp lúc này thực sự là thỏa hiệp, lí do không gì khác hơn là tình hình Việt Nam không ổn định, lo Trung Quốc can thiệp, sợ Trung Quốc đưa vấn đề Việt Nam ra Hội đồng Bảo an, chỉ có thể tiếp tục nhượng bộ trong vấn đề Hoàng Sa, bày tỏ việc không muốn làm sứt mẻ quan hệ Trung Pháp. Nhưng Trung Quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn, một mực đòi Pháp rút quân trước. Trung Quốc khi đó cũng đúng là có dùng tình hình Việt Nam để gây áp lực với Pháp, ví dụ Bộ trưởng Quốc phòng Bạch Sùng Hy đề xuất thông qua “Đảng kiều” (tức Hoa kiều ở Việt Nam) kích động “lực lượng cách mạng” của Việt Nam buộc Pháp rút quân khỏi quần đảo Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực chuẩn bị xây dựng pháo đài kiên cố trên đảo Phú Lâm, tăng cường binh lực, xây dựng hải đăng... với ý đồ tạo ra sự đã rồi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Trung Quốc không những khiến phía Pháp thấy khó rút lui, mà đến cả Đại sứ Trung Quốc tại Pháp cũng cảm thấy không nên quá cứng rắn. Khi phía Pháp lại đề xuất một lần nữa rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc có thể tạm hoãn 2 hay 3 tuần, đợi sau khi tình hình dư luận lắng xuống, thì sẽ chấp nhận thương lượng, đến lúc đó phía Pháp sẽ lặng lẽ rút quân và mấy ngày sau sẽ đưa ra công bố</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, Tiền Thái cũng kiến nghị với Bộ Ngoại giao “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu như cách có thể làm chỉ là thương lượng, không phải theo một phương thức nào đó, khiến họ rút quân thì đó có phải là điều có thể cân nhắc hay không?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Bộ Ngoại giao vẫn kiên trì “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trước khi quân Pháp rút khỏi Tây Sa, chính phủ ta không có chấp nhận bất cứ ràng buộc nào về thương lượng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thế là tình hình vẫn tiếp tục giằng co. Ngày 22/3, Tiền Thái lại xin chỉ thị về cách ứng phó, điện trả lời của Bộ Ngoại giao viết: Trung Quốc khó mà đồng ý đưa ra tòa trọng tài bởi vì (1) tư liệu chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đầy đủ hơn Pháp rất nhiều, nếu như đồng ý đưa ra trọng tài, không chỉ thừa nhận phía Pháp cũng có chủ quyền, hoặc bản thân chủ quyền của ta nẩy sinh nghi vấn, điều này không phù hợp lập trường nhất quán của ta; (2) Pháp đòi chủ quyền là lấy danh nghĩa vua An Nam, nếu như hiện nay giải quyết với Pháp là chúng ta gián tiếp dành cho Pháp cơ hội cướp lấy lãnh thổ Việt Nam; (3) dư luận trong nước đều rất phẫn nộ trước việc quân Pháp đổ bộ lên đảo Bạch Thác (Hoàng Sa), nếu như đồng ý ra trọng tài với Pháp, quốc dân sẽ xem là yếu đuối và sẽ chỉ trích nhiều hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Bộ Ngoại giao còn có một lo lắng khác. Vì Pháp và Trung Quốc đều thừa nhận “thẩm quyền bắt buộc” của Tòa án Quốc tế, nên Bộ Ngoại giao lo rằng Trung Quốc không thể không chấp nhận thẩm quyền nếu như phía Pháp đưa ra Tòa án Quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Bộ Ngoại giao đã trù tính cẩn thận và đã tìm ra cớ: phạm vi mà Pháp thừa nhận thẩm quyền tòa chỉ là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thực tế và tình hình tranh chấp phát sinh sau khi phê chuẩn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Nhưng tranh chấp Hoàng Sa xảy ra trước khi Pháp phê chuẩn tuyên bố này, hơn nữa quy thuộc chủ quyền không phải là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sự tồn tại thực tế hoặc tình hình nào đó, do đó nghiêm khắc mà nói, nó vượt quá thẩm quyền bắt buộc của Tòa án Quốc tế được phía Pháp thừa nhận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Tuy nhiên, nếu như Pháp đưa ra Tòa án mà Trung Quốc không chấp nhận thì vẫn ở vào thế yếu đối với dư luận quốc tế, dù có thể lấy ý kiến trình bày ở trên làm lí do. Vì vậy cách tốt nhất là kiên quyết yêu cầu Pháp rút quân, dù phía Pháp không đáp ứng thì cũng chỉ là kéo dài thời gian.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc lại hỏi ý kiến sứ quán ở nước ngoài và người phát ngôn Tòa án Quốc tế người Trung Quốc xem phải ứng phó như thế nào, ý kiến trả lời cũng là lấy hai lí do trình bày ở trên để biện hộ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chỉ có Đại sứ quán ở The Hague đề xuất rằng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tình trạng pháp lí của ta nghiêm khắc mà nói dường như thiếu vững chắc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nếu như về mặt ngoại giao phía Pháp đưa ra đề nghị tương đối hợp lí, Trung Quốc nên thận trọng suy nghĩ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Giằng co như vậy cho đến tháng 6 thì xảy ra việc máy bay trinh sát của Pháp đến Hoàng Sa trinh sát, dẫn đến sóng gió ngoại giao mới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng không hại gì đến đại thể. Tháng 7, Pháp lại đưa ra nhượng bộ mới, dùng việc rút quân ở Hoàng Sa để đổi lấy quyền lợi nhà cửa ở tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu. Hóa ra, sau khi kí kết “Hiệp ước Trùng Khánh”, Pháp phải trả lại tô giới và nhà cửa ở tô giới. Sau khi trả lại hầu hết các ngôi nhà mà không được bồi thường, Pháp vẫn muốn giữ lại một vài ngôi nhà. Theo Đại sứ Trung Quốc tại Pháp Tiền Thái thì đây là thành quả mà Đại sứ Pháp tại Trung Quốc Jacques Meyrier có được sau khi về nước nỗ lực thuyết phục Thủ tướng và Tổng thống Pháp, Meyrier quả thực đã cố gắng hết sức; sự nhượng bộ của Pháp đã là quá mức, nếu ngay cả điều này cũng không thể thỏa mãn, Pháp sẽ không có cách nào ứng phó dư luận, e rằng hai vụ việc Hoàng Sa và ngầm bồi thường này đều cùng bỏ lỡ, vì cái nhỏ mất cái lớn. Tiền Thái đề nghị nếu như Pháp yêu cầu giữ lại số ít nhà cửa “đại thể không quá đáng”, phía Trung Quốc nên suy nghĩ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phía Trung Quốc không hề đáp lại. Đến tháng 8, Tiền Thái lại gửi điện cho Bộ Ngoại giao, nhắc đến tình hình chính trị Pháp sắp có thay đổi, phe hữu của De Gaulle rất có thể sẽ lên cầm quyền, đến lúc đó chính sách có thể sẽ trở nên cứng rắn, kêu gọi Trung Quốc tích cực cân nhắc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lần này, ngay cả Bộ Ngoại giao cũng cảm thấy cần phải không lẩn tránh, do đó ngày 9/9 gửi thư cho Bộ Quốc phòng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo điện của Đại sứ Tiền Thái tại Pháp thì phía Pháp đã bày tỏ nhượng bộ, muốn rút quân chiếm đóng khỏi đảo Bạch Thác, chỉ có điều là chủ quyền quần đảo Tây Sa thuộc Việt Nam, hiện phía Pháp không thể thay đổi được, chờ sau khi quan hệ Pháp-Việt cải thiện, Pháp làm trung gian điều đình với Việt Nam để giải quyết triệt để vụ này</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Bộ Quốc phòng không hề có biểu hiện gì. Giữa tháng 10, Viện Hành chính tổ chức hội nghị liên tịch về việc xây dựng quần đảo Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao một lần nữa giải thích cho các bộ khác rằng phía Pháp đã nhượng bộ nhiều, nhưng Bộ Quốc phòng và Bộ Nội chính đều không có phản ứng, chỉ hào hứng thảo luận việc xây dựng ở Tây Sa và Nam Sa như thế nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối tháng 9, bỗng nhiên có tin quân Pháp đã rút khỏi quần đảo San Hô, nhưng tin này mãi vẫn không được chứng xác nhận. Giữa tháng 11, Hải quân phái ‘tàu tầm trung’ đến đảo San Hô, cử Trần Phó Trưởng lên bờ kiểm tra. Phát hiện trên đảo có một đại úy Pháp và khoảng hơn 30 lính Việt Nam đóng giữ. Trần Phó Trưởng chỉ ra đảo này thuộc Trung Quốc nhưng đại úy Pháp nói đảo này thuộc Việt Nam. Trần Phó Trưởng xin chụp ảnh trên đảo, được đồng ý, và sau khi chụp ảnh dưới sự giám sát chặt chẽ của viên đại úy và hai lính có vũ trang xong thì quay về.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đối đầu thứ hai sau chiến tranh giữa hai bên Trung, Pháp. Sau việc này, đàm phán về Hoàng Sa rơi vào im lặng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời gian từ tháng 1 đến tháng 10/1947, do Trung Quốc tuyên bố chiếm đóng Hoàng Sa, quân Pháp bắt đầu đổ bộ lên đảo San Hô, Trung Quốc và Pháp đã tiến hành một loạt giao thiệp ngoại giao. Giống như năm 1937, phía Pháp lại đề xuất đưa vấn đề quy thuộc của Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế. Trong quá trình này, lập trường của Pháp nhiều lần lùi bước, bày tỏ rằng nếu Trung Quốc đồng ý đưa ra trọng tài thì Pháp có thể rút quân khỏi đảo San Hô trước, sau đó rút khỏi Hoàng Sa chỉ với nhượng bộ rất nhỏ từ phía Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Trung Quốc vẫn kiên quyết “không lùi một bước”. Cuối cùng giao thiệp hai bên kết thúc buồn bã, để rồi đảo San Hô bị Pháp-Việt Nam kiểm soát trong thời gian dài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, từ năm 1946 đến năm 1950, hai nước Trung Pháp đã chia đều nhau quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) ở phía Đông, cơ bản cũng kiểm soát cụm đảo An Vĩnh (Tuyên Đức), Pháp chiếm đóng đảo San Hô (Hoàng Sa) ở phía Tây, cơ bản cũng kiểm soát cụm đảo Lưỡi Liềm (Vĩnh Lạc). Đến năm 1949, Quốc Dân đảng thất bại quân sự ở Đại lục. Lúc này, Tư lệnh Hải quân Viễn Đông Pháp muốn tận dụng sự yếu kém của quân chiếm đóng Quốc Dân đảng để đoạt lấy đảo Phú Lâm, nhưng bị Bộ Ngoại giao Pháp ngăn cản. Tháng 4/1950, quân đội Quốc Dân đảng rút khỏi đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa (cùng năm cũng rút quân đội khỏi đảo Ba Bình thuộc Trường Sa). Sau đó, mặc dù đảo Phú Lâm có mấy năm ở vào tình trạng bỏ không nhưng phía Pháp cũng không chiếm lấy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/6/1948, các bên ở Đông Dương kí kết Hiệp định vịnh Hạ Long (Accords de la baie d’Along), quy định hợp nhất Bắc Kì và Trung Kì thành chính phủ Việt Nam thống nhất, cùng với Vương quốc Lào và Vương quốc Cambodia hợp thành Liên bang Đông Dương ở trong Khối Liên hiệp Pháp, còn Nam Kì thì vẫn duy trì tình trạng kép là thuộc địa và “nước cộng hòa tự trị”, nó có hợp nhất với Việt Nam hay không cần phải được sự chấp nhận của cả bầu cử tự quyết lẫn Quốc hội Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 8/3/1949, Pháp và vua Bảo Đại kí hiệp ước mới ở vịnh Hạ Long, thừa nhận trên nguyên tắc việc hợp nhất Nam Kì với Trung Kì và Bắc Kì, nhưng nước Việt Nam mới chỉ có quyền ngoại giao có hạn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/3, Quốc hội Pháp thông qua nghị quyết, chấp nhận thay đổi tình trạng của Nam Kì. Ngày 21/4, Bảo Đại quay trở về Việt Nam. Ngày 4/6, Quốc hội Pháp thông qua quyết định hợp nhất Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính phủ Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) thành lập năm 1949 tuyên bố Hoàng Sa là một bộ phận của Việt Nam, đồng thời ngày 14/10/1950 chính thức tiếp quản quyền hành chính đảo San Hô (Hoàng Sa) từ tay người Pháp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi đó trên đảo vừa có quân đội Pháp vừa có lính bảo an Việt Nam. Tháng 12/1950, lính bảo an Việt Nam ở đảo Cam Tuyền (Hữu Nhật) ở phía Tây bắt được 6 “ngư dân” Trung Quốc và cáo buộc họ là gián điệp cộng sản, điều này cho thấy khi đó Việt Nam có quyền quản lí và quyền kiểm soát thực tế phía Tây quần đảo Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Pháp cũng quay trở lại Trường Sa rất sớm. Ngay từ tháng 9/1946, tàu chiến Chevreuil của Pháp đến quần đảo Trường Sa, phát hiện không có người cư trú, và đã dựng cột mốc ranh giới trên đảo Ba Bình, tuyên bố quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của nước Pháp (Trung Quốc phản đối việc này). Hành động tuyên bố chủ quyền này thậm chí sớm hơn hành động của Lâm Tuân. Nhưng Pháp không để quân thường trú ở quần đảo Trường Sa. Khi Lâm Tuân tiếp thu Trường Sa, phía Pháp không có hành động gì thêm. Năm 1949, Hải quân Pháp đề xuất chiếm đảo Ba Bình thuộc Trường Sa, sau khi gặp phải sự phản đối của Bộ Ngoại giao, đã chuyển mục tiêu sang đảo Trường Sa Lớn. Năm 1951, Hải quân Pháp lần đầu tiến hành trinh sát trên không đảo Trường Sa Lớn. Mặc dù xác định trên đảo không có quân Trung Quốc nhưng cuối cùng phía Pháp cũng không thực hiện hành động thực tế nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có bốn lí do khiến Pháp thận trọng ở quần đảo Trường Sa: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, quần đảo Trường Sa ở xa xôi, các đảo rất nhỏ, khó đóng quân, hơn nữa thuận tiện nhất là đảo Ba Bình đã bị Trung Hoa Dân quốc chiếm; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Pháp ngại làm mất lòng Trung Hoa Dân Quốc sẽ khiến họ nghiêng về phía Việt Minh trong cuộc chiến Đông Dương, vì vậy tránh xung đột quân sự trực tiếp với Trung Quốc; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù Pháp có thảo luận nội bộ, nhưng vẫn chưa có quyết định cuối cùng về Trường Sa, còn Chính phủ Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) khăng khăng cho rằng Trường Sa là một bộ phận của Việt Nam; hơn nữa, Pháp cần hợp tác với chính quyền Bảo Đại trong cuộc chiến Đông Dương, vì vậy gác lại hành động ở Trường Sa để chờ thời cơ vẫn hơn là giúp chính phủ Bảo Đại dồn sức chiếm đóng quần đảo Trường Sa;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cuối cùng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phía Pháp thấy rằng chứng cứ yêu sách của Trung Quốc đối với Trường Sa yếu, còn mình thì có đủ chứng cứ chủ quyền ở Trường Sa, ví dụ hai lần tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa vào năm 1930 và 1933 đều không vấp phải sự phản đối của Trung Quốc, vì vậy phía Pháp cho rằng yêu sách chủ quyền ở Trường Sa của mình đã được thể hiện đầy đủ. Hơn nữa, trên bình diện quốc tế, các nước lớn trong khu vực, Anh và Úc đều ủng hộ lập trường của Pháp. Vì Pháp chưa hề tuyên bố từ bỏ yêu sách chủ quyền quần đảo Trường Sa. Đối với một quốc gia sớm đã chứng minh yêu cầu chủ quyền đối với Trường Sa, thái độ im lặng nhất thời không hề có thể xem là ý muốn từ bỏ quần đảo Trường Sa. Do đó, Pháp chọn giữ sự im lặng tạm thời về quân sự.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Pháp với quần đảo Trường Sa khác hẳn với Hoàng Sa. Trong con mắt của người Pháp, tình trang của Hoàng Sa và Trường Sa không giống nhau: nguồn gốc sự kiểm soát Hoàng Sa của Pháp đến từ sự quản lí của Việt Nam từ thế kỉ 18 đến nay, còn Trường Sa thì là một đảo không người (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">res nullius</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) và đất vô chủ </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(terra nullius</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), sự thống trị của Pháp đến từ sự chiếm đóng của Pháp năm 1930. Về mặt quản lí, Hoàng Sa thuộc về An Nam (Trung Kì) có địa vị là nước được Pháp bảo hộ, còn Trường Sa thì thuộc về Nam Kì là thuộc địa trực tiếp của Pháp. Vì vậy Pháp ra sức lôi kéo Việt Nam vào hành động ở Hoàng Sa, nhưng tránh để Việt Nam tham dự vào hành động ở Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính vì như vậy, khi chuyển nhượng Nam Kì cho Việt Nam vào năm 1949, Pháp không hề liệt kê rõ việc giao quần đảo Trường Sa cho Việt Nam. Pháp thiên về việc giữ Trường Sa lại làm lãnh địa hải ngoại của Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4/1951, một thương nhân người Pháp cư trú ở Philippines là Edouard F. Miailhe muốn khai thác nguồn phốt phát ở Trường Sa đã viết thư dò hỏi phía Pháp có sở hữu quần đảo Trường Sa hay không, và có thể cấp quyền khai thác phốt phát không? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7/5/1951, Jean Letourneau, Bộ trưởng Giao tế các nước trong Liên Hiệp (Minister of State for Relations with the Associated States) gửi thư cho Bộ trưởng Lãnh thổ hải ngoại (Minister for Overseas Territories), cho rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong lịch sử, Quốc vương Việt Nam xưa nay chưa hề tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Spratly, cũng chưa hề chiếm đóng nó. (Sau năm 1933) quần đảo Spratly được sáp nhập vào Đông Dương chỉ để thuận tiện cho việc quản lí hành chính thôi. Nước Việt Nam mới không có cách nào dựa vào đó để có được chủ quyền mà trước đó nước này không có.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Trong thư còn đề nghị nước Pháp nên lấy Trường Sa lập thành tỉnh hải ngoại của Pháp chứ không giao lại cho Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Ngoại giao Pháp đồng ý quan điểm này, Bộ Lãnh thổ Hải ngoại và Cao ủy Đông Pháp (High Commissioner) cũng thiên về việc cấp quyền kinh doanh, nhưng lại cho rằng thương nhân này phải tự mình chấp nhận rủi ro, và Pháp sẽ không điều quân đội chi viện trong trường hợp tranh chấp. Nhưng đồng thời Bộ Ngoại giao lại lo lắng điều này sẽ kích động phản ứng của Trung Quốc, hơn nữa còn suy tính thiệt hơn, vì cơ sở kinh doanh của doanh nhân người Pháp ở Philippines nên chẳng khác nào cho người Philippines tham gia (trong một bản tư liệu khác của Pháp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhắc đến một thương nhân Philippines là Soriano cũng nộp đơn, không rõ nộp đơn một mình hay cùng với Miailhe) đúng vào dịp Philippines đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa; nếu như tùy tiện phê chuẩn thì có thể đe dọa đến chủ quyền của Pháp tại quần đảo Trường Sa. Cuối cùng, qua quyết định của một phiên họp liên bộ, Bộ Lãnh thổ Hải ngoại từ chối phê chuẩn. Cuối cùng, toàn bộ sự việc kết thúc với việc thương nhân từ bỏ đơn xin phép.</span></p><br /><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.6. Philippines giành độc lập và yêu sách lãnh thổ đối với Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau chiến tranh Mĩ-Tây Ban Nha, Mĩ cướp lấy Philippines, và bất kể những hứa hẹn ban đầu, đã trấn áp nước Cộng hòa thứ nhất Philippines. Nhưng ngay từ đầu Mĩ không có ý muốn chiếm đóng Philippines lâu dài, mà chỉ mang thể thức chính trị Mĩ vào Philippines. Năm 1902, chính phủ Mĩ, Philippines thông qua “Luật Tổ chức nước Philippines” (Philippine Organic Act), thành lập Chính phủ quần đảo (Insular Government), mà mục đích lâu dài của chính phủ này chính là đưa Philippines tiến tới độc lập. Năm 1907, Mĩ thành lập Quốc hội Philippines. Năm 1916, Quốc hội Mĩ đã thông qua “Luật Jones” (Jones Act), thành lập Thượng viện Philippines, cuối cùng chấp nhận nền độc lập của Philippines. Năm 1935, Hiến pháp mới được ban hành, Philippines trở thành “Liên bang Philippines” (Commonwealth of Philippines). Đồng thời Mĩ còn tuyên bố sẽ để Philippines độc lập vào ngày 4/7/1946. Mĩ thống trị Philippines, ngoài đưa đến văn minh chính trị ra còn hoàn chỉnh biên giới hiện đại của Philippines. Trong thời kì thuộc Tây Ban Nha, Philippines không kiểm soát toàn bộ cương vực hiện nay, Sulu và đảo Mindanao ở miền Nam luôn trong trạng thái nửa độc lập hay độc lập. Cho đến thời kì Mĩ thống trị, những lãnh thổ miền Nam này mới thực sự hợp nhất vào trong cương vực của Philippines. Sự thống trị của Mĩ còn đưa đến sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của Philippines. Ví dụ về mặt kinh tế, Philippines giành được sự tiến bộ nhảy vọt. Về mặt xã hội, Mĩ xây dựng cho Philippines hệ thống giáo dục, hệ thống an sinh xã hội và hệ thống y tế sức khỏe hiện đại. Các hiện tượng không hợp thời thịnh hành ở Philippines như nô lệ, cướp biển, săn đầu người... có trước thời kì Mĩ thống trị cũng giảm thiểu đi nhiều. Tỉ lệ tử vong của người Philippines cũng giảm nhiều, đến mức gần bằng chính nước Mĩ. Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Philippines, dựng lên một chính quyền bù nhìn. Nhưng chính quyền bù nhìn này không ổn định như ở Myanmar và Indonesia... Khi Thế chiến II còn chưa kết thúc, quân Mĩ đã thu hồi Philippines từ tay Nhật Bản, xây dựng lại chính quyền Mĩ-Phi. Nhưng Mĩ cũng không vì vậy mà thay đổi cam kết với Philippines. Philippines độc lập vào ngày 4/7/1946 theo đúng dự kiến. Mặc dù kinh tế nước Philippines mới phụ thuộc nghiêm trọng vào Mĩ, Mĩ cũng có quyền thuê căn cứ quân sự của Philippines theo như hiệp ước, nhưng nước Philippines mới đã có ý chí tự chủ hoàn toàn về ngoại giao. Philippines thể hiện thái độ với biển Đông hoàn toàn khác với chính phủ Mĩ-Phi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, ngay từ trước Thế chiến II, quan chức Philippines đã thể hiện sự quan tâm đến quần đảo Trường Sa (và bãi Scarborough [đảo Hoàng Nham], xem VI.6). Năm 1933, thượng nghị sĩ Isabelo de los Reyes khi tham dự đàm phán về phương án quá độ độc lập của Philippines đã đề xuất với phía Mĩ cần phải sáp nhập 9 đảo nhỏ của Trường Sa gần đảo Palawan vào Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1938, Elpidio Quirino với tư cách là Bộ trưởng Bộ Nội vụ lại đề xuất với Toàn quyền Mĩ chủ trương phải giành lấy Trường Sa, nhưng phía Mĩ giữ thái độ phủ định.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau độc lập, Quirino trở thành Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng Philippines, cuối cùng có thể có quyền tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa. Do đó, vào ngày 23/7 ông tuyên bố Philippines có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, đồng thời dự tính sáp nhập quần đảo Trường Sa vào trong phạm vi phòng thủ của Philippines. Thời gian này sớm hơn thời gian Lâm Tuân hành động ở Trường Sa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Philippines tuyên bố chủ quyền với Trường Sa. Ngày 11/9, Quirino lấy tư cách Ngoại trường gửi công hàm cho Tổng tư lệnh Đồng minh MacArthur, chính thức đề xuất việc Philippines có được chủ quyền của Trường Sa. Phía Mĩ không có ý kiến, và Philippines cũng không hành động gì thêm. Vì vậy, mặc dù Bộ Ngoại giao Trung Quốc chú ý đến sự kiện này, và không có phản ứng gì về mặt ngoại giao, nhưng rõ ràng đây là một trong những nguyên nhân góp phần khiến Trung Quốc quyết tâm âm thầm chiếm quần đảo Trường Sa càng sớm càng tốt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 8/1947, Quirino hỏi ý kiến Đại sứ Pháp tại Philippines về vấn đề Trường Sa. Khi được biết vào năm 1933 nước Pháp đã tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, Quirino cảm thấy rất bất ngờ, bởi vì ban đầu ông ta cho rằng các đảo mà người Pháp tuyên bố chủ quyền nằm ở phía Tây quần đảo mà ông ta tuyên bố, tức chỉ là đảo Spratly (tức đảo Trường Sa Lớn, Philippines không tuyên bố chủ quyền với đảo này).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này rõ ràng là do sự hỗn loạn địa danh của quần đảo Trường Sa gây ra, khi đó quần đảo Trường Sa gọi là quần đảo Tân Nam hoặc quần đảo Spratly (Spratly Islands) và sự khác biệt giữa tên này với tên đảo Spratly (Spratly Island) chỉ số ít và số nhiều. Khi Lãnh sự Pháp tưởng rằng Philippines sẽ từ bỏ yêu sách, thì năm 1948 Tổng thống Philippines Roxas qua đời và Quirino kế nhiệm Tổng thống, tiếp tục thúc đẩy kế hoạch giành lấy Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 3/1949, AP và UPI đưa tin rằng 250 lính Trung Quốc cộng sản đã chiếm đảo Ba Bình, đồng thời muốn dùng đảo làm căn cứ chi viện cho phe Cộng sản Việt Nam. Philippines vô cùng kinh ngạc. Hôm sau, trong phiên họp nội các, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Philippines Nệ Lễ (Nelly) trình bày báo cáo về việc này, đồng thời tuyên bố với Công sứ Trung Quốc tại Philippines rằng theo mật báo trên đảo Thái Bình có 250 lính Trung Quốc cộng sản chiếm giữ, yêu cầu phía Trung Quốc làm rõ. Nelly cũng nhắc đến việc hồi tháng 1 cùng năm một đội tìm người bị mất tích của Mĩ dưới sự chỉ huy của Đại tá Harlyn Lacy đến đảo Ba Bình tìm kiếm hài cốt lính Mĩ, phát hiện 200 lính của chính phủ Trung Quốc ở đó. Tổng thống Philippines Quirino lập tức cho rằng đảo Ba Bình rất gần với Philippines, có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Đồng thời ông ta nêu ví dụ nhóm đảo Karafuto (Karafuto Group) và nhóm đảo Turtle (Turtle Group), vốn thuộc Anh, nằm ngoài 300 hải lí của đảo Palawan, cũng có vai trò chiến lược an ninh quan trọng với Philippines, mà trước chiến tranh khi ông ta ở Bộ Nội chính đã đề nghị với phía Mĩ dựa vào đó mà sáp nhập chúng vào bản đồ Philippines. Kết quả nhiều lần kiên trì, đến năm 1948, quả nhiên nước Anh nhượng lại nhóm đảo Turtle cho Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hàm ý của ví dụ này đương nhiên là đảo Ba Bình cũng có khả năng như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Bộ Ngoại giao Philippines hỏi ý kiến công sứ Trung Hoa Dân Quốc ở Philippines, công sứ quán không dám lơ là, lập tức gửi điện hỏi ý kiến Bộ Ngoại giao. Ngày 4/4, Bộ Ngoại giao gửi điện trả lời nói rằng trên đảo này chỉ có quân quốc gia, không có quân cộng sản.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Công sứ tại Philippines theo đó trả lời. Chưa yên đợt sóng này đã làm dấy lên đợt sóng khác. Cùng ngày, Philippines lại chất vấn Công sứ THDQ tại Philippines rằng vào tháng 1 cùng năm quân Mĩ từng đổ bộ lên đảo tìm kiếm hài cốt thì bị quân chiếm đóng Trung Quốc phản đối, có việc này không? Sau khi Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc kiểm chứng, ngày 11/4 trả lời rằng không có việc này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai ngày sau, ngày 13 có tin nói rằng phiên họp nội các Philippines đã quyết định phái Tư lệnh Hải quân Andrada đến đảo Ba Bình xem xét, đồng thời có nghị sĩ đề nghị khuyến khích ngư dân Palawan di cư đến đảo Ba Bình. Do đó, các cuộc thảo luận về việc sáp nhập quần đảo Trường Sa vào Philippines đã được nối lại. Sau khi Công sứ quán Trung Hoa Dân Quốc ở Philippines biết tin, lập tức đưa ra kháng nghị với Philippines, hỏi rằng tin do báo đưa ra có đúng sự thật hay không, đồng thời tuyên bố rằng Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 11/5, phía Philippines trả lời: hôm đó nội các chỉ thảo luận việc cần phải tăng cường bảo vệ ngư dân đánh cá gần đảo Ba Bình. Đối với phần tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Philippines đã chú ý đến,chỉ có điều các chi tiết của việc này như lí do yêu sách của Trung Quốc cùng mối liên quan trước đây và hiện nay của đảo này với Đài Loan, hy vọng phía Trung Quốc có thể trình bày rõ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì thế không có thêm hành động nào nữa. Phía Philippines dùng câu: “đảo Thái Bình là một bộ phận của Nam Sa, và chủ quyền của nó thuộc Trung Quốc” để nhận biết (acknowledge) lập trường của Trung Quốc,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cách diễn đạt này cho thấy nước này có sự bảo lưu đối với chủ quyền Trung Quốc ở Trường Sa. Vì vậy, Công sứ ở Philippines không dám lơ là, vội vàng cầu viện Bộ Ngoại giao. Nhưng Bộ Ngoại giao không kịp thời trả lời. Mãi đến ngày 2/5/1950, Bộ Nội chính mới gửi cho Bộ Ngoại giao một bản tổng kết khái quát tình hình,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng đó là việc sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập chế độ mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chứng cứ cho yêu sách lãnh thổ của Philippines đối với Trường Sa là Trường Sa nằm trong phạm vi 200 hải lí về phía Tây của đảo Palawan. Khi đó trên thế giới đã có nước chủ trương lãnh hải là 12 hải lí, tương đối nhiều quốc gia vẫn tiếp tục chủ trương 3 hải lí, chỉ một số ít nước đơn phương tuyên bố lấy lãnh hải 200 hải lí. Ngoài điều này ra, Philippines không hề đưa ra nguồn gốc lịch sử có liên quan đến Trường Sa. Thực ra, theo cái nhìn lịch sử, quần đảo Sulu ở miền Nam Philippines trước đây là nước Sultan Sulu, từ thế kỉ 16 đến 18 là cường quốc giao thông ở biển Đông, rất có thể đã kiểm soát phần Đông Nam của biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa, vì vậy họ cũng có thể đưa ra chứng cứ lịch sử,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tiếc rằng người Philippines chủ yếu theo Công giáo biết rất ít về lịch sử Hồi giáo ở miền Nam, do đó cũng không đưa ra bất kì loại chứng cứ lịch sử nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về pháp lí, trong một loạt văn kiện về lãnh thổ của Philippines tính từ “Hiệp ước Paris” Mĩ-Tây Ban Nha đều không bao gồm quần đảo Trường Sa. Điều này là một điểm bất lợi đối với Philippines. Nhưng không bao gồm nó trước đây không đồng nghĩa với việc không thể mở rộng thêm sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm tắt việc thay đổi khái niệm Nam Sa (Trường Sa)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc chia các đảo biển Đông thành quần đảo Đông Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa. Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) từ những năm 1810 đã thống nhất tên gọi là Paracel Islands, và phạm vi của nó không có sự tranh cãi trên thế giới. Hai bên tranh chấp hiện nay - Trung Quốc và Việt Nam đều không tranh cãi về phạm vi của nó. Phạm vi quần đảo Trung Sa thì có tranh cãi rất lớn, chỉ có Trung Quốc (bao gồm Đài Loan) gom đảo Hoàng Nham(Scarborough Shoal) và rạn san hô vòng Trung Sa (Macclesfield Bank) cùng với mấy bãi ngầm phân tán khác vào làm một. Ngoài đảo Hoàng Nham ra, rạn san hô vòng Trung Sa và bãi ngầm khác đều không nổi lên mặt nước, vì vậy, về quy thuộc chủ quyền mà nói, chỉ cần xem xét đảo Hoàng Nham. Tuy nhiên, quần đảo Nam Sa (Trường Sa), khái niệm phạm vi của nó đã trải qua các thay đổi phức tạp, mà những thay đổi này có ảnh hưởng tương đối lớn đối với vấn đề quy thuộc. Một tài liệu năm 1974 của Cục Tình báo Trung ương Mĩ miêu tả quần đảo Spratly không có định nghĩa rõ ràng (ill-defined) về mặt địa lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời Cổ đại Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa là “Thiên Lí Thạch Đường”, nhưng phạm vi chính xác cho tên gọi này không hề được xác định. Đến giữa thế kỉ 18, do hoạt động của ngư dân Trung Quốc mở rộng đến khu vực quần đảo Trường Sa, trong “Canh lộ bạ” của ngư dân gọi vùng biển khu vực đó là “Bắc Hải”, đồng thời cũng ghi chép rất nhiều tên đảo. Nhưng từ tên gọi, có thể thấy rằng mục đích đặt tên của ngư dân là để mô tả vùng biển đó chứ không phải một quần đảo cụ thể. Trong những “Canh lộ bạ” đó không có tên gọi thống nhất cho các đảo ở “Bắc Hải”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời Cổ đại, Việt Nam gọi quần đảo Trường Sa là “Vạn Lí Trường Sa”, nhưng cũng không có phạm vi chính xác. Vào giữa thế kỉ 18, Việt Nam từng phái “Đội Bắc Hải” đến “Bắc Hải” trục với hải sản và tàu đắm. “Bắc Hải” này có khả năng cũng là quần đảo Trường Sa, nhưng ngay cả khi giả định này là đúng thì phạm vi của “Bắc Hải”cũng không được xác định rõ .</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kể từ thế kỉ 18, các tàu của Anh và Pháp bắt đầu ghi chép về các đảo ở khu vực Trường Sa trong các chuyến hành trình của họ ở biển Đông. Trong các hải đồ và sách hàng hải của Anh biên soạn cuối thế kỉ 18 đã có có bản đồ quần đảo Trường Sa tương đối chi tiết, những bản đồ này không còn đánh dấu toàn bộ khu vực nguy hiểm (Dangerous Ground) là quần đảo Trường Sa, mà đã vẽ các đảo cụ thể và đặt tên cho chúng. Ở một số địa điểm đã đánh dấu kí hiệu Breaker để cảnh báo đó là nơi nguy hiểm, nhưng vẫn chưa được khảo sát chi tiết. Đó là tư liệu sớm nhất trong lịch sử xác định rõ các đảo cụ thể của quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, dù trên bản đồ hay trong sách hàng hải đều không có tên gọi thống nhất cho quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tên thống nhất cho quần đảo Trường Sa dường như chỉ mới bắt đầu từ những năm 1910. Đi đầu trong việc này là người Nhật Bản. Họ đặt tên các đảo thuộc khu vực này là quần đảo Tân Nam (Shinnan Gunto, đôi khi viết là Sinnan Gunto). Trong sự kiện 9 đảo nhỏ của Pháp năm 1933, người Pháp không tìm ra một cái tên có tính khái quát để miêu tả quần đảo Trường Sa. Họ nghĩ đến hai phương thức, thứ nhất là dùng kinh vĩ độ để đóng khung phạm vi, thứ hai là liệt kê ra các đảo chính. Quá trình này đã cho thấy khi đó quốc tế không đi ngang qua phạm vi quần đảo Trường Sa. Cuối cùng người Pháp đã dùng phương thức thứ hai, bao gồm cả Spratly Island (đảo Trường Sa Lớn, Trung Quốc gọi là đảo Nam Uy), từ đó về sau Spratly Islands mới dần dần được dùng để gọi toàn bộ quần đảo, nhưng phạm vi của nó cũng không được định nghĩa chính xác. Khi đó, hai tên gọi là quần đảo Tân Nam và Spratly Islands đều được sử dụng, nhưng quan hệ giữa hai tên gọi vẫn là chỗ vướng mắc gây khó khăn cho giới ngoại giao các nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các văn kiện về phương thức xử lí quần đảo Trường Sa thời chiến và đầu thời hậu chiến (xem III.2), tên gọi Spratly and Other Islands (Shinnan Gunto) được sử dụng, và được định nghĩa là các đảo, đá ở giữa các kinh tuyến 111,5° E đến 117° E và các vĩ tuyến 7° N đến 12° N (theo định nghĩa quần đảo Tân Nam của Nhật Bản). Khi đó vẫn chưa dùng Spratly Islands làm tên gọi chính thức của quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1935, thông qua “Thủy lục địa đồ thẩm tra ủy viên hội” </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">水陸地圖審查委員: Ủy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ban thẩm tra bản đồ đất biển) Trung Quốc đã sáng tạo cái tên “quần đảo Đoàn Sa” để chỉ các đảo thuộc quần đảo Nam Sa. Tên gọi này thực ra là tên dịch của từ “Tizard Islands” (tức vòng san hô Trịnh Hòa). Phạm vi quần đảo Đoàn Sa lớn hơn quần đảo Tân Nam và Spratly Islands, vì nó mở rộng đến bãi ngầm Tăng Mẫu về phía Nam, và đến bãi Vạn An (bãi Tư Chính) về phía Tây. Nhưng thế giới hầu như không biết gì đến cái tên này, và cũng chưa bao giờ thấy cái tên này xuất hiện trong các dịp quốc tế. Sau Thế chiến II, Trung Quốc đổi tên quần đảo Đoàn Sa thành quần đảo Nam Sa, và sau đó nhiều lần sử dụng cái tên này trong một loạt giao thiệp ngoại giao và tuyên bố, dần dần tên Nam Sa mới được thế giới biết đến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế chiến II, Philippines đưa ra yêu sách chủ quyền với quần đảo Kalayaan, nhưng quần đảo Kalayaan không đồng nhất với quần đảo Trường Sa hay quần đảo Spratly. Ở phía Tây, nó không bao gồm Spratly và các địa điểm phía Tây của đảo này; ở phía Nam, nó không bao gồm các địa điểm ở phía Nam vĩ tuyến 7° N. Trong các trao đổi với Đài Loan từ thập niên 1940 đến 1960, liên quan đến phạm vi tranh chấp nhiều năm giữa hai bên, Đài Loan tranh biện quần đảo Spratly chính là quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Nhưng Philippines một mực cho rằng quần đảo Kalayaan mà nước này yêu sách và “Spratly Islands” mà “Hiệp ước San Francisco” quy định không phải là một. Rõ ràng, cho đến những năm 1960, vẫn chưa có quan điểm nào được chấp nhận về quần đảo Trường Sa là gì.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam kế thừa quần đảo Trường Sa từ nước Pháp, phạm vi cho tên gọi đó giống như phạm vi theo kế hoạch dùng đường kinh vĩ tuyến ban đầu mà người Pháp công bố. Phía Nam đến 7° vĩ Bắc. Mặc dù Việt Nam yêu sách bãi Vạn An (bãi Tư Chính) (như trong sự kiện bãi Vạn An tranh chấp với Trung Quốc, xem V.5), nhưng theo nhận thức của Việt Nam, bãi Vạn An và các bãi ngầm lân cận không hề thuộc quần đảo Trường Sa, sở dĩ Việt Nam có chủ quyền bãi Vạn An là vì bãi Vạn An là một bãi ngầm, nằm ở trên thềm lục địa của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, khái niệm quần đảo Trường Sa (Nam Sa) xuất hiện rất muộn; hơn nữa đến hiện nay, phạm vi của nó cũng không có định nghĩa được công nhận thống nhất. Điều này có nghĩa là sẽ xuất hiện vấn đề rất lớn một khi chiếm đóng một số đảo nhất định rồi tuyên bố rằng chủ quyền của mình có thể được mở rộng ra toàn bộ “quần đảo Trường Sa”. Bởi vì bất kể từ lịch sử hay từ hiện thực đều không có một sự đồng thuận về “toàn bộ quần đảo Trường Sa” là gì.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.7. Trung Quốc rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 8/1947, Hội Viện vụ thuộc Viện Hành chính thông qua nghị quyết đổi Quỳnh Nhai thành Đặc khu hành chính Hải Nam, trực thuộc Viện Hành chính. Tháng 4/1949, Đặc khu hành chính Hải Nam chính thức thành lập. Ngày 6/6 công bố “Điều lệ tổ chức văn phòng trưởng quan hành chính đặc khu Hải Nam”, và quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa được sáp nhập vào đặc khu Hải Nam, nhưng vẫn do Bộ Hải quân quản lí thay.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, không lâu sau đó, tình hình đã thay đổi hoàn toàn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ năm 1946, nội chiến Trung Quốc đã ngày càng ác liệt. Năm 1948, tình thế Quốc Dân Đảng chuyển biến ngược, cuối năm xuất hiện các cuộc tháo chạy đổ vỡ. Tưởng Giới Thạch không thể không bố trí lại, lấy Đài Loan làm căn cứ cuối cùng. Tháng 4/1949, quân đội cộng sản đánh chiếm Nam Kinh, chính phủ Quốc Dân phải chuyển đến Quảng Châu, sau mấy tháng lại chuyển đến Trùng Khánh. Năm 1950 Trùng Khánh cũng không còn cách nào cố thủ nên buộc phải dời thủ đô đến Đài Bắc. Quốc Dân Đảng mất toàn bộ Đại lục, chỉ sót lại các đảo ven biển. Tháng 2/1950 quân đội cộng sản đánh chiếm đảo Hải Nam, các đảo biển Đông cũng nguy khốn. Để tập trung binh lực, Tưởng Giới Thạch quyết định từ bỏ Tây Sa và Nam Sa về mặt quân sự. Ngày 2/5, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân ra lệnh quân đóng trên các đảo ở Nam Sa rút lui trước. Ngày 8/5, tất cả nhân viên và vật tư đều đã rời khỏi đảo Ba Bình ở Trường Sa, chỉ có quốc kì vẫn treo cao. Quân Quốc Dân Đảng ở Hoàng Sa cũng rút về Đài Loan cùng lúc. Tức là không bố trí phòng thủ lại ở Hoàng Sa và Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tin Cộng sản Trung Quốc đánh chiếm đảo Hải Nam khiến Pháp, Việt Nam và Philippines vô cùng lo lắng. Theo một báo cáo nghiên cứu của Đài Loan, ngày 5/5 Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đã tuyên bố rằng sau khi CSTQ chiếm Hải Nam thì mục tiêu tiếp theo sẽ là Philippines. Ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng đã tổ chức một cuộc họp để thảo luận về tác động đối với an ninh của Philippines nếu CSTQ chiếm được quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa, truyền thông thì kêu gọi Philippines và Mĩ bằng mọi giá phải chiếm Hoàng Sa và Trường Sa để bảo vệ an ninh lãnh thổ. Pháp thì nâng cao mức phòng bị ở quần đảo Hoàng Sa để phòng CSTQ xâm chiếm, nhưng không chiếm đảo Phú Lâm vì sợ chọc giận CSTQ. Đồng thời, tuy Pháp trinh sát biết quân Quốc dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa nhưng cũng không lợi dụng lúc Trường Sa trống không để tới chiếm. Còn Việt Nam thì tái khẳng định có chủ quyền với Hoàng Sa ngày 12/5.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, Đài Loan lo lắng liệu Philippines, Việt Nam, Pháp… có lấy cớ ngăn chặn cộng sản để cưỡng chiếm các đảo ở biển Đông hay không. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu quân cộng sản kiểm soát các đảo ở biển Đông, thì không chỉ kiểm soát tuyến giao thông ở đây, mà còn làm căn cứ để xâm nhập Đông Nam Á, đồng thời tạo điều kiện cho lực lượng tàu ngầm Liên Xô vươn tới biển Đông, uy hiếp trực tiếp các căn cứ chiến lược của Anh, Mĩ ở nhiều khu vực Đông Nam Á và các tuyến giao thông. Do đó, Đài Loan có xu hướng sớm hợp tác với Philippines, Pháp, Việt Nam … cùng bàn bạc kế sách chống cộng sản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy sau năm 1950 vai trò của Đài Loan rất khó xử. Một mặt, họ mong muốn bảo vệ lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa không bị nước ngoài chiếm lấy, nhưng mặt khác, nhu cầu chống cộng lại buộc họ không thể không thỏa hiệp với các nước Philippines, Việt Nam... Kiểu tâm trạng phức tạp này thậm chí còn biểu lộ rõ ràng hơn trong vấn đề Hoàng Sa vào cuối những năm 1950.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, thực lực Cộng sản Trung Quốc khi đó bị khuếch đại. Cộng sản Trung Quốc mạnh về lục quân mà yếu về hải quân. Sở dĩ họ có thể đám chiếm được đảo Hải Nam hoàn toàn là nhờ đảo này nằm gần Đại lục, và cũng nhờ có nội ứng trên đảo. Chiến dịch Ninh Cổ Đầu năm 1950, quân cộng sản đổ bộ lên đảo Kim Môn bị quân Quốc Dân Đảng tiêu diệt hoàn toàn, đủ để chứng minh rằng năng lực hải chiến của Cộng sản Trung Quốc rất yếu kém. Đây cũng là nguyên nhân khiến ngay cả Hoàng Sa khi đó, Cộng sản Trung Quốc cũng không có cách nào chiếm được, nói gì đến Trường Sa. Nhưng đúng như truyền thông Philippines chỉ ra, sự uy hiếp của cộng sản đối với thế giới tự do không chỉ ở vũ lực mà còn ở phá hoại và thâm nhập nội bộ. Sự cảnh giác của họ đối với cộng sản hiển nhiên không phải không có lí do.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pháp và Việt Nam khi đó đều đã lún sâu vào chiến tranh, Philippines lại trở thành nước tiên phong. Chính phủ Philippines lại thảo luận việc cần phải nhanh chóng chiếm lấy quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17/5, Quirino tuyên bố “quần đảo Trường Sa thuộc Philippines”. Nhưng đồng thời lại cũng chỉ ra rằng Philippines tạm thời sẽ không thúc đẩy yêu sách đó vào lúc này vì Trung Hoa Dân Quốc là nước bạn, hiện nay kiểm soát Trường Sa, nhưng nếu như sau này Trường Sa có nguy cơ bị cộng sản kiểm soát, lúc đó Philippines sẽ nhắc lại quyền lợi của mình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Không biết vì sao trong điện văn của Đại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ý này bị viết thành “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng thống Philippines nói với các nhà báo ngày hôm nay rằng quần đảo này tuy ảnh hưởng tới an ninh của Philippines, nhưng chủ quyền thuộc Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, Philippines và Chính phủ Quốc Dân Đảng có quan hệ hữu nghị, không tiện áp dụng bất cứ hành động nào</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Viết sai ở vấn đề quan trọng nhất (chủ quyền thuộc ai).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, ngày 18/8 Bộ Ngoại giao đã gửi Đại sứ quán ở Philippines lệnh mật: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng thống Philippines đã bày tỏ quan ngại vì quần đảo này gần với Philippines. Chính phủ Philippines nếu vì an ninh của nước mình, muốn phái quân đến phòng vệ quần đảo Nam Sa, thì dựa trên lập trường cùng chống cộng của Trung Hoa Dân Quốc và Philippines chính phủ ta sẽ không có ý kiến phản đối, tuy nhiên trước hết chính phủ Philippines phải đồng ý rằng sau này khi chính phủ ta muốn tự phòng thủ thì sẽ rút quân chiếm đóng. Hy vọng có thể bàn bạc bí mật với chính phủ Philippines và thông báo khi cần thiết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hai ngày sau, hai bộ Ngoại giao và Nội chính trình lên Viện Hành chính, ngoài thái độ trình bày ở trên ra (trở thành phương án A), lại thêm vào phương án B: hiện không thực hiện bất cứ hành động nào, khi Philippines đổ bộ lên đảo thì mới đưa ra phản đối, và nói rõ chủ trương của Trung Hoa Dân Quốc. Nhưng hai bộ vẫn cho rằng phương án A là tốt hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng lúc này, Philippines vẫn không có hành động gì thêm. Philippines một mặt có thể đã nhận ra mối đe dọa của quân cộng sản không quá nguy cấp, mặt khác cũng lo ngại phản ứng của Quốc Dân Đảng, xét cho cùng hai bên còn có chung lập trường chống cộng. Philippines còn muốn giải quyết sự việc một cách hòa bình, Quirino thậm chí từng xem xét việc mua quần đảo Trường Sa từ Tưởng Giới Thạch.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.8. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” và “Hòa ước Trung-Nhật”</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế chiến II, Đồng minh và Nhật Bản tiến hành đàm phán hòa bình. Trong quá trình đàm phán, ở Trung Quốc xuất hiện biến động lớn. Quốc Dân Đảng bại trận, rút về giữ Đài Loan, Đảng Cộng sản xây dựng chế độ mới ở Đại lục, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vì vậy, trên thực tế đã xuất hiện hai chính phủ Trung Quốc, hai bên đều tuyên bố mình là đại diện duy nhất của Trung Quốc. Ban đầu Mĩ đã chuẩn bị bỏ rơi chính quyền Quốc Dân Đảng, chuyển sang thử nghiệm thiết lập quan hệ với Cộng sản Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc ngay trước khi tuyên bố thành lập nước đã quyết định thực hành chính sách “nhất biên đảo” (ngã về một phía) về Liên Xô đồng thời công bố bài báo nổi tiếng “Tạm biệt John Leighton Stuart”, trục xuất các nhà truyền giáo người Mĩ, từ chối đề nghị thiết lập quan hệ của Mĩ. Đến năm 1950, Bắc Triều Tiên xâm lược Nam Triều Tiên, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, cục diện thế giới từ Chiến tranh lạnh biến thành chiến tranh nóng cục bộ. Với sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc, Mĩ triệu tập liên quân nhiều nước cứu viện Nam Triều Tiên. Để ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản, Mĩ quyết tâm ủng hộ một lần nữa chính phủ Quốc Dân Đảng từng bị bỏ rơi, khiến chính phủ Quốc Dân Đảng lại có được cơ hội sống sót. Khi Cộng sản Trung Quốc tham gia Chiến tranh Triều Tiên, đối địch với quân Liên Hợp Quốc, quan hệ giữa Mĩ và Cộng sản Trung Quốc cũng giảm xuống mức thấp nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do thời kì này đã xuất hiện tình trạng một nước Trung Quốc với hai chính phủ, vì vậy nảy sinh ra tranh cãi về việc nên để chính phủ nào đại diện Trung Quốc tham dự đàm phán Hòa ước San Francisco. Hội nghị hòa bình với Nhật năm 1951 ở San Francisco do Mĩ và Anh chủ trì. Mĩ ủng hộ chính phủ Quốc Dân Đảng, nhưng Anh đã công nhận chính phủ Bắc Kinh sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập để duy trì quyền cai trị của mình tại Hồng Kông. Do đó, hai nước chính không có cách nào đạt được đồng thuận trong vấn đề ai sẽ đại diện cho Trung Quốc. Cuối cùng, hai bên quyết định rằng hai chính phủ này đều không được mời tham dự hội nghị. Hòa ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản sau này sẽ do Nhật Bản “tự mình” lựa chọn một chính phủ Trung Quốc để cùng kí kết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng cộng có 51 nước tham dự đàm phán hòa bình San Francisco, trong đó có Mĩ, Anh, Liên Xô, Pháp, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines… Cuối cùng, trừ Liên Xô, Tiệp Khắc và Ba Lan ra, 48 nước đã kí Hiệp ước, ngày kí là ngày 8/9/1951, ngày có hiệu lực là ngày 28/4/1952. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” do tuyệt đại đa số nước Đồng Minh tham dự, kí kết và phê chuẩn trong Thế chiến thứ hai, còn là hiệp ước hòa bình chính thức cuối cùng sau Thế chiến II, có đầy đủ tính hợp pháp. So với “Tuyên bố Cairo” và “Tuyên cáo Potsdam” chỉ có ba bốn nước lớn tham dự, không có nguyên thủ kí kết và cũng không được phê chuẩn, thì tính hợp pháp, tính phổ biến và tính quyền uy của “Hiệp ước hòa bình San Francisco” hiển nhiên cao hơn rất nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương II của “Hiệp ước hòa bình San Francisco” quy định vấn đề quy thuộc lãnh thổ. Điều 2 quy định lãnh thổ Nhật Bản phải từ bỏ. Bản dịch tiếng Trung của điều này là:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Nhật Bản công nhận nền độc lập của Triều Tiên đồng thời từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với Triều Tiên, bao gồm đảo Quelpart (Jeju / Tế Châu), đảo Port Hamilton (Geomun / Cự Văn) và đảo Dagelet (Ulleung / Uất Lăng).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và đòi hỏi đối với các đảo Đài Loan (Formosa), Bành Hồ (Pescadores).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với quần đảo Kuril, phần đảo Sakhalin cũng như các đảo lân cận giành được ngày 5/9/1905 [qua hiệp ước Portsmouth - ND].</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách liên quan tới chế độ ủy trị của Hội Quốc liên, đồng thời chấp nhận sắp xếp của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc ngày 2/4/1947 về việc mở rộng chế độ tín thác (Trusteeship) tới các đảo Thái Bình Dương trước đây dưới quyền ủy trị của Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách ở vùng Nam Cực có được do hoạt động của nhà nước hoặc công dân Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi, danh nghĩa quyền lợi và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoản 1 có nghĩa là công nhận nền độc lập của Triều Tiên và giao 3 đảo phụ cận cho nước này (không có nước nào tranh chấp 3 đảo này với Triều Tiên). Khoản 3 đề cập tới các lãnh thổ đã quy định rõ trong Hội nghị Yalta, tranh chấp tương đối nhỏ (nhưng có tranh cãi về phạm vi quần đảo Kuril, dẫn đến tranh chấp lãnh thổ giữa Liên Xô và Nhật Bản sau này). Khoản 4 về từ bỏ đất ủy trị, sự quy thuộc của chúng có văn kiện riêng quy định. Khoản 5 quy định từ bỏ quyền lợi ở Nam Cực, lãnh thổ Nam Cực được quy định bởi các điều ước khác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoản 2 và Khoản 6 đều không chỉ ra rõ sự quy thuộc đối với lãnh thổ từ bỏ, điều này sẽ tạo thành tranh cãi sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do Trung Quốc và Triều Tiên đều không tham dự hội nghị hòa bình, nên Điều 21 trong Hiệp ước hòa bình đã quy định các quyền lợi mà Trung Quốc và Triều Tiên được hưởng trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Trong đó Triều Tiên có quyền lợi được quy định trong Điều 2, 4, 9 và 12, Trung Quốc có quyền lợi được quy định trong Điều 10 và Điều 14. Cần lưu ý là Trung Quốc không được hưởng các quyền lợi trong Điều 2. Điều này cũng có nghĩa là mặc dù Nhật Bản từ bỏ những lãnh thổ này, nhưng không hề có quy định nào cho phép trả lại những lãnh thổ này cho Trung Quốc. Đây là nguyên nhân gốc rễ của “vấn đề Đài Loan chưa định luận” và của vấn đề về tình trạng chưa được xác định của Hoàng Sa và Trường Sa sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” không được phân bổ rõ ràng cho bất cứ nước nào, nhưng bất kể từ hàm ý pháp lí hay là từ các thảo luận thực tế khi đó có thể thấy rằng quyết định về chúng là khá rõ, đó là “chưa quyết định”. Nếu như nói việc Hoàng Sa và Trường Sa không được nhắc tới trong “Tuyên bố Cairo” có thể do sơ suất nhất thời hoặc bị độ dài [văn kiện] hạn chế, thế thì phần về Hoàng Sa và Trường Sa trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” được thảo luận tỉ mỉ, tranh cãi gay gắt, cuối cùng mỗi một chữ đều được lựa chọn kĩ càng, chỉ có thể nói đây là kết quả của việc làm có chủ ý. Có thể có người bày tỏ sự nghi hoặc đối với kết quả này, nhưng từ quan điểm lịch sử thì đó lại là điều rất tự nhiên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, ngay từ đầu khi soạn thảo bản dự thảo “Hiệp ước hòa bình San Francisco”, thì đã xác định sẵn cụm từ “Nhật Bản từ bỏ” cho phần về Hoàng Sa và Trường Sa. Bản dự thảo tháng 3/1947 viết: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua tuyên bố này Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với đảo Đông Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa cũng như tất cả các đảo khác ở biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, trong phiên bản này, từ “từ bỏ” không hề được dùng đến cho các lãnh thổ khác được đề cập đến. Ví dụ Đài Loan trong Khoản 2 được nêu là sẽ trả lại cho Trung Quốc. Sở dĩ sau này nó trở thành lãnh thổ Nhật Bản “từ bỏ” là vì Trung Quốc bị Đảng Cộng sản soán lấy chính quyền. Nếu như quy định trả lại Đài Loan cho Trung Quốc thì sẽ nẩy thêm vấn đề là trả lại cho chính quyền nào. Hơn nữa, về mặt pháp lí việc Mĩ giúp Đài Loan phòng thủ sẽ bị nghi ngờ là xâm lược, dẫn đến sự bất tiện về mặt pháp luật. Do đó, theo kiến nghị của Anh từ “từ bỏ” đã được sử dụng còn sự quy thuộc thì không xác định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, với Hoàng Sa và Trường Sa ngay từ đầu đã được viết là “từ bỏ”, dễ thấy rõ là khác với tình trạng của Đài Loan. Trong các phiên bản sau đó, từ ngữ nói về việc Nhật Bản từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa vẫn không thay đổi, nhưng có một số sửa đổi về phạm vi. Ví dụ trong phiên bản áp chót, dùng ‘Spratly Island’ để chỉ quần đảo Trường Sa, nhưng Pháp kiến nghị dùng ở số nhiều là ‘Spratly Islands’ để xác định rõ hơn phạm vi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, so với Đài Loan, tình trạng các đảo biển Đông ngay từ đầu vẫn “chưa xác định”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sở dĩ trong hiệp ước hòa bình không đề cập đến sự quy thuộc của chúng, nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề chủ quyền rất khó xác định, nguyên nhân khác là do chúng quá nhỏ nên không được coi là quá quan trọng, thậm chí có ý kiến vào lúc đó rằng nói chung chúng không đáng được nhắc đến trong hòa ước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Pháp tham dự toàn bộ quá trình thảo luận các phiên bản dự thảo, nhưng không hề đề xuất viết rõ rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc nước Pháp trong hòa ước. Điều này có hai nguyên nhân: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất, trong các khoản khác của Điều 2 của hiệp ước đều chỉ viết rằng Nhật Bản từ bỏ lãnh thổ, và chỉ riêng Hoàng Sa và Trường Sa ngoại lệ thì tỏ ra không thích hợp; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai, khi đó điều mà Pháp quan tâm nhất là Liên bang 3 nước Việt, Miêên, Lào (Associated States of Vietnam, Laos and Cambodia) do họ thành lập có được quốc tế cộng nhận nhằm duy trì sự thống trị của họ ở Đông Dương hay không. Vì vậy trong hội nghị, Pháp muốn tìm kiếm sự đồng ý của Mĩ để 3 quốc gia độc lập này tham gia Hội nghị San Francisco. Ngoài ra, Pháp còn muốn ngăn ngừa Việt Minh tham gia hội nghị, vì vậy cũng không muốn gây thêm rắc rối;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba, việc Pháp và Việt Nam tranh luận bên nào sở hữu quần đảo Trường Sa cũng ảnh hưởng đến tiến trình. Khi đó Pháp vẫn có ý muốn giữ lại Trường Sa, cho rằng mình chiếm Trường Sa trước, khác với Hoàng Sa vốn thuộc lãnh thổ Việt Nam. Nhưng lúc này Quốc gia Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) cũng tham dự hội nghị, và chính quyền Bảo Đại một mực cho rằng Trường Sa cũng thuộc Việt Nam. Nếu như Pháp khăng khăng nói Trường Sa thuộc về mình thì sẽ xung đột trực tiếp với Việt Nam tại hội nghị, không có lợi cho việc kí kết hòa ước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó còn có một ý kiến khác cho rằng vì lí do chiến lược nên biến Trường Sa thành một lãnh thổ ủy trị. Úc lo sợ Trung Quốc bành trướng ở biển Đông, nên đã kiến nghị với Anh: để đề phòng cộng sản Trung Quốc giành được Trường Sa, phương án tốt nhất là biến nó thành một lãnh thổ ủy trị, và cũng kiến nghị Anh tận dụng ưu thế hải quân hiện thời để kiểm soát trước khu vực này. Nhưng Anh sợ làm mất lòng Bắc Kinh, gây bất lợi cho sự thống trị của họ ở Hồng Kông nên từ chối.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngược lại, về nguyên tắc Anh ủng hộ chủ quyền của Pháp đối với Trường Sa, nhưng cũng cho rằng mình có một số quyền lợi nhất định đối với Trường Sa, do đó trong hội nghị chỉ ủng hộ lập trường của Pháp dùng cách diễn đạt ‘từ bỏ’. Trong một tài liệu nội bộ năm 1949, quan chức ngoại giao Millward nói tới việc Nhật Bản phải dứt khoát từ bỏ quần đảo Trường Sa trong hòa ước, nhưng hiệp ước không nên xử lí vấn đề chủ quyền của nó mà tạm gác lại để Anh, Pháp và nước khác giải quyết sau này, chỉ đến khi các khoảng trống được lấp đầy, và một số nước yêu sách có thể chứng minh chủ quyền của họ một cách thực chất và lâu dài hơn, thì câu hỏi này mới có thể được giải quyết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Mĩ thiên về việc giao trả quần đảo này cho Trung Hoa Dân Quốc, nhưng vì vào thời điểm đó không có chính phủ Trung Quốc nào được công nhận hợp pháp và họ cũng hiểu rõ mâu thuẫn giữa các nước trong vấn đề này, nên chuyển sang đồng ý để tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa là chưa xác định. Vì vậy, các nước đều thiên về không giải quyết vấn đề này ở hội nghị, việc dùng cụm từ “Nhật Bản từ bỏ” đã trở thành sự đồng thuận của tất cả các bên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân Quốc, dù không tham gia hội nghị nhưng đã tham gia thảo luận một loạt dự thảo. Tuy nhiên, trong loạt thảo luận về vấn đề lãnh thổ trong hòa ước giữa Dulles và Cố Duy Quân từ 1950 đến 1951, Trung Hoa Dân Quốc chưa bày tỏ bất kì ý kiến nào về Hoàng Sa và Trường Sa. Hai bên đã thảo luận về Đài Loan, Lưu Cầu (Ryukyu), Nam đảo Sakhalin và 4 đảo phía Bắc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dulles nhiều lần giải thích cho Cố Duy Quân lí do vì sao Đài Loan bị cho vào danh sách lãnh thổ bị Nhật Bản từ bỏ thay vì được trả lại cho Trung Quốc, điều đó là để ngăn ngừa Cộng sản Trung Quốc lấy cớ cướp đoạt Đài Loan cũng như tránh việc Mĩ không có cách nào phù hợp theo luật quốc tế để giúp Đài Loan phòng thủ. Có lẽ Đài Loan cho rằng Mĩ cũng đã cân nhắc điều này khi đưa ra quyết định cuối cùng về vụ Hoàng Sa và Trường Sa. Đây có thể là nguyên nhân Đài Loan không thảo luận vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Hội nghị, đã diễn ra các tranh luận về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko đã đề xuất trong bài phát biểu của mình vào ngày 5/9 rằng Điều 2 nên được sửa đổi như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản thừa nhận chủ quyền hoàn toàn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Mãn Châu, Đài Loan và tất cả đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (quần đảo Pescadores), quần đảo Đông Sa (quần đảo Pratas) cũng như quần đảo Tây Sa và quần đảo Trung Sa (quần đảo Paracel, quần đảo Amphitrite, bãi Macclesfield) và quần đảo Nam Sa (bao gồm đảo Nam Uy trong đó) và từ bỏ tất cả quyền, cơ sở của quyền và yêu sách đối với các lãnh thổ kể trên....</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng đề nghị này bị các nước tham dự hội nghị bác bỏ với tỉ số lớn. Sở dĩ Liên Xô đưa ra đề nghị này là vì mục đích quan trọng hơn, đó là nhằm giúp Cộng sản Trung Quốc giành được vị trí đại diện Trung Quốc, mà ngoài Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc ra, các nước tham dự hội nghị sớm đã đạt được đồng thuận, kiên quyết phủ quyết ý đồ này của Liên Xô.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó trong phiên họp cùng ngày, đại biểu Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định rõ hai quần đảo này lãnh thổ này là lãnh thổ Việt Nam: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi khẳng định quyền của chúng tôi đối với quần đảo Trướng Sa và quần đảo Hoàng Sa, chúng luôn thuộc về Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hội nghị không có ai đưa ra ý kiến phản đối. Việt Nam coi việc không có người phản đối khi đó là một trong những chứng cứ rằng cộng đồng quốc tế ủng hộ Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam. Chứng lí của cách diễn giải này không đủ: thứ nhất nước có liên quan là Trung Quốc không có đại biểu ở đó; thứ hai, đại biểu của ba nước ban đầu đề xuất rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Hoa Cộng sản đều không có mặt, nếu không họ có thể đã đưa ra phản đối; cuối cùng, phần này của hội nghị không yêu cầu các nước bày tỏ thái độ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có người cho rằng những điều khoản không rõ ràng này trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” ít ra là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến các tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á sau này. Nhưng thực ra, các tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á mới là nguyên nhân làm nẩy sinh những điều khoản không rõ ràng đó. “Hiệp ước hòa bình San Francisco” không hề tạo ra tranh chấp mới, nó chỉ không giải quyết các tranh chấp có từ lâu mà thôi. Phía Trung Quốc (cộng sản) còn cho rằng Mĩ cố ý dùng thuật ngữ “từ bỏ” trong “Hiệp ước hòa bình San Francisco” chỉ nhằm “ngáng chân” Trung Quốc. Từ thảo luận phía trên có thể thấy rằng cách lí giải này không có căn cứ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau hội nghị San Francisco, Nhật Bản chọn kí hòa ước với chính phủ Dân Quốc. Khi đàm phán hòa ước, chính phủ Dân Quốc trước hết yêu cầu Nhật Bản đưa vào hòa ước cụm từ “trả lại Đài Loan và Tây Sa, Nam Sa cho Trung Quốc”, nhưng bị Nhật Bản từ chối. Nhật Bản cho rằng nếu viết như vậy trong hòa ước Trung-Nhật thì Nhật sẽ vi phạm cam kết với các nước Đồng minh khác. Ý của Nhật Bản là phạm vi trong hòa ước Trung Nhật không thể vượt quá “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Mẫu số chung mà hai bên có thể tìm ra là Nhật Bản sẽ viết tách rời hai địa điểm này (Đài Loan cùng Hoàng Sa, Trường Sa) trong hòa ước. Theo đó, Điều 2 trong “Hòa ước Trung -Nhật” kí kết giữa Nhật Bản và chính phủ Quốc Dân đảng ngày 28/4/1952 quy định:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 2: Hai bên thừa nhận rằng theo Điều 2 của Hiệp ước San Francisco ngày 8/9/1951, Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa chủ quyền cũng như mọi yêu sách về đảo Đài Loan (Formosa), Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hòa ước này thừa nhận Điều 2 “Hiệp ước San Francisco”, đồng thời xác định một lần nữa việc Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền đối với Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng cũng không chỉ ra rõ sự quy thuộc của những đảo này. Chính phủ Dân Quốc giải thích rằng vì hiệp ước do hai nước Trung Quốc và Nhật kí kết, do đó lãnh thổ Nhật từ bỏ sẽ đồng nghĩa với ngầm trả lại Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước Pháp cũng có lo ngại như vậy, nên đã vặn hỏi Nhật Bản. Cuối cùng, ngày 23/5 cùng năm Nhật và Pháp đạt được thỏa thuận, dùng hình thức công hàm ngoại giao để xác nhận rằng lập trường của Nhật Bản trong “Hòa ước Trung-Nhật” là thống nhất với “Hòa ước San Francisco”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thỏa thuận dùng hình thức công hàm chứ không ra tuyên bố thực tế là để không làm tổn hại quan hệ giữa họ với Trung Hoa Dân Quốc. Trong công hàm của Nhật Bản viết:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">I concur with your understanding that Article 2 of the Peace Treaty between Japan and the Republic of China signed on April 28, 1952, should not be construed as having any special significance or meaning other than that implied by Article 2, paragraph (f), of the Treaty of San Francisco</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôi đồng tình với cách hiểu của ông rằng Điều 2 của Hiệp ước Hòa bình giữa Nhật và THDQ được kí kết vào ngày 28/4/1952, không nên được hiểu là có bất kì ý nghĩa hoặc nghĩa đặc biệt nào khác với ý nghĩa mà Điều 2, đoạn (f), của Hiệp ước San Francisco hàm chứa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 15/8/1951, chính phủ Bắc Kinh ra tuyên bố không thừa nhận “Hiệp ước San Francisco”. Đồng thời họ cũng khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, bản dự thảo cũng cố ý quy định Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền lợi đối với đảo Nam Uy (Trường Sa Lớn) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) mà cũng không nhắc đến vấn đề trả lại chủ quyền. Trên thực tế, quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như toàn bộ quần đảo Nam Sa và quần đảo Trung Sa, quần đảo Tây Sa đều là lãnh thổ Trung Quốc, tuy từng bị đế quốc Nhật Bản chiếm đóng khi phát động chiến tranh xâm lược, nhưng sau khi Nhật Bản đầu hàng đã được chính phủ Trung Quốc lúc đó tiếp thu toàn bộ. Chính phủ nhân dân trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đây tuyên bố rằng: chủ quyền không thể xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa sẽ không bị ảnh hưởng dưới bất kì hình thức nào, bất kể chúng có được Mĩ, Anh quy định hay không và quy định như thế nào trong bản dự thảo hòa ước với Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong những năm 1970, “Tuyên bố chung Trung - Nhật” (1972) và “Hiệp ước hòa bình hữu nghị Trung Nhật” (1978) được kí kết khi Trung Quốc và Nhật thiết lập quan hệ ngoại giao cũng không nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa. Thậm chí trong các thảo luận khi đó cả hai quần đảo này cũng không được nhắc đến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do trong hiệp ước sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa không được nêu ra, các bên đều giải thích theo hướng có lợi cho mình. Ví dụ Chemilier Gendreau giải thích rằng “Hòa ước Trung-Nhật” quy định Nhật Bản từ bỏ lãnh thổ, nhưng lại không quy định giao lãnh thổ cho Trung Quốc, sự thực chính là quy định không giao cho Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kiểu diễn giải này có phần quá mức. Điều duy nhất mà Hiệp ước Hòa bình San Francisco làm được là tái khẳng định tình trạng tranh chấp của những quần đảo này.</span></p><br /><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 16pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">III.9. Kết luận: Di sản của thời đại Nhật Bản</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế chiến thứ hai kết thúc và việc kí kết hòa ước với Nhật đánh dấu sự kết thúc thời đại Nhật Bản ở biển Đông. Mặc dù trong hòa ước, Nhật Bản đã từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa nhưng vấn đề nó để lại vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã chiếm đóng Đông Sa (Pratas), Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời kì Nhật Bản chiếm đóng, tình trạng pháp lí của mấy quần đảo này là rất khác nhau, điều này đã trực tiếp ảnh hưởng vấn đề pháp lí sau này. Đối với Đông Sa, Nhật Bản coi đó là lãnh thổ của Trung Quốc, Nhật Bản ở trong tình trạng chiếm đóng, sau chiến tranh Trung Quốc thu hồi, và không có sự phản đối nào từ bất kì bên nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Hoàng Sa, năm 1938 Pháp chiếm quần đảo này dưới sự đồng ý ngầm của Trung Quốc, và lúc này Nhật Bản đã có sự hiện diện quân sự ở Hoàng Sa. Nhật Bản một mặt tuyên bố Hoàng Sa là lãnh thổ Trung Quốc mà nước này chiếm đóng, điều này hiển nhiên là để ngăn cản Pháp chiếm Hoàng Sa. Nhưng sau khi việc chiếm đóng của Pháp trở thành sự thực, Nhật Bản lại ngầm thừa nhận sự kiểm soát của Pháp ở Hoàng Sa. Cho nên trước tháng 3/1945, Pháp và Nhật chung sống hòa bình ở Hoàng Sa, trên danh nghĩa Pháp kiểm soát Hoàng Sa. Tình trạng này kéo dài đến tháng 3/1945 sau khi Nhật Pháp xung đột. Quân Nhật đã đánh bại Pháp, chiếm đóng Hoàng Sa cho đến khi Nhật Bản đầu hàng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Trường Sa, Nhật Bản phớt lờ quân Pháp đóng trên đảo, sau khi chiếm được, họ sáp nhập Trường Sa đã vào thành phố Cao Hùng với tên gọi quần đảo Tân Nam. Quân Pháp mặc dù vẫn ở trên đảo nhưng lại ngầm thừa nhận sự kiểm soát của Nhật Bản. Cho đến sau khi Nhật và Pháp trở thành thù địch, Pháp bị quân Nhật trục xuất. Như vậy, trong thời chiến, theo quan điểm của Nhật Bản, tình trạng của Trường Sa là lãnh thổ của Nhật Bản chứ không phải là lãnh thổ của Trung Quốc hay của Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau chiến tranh, Nhật Bản đã từ bỏ các đảo ở biển Đông. Pháp và Trung Quốc đều lần lượt quay trở lại Hoàng Sa và Trường Sa. Điều trùng hợp là đối với Pháp, Hoàng Sa và Trường Sa cũng có cách hiểu pháp lí khác nhau: Hoàng Sa vốn là lãnh thổ truyền thống của Việt Nam, hiện tại là đất của An Nam, vì vậy trong các hành động ở Hoàng Sa, Pháp đều để người Việt Nam tham gia; còn Trường Sa là đất vô chủ do người Pháp khai phá, không có quan hệ gì với An Nam, trong hành động ở Trường Sa không có người Việt Nam tham gia. Đương nhiên đối với phía Pháp, điều quan trọng nhất sau chiến tranh vẫn là quay trở lại Đông Dương, Hoàng Sa và Trường Sa đều chỉ có thể đặt ở vị trí phía sau, khi Việt Nam vẫn còn phải chịu sự cản trở của Trung Quốc. Đây chính là lí do vì sao Pháp giành trước việc tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không để lại quân trú đóng. Khi người Pháp biết Trung Quốc phái quân đến Hoàng Sa, họ phái quân đến để đuổi đi, nhưng chỉ có thể chiếm một nửa quần đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với Trung Quốc, đất đai bị mất quan trọng nhất phải thu hồi sau chiến tranh là Đài Loan (đương nhiên còn có vùng Đông Bắc), các đảo biển Đông cũng bị xếp ở phía sau. Nếu không có Đài Loan nhắc nhở, Trung Quốc sẽ không lưu ý đến chúng. Trung Quốc tiến vào chiếm giữ Đông Sa và Hoàng Sa là rõ ràng thẳng thắn, nhưng đối với việc “thu hồi” Trường Sa lại có vẻ không thật quang minh chính đại. Lúc này Trung Quốc có quân chiếm đóng ở cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, điều này sẽ giúp họ chiếm được ưu thế trong tranh chấp hai quần đảo sau này. Ý định ban đầu của việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai của Trung Quốc chỉ là để phân định phạm vi thu hồi nhưng sau đó lại bị diễn dịch thành ý nghĩa khác, việc này để nói sau. Đáng tiếc là sau nội chiến Trung Quốc, mọi việc thay đổi hoàn toàn, Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan, rút quân khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, phe Cộng sản không có thực lực lắp vào chỗ trống, thế là một lần nữa Trường Sa xuất hiện khoảng trống trong kiểm soát các đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở biển Đông, Philippines mới độc lập, là một kẻ đến sau. Trong thời thuộc Mĩ, người Mĩ không quan tâm đến Trường Sa, ngay cả có ý kiến đề xuất sáp nhập của Philippines cũng không đồng ý. Sau khi được độc lập, Philippines nhanh chóng đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với Trường Sa, việc này thậm chí còn sớm hơn yêu sách công khai của Trung Quốc đối với Trường Sa. Kể từ đó, họ luôn là một bên tranh chấp chủ yếu. Lợi ích chủ yếu của Philippines đối với Trường Sa vào lúc đó vẫn là lợi ích địa chiến lược.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về phương diện luật quốc tế, thời kì này có hai văn kiện rất quan trọng, một là “Tuyên bố Cairo”, hai là “Hiệp ước hòa bình San Francisco”. Có một số quan điểm sai lầm cần phải làm sáng tỏ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong “Tuyên bố Cairo” sự quy thuộc của Hoàng Sa và Trường Sa không hề được đề cập đến, tại hội nghị Potsdam cũng không được đề cập đến; trong “Tuyên bố Cairo”, theo quan điểm của Mĩ, Trường Sa thuộc về các đảo Thái Bình Dương bị xâm chiếm sau năm 1941 mà Nhật Bản phải từ bỏ chứ không phải là lãnh thổ phải trả lại cho Trung Quốc. Còn quần đảo Hoàng Sa thì họ thừa nhận Trung Quốc và Pháp có tranh chấp, và muốn họ tự xử lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có người cho rằng trong thế chiến thứ hai, Nhật Bản sáp nhập quần đảo Trường Sa vào Đài Loan, cho nên sẽ phải trả lại cho Trung Quốc cùng với Đài Loan theo “Tuyên bố Cairo”. Loại quan điểm này cũng sai lầm. Một là lãnh thổ mà Nhật Bản xâm chiếm vào thời chiến, đương nhiên phải khôi phục tình trạng trước chiến tranh rồi mới xem xét sự quy thuộc của chúng, nếu không chẳng hạn nếu như Nhật Bản cũng giao đảo Luzon cho Đài Loan quản lí, thì đảo Luzon cũng sẽ phải bị Trung Quốc thu hồi sao? Hai là như trình bày ở trên, Mĩ đã xem nó thuộc “các đảo ở Thái Bình Dương bị xâm chiếm sau năm 1941”, đương nhiên không thể thuộc về một bộ phận của Đài Loan được liệt kê ra như trong “Tuyên bố Cairo”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">theo “Hiệp ước hòa bình San Francisco”, Trường Sa và Hoàng Sa đều là lãnh thổ mà Nhật Bản từ bỏ, đây không phải là âm mưu của Mĩ cố ý nhằm vào Trung Quốc mà là quyết định được đưa ra dựa trên thực tế khách quan và tình hình khi đó. Một là từ thời chiến đến giai đoạn soạn thảo hòa ước, phía Mĩ từ đầu đến cuối đều hiểu tính phức tạp của các tranh chấp chủ quyền này; hai là ngay từ bản dự thảo thứ nhất chúng đã được xác định là lãnh thổ “từ bỏ” chứ không giống như Đài Loan được đưa vào diện “trả lại Trung Quốc”, nếu nói rằng cách xử lí cuối cùng đã sửa Đài Loan thành [lãnh thổ] từ bỏ là nhằm vào tình hình đặc thù của Trung Quốc, vậy thì đối với Hoàng Sa và Trường Sa, những cân nhắc về mặt này là rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hòa ước giữa Nhật Bản và Đài Loan không thể được hiểu là phải trả Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Thứ nhất, không có điều khoản nào nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa phải được trả lại cho Trung Quốc; thứ hai, việc Đài Loan cũng như Hoàng Sa và Trường Sa đã được đề cập trong hiệp ước hòa bình này chỉ cho thấy rằng hai khu vực này có liên quan đến Trung Quốc, điều này là phù hợp với thực tế, nhưng không có chuyện đề xuất trả hai nơi này cho Trung Quốc, thứ ba, trong công hàm gửi cho Pháp có nêu rõ rằng trong hòa ước này Nhật Bản không vượt quá phạm vi của Hiệp ước hòa bình San Francisco. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tuyên bố của Cộng sản Trung Quốc chỉ giải thích thái độ đơn phương của Trung Quốc có lập trường gì, điều này không thể lí giải là đã giành được hai quần đảo này một cách hợp pháp..</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đề xuất của Liên Xô trong hội nghị hòa bình rằng hai quần đảo này thuộc về nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị bác bỏ, không thể coi đó là bác bỏ việc hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Vì khi đó có hai chính phủ Trung Quốc, phủ quyết này chỉ là phủ quyết việc giao chúng cho chính phủ Bắc Kinh, hơn nữa dự tính ban đầu của đề xuất này cũng không ở chỗ hai quần đảo này thuộc về ai mà là ở chỗ ai mới có thể đại diện cho Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ bảy</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tại hội nghị hòa bình Việt Nam tuyên bố rằng hai quần đảo thuộc về Việt Nam, không ai phản đối, điều này cũng chỉ thể hiện lập trường đơn phương của Việt Nam, không nên mở rộng thái quá thành các nước có mặt đều đồng ý với lập trường của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tám</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, theo tuyên truyền của Trung Quốc, Philippines chỉ mới tham gia tranh chấp biển Đông từ những năm 1970 vì quyền lợi dầu mỏ. Điều này hoàn toàn không khớp với sự thực, trên thực tế Philippines đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa sớm hơn Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ chín</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai của Trung Quốc chỉ có thể được hiểu đó là yêu sách chủ quyền đối với các đảo trong đường chữ U.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.80147; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ mười</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc dùng tàu Mĩ tặng đi “tiếp thu” Hoàng Sa và Trường Sa, việc này không thể coi là Mĩ đồng ý, thậm chí ủng hộ Trung Quốc làm như vậy. Ngoài ra, Trung Quốc dùng từ “tiếp thu” có thể gây hiểu nhầm rằng cộng đồng quốc tế trả hai quần đảo cho Trung Quốc, trên thực tế, hành vi của Trung Quốc và hành vi của Pháp không khác nhau về tính chất. Trung Quốc có lúc còn dùng từ “tiếp nhận đầu hàng”, trên thực tế, nghi thức tiếp nhận đầu hàng ở Trường Sa đã được người Anh hoàn thành sớm trước đó, việc xử lí quân Nhật ở đảo Ba Bình cũng do Mĩ hoàn thành, còn ở Hoàng Sa sau chiến tranh quân Nhật đã rút lui nên về căn bản không có chuyện gọi là “tiếp nhận đầu hàng”.</span></p><div><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">------------------------------</span></div><div><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Ban nào muốn đọc luôn cả chú thích thì xem <a href="https://docs.google.com/document/d/1Y2R9CcV2ObNTU3Zk2x6azhrNSyGUp00EOb48LkF-Z_k/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây</a>)</span></div><div><span style="font-size: 12pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-e72a475f-7fff-b8e2-5a64-5101a62fc342"><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-21776804558661203952023-02-26T15:06:00.004-08:002023-05-11T01:05:35.089-07:00TRANH CHẤP VỀ QUYỀN LỰC TRÊN BIỂN (2009-2015) - Lê Oa Đằng (Ch. VI)<p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-cca633c4-7fff-9605-2d9d-2388d83461ac"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG VI</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TRANH CHẤP VỀ QUYỀN LỰC TRÊN BIỂN (2009-2015)</span></h1><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế vận hội Bắc Kinh 2008, Trung Quốc đề ra Chiến lược trở thành cường quốc biển. Trong bối cảnh đó, vấn đề biển Đông tiếp tục nóng lên, nhiều xung đột tiếp diễn. Năm 2009 là bước ngoặt trong lịch sử Nam Hải (biển Đông), với 3 sự kiện lớn xảy ra: sự kiện tàu USNS Impeccable giữa Trung Quốc và Mĩ; việc nộp hồ sơ thềm lục địa mở rộng cho Liên Hiệp quốc, và việc Mĩ đưa ra Chiến lược tái cân bằng Châu Á. Vấn đề biển Đông nhanh chóng chuyển từ vấn đề khu vực thành vấn đề quốc tế. Trung Quốc không che đậy tham vọng chiếm lấy biển Đông, các nước xung quanh đoàn kết chống lại Trung Quốc, các nước lớn ngoài khu vực do Mĩ đứng đầu cũng tích cực can dự hơn vào công việc biển Đông. Ba vụ tranh chấp lớn về dầu mỏ trong năm 2011 báo hiệu xu hướng xấu đi trong cục diện biển Đông. Năm 2012 là năm mang tính bước ngoặt: sự kiện bãi Scarborough là sự chuyển giao quyền kiểm soát thực tế đảo đầu tiên trong thế kỉ XXI, quan hệ Trung Quốc – Philippines liên tục rơi xuống đáy; gần như đồng thời, Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, và trong một loạt các biện pháp, kế hoạch giành quyền kiểm soát thực tế biển Đông bằng biện pháp uy hiếp đã được xúc tiến toàn diện; tiếp đó, cuộc khủng hoảng giữa Trung Quốc và Nhật Bản về vấn về đảo Điếu Ngư (Senkaku) đã làm tình hình vốn ổn định trong khu vực xấu đi, Nhật Bản cũng tham gia vào cuộc tranh chấp vấn đề biển Đông. Năm 2013, bất chấp phản đối của Trung Quốc, với sự ủng hộ của ASEAN và cộng đồng quốc tế, Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế; để trả đũa, Trung Quốc đã gây ra sự kiện bãi Nhân Ái (Cỏ Mây), dẫn đến sự chỉ trích của quốc tế; tháng 9, Trung Quốc đột nhiên tuyên bố thiết lập khu nhận dạng phòng không “kiểu Trung Quốc”, không phù hợp với luật quốc tế, không những dẫn đến sự phản đối quyết liệt của thế giới mà còn dấy lên lo ngại về khả năng Trung Quốc sẽ thiết lập khu nhận dạng phòng không ở biển Đông và về những tranh chấp về đường 9 đoạn. Năm 2014, ngay sau khi đề xuất (quan điểm) “Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN” không lâu, Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu đặt tại vùng biển đảo Hoàng Sa làm nổ ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc quyết liệt ở Việt Nam, tranh chấp Hoàng Sa lại nổi lên. Gần như đồng thời, báo chí đã đưa tin công khai việc Trung Quốc xây dựng đảo quy mô lớn tại biển Đông, dẫn đến sự chỉ trích gay gắt từ các nước, nhưng Trung Quốc không nao núng, đến tháng 6/2015 tuyên bố hoàn thành công trình bồi đắp đảo; cuối năm 2015, Mĩ tuyên bố thực hiện tự do hàng hải, không công nhận tính pháp lí của các đảo nhân tạo; tháng 7/2016, Philippines thắng kiện trong bối cảnh Trung Quốc từ chối không tham dự vụ kiện tại Tòa trọng tài, và không thừa nhận kết quả trọng tài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cục diện biển Đông diễn biến nhanh, nhiều sự kiện khiến người ta không thể không quan tâm. Vấn đề biển Đông thậm chí được mở rộng thành vấn đề quốc tế, về sự tranh giành bá quyền và chuyển dịch quyền lực giữa Trung Quốc và Mĩ. Các nước như Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và Liên minh Châu Âu vốn không mấy quan tâm, nay cũng tham dự vào vấn đề biển Đông. Cần nhấn mạnh là, vấn đề biển Đông chỉ là một khía cạnh trong quan hệ giữa Trung Quốc với ASEAN và Mĩ, Nhật, dù rất quan trọng, nhưng không phải là khía cạnh duy nhất trong quan hệ giữa các nước này, đồng thời nó còn chịu ảnh hưởng của yếu tố chính trị trong nước của mỗi quốc gia. Vì vậy, dù có lúc nào đó các xung đột ở biển Đông có vẻ rất lớn, nhưng do sự tồn tại đồng thời và sự ràng buộc của nhiều nhân tố khác nên về tổng thể, vấn đề biển Đông vẫn ở trong giai đoạn có thể kiểm soát được. Phân tích kĩ càng nguyên do của mỗi sự kiện, đặc biệt là sự kiềm chế lẫn nhau giữa các nhân tố nằm ngoài phạm vi cuốn sách này, cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu “lịch sử” (mà thuộc phạm vi nghiên cứu quan hệ quốc tế và chiến lược), hơn thế không thể trình bày trong một chương mục ngắn. Vì vậy, chương này tập trung vào tổng thuật và phân tích về mặt lí luận các sự kiện quan trọng, còn những vấn đề đối nội, đối ngoại và chiến lược chỉ có thể phân tích sơ qua. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.1. Chiến lược cường quốc biển của Trung Quốc </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 2008 là năm bước ngoặt cực kì quan trọng đối với Trung Quốc. Tháng 3, bạo loạn nổ ra ở Tây Tạng. Tháng 4, trong khi rước đuốc Thế vận hội, người Tạng hải ngoại đã có hành động cướp đuốc lửa, người Hoa hải ngoại dấy lên hành động bảo vệ ngọn đuốc thánh, chủ nghĩa yêu nước cuồng nhiệt của người Trung Quốc bị kích động cực mạnh. Tháng 5, Trung Quốc xảy ra vụ động đất Tứ Xuyên gây thương vong lớn, phản ứng cứu trợ thiên tai nhanh chóng và hiệu quả đã có tác dụng khơi dậy lòng tự hào, tình yêu nước và trách nhiệm xã hội của người dân, được đánh giá là “đa nan hưng bang”. Tháng 8, sau khi tổ chức thành công Thế vận hội Bắc Kinh được mong đợi nhiều năm, Trung Quốc bỗng trở thành nước siêu lớn trong con mắt thế giới, lòng tự tin, tự hào dâng cao. Tháng 10/2008, bắt đầu cơn sóng thần tài chính ở Mĩ, cả thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, nhưng Trung Quốc không những thoát khỏi hiểm họa, mà còn phát huy tác dụng quan trọng trong việc ổn định tình hình khu vực và thậm chí trên thế giới, trở thành niềm hy vọng cứu vãn nền kinh tế thế giới. Chỉ trong nháy mắt, Trung Quốc chuyển từ “quốc gia đang phát triển” trước đó thành “ông nhà giàu lớn” trong mắt thế giới. Với sức mạnh tài chính, lòng tự tin của Trung Quốc được dâng cao. Sau Thế vận hội và cơn sóng thần tài chính, tình hình quốc tế rất thuận lợi cho Trung Quốc. Hơn thế, Trung Quốc cũng không cần thiết phải bao quát toàn diện đến cục diện thế giới như trước khi diễn ra Thế vận hội, bắt đầu xúc tiến mạnh mẽ hơn chiến lược nước lớn của mình. Tham vọng nước lớn của Trung Quốc phản ánh rõ trong quyền lực biển. Trung Quốc vốn là quốc gia lục địa, rất ít quan tâm đến biển. Sau khi thành lập nước, một phần vì không đủ thực lực nên quyền lợi đất liền là mối quan tâm lớn nhất của các nhà chính trị và quân sự Trung Quốc. Nhưng, sau cải cách mở cửa, quyền lợi biển ngày càng trở thành một trong những vấn đề hạt nhân mà Trung Quốc quan tâm. Năm 1982, sau khi Lưu Hoa Thanh trở thành Tư lệnh Hải quân, chiến lược biển của Trung Quốc chuyển từ “phòng vệ gần bờ” (cận ngạn phòng vệ) sang “phòng vệ vùng biển gần” (cận hải phòng vệ). Dưới con mắt của Lưu Hoa Thanh, phòng vệ vùng biển gần tức là “Nam Hải, biển Hoa Đông, biển Hoàng Hải,... trong các chuỗi đảo thứ nhất, nghĩa là bao gồm toàn bộ vùng biển trong quyền tài phán của nước ta theo quy định của Công ước Luật biển và bao gồm lãnh thổ vốn có của nước ta trên các đảo thuộc Nam Hải”. So với phòng vệ gần bờ thì khái niệm khu vực biển này đã được mở rộng, cùng với sự phát triển về kinh tế và tiến bộ về khoa học kĩ thuật, nó được “mở rộng từng bước đến chuỗi đảo thứ hai.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau năm 2008, Trung Quốc càng quyết tâm trở thành cường quốc biển, được đúc kết thành 4 nhiệm vụ: “Một là, giữ vững sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, đảm bảo quyền lợi biển của quốc gia, đồng thời mở rộng chiều sâu phòng vệ biển của nước ta. Hai là, đảm bảo sự thông suốt của các tuyến đường biển và sự tự do đi lại của các tàu buôn, vốn rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia của chúng ta. Ba là, bảo vệ các lợi ích và lợi ích đầu tư ở nước ngoài ngày càng mở rộng của nước ta. Bốn là, đảm nhận nhiệm vụ duy trì hòa bình thế giới và an ninh biển.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhiệm vụ xây dựng cường quốc biển được ghi trong Báo cáo Đại hội XVIII. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kinh phí quốc phòng Trung Quốc tăng với tốc độ hai chữ số liên tục trong hơn 10 năm. Ưu tiên phát triển hải quân, nghiên cứu phát triển và mua một khối lượng lớn vũ khí cùng tàu bè, đóng mới chiến hạm với tốc độ “như bánh canh”. Có hai điều đáng lưu tâm đặc biệt: một là, Trung Quốc đã có tàu sân bay đầu tiên, và đang gấp gáp đóng tàu thứ hai và thậm chí thứ ba; hai là, Trung Quốc cải tạo một số lượng lớn tàu chiến thành tàu hải giám, đồng thời đóng mới tàu hải giám trọng tải lớn. Loại thứ nhất có tác dụng uy hiếp chiến lược, loại thứ hai là công cụ trực tiếp nhất cho bước tiến ở mức gần vũ lực ở biển Hoa Đông và biển Đông. Cuối năm 2008, hải quân Trung Quốc ra khỏi các biển lân cận Trung Quốc, tiến đến Vịnh Aden, hạm đội Trung Quốc đi khắp các vùng biển thế giới. Đây là “lần đầu tiên Trung Quốc phá vỡ chuỗi đảo thứ nhất”, đánh dấu sự khởi đầu cho quá trình vươn ra toàn cầu của hải quân.Nhưng, mục tiêu thực tế hơn của Trung Quốc chính là nhiệm vụ thứ nhất, nghĩa là “duy trì toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ quyền lợi biển quốc gia”. Trung Quốc là nước lục địa, nhưng lại có 12 000 km bờ biển. Trung Quốc từ Bắc đến Nam giáp với 4 biển là Bột Hải, Hoàng Hải, Hoa Đông và biển Đông. Ngoài Bột Hải là biển nội địa của Trung Quốc, Trung Quốc đều có tranh chấp về lãnh thổ hoặc lãnh hải với các nước trong 3 biển còn lại. Tại Hoàng Hải, Trung Quốc tranh chấp bãi Tô Nham (Liyu / Ieodo) với Hàn Quốc; tại Hoa Đông, tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku) với Nhật Bản; tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải tại biển Đông luôn là một trong những vấn đề quốc tế phức tạp nhất trên thế giới. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do nguyên nhân lịch sử, địa lí, quan hệ quy thuộc các đảo tại biển Đông vô cùng mơ hồ. Tranh chấp biển Đông hiện liên quan trực tiếp đến 6 nước 7 bên. Tranh chấp biển Đông bao gồm các tranh chấp lợi ích về một số lĩnh vực dưới đây: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết là </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tranh chấp lãnh thổ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong 5 quần đảo ở biển Đông thì Hoàng Sa, Trường Sa và đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough) đều có tranh chấp lãnh thổ. Trung Quốc cho rằng tất cả các đảo tại biển Đông đều là lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng một phần đáng kể hiện đang bị các nước chiếm đóng. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai là </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tranh chấp lãnh hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và vùng đặc quyền kinh tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Biển Đông có tài nguyên cá và dầu mỏ rất phong phú. Tuy không tuyên bố công khai nhưng Trung Quốc cho rằng mình có quyền tài phán trong đường 9 đoạn. Phạm vi do đường 9 đoạn vạch ra chiếm 80% diện tích biển Đông, nằm sát bờ biển các nước láng giềng. Trung Quốc cho rằng các nước xung quanh chiếm đoạt phần lớn tài nguyên cá và dầu mỏ của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba là </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tranh chấp về tự do hàng hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Biển Đông là tuyến hàng hải quốc tế nhộn nhịp, cũng là nơi lui tới của tàu chiến các nước. Trung Quốc hiện chưa đề cập đến vấn đề tự do hàng hải nhưng đã nhiều lần phản đối việc tàu chiến Mĩ đi lại quanh quẩn ở biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cốt lõi của vấn đề biển Hoa Đông và biển Đông là Trung Quốc cho rằng tất cả các khu vực có tranh chấp từ xưa đến nay đều thuộc về mình và hiện đang trong tình trạng bị xâm chiếm. Từ góc độ nhu cầu của Trung Quốc, sau khi sức mạnh đất nước lớn mạnh hơn, trao đổi với nước ngoài và giao lưu thương mại gia tăng rộng rãi hơn, Trung Quốc có nhiều lợi ích ở nước ngoài cần bảo vệ. Việc Trung Quốc đề ra việc tăng cường thực lực biển xa là điều dễ hiểu. Nhưng đồng thời, trong tranh chấp về biển, vấn đề tuân thủ luật quốc tế, tôn trọng yêu sách lợi ích hợp pháp và hợp lí của nước lân cận lại bị đặt ở vị trí thứ yếu. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.2. Sự kiện tàu USNS Impeccable (T-AGOS-23) (2009)</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông có lợi ích chiến lược trọng yếu đối với Mĩ. Từ thế kỉ XIX, Mĩ đã tiến hành đo đạc biển Đông và là quốc gia tích cực thứ hai, sau Anh trong việc làm này. Cuối thế kỉ XIX, Mĩ mua lại Philippines từ tay Tây Ban Nha, có quan hệ thực chất với biển Đông. Trong Thế chiến II, Mĩ là nước duy nhất đánh nhau với Nhật Bản ở biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau Thế chiến II, Mĩ là nước đầu tiên đặt chân lên hòn đảo chính của Trường Sa – đảo Thái Bình (đảo Ba Bình), đảm trách việc đuổi quân Nhật khỏi đảo. Sau đó, mặc dù Mĩ không tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và bãi Scarborough, nhưng quân đội Mĩ hoạt động tự do không bị hạn chế ở biển Đông. Trong những năm 1950 và 1960, Mĩ tiến hành nhiều hoạt động bên ngoài lãnh hải ven bờ đảo Hải Nam của Trung Quốc, chỉ khi nào đi sâu trong 12 hải lí mới bị Trung Quốc “cảnh cáo nghiêm khắc”. Mĩ cũng nhiều lần đo đạc biển Đông, lấy đảo Hoàng Nham làm nơi huấn luyện quân sự.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoạt động của Mĩ ở biển Đông có nhiều mục đích:</span></p><ul style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất,bảo đảm vận tải biển thông suốt: Từ xưa, biển Đông đã là khu vực diễn ra nhiều hoạt động của cướp biển, sự có mặt và tuần tiễu của quân đội Mĩ có tác dụng ngăn chặn nạn cướp biển nổi lên. Quân đội Mĩ cũng là lực lượng ngăn ngừa hành động phong tỏa biển Đông của các nước khác trong khu vực. Sự có mặt của quân đội Mĩ giúp biển Đông luôn thông suốt kể từ sau Thế chiến II; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai, nhu cầu tác chiến quân sự: Trong Chiến tranh Việt Nam, máy bay ném bom của Mĩ có thể cất cánh từ đường băng trên tàu sân bay ở biển Đông để không kích miền Bắc Việt Nam; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba, tham gia cứu trợ nhân đạo: Sau Chiến tranh Việt Nam, chiến hạm Mĩ đã giúp người Việt Nam chạy thoát khỏi Sài Gòn với quy mô lớn; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ tư, trinh sát động thái quân sự của các nước xung quanh: Từ bên ngoài lãnh hải Trung Quốc, Mĩ thực hiện hoạt động giám sát tàu ngầm Trung Quốc nhằm nắm rõ bí mật quân sự của Trung Quốc; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ năm, đo lường thủy văn và địa chất biển Đông: Những tư liệu thu thập được có thể sử dụng vào cả mục đích quân sự lẫn dân sự. Chẳng hạn, dữ liệu địa lí mà Mĩ thu thập được chính là dữ liệu trực tiếp ban đầu cho việc khai thác dầu mỏ ở biển Đông. </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ sáu, tiến hành hoạt động huấn luyện quân sự và tập trận chung: Sau Thế chiến II, bãi Scarborough (bãi Scarborough) đã từng là nơi tập bắn của quân đội Mĩ. Cho đến nay, Mĩ vẫn không ngừng tập trận chung với các nước xung quanh biển Đông. Nó vừa có giá trị quân sự vừa có giá trị chính trị. Có thể thấy, từ lâu, quân đội Mĩ vẫn đi lại tự do không bị hạn chế ở biển Đông, điều đó có giá trị rất tích cực đối với sự phát triển và ổn định của khu vực. </span></p></li></ul><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc không hài lòng với hoạt động trinh sát ven biển Trung Quốc của Mĩ, cho rằng đây là hành động uy hiếp an ninh quốc gia của Trung Quốc. Điều đó không khó lí giải, nhưng hoạt động trinh sát và gián điệp đã có từ xa xưa. Trong quá trình phát triển lâu dài, điều đó trở thành một thông lệ trong quan hệ quốc tế, và là hành vi mà các bên có thể đoán được lẫn nhau. Trong trường hợp đối phương có hành động không phù hợp với luật quốc tế, chỉ có thể giải quyết thông qua phương thức chính trị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những năm 1960, Trung Quốc không đủ sức chống lại hoạt động trinh sát của Mĩ, chỉ có thể đáp trả bằng cách “cảnh cáo nghiêm khắc”. Trong những năm 1980, quan hệ Trung – Mĩ trở nên hữu hảo, sự cọ sát hầu như lắng xuống. Sau những năm 1990, sự kiện 4/6 (Thiên An Môn -ND) khiến cho tuần trăng mật chính trị Trung – Mĩ kết thúc. Sau khi sức mạnh quân sự tăng lên, Trung Quốc bắt đầu siết lại các hoạt động ven biển của Mĩ bằng vũ lực. Vì thế, cuối thế kỉ XX, va chạm giữa Mĩ và Trung Quốc về vấn đề này lại tiếp tục.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 2001, khi máy bay trinh sát EP-3 của hải quân Mĩ đang làm nhiệm vụ trên biển Đông, hai máy bay chiến đấu của Trung Quốc tiến hành theo dõi và chặn đường, một chiếc va chạm với máy bay trinh sát Mĩ tại vị trí cách đảo Hải Nam 70 hải lí, gây nên cuộc khủng hoảng ngoại giao nghiêm trọng. Phi công Trung Quốc Vương Vĩ bị rơi mất tích (sau này được xác nhận đã chết). Máy bay trinh sát của Mĩ bị hư hỏng nặng, buộc phải hạ cánh xuống sân bay Lăng Thủy trên đảo Hải Nam. Tuy nhiên, sau đó không lâu ở Mĩ xảy ra sự kiện 11/9 nên trọng tâm ngoại giao và quân sự của Mĩ chuyển sang Afghanistan và Iraq. Xung đột biển Đông giữa Mĩ và Trung Quốc tạm thời lắng xuống. Nhưng hoạt động trinh sát của quân đội Mĩ ở biển Đông, biển Hoa Đông và Hoàng Hải vẫn tiếp diễn. Tháng 9/2002, tàu ngư chính Trung Quốc quấy nhiễu tàu USNS Bowditch, T-AGS-62 tại khu vực Hoàng Hải, cách bờ 60 hải lí. Tàu Bowditch làm ngơ, cuối cùng bị tàu “ngư chính” Trung Quốc đâm vào bộ phận sonar (máy thăm dò thủy âm) kéo sau tàu, buộc phải đưa về căn cứ ở Nhật Bản để sửa chữa. Từ năm 2003-2005, nhiều tàu khảo sát của Mĩ tác nghiệp trên biển Hoa Đông và Hoàng Hải đều bị Cục Hải dương và Cục Ngư chính Trung Quốc quấy nhiễu. Tuy nhiên, không có sự kiện nào trong số này có tác động lớn. Ngoài những vụ việc trên, còn rất nhiều tàu tuần tra và đo đạc của Mĩ đều không bị quấy nhiễu. Từ năm 2001-2009, quan hệ Trung – Mĩ hầu như đã đạt được sự cân bằng và thỏa thuận ngầm về vấn đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng, sự kiện “USNS Impeccable, T-AGOS-23” năm 2009 đã phá vỡ thế cân bằng, báo hiệu cục diện căng thẳng mới tại biển Đông. USNS Impeccable, T-AGOS-23 là tàu thăm dò của hải quân Mĩ, lắp đặt 631 hệ thống máy dò thủy âm mảng kéo (SURTASS-LFA). Hệ thống này được cấu thành từ hai bộ phận chủ động và bị động: bộ phận chủ động (LFA) treo thẳng móc vào dưới thân tàu, phát ra sóng âm tần số thấp vào trong nước; bộ phận bị động là một sonar mảng kéo có trang bị một loạt ống nghe dưới nước, được tàu thăm dò kéo với tốc độ chậm, và sóng âm thanh phản hồi nhận được dùng để phát hiện các vật thể dưới nước. Nó có thể vừa dò được địa hình dưới nước, vừa dò được tàu ngầm dưới đáy biển. Cảng Du Lâm của tỉnh Hải Nam là căn cứ hải quân lớn mà Trung Quốc ra sức xây dựng, cũng là căn cứ chính của tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Trung Quốc, vì vậy Trung Quốc cho rằng nhiệm vụ của tàu USNS Impeccable ngoài khơi Hải Nam là thăm dò hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu tháng 3, tàu Trung Quốc có hành động quấy nhiễu khi tàu USNS Impeccable đang thực hiện nhiệm vụ thường lệ tại biển Đông, cách phía tỉnh Hải Nam 75 dặm về phía Nam. Ngày 5, một tàu Trung Quốc áp sát và chạy lướt qua đầu tàu Impeccable khoảng 91 m; hai giờ sau, máy bay tuần tra Trung Quốc bay qua phía trên tàu USNS Impeccable hơn 11 lần ở cao độ thấp. Ngày 7/3, tàu hải giám dùng vô tuyến phát cảnh cáo tàu USNS Impeccable hoạt động phi pháp, đồng thời ra lệnh cho nó rời đi, nếu không sẽ phải chịu mọi hậu quả. Ngày 8, tàu USNS Impeccable bị 5 tàu Trung Quốc vây ráp, bao gồm 1 tàu tình báo hải quân, 1 tàu giám sát nghề cá thuộc Cục Hải sự, 1 tàu giám sát thủy văn biển Quốc gia Trung Quốc và 2 tàu đánh cá treo cờ Trung Quốc. Đoàn tàu Trung Quốc áp sát tàu USNS Impeccable, đến khoảng cách 15m vẫy cờ Trung Quốc, yêu cầu tàu USNS Impeccable rời đi. Người Trung Quốc thậm chí còn định cướp thiết bị dò kéo phía sau của tàu USNS Impeccable. Thông qua trao đổi giữa đài chỉ huy với nhau, tàu USNS Impeccable yêu cầu tàu Trung Quốc giữ khoảng cách an toàn nhưng phía Trung Quốc phớt lờ. Do việc trao đổi không thuận lợi nên tàu USNS Impeccable không hiểu ý đồ của phía Trung Quốc, để tự vệ, tàu Mĩ đã dùng vòi phun nước vào tàu Trung Quốc đang sát gần, 2 tàu Trung Quốc lập tức vượt lên chặn đầu tàu USNS Impeccable, buộc tàu USNS Impeccable phải thả neo. Tàu Trung Quốc dùng tấm gỗ lớn chặn đầu tàu USNS Impeccable không cho tiến lên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc không chủ động công bố ngay sự việc, chỉ đến ngày 11, khi phóng viên đặt câu hỏi nên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới nêu rõ “tàu USNS Impeccable hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc tại biển Đông mà chưa được phép của Trung Quốc, vi phạm quy định liên quan trong Luật quốc tế và luật pháp Trung Quốc. Trung Quốc đã phản đối nghiêm khắc sự việc này với phía Mĩ, đồng thời yêu cầu Mĩ dừng ngay các hoạt động tương tự và phải có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự việc tương tự tái diễn.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ rất xem trọng sự kiện này. Ngày 9/3, Chính phủ Mĩ ra tuyên bố chỉ trích Trung Quốc chạy tàu nguy hiểm trên biển, vi phạm quy định quốc tế. Ngày 10/3, Giám đốc tình báo Mĩ Blair điều trần trước Hạ nghị viện: sự kiện tàu USNS Impeccable là vụ việc nghiêm trọng nhất kể từ vụ va chạm máy bay năm 2001, chủ trương vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc ngày càng mang tính xâm lược hơn. Cùng ngày, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á thuộc Quỹ Di sản của Mĩ Walter Lohman nêu rõ: sự kiện tàu USNS Impeccable cho thấy “việc Mĩ muốn nối lại giao lưu quân sự với Trung Quốc là một sai lầm, nếu yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông không vấp phải thách thức thì đến một ngày nào đó, khi muốn tiến hành hoạt động thường lệ Hạm đội Thái Bình Dương của Mĩ sẽ đều phải xin phép Trung Quốc”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/3, Trung Quốc đưa tàu ngư chính số 311 (trọng tải 4 450 tấn) xuất phát từ Quảng Châu đến biển Đông làm nhiệm vụ. Ngày 11/3, Mĩ đưa tàu khu trục USS Chung-Hoon, DDG-93 đóng ở căn cứ Hawaii đến bảo vệ tàu USNS Impeccable.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng cùng ngày hôm đó, sau cuộc hội kiến tại Washington giữa Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và Ngoại trưởng Mĩ Clinton, hai bên đồng ý làm dịu bớt tình hình, cố gắng tránh để xảy ra sự việc tương tự.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 18, Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ cũng tỏ thái độ ôn hòa. Sự kiện tàu USNS Impeccable lắng xuống. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện Tàu USNS Impeccable không phải là sự kiện đơn lẻ. Ngày 11/4, tàu thăm dò địa chấn hải dương R/V Marcus Langseth của Đại học Columbia Mĩ tiến hành đo đạc tại vùng biển quần đảo Đông Sa (Pratas) theo yêu cầu của Đài Loan để kịp nộp hồ sơ xin Liên Hiệp quốc về phạm vi thềm lục địa mở rộng đúng hạn. Tàu hải giám sát 81 của Trung Quốc tiến hành quấy nhiễu tàu Mĩ, nói rằng tàu này đi vào vùng biển Trung Quốc mà chưa được Trung Quốc đồng ý và yêu cầu tàu phải rời đi. Thuyền viên Đài Loan đi cùng tàu lập tức báo về Phòng tuần tra eo biển Đài Loan, yêu cầu chi viện. Phía Mĩ cùng lúc cũng báo cáo về Bộ Ngoại giao Mĩ. Cuối cùng, cả 3 bên đều chọn thái độ kiềm chế, tránh làm to chuyện. Ngày 1/5, tại Hoàng hải, tàu khảo sát Victorious, TAGOS 19 của Mĩ cũng bị 2 tàu đánh cá Trung Quốc quấy nhiễu khi chỉ cách tàu Victorious 27 m. Tàu Victorious dùng vòi rồng phun nước nhưng không thoát khỏi sự quấy nhiễu của tàu Trung Quốc, buộc phải cầu cứu một tàu chiến Trung Quốc gần đó. Sau sự kiện tàu Victorious, Mĩ đã lên án và phản đối nhưng bị Trung Quốc phản bác. Ngày 12/6, tàu USS John S. McCain chạm trán tàu ngầm Trung Quốc tại vịnh Subic Philippines, tàu ngầm Trung Quốc đã đâm hỏng cần kéo thiết bị dò thủy âm của tàu USS John S. McCain.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện tàu USNS Impeccable không lâu, Mĩ triển khai Chiến lược “Tái cân bằng Châu Á” (xem mục VI.4), đồng thời không lơi lỏng hoạt động tuần tra tại biển Đông. Tuy nhiên, trọng tâm quan hệ Trung – Mĩ lúc này là ngoại giao, còn về mặt quân sự chỉ nhấn mạnh giao lưu, tăng cường tin cậy và giảm hiểu lầm, nên không có nhiều xung đột được công bố. Cho đến năm 2014, cục diện biển Đông đột nhiên trở nên căng thẳng, Trung Quốc và Mĩ mới công bố nhiều sự việc xung đột.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phân tích sự kiện tàu USNS Impeccable, T-AGOS-23 635 theo Luật quốc tế</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một loạt sự kiện cùng những sự thật được công bố chứng tỏ sự khác biệt ngay càng lớn giữa Mĩ và Trung Quốc về vấn đề tự do hàng hải. Phần này sẽ phân tích sự kiện nói trên từ góc độ luật pháp quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc kiên định lập trường cho rằng, “về vấn đề tàu thuyền nước khác hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, đều đã được quy định rõ trong Công ước luật biển Liên Hiệp quốc và Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quy định về quản lí nghiên cứu khoa học biển liên quan đến bên ngoài của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tàu USNS Impeccable đã vi phạm luật quốc tế và quy định luật pháp có liên quan của Trung Quốc, đã hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc ở biển Đông mà không được sự cho phép của Trung Quốc.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc cho rằng mình có quyền tài phán tại vùng đặc quyền kinh tế. Nhưng trước nay chưa có sự luận bàn cấp nhà nước chính thức nào về vấn đề này. Các lập luận liên quan được các học giả Trung Quốc đưa ra có thể tham khảo,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng đều khó đứng vững.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khoản 1 điều 58 phần V về Vùng đặc quyền kinh tế quy định: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển chịu ràng buộc bởi các quy định liên quan đến Công ước này, đều được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm như nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, như các quyền liên quan đến việc sử dụng tàu thuyền, máy bay hoặc dây cáp, đường ống ngầm dưới biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn Điều 87 về “tự do ở vùng biển chung” trong phần VII Vùng biển chung (high sea) nêu rõ: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Vùng biển chung (công hải) được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên vùng biển chung được thực hiện trong những điều kiện quy định của Công ước hay/và những quy tắc khác của luật pháp quốc tế. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">a) Tự do hàng hải; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b) Tự do hàng không; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c) Tự do lắp đặt dây cáp hoặc đường ống ngầm, với điều kiện tuân thủ phần VI; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được luật pháp quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">f) Tự do nghiên cứu khoa học với điều kiện tuân thủ các phần VI và VIII. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính toán đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên vùng biển chung của các quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gia khác, cũng như các quyền được Công ước thừa nhận, liên quan đến các hoạt động trong vùng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, tự do hàng hải (mục a) và tự do hàng không (mục b) trong vùng đặc quyền kinh tế và tự do hàng hải trong vùng biển chung là như nhau. Cần chú ý rằng trong khoản này, các lựa chọn c-f đều chịu một ràng buộc nào đó, chỉ có a và b là không có ràng buộc. Hơn nữa, trong Điều 58 “thao tác của tàu thuyền và máy bay” còn được nhắc tới một cách chuyên biệt. Nghĩa là, về tự do hàng hải, vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển chung là như nhau. Việc Mĩ sử dụng từ vùng biển quốc tế (international sea) như một thuật ngữ chung cho các vùng biển chung (high sea), vùng đặc quyền kinh tế và các vùng biển có thể hưởng quyền tự do hàng hải là điều phù hợp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia ven biển được hưởng quyền lợi gì trong vùng đặc quyền kinh tế? Vấn đề này được quy định rất rõ trong Điều 56: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lí các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc phi sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 80.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 80.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 80.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 80.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ii. Nghiên cứu khoa học về biển; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 80.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 80.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính toán đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Các quyền quy định tại điều này đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được thực hiện theo các quy định của Phần VI.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyền lợi mà các nước ven biển được hưởng trong vùng đặc quyền kinh tế không phải là chủ quyền mà là “quyền chủ quyền”. Như tên của nó, chỉ có quyền lợi về “kinh tế”, tức là chỉ có quyền lợi về tài nguyên sinh vật và phi sinh vật biển cùng quyền quản lí và nghiên cứu những tài nguyên này. Có thể thấy, nếu nước khác tiến hành các hoạt động không liên quan đến những điều trên trong vùng đặc quyền kinh tế thì không chịu sự quản lí của quốc gia ven biển, cũng không cần được quốc gia ven biển phê chuẩn. Như vậy, hoạt động của Mĩ có liên liên quan đến hoạt động kinh tế hay không? Nếu như tàu USNS Impeccable thực hiện việc thu thập số liệu về địa chấn thì vẫn có thể nói là liên quan đến tài nguyên dưới đáy biển, vì nó vẫn có thể thăm dò đáy biển có khoáng sản hay mỏ dầu hay không. Nhưng tàu USNS Impeccable tiến hành đo đạc biển, tức là đo đạc đáy nước và thủy văn, mục đích là lập bản đồ thủy văn và thăm dò tàu ngầm (như Trung Quốc nói). Tất cả những việc làm đó đều không liên quan đến tài nguyên biển. Sự thực thì đo đạc (survey) và nghiên cứu khoa học cùng được nêu ra cạnh nhau trong Công ước. Trong Điều 19, khi liệt kê về nghĩa của thuật ngữ ‘đi qua vô hại’ trong lãnh hải, mục j khoản 2 có nêu [không được tiến hành hoạt động] “nghiên cứu hoặc đo đạc”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong Điều 21, khi liệt kê những vấn đề liên quan đến việc đi qua vô hại trên lãnh hải mà quốc gia ven biển có thể đưa vào luật hay quy định của mình, mục g khoản 1 có nói tới “nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có thể thấy, “đo đạc” và “đo đạc thủy văn” là hai loại hoạt động hoàn toàn đi song song với “nghiên cứu” và “nghiên cứu khoa học biển”. Hoạt động đo đạc của Tàu USNS Impeccable, hiển nhiên không thuộc phạm vi nghiên cứu hoặc nghiên cứu khoa học biển.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có học giả Trung Quốc cho rằng, hệ thống dò thủy âm tần số thấp tạo nguy hiểm cho sinh vật biển. Tuy nhiên: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất, vẫn chưa có bằng chứng đầy đủ và cũng chưa xác định được mức độ nghiêm trọng của nó, cả Trung Quốc lẫn Mĩ đều chưa liệt kê kĩ thuật này là nguy hại cho sinh vật biển. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, ngay cả khi có nguy hại nào đó thì logic cho sự nguy hại này cũng rất dễ bị lạm dụng. Chẳng hạn, chân vịt tàu có thể làm chết cá heo, có rất nhiều thống kê chứng tỏ điều này, nhưng không có loại tàu không dùng sức đẩy của chân vịt. Nếu logic này đứng vững thì tất cả các loại tàu đi qua vùng đặc quyền kinh tế đều làm hại tài nguyên sinh vật biển. Điều đó tương đương với việc tước bỏ quyền tự do hàng hải của tất cả các tàu trong vùng đặc quyền kinh tế, đương nhiên không thể chấp nhận được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba, chuyên gia Trung Quốc tuyên bố, căn cứ khoản 3 điều 58 Công ước, “Các nước, khi dựa vào Công ước để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ tại vùng đặc quyền kinh tế cần phải quan tâm thích đáng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các nước ven biển, đồng thời phải tuân thủ luật và quy định của quốc gia ven biển, được soạn thảo theo quy định của Công ước và các quy tắc quốc tế khác, đồng thời không trái với phần này”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vì vậy, các nước cần phải tuân thủ luật pháp và quy định do các quốc gia ven biển lập ra.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoạn này của Công ước có đôi chút phức tạp, nhưng ý nghĩa thì rất rõ ràng, điều các nước phải tuân thủ là “luật và quy định được soạn thảo theo quy định của Công ước và các quy tắc quốc tế khác, đồng thời không trái với phần này”. Nếu như luật và quy định của quốc gia ven biển (1) không tuân theo quy định của Công ước hoặc (2) không tuân thủ các quy định quốc tế khác hoặc (3) trái với phần này, thì các nước không buộc phải tuân theo. Trong đó, “phần” được nêu tới trong (3) tức là khoản 1 của điều này, có nghĩa các nước có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế giống như trong vùng biển chung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, nếu luật pháp do Trung Quốc lập ra trái với Công ước thì căn cứ vào Luật quốc tế, các nước khác không có nghĩa vụ phải tuân thủ. Thực ra, trong “Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, về mặt chữ nghĩa thì không vượt ra ngoài phạm vi Công ước. Có liên quan đến vấn đề này là điều 9 và điều 11: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 9: Để tiến hành nghiên cứu khoa học biển tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bất cứ tổ chức quốc tế hay tổ chức nước ngoài hoặc cá nhân nào đều phải được cơ quan chủ quản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phê chuẩn, đồng thời phải tuân thủ luật pháp và quy định của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 11: Bất cứ quốc gia nào mà tuân thủ Luật quốc tế và luật pháp, quy định luật pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều được hưởng tự do hàng hải và tự do hàng không tại vùng đặc quyền kinh tế nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; được tự do lắp đặt dây cáp và đường ống ngầm dưới biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; và được sử dụng hợp pháp các phương tiện biển liên quan đến những quyền tự do nói trên. Các tuyến dây cáp và đường ống ngầm dưới biển phải được sự đồng ý của cơ quan chủ quản nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có điều, chuyên gia Trung Quốc giải thích việc nghiên cứu khoa học biển trong điều 9 bao gồm cả đo đạc, trái với quy định của Công ước. Do vậy, các nước không có nghĩa vụ phải tuân theo cách giải thích này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, điều 88 Công ước quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng biển chung chỉ dùng cho các mục đích hòa bình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chuyên gia Trung Quốc cho rằng, Mĩ đo đạc thủy văn làm nguy hại đến an ninh Trung Quốc, do vậy không phải xuất phát từ mục đích hòa bình, vì thế vi phạm Công ước. Cần chỉ ra rằng điều khoản này của Công ước chỉ là điều khoản quy định chung chung về một ý niệm và thiếu những giải thích chi tiết, chẳng hạn như hành vi nào được coi là hành vi hòa bình? Diễn tập quân sự, vận chuyển quân lực và vật tư cho mặt trận trên vùng biển chung có phải là hành vi hòa bình không? Do không có định nghĩa chính xác nên những điều khoản như thế này cùng lắm cũng chỉ là biểu thị nguyện vọng tốt đẹp mà thôi. Thực ra, hầu như trong mỗi điều ước đều có viết từ ‘hòa bình’. Về việc đo đạc của Mĩ tại biển Đông, Mĩ cũng có thể tuyên bố vì mục đích hòa bình, đo đạc địa hình đáy biển là phương pháp chủ yếu để vẽ bản đồ hàng hải, chẳng phải điều đó là vì mục đích hòa bình sao? Ngay cả trinh sát bí mật tàu ngầm của Trung Quốc thì cũng có thể nói đó là vì mục đích hòa bình, ngăn chặn Trung Quốc phát động tấn công vào Mĩ. Có thể thấy, khó có thể dùng điều 88 để chỉ trích Mĩ vi phạm Công ước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi lập luận hành vi của mình phù hợp với Công ước, Mĩ có thể vận dụng “Công ước quốc tế về các quy tắc về ngăn ngừa đụng nhau trên biển” (Convention on the International Regulations for Preventing Collisions at Sea, 1972, gọi tắt là COLREG), chỉ trích trở lại Trung Quốc vi phạm Luật quốc tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là Công ước kí năm 1972, do Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) công bố, là quy định quốc tế về giao thông trên biển. Trong đó bao gồm mọi quy định về hàng hải như: quan sát từ xa, tốc độ an toàn của tàu thuyền, tránh đụng nhau và việc lựa chọn các biện pháp thực hiện, vùng nước hẹp, khu vực phân luồng tàu chạy, tàu thuyền gặp nhau, tàu thuyền bị hạn chế, đèn hiệu của tàu thuyền,... Năm 1993, Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức hàng hải quốc tế, thừa nhận tính hữu hiệu của “Công ước quốc tế về các quy tắc ngăn ngừa đụng nhau trên biển”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 29-11-2007, Đại hội lần thứ 25 Tổ chức hàng hải quốc tế thông qua quyết nghị A. 1004 (25), tiến hành sửa đổi lần mới nhất Công ước này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 8 Công ước này quy định tàu thuyền có nghĩa vụ tránh đụng nhau (collision).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều 13 quy định, khi chạy vượt lên (overtaking), tàu thuyền không được chiếm dụng luồng nước của tàu thuyền bị vượt. Điều 15 quy định, nếu hai tàu chạy theo hai hướng chéo nhau sắp va nhau (crossing), tàu nào thấy tàu kia ở bên phải (starboard side) của tàu mình phải nhường đường. Điều 18 quy định, tàu thuyền tốc độ cao (power-driven) nhường đường cho tàu thuyền di chuyển chậm. Khi xảy ra sự kiện, tàu USNS Impeccable đang trong trạng thái hoạt động chậm, tốc độ hạn chế, vì thế tàu Trung Quốc phải nhường tàu USNS Impeccable. Cho nên, Trung Quốc chí ít đã vi phạm “Công ước quốc tế về các quy tắc tránh đụng nhau trên biển” ít ra trên cả 4 phương diện kể trên.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói tóm lại, mặc dù dưới con mắt của Trung Quốc thì hành động của Mĩ là không thân thiện, nhưng trong sự kiện tàu USNS Impeccable, chính Trung Quốc chứ không phải Mĩ đã vi phạm Luật quốc tế. Nếu đổi vị trí cho nhau trong sự kiện này thì cách làm của Mĩ thường là cho tàu chạy kèm, tức là chạy song song với đối phương ngăn không cho đối phương tiếp tục tiến vào sâu hơn, đây là điều thường thấy nhất trong thời Mĩ và Liên Xô đối đầu.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.3. Hồ sơ phân định thềm lục địa mở rộng giữa Việt Nam và Malaysia</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong Công ước LHQ về Luật biển, thềm lục địa nói chung là 200 hải lí ngoài đường cơ sở, trong những điều kiện nhất định có thể kéo dài 350 hải lí ngoài đường cơ sở. Nhưng nếu các nước muốn có được thềm lục địa trong khoảng từ 200-350 hải lí, tức là thềm lục địa mở rộng (extended continental shelf) thì phải nộp đơn cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf) của LHQ, đồng thời phải đưa bằng chứng đầy đủ chứng minh khu vực đó có điều kiện của thềm lục địa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều đó đòi hỏi phải thăm dò kĩ càng đáy biển của khu vực có liên quan, đây không phải việc dễ dàng đối với các nước có thực lực nghiên cứu khoa học không cao. Do vậy, hạn nộp hồ sơ được dời tới ngày 13/5/2009 theo lời kêu gọi của nhiều nước. Trên thực tế, do nhiều quốc gia vẫn chưa hoàn thành việc thăm dò nên thời hạn này đã được gia hạn một lần nữa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước thời điểm nhạy cảm 13/5/2009, đã có hàng loạt sự kiện làm vấn đề biển Đông trở nóng lên. Ngày 10/3, Quốc hội Philippines thông qua “Luật đường cơ sở lãnh hải” (Republic Act 9522),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đưa bãi Scarborough và quần đảo Kalayaan (một phần của quần đảo Trường Sa) vào lãnh thổ Philippines. Tháng 3, Thủ tướng Malaysia đến thăm đá Hoa Lau (Swallow) và tuyên bố chủ quyền tại đây. Tháng 4, Việt Nam tổ chức lễ nhậm chức Chủ tịch huyện Hoàng Sa. Tất cả những hành vi đó đều bị Trung Quốc phản đối. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do địa hình biển Đông phức tạp và dễ xảy ra tranh chấp nên phần lớn các nước có biển đều chưa nộp hồ sơ thềm lục địa mở rộng. Trước hạn chót nộp hồ sơ, Philippines chỉ nộp hồ sơ cho thềm lục địa ngoài cho vùng Benham Rise ven biển phía Đông quần đảo Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Indonesia mới chỉ nộp hồ sơ cho vùng biển ngoài khơi Sumatra (Sumendanao). Brunei chỉ có tuyên bố sơ bộ. Trung Quốc không đưa ra hồ sơ về biển Đông. Ngày 6/5/2009, chỉ có Việt Nam và Malaysia nộp chung “hồ sơ phân định” thềm lục địa ngoài 200 hải lí của mỗi bên cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 68</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Ngày 7/5, Việt Nam lại nộp riêng “hồ sơ phân định” thềm lục địa mở rộng ở khu vực trung tâm của biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 69</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 317px; overflow: hidden; width: 313px;"><img height="317" src="https://lh6.googleusercontent.com/WY17hkXIMqk-1VeWf9VzfNzrCKhF3LkIHQvm4gq5oYFkXY9_MdCE-5xY_f3JR36EV5XGHxOe8o0PM55ZJUZspvJJCSkq4LiMgBdy8fqfhnAJG6n1CZproS2JklQSqRCLaM9oou6jT_Xs017Xgjhq08s" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="313" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 68:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khu vực thềm lục địa mở rộng do Malaysia và Việt Nam nộp chung</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hồ sơ chung, Việt Nam và Malaysia đều căn cứ vào vị trí tương đối 200 hải lí ngoài đường cơ sở ven biển để vạch đường 200 hải lí (đường đỏ). Do khoảng cách tương đối giữa bờ biển hai nước lớn hơn 400 hải lí nên khu vực giữa 2 đường 200 hải lí được trình bày như là khu vực chung (Defined Area - khu vực màu cam). Đường 200 hải lí của Malaysia lại nối với đường 200 hải lí của Philippines (màu đen). Cần nói rõ, Malaysia và Philippines không có sự đồng thuận về phân định trên biển, do đó điểm nối tiếp này là do Malaysia đơn phương xác định. Phần lớn khu vực trong đường 200 hải lí của hai bên và toàn bộ khu vực chung đều nằm trong phạm vi đường 9 đoạn của Trung Quốc. Điều cần chỉ ra là, phương án của Malaysia và Việt Nam đều là phương án dè dặt, bởi vì nó chỉ xuất phát từ đường cơ sở đất liền và tránh vấn đề hiệu lực pháp lí của quần đảo Trường Sa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 370px; overflow: hidden; width: 311px;"><img height="370" src="https://lh6.googleusercontent.com/GTsR5Ntez8r3HMAvwVO4t2X01EyxrbubPgT7J7XhrkQwX8ZkqGVo7Fmcdlbe-UpkGM4Z7IRRRvvX4Pvwu77SN_jBgrXO5oPN86SdTFvRqOuQQg9m3czF7Uxf9yGt_Q-y_XFrslxDPSpCy6XNMieo-4Y" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="311" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 69</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khu vực thềm lục địa mở rộng do Việt Nam nộp riêngriêng</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hồ sơ phân định do Việt Nam đề xuất, đường 200 hải lí và đường 350 hải lí (khoảng cách tối đa được quy định trong Công ước) được vẽ trên vùng biển ngoài khơi miền Trung Việt Nam, giữa hai đường này, Việt Nam xác định 45 điểm cơ bản, trong đó 2 điểm cơ bản ở 2 đầu: một điểm nằm trên đường 200 hải lí, một điểm nằm trên đường 350 hải lí; những điểm còn lại đều được xác định bằng nguyên tắc độ dày trầm tích 1% hoặc theo quy tắc chân dốc lục địa cộng với 60 hải lí. Đó đều là các phương pháp thường được sử dung để xác định điểm cơ bản của thềm lục địa mở rộng. Khu vực giữa đường nối các điểm cơ sở này (đường màu vàng) và đường 200 hải lí chính là khu vực thềm lục địa mở rộng mà Việt Nam đề xuất. Tương tự như hồ sơ nộp chung của Malaysia và Việt Nam, trong hồ sơ nộp riêng của Việt Nam cũng né tránh vấn đề hiệu lực luật pháp từ quần đảo Hoàng Sa mang lại. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7/5, Trung Quốc ngay lập tức đưa ra một công hàm bày tỏ lập trường đối với các hồ sơ nộp chung của Malaysia và Việt Nam như sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với các đảo tại Nam Hải và vùng biển lân cận của chúng, đồng thời có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển liên quan (xem hình đính kèm). Lập trường nhất quán này của Trung Quốc được cộng đồng quốc tế biết rõ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lí được Malaysia và Việt Nam nộp chung nói trên đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại Nam Hải. Căn cứ mục (a) điều 5 phụ lục 1 về “Quy tắc thủ tục của Ủy ban ranh giới thềm lục địa”, Chính phủ Trung Quốc trân trọng đề nghị Ủy ban ranh giới thềm lục địa không thẩm định hồ sơ chung của Malaysia và Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 8/5, Trung Quốc lại ra công hàm tỏ thái độ phản đối hồ sơ riêng của Việt Nam:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với các đảo tại Nam Hải và vùng biển lân cận của chúng, đồng thời Trung Quốc có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển, đáy biển và lòng đất liên quan (xem hình đính kèm). Lập trường nhất quán này của Trung Quốc được cộng đồng quốc tế biết rõ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hồ sơ phân định ranh giới của Việt Nam nói trên đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền quản lí của Trung Quốc tại Nam Hải. Căn cứ mục (a) điều 5 phụ lục 1 về “Quy tắc thủ tục của Ủy ban ranh giới thềm lục địa”, Chính phủ Trung Quốc trân trọng đề nghị Ủy ban ranh giới thềm lục địa không thẩm định hồ sơ của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và Malaysia</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lập tức ra công hàm phản bác, nhấn mạnh khu vực phân định chung thuộc phạm vi chủ quyền của hai nước. Không ngạc nhiên khi Trung Quốc phản đối phân định thềm lục địa mở rộng trong khu vực tranh chấp do hai bên Việt Nam và Malaysia đưa ra. Ngay cả Philippines cũng gửi công hàm đến Liên Hiệp Quốc vào ngày 18/8 để phản đối, cho rằng khu vực do Việt Nam và Malaysia phân định chồng lấn (overlap) với khu vực mà Philippines tuyên bố chủ quyền.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Malaysia</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cũng phản bác công hàm trên. Tuy nhiên, điều đặc biệt thu hút sự chú ý là trong hai công hàm do Trung Quốc phát hành, cả hai đều đính kèm hình vẽ đường 9 đoạn của Trung Quốc (Hình 70). Đây là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức thể hiện đường 9 đoạn trong văn kiện quốc tế chính thức.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 529px; overflow: hidden; width: 354px;"><img height="529" src="https://lh5.googleusercontent.com/sI6FGEo8um2FqD2uPQihHpTRlmeSkejtmR-afjiYNCg2KrXGyiBuZ1J5tBWVxYHo7qgDIAjsHGYVtyUjF02-p-mX0-0SEzLNpcuJjsoW-IukOOBYs01t5X295eOmkCWICiCYH8MUtw0-D5bq7LWaSEk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="354" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 70:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bản đồ đính kèm trong công hàm Trung Quốc gửi LHQ</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong hình vẽ đính kèm không có phần chú thích nên không thể xác định chính xác ý nghĩa của đường 9 đoạn trong hình vẽ là gì. Những miêu tả liên quan trong công hàm của Trung Quốc là “Trung Quốc có chủ quyền không tranh chấp đối với các đảo và vùng biển liền kề tại biển Đông, đồng thời Trung Quốc có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển liên quan (xem hình đính kèm).” Nhưng không có giải thích rõ liệu khu vực trong đường 9 đoạn có phải là “vùng biển liền kề” (adjacent waters) hoặc “vùng biển liên quan” (relevant waters), được nêu trong văn kiện của Trung Quốc hay không. Vì vậy, sự xuất hiện của tấm bản đồ này một lần nữa làm dấy lên nghi ngờ quốc tế về đường 9 đoạn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/4/2011, sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng, Philippines gửi công hàm (số 000228) đến Liên Hiệp Quốc nêu ra 3 phản đối liên quan đến “vùng biển liền kề” và “vùng biển liên quan” mà Trung Quốc đề cập trong hai công hàm như là “lập trường nhất quán được cộng đồng quốc tế biết rõ” : (1) Quần đảo Kalayaan là một bộ phận của Philippines; (2) Theo nguyên tắc “đất quyết định biển” (la terre domine la mer) trong luật pháp quốc tế, Philippines có chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển tiếp giáp với mỗi thể địa lí (feature) của quần đảo Kalayaan; (3) ‘Vùng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển liên quan” do Trung Quốc đề xuất (như được chỉ ra trong cái gọi là bản đồ đường 9 đoạn đính kèm hai công hàm) nằm ngoài nằm ngoài các thể địa lí nói trên; yêu sách về phần “vùng biển liền kề” không có cơ sở luật pháp quốc tế — đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là phản đối đầu tiên đối với đường 9 đoạn trong một tài liệu quốc tế chính thức. Tuy nhiên, liệu “vùng biển liền kề” mà Trung Quốc đề cập có ám chỉ phạm vi bên trong đường 9 đoạn hay không vẫn chưa rõ ràng. Công hàm của Trung Quốc gửi Liên Hợp Quốc phản bác lại Philippines ngày 14/4 (CML/8/2011) không bác bỏ rõ ràng những nghi ngờ về đường 9 đoạn, mà chỉ nhắc lại rằng “Kể từ những năm 1930, chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lí của quần đảo Nam Sa và tên các bộ phận cấu thành của chúng, phạm vi của quần đảo Nam Sa là rõ ràng. Căn cứ Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển, Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải năm 1992 và Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa năm 1998, quần đảo Nam Sa của Trung Quốc có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kể từ đó, các cuộc thảo luận về đường 9 đoạn ở Đông Nam Á và quốc tế đã được nghe nói tới không ngừng, và vấn đề đường 9 đoạn đã thay chỗ vấn đề chủ quyền của các đảo ở biển Đông trở thành mâu thuẫn gay gắt nhất trong vấn đề biển Đông. Có thể nghe thấy tiếng phản đối đường 9 đoạn ở nhiều diễn đàn Đông Nam Á, nhưng Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra tuyên bố rõ ràng, rành mạch về nó.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.4. Tái cân bằng Châu Á </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến lược tái cân bằng Châu Á từng được gọi là “xoay trục sang châu Á”, nhưng cách diễn đạt này không chính xác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ đã luôn có mặt ở Châu Á,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> hơn thế, từ sau Thế chiến II, Châu Á luôn là chiến trường thứ hai của Mĩ. Mĩ có hai đồng minh quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc ở Đông Bắc Á; hai đồng minh là Philippines và Thái Lan ở Đông Nam Á; ngoài ra Mĩ còn có quan hệ thân thiết với Singapore vốn là nơi có căn cứ quân sự của Mĩ, đảm bảo cho sự thông suốt của eo biển Malacca, một trong những lối đi quan trọng nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, Mĩ còn là đồng minh của Australia và New Zealand ở khu vực Thái Bình Dương, Mĩ còn có một loạt lãnh thổ phụ thuộc (đảo Guam và quần đảo Bắc Mariana) và các quốc gia liên kết tự do (Palau, quần đảo Marshall và Liên bang Micronesia) ở Bắc Thái Bình Dương. Các đảo ở Bắc Thái Bình Dương này cùng các quần đảo Alaska và Aleutian ở Bắc Thái Bình Dương; Hawaii ở Trung Bắc bộ Thái Bình Dương, và Samoa thuộc Mĩ ở Nam Thái Bình Dương tạo thành mạng lưới khống chế toàn bộ khu vực Bắc Thái Bình Dương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện 11/9, Mĩ bước vào cuộc chống khủng bố, tầm quan trọng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có chút suy giảm (với Mĩ), nhưng các mối quan hệ không hề giảm sút mà trọng tâm chuyển thành chống khủng bố mà thôi. Mĩ tăng cường viện trợ cho Indonesia, Malaysia và Philippines để ngăn chặn các thế lực Hồi giáo cực đoan nổi dậy.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi cuộc chiến chống khủng bố kết thúc, trọng tâm chiến lược của Mĩ đương nhiên trở lại Đông Á. Lúc này, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã tác động đến trật tự Đông Á, tạo thành điểm xuất phát của Chiến lược tái cân bằng Châu Á của Mĩ. Có hai sự kiện tác động mạnh mẽ đến Mĩ: một là, do áp lực từ Trung Quốc mà hợp đồng giữa Công ty dầu mỏ Mĩ và Chính phủ Việt Nam bị cản trở (xem phần sau); hai là sự kiện tàu USNS Impeccable đã nêu trong phần VI.2. Sự kiện thứ nhất liên quan đến lợi ích thương mại, sự kiện thứ hai liên quan đến tự do hàng hải.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/2009, tại Diễn đàn ASEAN (ARF) lần thứ 16 tổ chức tại Thái Lan, Ngoại trưởng Hillary Clinton thay mặt Chính phủ Mĩ kí văn kiện Mĩ tham gia “Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á” (TAC) với các bộ trưởng ASEAN. Ngày 22/7/2009, khi đến Bangkok, bà nói: “Tôi muốn đưa ra một thông điệp rất rõ ràng: Mĩ hiện đang xoay trục trở lại Đông Nam Á, chúng tôi đang dốc hết sức cho quan hệ đối tác ở Đông Nam Á.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/6/2010, trong Hội nghị đối thoại Shangri La, Bộ trưởng Quốc phòng Gates nói: “An ninh biển Đông không những có ý nghĩa quan trọng đối với các nước xung quanh mà đối với các các nước có lợi ích kinh tế và an ninh chính yếu trong khu vực Châu Á. Ổn định, tự do hàng hải, tự do hoạt động kinh tế trong khu vực không bị cản trở là điều cực kì quan trọng. Chính phủ Mĩ trước nay không đứng về bất cứ phía nào trong tranh chấp biển Đông, nhưng phản đối bất cứ bên nào sử dụng vũ lực và ngăn cản tự do hàng hải. Chính phủ Mĩ cũng phản đối bất kì quốc gia nào có hành vi uy hiếp hoạt động kinh tế hợp pháp trong khu vực của các công ty Mĩ và công ty nước khác. Chính phủ Mĩ nhấn mạnh, mọi tranh chấp đều phải được giải quyết thông qua đàm phán đa phương hòa bình, và phù hợp với luật lệ quốc tế.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/2010, tại Diễn đàn ASEAN lần thứ 17 tổ chức tại Hà Nội – Việt Nam, Hillary Clinton và bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN đã tranh luận nảy lửa với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì. Trước đó, Mĩ đã nhượng bộ ngoại giao trên nhiều phương diện khác đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, Hillary đã chỉ ra trong Diễn đàn: yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông “chỉ” nên lấy “Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc” làm cơ sở. Điều đó có nghĩa là không chấp nhận yêu sách biển “quá mức” của Trung Quốc tại biển Đông. Dương Khiết Trì bèn thốt ra những lời gay gắt với các nước ASEAN: “Trung Quốc là nước lớn, các nước khác đều là nước nhỏ, đó là một sự thật.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cả hội nghị không tán thành và bỏ về. Nhưng, Mĩ đã quyết tâm thực hiện Chiến lược tái cân bằng ở Châu Á.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 3/2011, trợ lí Bộ Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải nói với giới quan chức Mĩ: Trung Quốc coi “1,3 triệu dặm Anh vuông ở biển Đông giống như Tây Tạng và Đài Loan.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/10/2011, Hillary đăng bài “America’s Pacific Century” (Thế kỉ Thái Bình Dương của Mĩ)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trên Tạp chí “Foreign Policy” (Chính sách ngoại giao), trình bày một cách toàn diện tính tất yếu của chính sách tái cân bằng Châu Á. Bài báo nêu rõ: Trong mười năm tới, Mĩ sẽ đầu tư tài nguyên chiến lược vào nơi trọng yếu nhất để duy trì địa vị lãnh đạo của nước Mĩ, bảo đảm lợi ích an ninh và thúc đẩy giá trị của Mĩ. Và một trong những nơi trọng yếu đó là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/2012, Hillary nhấn mạnh tại phiên họp hàng năm của Diễn đàn ASEAN, nước Mĩ có “lợi ích quốc gia” là tự do hàng hải ở biển Đông và sẽ bảo vệ lợi ích đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước và sau đó, hàng loạt quan chức cấp cao của Mĩ cũng đưa ra tuyên bố tương tự, trong đó có Cố vấn an ninh quốc gia Tom Donilon, Thứ trưởng Quốc phòng Ashton Carter (năm 2015 giữ chức Bộ trưởng), Trợ lí Ngoại trưởng phụ trách Châu Á và Thái Bình Dương Mark William Lippert, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Samuel J. Locklear III và nhiều người khác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chẳng hạn Tom Donilon nói,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> muốn thực hiện mục tiêu tái cân bằng Châu Á phải xây dựng một chiến lược toàn diện, đa chiều, bao gồm: tăng cường quan hệ đồng minh với các nước Đông Nam Á; làm sâu sắc mối quan hệ đối tác với quốc gia đang trỗi dậy; xây dựng quan hệ ổn định, đa dạng và có tính xây dựng với Trung Quốc; tăng cường năng lực của các tổ chức trong khu vực; và giúp tạo ra một cấu trúc kinh tế khu vực để duy trì sự thịnh vượng chung.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hành động cụ thể của Mĩ trong Chiến lược này bao gồm mấy điểm sau: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tạo dư luận</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Ngày càng có nhiều quan chức cấp cao Mĩ tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế chính thức và không chính thức ở Đông Nam Á, bày tỏ quan điểm về vấn đề biển Đông trong hầu hết các dịp thích hợp. Ngoài ra, nghiên cứu của nhiều nhóm chuyên gia cố vấn (Thinktank) trong nước cũng thúc đẩy sự chú ý của quốc tế và trong nước đối với vấn đề biển Đông, và bày tỏ quan điểm của Mĩ (Trung Quốc gọi đó là thổi phồng vấn đề biển Đông).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, tăng cường quan hệ ngoại giao với các quốc gia Đông Nam Á</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Quan hệ giữa Mĩ và các nước Đông Nam Á trong thời Obama được đẩy mạnh, trọng điểm là Philippines, Việt Nam, Indonesia và Singapore; đồng thời tăng cường trao đổi, phối hợp với Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và các nước có lợi ích liên quan đến vấn đề biển Đông (Trung Quốc gọi đây là quan hệ khiêu khích)). Sự can dự của Mĩ tất nhiên được các nước ASEAN mong muốn có sự viện trợ nước ngoài rất hoan nghênh. Năm 2010, Mĩ và ASEAN ra “Tuyên bố chung giữa Mĩ và ASEAN”. Trong đó có điều 18 bàn riêng về vấn đề hòa bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á: nhắc lại tầm quan trọng của hòa bình ổn định, an ninh biển, giao thương không bị cản trở và tự do hàng hải trong khu vực; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp bằng cách sử dụng các nguyên tắc liên quan được chấp nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển và các nguyên tắc khác của luật pháp quốc tế.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba, gia tăng sự hiện diện quân sự ở Đông Nam Á, củng cố đồng minh quân sự</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Mĩ tuyên bố, đến năm 2020 sẽ bố trí 60% lực lượng quân sự tại Thái Bình Dương (nhưng kế hoạch này triển khai chậm). Như tổng kết của Lippert, năm 2012, Mĩ đã tăng cường quan hệ quân sự với Thái Lan, New Zealand, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Úc, Philippines và Singapore.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đáng nói nhất là các liên hệ sau:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc khủng hoảng quần đảo Điếu Ngư đã châm ngòi cho một cuộc đối đầu ngoại giao gay gắt giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Mĩ ủng hộ Thủ tướng Shinzo Abe gỡ bỏ lệnh cấm “quyền tự vệ tập thể”, nhiều lần nhấn mạnh liên minh Mĩ - Nhật là hòn đá tảng của sự ổn định quân sự toàn bộ Đông Á, đồng thời khuyến khích Nhật Bản tuần tra chung với Mĩ tại biển Đông sau khi lệnh cấm được dỡ bỏ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ năm 2012, Mĩ đã sử dụng căn cứ quân sự của Úc ở Darwin để cho Thủy quân lục chiến đóng quân, dự định đến năm 2016 sẽ tăng số quân lên 2 500 người. Cảng Darwin cách Indonesia 802 km, quân đội Mĩ xuất phát từ đó có thể nhanh chóng phản ứng đối với nguy cơ nhân đạo hoặc an ninh xảy ra tại Đông Nam Á.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 7/2011, Mĩ, Nhật Bản và Australia tiến hành diễn tập quân sự chung 3 bên lần thứ nhất trên vùng biển ngoài khơi gần Brunei. Một số báo chí Đông Nam Á gọi quan hệ quân sự 3 bên Mĩ, Nhật, Australia là “tiểu NATO”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những năm gần đây, Ấn Độ cũng tích cực thực hiện chính sách “hướng Đông”, can dự vào công việc biển Đông, nhất là trong những năm gần đây, xu hướng rắc rối biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ tại khu vực Ladakh và nam Tây Tạng lại bùng phát. Ấn Độ gọi kế hoạch “chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương là sự khiêu khích địa vị chủ đạo của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương. Năm 2015, Trung Quốc phản đối việc Nhật Bản tham gia cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mĩ và Ấn Độ ở Ấn Độ Dương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ và Philippines có Hiệp định “Liên minh quân sự Mĩ - Philippines”. Năm 2011, Hillary Clinton tuyên bố sẽ cung cấp vũ khí và trang thiết bị quân sự cho Philippines, giúp hiện đại hóa quân đội Philippines. Trong hàng loạt xung đột biển Đông giữa Trung Quốc và Philippines, Mĩ đều đứng về phía Philippines, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt phương thức vũ lực và uy hiếp để thay đổi hiện trạng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những năm 1990, quan hệ Mĩ - Việt tan băng nhưng phải đến những năm gần đây mới phát triển nhanh chóng, từ giao lưu kinh tế sang giao lưu quân sự, gây nhạy cảm đối với Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 8/2010, lần đầu tiên trong lịch sử, tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân George Washington và tàu khu trục lớp Aegis USS John McCain cùng tập trận chung trên biển lần đầu với Hải quân Việt Nam. Tháng 10/2013, Mĩ và Việt Nam kí thỏa thuận chuyển giao công nghệ nhà máy điện hạt nhân dân dụng cho Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 10/2014, Mĩ tuyên bố sẽ dỡ bỏ từng bước lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ và Việt Nam còn đàm phán về xây dựng lực lượng bán quân sự phòng vệ bờ biển kiểu Mĩ để chống lại hải cảnh Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có chuyên gia Trung Quốc cho rằng, Việt Nam là thu hoạch lớn nhất của Mĩ khi quay trở lại Châu Á.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư, về kinh tế, tích cực thúc đẩy Hiệp định đối tác quan hệ kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hiệp định này do thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương khởi xướng, được thai nghén từ Hiệp định mậu dịch tự do đa phương, nhằm xúc tiến tự do thương mại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Năm 2005, khi mới thành lập, nó chỉ là hiệp định thương mại tự do quy mô nhỏ xuyên Thái Bình Dương với 4 nước tham gia là Brunei, Chile, New Zealand và Singapore. Sau khi đưa ra kế hoạch tái cân bằng, Mĩ đã tích cực tham gia thúc đẩy các cuộc đàm phán. Ngày 14/11/2010, đúng vào ngày bế mạc Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, 9 nước tham dự Hội nghị đã tán thành đề án do Tổng thống Obama đưa ra, dự định sẽ hoàn thành và công bố Đề cương Hiệp định quan hệ đối tác Thái Bình Dương mở rộng vào dịp tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời, Mĩ tích cực thương thuyết với các nước thành viên ASEAN, tái khẳng định rằng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương mở rộng sẽ tập hợp các nền kinh tế trên khắp khu vực Thái Bình Dương, cả phát triển lẫn đang phát triển, với tư cách là thành viên của một tổ chức thương mại thống nhất. Ngày 5/10/2015, đàm phán đạt được bước tiến triển mang tính quyết định. Mĩ, Nhật Bản, Australia, Canada, Singapore, Brunei, Malaysia, Việt Nam, New Zealand, Chile, Mexico và Peru đều nhất trí với TPP. Sau khi được các nước phê chuẩn, 12 nước tham gia cộng lại chiếm tới 40% tỷ trọng kinh tế toàn cầu. Trong đó, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Singapore đều là quốc gia ASEAN.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đặc điểm của TPP là bao trùm mọi mặt và tiêu chuẩn cao, xóa bỏ thuế quan liên quan đến hàng vạn sản phẩm thương mại. Thành viên Hiệp định chịu sự ràng buộc không những bởi các cơ chế thương mại, mà còn bởi luật lệ, đoàn thể xã hội, môi trường sinh thái, mô hình kinh doanh và sự phán xét của công chúng.... Có thể nói, đây là một cách diễn giải quốc tế hoàn toàn mới về “thương mại tự do”. Đây là mô hình thương mại tự do kiểu mới phát triển tổng thể, đa tầng. Cùng với hiệp định TIPP khác do Mĩ chủ đạo, TTP sẽ trở thành tiêu chuẩn mới về thương mại tự do. Dù (các nước) nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ đối với sự tham gia của Trung Quốc, nhưng trên thực tế, Trung Quốc khó đáp ứng các quy định và yêu cầu của TPP nên đương nhiên sẽ bị loại ra ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu TPP thành công thì chắc hắn nó sẽ cùng chính sách Tái cân bằng Châu Á trở thành di sản ngoại giao quan trọng nhất trong 8 năm cầm quyền của Obama. Nguyên nhân Mĩ thúc đẩy mạnh mẽ TPP đúng như họ nói: “Quy tắc “thương mại quốc tế” phải do Mĩ viết ra, và chúng ta nên làm cho môi trường cạnh tranh công bằng”, “Quy tắc như vậy không nên để Trung Quốc làm ra”. Suy cho cùng, TPP là cuộc tranh giành quyền lập ra các quy tắc và quyền thực thị các quy tắc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TPP cũng có thể được cọi là cuộc tranh giành quyền nắm ưu thế về kinh tế trong khu vực Đông Nam Á, giữa Mĩ và Trung Quốc, nhằm thay đổi trạng thái “an ninh dựa vào Mĩ, kinh tế dựa vào Trung Quốc” tại Đông Nam Á. Trong bối cảnh mở cửa thị trường Mĩ và Nhật Bản, Việt Nam hy vọng là nước hưởng lợi nhiều nhất, có thể lợi dụng ưu thế địa lí, lao động giá rẻ và ưu thế phát triển sau để trở thành công xưởng mới của thế giới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Mĩ luôn cẩn thận tránh đề cập đến Trung Quốc như một mối đe dọa ở biển Đông khi thể hiện chính sách tái cân bằng sang châu Á,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng chắc chắn rằng tác động của việc thực hiện nó chủ yếu nhằm vào Trung Quốc. Đặc biệt, Mĩ nhấn mạnh rằng hành vi của tất cả các quốc gia ở biển Đông phải tuân theo luật quốc tịch,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và không được thay đổi hiện trạng bằng vũ lực và cưỡng ép. Điều này bị Trung Quốc coi là “cản trở các yêu sách hợp lí của Trung Quốc ở Nam Hải và kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lập trường của Mĩ trong vấn đề chủ quyền ở biển Đông là “không đứng về bên nào mà nên giải quyết vấn đề này một cách hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”, bị Trung Quốc xem là “trò lừa bịp”. Ngay cả một hoạt động định hướng kinh tế như TPP cũng bị coi là một động thái không thân thiện của Mĩ nhằm cố tình loại trừ Trung Quốc ở Đông Nam Á.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối phó với đòn tấn công ngoại giao của Mĩ, trước hết Trung Quốc đưa ra khẩu hiệu “Thái Bình Dương đủ rộng để dung nạp hai nước lớn”;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sau đó là khẩu hiệu “Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN”;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kế đó là “thuyết Monroe châu Á” rằng “công việc của Châu Á suy cho cùng phải do người Châu Á định liệu”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dụng ý biến Đông Nam Á thành phạm vi ảnh hưởng của riêng Trung Quốc; lại nêu “cơ chế kép cho vấn đề biển Đông”, nghĩa là “tranh chấp được giải quyết hòa bình thông qua đàm phán hữu hảo giữa các bên liên quan, và hòa bình ổn định ở biển Đông do Trung Quốc và các nước Đông Nam Á cùng duy trì”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, Trung Quốc ra sức xúc tiến chiến lược “một vành đai một con đường”, trong đó, “một con đường” nhằm chỉ “Con đường tơ lụa trên biển thế kỉ XXI”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do mục tiêu chiến lược của Trung Quốc không rõ ràng nên các nước đều nghi ngại. Thủ tướng Singapore Lí Hiển Long đặt dấu hỏi cần hiểu thể nào về câu nói “Thái Bình Dương đủ rộng có thể dung nạp hai nước lớn là Mĩ và Trung Quốc”? Có phải đó là sự phân chia phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc và Mĩ, và đuổi Mĩ ra khỏi Tây Thái Bình Dương không? Hay Trung Quốc và Mĩ cùng làm cho Thái Bình Dương phồn thịnh? Nếu là vế sau thì đương nhiên đáng hoan nghênh; nếu là vế trước tế thì sẽ là một sự thụt lùi trong quan hệ quốc tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng, trong bối cảnh Trung Quốc và các nước Đông Nam Á xảy ra một loạt xung đột sau năm 2009, khẩu hiệu “cộng đồng chung vận mệnh” rất khó chiếm được lòng tin của các nước Đông Nam Á.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trái ngược với thái độ đối với Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và các bên liên quan quan trọng khác hoan nghênh chiến lược tái cân bằng sang châu Á của Mĩ. Trong bài phát biểu tại Hội nghị đối thoại Shangri La tháng 6/2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang công khai hoan nghênh Mĩ đóng vai trò quan trọng hơn trong việc làm giảm nhẹ tình hình căng thẳng trong khu vực Châu Á: “Không có quốc gia nào trong khu vực phản đối sự tham dự của các nước lớn ngoài khu vực, nếu sự can dự đó để tăng cường hợp tác, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Chiến lược tái cân bằng Châu Á được đẩy mạnh trong thời kì Obama mặc dù bị chậm trễ nghiêm trọng về mặt tái cân bằng quân sự, nhưng nó đã đạt được những kết quả khá thành công về mặt dư luận, ngoại giao, giao lưu quân sự và tạo dựng không gian kinh tế. </span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.5. Từ sự kiện bãi Lễ Nhạc (bãi Cỏ Rong/Reed Tablemount) đến việc cắt cáp</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi tăng cường lực lượng chấp pháp trên biển, Trung Quốc bắt đầu “bảo vệ quyền lợi” ở Biển Đông, đặc biệt là vùng biển Trường Sa, mà trong đó dầu mỏ và thủy sản là tiêu biểu nhất. Về dầu mỏ, Trung Quốc can thiệp vào việc khai thác dầu mỏ giữa công ty nước ngoài và các nước ven biển. Năm 2011 nổ ra 3 vụ xung đột điển hình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết là với Philippines. Hoạt động khảo sát chung giữa Trung Quốc, Philippines và Việt Nam không duy trì được là do vụ tham ô của Arroyo, nhưng Philippines không từ bỏ ý định khai thác một mình ở bãi Lễ Nhạc (Cỏ Rong). Tháng 2/2010, Forum Energy, công ty đã trợ giúp 3 nước tiến hành thăm dò chung đã nhận được hợp đồng dịch vụ cao hơn của Chính phủ Philippines, tiếp tục thăm dò khu vực khảo sát chung ban đầu. Trung Quốc vô cùng tức giận. Ngày 2/3/2011, tàu MV Veritas Voyager (của một công ty Pháp) đang khảo sát địa chấn tại bãi bãi Cỏ Rong, theo ủy thác của Forum Energy thì hai tàu hải giám Trung Quốc số 71 và 75 cùng đến Cỏ Rong, yêu cầu tàu MV Veritas Voyager rời đi và kẹp tàu khảo sát giữa hai tàu hải giám. Sau khi nhận được báo cáo, Philippines lập tức phái hai máy bay trinh sát đến quan sát. Khi máy bay đến thì tàu hải giám Trung Quốc đã rời đi. Philippines đưa hai tàu chiến đến bảo vệ tàu khảo sát để họ hoàn thành nhiệm vụ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, Philippines đã ra công hàm phản đối nghiêm khắc Trung Quốc về sự kiện “quấy nhiễu bãi Cỏ Rong”. Ngày 28/3, Philippines tuyên bố sẽ tăng cường tuần tra trên không và kế hoạch nâng cấp đường băng trên đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ). Từ 6-15/4, Mĩ và Philippines tiến hành tập trận chung “Kề vai sát cánh” 2011 trong 10 ngày. Mặc dù đây là cuộc tập trận thường kì, nhưng có lực lượng lớn nhất từ trước đến nay với tổng cộng hơn 3 000 lính Mĩ tham gia, Trung Quốc coi đó là hành động nhằm vào mình. Ngày 13/6, theo lệnh của Aquino III, Cục Khí tượng Philippines đã đổi tên “South China Sea” truyền thống sang tên “West Philippines Sea” (biển Tây Philippines)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [tháng 9/2012, Aquino chính thức kí sắc lệnh số 29, yêu cầu tất cả các cơ quan hành chính và bản đồ xuất bản của nhà nước đều phải gọi tên như vậy đối với “vùng đặc quyền kinh tế Philippines” tại biển Đông].</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 15/6, Philippines công bố kế hoạch mở thầu khai thác dầu mỏ ở biển Đông, chia vùng biển phía Tây Philippines thành 15 lô, hoan nghênh các công ty đến đấu thầu, trong đó có một số lô dầu nằm trong đường 9 đoạn. Hai trong số này nằm trong bãi Cỏ Rong, gần với khu vực tàu MV Veritas Voyager bị tàu Trung Quốc quấy nhiễu. Để củng cố lòng tin của các công ty nước ngoài đối với chủ quyền của mình, Philippines đồng thời tuyên bố trong tháng 5 sẽ dỡ bỏ các cột mốc “nước ngoài” dựng lên ở 3 nơi là đá Ngưu Xa Luân (đá Long Điền / Boxall Reef), đá An Đường (Amy Douglas Reef / đá Mỏ Vịt) và bãi Cỏ Rong, (những cột mốc này rõ ràng là của Trung Quốc để lại).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc phản đối việc này nhưng Philippines kiên quyết làm theo kế hoạch. Tình trạng này kéo dài cho đến khi Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario thăm Trung Quốc vào 6/7, và hai bên nhất trí tuyên bố rằng hai nước sẽ hợp tác để duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông, thì mới bắt đầu nhạt dần. Chuyến thăm Trung Quốc theo kế hoạch của Aquino vào tháng 4 cuối cùng mới được thực hiện vào ngày 30/8. Tuy nhiên, thái độ của Philippines đối với bãi Cỏ Rong vẫn không dịu đi. Tháng 2/2012, Philippines lại một lần nữa mời công ty dầu khí nước ngoài đến đấu thầu tại lô dầu bãi Cỏ Rong và tuyên bố “bãi Cỏ Rong là bộ phận không thể thiếu của Philippines, không thể cùng khai thác, nếu không sẽ vi phạm Hiến pháp”, thậm chí còn mời doanh nghiệp dầu mỏ Trung Quốc tham gia đấu thầu.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai lần xung đột điển hình khác đều liên quan đến Việt Nam. Các lô dầu khí do Việt Nam vẽ ra chồng lấn với đường 9 đoạn của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 71</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Đầu năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, các nhà đầu tư khắp nơi ào ạt đổ vào. Khi đó, Công ty dầu khí Anh (BP) có quan hệ làm ăn từ lâu với Việt Nam đã quyết định tăng đầu tư vào Việt Nam. Ngày 6/3/2007, BP công bố kế hoạch cùng công ty Việt Nam và Công ty ConocoPhilips đầu tư khai thác giếng dầu khí tự nhiên tại lô 5.2. Khi đó, Đại sứ mới của Trung Quốc tại Anh là Phó Oánh chuẩn bị nhậm chức. Năm 2000, khi giữ chức Vụ trưởng Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà này đã từng làm việc với BP, yêu cầu BP không tham gia khai thác lô 6.1 với Việt Nam, nhưng BP từ chối. Lần này, sau khi nhậm chức đại sứ tại Anh, Phó Oánh lập tức gây áp lực với BP: nếu BP tham gia khai thác lô 5.2 thì Trung Quốc sẽ: (1) Xem xét lại tất cả hợp đồng BP đã kí với Trung Quốc; (2) Trung Quốc không đảm bảo an toàn cho công nhân tác nghiệp trong lô này. Trước sự uy hiếp đó, BP đã rút lui, đồng ý với Trung Quốc chỉ tiếp tục khai thác lô 6.1 mà không tham gia khai thác lô 5.2. Không những thế, Phó Oánh còn “kiến nghị” BP đứng ra làm trung gian giúp Công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đàm phán để giành được quyền “cùng khai thác” lô 5.2 và lô 5.3. Nhưng ý hướng của CNOOC không nhằm vào việc kiếm tiền mà hy vọng thông qua phương thức này giúp Trung Quốc tạo ấn tượng giả về việc có được chủ quyền. Tuy vậy, trước sự kiên quyết của phía Việt Nam, CNOOC đã không đạt được mục đích. Tuy nhiên, thành công này đã phá hủy kế hoạch khai thác lô 5.2 và 5.3 của PetroVietnam. Cả BP lẫn công ty đối tác Conaco Philips đều rút khỏi hợp tác, chuyển nhượng hợp đồng cho PetroVietnam mà không được bồi thường..</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc dùng thủ đoạn tương tự để ép một số công ty nước ngoài khác rút khỏi việc khai thác các mỏ dầu khí của Việt Nam, chẳng hạn như Công ty Chevron của Mĩ đã tiến hành thăm dò lô 112, gần bờ biển Việt Nam, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã gây áp lực và bị ép từ bỏ hoạt động; Công ty Pogo của Mĩ đã tiến hành thăm dò lô 124 nhưng cũng phải bỏ dở vì lí do tương tự. Thậm chí Chính phủ Trung Quốc còn dùng đòn ngoại giao để gây áp lực và đạt được mục đích tương tự. Ví như Tập đoàn tài chính hình thành từ Idemitsu Kosan, Nippon Oil và Teikoku Oil của Nhật Bản ban đầu dự định khai thác lô 1.5-b và 5.1-c, nhưng buộc phải rút lui sau khi Chính phủ Trung Quốc gây áp lực trực tiếp với Chính phủ Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy vậy, cũng có một số công ty không sợ áp lực từ Trung Quốc. Chẳng hạn, tháng 1/2008, Công ty Exxon Mobil kí bản ghi nhớ với PetroVietnam, khai thác các lô 156-159. Các lô này nằm xa đất liền Việt Nam nhất, nằm sâu trong đường 9 đoạn của Trung Quốc. Vì việc này, Trung Quốc đột nhiên hủy bỏ dự án khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) có dính dáng với Trung Quốc của Công ty này. Trớ trêu là, mặc dù Exxon Mobil không sợ áp lực từ phía Trung Quốc, nhưng Chính phủ Việt Nam lại lo ngại rằng sau này do bị Trung Quốc trừng phạt Exxon Mobil sẽ từ bỏ hợp đồng nên đã trao cho Công ty khí đốt tự nhiên quốc gia của Nga (Gazprom) một lô khác cũng đang được đàm phán (vì quan chức ngoại giao Nga nói với Việt Nam rằng Trung Quốc chưa bao giờ cảnh cáo các công ty dầu khí của Nga). Ngoài Exxon Mobil ra, còn một số công ty không sợ Trung Quốc uy hiếp do ít có quan hệ kinh doanh với Trung Quốc. Một loại công ty khác không sợ sự uy hiếp từ Trung Quốc tương tự như những công ty của Nga, thuộc các quốc gia có “quan hệ tốt” với Trung Quốc như Hàn Quốc và Ấn Độ đều có thể tham gia khai thác với Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ứng phó với các công ty không sợ bị uy hiếp, Trung Quốc sử dụng các biện pháp như đã sử dụng với Philippines, chỉ là có phần mạnh tay hơn. Ngày 26/5/2011, khi tàu Bình Minh 2 do PetroVietnam và CGC Veritas thuê thăm dò tại lô 148 thì bị 3 tàu hải giám Trung Quốc (số 12, 17 và 84) bao vây. Hai “tàu lưới cá” hộ tống không thể ứng phó nổi 3 tàu, tàu 84 thừa cơ lao qua tàu thăm dò, cắt đứt cáp thăm dò.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sự việc xảy ra tại 12° 48’25 N, 111° 26’48 E, cách bờ biển Việt Nam chừng 116 hải lí (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 72</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), vừa nằm trong vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam tuyên bố, vừa nằm trong đường 9 đoạn mà Trung Quốc tuyên bố. Về phía Việt Nam, may mắn là nhờ dây cáp có thiết bị nổi tự động nên chỉ cần sửa chữa đơn giản là có thể sử dụng tiếp. Sau đó, Việt Nam đưa thêm 8 tàu bảo vệ, đảm bảo cho tàu Bình Minh 2 hoàn thành xong vào ngày 26/5.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 396px; overflow: hidden; width: 298px;"><img height="396" src="https://lh5.googleusercontent.com/k1FpjTz_lwDJll9SyTSs8r8X4x1pk4XRANZebUFiqiZ_PsfXPotGGm_2zlsEiJD1yFTAFSBqqoMwZngUgKnoJCcxV9f4RtFof0SH4gl2hkvPKxVB_DSujpplkasQcZmGMJk1S45E3Enoy1qqBAO49NE" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="298" /></span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 391px; overflow: hidden; width: 276px;"><img height="391" src="https://lh4.googleusercontent.com/lBwXH-HrMBCYsfB1RNq7ei8mwCThY11SnvOPHgaSpayY9toz_iKU4HiEuBqNDUSrKX6wv_evcsvgRHeCdn73jJMsWvnsCXreiZEYuuzC3aY4YGWb18fM44IsmnG5Ev_xwmD8srl3sP3tGnG0htk7NA0" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="276" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-indent: 36pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 71</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Lô dầu khí Việt Nam </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 72</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Trung Quốc cắt đứt cáp tàu thăm dò</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-indent: 36pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Việt Nam năm 2012</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam đã gửi công hàm phản đối đến Đại sứ quán Trung Quốc, tố cáo tàu Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, đồng thời yêu cầu Trung Quốc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du tuyên bố Trung Quốc phản đối các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc và việc Cục trưởng Cục Hải giám Trung Quốc thực hiện các hành động thực thi pháp luật đối với các tàu Việt Nam trái phép là hoàn toàn chính đáng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không lâu sau đó, Trung Quốc lại phái tàu ngư chính và tàu cá tới lô dầu khí 136-03, ở điểm cực Đông Nam, cắt cáp thăm dò tàu Viking II của Việt Nam đang tác nghiệp tại đó. Vài ngày trước khi vụ việc xảy ra, tàu Viking 2 đã bị các tàu đánh cá Trung Quốc quấy rối khi nó đang khảo sát cho Idemitsu Kosan ở lô 05-1d. Đầu tháng 6, tàu Viking II được Công ty Talisman Canada thuê thăm dò lô 136-03, nằm sát lô Vạn An Bắc. Ngày 8/6, tàu Trung Quốc kéo đến địa điểm hoạt động của tàu Viking II, tàu cảnh sát biển Việt Nam Vạn Hoa 737 làm nhiệm vụ bảo vệ đã phát tín hiệu cảnh cáo yêu cầu tàu Trung Quốc rời đi nhưng tàu Trung Quốc vẫn loanh quanh gần đó. Ngày 9/6, dưới sự yểm trợ của tàu ngư chính 303 và 311, tàu cá số hiệu 62226 lao vào cáp khảo sát của tàu Viking II, tàu cá có trang bị dụng cụ cắt cáp nhưng do tuyến cáp quá dày (8 dây cáp) nên tàu cá Trung Quốc vướng vào tuyến cáp của tàu Viking II, chân vịt tàu bị hỏng, thân tàu bị tàu Viking II kéo đi. Tàu ngư chính Trung Quốc đến “giải cứu”, “đành phải” cắt đứt cáp. Trung Quốc tuyên bố đó là hành vi tự vệ của tàu cá.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không thể giải quyết vấn đề qua đường ngoại giao, Việt Nam chỉ còn cách kích thích tinh thần dân tộc. Ngày 5/6, khoảng 300 người Việt Nam tiến hành biểu tình chống Trung Quốc tại khu vực gần Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội. Cùng ngày, 1 000 người tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xuống đường phản đối Trung Quốc. Cuối tuần sau khi xảy ra sự kiện cắt cáp lần thứ hai, người Việt Nam tiếp tục biểu tình chống Trung Quốc. Làn sóng biểu tình tiếp tục 12 lần sau đó vào mỗi cuối tuần. Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố tập trận tại biển Đông. Để khống chế tình hình, ngày 26/6, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc đã gặp đặc sứ Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn tại Bắc Kinh. Hai bên tỏ ý sẵn sàng giải quyết tranh chấp trên biển thông qua đàm phán và thương lượng hữu nghị. Ngày hôm sau, Chính phủ Việt Nam khống chế các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, cấm người biểu tình tới gần khu vực Đại sứ quán Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba hành động quấy rối trong năm 2011 cho thấy Trung Quốc muốn nhanh chóng kiểm soát biển Đông. Hành động của Trung Quốc đã leo thang từ tuyên bố chủ quyền sang thực sự ngăn cản các nước ven biển khai thác tài nguyên, đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích thương mại và an ninh quốc gia của các nước ven biển. Những hành động tương tự như vậy chỉ tăng mà không hề giảm đi trong những năm sau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 30/11/2012, hai tàu cá Trung Quốc cắt đứt cáp thu âm địa chấn của tàu Bình Minh II đang tác nghiệp tại vùng biển có tọa độ 108°02’ Đông và 17°26’ Bắc (nằm ở lô 113 của Việt Nam). Sự việc xảy ra tại cửa vịnh của vịnh Bắc Bộ, cách bờ biển Việt Nam 54 hải lí, cách đảo Hải Nam Trung Quốc 75 hải lí, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 210 hải lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tàu Bình Minh II lúc đó được Công ty Rosneft của Nga thuê. Hành động quấy nhiễu của Trung Quốc thậm chí mở rộng tới vùng cực Nam của biển Đông, cách rất xa lục địa Trung Quốc, đối tượng cũng được mở rộng tới Malaysia, nước vốn giữ thái độ mềm mỏng. Ngày 21/8/2012, tàu Trung Quốc đã hai lần quấy nhiễu tàu thăm dò của Malaysia; ngày 19/1/ 2013 lại diễn ra lần nữa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 23/6/2012, để trả đũa việc Việt Nam ban bố “Luật biển Việt Nam”, CNOOC công bố mở 9 lô dầu, lần lượt đặt tên là “Kim Ngân 22, Hoa Dương 10, Hoa Dương 34, Tất Sinh 16, Đạn Hoàn 04, Đạn Hoàn 22, Nhật Tích 03, Nhật Tích 27, Doãn Khánh Tây 18” (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 73</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), trong đó 7 lô nằm ở khu vực bồn trũng Trung Kiến Nam, 2 lô nằm ở khu vực bồn trũng Vạn An và bồn trũng Nam Vi Tây. Công bố nêu rõ: những khu này có độ sâu nước 300-400m, tổng diện tích 160 124,38 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đều sẽ được thăm dò khai thác cùng công ty nước ngoài.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những lô dầu này đều nằm trong thềm lục địa đã được Việt Nam hoạch định, đồng thời cũng chồng lấn với các lô do Việt Nam phân định. Không ngạc nhiên khi động thái này bị Việt Nam phản đối: “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam”, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các lời mời hợp tác khai thác quốc tế. Về vấn đề này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết: doanh nghiệp Trung Quốc mời thầu các lô dầu là việc làm bình thường, phù hợp với luật pháp Trung Quốc và thông lệ quốc tế liên quan. Về việc xử lí thỏa đáng các tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên có nhiều nhận thức chung. Trung Quốc hy vọng Việt Nam tuân thủ những nhận thức chung đó, không sử dụng các hành động làm phức tạp hóa và mở rộng tranh chấp, dừng ngay các hoạt động xâm phạm dầu khí trong vùng biển liên quan.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, do phản đối của Việt Nam và tính nhạy cảm của tranh chấp biển Đông nên cho đến nay, chưa có thông tin gì liên quan đến việc hợp tác khai thác giữa Trung Quốc và công ty nước ngoài trong các lô này. Mâu thuẫn về vấn đề dầu khí giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lên đến đỉnh điểm vào năm 2014 khi xảy ra sự kiện giàn khoan 981 (xem phần VI.11).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 427px; overflow: hidden; width: 378px;"><img height="427" src="https://lh5.googleusercontent.com/2RCNgjKLI4S9H_v_UP52PwRM-YeLAApKO6Azu8IqAUKUifKRkVV_BVFyYO2ZkvtnuLLpqJL-3Hz0VUFt-0UlmqkPftIypN91Hg4NaDDBxJXzHZ3E8Ma7e-5oPVmh0J19lQ2GW5RBkzlsr75ho4PaNfs" style="margin-left: -0.490332px; margin-top: 0px;" width="378.980663795417" /></span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 249px; overflow: hidden; width: 210px;"><img height="249" src="https://lh4.googleusercontent.com/UX_ZIPRRgTjkRpkX4raZ5oKdNqNtU3E2Nl0nDYiBXoeWuK2j5gXp8VG2621S01LvjE6qCWEWgtMWsAXqewuzbOO3jP9vGctS7fEmIuQcs4K1ns0INQZsN3Pv11fkWRyPTAyFc6ffegZy9DZsczHtaOs" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="210" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 73</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Điểm chồng lấn giữa các lô dầu mời thầu do Trung Quốc hoạch định và các lô do Việt Nam hoạch định năm 2012 </span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.6. Khủng hoảng tại đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough)</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mâu thuẫn Trung Quốc – Philippines trước khủng hoảng bãi Scarborough</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ năm 2009, tình hình biển Đông nóng lên, trong đó mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Philippines được chú ý nhiều nhất. Có nhiều nguyên nhân làm cho quan hệ hai bên hữu hảo từ thời Arroyo chuyển sang thù oán. Vụ án tham nhũng Arroyo (xem phần V.8) là một trong nhiều nhân tố, nhưng nhân tố quyết định nhất là cuộc bầu cử tổng thống Philippines năm 2010. Tham nhũng triền miên suốt hai nhiệm kì của tổng thống Estrada và Arroyo khiến người dân Philippines vô cùng thất vọng. Liêm khiết trở thành yêu cầu lớn nhất của người dân Philippines đối với nhiệm kì tổng thống tiếp theo. Xuất thân trong gia tộc chính trị, Aquino III (con trai của Tổng thống tiền nhiệm Corazon Aquino) đã dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống nhờ vào khẩu hiệu trong sạch trong chính trị và vào hiệu ứng đồng cảm từ cái chết không lâu trước đó của mẹ ông. Trong nhiệm kì 6 năm sau đó, Aquino III trở thành nhân vật quan trọng đối với tình hình biển Đông. Là người thuộc phái thân Mĩ, sau khi ông nhậm chức, quan hệ Trung Quốc – Philippines xấu đi nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kĩ thì nguyên do khiến quan hệ hai nước xấu đi bao gồm mấy điểm sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Arroyo được biết đến là người thân Trung Quốc trong những ngày đầu cầm quyền nhưng trước cáo buộc tham nhũng, buộc phải chuyển từ thái độ thân Trung Quốc sang trung lập. Để kịp nộp hồ sơ thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (xem phần VI.3), Philippines phải sửa lại đường cơ sở lãnh hải. Tháng 8/2007, Thượng Nghị viện nhiệm kì mới Philippines đưa dự luật số 1467, mở rộng đường cơ sở lãnh hải của quần đảo Philippines, bao gồm cả bãi Scarborough. Tháng 12, Hạ Nghị viện đưa dự luật số 3216 cấp tiến hơn, không chỉ bao gồm bãi Scarborough mà còn bao gồm cả quần đảo Kalayaan. Điều này đã gây ra sự phản đối mạnh mẽ từ Trung Quốc đại lục. Dưới áp lực của Bắc Kinh, Arroyo đề xuất đường cơ sở lãnh hải không bao gồm bãi Scarborough lẫn nhóm đảo Kalayaan, mà gọi hai nơi này là “regime” (quy chế) và gây sức ép buộc Quốc hội ban hành luật theo phương án này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, Quốc hội Philippines đã hoãn ban hành luật. Nhưng đến tháng 1/2008, việc Trần Thủy Biển tham gia lễ khai trương sân bay trên đảo Thái Bình (Ba Bình) đã khơi lại cuộc tranh luận về việc Philippines nên mở rộng đường cơ sở lãnh hải thế nào. Cơ quan ngoại giao, hai nghị viện và ý kiến dân chúng trong nước bàn luận gay gắt về việc có đưa bãi Scarborough và quần đảo Kalayaan vào phạm vi đường cơ sở lãnh hải hay không. Trung Quốc lại gây áp lực lần nữa. Mặc dù uy tín của chính phủ Arroyo bị hạ thấp trong mắt dân chúng vì vụ bê bối tham nhũng, nhưng vẫn có ý định lái dự luật theo phương án của mình nên có đã nhượng bộ ở mức tối đa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, ngày 10/3/2009, Quốc hội Philippines đã thông qua “Luật đường cơ sở lãnh hải” (Republic Act 9522),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> bãi Scarborough và nhóm đảo Kalayaan không được liệt kê trực tiếp là các điểm cơ sở lãnh hải trong Điều 1. mà liệt kê độc lập trong điều 2, gọi chúng là “regime of islands” (quy chế đảo) thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippines. Philippines đã xác định cơ sở lãnh hải của mình theo đúng các nguyên tắc của điều 121 “Công ước Luật biển Liên Hiệp Quốc” về chế độ các đảo. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Section 2. The baseline in the following areas over which the Philippines likewise exercises sovereignty and jurisdiction shall be determined as Regime of Islands under the Republic of the Philippines consistent with Article 121 of the United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS): </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">a) The Kalayaan Island Group as constituted under Presidential Decree No. 1596; and </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b) Bajo de Masinloc, also known as Scarborough Shoal.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục 2. Đường cơ sở tại các khu vực sau đây mà Philippines cũng có quyền chủ quyền và quyền tài phán được xác </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">định là "Quy chế các đảo" thuộc Cộng hòa Philippines, phù hợp với Điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS):</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> a) Nhóm Đảo Kalayaan được lập theo Sắc lệnh số 1596 của Tổng thống; và </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b) Bajo de Masinloc, còn được gọi là Bãi Scarborough.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Section 3. This Act affirms that the Republic of the Philippines has dominion, sovereignty and jurisdiction over all portions of the national territory as defined in the Constitution and by provisions of applicable laws including, without limitation, Republic Act No. 7160, otherwise known as the Local Government Code of 1991, as amended</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục 3. Đạo luật này khẳng định rằng Cộng hòa Philippines có quyền chiếm hữu, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với tất cả các phần thuộc lãnh thổ quốc gia như được định nghĩa trong Hiến pháp và các quy định của luật hiện hành, bao gồm nhưng không giới hạn ở, Đạo luật số 7160, hay còn được gọi là Luật Chính quyền địa phương năm 1991, như được sửa đổi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc hết sức không vừa lòng với cách xử lí coi bãi Scarborough và quần đảo Kalayaan là lãnh thổ của Philippines. Theo Hiến pháp Philippines, Tổng thống Arroyo có quyền phủ quyết dự luật. Vì thế mà Trung Quốc ra tuyên bố ba lần, kháng nghị một lần và trao đổi một lần,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thúc giục Arroyo phủ quyết dự luật. Nhưng do áp lực trong nước nên Arroyo không làm điều đó. Từ đó, bãi Scarborough được chính thức liệt kê là lãnh thổ của Philippines. Ngày 13/5 cùng năm, Luật 9522 nước Cộng hòa Philippines có hiệu lực.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines phớt lờ sự phản đối của Trung Quốc, vẫn xúc tiến kế hoạch khai thác bãi Cỏ Rong. Sau khi Trung Quốc đưa tàu đến quấy nhiễu, Philippines vẫn tiếp tục khai thác. (xem phần VI.5). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong văn kiện phản đối hồ sơ phân định thềm lục địa mở rộng năm 2009 của các nước liên quan, Trung Quốc chính thức đưa ra quốc tế “đường 9 đoạn”. Việc đó khiến các nước Đông Nam Á phản đối kịch liệt, trong đó Philippines là nước cứng rắn nhất. Tháng 4/2011, Philippines gửi công hàm đến Liên Hiệp Quốc, chỉ rõ đường 9 đoạn không phù hợp Luật quốc tế (xem phần VI.3), đây là đầu tiên đường 9 đoạn bị chất vấn trong văn kiện quốc tế chính thức. Sau 2 năm xảy ra sự việc, Philippines mới sử dụng hành động pháp lí, khả năng có liên quan đến vụ quấy nhiễu tại bãi Cỏ Rong. Ngày 25/7/2011, trong diễn văn về tình hình trong nước, Aquino nhấn mạnh: “Chúng tôi không muốn làm trầm trọng thêm mâu thuẫn với bất kì quốc gia nào, nhưng chúng tôi phải cho thế giới biết rằng, chúng tôi sẵn sàng bảo vệ những gì thuộc về chúng tôi. Chúng tôi cũng đã tính tới khả năng đưa vấn đề tranh chấp vùng biển Tây Philippines ra Tòa án quốc tế về Luật biển, từ đó các quốc gia có tranh chấp biển có thể giải quyết vấn đề một cách bình tĩnh và kiềm chế.” Ngôn từ của Philippines đã thách thức Trung Quốc trên phương diện Luật pháp quốc tế, thậm chí tính tới phải đưa ra Tòa án quốc tế, đó là việc Trung Quốc không hề muốn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sau năm 2009, xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Philippines ngày càng nhiều hơn, có thể chia thành hai loại chính: một là, tàu cá Trung Quốc xâm nhập “vùng đặc quyền kinh tế”, thậm chí cả lãnh hải của Philippines để đánh bắt cá (chẳng hạn biển Sulu); hai là, “tàu chấp pháp” của Trung Quốc vào “vùng đặc quyền kinh tế” của Philippines để “thực thị pháp luật”, những tàu chấp pháp đó hiếm khi quản lí hoạt động đánh bắt trái phép của ngư dân Trung Quốc, nhưng lại quấy nhiễu và xua đuổi tàu cá Philippines, hoặc ngăn chặn tàu chấp pháp Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, va chạm giữa hai bên là điều không tránh khỏi. Ngày 18/10/2011, một tàu chiến Philippines đâm vào tàu cá Trung Quốc tại biển Đông. Vài ngày sau, Hải quân Philippines cho biết đó là sự va chạm ngoài ý muốn và xin lỗi vì sự việc này. Ngày 11 và 12/12/2011, ba chiếc tàu Trung Quốc đi vào bãi Sa Bin (Sabina Shoal/ Tiên Tân) do Philippines tuyên bố chủ quyền. Ngày 5/1/2013, Ngoại trưởng Philippines gửi thư đến Đại sứ quán Trung Quốc nói rõ: “Việc đột nhập của tàu Trung Quốc là một vi phạm rõ ràng”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối đầu ở bãi Scarborough</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi xảy ra tranh chấp bãi Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines, Philippines vẫn kiểm soát bãi này. Hải quân Philippines chịu trách nhiệm tuần tra và thực thi pháp luật tại đó. Báo chí Trung Quốc cũng thừa nhận sự thật là trước năm 2012, Philippines kiểm soát bãi Scarborough. Nhưng nhìn chung, Philippines không ngăn cản ngư dân Trung Quốc đến đó đánh bắt cá. Trong các vụ Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc, họ chỉ nhắm vào ngư dân đánh bắt trái phép, chẳng hạn những ngư dân đánh bắt loại ốc xà cừ lớn quý hiếm. Sau năm 2012, ngư dân Philippines và ngư dân Trung Quốc đều có thể đánh bắt cá bình thường tại khu vực Scarborough và không có báo cáo về xung đột nào giữa các ngư dân.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do trong thời gian dài không có người lên đảo phát thanh qua vô tuyến nên bãi Scarborough trở thành địa điểm thứ hai trong danh sách “quốc gia” được chờ đợi nhất của DX, lại có người cho rằng nên hủy bỏ tư cách này của bãi. Do đó, tháng 4/2007, một nhóm DX quốc tế gồm 17 người yêu thích từ Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Italy, Singapore, Philippines,... một lần nữa lại “viễn chinh” đến Scarborough</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (báo cáo của Trung Quốc không có Philippines, trong khi có Phần Lan,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> không ăn khớp với danh sách). Một lần nữa, Trần Bình lại tham gia trong đoàn viễn chinh. Lần này, đoàn người đi trên một chiếc tàu thuê của Hong Kong, xuất phát từ Hong Kong đến Scarborough. Khi đó, do mọi người đều biết việc bãi Scarborough có tranh chấp nên trước khi đi, đội viễn chinh không chỉ nhận được sự phê chuẩn của Trung Quốc mà còn nhận được sự trợ giúp từ DX Philippines và Hội vô tuyến nghiệp dư Philippines (PARA), đặc biệt là của thành viên Tim N4GN (đã tham gia leo lên đảo vào năm 1995) của hội, với sự cho phép của Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Để đảm bảo an toàn cho người lên đảo, Hội vô tuyến điện nghiệp dư Philippines còn thỏa thuận trước với hải quân Philippines, nhờ họ giám sát từ xa, đồng thời luôn có máy bay trực thăng trợ giúp khi cần.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Nghe nói, sau khi biết sự việc, Trần Bình tỏ ra không vui,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng không thể ngăn cản được sự giám sát của hải quân Philippines. Thậm chí, ông ta còn trăn trở phiền muộn việc trong chuyến về tàu lại ghé Manila trước để các đối tác từ các nước khác có thể về nhà ). Kết quả là chuyến viễn chinh diễn ra suôn sẻ, không gặp bất kì sự quấy nhiễu nào (trừ việc trên đường đi có ngư dân Philippines đề nghị đổi hải sản lấy dầu). Nhưng, theo miêu tả của Trần Bình, do bãi Scarborough được khai thác đã lâu nên diện mạo đã không còn “sơ khai” như 10 năm trước đó, ngư dân Trung Quốc và Philippines đều đến đây đánh cá và thu thập san hô.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự việc đó cho thấy trước năm 2012, bãi Scarborough nằm dưới sự cai quản của Philippines nhưng tàu thuyền thường được tự do lui tới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng, sự kiện đột biến năm 2012 đã làm thay đổi mọi thứ. Ngày 8/4, máy bay trinh sát của hải quân Philippines thông báo về sở chỉ huy rằng có 8 tàu cá Trung Quốc xuất hiện tại bãi Scarborough. Sau đó, khi đang trên đường trở về Manila, tàu hải quân BRP Gregorio del Pilar nhận được tin báo có ngư dân Trung Quốc đánh cá trái phép tại bãi nên lập tức quay trở lại đó. Khoảng 10:00 sáng ngày 10, tàu chiến neo đậu bên ngoài bãi, phái quân lên bãi, và phát hiện có 12 chiếc tàu đánh Trung Quốc. Theo báo cáo, khi kiểm tra, họ phát hiện trên các tàu đánh cá có rất nhiều hải sản quý hiếm gồm san hô, trai cỡ lớn và cá mập mỏ đen (blacktip shark),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nên chuẩn bị bắt giữ ngư dân Trung Quốc. Họ đưa biên bản viết bằng tiếng nước ngoài đã in sẵn, yêu cầu ngư dân Trung Quốc kí tên, lăn tay, thừa nhận “xâm nhập Philippines”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đúng lúc đó, hai tàu hải giám Trung Quốc (số 75 và 84) lao đến, chặn lối ra vào bãi, ngăn cản hải quân Philippines bắt giữ ngư dân. Hải quân Philippines đành phải cho tàu chiến quay lại, đối đầu với tàu hải giám Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại sứ quán Trung Quốc tại Manila lập tức tuyên bố, “tàu Philippines đã xâm nhập trái phép vào vùng biển Trung Quốc”. Ngày hôm sau, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân phát biểu trước cuộc họp báo: “Hành vi được gọi là ‘thực thi pháp luật’ của Philippines trên bãi Scarborough là xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, và cũng đi ngược với nhận thức chung của hai bên về duy trì hòa bình, ổn định, không làm phức tạp và mở rộng tình hình tại biển Đông. Ngành hữu quan Trung Quốc đã đưa tàu công vụ của Chính phủ đến vùng biển Hoàng Nham, hiện tại ngư dân Trung Quốc và tàu thuyền của họ đều an toàn.” Đồng thời, Trung Quốc nhắc lại, đảo Hoàng Nham là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, Trung Quốc có chủ quyền không tranh chấp đối với đảo Hoàng Nham.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tối ngày 10, Ngoại trưởng Philippines gặp Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Mã Khắc Khanh, tuyên bố rằng “bãi Scarborough là bộ phận không thể chia cắt của Philippines”. Hải quân Philippines tuyên bố rằng họ có quyền bắt giữ ngư dân đánh bắt trái phép tại đó và nhấn mạnh, hải quân Philippines trước nay vẫn làm như vậy. Tổng thống Aquino yêu cầu hải quân không sử dụng vũ lực, và tuyên bố sự việc cần được giải quyết thông qua phương thức ngoại giao. Để làm dịu tình hình, Philippines phái tàu cứu hộ BRP Pampanga (SARV-0006) của lực lượng Tuần duyên ra thay thế tàu hải quân, tàu này đã đến bãi Scarborough vào ngày 12.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng ngày, tàu ngư chính Trung Quốc số hiệu 303 cũng đến bãi Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tối 13, dưới sự yểm trợ của tàu hải giám 75 và tàu ngư chính 303, toàn bộ tàu cá Trung Quốc đã rút khỏi bãi Scarborough, nhưng tàu hải giám 84 vẫn trụ lại ở đó, tiếp tục đối đầu với tàu BRP Pampanga (SARV-0006) của Philippines. Ngoài ra, trong bãi vẫn còn hơn 20 tàu cá Philippines. Tình thế xem ra bắt đầu lắng xuống. Nhưng đến ngày hôm sau, tàu khảo cổ Sarangani Philippines (đoàn khảo sát bao gồm các chuyên gia Philippines và Pháp) trước đó đã điều tra bãi Scarborough, bị tàu hải giám 75 của Trung Quốc quay lại cảnh báo phải rời đi. Ngày 15, tàu hải giám 71 và tàu ngư chính 44061 đến bãi Scarborough, tình thế đối đầu căng trở lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 16/4, tàu hải quân cứu hộ Philippines Edessa đến thay thế tàu Pampanga. Cùng ngày, cuộc diễn tập quân sự chung định kì hàng năm diễn ra ngoài khơi đảo Palawan đúng theo kế hoạch. Nhưng sự việc này bị truyền thông Trung Quốc bóp méo là cuộc tập trận gần vùng biển bãi Scarborough nhằm gây áp lực với Trung Quốc. Bất kể thật giả, Cục Ngư chính Hải Nam vẫn mở cuộc họp khẩn cấp, phái tàu ngư chính 121 do Đội trưởng Tổng đội ngư chính Hải Nam dẫn đầu tiến ra biển Đông, tham gia đối đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, mặc dù cả Trung Quốc và Philippines đều biểu thị thái độ muốn giải quyết vấn đề thông qua ngoại giao, nhưng giọng điệu của cả hai bên ngày càng gay gắt. Ngoài việc tuyên bố chủ quyền đối với bãi Scarborough như trước đây, ngày 13/4 Trung Quốc còn đăng bài “Giải quyết vấn đề biển Đông không thể chỉ dùng một tay” trên trang nhất Nhân dân nhật báo bản ngoại văn,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nêu rằng “giải quyết vấn đề biển Đông không thể chỉ dùng một tay, mà phải dùng cả hai tay, cả hai tay đều phải mạnh bạo, song hành cùng nhau. Nghĩa là, một tay ra sức thúc đẩy hợp tác và thương lượng, một tay giữ gìn chủ quyền không bị xâm phạm. Tay sau phục vụ tay trước. Hai tay đều nằm trong khuôn khổ cơ bản hòa bình phát triển của Trung Quốc, chúng bổ sung cho nhau, không được thiếu tay nào.” Dư luận do chính quyền kiểm soát cũng lặp lại: “cứ nhẫn nhịn mãi chỉ sẽ khiến một nước như Philippines được đằng chân lân đằng đầu. Chỉ có cho họ biết một chút thế nào là lễ độ thì mới có thể hiểu được rằng đằng sau việc Trung Quốc mong muốn giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp biển Đông, còn có lực lượng quân sự hùng mạnh bảo vệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc.”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng, Philippines đã đã có một số chuẩn bị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Philippines kiên định không dùng biện pháp quân sự, kiên trì cách giải quyết bằng ngoại giao. Tổng thống Arroyo tuyên bố “Philippines không vì tranh chấp bãi Scarborough mà hấp tấp gây chiến với Trung Quốc, cãi nhau luôn tốt đánh nhau (to jaw-jaw is always better than to war-war).”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines không dừng việc đối đầu. Ngày 13/4, Ngoại trưởng Philippines Rosario tuyên bố: “Philippines sẽ không rút đội tàu tuần duyên khỏi bãi Scarborough, khi nào chúng tôi muốn rời đi thì sẽ đi chứ không phải rời đi theo yêu cầu của kẻ khác.” Tổng thống Arroyo cũng tuyên bố: “Philippines sẽ tiếp tục triển khai tàu ở bãi Scarborough mà tôi tin rằng đó là vùng biển của Philippines”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines tìm kiếm trợ giúp của ASEAN. Ngày 22/4, Ngoại trưởng Philippines Rosario tuyên bố: “Mưu toan đòi chủ quyền toàn bộ biển Đông của Trung Quốc rõ ràng là không có căn cứ”; và sau đó kêu gọi ASEAN cùng phản đối Trung Quốc: “Nếu chúng ta không thể hiện rõ lập trường thì không những Philippines mà tất cả các nước đều sẽ chịu tác động tiêu cực.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy Việt Nam và các nước khác ủng hộ Philippines, nhưng ASEAN nói chung khi đó đã không có hành động hiệu quả nào. Một trong những nguyên nhân là vì Campuchia, chủ tịch ASEAN lúc đó, là nước rất thân cận với Trung Quốc. Ngày 10/7, khi chủ trì phiên mở đầu Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh, Thủ tướng Campuchia kiên quyết không đồng ý việc Philippines cùng các nước khác nêu chữ Scarborough Shoal (tức đảo Hoàng Nham) trong Tuyên bố chung, nếu không sẽ không có tuyên bố chung.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines tìm kiếm trợ giúp của Mĩ. Ngày 24/4, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mĩ Victoria Nuland kêu gọi Trung Quốc và Philippines kiềm chế, tránh sử dụng vũ lực, nhưng không tỏ rõ sự ủng hộ đối với Philippines. Trung tướng Tư lệnh hải quân lục chiến Thái Bình Dương Duane D. Thiessen nói: “Mĩ và Philippines đã kí kết Hiệp ước phòng vệ chung, căn cứ vào Hiệp ước này, nếu bên nào cần thì bên kia sẽ cung cấp viện trợ quốc phòng.” Nhưng căn cứ theo Hiệp ước thì bãi Scarborough không nằm trong điều khoản phòng vệ (xem phần sau).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines tìm kiếm sự trợ giúp của Luật quốc tế. Ngày 17/4, Ngoại trưởng Philippines cho biết: “Ngày 17/4, Ngoại trưởng Philippines Rosario tuyên bố: "Chính phủ Philippines sẽ tìm cách giải quyết bế tắc giữa Trung Quốc và Philippines đối với bãi Scarborough thông qua ‘trọng tài quốc tế’.” Ngày 18/4, Philippines đã đưa ra văn bản tuyên bố lập trường (Philippine position on Bajo de Masinloc (Scarborough Shoal) and waters within its vicinity [Lập trường của Philippines về bãi Scarborough và vùng biển lân cận xung quanh]),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giải thích căn cứ chủ quyền và lập trường chính sách của Philippines đối với bãi Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban đầu, phía Trung Quốc cũng không phải không có tiếng nói ôn hòa. Chẳng hạn, ngày 24/4, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã nhận lời phỏng vấn độc quyền của Đài truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng, khi trả lời câu hỏi của phóng viên "Quân đội có nên hành động khi cần thiết?, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã trả lời: “Điều này tùy thuộc vào nhu cầu ngoại giao của đất nước, Bộ Ngoại giao và các cơ quan sự vụ bên hữu quan của Trung Quốc đang xử lí vấn đề này, tôi tin là sẽ xử lí tốt.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, tiếng nói của phe quân đội và diều hâu nhiều hơn. Ngày 26/4, Thiếu tướng La Viện, Phó Tổng Thư kí Hội Nghiên cứu khoa học quân sự Trung Quốc, đăng bài viết chất vấn về “thiện ý” không phải thắng mà thua của chính phủ trong việc rút lui trước, nói rằng “liệu đó có phải là lựa chọn tốt nhất hay còn phải chờ sự kiểm nghiệm của lịch sử”; đồng thời ông cũng nêu rõ: “Tác giả cho rằng, xét từ góc độ chiến lược cao thì không những không nên ‘dập tắt lửa’ mà còn phải lợi dụng cơ hội này để củng cố sự hiện hữu chủ quyền trên bãi Scarborough, treo quốc kì trên đảo, lập bia chủ quyền, xây dựng căn cứ quân sự, lập cảng cá. Đảo Hoàng Nham phải là hình mẫu ‘phá vỡ tình cảnh’ khó khăn ở biển Đông. Dù Philippines bày vấn đề bãi Scarborough ra trước mắt thế giới thì chúng ta cũng phải cho thế giới thấy rằng chúng ta sẽ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia như thế nào.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về phía dân chúng, cả hai bên đều đã ở trong tình trạng sắp đánh nhau. Ngày 16/4, dân chúng Manila biểu tình trước Lãnh sự quán Trung Quốc, dương cao biểu ngữ “China, back-off, from Panatag Shoal!” (“Trung Quốc, cút khỏi bãi Scarborough!”). Ngày 20/4, tin tặc Trung Quốc tấn công mạng trường Đại học Philippines, biến trang chủ của trường này thành bản đồ vùng biển bãi Scarborough có ghi câu khích bác “bọn tao từ Trung Quốc”, “ bãi Scarborough là của bọn tao” trên bản đồ. Danilo Araos, người phụ trách sự vụ chung của nhà trường đã xác nhận với trang mạng GMA News Online rằng trang mạng của nhà trường đã bị tấn công vào 3:00 sáng ngày 20. Ngày 21, tin tặc Philippines tấn công lại, dùng màu xóa 7 trang mạng Trung Quốc. Phần đông dân chúng Trung Quốc chịu ảnh hưởng từ thông tin Chính phủ, rằng: “Đảo Hoàng Nham xưa nay đều thuộc về Trung Quốc” nên gần như áp đảo đều ngả theo khuynh hướng “mài gươm” của chính phủ: “Ý dân là ủng hộ mạnh mẽ đối với hành động cứng rắn của Chính phủ.”</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình sự việc còn đi xa hơn. Ngày 3/5, người phát ngôn của Tổng thống Philippines Edwin Rachel nói trước cuộc họp báo: “Philippines chính thức gọi bãi Scarborough là ‘Panatag Shoal’”. Ngày 6/5, Bộ Ngoại giao Philippines lại tuyên bố sẽ phối hợp với lực lượng tuần duyên Philippines xóa sạch các dấu vết liên quan đến Trung Quốc trên bãi Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh lập tức hẹn gặp Đại biện lâm thời Sứ quán Philippines tại Trung Quốc Thái Phúc Quýnh, nói: “Phía Philippines chưa nhận thấy sai lầm nghiêm trọng của mình, ngược lại không ngừng làm to chuyện, không những tiếp tục đưa tàu công vụ ra hoạt động trong đầm phá Hoàng Nham, mà còn không ngừng đưa ra những nhận xét sai lệch nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế, kích động tâm lí dư luận và gây tổn hại nghiêm trọng đến bầu không khí quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi không lạc quan với tình hình này.” Hy vọng phía Philippines ‘không nên phán đoán sai tình hình, không tiếp tục leo thang bất chấp hậu quả.’” Đồng thời, Phó Oánh cũng cho biết tàu công vụ Trung Quốc tiếp tục bảo vệ và canh phòng vùng biển đảo Hoàng Nham; tàu ngư chính Trung Quốc cũng sẽ tiến hành cung ứng dịch vụ quản lí tàu cá theo luật pháp Trung Quốc. Bà này còn hối thúc Philippines rút tàu thuyền ra khỏi vùng biển Scarborough, “tuyệt đối không được quấy nhiễu tàu cá Trung Quốc, càng không được quấy nhiễu tàu công vụ Trung Quốc làm nhiệm vụ theo luật pháp. Phía Trung Quốc cũng đã chuẩn bị mọi mặt để ứng phó với việc phía Philippines mở rộng tình trạng sự việc. Phía Trung Quốc kiên định lập trường giải quyết tình trạng hiện tại bằng con đường thương lượng ngoại giao. Trung Quốc một lần nữa kêu gọi phía Philippines phản hồi nghiêm túc trước những lo ngại của phía của Trung Quốc, nhanh chóng trở lại con đường đúng đắn.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 9/5, Phó Oánh triệu tập Đại biện lâm thời Philippines tại Trung Quốc lần thứ 3. Bà chỉ ra: Trước những hành động khiêu khích không ngừng của phía Philippines, các tàu công vụ Trung Quốc tiếp tục bảo vệ và cảnh giới đảo Hoàng Nham, cảnh báo Philippines không được phán đoán sai tình hình.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân nhật báo ngày 8/5 đăng bài “Không thể nhẫn nhịn thêm”, nói rằng Philippines “không nên coi thiện ý của Trung Quốc là điểm yếu để bắt nạt, khi đã không thể nhẫn nhịn thêm, Trung Quốc sẽ không ngại cùng Philippines tạo ra một mô thức đảo Hoàng Nham.” Báo Quân giải phóng ngày 10/5 ra chuyên luận “Đừng hòng cướp đi một tấc đất của Trung Quốc”. Báo Hoàn cầu đăng chuyên luận “Philippines càng cao giọng thì càng xám mặt”. Cùng ngày, nhà báo Trương Phàm của Đài truyền hình Đông Phương (Dragon TV) đã lên rạn đá chính của Scarborough cắm cờ đỏ 5 sao thể hiện chủ quyền.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình bãi Scarborough có thể gọi là sôi bỏng, nổ bùng bất cứ lúc nào. Theo tin của Bộ Quốc phòng Nhật Bản, một hạm đội quy mô lớn đang tiến về phía Nam, điểm đến chưa rõ; máy bay trinh sát của lực lượng phòng vệ biển của Nhật Bản đã nhìn thấy một hạm đội gồm 5 tàu chiến, trong đó có tàu đổ bộ quy mô lớn 071 với lượng giãn nước 20 000 tấn, 2 tàu khu trục đạn đạo 052B và 2 tàu đạn đạo bảo vệ Giang Khải 2. Trong đó còn có tàu có bãi đáp cho máy bay lên thẳng. Ngày 6/5, đội tàu đó đã có mặt tại vùng biển Đông Nam Đài Loan. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài uy hiếp bằng vũ lực, Trung Quốc còn khống chế Philippines bằng kinh tế. Cấm xuất khẩu chuối, mặt hàng chủ lực của Philippines, sang Trung Quốc..</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đúng lúc đó (16/5) lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở biển Đông bắt đầu. Ngư dân Trung Quốc có thể đưa thuyền ra khỏi bãi Scarborough một cách thuận dòng, Philippines cũng chủ động ra lệnh cấm đánh cá tại bãi Scarborough. Do đó, tàu cá hai bên lũ lượt rời khỏi bãi Scarborough và tình hình có dấu hiệu lắng xuống. Ngày 18/5, 6 tướng nghỉ hưu của Philippines dự định ra cắm cờ Philippines trên bãi Scarborough để tuyên bố chủ quyền, nhưng đã bị Aquino ngăn lại vào giây phút cuối cùng để tránh làm tình hình thêm xấu đi. Nhưng, cuộc đối đầu giữa tàu công vụ hai nước vẫn tiếp diễn. Hơn thế, mặc dù Trung Quốc nhấn mạnh rằng lệnh cấm đánh cá áp dụng cho cả Scarborough, nhưng số lượng tàu dân sự của Trung Quốc lại tăng lên trong khu vực đảo này, có điều chúng được đổi lốt thành tàu công trình. Đến giữa tháng 5, số lượng tàu Trung Quốc nhiều áp đảo tàu Philippines, trong đó có cả tàu công vụ lẫn tàu dân sự, trong khi Philippines chỉ có 2 tàu công vụ tiếp tục đối đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mãi đến đầu tháng 6, tình hình mới thật sự dịu xuống. Hai bên dường như đạt được thỏa thuận rút tàu công vụ khỏi đảo. Ngày 6/6, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân tuyên bố: sau 1 tháng bị mắc cạn trong đầm phá của đảo Hoàng Nham, tàu công vụ Philippines đã rời đảo vào ngày 3/6. Sau khi dọn dẹp hiện trường xong, 2 tàu công vụ Trung Quốc cũng rời khỏi đầm phá này ngày 5/6, và tiếp tục thi hành công vụ tại vùng biển đảo Hoàng Nham. Ngày 15/6, trước mùa bão đến, thời tiết ngày càng xấu đi, Tổng thống Philippines Aquino III đã ra lệnh cho 2 tàu công vụ rời khỏi Scarborough. Ngày 18/6, Ngoại trưởng Philippines Rosario phát biểu tại một cuộc họp báo, “Theo thỏa thuận đạt được giữa Philippines và Trung Quốc đại lục, hai bên sẽ rút tàu công vụ khỏi đầm phá của Scarborough. Đối với các vấn đề ngoài đầm phá, hai bên đang tìm kiếm giải pháp thông qua tham vấn thêm.” Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết trong cuộc họp báo cùng ngày: “Trung Quốc sẽ tiếp tục quản lí và cảnh giới đảo Hoàng Nham.” Đáp lại việc Philippines cáo buộc Trung Quốc không giữ lời hứa rút tàu, Hồng Lỗi bác bỏ thông tin phía Trung Quốc hứa rút tàu. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc và Philippines có đạt được thỏa thuận hay chỉ thỏa thuận ngầm về việc đối đầu trên bãi Scarborough là điều không có cách nào xác định. Có nguồn tin cho rằng, Philippines đã cầu cứu Mĩ giúp một tay, dưới sự xếp đặt của Mĩ, hai bên đã đạt được thỏa thuận. Nhưng cuối cùng, Philippines rút khỏi bãi Scarborough, còn Trung Quốc thì không và rốt cuộc đã nắm quyền kiểm soát đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tác giả cho rằng việc Trung Quốc và Philippines đã đạt tới một thỏa thuận ngầm bằng lời nào đó là điều có thể tin được,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng nội dung thỏa thuận là gì và cách lí giải của hai bên có thống nhất hay không vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù thế nào thì Philippines cũng bất lực trước sự việc này. Đáp lại lời tuyên bố của Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippines Fernandez trả lời rằng, bất chấp nguy cơ bão lớn đe dọa, Philippines vẫn đang xem xét có nên đưa tàu trở lại vùng biển Scarborough hay không Ông cũng nhắc lại rằng Philippines vẫn trông cậy vào Tòa án Quốc tế về Luật Biển để giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, ngay cả khi Trung Quốc đại lục tiếp tục phản đối. Ngày 20/6, Tổng thống Philippines Aquino cho biết, khi thời tiết tốt lên, phía Philippines sẽ phái máy bay ra trinh sát bãi Scarborough, đồng thời chỉ trích tàu Trung Quốc vẫn neo đậu tại vùng biển liên quan. Ngày 26/6, Tổng tư lệnh hải quân Philippines Alexander Pama tuyên bố trong một cuộc họp báo rằng, theo kết quả thu lượm trên không từ máy bay trinh sát của Hải quân Philippines, vẫn còn 28 tàu Trung Quốc đại lục tại khu vực biển Scarborough, trong đó có 23 tàu cá đậu trong đầm phá, 5 tàu của Chính phủ nằm rải rác xung quanh bãi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, mặc dù máy bay Philippines thỉnh thoảng đến Scarborough trinh sát tình hình nhưng tàu công vụ Philippines chưa bao giờ trở lại Scarborough. Bãi Scarborough từ đó bị Trung Quốc kiểm soát. Ngày 21/1/2013, Ngoại trưởng Philippines cuối cùng thừa nhận: Trung Quốc “đã kiểm soát trên thực tế” bãi Scarborough, tàu Philippines không thể vào được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói tóm lại, sự kiện bãi Scarborough xảy ra từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2012, cái kết cuối cùng là Trung Quốc đã cướp quyền kiểm soát Scarborough từ tay Philippines. Đây cũng là lần đầu tiên từ sau “Tuyên bố về cách ứng xử các bên ở biển Đông” có hiệu lực, Trung Quốc đã mở rộng quyền kiểm soát thực tế khu vực. Điều này có ý nghĩa sâu rộng đối với diễn tiến tình hình biển Đông. Cùng năm, Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, đồng thời phái tàu hải giám có lượng giãn nước lớn (phần lớn được cải biến từ tàu chiến) và tàu chiến ra diễu võ dương oai tại vùng biển xa lục địa Trung Quốc (Trung Quốc gọi là tuần tra), trong đó có những lần đến vùng biển gần bãi Cỏ Rong. Việc Trung Quốc dùng vũ lực uy hiếp đối phương để mở rộng lãnh hải ở biển Đông là xu thế ngày càng rõ. Vô vọng trong đàm phán với Trung Quốc, Philippines củng cố quyết tâm giải quyết vấn đề biển Đông thông qua Tòa trọng tài quốc tế. Và các nước ASEAN và những nước có lợi ích liên quan, đứng đầu là Mĩ cũng hợp lại để đối phó với Trung Quốc. Có thể coi sự kiện bãi Scarborough là một trong những sự kiện tiêu biểu làm tình hình ở biển Đông xấu đi. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề chủ quyền đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về lịch sử bãi Scarborough, có thể tổng kết ngắn gọn như sau: (1) Thời Trung Quốc cổ đại không có bất kì ghi chép nào về bãi Scarborough. Địa điểm đo lường bốn biển của Quách Thủ Kính năm 1279 không phải ở bãi Scarborough. (2) Xét từ những ghi chép lịch sử, có nhiều khả năng bãi Scarborough do người Philippines phát hiện đầu tiên. Muộn nhất là vào năm 1734, người Tây Ban Nha chính thức ghi nhận và vẽ bãi Scarborough trong bản đồ. Trước thế kỉ XX, có bằng chứng rõ ràng thể hiện bãi Scarborough là lãnh thổ của Philippines thuộc Tây Ban Nha. (3) Đầu thế kỉ XX, khi nhượng Philippines cho Mĩ, Tây Ban Nha đã không đưa bãi Scarborough vào phạm vi nhượng lại một cách rõ ràng. Sau đó, trong nhiều văn bản luật pháp về ranh giới quốc gia, Philippines cũng không dưa bãi Scarborough vào lãnh thổ của mình một cách rõ ràng. Trước khi Thế chiến II kết thúc, mặc dù Philippines kiểm soát thực tế bãi Scarborough, nhưng cũng không có bằng chứng nào cho thấy Philippines thuộc Mĩ có bất cứ ý định công công khai nào về chủ quyền đối với bãi Scarborough. (4) Năm 1935, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với bãi Scarborough bằng bản đồ mở mang cương vực, nhưng cái gọi là “chủ quyền” này chỉ dừng trên lời nói và trên giấy tờ chứ chưa bao giờ được thực hiện trên thực tế. Và cộng đồng quốc tế cũng chưa hề tiếp xúc để phản đối hay kháng nghị. (5) Trong khoảng thời gian từ sau Thế chiến II đến năm 1992, trên thực tế, Mĩ cùng Philippines quản lí bãi Scarborough. Sau khi quân Mĩ rút đi vào năm 1992, Philippines tiếp tục quản lí thực tế một mình bãi Scarborough. Trước năm 1997, không có nước nào (kể cả Trung Quốc) đưa ra những tuyên bố rõ ràng và trực tiếp đối với vấn đề này. Trong thời gian đó, Philippines đã từng có hành động thể hiện chủ quyền trên bãi. Sau năm 1980, Philippines tuyên bố bãi Scarborough thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình nhưng trong thời gian dài cũng không công khai, rõ ràng về chủ quyền đối với bãi Scarborough. (6) Năm 1997, Philippines chính thức công khai yêu sách chủ quyền đối với bãi Scarborough trên phương diện ngoại giao, tranh chấp bãi Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines bắt đầu. Từ năm 1997 đến năm 2012, Philippines vẫn kiểm soát trên thực tế bãi Scarborough cho tới khi Trung Quốc đưa tàu công vụ đến đó năm 2012.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn vấn đề bãi Scarborough từ góc độ luật pháp quốc tế, cả Trung Quốc và Philippines đều có những khiếm khuyết về mặt pháp lí. Trung Quốc tuyên bố sớm hơn, nhưng lại thiếu sự quản lí thực tế; Philippines quản lí thực tế trong thời gian dài, nhưng lại thể hiện công khai ý đồ chủ quyền rất muộn. Trọng tâm tranh chấp giữa hai bên chính ở điểm này, rốt cục thì tuyên bố bằng miệng quan trọng hơn hay quản lí thực tế quan trọng hơn. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.7. Thành lập thành phố Tam Sa và việc kiểm soát thực tế của nó ở biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tạo lập thành phố Tam Sa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng với Chiến lược biển, Trung Quốc cũng tăng cường khí tài hải quân và đồng thời gia tăng sức mạnh “thực thi pháp luật dân sự” ở biển Đông. Từ góc độ luật quốc tế, việc thực thi pháp luật dân sự của một quốc gia tại một khu vực nào đó có thể thể hiện “chủ quyền quốc gia” tốt hơn so với việc chiếm đóng quân sự, vì nó cho thấy việc quản lí của quốc gia đó đã thành “bình thường” hóa, và cho thấy việc quản lí khu vực đó đã đi vào ổn định. Mặt khác, quản lí dân sự cũng tránh được cáo buộc “dùng vũ lực thay đổi hiện trạng”, dù thực tế đó vẫn là phương thức “uy hiếp”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ năm 2009, Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy kiểm soát thực tế dân sự ở biển Đông, bao gồm mở rộng phạm vi tuần tra, quấy nhiễu việc khai thác dầu mỏ của nước khác, truy đuổi, bắt giữ tàu cá nước ngoài và quấy nhiễu tàu thuyền nước khác (chẳng hạn sự kiện bãi Cỏ Mây). Năm 2012, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đánh dấu việc Trung Quốc đẩy nhanh tốc độ kiểm soát dân sự ở biển Đông. Ngay từ ngày 29/11/2007, trả lời phỏng vấn “Minh báo” Hong Kong, quan chức ngành tuyên truyền thành phố Văn Xương, tỉnh Hải Nam đã tiết lộ: Quốc vụ viện đã phê chuẩn đề nghị của Chính quyền tỉnh Hải Nam, nâng cấp Phòng điều hành Tam Sa thành “Thành phố Tam Sa”. Sau khi biết tin, Việt Nam đã phản đối. Nhưng khi đó Trung Quốc chưa chính thức tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa. Sách lược thông qua nội bộ trước, chờ thời cơ thích hợp để tuyên bố chính thức là mô thức nhất quán của Trung Quốc xưa nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2012, trong cuộc đối đầu bãi Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines, Trung Quốc đã cướp được Scarborough từ tay Philippines, tinh thần lên cao. Ngày 21/6, Việt Nam thông qua “Luật biển Việt Nam”. Điều 1 trong Luật quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lí và bảo vệ biển, đảo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa được chính thức đưa vào Luật, điều này lập tức gây ra phản đối từ Trung Quốc. Cùng ngày, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố, khẳng định Trung Quốc có “chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa và vùng biển phụ cận; yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa là “vô hiệu”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cũng cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời, nêu rằng việc Quốc hội Việt Nam thảo luận và thông qua “Luật biển Việt Nam” là đúng trình tự lập pháp thông thường, nhằm tạo thuận lợi cho chính quyền Việt Nam trong việc quản lí, khai thác, bảo vệ vùng biển, vùng đảo do Việt Nam kiểm soát, thuận lợi cho Việt Nam trong công tác khai thác kinh tế biển. Thực ra, đưa vùng lãnh thổ đang tranh chấp vào luật pháp là cách mà Trung Quốc đã làm từ lâu: Luật lãnh hải ban bố năm 1994 và Luật vùng đặc quyền kinh tế ban hành năm 1998 đều đã đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng, đây là thời cơ thích hợp nhất để công bố thành lập thành phố Tam Sa. Cùng ngày Việt Nam thông qua “Luật biển Việt Nam”, Bộ dân chính Trung Quốc tuyên bố: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc vụ viện Trung Quốc gần đây đã phê chuẩn việc xóa bỏ văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa, thành lập thành phố Tam Sa, cơ quan chính quyền đặt tại đảo Vĩnh Hưng thuộc Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Trung Quốc chọn thời cơ này để thông báo chính thức, khiến người ta có cảm giác đây là biện pháp buộc lòng phải thực hiện do bị Việt Nam ‘khiêu khích’, giành được thế thượng phong trong dư luận. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam bày tỏ, Việt Nam kiên quyết phản đối hành động “cáo buộc vô lí” của Trung Quốc, đồng thời “phản đối mạnh mẽ” việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17/7, Ủy ban Thường vụ Hội đồng nhân dân khóa 4 tỉnh Hải Nam thông qua “Quyết nghị của Ủy ban thường vụ Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Nam về việc thành lập Tổ trù bị Hội đồng nhân dân thành phố Tam Sa”, công tác xây dựng chính quyền Thành phố Tam Sa chính thức được khởi động. Ngày 19/7, Quân Ủy Trung ương trả lời Quân khu Quảng Châu, đồng ý thành lập Khu phòng vệ quân giải phóng Trung Quốc tại Tam Sa tỉnh Hải Nam, chủ yếu phụ trách công tác quân sự và huy động quân dự bị khu vực trực thuộc thành phố Tam Sa, điều phối quan hệ giữa quân đội và địa phương, làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố, giúp đỡ địa phương trong công tác cứu hộ cứu nạn, chỉ đạo hoạt động của dân binh và quân dự bị... Khu phòng vệ Tam Sa là đơn vị lục quân được xây dựng tại vùng cực Nam Trung Quốc, đảm trách nhiệm vụ an ninh lãnh hải trong khu vực này. Cùng ngày, Tổ trù bị Hội đồng nhân dân khóa I thành phố Tam Sa được chính thức thành lập, tiến tới bầu ra 60 đại biểu Hội đồng nhân dân. Ngày 23/7, Đại hội Hội đồng nhân dân khóa I thành phố Tam Sa khai mạc. Sáng 24/7, đại hội thành lập và ra mắt thành phố Tam Sa được cử hành tại đảo Vĩnh Hưng, tấm bia tên thành phố Tam Sa nặng 68 tấn được chính thức khánh thành trên đảo Vĩnh Hưng. Đảng bộ, Ủy ban thường vụ Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và khu phòng vệ quân giải phóng thành phố Tam Sa treo biển làm việc. Từ đó, Thành phố Tam Sa chính thức được thành lập.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, mã và dấu bưu điện mới bắt đầu được dùng, và tên gọi của ngân hàng, bệnh viện và các tổ chức khác được thay đổi. Kể từ đó, thành phố Tam Sa được chính thức thành lập.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên dưới thành phố Tam Sa, Trung Quốc thành lập 3 đơn vị hành chính: quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa và quần đảo Trung Sa. Quần đảo Tây Sa bao gồm Ủy ban quản lí cụm đảo Vĩnh Lạc (nhóm đảo Lưỡi Liềm), Ủy ban quản lí Thất Liên Dữ (chuỗi 7 đảo nhỏ phía bắc đảo Phú Lâm - ND) và Ủy ban quản lí Vĩnh Hưng (trấn), mỗi ủy ban lại phân thành một số “xã [khu]” (cấp thôn). Do quần đảo Nam Sa hơi nhỏ nên chỉ thành lập hai xã là Vĩnh Thử (đá Chữ Thập) và Mĩ Tế (đá Vành Khăn). Còn quần đảo Trung Sa thì ngoài đảo Hoàng Nham ra không có bãi/đá nào lộ trên mặt nước nên chỉ thành lập “trấn ảo quần đảo Trung Sa” cho vùng đất không có thật này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc thành lập Thành phố Tam Sa đánh dấu việc Trung Quốc gia tăng kiểm soát biển Đông. Các hành động lộ rõ nhất là việc hợp nhất các lực lượng công tác biển, tăng cường kiểm soát nghề cá và xây đảo ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tăng cường kiểm soát nghề cá</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước kia, lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc gồm nhiều ban ngành, có tên gọi “Ngũ long trị hải”, tức là đội tàu chấp pháp “hải giám” thuộc Cục Hải Dương thuộc Bộ tài nguyên đất đai; đội tàu “ngư chính” thuộc Cục ngư chính Bộ Nông nghiệp; đội tàu “hải tuần” Cục Hải sự thuộc Bộ Giao thông; đội tàu “hải cảnh” thuộc Cục Biên phòng Bộ Công An; và đội tàu chống buôn lậu thuộc Bộ Hải quan. Trong đó, hải giám (do hải quân đảm trách từ những năm 1980) và ngư chính là mạnh nhất, với nhiều tàu viễn dương trọng tải lớn. Vấn đề lớn nảy sinh từ tình trạng nhiều ngành cùng quản lí là đội ngũ quản lí hoạt động manh mún, khép kín khiến việc điều phối và phân công công việc khó khăn. Có những việc thì các ngành tranh giành nhau, có những việc lại đùn đẩy lẫn nhau, dẫn đến tình trạng thiếu lực lượng chấp pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22/7/2013, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc thuộc Bộ Tài nguyên đất đai chính thức treo biển thành lập Cục Hải cảnh Trung Quốc. Cục Hải cảnh chịu sự quản lí của Cục Hải dương quốc gia, đồng thời chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ Công an, thực hiện hoạt động chấp pháp vũ trang trên biển theo danh nghĩa Cục Hải cảnh Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước kia, lực lượng hải giám và ngư chính mạnh nhất chỉ có quyền thực thi pháp luật dân sự mà không có quyền thực thi pháp luật hình sự; còn lực lượng hải cảnh và chống buôn lậu có quyền thực thi pháp luật hình sự thì chủ yếu phụ trách công việc gần bờ. Nhưng khi hợp nhất thì hải cảnh có cả quyền và năng lực thực thi luật ở biển xa, sức mạnh cũng lớn hơn nhiều. Đồng thời, Trung Quốc còn trang bị đầy đủ hơn cho tàu hải cảnh trọng tải lớn, trong đó chiếc lớn nhất có lượng choán nước hơn 10 000 tấn, vượt qua tàu hải cảnh Nhật Bản để trở thành lớn nhất thế giới, quy mô thậm chí hơn hẳn tàu chiến của một số nước ven biển khác.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc lấy 12° vĩ Bắc làm ranh giới, chia biển Đông thành hai khu vực quản lí nghề cá. Khu 12° về phía Bắc được gọi chung là ngư trường phía Bắc biển Đông, chủ yếu bao gồm Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa và bãi Scarborough. Ngư trường Vịnh Bắc Bộ và Hoàng Sa về cơ bản đều có xung đột với Việt Nam. Khu 12° về phía Nam được gọi chung là ngư trường phía Nam biển Đông, chủ yếu bao gồm quần đảo Trường Sa và các vùng phụ cận thềm lục địa Philippines, Malaysia, Việt Nam. Tình trạng phía Đông và phía Tây có điểm khác biệt. Phía Tây, đặc biệt là khu vực vượt qua hai bên đường 9 đoạn, gần Việt Nam và quần đảo Natuna của Indonesia, thích hợp với hoạt động kéo lưới của tàu cá; phía Đông, do các đảo, bãi nằm san sát, không thích hợp với hoạt động kéo lưới nhưng lại có nguồn tài nguyên phong phú như san hô, rùa biển, trai cỡ lớn,... Ở ngư trường phía Nam nhìn chung có xung đột nghề cá với Philippines, Malaysia và Việt Nam. Do khoảng cách với đất liền Trung Quốc khác nhau nên hình thức xung đột xảy ra cũng không giống nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại phía Bắc biển Đông, xung đột nghề cá giữa Trung Quốc và Việt Nam tương đối nổi bật. Sau khi phân định ranh giới Vịnh Bắc bộ, mâu thuẫn nghề cá giữa Trung Quốc và Việt Nam chủ yếu thể hiện ở việc người Việt Nam đánh bắt cá tại quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc truy đuổi, tịch thu (tài sản) và bắt giữ. Theo thống kê của tỉnh Hải Nam Trung Quốc, số tàu cá Việt Nam vào vùng biển Hoàng Sa tăng từ 215 chiếc năm 2003 lên 900 chiếc trong 8 tháng đầu năm 2007, hơn thế ngày càng gần quần đảo Hoàng Sa, số vụ phá hỏng thiết bị của quân sự và dân sự Hoàng Sa ngày càng nhiều, nhân thân ngư dân ngày càng phức tạp, trọng tải tàu ngày càng lớn và thiết bị không ngừng được đổi mới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ năm 2004 đến 2012, Cục Ngư chính triển khai tổng cộng 168 lần hoạt động giám sát thường ngày và hoạt động bảo vệ cá đặc biệt ở Hoàng Sa; kiểm tra 69 lượt tàu cá nước ngoài (chủ yếu là Việt Nam), thu giữ 8 tàu cá; truy đuổi 1 293 lượt tàu, thu hơn 900 kg thuốc nổ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ năm 1999, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chế độ cấm đánh bắt cá tại khu vực phía Bắc biển Đông, quy định từ 1/6 đến 1/8 hàng năm (thời gian có thể có chút biến động) ngừng hoạt động đánh cá “trong vùng biển do Trung Quốc quản lí” (12° vĩ bắc về phía bắc), bao gồm cả Vịnh Bắc bộ. Lệnh cấm đánh bắt cá này được coi là biện pháp gia tăng kiểm soát thực tế của Trung Quốc đối với biển Đông, khi mới công bố đã bị Việt Nam phản đối. Tuy nhiên, trước năm 2009, Trung Quốc không thực thi luật pháp nghiêm ngặt đối với tàu thuyền nước ngoài (chủ yếu là tàu thuyền Việt Nam), vì vậy phản ứng của quốc tế không lớn. Bắt đầu từ năm 2009, Việt Nam phản đối việc Trung Quốc bắt giữ tàu cá của ngư dân Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa đã thu hút sự chú ý của thế giới. Nguyên nhân khác khiến thế giới chú ý là vào tháng 5 năm đó, lần đầu tiên Trung Quốc thể hiện đường 9 đoạn trong một công hàm gửi Liên Hiệp quốc (xem phần VI.3). Cộng đồng quốc tế bắt đầu đặt câu hỏi, có phải Trung Quốc dùng phương thức bắt giữ tàu cá để thúc đẩy “quyền kiểm soát” trong phạm vi đường 9 đoạn hay không.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 31/12/2012, Trung Quốc công bố “Điều lệ quản lí trị an biên phòng vùng biển tỉnh Hải Nam”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong đó, điều 47 quy định “Đối với các tàu nước ngoài xâm nhập trái phép vào vùng biển thuộc thẩm quyền của tỉnh Hải Nam: ‘Điều lệ’ yêu cầu các đơn vị công an biên phòng thực hiện các biện pháp như lên tàu kiểm tra, bắt giữ, truy đuổi, ra lệnh dừng tàu, đổi hướng tàu, chạy quay trở lại theo luật định.” Điều này làm dấy lên nhiều cuộc bàn luận trong cộng đồng quốc tế. Tháng 5/2013, Trung Quốc công bố lệnh ngừng đánh bắt cá, đơn phương đưa vùng biển rộng lớn gần quần đảo Hoàng Sa và Đông Sa (Pratas), đang tranh chấp với Philippines và Việt Nam vào khu vực quản lí của Trung Quốc, đồng thời bắt giữ tàu cá Việt Nam, khiến Philippines và Việt Nam cùng các nước một lần nữa nghi ngờ và phản kháng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">T</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">háng 11/2013, tỉnh Hải Nam đưa ra “Biện pháp thực thi Luật nghề cá nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của tỉnh Hải Nam”, có hiệu lực ngày 1/1/2014, gây ra sự phản đối từ nhiều nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines cho rằng, đây là hành động làm gia tăng căng thẳng tại biển Đông;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam gọi điều đó là “phi pháp, vô hiệu lực”, và “yêu cầu Trung Quốc từ bỏ hành động sai trái trên”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mĩ gọi đây là hành động khiêu khích (provocative) và ẩn chứa nguy cơ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc nói Mĩ “có động cơ thầm kín, và có ý đồ khó lường”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự chú ý của mọi người đối với quy định này của tỉnh Hải Nam tập trung ở hai điểm: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là, điều 35 của “Biện pháp” quy định rằng “Người và tàu thuyền nước ngoài vào vùng biển do tỉnh quản lí để tiến hành các hoạt động nghề cá hoặc thăm dò tài nguyên nghề cá đều phải được sự phê chuẩn của các ban ngành chủ quản liên quan của Quốc vụ viện”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai là, các ban ngành quản lí nghề cá của Trung Quốc có quyền kiểm tra tàu thuyền nước ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, hai quy định này không có gì mới, nó đã được ghi chép tương tự tại Luật nghề cá của Trung Quốc trong những năm 1980. Hoa Xuân Oánh chỉ ra: “Nếu phía Mĩ chịu khó nghiên cứu ‘Luật lập pháp’, ‘Luật nghề cá’ và ‘Biện pháp thực thi ‘Luật nghề cá’ được soạn ra lần này của tỉnh Hải Nam, cùng thực tế các luật tương ứng thì sẽ thấy quy định về việc tàu cá nước ngoài vào vùng biển do Trung Quốc quản lí trong ‘Biện pháp’ không khác với ‘Luật nghề cá’ được ban hành năm 1986.” Hơn nữa, việc quản lí nghề cá của các nước về cơ bản là giống nhau, đó cũng là chủ quyền quốc gia, việc Mĩ phản đối xem ra là sự gây rối không hợp lí. Tuy nhiên, xét đến tình hình đặc thù của biển Đông, sự lo lắng của Mĩ và các nước xung quanh không phải là không có lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ góc độ luật pháp, vấn đề lớn nhất trong quy định này của tỉnh Hải Nam là nó không quy định phạm vi cụ thể của “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nên không có cách nào thực hiện được ở cấp độ pháp lí. Tàu thuyền đánh cá nước ngoài không biết cái gọi là “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát” rốt cục là chỗ nào, cũng không có cách nào biết được phạm vi hoạt động của mình có nằm trong vùng biển đó hay không. Ngay cả ở những khu vực mà Trung Quốc cho rằng họ có quyền thực thi luật pháp, họ cũng không có cách nào xử phạt tàu thuyền nước ngoài “vi phạm pháp luật”, vì về mặt luật pháp, Trung Quốc không thể chứng minh tàu nước ngoài đi vào “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn theo quy định của Trung Quốc về các khu vực thuộc quyền quản lí của tỉnh Hải Nam, thành phố Tam Sa bao gồm toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Sa (Macclesfield) và bĩa Scarborough. Vì vậy, các nước liên quan không khỏi lo lắng, cái được Trung Quốc gọi là “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát” có củng cố các hành động “bảo vệ quyền lợi” của Trung Quốc tại biển Đông trong mấy năm gần đây ở cấp độ pháp lí hay không? Có phải Trung Quốc sử dụng phương thức “cảnh sát” để cung cấp một ví dụ về việc “kiểm soát thực tế” phạm vi đường 9 đoạn mà Trung Quốc yêu sách, để cộng đồng quốc tế tin rằng “việc kiểm soát thực tế” của Trung Quốc ở biển Đông</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã trở thành “hiện trạng” (status quo), từ đó tăng thêm cơ sở pháp lí cho các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với đường 9 đoạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Liên hệ tới việc Trung Quốc vừa mới thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) không phù hợp luật pháp quốc tế trên biển Hoa Đông, truyền thông Trung Quốc cũng hô hào nên thiết lập ADIZ tương tự ở biển Đông, sự lo lắng của các nước không phải là thiếu căn cứ. Khi đến thăm Đông Nam Á, ngoại trưởng Mĩ John Kerry đã có chung nhận thức với nhiều quốc gia biển Đông về vấn đề ADIZ, mong muốn Trung Quốc không lập ADIZ ở biển Đông, và không tiếp tục làm căng thẳng thêm tình hình biển Đông một cách giả tạo,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng không nhận được hồi âm từ phía Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó có thể thấy, thông qua việc “kiểm soát” hóa một khu vực tranh chấp ở biển Đông để tăng thêm bằng chứng chủ quyền đối với khu vực này là sách lược được Trung Quốc sắp đặt. Theo nghĩa này, mỗi sắc lệnh mới do Trung Quốc công bố có nghĩa là thêm một bằng chứng “kiểm soát” của họ đối với một vùng biển. Mặc dù nói đúng ra, những “bằng chứng” này là không có giá trị theo luật pháp quốc tế để xác định quy thuộc lãnh thổ hay lãnh hải. Tuy nhiên, nếu các nước lân cận hoặc các nước liên quan không lên tiếng phản đối thì rất dễ bị Trung Quốc tuyên bố là đã thừa nhận sự kiểm soát của Trung Quốc, cũng có nghĩa là thừa nhận hiện trạng. Trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, điều này rất có thể bất lợi cho các nước. Vì thế, việc các nước đưa ra phản đối việc này là điều có thể đoán trước, và cũng là hành động bình thường.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại phía Nam quần đảo Trường Sa, do khoảng cách xa, địa bàn lại rộng nên Trung Quốc chọn phương thức kiểm soát khác. Về phía Tây, do thực lực của Việt Nam cùng một số nước tương đối mạnh, hải cảnh “bảo vệ quyền lợi” của Trung Quốc chưa đủ lực, có nguy cơ cao xảy ra sự cố với nước ngoài, Sau năm 2013, rất ít tàu cá Trung Quốc đến đánh bắt cá ở đây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trong vùng biển phía Đông gần Philippines, với sự hậu thuẫn của hải cảnh (ngư chính), ngư dân Trung Quốc được khuyến khích đến đây đánh bắt. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do ngư dân Trung Quốc đánh bắt cạn kiệt nguồn cá ven bờ, khiến tài nguyên nghề cá giảm mạnh, họ chỉ có thể đánh bắt tại những nơi ngày càng xa hơn. Ngoài biển Đông ra, tại Hoàng Hải, biển Hoa Đông, thậm chí tận Palau ở Thái Bình Dương xa xôi đã từng xảy ra các vụ ngư dân Trung Quốc bị nước ngoài bắt giữ và xử lí vì đánh bắt trái phép quá mức. Khi đánh bắt ở biển xa, ngư dân Trung Quốc đã dùng phương thức không bền vững để vơ vét vô độ nguồn tài nguyên biển, chẳng hạn sử dụng lưới “tuyệt chủng” (loại lưới có mắt cực nhỏ) và thuốc nổ (ngư dân Việt Nam cũng sử dụng phương thức này). Hơn nữa, mục tiêu của ngư dân Trung Quốc không chỉ là cá mà còn là hải sản quý hiếm được bảo vệ như rùa biển, trai biển, san hô, trai tai tượng ... Hành vi không đếm xỉa đến nguyên tắc bảo vệ môi trường quốc tế này thậm chí còn được chính quyền địa phương khuyến khích. Chẳng hạn, dân đánh bắt chủ lực của thị trấn Đàm Môn luôn có người giao dịch mua bán rùa biển và trai với quy mô lớn. Năm 2012, Hội nghị Hiệp thương chính trị thành phố Quỳnh Hải đã đến thị trấn Đàm Môn khảo sát tình hình phát triển ngành trai tai tượng đã nhận xét “tiềm năng phát triển thị trường rất lớn”, cần “làm lớn, làm mạnh hơn.” Tháng 11 cùng năm, “Hội chợ triển lãm hàng thời thượng quốc quốc tế Trung Quốc” được tổ chức tại Hải Khẩu còn quảng bá “ngọc trai tai tượng đảo Hoàng Nham” là một trong 10 thương phẩm du lịch hàng đầu của Hải Nam,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chẳng hề bận tâm về việc giao dịch trai tai tượng là phạm pháp. “Lệnh cấm đánh bắt cá” vào mùa hè hàng năm ở phía Bắc biển Đông của Chính phủ Trung Quốc biến tướng thành việc khuyến khích ngư dân xuống phía biển Đông đánh bắt cá.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc khuyến khích ngư dân đến biển Đông đánh bắt cá có thể tạo thành hiện trạng “sản xuất ở Nam Hải”, quan trọng hơn, đó là giúp hải cảnh Trung Quốc tạo thêm ví dụ về “kiểm soát thực tế”. Sau năm 2009, ngư chính (hải cảnh) Trung Quốc bắt đầu tiến sâu vào khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc với Philippines tại phía Nam biển Đông, quấy nhiễu và truy đuổi tàu thuyền Philippines, hoặc lấy lí do “bảo vệ nguồn cá” để ngăn cản tàu chấp pháp của Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc, với ý đồ tạo ra cảnh tượng giả về kiểm soát thực tế. Nhưng rốt cục, lực lượng hải cảnh Trung Quốc có hạn, không thể giám sát toàn bộ tàu cá Trung Quốc suốt ngày đêm. Vì thế không ít trường hợp ngư dân Trung Quốc bị Philippines bắt giữ. Gặp tình huống này, Trung Quốc dùng áp lực ngoại giao để khẳng định chủ quyền Trung Quốc tại khu vực này và yêu cầu Philippines thả người.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ví dụ: ngày 7/5/2014, hải cảnh Philippines bắt giữ tàu cá Trung Quốc (Quỳnh Hải 09063) và 11 thuyền viên tại bãi Bán Nguyệt (bãi Trăng Khuyết, Half Moon Shoal). Đó là bãi san hô thuộc Trường Sa, chỉ có một mỏm đá có thể nhô khỏi mặt nước khoảng 1m khi nước dâng cao. Theo Luật quốc tế thì ở bãi này có quyền có lãnh hải, nhưng không có quyền có vùng đặc quyền kinh tế. Cả Trung Quốc lẫn Philippines đều tuyên bố chủ quyền tại đây. Do bãi đá này rất nhỏ, lại không có công trình xây dựng bên trên nên rất khó nói bên nào đang kiểm soát thực tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí do Philippines bắt giữ ngư dân là vì tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép động vật quý hiếm được bảo vệ trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Quan chức Philippines phát hiện hơn 500 con rùa biển trên tàu, trong đó có 350 thuộc loại có nguy cơ tuyệt chủng, được LHQ công nhận và được Liên minh bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) xác định là động vật có nguy có tuyệt chủng (endangered species), bị Philippines cấm đánh bắt. Philippines cũng bắt giữ cùng lúc một tàu cá khác của Philippines. Thuyền viên Trung Quốc lí giải rằng họ không đánh bắt rùa biển, còn đổ thừa rằng số rùa đó là do người Philippines bắt, và họ chỉ là người mua lại. Nhưng, đánh bắt là phi pháp và mua bán loại hải sản này cũng là phi pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa, bao gồm cả bãi Bán Nguyệt và vùng biển phụ cận”, yêu cầu Philippines đưa ra lời giải thích hợp lí đồng thời lập tức thả người và tàu. Nhưng Philippines chấp nhận áp lực, sau khi thả 2 ngư dân chưa đến tuổi thành niên, đã tiến hành khởi tố 9 thuyền viên còn lại với hai tội danh là vi phạm Luật bảo vệ động vật hoang dã và xâm nhập trái phép lãnh thổ, kết án họ 1 năm tù giam. Cho đến ngày 8/6/2015, thẩm phán Ambrosio de Luna của Tòa án lưu động tỉnh Palawan mới kí lệnh thả các ngư dân này vào ngày 8/6.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.8. Khủng hoảng tại bãi Nhân Ái (bãi Cỏ Mây/ Second Thomas Shoal)</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/2012, tiếp sau sự kiện bãi Scarborough, một chiếc tàu hộ vệ Trung Quốc bị mắc cạn trong bãi Trăng Khuyết phía đông nam bãi Cỏ Mây (Hình 74) làm Philippines kinh hoảng. Philippines lo lắng rằng Trung Quốc sẽ chiếm bãi Trăng Khuyết theo cách tương tự như cách họ chiếm đóng bãi Cỏ Mây. Đây là bãi đá gần đảo Palawan nhất trong quần đảo Trường Sa, cách quần đảo Trường Sa khoảng 57 hải lí. Nếu Trung Quốc chiếm được bãi Trăng Khuyết thì sẽ cắt được liên lạc giữa đảo Palawan và bãi Cỏ Mây. May mắn là sau đó hai ngày, tàu bảo hộ Trung Quốc đã tự thoát khỏi mắc cạn. Các lí giải về lần mắc cạn này không như nhau, đó có thể chỉ đơn thuần là mắc cạn nhưng đó cũng có thể là hành động của Trung Quốc dùng để dọa dẫm Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giữa lúc Trung Quốc chuẩn bị tiến thêm một bước ở biển Đông thì quan hệ Trung – Nhật xảy ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về đảo Điếu Ngư/Senkaku (xem phần VI.10). Trung Quốc buộc phải hoãn các hành động tại biển Đông lại, dồn sức lực sang đảo Điếu Ngư.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines thua kém Trung Quốc vài thế hệ về sức mạnh quân sự, không thể hy vọng đối chọi với Trung Quốc bằng vũ lực, biện pháp duy nhất có thể chọn lựa là dùng phương thức trọng tài mà Trung Quốc kịch liệt phản đối (xem phần sau). Đơn kiện của Philippines chính thức được phản hồi vào đầu năm 2013. Ngày 24/4/2013, Chánh án Tòa án Luật biển quốc tế Yanai Shunji tuyên bố ủy quyền cho 3 thành viên trọng tài chọn ngày xử kiện. Động thái đó khiến Trung Quốc tức giận, ngày 26/4, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oán tuyên bố:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ những năm 1970 thế kỉ XX, Philippines đã vi phạm “Hiến chương Liên Hiệp quốc” và các nguyên tắc của Luật quốc tế, xâm chiếm phi pháp một số đảo / bãi trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, bao gồm: đảo Mã Hoan (Vĩnh Viễn); đảo Phí Tín (Bình Nguyên); đảo Trung Nghiệp ( Thị Tứ); đảo Nam Thược (Loại Ta); đảo Bắc Tử (Song Tử Đông); đảo Tây Nguyệt (Bến Lạc); bãi Song Hoàng (Loại Ta Nam) và bãi Tư Lệnh (Công Đo / Commodore). Phía Trung Quốc trước sau kiên quyết phản đối sự xâm chiếm phi pháp của phía Philippines, trịnh trọng nhắc lại yêu cầu phía phía Philippines rút hết người và thiết bị khỏi các đảo bãi của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 383px; overflow: hidden; width: 505px;"><img height="383" src="https://lh4.googleusercontent.com/5Qtu3P-uuwEe1Z3z81-L6KCaROOA70j8NYbJjdoZT70W-GfrTISttCwMXj8fsUv7SuYUBaRlg5PeqRcAlFws2EF6izoqobQrXPv0ccIfDxQ1iF3afld8kqpYdwpPZLRQpriLX7qCcL5tGkIT1yTrQ6U" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="505" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 74:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bản đồ vùng phụ cận bãi bãi Cỏ Mây và bãi bãi Trăng Khuyết </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong 8 đảo nhỏ mà Trung Quốc liệt kê là do Philippines chiếm đóng không có bãi Cỏ Mây. Điều đó dẫn đến suy đoán thái độ của Trung Quốc về bãi Cỏ Mây như sau: phải chăng Trung Quốc không công nhận sự kiểm soát thực tế của Philippines đối với bãi Cỏ Mây? Hay Trung Quốc có ý đuổi Philippines khỏi bãi Cỏ Mây? Quả nhiên, ngày 7/5, Philippines phát hiện thấy một chiếc tàu khu trục hải quân và hai tàu hải giám Trung Quốc cách Cỏ Mây 6 hải lí. Sau đó Philippines phái 3 tàu chiến (tàu tuần tra PS36, tàu khu trục PS47 và tàu chở quân PS71) đến Cỏ Mây nhưng đều bị tàu Trung Quốc chặn giữa đường.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 9/5, tại vùng biển phía Đông Bắc Philippines, tàu chấp pháp Philippines đã bắn vào tàu cá Quảng Đại Hưng số 28 của Đài Loan làm 1 người thiệt mạng. Mặc dù sự việc không xảy ra tại biển Đông, không liên quan trực tiếp đến Bắc Kinh, Đài Loan cũng tuyên bố không muốn Bắc Kinh nhúng tay, nhưng Bắc Kinh vẫn thể hiện thái độ cứng rắn. Tình hình biển Đông càng trở nên căng thẳng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/5, Philippines phản đối Trung Quốc về sự kiện bãi Cỏ Mây, Trung Quốc phớt lờ. Trong hơn 10 ngày tiếp sau, tàu Trung Quốc và Philippines đối đầu nhau tại khu vực gần bãi Cỏ Mây. Mãi đến ngày 22/5, Trung Quốc mới đáp trả: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bãi Nhân Ái là một phần của quần đảo Nam Sa. Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi tại quần đảo Nam Sa và các vùng biển phụ cận. Việc tàu công vụ Trung Quốc tiến hành hoạt động tuần tra bình thường trên vùng biển liên quan là điều không thể trách được. Trung Quốc đề nghị các nước liên quan tích cực thực hiện đầy đủ “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Nam Hải”, không sử dụng các hành động làm mở rộng, phức tạp hóa tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở Nam Hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về nguyên nhân đối đầu, ý kiến hai bên không giống nhau. Phía Trung Quốc cho rằng, tàu chiến Philippines “mắc cạn phi pháp” trên bãi Cỏ Mây lâu ngày không sửa chữa, có dấu hiệu chìm, do vậy Philippines vội vàng đưa tàu chiến ra chi viện, với ý đồ tăng cường sự hiện diện trên bãi Cỏ Mây vì thế Trung Quốc không thể không ngăn cản. Phía Philippines cho rằng, họ phát hiện thấy tàu hải giám và tàu chiến Trung Quốc tiến vào bãi Cỏ Mây trước rồi mới phái tàu chiến đến giám sát; rằng tàu chiến Philippines tiến vào bãi Cỏ Mây là để tiếp tế cho quân lính, đó là việc làm bình thường. Sau đó, Philippines cho biết thêm, tàu cá Trung Quốc tiến vào bãi Cỏ Mây đánh bắt cá dưới sự yểm trợ của tàu chiến và tàu hải giám cũng là nguyên nhân dẫn đến đối đầu. Theo điều tra, ngày 6/5 thực sự có đoàn tàu Trung Quốc xuất phát từ Hải Nam, nghênh ngang tiến vào biển Đông đánh bắt cá nhưng mãi tới ngày 12/5 mới tới vùng biển nằm giữa bãi Scarborough và bãi Cỏ Rong (Reed Tablemount (14° 00’ N, 117° 14’ E). Khi cuộc đối đầu bắt đầu diễn ra, đoàn tàu này chưa đến bãi Cỏ Mây. Nguyên nhân khiến Trung Quốc lựa chọn để đối đầu với Philippines tại bãi Cỏ Mây nhiều khả năng là vì bãi Cỏ Rong. Năm 2011, Philippines và công ty dầu khí Mĩ hợp tác thăm dò và đồng ý khai thác bãi Cỏ Rong, nhưng việc khai thác bị dừng lại do sự phản đối của Trung Quốc (xem phần VI.5). Bãi Cỏ Mây nằm ở phía Nam bãi Cỏ Rong, nếu Trung Quốc kiểm soát được Cỏ Mây thì sẽ kiểm soát được bãi Cỏ Rong hiệu quả hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất là: một, trả đũa việc Philippines đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra Tòa án quốc tế; hai, bãi Cỏ Mây là đảo duy nhất do Philippines chiếm cứ chưa có công trình kiên cố, việc kiểm soát rất yếu ớt, giả sử Philippines định xây dựng công trình kiên cố thì Trung Quốc phải ngăn chặn việc sự hiện diện kiểu lâu bền của họ ở bãi Cỏ Mây; ba, Trung Quốc có động cơ chiếm lấy bãi Cỏ Mây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi thừa nhận đối đầu tại bãi Cỏ Mây, Trung Quốc lập tức tạo thế từ dư luận, đồng thời mở rộng phong tỏa bãi Cỏ Mây. Bên cạnh việc giám sát của hải quân và hải giám, Trung Quốc còn đưa hơn 30 tàu cá đến bao vây khu vực phụ cận Cỏ Mây, tăng thêm khả năng ngăn chặn tàu Philippines đến gần.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban đầu, Philippines giữ thái độ cứng rắn. Ngày 23/5, Bộ trưởng Quốc phòng Voltaire Gazmin tuyên bố: “Bãi Cỏ Mây thuộc về Philippines không có tranh chấp” và nói thêm: “Chúng tôi sẽ chiến đấu vì lãnh thổ của mình cho đến người lính cuối cùng.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, Philippines không dám xung đột trực diện với Trung Quốc, mặc dù các tàu chiến đã đối đầu tại khu vực gần đó nhưng Philippines không dám xông tới, và việc tìm kiếm một giải pháp ngoại giao trở thành lối thoát duy nhất. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một mặt, Philippines nhường nhịn Trung Quốc: trước hết tỏ thái độ mềm mỏng, tuyên bố không hành động đơn phương. Ngày 27/5, người phát ngôn Phủ Tổng thống Walter tuyên bố: “Để tránh căng thẳng tại bãi Cỏ Mây, Chính phủ Philippines quyết định không thực hiện bất kì hành động nào.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, ngư dân được khuyến cáo không nên đến đánh bắt trong khu vực gần bãi Cỏ Mây. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đảm bảo với Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Mã Khắc Khanh rằng, tàu đến bãi Cỏ Mây chỉ là để tiếp tế lương thực, Philippines không có kế hoạch xây dựng công trình kiên cố tại đây.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, Philippines kêu gọi kêu gọi cộng đồng quốc tế và dư luận quốc tế giúp đỡ. Trước hết, khi trả lời phỏng vấn hãng Reuters, quan chức quân đội cao cấp Philippines nói, lính thủy đánh bộ Philippines trên bãi Cỏ Mây hiện chỉ nấu ăn bằng một máy phát điện. Liên lạc vô tuyến tầm xa phải dùng ắc quy, máy phát điện hết nhiên liệu, ắc quy chưa nạp đủ điện là một “thách thức cực kì khắc nghiệt”. Hơn thế, nguồn vật tư trên tàu chỉ đủ dùng trong hai tuần.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, Philippines công bố hình ảnh binh lính phòng thủ trên tàu để tranh thủ sự đồng cảm. Hai là, ngày 2/6, khi Đối thoại Shangri La nhóm họp tại Singapore, Philippines tuyên bố sẽ tranh thủ cơ hội này để luận bàn toàn diện vấn đề biển Đông, trong đó có bãi Cỏ Rong và tố cáo Trung Quốc ỷ lớn hiếp nhỏ. Thứ ba, Philippines tìm kiếm sự trợ giúp quân sự từ Mĩ. Mĩ, Philippines và nhiều nước ASEAN quyết định diễn tập quân sự vào hạ tuần tháng 6, tại khu vực cách bãi Scarborough khoảng 190 km, quy mô diễn tập lớn nhất trong lịch sử. Philippines cũng tìm kiếm sự trợ giúp từ Nhật Bản. Nhật Bản hứa cho Philippines 10 tàu tuần duyên nhằm cải thiện năng lực tuần tra biển.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không khí quốc tế khi đó cũng thuận lợi cho Philippines. Trung Quốc và Nhật Bản đã trong tình trạng sẵn sàng đối đầu trong vấn đề đảo Điếu Ngư (Senkaku), trở thành sự kiện ngoại giao, quân sự quan trọng nhất. Mặc dù Trung Quốc dùng tàu hải giám, thậm chí là tàu chiến đến “tuần tra” dọc vùng đảo Điếu Ngư, nhưng không có cách nào đột phá được bên trong, cũng không có cách nào ép được Nhật Bản thừa nhận đảo Điếu Ngư đang trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ. Ngược lại, Nhật Bản lợi dụng mâu thuẫn lãnh thổ giữa Trung Quốc với ASEAN, thậm chí cả với Ấn Độ, ra sức xây dựng vòng vây “ giá trị chung” và “lợi ích chung”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi xảy ra sự kiện đối đầu tại bãi Cỏ Mây, cộng đồng quốc tế liên hệ với sự kiện bãi Scarborough một năm trước đó và cho rằng đây là điểm nóng mới của việc Trung Quốc “hiếp đáp” các nước láng giềng. “Hiếp đáp” là loại phương thức dùng gần như vũ lực có sự hậu thuẫn của vũ lực để dọa nạt, được xem là thủ đoạn phi hòa bình. Philippines nhờ đó mà chiếm được sự đồng tình của dư luận quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Việt Nam và Philippines cũng có tranh chấp lãnh thổ nhưng về cơ bản đã đạt được thỏa thuận giải quyết hòa bình. Hành động của Trung Quốc tại bãi Cỏ Mây khiến Việt Nam cảm thấy bất an, vì rằng đá Tiên Nữ (Pigeon Reef) do Việt Nam kiểm soát thực tế cách bãi Cỏ Mây không xa. Việt Nam và Ấn Độ tuyên bố tập trận chung vào ngày 8/6, đây được coi là một kiểu ủng hộ Philippines. Khi đó, Trung Quốc cũng xảy ra đối đầu với Ấn Độ tại Ladakh. Như vậy, trước Đối thoại Shangri La diễn ra hàng năm, Trung Quốc cùng một lúc có xung đột lãnh thổ với Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ, chịu áp lực nặng chưa từng có.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của Mĩ khi đó trở thành mấu chốt. Mĩ và Philippines là đồng minh quân sự, cũng là hai nước luôn phản đối giải quyết vấn đề biển Đông bằng biện pháp phi hòa bình. Sau khi vụ đối đầu ở bãi Cỏ Mây, Mĩ nhiều lần nhắc lại quan điểm mong muốn vấn đề biển Đông được giải quyết bằng phương thức hòa bình. Trong hai ngày 22 và 23 tháng 5, nhóm tác chiến tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân “Nimitz” của hải quân Mĩ rầm rộ tiến vào biển Đông, tiến hành tập trận gần vùng biển Philippines với các hạng mục có tính trực diện, mạnh bạo như yểm trợ tàu vận chuyển, chi viện trên không và trên biển cho binh lính canh giữ đảo, bắn trả tàu. Tuy địa điểm diễn tập không gần bãi Cỏ Mây, nhưng đã phát đi tính hiệu phản đối Trung Quốc rõ ràng. Điều quan trọng nhất là, Tổng thống Obama đã mời Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đến dinh ông ở California để hội đàm vào đầu tháng 6. Đây được coi là cuộc hội đàm có tính then chốt đối với việc Trung Quốc và Mĩ chính thức xây dựng “quan hệ nước lớn kiểu mới” hoặc cấu trúc G2. Quan hệ nước lớn kiểu mới khác với “kiểu cũ” là “không xung đột”. Vì vậy, Trung Quốc không muốn làm hỏng bầu không khí hội đàm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, ngày 29/5, Trung Quốc và ASEAN tiến hành họp Nhóm công tác chung lần thứ 8 về thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông” (8th ASEAN-China Joint Working Group (JWG) on Implementation of the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea). Chi tiết cuộc họp không được công bố, nhưng theo Trung Quốc, Hội nghị khẳng định rõ việc thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” đạt được những tiến triển tích cực năm 2012, các bên nhất trí tiếp tục thực hiện hiệu quả, toàn diện “Tuyên bố”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước Đối thoại Shangri La, mặc dù Trung Quốc và Philippines liên tục đối đầu tại bãi Cỏ Mây nhưng không leo thang: Philippines không làm liều vận chuyển vật tư đến bãi Cỏ Mây, còn Trung Quốc cũng không lựa chọn những hành vi quá khích.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phiên họp Đối thoại Shangri La diễn ra từ ngày 2-4/6 đã không có nhưng cảnh nóng như dự kiến. Các bên liên quan đều thể hiện lo ngại ở các mức độ khác nhau trước việc Trung Quốc dùng thủ đoạn uy hiếp để mở rộng phạm vi kiểm soát thực tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đề nghị các bên liên quan nên xem xét kí kết hiệp ước “không sử dụng vũ lực trước”. Tuy nhiên, cách nói của các bên đều mềm mại. Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Thích Kiến Quốc và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Gasmin lần lượt phát biểu trong cùng một ngày, đều không đề cập trực tiếp đến sự kiện bãi Cỏ Mây, còn khi trả lời câu hỏi cũng dừng ở đó. Thích Kiến Quốc nhấn mạnh hòa bình về ranh giới biển, thậm chí nguy cấp hơn là về vấn đề đảo Điếu Ngư, ông cũng nhắc lại chính sách “gác tranh chấp”. Với sự đồng thuận ngầm của tất cả các bên, Đối thoại Shangri La đã tạo điều kiện cho việc giải quyết hòa bình sự kiện bãi Cỏ Mây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, Sau đó, tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-Hoa Kì tại California, Obama nhấn mạnh với Tập Cận Bình tầm quan trọng trong việc giải quyết hòa bình vấn đề biển Đông và biển Hoa Đông. Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng điều đó không mâu thuẫn với việc giải quyết vấn đề một cách hòa bình.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới tác động của nhiều nhân tố, ngày 19/6, Tổng Tư lệnh Philippines đột nhiên tuyên bố, thông qua một phân đội hải quân nhỏ, quân đội đã thực hiện thành công tiếp tế vật tư và luân chuyển người ở bãi Cỏ Mây. Ông nhấn mạnh, không gặp phải tàu Trung Quốc; việc bổ sung vật tư và luân chuyển thực hiện định kì, ngoài bãi Cỏ Mây, cũng được tiến hành tại tất cả các đảo do Philippines kiểm soát. Ông còn nói, Philippines có thể tự do thực hiện bất kì hành động nào trên bãi này mà không cần thông báo cho phía Trung Quốc, vì đó là “của chúng tôi”. Đương nhiên, ông cũng đảm bảo với Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Mã Khắc Khanh rằng Philippines không có ý định xây dựng công trình kiên cố trên bãi Cỏ Mây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc thì nói: việc tiếp tế vật tư và luân chuyển lực lượng của Philippines phải được tiến hành dưới sự giám thị của tàu Trung Quốc. Ngày 24, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố, Trung Quốc không thừa nhận “ngồi trên bãi” là một dạng phương thức kiểm soát thực tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố, Philippines phải thực hiện lời hứa dừng hành vi xâm phạm chủ quyền Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuộc khủng hoảng bãi Cỏ Mây được giải quyết một cách kịch tính trong âm thầm.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Căn cứ vào lời nói của hai bên thì Philippines và Trung Quốc rõ ràng đã đạt được một số thỏa thuận: Philippines hứa không xây dựng công trình kiên cố trên bãi Cỏ Mây, còn Trung Quốc cũng đồng ý chỉ quan sát mà không ngăn cản hải quân Philippines tiếp tế vật tư lên đảo. Như vậy, cả hai bên đều có thể đưa ra cách giải thích có lợi cho mình: phía Philippines, “khi tiếp tế vật tư và luân chuyển quân không gặp phải tàu Trung Quốc”, còn phía Trung Quốc cũng có thể xác nhận “Philippines tiến hành tiếp tế vật tư và luân chuyển quân dưới sự giám thị của tàu Trung Quốc”. Trung Quốc nói Philippines cần phải thực hiện lời hứa kéo tàu chiến rời đi. Không biết chính xác Philippines đã hứa hẹn cụ thể thế nào, nhưng đại thể có hứa sẽ kéo tàu chiến đi, nhưng không định rõ thời hạn. Còn việc “ngồi trên bãi” có được coi là kiểm soát thực tế hay không, hai bên có ý kiến khác nhau, đây là một ví dụ khác về “mỗi bên mỗi phách”. Nhưng trong mọi trường hợp, theo cách nhìn của bên thứ ba, sau khi thực hiện việc tiếp tế vật tư và luân chuyển quân ở bãi Cỏ Mây thì Philippines đã củng cố hơn nữa quyền kiểm soát của mình đối với bãi này, đó là một thực tế không thể chối cãi. Philippines cũng đã tiến thêm một bước trong việc giám sát vùng biển gần bãi Cỏ Mây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự khác và giống nhau giữa hai sự kiện đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough) và bãi Nhân Ái (bãi Cỏ Mây)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều chuyên gia Trung Quốc dự đoán, Trung Quốc sẽ không cho Philippines tiếp tế vật tư, thậm chí còn cho rằng Trung Quốc sẽ cưỡng ép kéo tàu chiến Philippines đi, nhằm biến bãi Cỏ Mây thành “bãi Scarborough thứ hai”. Những luận điệu đánh đồng kiểu đó đã bỏ qua sự khác nhau về bản chất giữa hai sự kiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bãi Cỏ Mây rõ ràng nằm trong phạm vi Hiệp ước quân sự Mĩ - Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1951, Mĩ và Philippines đã kí “Hiệp ước phòng vệ chung” liên minh quân sự (Mutual Defense Treaty), quy định hai bên có nghĩa vụ bảo vệ về quân sự cho nhau. Việc Trường Sa có thuộc phạm vi “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines” hay không vẫn còn mơ hồ. Điều 5 quy định khi một nước bị nước khác tấn công trong 3 phạm vi dưới đây thì nước kia có nghĩa vụ cùng bảo vệ về quân sự: (1) lãnh thổ chính của Philippines và Mĩ; (2) các đảo thuộc quyền tài phán của mỗi bên trên biển Thái Bình Dương; (3) quân đội, tàu biển và máy bay dân dụng của mỗi bên trên biển Thái Bình Dương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">For the purpose of Article IV, an armed attack on either of the Parties is deemed to include an armed attack on the metropolitan territory of either of the Parties, or on the island territories under its jurisdiction in the Pacific or on its armed forces, public vessels or aircraft in the Pacific.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Cho mục đích của Điều IV, một cuộc tấn công vũ trang được coi là nhằm vào một trong hai bên bao gồm một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào lãnh thổ chính của một bên trong hai bên, hoặc nhằm vào lãnh thổ các đảo nằm dưới quyền tài phán của bên đó, hoặc nhằm vào các lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay dân dụng của bên đó ở Thái Bình Dương</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy, quần đảo Trường Sa có nằm trong phạm vi này hay không? Trong những năm 1990, Kissinger đã từng giải thích bằng điện tín như sau: Năm 1951, khi Hiệp ước này được kí kết, Philippines chưa chính thức tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa; hơn nữa, quần đảo Trường Sa cũng không nằm trong phạm vi Tây Ban Nha chuyển nhượng cho Mĩ, theo quy định của “Hiệp ước Paris”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì thế phạm vi (1) và (2) đều không phù hợp với yêu cầu, có chăng chỉ duy nhất là phạm vi (3).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thư gửi Ngoại trưởng Philippines ngày 6/1/1979, Ngoại trưởng Mĩ Cyrus Vance bày tỏ, địa điểm tấn công quân sự, tàu thuyền công cộng và máy bay được nói tới trong (3) không nhất thiết nằm trong phạm vi (1) và (2): </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">..as provided in Article V, an attack on Philippine armed forces, public vessels or aircraft in the Pacific would not have to occur within the metropolitan territory of the Philippines or island territories under its jurisdiction in the Pacific in order to come within the definition of Pacific area in Article V.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.....như quy định tại điều V, một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào các lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay dân dụng ở Thái Bình Dương không buộc phải xảy ra trong lãnh thổ chính của Philippines hay lãnh thổ các đảo dưới quyền tài phán của nó trong Thái Bình Dương để nằm vào định nghĩa khu vực Thái Bình Dương ở điều V .</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thư gửi Ngoại trưởng Philippines ngày 24/5/1999, Đại sứ Mĩ tại Philippines Thomas C. Hubbard viết rằng Mĩ tiếp tục giữ vững lập trường đã nêu năm 1979, và Mĩ cho rằng biển Đông thuộc khu vực Thái Bình Dương (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">the US considers the South China Sea be Part of the Pacific Area</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton nhiều lần nhắc lại rằng Mĩ sẽ tuân thủ nghĩa vụ của “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo bức điện tín của Kissinger, giống như quần đảo Trường Sa, bãi Scarborough cũng không nằm trong phạm vi (1) và (2). Hơn nữa, khi đó chưa có quân đội Philippines trú đóng ở bãi Scarborough, và Trung Quốc cũng chưa tấn công (chỉ là đối đầu) tàu Philippines. Do đó, Mĩ không có nghĩa vụ trợ giúp Philippines phòng vệ bãi Scarborough. Nhưng, tình huống của bãi Cỏ Mây có điểm khác biệt: dù nó không nằm trong phạm vi (1) và (2) nhưng Philippines có tàu chiến đậu tại đó, thuộc lực lượng vũ trang Philippines, phù hợp với quy định của phạm vi (3). Nếu Trung Quốc dùng vũ lực lên đảo kéo hoặc tiêu hủy tàu sẽ cấu thành việc tấn công vũ trang đối với Philippines, động chạm đến phạm vi (3), và Mĩ có thể can thiệp theo “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chú ý là, năm 1951, khi “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines” được kí kết thì chưa có xung đột biển Đông. Trong hơn 60 năm sau đó, Hiệp ước này cũng chưa mở rộng phạm vi và nghĩa vụ, vì thế không thể nói Hiệp ước này cố ý nhằm vào Trung Quốc hay quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, do sự tồn tại của Hiệp ước này nên Mĩ phải có nghĩa vụ can thiệp vào vấn đề biển Đông theo các quy định của Hiệp ước, đó không phải là chính sách nhất thời. Philippines và Mĩ không thể đứng ngoài Hiệp ước này, trừ khi họ xóa bỏ hoặc sửa đổi nó. Vì thế, để ngăn chặn Mĩ can thiệp, Trung Quốc quá lắm chỉ có thể sử dụng phương thức chặn trước, không thể liều lĩnh xông vào, trừ khi Trung Quốc quyết định không ngần ngại xung đột trực diện với Mĩ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bãi Cỏ Mây rõ ràng nằm trong phạm vi “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. “Không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những đảo hiện không có người sinh sống” ghi trong điều 5 của “Tuyên bố”, đó là một tiêu chuẩn rõ ràng, có tác dụng ngăn chặn hành động lấn chiếm đảo của các bên trên biển Đông. Mặc dù “Tuyên bố” không có hiệu lực pháp lí, nhưng nó là thỏa thuận quan trọng duy nhất mà Trung Quốc và các nước ASEAN đạt được, và cũng được Trung Quốc và ASEAN nhấn mạnh cần tuân thủ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phạm vi địa lí được quy định trong “Tuyên bố” là “biển Đông”, lí giải theo câu chữ tức là toàn bộ biển Đông, các nước ASEAN cũng hiểu theo nghĩa này. Nhưng, Trung Quốc lại cho rằng, “Nam Hải” (biển Đông) là chỉ những khu vực có tranh chấp, tức là quần đảo Trường Sa chứ không bao gồm quần đảo Hoàng Sa và đảo bãi Scarborough cũng đang có tranh chấp. Vì vậy, theo cách diễn giải đơn phương của Trung Quốc, bãi Scarborough không thuộc phạm vi hiệu lực của “Tuyên bố”, cho nên việc Trung Quốc chiếm bãi Scarborough là không vi phạm “Tuyên bố”. Cách diễn giải của Trung Quốc cũng không hoàn toàn vô lí. Nhưng, bãi Cỏ Mây là một phần của quần đảo Trường Sa, thuộc phạm vi bao phủ của “Tuyên bố” mà Trung Quốc cũng thừa nhận. Do đó, nếu chiếm đoạt bằng vũ lực chắc chắn là vi phạm “Tuyên bố”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để giành thế chủ động về mặt pháp lí, Trung Quốc quay sang cáo buộc việc Philippines vi phạm “Tuyên bố”. Trước tiên, Trung Quốc cáo buộc việc tàu chiến Philippines mắc cạn trên bãi Cỏ Mây là vi phạm “Tuyên bố”. Nhưng lời chỉ trích và tố cáo này không đứng vững được, vì rằng tàu chiến mắc cạn trước (năm 1999) còn “Tuyên bố” được kí kết sau (năm 2002). “Tuyên bố” không có hiệu lực hồi tố. Bắt đầu từ năm 1999, tàu chiến Philippines đã mắc cạn ở đó, đồng thời có người canh giữ, vì thế nó thuộc cấu trúc “có người ở” tự nhiên. Trung Quốc tranh luận: “mắc cạn” không được tính là “cư trú” theo nghĩa thông thường, chỉ được tính khi có công trình xây dựng kiên cố. Cách diễn giải này gây nhiều tranh chấp, nhưng ngay cả tuân theo logic này, khi Philippines chỉ vận chuyển vật tư và luân chuyển lực lượng mà không xây dựng đảo bằng công trình kiên cố thì không tính là vi phạm “Tuyên bố”. Kết quả là Trung Quốc không có căn cứ để hành động chống Philippines. Trung Quốc không có cách nào để làm gì thêm đối với Bãi Cỏ Mây mà không vi phạm Tuyên bố. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nhìn từ góc độ quan hệ quốc tế thì tình cảnh của Trung Quốc đã khác hẳn so với một năm trước đó. Bãi Scarborough chỉ là trường hợp xung đột đầu tiên của Trung Quốc tại biển Đông, khi đó khu vực xung quanh Trung Quốc chưa biến thành thùng thuốc súng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng sau đó, Trung Quốc đã tấn công mọi hướng, xung đột lãnh thổ với Nhật Bản, Philippines, Việt Nam, Ấn Độ. Các nước này chung tay đối phó với Trung Quốc là điều không tránh khỏi. Nhật Bản và Philippines kết thành một tuyến, Việt Nam và Ấn Độ cũng kết thành một tuyến, chưa kể Nhật Bản và Philippines đều là đồng minh của Mĩ, còn Nga là người ủng hộ vô hình phía sau Việt Nam và Ấn Độ. Tình hình quốc tế rất bất lợi cho Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Trung Quốc luôn cáo buộc Philippines là “kẻ gây rối” nhưng Philippines vẫn luôn chủ trương giải quyết tranh chấp một cách hòa bình thông qua Tòa án quốc tế, điều đó hết sức phù hợp với kì vọng của cộng đồng quốc tế. Ngược lại, hành vi trong năm đó của Trung Quốc bị thế giới cho là nguyên nhân gây ra bất ổn ở Đông Á, rất bất lợi trước dư luận quốc tế. Trong bối cảnh đó, chính sách tái cân bằng Châu Á nhận được sự hoan nghênh của các nước, trừ Trung Quốc. Trung Quốc càng cứng rắn trước vấn đề biển Đông thì càng làm cho các nước Đông Nam Á ủng hộ sự can dự của Mĩ. Nguy cơ Trung Quốc đối đầu với một dạng hầu như liên minh các nước Châu Á – Thái Bình Dương do Mĩ cầm đầu càng lên cao. Trung Quốc chỉ có thể tạm thu mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, chiến lược trọng tâm của Trung Quốc là xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới, nhằm trở thành đồng lãnh đạo của thế giới. Vì thế, Trung Quốc không những cần phải hợp tác với Mĩ mà còn cần phải xây dựng hình ảnh tích cực trên phạm vi toàn cầu. Dưới tiền đề đó, Trung Quốc chắc chắn không thể phá vỡ đại cục chỉ vì mấy đảo / đá cỏn con. Hơn nữa, tình thế biển Đông vốn xưa nay đã là vấn đề quốc tế phức tạp khác thường, không thể giải quyết dựa trên bãi Cỏ Mây, đương nhiên cần tạm gác lại. Huống chi khi đó Trung Quốc đang chuẩn bị xây đảo nhân tạo (xem phần VI.12), bãi Cỏ Mây không phải là chuyện cấp bách.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, hành động đối đầu của Trung Quốc không nhất thiết là chiếm đoạt bằng được bãi Cỏ Mây mà chỉ là trả đũa việc Philippines khởi kiện tại Tòa quốc tế. Nhìn lại trình tự sự kiện đối đầu: ngày 24/4 công bố thành lập Tòa trọng tài; ngày 26 Hoa Xuân Oánh liệt kê các đảo do Philippines kiểm soát thực tế không bao gồm bãi Cỏ Mây, điều này có thể là do nhìn thấy điểm yếu tương đối về mặt kiểm soát thực tế bãi Cỏ Mây của Philippines (không có công trình kiên cố); sau khi nghiên cứu, Philippines quyết định xây thêm công trình kiên cố, vì vậy Trung Quốc tiến hành ngăn chặn. Có thể thấy, điểm mấu chốt của Trung Quốc chính là ngăn Philippines xây dựng công trình kiên cố. Trên cơ sở đó, nếu giành được đảo thì đương nhiên là điều tốt, nếu không thì cũng có thể chấp nhận. Suy đoán đó sau này cũng được các chuyên gia Trung Quốc xác nhận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện đối đầu bãi bãi Cỏ Mây kết thúc như dự đoán. Trung Quốc về cơ bản đạt được mục tiêu của mình: (1) trả đũa hành động khởi kiện Tòa trọng tài của Philippines; (2) lần đầu tiên Trung Quốc nêu việc bãi Cỏ Mây chưa do Philippines kiểm soát thực tế, đặt cơ sở cho những hành động tiếp theo có thể thực hiện sau này; (3) Trung Quốc xác định tàu chiến Philippines trên bãi Cỏ Mây là tàu bị nạn, bác bỏ sự hiện diện quân sự kéo dài 14 năm của Philippines là hành động chiếm đóng, chính thức lí giải sự hiện diện của Philippines trên bãi Cỏ Mây; (4) Trung Quốc nhấn mạnh rằng chỉ khi có sự cho phép của chính họ, Philippines mới có thể vận chuyển vật tư ra bãi Cỏ Mây và sau đó cho rằng họ nắm quyền kiểm soát thực tế bãi đá này; (5) Trung Quốc thành công trong việc ngăn chặn Philippines xây dựng công trình kiên cố, giữ nguyên hiện trạng bãi Cỏ Mây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, Philippines cũng không phải là kẻ thua cuộc, vì: (1) thành công trong việc vận chuyển vật tư và luân chuyển quân, tiếp tục hiện diện trên bãi Cỏ Mây và duy trì hiện trạng bãi này; (2) nhấn mạnh mình đã trú đóng 14 năm tại bãi Cỏ Mây, hiện vẫn có thể vận chuyển vật tư và luân chuyển quân để chứng minh cho việc kiểm soát thực tế; (3) lần đầu tiên quan chức Trung Quốc thừa nhận Philippines kiểm soát thực tế 8 đảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách giải thích rằng mỗi bên đều có cái được, không có bên thua nghe ra có vẻ mâu thuẫn. Nhưng đây thực sự là hai mặt của một đồng xu, cũng là ví dụ về việc “mỗi bên mỗi phách” trong ngoại giao.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù sau đó Trung Quốc tiếp tục tố cáo Philippines nhưng sự kiện bãi Cỏ Mây đã kết thúc một giai đoạn. Tháng 8/2014, Philippines lại tiến hành vận chuyển vật tư và luân đổi lực lượng nhưng không vấp phải sự ngăn chặn của Trung Quốc. Tuy tàu hải giám Trung Quốc giám sát gần, nhưng không có hành động thù địch nào..</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dù vậy, bãi Cỏ Mây vẫn đầy thách thức với Philippines, làm thế nào để bảo vệ con tàu cũ kĩ trong thời gian dài trên bãi đá để tàu không bị chìm và tiếp tục có người ở là việc không hề dễ. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.9. Vụ trọng tài biển Đông: Philippines kiện Trung Quốc </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khái quát tình hình</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để đối đầu với Trung Quốc, Philippines chọn biện pháp đưa vấn đề ra Tòa án quốc tế. Ngay từ năm 2011, Philippines là nước đầu tiên đã đề ra khả năng dùng phương thức trọng tài để xác định tính hợp pháp của đường 9 đoạn (xem phần VI.3). Trong cuộc khủng hoảng bãi Scarborough, Philippines cũng nhiều lần đề cập đến khả năng thông qua các dạng trọng tài quốc tế để giải quyết. Trung Quốc trước sau như một đều giữ thái độ bác bỏ Tòa trọng tài. Để ngăn chặn Philippines, tháng 10/2012, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh đã có chuyến công du đặc biệt đến Manila, cảnh báo Philippines về sự kiện bãi Scarborough: một là, không được đưa vấn đề tranh chấp ra Liên Hiệp quốc; hai là, không được quốc tế hóa vấn đề, kể cả đưa vấn đề ra các diễn đàn ASEAN thảo luận; ba là, không được hợp tác với các nước khác (chẳng hạn như Mĩ); bốn là, không được công khai trên truyền thông công cộng các sự việc liên quan đến các cuộc đàm phán và thỏa thuận giữa Trung Quốc và Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Rõ ràng, điều đó đồng nghĩa với việc yêu cầu Philippines ngầm chấp nhận sự thay đổi hiện trạng bãi Scarborough, tức là chuyển quyền kiểm soát thực tế từ Philippines sang Trung Quốc. Philippines đương nhiên không chấp nhận.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22/1/2013, Ngoại trưởng Philippines Rosario chính thức tuyên bố trong cuộc họp báo: Theo quy định tại Điều 287 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Philippines đã chính thức khởi kiện tại Tòa Luật biển quốc tế (ITLOS) theo thủ tục nêu trong Phụ lục 7, yêu cầu Tòa đưa ra phán quyết trọng tài đối với yêu sách của Trung Quốc ở biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do Trung Quốc từ chối không tham gia vụ kiện nên ngày 23/3, Chánh án Tòa trọng tài biển là thẩm phán người Nhật Bản Shunji Yanai đã căn cứ vào thủ tục trong Phụ lục 7 chỉ định thẩm phán Stanislaw Pawlak người Ba Lan làm trọng tài cho phía Trung Quốc, đồng thời chỉ định thẩm phán Rudiger Wolfrum người Đức làm trọng tài cho Philippines. Ngày 24/4, Tòa án Luật biển quốc tế thông báo đã hình thành xong nhóm trọng tài gồm 5 người, 3 người khác là thẩm phán Jean-Pierre Cot người Pháp, Giáo sư Alfred Soons người Hà Lan và trọng tài viên chủ tịch là thẩm phán Thomas A. Mensah người Ghana. Tòa trọng tài chọn ngày bắt đầu xét xử. Tin này này là một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng bãi Cỏ Mây. (xem phần trên).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tòa trọng tài lần này là một tòa trọng tài được thành lập dựa trên Tòa trọng tài Thường trực (PCA). Điều đáng nói là, tuy không phải là tòa án quốc tế nhưng nó cũng không thiếu tính pháp lí. Điều 287 Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc liệt kê 3 thủ tục thường để giải quyết tranh chấp: (1) Tòa án Luật biển quốc tế; (2) Tòa án quốc tế (ICJ); và (3) Toà Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII. Trong 3 loại thủ tục này chỉ có Tòa trọng tài mới có thể xử lí tình huống một bên không chịu tham gia. Vì vậy, Philippines mới có cách lựa chọn này và thực ra cũng là cách duy nhất. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù nghe có vẻ không “chính thức” bằng Tòa án quốc tế, nhưng được thành lập từ năm 1899, PCA có lịch sử lâu dài hơn Tòa án quốc tế do Liên Hiệp quốc thành lập sau Thế chiến II. Trung Quốc tham gia PCA trong thời nhà Thanh và thời Trung Hoa Dân quốc. Năm 1993, Trung Quốc khôi phục địa vị trong PCA và được chỉ định là trọng tài viên cùng năm đó. PCA đã phân xử rất nhiều tranh chấp lãnh thổ trên thế giới. Nổi tiếng nhất là vụ tranh chấp chủ quyền đảo Palmas (Island of Palmas Case) giữa Mĩ và Hà Lan năm 1928. Phán quyết lần đó là một ví dụ khuôn mẫu cho các tranh chấp chủ quyền đối với các đảo nhỏ ở xa, Mĩ đã chấp nhận kết quả bất lợi của phán quyết. Ngoài ra, tranh chấp chủ quyền Đông Greenland giữa Đan Mạch và Na Uy cũng là một án lệ kinh điển của PCA. Trên mạng chính thức của CPA còn liệt kê 20 vụ án trọng tài gần đây, cho thấy thêm thẩm quyền của PCA. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giám sát quy trình trọng tài lần này là Tòa án Luật biển quốc tế được thành lập theo Công ước, dựa vào thủ tục quy định tại Phụ lục 7 của Công ước, lập ra tòa trọng tài trong PCA và lựa chọn trọng tài viên trong danh sách của Tòa án Luật biển quốc tế để tiến hành phân xử. Trên thực tế, tất cả các trọng tài PCA đều được hình thành theo cách mời các trọng tài viên “lâm thời” (ad-hoc) kiểu này. Điều khác biệt duy là nhất so với trọng tài do PCA phụ trách “hoàn toàn” là các trọng tài viên sau được chọn từ danh sách của PCA. Tòa án Luật biển quốc tế và PCA có quan hệ hợp tác chặt chẽ, không phải là một sự sắp xếp “lâm thời”. Theo thông tin trên mạng của PCA, từ khi Công ước ra đời đến nay, trong số hơn 10 vụ án được xử thông qua thủ tục của Phụ lục 7,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chỉ có một vụ là có thủ tục khác biệt với vụ kiện này. Khi PCA thụ lí một vụ trọng tài có nghĩa là xác thực tính công bằng bằng thẩm quyền và uy tín của chính mình.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kể từ đó, Tòa trọng tài đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc tham gia vụ kiện, nhưng Trung Quốc luôn từ chối. Ngày 30/8, Tòa trọng tài đã thông qua Quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ trọng tài (Rule of Procedures)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và chấp nhận đơn yêu cầu trọng tài của Philippines. Đây là bước rất quan trọng, có nghĩa là vụ trọng tài đã chính thức đi vào thủ tục xét xửxử. Trước tiên, Tòa trọng tài xem xét các bằng chứng về thẩm quyền (Jurisdiction Hearing) đối với từng nội dung khiếu kiện để xác định Tòa có thẩm quyền trọng tài hay không. Sau khi xác định có thẩm quyền trọng tài, thủ tục xét xử nội dung (Merits Hearing) sẽ được tiến hành để xét xử từng yêu cầu khiếu kiện của Philippines đã được luận chứng có thẩm quyền. Ngày 30/3/2014, Philippines đã nộp bản ghi nhớ nêu rõ các yêu cầu thực chất của mình và thẩm quyền của tòa trọng tài. Ngày 16/3/2015, Philippines nộp bản tường trình bổ sung theo yêu cầu của Tòa trọng tài.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khác với trước đây, ngoài việc thông qua các phương thức truyền thống như xã luận và phát ngôn của Bộ Ngoại giao để bày tỏ lập trường “không tham gia” và đưa ra những lí do đơn giản, vào ngày 07/12/014 trước thời hạn (16/12) mà Tòa trọng tài ấn định phải nộp bản tự biện hộ, Trung Quốc đã công bố “Tài liệu lập trường của Trung Quốc về vấn đề thẩm quyền trong vụ kiện trong tài ‘Nam Hải’ của Philippines”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tài liệu này giải thích chi tiết lập trường của Trung Quốc từ góc độ luật pháp quốc tế. Tòa trọng tài tiếp nhận “Tài liệu lập trường” như là bản tự biện hộ của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7/2015, Tòa trọng tài đã tổ chức phiên họp xét về vấn đề thẩm quyền tại Cung điện Hòa bình ở The Hague, Hà Lan và đưa ra phán quyết vào ngày 29/10.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong số 15 yêu cầu mà Philippines đưa ra, 7 yêu cầu đã được chấp thuận, 7 yêu cầu khác sẽ được phán quyết khi xét xử nội dung, 1 yêu cầu còn lại yêu cầu phía Philippines bổ sung tài liệu. Cuối tháng 11, vụ kiện Trọng tài bước vào thủ tục xét xử nội dung, Trung Quốc vẫn từ chối tham gia. Tờ “Nhân dân nhật báo” đã đăng bài với bút danh “Tiếng chuông” trong 5 ngày liên tiếp, chỉ trích dữ dội Philippines và Tòa trọng tài .</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt chính trị, việc Philippines đưa vấn đề “biển Đông” ra Tòa trọng tài quốc tế là vì không còn cách nào khác. Kể từ khi quyền kiểm soát thực tế đối với bãi Scarborough bị Trung Quốc tước đoạt vào năm 2011, Philippines luôn ở trong thế thủ về vấn đề biển Đông. Sức mạnh quân sự của Philippines vẫn còn kém xa Trung Quốc, dù có lôi kéo Mĩ và Nhật Bản chống lưng, thì nước xa cũng không thể cứu được lửa gần. Philippines muốn nhờ cậy vào sức mạnh của ASEAN để đàm phán với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc đã đóng cánh cửa đàm phán lại. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn nói rằng các kênh trao đổi giữa Trung Quốc và Philippines luôn được thông suốt, tuy nhiên Trung Quốc không thừa nhận tồn tại tranh chấp chủ quyền đối với bãi Scarborough, cũng không đồng ý triển khai đàm phán với Philippines về vấn đề này. Đồng thời, tàu Philippines cũng bị tàu hải giám và tàu chiến Trung Quốc uy hiếp tại biển Đông và các vùng biển khác. Trong hoàn cảnh vô vọng về quân sự và ngoại giao, Philippines chỉ có thể nhờ đến Tòa trọng tài quốc tế như là phương sách cuối cùng. Trung Quốc cáo buộc Philippines vô cớ gây rắc rối, tuy nhiên tranh chấp lãnh thổ tại biển Đông, Trường Sa và bãi Scarborough tồn tại tồn tại từ lâu nay là sự thật, các nước ASEAN và cộng động quốc tế như Mĩ, Nhật, Úc đều ủng hộ Philippines, nên có thể thấy là không có việc Philippines kiếm chuyện vô cớ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp về vấn đề thẩm quyền</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong quá trình trọng tài, các phiên xem xét về thẩm quyền xét xử là vô cùng quan trọng, cũng là yếu tố then chốt để Philippines có thể thắng kiện hay không, tác giả cho rằng đây là vấn đề khó nhất đối với Philippines. Chính phủ Trung Quốc thông qua “Tài liệu lập trường” bác bỏ thẩm quyền xét xử của Tòa trọng tài đối với vụ kiện này. Các chuyên gia khác của Trung Quốc cũng thông qua các phương thức như xuất bản sách, phát biểu ý kiến và bình luận trên mặt báo để bày tỏ ý kiến có lợi cho Trung Quốc. Những ý kiến này có thể phân thành 4 loại: thứ nhất, thực chất của vụ trọng tài là vấn đề chủ quyền, không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Công ước về Luật biển; thứ hai, Trung Quốc vào năm 2006 đã đưa ra Tuyên bố miễn trừ đối với Công ước (không chấp nhận thẩm quyền trong tài…); thứ ba, Philippines đã từng đưa ra cam kết giải quyết vấn đề thông qua đàm phán, qua đó Trung Quốc cho rằng Philippines đã “không chấp nhận con đường giải quyết bằng trọng tài”; thứ tư, Philippines không thương lượng với Trung Quốc trước khi kiện theo quy định của Công ước, đó là lạm dụng thủ tục tố tụng. Các lập luận của Trung Quốc nghe có vẻ có lí, nhưng tác giả cho rằng nếu cân nhắc kĩ thì không phải là như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines yêu cầu Tòa trọng tài quốc tế phán xét điều gì?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giới chức Trung Quốc nhiều lần tuyên bố phán quyết mà Philippines yêu cầu Tòa trọng tài liên quan đến tranh chấp chủ quyền, điều “thể hiện đầy đủ bản chất của tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại biển Đông chính là tranh chấp lãnh thổ, động cơ và mục đích của việc Philippines kiện ra Tòa trọng tài hoàn toàn nhằm bác bỏ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo ở biển Đông.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, điều đó không phải là sự thật. Mâu thuẫn chủ yếu trong tranh chấp tại biển Đông là vừa có tranh chấp chủ quyền, vừa có tranh chấp phân định ranh giới biển. Philippines cũng biết rõ việc Công ước không thể điều chỉnh tranh chấp chủ quyền nên đã đặc biệt mời Paul S. Reichler, luật sư nổi tiếng người Mĩ từng giúp các nước nhỏ chống lại nước lớn, chủ trì thông qua việc phân loại và tổ hợp vấn đề để tách các yêu cầu khiếu kiện của Philippines ra khỏi vấn đề chủ quyền, tập trung vào quyền lợi đối với các đảo. Philippines đã chuyển cho cho Tòa trọng tài 15 vấn đề để xét xử: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Các quyền lợi biển của Trung Quốc tại biển Đông, giống với Philippines, không được vượt quá phạm vi mà Công ước cho phép; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2) Lập trường của Trung Quốc về quyền chủ quyền, quyền tài phán và “quyền lịch sử” đối với vùng biển biển Đông nằm trong phạm vi “đường 9 đoạn” là trái với Công ước. Những yêu sách này vượt quá phạm vi mà Công ước cho phép về giới hạn địa lí và thực thể đối với các quyền lợi biển của Trung Quốc, và không có hiệu lực pháp luật; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Bãi Scarborough không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(4) Đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây và đá Subi là bãi triều thấp (low tide elevation), không thể tạo ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa, và là những địa hình (feature) không thể đoạt lấy làm sở hữu (appropriate) thông qua chiếm đóng trước hoặc các phương thức khác; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(5) Đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(6) Đá đá Gaven và đá đá Ken Nan (bao gồm đá Tư Nghĩa) là bãi triều thấp (LTE), không thể tạo ra lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, tuy nhiên đường ngấn nước thủy triều của chúng có thể được coi là đường cơ sở để đo chiều rộng lãnh hải của lần lượt đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(7) Đá Gạc Ma, đá Châu Viên và đá Chữ Thập không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(8) Trung Quốc đã quấy nhiễu bất hợp pháp vào quyền được hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của Philippines đối với nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(9) Trung Quốc phạm luật khi không ngăn cản công dân và tàu thuyền nước mình đến khai thác tài nguyên sinh vật nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(10) Thông qua việc quấy nhiễu hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough, Trung Quốc đã ngăn cản bất hợp pháp ngư dân Philippines tìm kế sinh nhai; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(11) Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước tại bãi Scarborough và bãi Cỏ Mây; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(12) Hoạt động chiếm đóng và xây dựng của Trung Quốc tại đá Vành Khăn là: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) Vi phạm quy định của Công ước về đảo nhân tạo, hạ tầng và cấu trúc; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(b) Vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(c) Cấu thành hành hành vi phạm pháp về cố ý chiếm đoạt trái với các quy định của Công ước; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(13) Việc tàu chấp pháp Trung Quốc điều khiển nguy hiểm gây nguy cơ va chạm nghiêm trọng cho các tàu của Philippines đi lại gần bãi Scarborough, vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc theo Công ước; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(14) Kể từ tháng 1/2013 khi Tòa trọng tài bắt đầu xét xử vào, Trung Quốc gia tăng và mở rộng tranh chấp một cách bất hợp pháp, bao gồm: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) Quấy nhiễu quyền đi lại của Philippines tại bãi Cỏ Mây và các vùng biển lân cận; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(b) Ngăn chặn Philippines luân chuyển và bổ sung người đóng tại bãi Cỏ Mây; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(c) Gây nguy hiểm đến sức khỏe và phúc lợi của người Philippines đóng tại bãi Cỏ Mây; </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(15) Trung Quốc nên dừng các yêu sách về quyền lợi và hành động vi phạm pháp luật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15 yêu cầu của Philippines có thể quy thành 5 loại, đều không liên quan đến tranh chấp chủ quyền. Loại 1, Philippines cho rằng “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là yêu sách không chính đáng, vi phạm Công ước; Loại 2, Philippines cho rằng các “đảo, đá” tại biển Đông mà Trung Quốc đang chiếm đóng hiện nay chỉ có thể coi là đá (rock), vốn không có khả năng để con người sinh sống và hoạt động kinh tế, không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Loại 3, các công trình nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trên bãi triều thấp tại biển Đông (bao gồm nhà sàn trước đây và đảo nhân tạo sau này), không có vùng đặc quyền kinh tế; Loại 4, bãi triều thấp không có tư cách lãnh thổ; Loại 5, việc quấy nhiễu của Trung Quốc đối với ngư dân và tàu Philippines tại biển Đông là bất hợp pháp, các đảo nhân tạo cũng là bất hợp pháp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng: “Chỉ có xác định trước chủ quyền của các đảo, đá, thì mới có thể xác định các yêu sách về quyền lợi biển trên cơ sở các đảo, đá là có phù hợp với Công ước hay không. Bởi vì: “Các quyền lợi biển về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa quy định tại Công ước đều được trao cho quốc gia có chủ quyền với vùng lãnh thổ đất liền liên quan. Tách khỏi chủ quyền quốc gia, bản thân các đảo, đá không có bất kì quyền lợi biển nào. Chỉ có các quốc gia có chủ quyền đối với các đảo, đá liên quan thì mới có thể căn cứ vào Công ước để đưa ra yêu sách quyền lợi biển đối với các đảo, đá đó”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên cũng giống như Philippines và cộng đồng quốc tế, Trung Quốc cũng thừa nhận nguyên tắc “đất quyết định biển”, mà nguyên tắc này bao gồm 2 yếu tố độc lập: đất liền thuộc về ai (chủ quyền), đất có thể quyết định biển (quyền lợi của đảo) với mức hữu hiệu bao nhiêu. Logic của Philippines là, cho dù các đảo, đá đó thuộc về Trung Quốc, nhưng cũng không thể dựa vào các đảo, đá đó để tuyên bố vùng biển rộng như vậy. Logic này phù hợp với luật pháp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc đã chỉ ra một cách chính xác: “Bất kì cơ quan luật pháp hoặc trọng tài quốc tế nào khi xử lí các vụ tranh chấp liên quan đến đảo, đá, từ trước đến nay họ chưa bao giờ áp dụng các quy định của Công ước để xác định trước các quyền lợi về biển đối với các đảo, đá khi chưa xác định chủ quyền các đảo, đá đó thuộc về ai”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên điều này không phải là lí do để cho rằng Tòa trọng tài không có thẩm quyền xét xử, bởi vì Điều 286 của Công ước quy định: “Trong giới hạn của Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của bất kì bên tranh chấp nào, đều được đưa ra tòa án hay toà có thẩm quyền theo mục này”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các yêu cầu cho Trọng tài do Philippines đưa ra liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước, Tòa trọng tài tất nhiên có thẩm quyền xét xử sau khi áp dụng mục 1 và mục 3, và điều này không liên quan đến gì đến việc các vụ án tương tự đã được xét xử trước đó hay chưa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài việc được xác lập về mặt pháp lí, tác giả cho rằng điều này còn có lợi cho việc giải quyết các vấn đề chủ quyền bao gồm các đảo và bãi đá ngầm trong khu vực. Bởi vì nếu Tòa trọng tài đưa ra phán quyết rằng quyền lợi của các đảo, đá đó là vô cùng hạn chế, thì lợi ích của các nước tại các đảo, đá đó sẽ bị giảm đi rất nhiều, điều này có lợi cho việc giải quyết cuối cùng đối với vấn đề biển Đông. Nói rộng ra thì kết quả phán quyết trọng tài đóng vai trò tiền lệ mạnh mẽ cho các tranh chấp tương tự của các quốc gia khác. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, tuy tranh chấp chủ quyền không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Công ước, nhưng các yêu cầu trọng tài của Philippines cũng không đề cập đến vấn đề chủ quyền. Vì vậy về mặt pháp lí, Tòa trọng tài thực sự có thẩm quyền để xử lí các yêu cầu trọng tài này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố miễn trừ có thể phủ định thẩm quyền của Tòa trọng tài hay không? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng, căn cứ vào bản Tuyên bố được Trung Quốc gửi tới Tổng Thư kí Liên Hiệp quốc ngày 25/8/2006, theo quy định tại điều 298 Công ước: “Đối với bất kì tranh chấp nào được đề cập đến tại điểm (a), (b) và (c), khoản 1, điều 298 của ‘Công ước’, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không chấp nhận bất kì thủ tục nào quy định tại mục 2, phần XV của ‘Công ước’</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đối với các tranh chấp về phân giới biển, quyền sở hữu hoặc vịnh lịch sử, các hoạt động quân sự và chấp pháp cũng như thực hiện những chức năng được Hội đồng Bảo an giao phó theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, Chính phủ Trung Quốc không chấp nhận bất kì thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc nào được quy định tại mục 2, phần XV của ‘Công ước’, bao gồm thủ tục Trọng tài bắt buộc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, Tòa trọng tài không có thẩm quyền phán xét.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, tuyên bố này của Trung Quốc là không thể biện minh được vì: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều 298 ‘Công ước’ quy định: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi kí kết, phê chuẩn hay tham gia ‘Công ước’, hoặc vào bất kì thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định ở mục 2, liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) (1). Các tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc phân định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu (title) hoặc vịnh lịch sử, miễn là khi một tranh chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực, và nếu các bên không đi đến một thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lí, thì quốc gia đưa ra tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, phải chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được quy định ở mục 2 Phụ lục V, và tất nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục này vụ tranh chấp nào mà đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ quyền hoặc các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo…”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong đó điểm (1) là có liên quan nhất. Tuy nhiên, tuyên bố mang tính miễn trừ chỉ có thể được áp dụng cho các điều 15, 74 và 83. Điều 15 về “Phân định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; Điều 74 về thủ tục “Phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; Điều 83 về thủ tục “Phân định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp giáp hay đối diện nhau”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trong yêu cầu phân xử của Philippines, ngoài việc không đề cập đến chủ quyền, cũng</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">không đề cập đến việc phân định cụ thể các vùng biển. Vì vậy, Tuyên bố miễn trừ của Trung Quốc về thẩm quyền phán quyết không miễn trừ các yêu cầu phân xử của Philippines. Nói cách khác, phán quyết của Tòa trọng tài không mâu thuẫn với Tuyên bố miễn trừ của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, các chuyên gia Trung Quốc như Lí Kim Minh cho rằng, Trung Quốc có thể sử dụng “đường 9 đoạn” với tư cách vịnh lịch sử làm lí do để từ chối trọng tài,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> bởi vì điều 298 “ có đề cập đến tranh chấp về vịnh lịch sử và quyền sở hữu lịch sử”. Tuy nhiên, dù sự thật có một số chuyên gia Trung Quốc cho rằng “đường 9 đoạn” là vùng biển lịch sử, nhưng ý kiển kiểu này lại không rất không thống nhất, ngay cả trong nội bộ chuyên gia Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc từ trước đến nay cũng chưa từng đưa ra tuyên bố liên quan, cũng chưa từng định nghĩa về “đường 9 đoạn”. Trên thực tế, mục thứ 2 mà Philippines đưa ra yêu cầu trọng tài chính là làm rõ định nghĩa của “đường 9 đoạn”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí Kim Minh còn cho rằng, căn cứ vào luật thời hiệu, “đường 9 đoạn” ra đời trước, Công ước ra đời sau, vì vậy “đường 9 đoạn” không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Cách diễn giải này nhầm lẫn giữa vấn đề thẩm quyền của Tòa và vấn đề khả năng áp dụng của Công ước. Ngay cả khi Công ước thực sự không áp dụng được đối với “đường 9 đoạn” theo luật thời hiệu, thì điều đó cũng không có nghĩa là Tòa án hoặc Tòa trọng tài không có thẩm quyền phán quyết đối với nó. Cũng giống như việc xem xét một người có phải trộm cắp hay không là do tòa án dựa trên khả năng áp dụng của pháp luật để xác định, chứ không thể nói trước rằng người đó không trộm cắp nên cho rằng tòa án không có thẩm quyền phán quyết. Trên thực tế, việc Công ước có thể áp dụng cho “đường 9 đoạn” hay không chính là một nội dung cần phải phán quyết, cũng là một trong những lí do khiến Philippines yêu cầu phân xử. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các chuyên gia Trung Quốc còn chỉ ra, Philippines cũng tuyên bố Công ước không áp dụng đối với lãnh thổ của mình: “Việc kí kết không xâm hại hoặc làm tổn hại đến việc thực thi chủ quyền của Philippines tại bất kì vùng lãnh thổ nào của mình, ví dụ như quần đảo Kalayaan và vùng biển lân cận”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, việc yêu cầu trọng tài chẳng khác nào “tự vả vào miệng mình”. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, các yêu cầu trọng tài do Philippines đề xuất không nhằm vào một lãnh thổ hay lãnh hải cụ thể nào. Vì vậy, tuyên bố của Philippines không ảnh hưởng gì đến các yêu cầu trọng tài này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khoản 4 điều 298 Công ước về “các trường hợp ngoại lệ khi lựa chọn áp dụng mục 2” quy định: “Nếu một trong các quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo đoạn 1. a, thì bất kì quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa tranh chấp thuộc loại bị miễn trừ giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố giải quyết theo thủ tục được xác định trong tuyên bố đó”. Trung Quốc (là một trong số các nước thành viên) đưa ra tuyên bố miễn trừ đối với Điều 298 , nhưng Philippines (là quốc gia thành viên khác) lại không đưa ra tuyên bố mang tính miễn trừ đối với Điều 298 . Vì vậy, Philippines có quyền đưa ra yêu cầu trọng tài tới Tòa trọng tài Tòa trọng tài cũng có thể chấp nhận yêu cầu này. Trung Quốc có thể không chấp nhận việc xét xử của Tòa trọng tài và kết quả phán quyết, nhưng cũng không có cách nào bác bỏ tính hợp pháp của đơn kiện và thủ tục Trọng tài của Philippines.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây chính là lí do vì sao “Tuyên bố miễn trừ” của Trung Quốc không thể ngăn vụ việc được đưa ra xét xử.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chỉ ra là, Trung Quốc và ASEAN đã kí “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” (gọi tắt là “Tuyên bố”). Điều 1 của “Tuyên bố” quy định các nguyên tắc pháp luật quốc tế bao gồm cả Công ước là những chuẩn mực cơ bản điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia. Vì Công ước là quy tắc ứng xử cơ bản cho tất cả các bên tham gia Tuyên bố, nên việc Trung Quốc đưa ra tuyên bố miễn trừ đối với Công ước sau khi kí kết, tương đương với việc đơn phương làm tổn hại sự tôn trọng đối với Tuyên bố. Mặc dù Tuyên bố không có tính ràng buộc, nhưng về mặt đạo lí thì Trung Quốc gặp bất lợi. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khoản 4 Điều 288 Công ước về “thẩm quyền” quy định: “Trong trường hợp có sự tranh chấp về vấn đề một tòa hay một tòa án có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa đó quyết định”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, tòa có quyền quyết định cuối cùng đối với thẩm quyền.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, căn cứ vào Điều 9 Phụ lục VII về “vắng mặt” đã quy định: “Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra toà hoặc không trình bày các lí lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu toà tiếp tục thủ tục tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay một bên không trình bày các lí lẽ của mình không gây cản trở đối với trình tự tố tụng”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, việc Trung Quốc có tham gia hoặc có chấp nhận phán quyết hay không, không phải là yếu tố cần thiết để vụ trọng tài này có thể được tiến hành hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines có vi phạm thỏa thuận với Trung Quốc không?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng, “giải quyết các tranh chấp ở Nam Hải thông qua đàm phán là một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Philippines, Philippines không có quyền đơn phương yêu cầu thủ tục trọng tài bắt buộc”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việc Philippines nhờ trọng tài là đã vi phạm các cam kết với Trung Quốc, bao gồm: (1) “Các tranh chấp liên quan cần được giải quyết một cách hòa bình, hữu nghị </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thông qua tham vấn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau” trong “Tuyên bố chung giữa Trung Quốc và Philippines về tham vấn đối với vấn đề Nam Hải và các lĩnh vực hợp tác khác” ngày 10/8/1995.; (2) “Hai bên nỗ lực giữ gìn hòa bình và ổn định tại Nam Hải, đồng ý tuân theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thông qua hiệp thương hữu nghị và đàm phán</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giữa hai bên để thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp. Hai bên khẳng định tôn trọng Tuyên bố chung năm 1995 giữa Trung Quốc và Philippines về </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tham vấn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đối với vấn đề Nam Hải” như quy định tại Điều 9 “Tuyên bố chung giữa Philippines và Trung Quốc về khuôn khổ hợp tác song phương trong thế kỉ 21” năm 2000 ; (3) “Lãnh đạo hai nước trao đổi ý kiến về các tranh chấp trên biển, cho rằng không nên để tranh chấp trên biển ảnh hưởng tới đại cục hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Lãnh đạo hai nước khẳng định sẽ </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thông qua đối thoại hòa bình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> để xử lí tranh chấp, tiếp tục giữ gìn hòa bình, an toàn và ổn định của khu vực cũng như tạo dựng môi trường tốt đẹp để tăng trưởng kinh tế. Hai bên khẳng định tôn trọng và tuân thủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Nam Hải, được kí kết giữa Trung Quốc và các quốc gia ASEAN năm 2002” trong đoạn 5 “Tuyên bố chung Philippines – Trung Quốc” ngày 01/9/2011 ; (4) “Các bên có liên quan cam kết tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật quốc tế được công nhận, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các tranh chấp về lãnh thổ và quyền tài phán sẽ do các quốc gia có chủ quyền liên quan trực tiếp giải quyết bằng biện pháp hòa bình </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thông qua tham vấn và đàm phán hữu nghị</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực” trong điều 4 Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Nam Hải năm 2002.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng các tuyên bố song phương và đa phương này “theo cùng một mạch, tạo thành thỏa thuận giữa hai nước Trung Quốc và Philippines. Theo đó, hai nước có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua đàm phán”. Do đó, “đối với tất cả các vấn đề liên quan đến tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại Nam Hải, bao gồm cả vấn đề trọng tài do Philippines đề xuất, phương thức giải quyết tranh chấp được hai bên thống nhất là đàm phán, không bao gồm bất kì phương thức nào khác.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việc Philippines thông qua kiện tụng để giải quyết vấn đề là vi phạm nguyên tắc thành tín và thỏa thuận giữa hai bên. Vì điều này mà “Nhân dân nhật báo” cũng đặc biệt nhấn mạnh về tầm quan trọng của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “Đại diện của Philippines đã nói xằng bậy tại phiên tòa rằng ‘Tuyên bố từ trước đến nay chưa từng tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ’, chỉ là ‘biện pháp tạm thời’ để ‘thỏa hiệp lẫn nhau’, xuyên tạc con đường ‘giải quyết tranh chấp thông qua hiệp thương đàm phán hữu nghị’ mà các bên đã cùng cam kết lựa chọn, cho rằng cam kết này không có tính ràng buộc, và không đạt được bất kì kết quả mong đợi nào.” </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luận điểm này của phía Trung Quốc thiếu sự cân nhắc. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lịch sử hình thành của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (xem V.7) là bằng chứng rất ăn khớp với quan điểm của Philippines. Vào những năm 1990, Philippines và ASEAN đề xuất việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông. Nhưng Trung Quốc không muốn kí kết một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc, chỉ muốn kí kết một tuyên bố không có tính ràng buộc. Cuối cùng, các nước ASEAN đành phải thỏa hiệp để đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Vì vậy, như Ngoại trưởng Philippines đã nói, “Tuyên bố” đã trở thành biện pháp tạm thời không có tính ràng buộc pháp lí theo yêu cầu của Trung Quốc. Còn về các “tuyên bố” khác giữa Trung Quốc và Philippines đều mang mục đích chính trị, chưa chắc đã có tính ràng buộc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dù giữa Trung Quốc và Philippines đã từng có tuyên bố về giải quyết thông qua đàm phán, nhưng Trung Quốc luôn kiên trì đàm phán song phương, còn Philippines kiên trì đàm phán đa phương. Hai bên vì điều này đã nhiều lần trao đổi công hàm, nhưng cũng đã mấy chục năm vẫn chưa thể giải quyết. Vì vậy, giữa Trung Quốc và Philippines chưa hẳn đã đạt được sự đồng thuận về phương thức đàm phán. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế, bao gồm Philippines trong nhiều năm đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc giải thích định nghĩa của “đường 9 đoạn” trong nhiều dịp, nhưng vẫn chưa nhận được phản hồi chính thức. Vì vậy, trường hợp này phù hợp với tình hình “đã áp dụng phương pháp này mà vẫn chưa thể giải quyết”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mặc dù Tuyên bố đương nhiên đề xướng thông qua đàm phán hiệp thương để giải quyết tranh chấp, nhưng vào năm 2012, sau sự kiện bãi Scarborough, Philippines đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc tiến hành đàm phán, nhưng đều bị từ chối. Chính điều đó đã buộc Philippines phải dấn vào con đường trọng tài. Trung Quốc một mặt nói chỉ có thể thông qua đàm phán, mặt khác lại từ chối đàm phán, thực tế là muốn mượn “đàm phán” làm cái cớ nhằm cản trở các nước nhỏ giải quyết vấn đề thông qua các con đường hòa bình và hợp pháp khác. Thực tế là sau sự kiện bãi Scarborough, quan hệ Trung Quốc – Philippines đã xấu đi nghiêm trọng, mất đi cơ sở để tiếp tục đàm phán. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines có lạm dụng thủ tục tố tụng hay không? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một luận điểm khác của Trung Quốc là Philippines lạm dụng thủ tục tố tụng, tức là việc tố tụng là bất hợp pháp về thủ tục. Ví dụ, Tào Quân cho rằng: Việc Philippines đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế mà không bàn bạc trước với Trung Quốc là vi phạm “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông” năm 2002, và cũng vi phạm khoản 1, điều 281 Công ước về “Thủ tục phải tuân theo khi các bên không đạt được cách giải quyết”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đó là: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm cách giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, chỉ được áp dụng thủ tục quy định trong phần này khi không đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và khi thỏa thuận giữa các bên không loại trừ khả năng phải tiến hành một thủ tục khác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines còn đồng thời vi phạm điều 283 về “Nghĩa vụ về trao đổi quan điểm”: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1).</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết bằng thương lượng hay bằng các biện pháp hòa bình khác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2). </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu thủ tục giải quyết tranh chấp này kết thúc mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết; hoặc khi đã đạt được biện pháp giải quyết nhưng tình hình lại đòi hỏi phải trao đổi phương thức thực hiện thì các bên tranh chấp lập tức trao đổi ý kiến.” </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong Tuyên bố, quả thực có nêu: “Các bên liên quan cam kết tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế được công nhận, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các tranh chấp về lãnh thổ và quyền tài phán sẽ do các quốc gia có chủ quyền liên quan trực tiếp giải quyết bằng biện pháp hòa bình thông qua tham vấn và đàm phán hữu nghị, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Nhưng Trung Quốc đã từ chối đàm phán, thì có lí gì để cho rằng Philippines không có quyền tìm kiếm sự giúp đỡ từ Tòa án quốc tế. Hơn nữa, giải quyết thông qua Tòa án quốc tế cũng là biện pháp hòa bình. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hơn nữa, Điều 281 không quy định hai bên bắt buộc phải giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương. Cho dù giữa Trung Quốc và Philippines đã đồng ý “tự thỏa thuận lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp”, nhưng “áp dụng phương pháp này mà vẫn chưa thể giải quyết được” thì Philippines vẫn có quyền đưa vấn đề ra tòa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 283 quả thật quy định nghĩa vụ phải trao đổi quan điểm về các tranh chấp liên quan đến “việc giải thích hoặc áp dụng Công ước” chứ không phải về các đề mục tranh chấp cụ thể, nhưng không có yêu cầu rằng việc trao đổi quan điểm phải được thực hiện trước khi đưa ra trọng tài. Huống hồ giữa Philippines và Trung Quốc quả thực đã trao đổi ý kiến. Ví như Tổng thống Aquino III đã nhiều lần tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là bất hợp pháp, nhưng Trung Quốc cũng nhiều lần bày tỏ: Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh chấp đối với quần đảo Nam Sa và các vùng biển xung quanh. Aquino cũng nhiều lần tuyên bố việc tàu Trung Quốc quấy nhiều hoạt động của tàu Philippines, nhưng Trung Quốc nhiều lần bày tỏ rằng có quyền tài phán đối với những vùng biển này. Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines nhiều lần đưa ra các tuyên bố tương tự tại các hội nghị quốc tế. Tào Quân cho rằng trong tham vấn ngoại giao giữa Trung Quốc và Philippines chưa chắc đã có việc hai bên trao đổi ý kiến (việc này tác giả chưa thể xác nhận), nhưng việc trao đổi ý kiến không chỉ giới hạn ở một hình thức là tham vấn ngoại giao giữa hai bên. Tuyên bố của Tổng thống, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines cũng như việc bày tỏ thái độ của các cơ quan liên quan của Trung Quốc cũng là một hình thức trao đổi ý kiến. Thực tế là Philippines đã nhiều lần thông báo cho Trung Quốc và yêu cầu đàm phán, nhưng Trung Quốc kiên quyết từ chối, đồng thời còn “chỉ trích” Philippines tại các cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả trọng tài về thẩm quyền </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 29/10/2015, Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết về vấn đề thẩm quyền và khả năng thụ lí: xác định có thẩm quyền xét xử đối với các yêu cầu khiếu kiện số 3, 4, 6, 7, 10, 11 và 13 mà Philippines đưa ra; gác lại vấn đề thẩm quyền đối với các yêu cầu khiếu kiện số 1, 2, 5, 8, 9, 12 và 14 cho đến giai đoạn thực tế mới xem xét; yêu cầu Philippines làm rõ nội dung và thu hẹp phạm vi của yêu cầu khiếu kiện số 15, và cũng gác lại vấn đề thẩm quyền đối với yêu cầu tố tụng này đến giai đoạn vấn đề thực thể mới xét đến. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc Trung Quốc cho rằng “Philippines không tuân thủ thỏa thuận” và “lạm dụng tố tụng” đã bị bác bỏ. Tòa trọng tài cho rằng: Tuyên bố giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002 cũng như một loạt các tuyên bố giữa Trung Quốc và Philippines đều là thỏa thuận chính trị, không có tính ràng buộc pháp lí. Các tuyên bố này không hề quy định một cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính ràng buộc và cũng không loại trừ các phương thức giải quyết khác. Về nghĩa vụ “trao đổi ý kiến”, Tòa trọng tài cho rằng một số hồ sơ thư từ ngoại giao mà Philippines đưa ra đã đáp ứng được yêu cầu này: “Philippines đã thể hiện rõ ràng ưu tiên đàm phán đa phương, có sự tham gia của các quốc gia xung quanh khu vực biển Đông, còn Trung Quốc thì kiên trì quan điểm đối thoại song phương”. Tòa cũng cho rằng: “Philippines đã tìm cách để đàm phán với Trung Quốc, hơn nữa còn bày tỏ rằng luật pháp quốc tế đã được chấp nhận rộng rãi không yêu cầu một quốc gia phải tiếp tục tiến hành đàm phán khi thấy rằng khả năng giải quyết tranh chấp bằng thương lượng đã cạn kiệt”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về cáo buộc “lạm dụng tố tụng” của Trung Quốc đối với Philippines, “Tòa Trọng cho rằng sẽ hợp lí hơn khi coi những lo ngại của Trung Quốc về thẩm quyền tài phán của Tòa như là một sự phản đối ban đầu”. Có nghĩa là, nếu như Trung Quốc đưa ra những lập luận này trong giai đoạn đầu của vụ trọng tài (trước khi các quy định tố tụng áp dụng cho vụ kiện trọng tài được thông qua vào ngày 30/8/2013), các ý kiến này sẽ được xem xét nghiêm túc hơn. Nhưng lúc đó Trung Quốc không tham gia, cũng không công bố “Tài liệu lập trường”, vì vậy nó không thể dùng làm một điểm tranh tụng có sức mạnh trong giai đoạn hiện tại. Có thể thấy rằng, chiến thuật không tham gia của Trung Quốc đã gây ra tình huống bất lợi tương đối nghiêm trọng. Về tuyên bố miễn trừ của Trung Quốc và luận điểm cho rằng vấn đề biển Đông thực chất là tranh chấp chủ quyền, Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết tương tự với phân tích của tác giả, cho rằng vụ kiện do Philippines đưa ra không liên quan đến chủ quyền, cũng không phải là phân giới biển, vì vậy Tuyên bố miễn trừ của Trung Quốc không thể cản trở thẩm quyền của Tòa trọng tài. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với Philippines, dù phán quyết không phải là thắng lợi trọn vẹn, nhưng cũng có thể coi là thắng lợi lớn. Việc bác bỏ thẩm quyền của Tòa trọng tài được cho là pháo đài vững chắc nhất của Trung Quốc. Một khi vượt qua được cửa ải này, hy vọng giành chiến thắng của Philippines tại đa số các yêu cầu tố tụng tăng lên mạnh mẽ.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.10. Tranh chấp vùng nhận dạng phòng không và đường 9 đoạn </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng ý xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông” </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khủng hoảng bãi Cỏ Mây, quan hệ Trung Quốc – ASEAN hết sức căng thẳng. Để làm dịu quan hệ này và mâu thuẫn đảo Điếu Ngư (Senkaku) giữa Trung Quốc với Nhật Bản, đồng thời hy vọng chuyến thăm Mĩ của Tập Cận Bình có thể đạt được sự đồng thuận về “quan hệ nước lớn kiểu mới”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong nửa cuối năm 2013, thái độ Trung Quốc đối với vấn đề biển Đông dịu xuống. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Diễn đàn Shangri – La đầu tháng 6/2013, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Thích Kiến Quốc nhắc lại thái độ của Trung Quốc đối với vấn đề đảo Điếu Ngư là “gác tranh chấp”. Ngụ ý sâu xa là cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư nghiêm trọng hơn nhiều so với vấn đề biển Đông, nếu có thể gác tranh chấp về vấn đề đảo Điếu Ngư thì không lí do gì lại không thể làm như vậy đối với biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 16/5/2013, Trung Quốc đơn phương vạch ra khu vực cấm đánh bắt cá tại biển Đông, giới hạn khu vực này chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh bắt cá truyền thống theo tuyên bố của Việt Nam, khiến phía Việt Nam phản đối. Ngày 20/5, tàu cá Việt Nam QNg 90917 TS bị tàu hải cảnh Trung Quốc đâm hỏng. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc bồi thường và cam kết không để xảy ra những vụ việc tương tự. Quan hệ Trung – Việt trở nên căng thẳng. Nhưng, từ ngày 19-21/6, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Bắc Kinh, hai nước đạt được một loạt hiệp định hợp tác và ra “Tuyên bố chung Trung – Việt”. Phần liên quan đến biển Đông trong tuyên bố này như sau: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về các vấn đề trên biển, nhất trí việc lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên sẽ nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, sử dụng tốt các cơ chế như đàm phán biên giới lãnh thổ cấp Chính phủ..., kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... Trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng giữa Bộ Ngoại giao hai nước để quản lí, kiểm soát khủng hoảng trên biển, xử lí thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt - Trung cũng như hòa bình, ổn định tại biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông”.</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, hai bên còn kí “Hiệp định thiết lập đường dây nóng giữa Bộ Nông nghiệp Trung Quốc và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về những sự việc đột xuất trong hoạt động nghề cá”. Theo giải thích của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam Cao Đức Phát, Hiệp định này “đảm bảo chắc chắn cho an toàn và lợi ích chính đáng của ngư dân (Việt Nam) tiến hành hoạt động đánh bắt cá hợp pháp trên biển, tránh xảy ra sự cố, ảnh hưởng đến đời sống của ngư dân hai nước.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên cạnh đó, hành động quan trọng nhất của Trung Quốc là điều chỉnh quan hệ với ASEAN, nhượng bộ trước các vấn đề lớn. Ngày 30/6, trong một loạt Tuyên bố chung Trung Quốc – ASEAN được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Brunei có phần liên quan đến biển Đông như sau: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các bên hoan nghênh các trao đổi tích cực giữa Trung Quốc và các nước ASEAN để duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông, tái khẳng định tầm quan trọng của sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ASEAN trong lĩnh vực này, đồng thời nhấn mạnh rằng Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở biển Đông cần được thực thi đầy đủ và hiệu quả, tiến bộ vững chắc trên cơ sở đồng thuận, thúc đẩy việc đạt được “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các bên hoan nghênh việc tổ chức Hội nghị cấp cao nhân 6 năm thực hiện “Tuyên bố” và cuộc họp Nhóm công tác chung lần thứ 9 tại Trung Quốc vào tháng 9 năm nay. Tại Hội nghị, các bên sẽ trao đổi ý kiến sâu về việc thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố” và tăng cường hợp tác trên biển, đồng thời bàn thảo về “Bộ Quy tắc (ứng xử)” trong khuôn khổ “Tuyên bố”. Các bên còn nhất trí các bước thành lập “Nhóm chuyên gia có tiếng”, trợ giúp cho việc bàn thảo nói trên. Các bên cho rằng Trung</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và các nước ASEAN hoàn toàn có quyết tâm và khả năng xây dựng biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điểm quan trọng nhất trong Tuyên bố chung này là, lần đầu tiên Trung Quốc đồng ý cùng các nước ASEAN xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông” và ấn định thời điểm bắt bàn thảo về bộ quy tắc này vào tháng 9. Các nước ASEAN luôn hy vọng tiến tới kí kết thỏa thuận “Bộ quy tắc ứng xử” ở trên cơ sở “Tuyên bố” vốn không mang tính ràng buộc pháp lí. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn bác bỏ với lí do trước hết phải thực hiện Tuyên bố. Tháng 11/2012, ASEAN có ý định xúc tiến lần nữa “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông”, Trung Quốc vẫn từ chối đưa ra thời gian biểu cho việc xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử”. Trong Tuyên bố chung Trung – Việt nêu ở phần trên cũng chỉ đề cập đến việc thực hiện “Tuyên bố”. Vì vậy, lần chuyển biến này của Trung Quốc (6/2013) được coi là một thắng lợi lớn của các nước ASEAN trong vấn đề biển Đông, dù cho bước đi tiếp sau rất chậm trễ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điểm gai góc nhất trong vấn đề biển Đông là Trung Quốc và các nước ASEAN có thống nhất được phương thức hiệp thương đa phương hay không. Theo truyền thống, Trung Quốc nhấn mạnh việc giải quyết vấn đề song phương giữa các nước có tranh chấp, còn các nước ASEAN ủng hộ phương thức cả khối ASEAN đàm phán với Trung Quốc. Về mặt này, Trung Quốc có vẻ có nhượng bộ, vì rằng Tuyên bố chung Trung – Việt có nhắc lại “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam” kí ngày 11/10/2011, trong đó có nêu: “Đối với những vấn đề tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên sẽ giải quyết bằng đàm phán và thương thảo hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác thì sẽ tiến hành đàm phán với các bên tranh chấp đó.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ở đây không viết rõ chủ ngữ của “ tiến hành đàm phán với các bên tranh chấp đó”, là một trong hai bên Trung Quốc và Việt Nam hay cả hai bên Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng từ văn bản có thể thấy, chủ ngữ của vế trước là “hai bên” nên chủ ngữ của phần này là “hai bên” thì thích hợp hơn. Nếu đúng như vậy thì điều đó tương đương với Trung Quốc chấp nhận phương án đàm phán đa phương. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, trong nửa cuối năm 2013, ngoại giao Trung Quốc về biển Đông (và biển Hoa Đông) bỗng trở nên lí tính hơn. Nhưng, ngay trong lúc quan hệ Trung Quốc – ASEAN dịu đi thì tranh chấp về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) do cuộc khủng hoảng quần đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản dẫn tới, đột ngột kéo ASEAN khỏi Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khủng hoảng đảo Điếu Ngư (Senkaku) và tranh chấp về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 2013, giữa Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư. Nói một cách đơn giản, dãy đảo Điếu Ngư (gọi tắt là đảo Điếu Ngư) là quần đảo nhỏ nằm giữa khu vực Đông Bắc đảo Đài Loan và phía Tây đảo Ryukyu (Lưu Cầu) Nhật Bản, bao gồm đảo chính là Điếu Ngư; hai đảo nhỏ phía Bắc và phía Nam gần đó; đá Hoàng Vỹ phía đông bắc đảo Điếu Ngư, và đá Xích Vĩ ở xa hơn về phía Đông, tổng diện tích không quá 7 km². Sau Thế chiến II, đảo Điếu Ngư do chính quyền Ryukyu thuộc Mĩ quản lí, năm 1972 được trả lại cho Nhật Bản quản lí cùng với đảo Ryukyu, theo “Hiệp ước trao trả Okinawa”. Trước lúc Mĩ và Nhật Bản đạt được Hiệp ước thì Đài Loan và Trung Quốc đột nhiên tuyên bố Điếu Ngư xưa nay thuộc về Trung Quốc, tranh chấp đảo mở ra. Năm 1970, khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc và Nhật Bản đã ngầm thỏa thuận không để Điếu Ngư ảnh hưởng đến quan hệ hai bên, giữ nguyên hiện trạng quản lí của Nhật Bản. Ngày 12/9/2012, phớt lờ sự phản đối của Chính phủ Trung Quốc, Chính phủ Nhật Bản đã “quốc hữu hóa” đảo Điếu Ngư, nghĩa là chuyển quyền tài sản từ tay tư nhân sang tay Chính phủ. Việc này gây sự phản đối mạnh mẽ từ chính phủ Trung Quốc cũng như các cuộc biểu tình chống Nhật quy mô lớn trong dân chúng. Từ đó, quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản kết thúc thời kì “nồng ấm”, bước vào tình trạng đối kháng gay gắt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp đảo Điếu Ngư đem đến sự thay đổi chấn động đối với Đông Á và Đông Nam Á. Trước hết, nó làm gia tăng tình thế đối kháng và xáo trộn ở Đông Á và Đông Nam Á. Thứ hai, Chính phủ của Đảng Dân chủ Nhật Bản bị công kích kịch liệt, trong cuộc tổng tuyển cử tháng 12, Noda Yoshihiko bị thất cử, Abe Shinzo thuộc phái cứng rắn kế nhiệm Thủ tướng. Để đối phó với Trung Quốc, Abe đề xuất: (1) Vòng cung dân chủ, chủ trương liên kết Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Ấn Độ là các quốc gia có chung quan điểm giá trị về dân chủ để chống lại Trung Quốc; (2) dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể của Nhật Bản, trở ngại lớn nhất đối với đề xuất này là phái tự do trong nước Nhật (chủ nghĩa hòa bình), nhưng trước sự đe dọa từ thái độ cứng rắn của Trung Quốc, đặc biệt là việc Trung Quốc nhanh chóng mở rộng quân đội, kích động lòng căm thù Nhật Bản, tàu công vụ không ngừng tiến vào vùng biển Điếu Ngư, không muốn giải quyết tranh chấp bằng luật quốc tế, thiết lập ADIZ trái luật quốc tế và mưu đồ chia cắt Ryukyu, nên Abe và liên minh hai đảng Tự do và Dân chủ có thể điều khiển được Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, thông qua việc sửa đổi luật an ninh một cách thuận lợi vào năm 2015, dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (3) để giảm nhẹ áp lực trên biển Hoa Đông, Nhật Bản gia tăng sức mạnh ngoại giao tại khu vực biển Đông, tìm kiếm đồng minh để đẩy Trung Quốc khỏi tiêu điểm biển Hoa Đông; (4) biển Đông cũng là tuyến đường sống còn đối với Nhật Bản. Nhật Bản trở thành một lực lượng trọng yếu khác trong vấn đề biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ 9-12/11/2013, Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII. Hội nghị thông qua quyết nghị thành lập “Ủy ban An ninh quốc gia”, do Chủ tịch nước, Tổng bí thư đảng, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Tập Cận Bình làm Chủ tịch. Nó “không phải là cơ quan nhà nước”, cũng “không phải là ban ngành chính phủ”, mà là cơ quan lãnh đạo có quyền lực của Đảng Cộng sản, kết hợp an ninh đối ngoại với an ninh đối nội để thống nhất lãnh đạo chính trị, phối hợp giữa công an, cảnh sát vũ trang, tư pháp, Bộ an ninh quốc gia, Cục 2 và Cục 3 Bộ Tổng tham mưu quân giải phóng, Ban liên lạc Tổng cục Chính trị, Bộ Ngoại giao, Văn phòng tuyên truyền đối ngoại,...; lãnh đạo các lĩnh vực liên quan đến quân đội, công an, ngoại giao, tình báo. Ngày 23/11, Ủy ban An ninh quốc gia châm ngọn lửa đầu tiên – Trung Quốc đột nhiên đơn phương đề xuất việc thiết lập “vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ) trên biển Hoa Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hành động đó đã đẩy mâu thuẫn biển Hoa Đông lên một nấc mới. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ADIZ do Trung Quốc thiết lập có 4 đặc trưng quan trọng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thiết lập khá đột ngột, trước đó không hề trao đổi với bất kì quốc gia nào. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ADIZ của Trung Quốc chồng lấn với ADIZ của các nước và khu vực lân cận: chồng lấn với ADIZ của Nhật Bản trên diện tích lớn, chỗ gần Nhật Bản nhất chỉ có 130 km, đồng thời trùm hết đảo Điếu Ngư; chồng lấn với ADIZ của Hàn Quốc, trùm lên bãi đá Suyan (Tô Nham); cũng chồng lấn với ADIZ của Đài Loan. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, cũng là điểm quan trọng hơn, đó là nó khác với ADIZ mang tính giám sát của Mĩ và các nước, các khu vực lân cận. ADIZ của Trung Quốc mang tính kiểm soát, yêu cầu tất cả máy bay bay qua vùng này phải nộp kế hoạch bay cho Trung Quốc và chịu sự quản lí của lực lượng vũ trang Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khi mới tuyên bố, quan chức Trung Quốc đã rất cao giọng nhấn mạnh rằng việc thiết lập ADIZ có ý nghĩa to lớn và đột phá chuỗi đảo thứ nhất; phía quân đội còn tuyên bố Trung Quốc có quyền bắn rơi máy bay nước ngoài xâm nhập ADIZ mà không tuân theo sự quản lí của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách làm này đồng nghĩa với việc coi ADIZ là vùng cấm bay, làm chấn động thế giới và lập tức vấp phải hàng loạt phản đối. Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc, thậm chí Đài Loan đều phản ứng mạnh mẽ. Mĩ tuyên bố không thừa nhận ADIZ do Trung Quốc đơn phương thiết lập, đồng thời cho máy bay ném bom B52 bay trên vùng biển Hoa Đông. Quân đội Mĩ đưa ra chính sách “ba không” cứng rắn: không nộp kế hoạch bay, không thông báo trước qua vô tuyến, không cung cấp băng tần. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cũng cứng rắn tương tự, bay vào ADIZ của Trung Quốc nhưng không thông báo trước. Australia, Anh quốc và Philippines liên tiếp biểu thị thái độ rõ ràng không thừa nhận ADIZ của Trung Quốc. Dư luận các nước lớn khác như Nga, Ấn Độ và Châu Âu đều thể hiện thái độ lo lắng. Ban đầu, Nhật Bản và Hàn Quốc cấm máy bay dân dụng trong nước nộp kế hoạch bay khi không đi vào không phận Trung Quốc nhưng bay qua ADIZ của nước này. Tuy nhiên, sau khi máy bay dân dụng Mĩ muốn nộp kế hoạch bay vì sự an toàn (của chuyến bay) nên Nhật Bản và Hàn Quốc có chút thay đổi, cho phép máy bay dân dụng tự quyết định có nộp kế hoạch hay không. Các nước lập tức tính đến biện pháp chống đối. Sau khi yêu cầu Trung Quốc xoá bỏ ADIZ chồng lấn với mình không thành, Hàn Quốc tuyên bố mở rộng ADIZ, bao gồm cả đảo Suyan (Tô nham / Ieodo), có phạm vi đồng nhất với vùng thông tin bay (Flight Information Region) của Hàn Quốc. Hàn Quốc còn chuẩn bị nâng cấp ADIZ vốn không cần nộp kế hoạch bay thành vùng nhận dạng phải báo cáo trước như kiểu Trung Quốc. Tình hình biển Hoa Đông đột nhiên nóng lên. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi bị các nước liên tục phản dối và phớt lờ, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đành tuyên bố lại: ADIZ không phải là không phận, không phải vùng cấm bay, không ảnh hưởng tới quyền tự do hàng không của các nước, v.v... Tuy nhiên, cách nói này rõ ràng ngược lại với quy định luật pháp của Trung Quốc và sự cao giọng ban đầu của Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Do Trung Quốc cứng đầu không chịu sửa đổi, còn các hãng hàng không dân dụng các nước vì lo ngại đến an toàn của hành khách nên cũng đành phải chịu theo quy định của Trung Quốc, nhưng điều đó càng làm tăng hình ảnh “bá đạo” của Trung Quốc trên trường quốc tế. Mặt khác, quân đội Mĩ, Nhật Bản và Hàn Quốc đều phủ nhận quyền kiểm soát ADIZ của Trung Quốc bằng thái độ cứng rắn và hành động thực tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, việc Trung Quốc đột ngột và đơn phương thiết lập ADIZ có tính kiểm soát vi phạm luật pháp quốc tế là một sai lầm lớn. Về đối ngoại, hành động này đã đẩy các nước đi ngược chiều với Trung Quốc; về đối nội, nó làm cho dân chúng đang cực kì hưng phấn bỗng trở nên thất vọng, quay sang chế nhạo và không tin tưởng Chính phủ. Ngay đến một số học giả ủng hộ lập trường Trung Quốc cũng phải thừa nhận: đây là hành động “nông cạn”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tình thế biển Đông và biển Hoa Đông vốn đã có dấu hiệu dịu lại, nhưng ngay khi hành động này vừa đưa ra, cả khu vực lại rơi vào căng thẳng. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật quốc tế về vùng nhận dạng phòng không </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý định thiết lập ADIZ được Trung Quốc ấp ủ từ lâu. Các nước lân cận như Hàn Quốc (1950), Nhật Bản (1969) và Đài Loan đã sớm thiết lập ADIZ. Do đó, việc Trung Quốc muốn thiết lập vùng nhận dạng phòng không của riêng mình cũng không có gì sai trái. Vấn đề ở chỗ, ADIZ có tính kiểm soát do Trung Quốc thiết lập mâu thuẫn nghiêm trọng với luật quốc tế, đây cũng là nguyên nhân khiến các nước trên thế giới phản đối. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn từ góc độ luật quốc tế, ADIZ của Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan theo kiểu giám sát. Trước hết, họ phân biệt rõ máy bay quân sự và máy bay dân dụng. Máy bay dân dụng nước ngoài khi bay vào ADIZ thì phải thông báo đầy đủ và chịu sự quản lí; nhưng máy bay quân sự nước ngoài, trừ phi muốn bay vào không phận (nước sở tại) thì phải báo cáo còn nếu chỉ bay qua ADIZ mà không bay vào không phận thì không cần thông báo và không chịu sự quản lí. Đương nhiên, trong tình huống cần thiết, máy bay quân sự nước sở tại sẽ căn cứ vào chỉ dẫn nội bộ về ADIZ để tiến hành giám sát, bay cùng hoặc ngăn chặn máy bay quân sự nước ngoài bay vào ADIZ. Nhưng về mặt pháp lí, đây chỉ là hành động chỉ dẫn đối với máy bay quân sự nước sở tại chứ không phải nghĩa vụ áp đặt lên máy bay quân sự nước ngoài. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ví dụ, về định nghĩa pháp lí, đối tượng áp dung của ADIZ Mĩ chỉ là máy bay dân dụng. Trong “Bộ quy tắc liên bang” (Code of Federal Regulations) Phần 99 Kiểm soát an toàn không lưu (PART 99 - SECURITY CONTROL OF AIR TRAFFIC) có định nghĩa: “Vì lợi ích an ninh quốc gia, máy bay dân dụng phải sẵn sàng khai báo lai lịch, báo cáo vị trí và và chấp nhận vùng trời có sự quản lí” (Air defence identification zone means an area of airspace over land or water in which the ready identification, location, and control of civil aircraft is required in the interest of national security: vùng nhận dạng phòng không là phạm vi vùng trời trên đất liền hoặc trên biển, đòi hỏi máy bay dân dụng đi vào vùng này phải được nhận dạng, xác định vị trí và chịu sự kiểm soát vì lợi ích an ninh quốc gia).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có thể thấy, đây là vùng trời cho đối tượng máy bay dân dụng. Tương tự, các chi tiết cụ thể trong quy định đều nhằm vào máy bay dân dụng chứ không phải máy bay quân sự. Đồng thời, đơn vị quản lí là Cục quản lí bay Liên bang (Federal Aviation Administration) thuộc Bộ giao thông. Vì thế, quy định về chế độ quản lí ADIZ đối với máy bay nước ngoài của Mĩ đều nhằm vào máy bay dân dụng, không có yêu cầu pháp lí như vậy đối với máy bay quân sự nước ngoài. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với máy bay quân sự, Mĩ tuyên bố: “Mĩ không thừa nhận quyền của các quốc gia ven biển áp dụng thủ tục ADIZ đối với thiết bị bay nước ngoài không có dự định bay vào không phận của nước sở tại, cũng không áp dụng thủ tục này của Mĩ đối với thiết bị bay nước ngoài không có dự định bay vào không phận nước Mĩ. Cũng như vậy, các thiết bị bay của Mĩ nếu không có dự định bay vào không phận nước khác, cũng không cần khai báo lai lịch của mình hay tuân thủ thủ tục ADIZ do nước khác quy định, trừ khi Mĩ đồng ý làm như vậy.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cũng có nghĩa là, nếu máy bay quân sự nước ngoài muốn bay vào không phận nước Mĩ thì phải báo cáo và chịu sự quản lí của cơ quan quản lí Mĩ; nhưng nếu máy bay quân sự nước ngoài chỉ bay qua ADIZ mà không bay vào không phận Mĩ thì không phải chịu sự quản lí của Mĩ. Điều đó phù hợp với luật quốc tế về tự do hàng không trong vùng trời quốc tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản không có bất kì yêu cầu nào đối với máy bay quân sự nước ngoài khi bay vào ADIZ, nhưng có giám sát hoặc điều máy bay bay kèm. Máy bay quân sự Trung Quốc đã nhiều lần bay vào ADIZ Nhật Bản và đều không có thông báo trước, càng không chịu sự chỉ huy của quân đội Nhật Bản, và Nhật Bản cũng không cho rằng máy bay quân sự Trung Quốc vi phạm luật pháp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngược lại, tuy Trung Quốc dùng đầy đủ danh từ “vùng nhận dạng phòng không” để đặt tên cho ADIZ do mình thiết lập, nhưng đã mở rất rộng đáng kể ý nghĩa pháp lí của nó. Mĩ thiết lập ADIZ là để điều chỉnh hành vi máy bay quân sự của nước mình, chẳng hạn khi có máy bay quân sự nước ngoài bay qua ADIZ thì máy bay quân sự họ cần ứng phó ra sao, thực chất là giám sát khu vực này. Nhưng ADIZ của Trung Quốc lại là để điều chỉnh hành vi của máy bay quân sự nước ngoài, cũng tức là muốn kiểm soát khu vực này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 2 trong “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc thiết lập ADIZ trên Biển Hoa Đông” quy định:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông) phải tuân thủ quy tắc này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải cung cấp các phương thức nhận dạng dưới đây: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(i) Nhận dạng kế hoạch bay trong ngày. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải thông báo kế hoạch bay với Bộ Ngoại giao hoặc Cục hàng không dân dụng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(ii) Nhận dạng vô tuyến điện. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải mở và duy trì thông tin liên lạc vô tuyến hai chiều , trả lời kịp thời, chuẩn xác câu hỏi nhận dạng của cơ quan quản lí hoặc đơn vị được ủy quyền của vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(iii) Nhận dạng máy hỏi đáp. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải mở thiết bị ra đa hỏi đáp thứ cấp trong suốt hành trình bay. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(iv) Nhận dạng nhãn hiệu (logo). Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải hiển thị rõ quốc tịch và logo đăng kí nhận dạng, theo quy định liên quan của Công ước quốc tế, </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải phục tùng mệnh lệnh chỉ huy của cơ quan quản lí hoặc đơn vị được ủy quyền của vùng nhận dạng phòng không. Lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ lựa chọn các biện pháp phòng thủ để xử lí khẩn cấp đối với những thiết bị bay không hợp tác với việc nhận dạng hoặc không phục tùng mệnh lệnh chỉ huy của vùng nhận dạng phòng không. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo quy định này, tất cả máy bay, dù là nước ngoài hay trong nước, dù có dự định bay vào không phận Trung Quốc hay chỉ bay qua ADIZ đều phải tuân thủ quy định do Trung Quốc đơn phương đề ra: nộp trước kế hoạch bay, mở máy điện đàm trả lời, “đăng kí” logo nhận dạng, hơn thế phải phục tùng sự quản lí và mệnh lệnh chỉ huy của lực lượng vũ trang Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nước khác không thể chấp nhận những quy định này của Trung Quốc, vì vùng trời ở đó là vùng trời chung, Trung Quốc không có bất cứ quyền hạn nào để quy định phạm vi bay của máy bay quân sự nước ngoài không bay vào không phận Trung Quốc ở đó. Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc tiến hành nhiều cuộc diễn tập quân sự, tuần tra và các hoạt động khác tại khu vực chung này, chẳng lẽ đều phải nộp kế hoạch trước cho Trung Quốc và chịu sự quản lí của quân đội Trung Quốc sao?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước sự phê phán của các nước, Trung Quốc buộc phải thừa nhận cách làm theo kiểu “phương thức kiểm soát” này thực sự đã vượt qua quy định của vùng nhận dạng Mĩ, Nhật Bản, nhưng vẫn biện hộ rằng chưa có thỏa thuận quốc tế nào về ADIZ nên cách làm của Trung Quốc cũng không đi ngược quy định quốc tế. Cách giải thích này rõ ràng là sai lầm. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù không có sự thống nhất về khái niệm ADIZ trong luật pháp quốc tế, nhưng có thể thông qua quy định về vùng đặc quyền kinh tế nêu trong “Công ước luật biển Liên Hiệp quốc” để lượng định. Điều 58 trong Công ước quy định, máy bay nước ngoài có quyền bay tự do trên vùng trời của vùng đặc quyền kinh tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu như máy bay nào cũng phải nộp trước kế hoạch bay và phục tùng sự quản lí cùng mệnh lệnh chỉ huy của cơ quan quân sự nước ven biển thì tức là đã đi ngược với quy định về quyền tự do hàng không. Vì ADIZ do Trung Quốc vạch ra bao trùm lên vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc nên quy định liên quan rõ ràng đã vi phạm Công ước. Vì vậy, việc Trung Quốc thiết lập ADIZ theo cách này là không đếm xỉa đến luật và quy chuẩn quốc tế, đơn phương mở rộng phạm vi kiểm soát trên không, biến vùng trời chung rộng lớn thành vùng trời do Trung Quốc quản lí, biến vùng trời quốc tế thành gần như không phận (chuẩn lãnh không). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay đối với máy bay dân dụng, quy định của Trung Quốc cũng có vấn đề. Vì lí do an toàn của hành khách, luật quốc tế có cách xử lí khác đối với máy bay dân dụng. Rất nhiều nước (kể cả Mĩ) đều quy định rõ khi máy bay dân dụng bay vào ADIZ phải nộp báo cáo chuyến bay và nhận dạng của nó. Quy định của Trung Quốc bề ngoài cũng tương tự như vậy, nhưng phân tích kĩ thì không khó nhận ra Trung Quốc thực ra đã vi phạm luật quốc tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổ chức Hàng không dân dụng (International Civil Aviation Organization) thuộc Liên Hiệp quốc đã phân định tất cả vùng trời trên thế giới, mỗi vùng trời được gọi là vùng thông tin bay (Flight Information Region, FIR). Phạm vi của những FIR này được hình thành qua quá trình hiệp thương quốc tế rộng rãi (Trung Quốc cũng tham gia), được quốc tế công nhận, có hiệu lực quốc tế. Khi bay vào mỗi FIR, máy bay dân dụng phải báo cáo kế hoạch bay với nước có vùng thông tin bay theo quy định, duy trì liên lạc và thông báo với đơn vị quản lí. Các biện pháp này đều nhằm bảo vệ an toàn cho máy bay dân dụng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện tại, các quốc gia đã thiết lập ADIZ, chẳng hạn như Hoa Kì, Nhật Bản và Hàn Quốc, về cơ bản có ADIZ của họ trong FIR do Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế phân định. Phạm vi FIR của Mĩ hầu như bao trùm toàn bộ vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, nhưng ADIZ chỉ là một phần nhỏ trong đó. Ranh giới FIR của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông về cơ bản trùng với ADIZ của nước này, nhưng nó nhỏ hơn nhiều so với FIR của Nhật Bản ở khu vực Thái Bình Dương. ADIZ của Hàn Quốc trước khi mở rộng cũng nhỏ hơn FIR. Nghĩa là, giả sử các nước này không thiết lập ADIZ thì khi máy bay dân dụng bay qua khu vực này cũng đã phải có nghĩa vụ báo cáo kế hoạch bay và chịu sự quản lí. Vì vậy, yêu cầu máy bay dân dụng báo cáo kế hoạch bay và chịu sự quản lí khi bay vào ADIZ không trái với luật quốc tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, phạm vi ADIZ được Trung Quốc thiết lập trên biển Hoa Đông rõ ràng vượt quá ranh giới FIR do Tổ chức quốc tế phân định, chồng lấn với FIR của Hàn Quốc và Nhật Bản trên diện rộng. Tại các vùng vượt quá giới hạn đó, máy bay dân dụng vốn chỉ phải báo cáo kế hoạch và chịu sự quản lí của Hàn Quốc hoặc Nhật Bản thì nay lại chịu thêm sự quản lí của Trung Quốc. Vì thế, cách làm của Trung Quốc vi phạm quy hoạch thống nhất của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế, đơn phương mở rộng vùng kiểm soát của mình đối với máy bay dân dụng, vừa không thông qua quá trình hiệp thương với Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế theo trình tự thông thường để điều chỉnh vùng (nhận dạng), vừa không tiến hành thương thảo với bất kì quốc gia nào. Đây cũng là lí do tại sao ban đầu Nhật Bản và Hàn Quốc không cho phép máy bay dân dụng báo cáo với Trung Quốc, cũng là lí do Nhật Bản dọa kiện Trung Quốc với Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc khi đáp trả một mặt nhấn mạnh rằng máy bay dân dụng không bị ảnh hưởng, mặt khác lại nhấn mạnh nếu không tuân thủ quy định của Trung Quốc thì có thể nảy sinh phán đoán sai.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự thật, đây là một kiểu uy hiếp an ninh máy bay dân dụng. Trước sự uy hiếp đó, xuất phát từ lo lắng về an ninh bay dân dụng, Mĩ và Hàn Quốc mới lần lượt cho phép công ty hàng không dân dụng báo cáo kế hoạch bay cho Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, về mặt luật pháp quốc tế, ADIZ của Trung Quốc rõ ràng vi phạm luật quốc tế. Trung Quốc không phân biệt máy bay quân sự với máy bay dân dụng. Trung Quốc quy định máy bay quân sự nước ngoài phải gửi kế hoạch bay trước và chịu sự quản lí, chỉ huy của quân đội Trung Quốc, biến vùng trời chung thành gần như không phận, vi phạm quy định về tự do hàng không trong luật quốc tế. Đối với máy bay dân dụng quốc tế, thực chất Trung Quốc đã mở rộng FIR của mình vào trong FIR đã có sẵn của nước khác, vi phạm quy định và thủ tục của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông và tranh chấp đường 9 đoạn</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Trung Quốc thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông, điều mà các nước Đông Nam Á thêm phần lo ngại là liệu Trung Quốc có thiết lập ADIZ ở biển Đông hay không. Mặc dù người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố chưa có kế hoạch thiết lập ADIZ trên biển Đông nhưng phía quân đội Trung Quốc lại cố ý thể hiện rằng sau này sẽ thiết lập vùng nhận dạng ở biển Đông. “Đây là nhu cầu lợi ích lâu dài của Trung Quốc”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Dương Vũ Quân nói: “Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị liên quan, nước chúng tôi sẽ chọn thời điểm thích hợp để thiết lập vùng nhận diện phòng không khác.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 30/12/2013, 10 nước ASEAN tập trung đông đủ tại Nhật Bản để tổ chức Hội nghị cấp cao đặc biệt Nhật Bản – ASEAN, ra tuyên bố chung: “Hai bên sẽ tăng cường hợp tác và đảm bảo quyền tự do bay và an toàn hàng không dân dụng phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và các tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù Hội nghị không phê phán rõ ADIZ của Trung Quốc, nhưng sự tham gia Hội nghị của các nước ASEAN đã biểu thị rõ thái độ. Mĩ cũng nhanh chóng thể hiện thái độ, ngày 17/12, ngoại trưởng Kerry đã cảnh báo Trung Quốc không nên thiết lập ADIZ ở biển Đông tương tự như trên biển Hoa Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, báo “Asahi Shimbun” Nhật Bản ngày 17/12 dẫn nguồn tin giấu tên cho biết các sĩ quan Không quân Trung Quốc đã soạn thảo kế hoạch thiết lập một ADIZ mới ở biển Đông. ADIZ mới sẽ lấy quần đảo Hoàng Sa làm trung tâm và mở rộng đến các vùng biển rộng lớn xung quanh, phạm vi lớn nhất có thể bao phủ trên một nửa biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Ngoại Giao Mĩ lập tức ra tuyên bố, gọi việc vạch ra ADIZ ở biển Đông “là hành vi khiêu khích đơn phương”. Về việc này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi bày tỏ, “Là quốc gia có chủ quyền, Trung Quốc hoàn toàn có quyền căn cứ vào tình hình an ninh trên không phải đối diện để lựa chọn mọi biện pháp, bao gồm cả việc thiết lập ADIZ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, không ai có quyền xuyên tạc”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Người phát ngôn Bộ Quốc phòng – Thượng tá Dương Vũ Quân chỉ trích đây là hành động “cố tình cường điệu hóa” của thế lực cánh hữu Nhật Bản, cho rằng “mục đích của họ là phân tán sự chú ý của quốc tế”, và có “động cơ đen tối”; ông ta còn nói “Trung Quốc có thiết lập ADIZ ở biển Đông hay không chủ yếu còn xem xét tình hình khu vực có căng thẳng hay không và mối đe dọa đối với an ninh quốc gia Trung Quốc có tăng cao hay không.” Điều đó có vẻ ngầm muốn nói rằng Trung Quốc tạm thời chưa thiết lập vùng nhận diện phòng không biển Đông. Học giả quan hệ quốc tế Đài Loan Trần Nhất Tân cho rằng: trong ngắn hạn thì chưa nhưng không có nghĩa là cũng sẽ không làm trong dài hạn; hơn thế, một ý ngầm khác là, nếu Mĩ không chọc ngoáy vào khu vực hoặc không làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, Trung Quốc có thể sẽ không thiết lập ADIZ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thiết lập ADIZ ở biển Đông còn phức tạp hơn ở biển Hoa Đông, vì: (1) liên quan tới nhiều nước hơn, ngoài Việt Nam và Philippines có quan hệ biển căng thẳng với Trung Quốc, vẫn còn có hai nước có quan hệ tốt với Trung Quốc như Malaysia và Indonesia. Một khi ADIZ được thiết lập, không thể tránh khỏi việc đẩy hai nước này rời xa Trung Quốc; (2) Khi đó, Trung Quốc còn chưa có điểm trú chân ở phía Nam biển Đông nên việc thiết lập ADIZ là điều khó khăn. Nhưng, khó khăn đó đã không còn nữa sau khi Trung Quốc xây đắp đảo với quy mô lớn; (3) Khó có thể nói chắc ADIZ có phủ kín đường 9 đoạn hay không. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù từ cuối thế kỉ XX đến nay, thế giới luôn yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn, nhưng Mĩ lại không thể hiện rõ thái độ. Thậm chí, khi đến thăm Singapore ngày 3/8/2013, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị còn cho rằng: “Yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn chỉ là kiểu xuyên tạc của một số nước.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc lộ rõ ý đồ thiết lập ADIZ biển Đông, Mĩ đã không thể im lặng trước vấn đề đường 9 đoạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 1/2014, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Trợ lí Ngoại trưởng phụ trách vấn đề Đông Á Daniel Russell bày tỏ với Trung Quốc những quan tâm của Mĩ về vấn đề biển Hoa Đông và biển Đông, bao gồm: (1) Trung Quốc hạn chế người Philippines tiếp cận bãi Scarborough; (2) gia tăng áp lực đối với Philippines về vấn đề bãi Cỏ Mây; (3) ngăn chặn các nước khác khai thác dầu tại biển Đông (thậm chí tại những khu vực cách xa các đảo mà Trung Quốc nhận là của mình); (4) tuyên bố kiểm soát những khu vực đang tranh chấp chủ quyền, thậm chí đưa chúng vào khu vực quân sự; (5) thực hiện các hành động nguy hiểm chưa từng có trong vùng biển phụ cận đảo Điếu Ngư; (6) đột nhiên đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông; (7) thay đổi quy định quản lí nghề cá trong khu vực đang tranh chấp tại biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/2, Russell đã giải thích quan điểm của chính phủ Hoa Kì về các vấn đề biển Hoa Đông và biển Đông tại một phiên điều trần trước quốc hội.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông cho biết: Mĩ không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng sẽ nỗ lực ủng hộ việc xử lí tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải thông qua phương thức hòa bình, ngoại giao và dựa theo luật quốc tế. Điều đó không những không châm ngòi nổ, mà còn đảm bảo những tranh chấp đó được khống chế bằng phương thức không đe dọa, không uy hiếp và không dùng vũ lực. Hơn thế, Mĩ đã nhiều lần nhấn mạnh tự do hàng hải tại biển Đông sẽ được bảo vệ bằng luật quốc tế chứ không phải bằng sự cho phép của bất cứ quốc gia nào. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Daniel Russell nghi ngờ rằng, “Trung Quốc đang cố tuyên bố với quốc tế rằng họ kiểm soát đường 9 đoạn ở biển Đông, mặc dù bị các nước láng giềng phản đối, bản thân họ không có lời giải thích nào hay làm rõ cơ sở luật pháp quốc tế của nó.” “Chủ trương đó gây ra sự không chắc chắn, mất an ninh và bất ổn trong khu vực.” Trung Quốc dựa vào “đường 9 đoạn” để tuyên bố quyền lợi biển là không phù hợp với nguyên tắc luật quốc tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Daniel Russell hối thúc Trung Quốc nói rõ hoặc điều chỉnh lập trường trong vấn đề này cho phù hợp với quy định luật biển quốc tế. Ông cũng chỉ ra rằng Trung Quốc và ASEAN đã đạt được quá ít tiến bộ trong việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Ông khuyến nghị các nước không được đơn phương làm thay đổi hiện trạng ở biển Đông, đồng thời tất cả các nước, không chỉ riêng Trung Quốc, làm rõ yêu sách của nước mình ở biển Đông theo luật pháp quốc tế. Đây là lần đầu tiên Mĩ thể hiện rõ thái độ chính thức về đường 9 đoạn, yêu cầu Trung Quốc giải thích lập trường về đường 9 đoạn ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vấn đề này, ngày 8/2, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã bày tỏ: “Quyền lợi của Trung Quốc ở biển Đông được hình thành trong lịch sử và được bảo vệ bằng luật quốc tế. Về tranh chấp biển với các nước liên quan, Trung Quốc luôn cam kết giải quyết thông qua đàm phán và thương lượng với các nước liên quan trực tiếp. Đồng thời, Trung Quốc coi trọng việc cùng các nước ASEAN gìn giữ hòa bình, ổn định biển Đông, thông qua việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”. Ông nhấn mạnh, “Lập trường nói trên của Trung Quốc là rõ ràng, nhất quán. Bịa đặt, phóng đại làm căng thẳng tình hình không giúp được gì cho hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á. Ý kiến có liên quan do một số quan chức phát biểu Mĩ tại phiên điều trần trước Quốc hội không phải là hành vi mang tính xây dựng. Chúng tôi thúc giục phía Mĩ có thái độ hợp lí, công bằng, và đóng góp vai trò có tính xây dựng vì hòa bình, ổn định và sự phát triển phồn vinh của khu vực chứ không phải ngược lại.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phát ngôn trên vẫn né tránh nói rõ lập trường Trung Quốc về đường 9 đoạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó vài tháng, yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn ngày càng mạnh mẽ hơn. Tháng 6, tại Đối thoại Shangri La, Phó Tổng tham mưu trưởng Vương Quán Trung nêu rõ: “Yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán ở biển Đông của Trung Quốc được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử lâu dài, từ thời nhà Hán cách đây hơn 2000 năm đã bắt đầu phát hiện và từng bước hoàn thiện việc quản lí đối với Nam Hải, đặc biệt là các đảo ở Nam Sa và các vùng biển xung quanh.” Tuyên bố này rõ ràng phù hợp thực tế, ngay lập tức làm dư luận náo động. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/2/2014, Bộ Ngoại giao Mĩ công bố văn bản: “Giới hạn biển: Yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông”, trọng tâm là luận chứng đường 9 đoạn, dựa trên việc so sánh bản đồ (Hình 75, Hình 76) và phân tích luật quốc tế, nhận thấy rằng yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông vừa không rõ ràng, vừa không nhất quán.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là tuyên bố chính thức về lập trường của Mĩ đối với đường 9 đoạn. Đường 9 đoạn không phù hợp luật quốc tế, Mĩ không thừa nhận đường 9 đoạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 510px; overflow: hidden; width: 384px;"><img height="510" src="https://lh4.googleusercontent.com/VarlXXKZm_UKO6HxIcfmroVqcbkpOyBKzT16SVrHXvbRDlqhcVINEXe3Mk1V3GgSGQx39mFHP5ks_09pHdIvucWu8c8fN5Q8wdc8MTjN-srEhgJsN7vj9METkZzC04P8hnsD_xYAq_EAFaY6jkCW1h4" style="margin-left: -1.71881px; margin-top: 0px;" width="387.43761123195566" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 75</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: So sánh đường 11 đoạn năm 1947 và đường 9 đoạn năm 2009</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 228px; overflow: hidden; width: 368px;"><img height="228" src="https://lh5.googleusercontent.com/y1glsT4NrSmRzkO9_VisO9-Lzfc7DUKY40ZsVp8XETnAJcaIaLnB7cnfpQeVIkWX2vGXNgyZuaMhVhuYqBFXwkdr-KAAlMX1owG1ZwImFQ6fIurr0Gmuil53_LTY6Hf3wLJ0IXR6HOSIaC62mcEoFbg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="368" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 76</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khoảng cách giữa đường 9 đoạn với các nước ven biển. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với việc này, Chính phủ Trung Quốc không xem xét nó một cách nghiêm túc mà còn củng cố thêm đường 9 đoạn. Trước năm 2014, đường 9 đoạn được vẽ trong khung nhỏ trên bản đồ Trung Quốc. Năm 2014, Trung Quốc xuất bản tấm bản đồ Trung Quốc mới dạng đứng (Hình 77), nó được vẽ theo tỷ lệ như bản đồ chính. Điều này làm nổi rõ ý đồ thể hiện khu vực trong phạm vi đường 9 đoạn thuộc Trung Quốc, hơn nữa đường 9 đoạn có thêm một đoạn nữa ở biển Hoa Đông , biến nó thành đường 10 đoạn, và đảo Điếu Ngư được vẽ nằm vào trong biên giới của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 364px; overflow: hidden; width: 263px;"><img height="364" src="https://lh4.googleusercontent.com/HT9abOGcUpHRF0bHjrKihuveD8rh-FmKawOTuSF6umKuILM2psTC9CbCpYv8viXNzBh0ftbI2EqLHYOLfnBUCLze_hRCXh_GL8RrUA9RJ18Vn4YociJ9-Tdg2r3tEGREaJoW3yS0r9lUBCHKYbkyNmA" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="263" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 77</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> : Bản đồ Trung Quốc dạng đứng</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.11. Sự kiện Giàn khoan HD 981 </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng như các nước ven biển khác, Trung Quốc thường khai thác dầu tại khu vực nước nông ven bờ biển Đông, tập trung ở Vịnh Bắc Bộ và vành đai cửa sông Châu Giang. Trước năm 2012, Trung Quốc thiếu công nghệ khoan thăm dò dầu mỏ trong vùng nước sâu. Năm 2008, Tổng Công ty Dầu mỏ Trung Quốc (CNOOC) bắt đầu chế tạo giàn khoan “Hải dương thạch du 981” (HD 981), tháng 2/2012 chính thức đưa vào sử dụng tại biển Đông. Đây là giàn khoan đầu tiên do Trung Quốc thiết kế và chế tạo, thuộc thế hệ thứ 6, có khả năng chìm sâu nửa thân giàn tới 3 000 m, đạt trình độ công nghệ cao nhất trong các loại giàn khoan dầu trên thế giới. Nó có khả năng khoan thăm dò tại các vùng nước sâu 3 000 m, độ khoan sâu đạt tới 12 000 m. Sau khi có thiết bị này, Trung Quốc đã có thể tác nghiệp tại vùng nước sâu ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 1/5/2014, HD 981 tác nghiệp tại vùng biển cách đảo Tri Tôn (Trung Kiến) thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lí về phía Tây Nam (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 78</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Ngày 4/5, Việt Nam gửi công hàm phản đối Trung Quốc, tuyên bố địa điểm đó thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nhưng Trung Quốc đã phản bác cho rằng: giàn khoan này đặt trong vùng biển Trung Quốc, ngày 3/5, Cục Hải sự Trung Quốc đã đưa thông tin cảnh báo hàng hải về hoạt động tác nghiệp của Giàn khoan hải dương 981, mọi công việc liên quan hoàn toàn nằm trong khu vực quần đảo Tây Sa của Trung Quốc. Trung Quốc còn biện giải rằng công trình liên quan đã tiến hành 10 năm, không hiểu sao cho đến nay phía Việt Nam mới nêu lên tranh chấp. Trung Quốc không nói rõ “công trình liên quan đã tiến hành 10 năm” là công trình nào, nhưng việc khoan thăm dò tại vùng biển Hoàng Sa chắc chắn là hoạt động đầu tiên. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 259px; overflow: hidden; width: 460px;"><img height="259" src="https://lh3.googleusercontent.com/N0p6OdJHeXBjlw64nkm2M163Cv6fkOzr4jQ00RY89A-XVaIQkHIuci9LS01PvcVJbPpKoV3EC2aMbrtsNxCtfcqyTUkD64LbxC9dgYgdcP-u4FcBFS63LVWD-TeHetzN-MjzrlTKdV3lQ4NpR46sUto" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="460" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 78</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Sự kiện giàn khoan 981</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 6/5, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mĩ Jen Psaki tuyên bố, “Việc Trung Quốc lần đầu tiên đặt giàn khoan trong vùng biển tranh chấp với Việt Nam là một hành động khiêu khích (provocative) và cũng làm tình hình căng thẳng trầm trọng thêm. Hành động đơn phương này của Trung Quốc có vẻ là biểu hiện cụ thể của mô hình thúc đẩy yêu sách của mình trong lãnh thổ tranh chấp với việc làm xáo động hòa bình và ổn định (khu vực).” Mĩ bày tỏ thái độ hết sức quan tâm đến sự việc này và kêu gọi các bên xử lí ổn thỏa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc nhấn mạnh một lần nữa: “Phía Việt Nam quấy nhiễu hoạt động tác nghiệp bình thường của doanh nghiệp Trung Quốc là hành động vi phạm luật pháp quốc tế và các quy tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc. Quần đảo Tây Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, hoạt động tác nghiệp của doanh nghiệp Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa được tiến hành trong khu vực chủ quyền của Trung Quốc, không liên quan đến Việt Nam, cũng không liên quan đến Mĩ, Mĩ không có quyền đưa ra những nhận xét vô trách nhiệm về những các vấn đề thuộc phạm vi chủ quyền của Trung Quốc.”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ ngày 6/5, Việt Nam đưa tàu thuyền ra ngăn cản, đồng thời phái đội quân người nhái đặt rất nhiều chướng ngại vật như lưới đánh cá, vật nổi để gây tắc nghẽn đường đi. Phía Việt Nam nói phía Trung Quốc cho tàu chạy đâm vào và phun vòi rồng vào tàu Việt Nam; vài ngày sau, phía Việt Nam cũng đáp trả tàu Trung Quốc bằng vòi rồng. Tàu thuyền hai bên đối đầu trong khu vực biển này, tàu hải cảnh Trung Quốc và tàu chấp pháp Việt Nam nhiều lần truy đuổi và đâm vào nhau. Việt Nam ra tuyên bố, yêu cầu Trung Quốc rút Giàn khoan 981 khỏi vùng biển Hoàng Sa,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng Trung Quốc thẳng thừng bác bỏ. Đến cuối tháng 5 có khoảng 100 tàu thuyền Trung Quốc tiến vào khu vực này, tàu thuyền Việt Nam cũng tăng lên vài chục chiếc. Ngày 26/5, một tàu cá Việt Nam bị tàu cá Trung Quốc đâm lật, hơn 10 thuyền viên rơi xuống biển được cứu sống. Trung Quốc cho rằng nguyên nhân là do tàu cá Việt Nam bị mất lái khi đâm vào tàu Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27/5, Trung Quốc tuyên bố Giàn khoan 981 hoàn thành nhiệm vụ đã định và “di chuyển” đến nơi khác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng thực ra chỉ là di chuyển hơn 10 hải lí về phía Đông và vẫn nằm trên vùng biển Hoàng Sa. Việt Nam tiếp tục ngăn cản, Trung Quốc đưa tàu đến “bảo vệ” ở nơi vừa chuyển đến. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho đến ngày 5/6 “cộng chung 2 giai đoạn, Việt Nam đã đâm hơn 1 200 lần vào tàu công vụ Trung Quốc đang thị hành nhiệm vụ bảo vệ an toàn hàng hải trên hiện trường.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tính đến 17h ngày 7/6, số tàu Việt Nam xuất hiện trên hiện trường là 63 chiếc, lao vào khu vực Trung Quốc canh giữ và đâm vào tàu công vụ Trung Quốc tổng cộng 1 416 lần.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài đối đầu trên biển, Việt Nam còn huy động sức mạnh từ ASEAN. Ngày 10/5, hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Nay Pyi Taw, thủ đô của Myanmar, hiếm khi trong văn kiện chính thức bàn luận về tình hình biển Đông, lại bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, đồng thời thúc giục Trung Quốc tăng cường nỗ lực thúc đẩy đối thoại an ninh trên biển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị tương đối ôn hòa, không chỉ đích danh Trung Quốc nhưng nhấn mạnh cần giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và tuân thủ luật quốc tế đã được công nhận rộng rãi. Trả lời phỏng vấn “The Wall Street Journal ”, Tổng Thư kí ASEAN Lê Lương Minh cho rằng, Trung Quốc cần rút khỏi vùng biển đang có tranh chấp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lê Minh Lương là người Việt Nam nhưng ông bày tỏ thái độ này dưới danh nghĩa Tổng thư kí ASEAN, rõ ràng không chỉ đại diện cho riêng Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">So với Philippines, chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam lúc “gian nan” rõ ràng thể hiện mạnh hơn. Bắt đầu từ ngày 11/5, tại Việt Nam nổ ra các cuộc biểu tình rầm rộ chống Trung Quốc. Các cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh thậm chí đã vượt khỏi tầm kiểm soát và biến thành bạo loạn, đám đông tấn công và cướp phá các doanh nghiệp Trung Quốc. Ngày 13, biểu tình chống Trung Quốc lại nổ ra tại thành phố Hồ Chí Minh, dân chúng xông vào khu vực tập trung doanh nghiệp nước ngoài ở tỉnh Bình Dương gần đó, đập phá và cướp lấy trang thiết bị. Mặc dù mục tiêu chống đối vốn là Trung Quốc Đại lục, nhưng do người Việt Nam không phân biệt được đâu là xí nghiệp có nguồn vốn từ Trung Quốc nên các xí nghiệp Đài Loan, Hongkong, Singapore cũng bị tấn công, kết quả là xí nghiệp Trung Quốc lại ít bị tấn công. Trong số đó, xí nghiệp Đài Loan bị thiệt hại nặng nề nhất, một số lượng lớn doanh nhân Đài Loan phải tháo chạy trong đêm. Công trường, nhà xưởng do Tập đoàn Trung Trị Đại lục nhận thầu xây dựng cho Đài Loan bị tấn công, tạo thành thảm kịch với 4 người tử vong và nhiều người bị thương nặng. Bạo động cũng xảy ra ở các tỉnh Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bắc Ninh… nhưng có quy mô tương đối nhỏ hơn. Ban đầu, Chính phủ Trung Quốc không chuẩn bị chu đáo đối với việc chống Trung Quốc của phía Việt Nam nên lúng túng trong ứng phó. Ngày 13, (Trung Quốc) mới ra thông cáo khẩn, nhắc nhở các xí nghiệp Trung Quốc ở Việt Nam làm tốt công tác an toàn, giảm tối đa việc ra ngoài không cần thiết, vài ngày sau mới bắt đầu rút người Trung Quốc về nước với quy mô lớn. Trong khi Đài Loan gấp gáp đưa người ra khỏi (Việt Nam), Công ty hàng không Trung Quốc đột nhiên tăng giá vé máy bay gấp 3 lần. Xí nghiệp có vốn Trung Quốc buộc phải treo cờ Nhật Bản để tránh bị tấn công. Biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam bỗng chốc trở thành điểm nóng chính trị ở Đông Á. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuộc bạo động này, Chính phủ Việt Nam đã bắt và khởi tố hàng trăm người. Ngày 15, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra thông báo khẩn, ra lệnh cho Bộ Công an và các bộ ngành liên quan sử dụng biện pháp kiên quyết để phòng chống và trừng phạt những người gây rối trật tự. Thông báo nói rõ, “Mấy ngày gần đây, nhân dân cả nước phản đối hoạt động phi pháp của Giàn khoan Hải Dương 981 Trung Quốc trong vùng biển Việt Nam. Đây là hoạt động yêu nước chính đáng.” “Tuy nhiên, một số hành động mang tính tự phát, phá hoại cơ sở sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài là hành động phi pháp”, “Điều đó dẫn đến sự hỗn loạn trong xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, cuộc sống bình thường của người dân và môi trường đầu tư cũng như chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ”. Ngày 15 và 16, Nguyễn Tấn Dũng đích thân kêu gọi người dân không nên xuống đường biểu tình. Sau đó, quy mô biểu tình chống Trung Quốc đã bị kiểm soát chặt chẽ, bạo động mới lắng xuống. Việt Nam chấp nhận bồi thường thiệt hại cho đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức. Trưởng Đại diện Việt Nam tại Đài Loan xin lỗi Đài Loan, tha thiết đề nghị thương gia Đài Loan không nên rút đầu tư khỏi Việt Nam. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam không khỏi khiến người ta liên tưởng tới cuộc biểu tình chống Nhật của Trung Quốc năm 2012. Là một trong số ít các nước cộng sản toàn trị còn sót lại, sự giống nhau giữa hai chế độ này thật đáng kinh ngạc. Trong dư luận quốc tế năm đó, Trung Quốc cũng hết sức mất mặt. Cuộc chống đối Trung Quốc của Việt Nam hiện nay chính là phiên bản chống Nhật của Trung Quốc năm đó. Việt Nam chống Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa cũng gần giống như việc Trung Quốc chống Nhật về vấn đề đảo Điếu Ngư hai năm trước đó. Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc gặp chủ nghĩa dân tộc Việt Nam khiến người ta không thể không có những cảm xúc lẫn lộn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhìn chung, các học giả đều công nhận, các cuộc biểu tình kiểu này nếu không được Chính phủ cổ súy hoặc ít ra là khuyến khích thì không thể nổ ra được. Nhưng khi nổ ra, do môi trường chính trị phức tạp trong nước, sự kiểm soát của Đảng Cộng sản đối với xã hội không còn tốt như lúc đầu. Dưới tác động của nhiều nhân tố, hiệu ứng phấn khích của chủ nghĩa dân tộc làm người dân phẫn nộ sẽ khó kiểm soát. tạo nên sự hỗn loạn, thậm chí bạo động, ảnh hưởng cực lớn đến hình ảnh quốc tế, đồng thời gây áp lực khó chống đỡ nổi cho Chính phủ. Đối với Việt Nam, còn có những khác biệt nội bộ giữa phe cải cách phía Nam (đại diện là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và “phe xã hội chủ nghĩa” phía Bắc (đại diện là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng). Nếu tình thế chống Trung Quốc tiếp tục lan rộng sẽ làm cho các thế lực gốc miền Nam (đặc biệt là người Việt hải ngoại) đặt câu hỏi về tính chính danh của chế độ hiện tại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 31/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Mĩ tích cực làm trung gian điều đình. Trong tình thế xung đột không ngừng tăng lên, ngày 8/6, Trung Quốc đưa ra bản thông điệp: “Hoạt động của Giàn khoan 981: hành động khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc” để đánh trả Việt Nam, đồng thời yêu cầu Tổng thư kí Liên Hiệp quốc đưa vào văn kiện Đại hội đồng Liên Hiệp quốc và phân phát cho các nước thành viên.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam cũng đáp trả, gửi tư liệu tương ứng tuyên bố quần Hoàng Sa thuộc Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/7, Thượng Nghị viện Liên bang Mĩ thông qua Quyết nghị số 412 về tranh chấp chủ quyền ở Châu Á – Thái Bình Dương, yêu cầu Trung Quốc rút Giàn khoan 981 và tàu bảo vệ khỏi biển Đông, khôi phục hiện trạng biển trước ngày 1/5, thúc giục Trung Quốc kiềm chế không thực hiện Tuyên bố ADIZ ở biển Hoa Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 15/5, tập đoàn CNOOC Trung Quốc tuyên bố rằng Giàn khoan 981 hoàn thành các hạng mục khoan thăm dò trong vùng biển gần đảo Tri Tôn, thu thập thuận lợi số liệu hoàn chỉnh về địa chất theo đúng kế hoạch.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự kiện HD-981 kết thúc ở đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện Giàn khoan HD 981 là cuộc đối đầu trên biển nghiêm trọng nhất ở biển Đông trong những năm gần đây, với một số ý nghĩa: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất, sự kiện chống Trung Quốc của Việt Nam về cơ bản khẳng định rằng việc tuyên truyền và tấn công ngoại giao của Trung Quốc về xây dựng “cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN” đã thất bại</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Sách lược trước đây của Trung Quốc là tách Philippines vốn không biết vâng lời ra khỏi ASEAN để dạy cho một bài học và tập hợp lại phần lớn ASEAN. Nhưng, Việt Nam “xã hội chủ nghĩa” vừa là đồng chí vừa là anh em trước kia, nay đã quay lưng lại với Trung Quốc, thậm chí trở thành tuyến đầu đối kháng. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc gần như có xung đột với cả hai nước có tranh chấp chủ quyền tại biển Đông cùng một lúc, ảnh hưởng rất bất lợi đến ngoại giao biển Đông của Trung Quốc. Việt Nam và Philippines cũng có tranh chấp lãnh thổ, nhưng do thái độ hung hăng của Trung Quốc nên hai nước cùng đứng chung chiến tuyến. Xu hướng này được thể hiện qua việc giao lưu hữu nghị giữa quân đội hai nước đóng ở biển Đông vào ngày 8/6.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Những lợi thế tương ứng của Việt Nam và Philippines gần như bổ sung cho nhau: Philippines tuy yếu về thực lực nhưng được liên minh Mĩ-Philippines bảo vệ, phương thức ngoại giao của Aquino III khá tinh vi, ông cực kì giỏi ngoại giao dư luận và luật pháp, sức mạnh mềm không dễ xem thường; Việt Nam tuy không có ảnh hưởng lớn trong dư luận quốc tế nhưng lại là quốc gia có thực lực quân sự mạnh nhất Đông Nam Á, có lịch sử bất khuất đánh bại nước lớn, có truyền thống chống Trung Quốc trong lịch sử, đằng sau có sự hậu thuẫn của Nga, những năm gần đây lại được Ấn Độ ủng hộ, sức mạnh cứng không dễ xem thường. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, sự kiện Giàn khoan 981 lại làm dấy lên sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vấn đề chủ quyền Hoàng Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù hầu hết người Trung Quốc có xu hướng quên đi sự thật rằng Hoàng Sa là vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, nhưng thật khó hiểu tại sao Việt Nam lại phản ứng dữ dội như vậy trong vụ việc này. Tuy nhiên, việc Hoàng Sa là vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền là sự thật, không vì Trung Quốc phủ nhận và kiểm soát thực tế trong thời gian dài mà có thể thay đổi. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam có hai luận cứ để lí giải: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là, Hoàng Sa là lãnh thổ “vốn có” “từ xưa tới nay” của Việt Nam. Với Việt Nam, HD 981 khai thác dầu trong vùng biển gần “lãnh thổ Việt Nam”, đương nhiên không thể nhẫn nhịn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai là, ngay cả không tính đến vấn đề quy thuộc chủ quyền của Hoàng Sa thì địa điểm đó (nơi đặt HD 981) cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng địa điểm khoan cách Việt Nam 170 hải lí, nhưng chỉ cách đảo Tri Tôn 17 hải lí nên thuộc vùng biển Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Việt Nam cho rằng đảo Tri Tôn chỉ là bãi đá, không được quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế. Thậm chí bản thân quần đảo Hoàng Sa cũng không có cách nào duy trì tự nhiên được cuộc sống của con người (vì thế xưa kia nó là đảo hoang không có người sinh sống), vì vậy cũng không có quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế. Khoảng cách gần nhất từ địa điểm khai thác của HD 981 tới đảo Hải Nam Trung Quốc là 180 hải lí, xa hơn khoảng cách đến Việt Nam. Vì vậy, theo nguyên tắc trung tuyến, địa điểm này thuộc Việt Nam chứ không phải Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hai luận cứ này, trước vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa chưa được ngã ngũ thì luận cứ thứ nhất của Việt Nam là hợp lí. Nhưng luận cứ thứ hai lại rất khó nhận được sự ủng hộ hoàn toàn. Rất có thể đảo Tri Tôn không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế, nhưng đảo chính của Hoàng Sa có thể có quyền đó. Thực ra, Việt Nam nên nhấn mạnh rằng đất liền và các đảo nhỏ (như Hoàng Sa) có quyền không giống nhau trong phân giới biển. Quyền phân giới nghiêng về lục địa chứ không phải là phân chia đều nhau. </span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.12. Đảo nhân tạo và tự do hàng hải </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo quy mô lớn </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 14/5/2014, đúng lúc thế giới đang dồn mắt vào sự kiện Giàn khoan HD 981 và bạo động chống Trung Quốc nổ ra ở Việt Nam thì Philippines công bố một tin sửng sốt hơn: Trung Quốc đang ‘lấp biển làm đồng’ quy mô lớn trên đá Gạc Ma (đảo Xích Qua), đồng thời xây dựng đường băng, với ý đồ xây dựng căn cứ quân sự mô hình lớn tại biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khác với nhà giàn do các nước quanh biển Đông xây dựng trên các bãi đá trước đây, quy mô xây dựng của Trung Quốc trên đá Gạc Ma lớn chưa từng thấy trước đây, sau khi hoàn thành nó sẽ trở thành đảo nhân tạo có diện tích 30 ha (0,3 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Philippines cho rằng Trung Quốc đang chuẩn bị xây đường băng trên đảo này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4, Philippines đã phát hiện hành vi xây đảo của Trung Quốc và đã gửi công hàm phản đối Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines chỉ rõ rằng hành vi của Trung Quốc vi phạm “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” năm 2002. Về mặt kĩ thuật, cáo buộc này không có cơ sở. Trong “Tuyên bố” chỉ quy định các nước “không được cư trú trên các đảo, bãi đá, bãi ngầm, cồn cát hoặc cấu tạo tự nhiên hiện không có người ở.” Do đá Gạc Ma đã có nhà giàn từ trước nên hành vi của Trung Quốc không được tính là vi phạm. Tuy nhiên, xét đến việc chưa từng có nước nào xây dựng đảo nhân tạo với quy mô lớn như vậy ở biển Đông, hành vi của Trung Quốc đã gây kích động đến các nước. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, việc xây dựng đảo ở Trường Sa không phải ý đồ nhất thời của Trung Quốc. Ngay từ năm 2012, trang mạng tàu thuyền Trung Quốc (China Shipping Network) đã có mời thầu qua “thư tỏ ý muốn hợp tác vận chuyển cung cấp cát cho công trình lấp biển tại quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 79</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Khi đó, quy hoạch xây đảo tại Trường Sa đã cơ bản hoàn thành. Theo ước tính, công trình xây dựng đảo của Trung Quốc đã tiến hành khoảng 9 tháng trước khi bị Philippines tiết lộ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 526px; overflow: hidden; width: 360px;"><img height="526" src="https://lh3.googleusercontent.com/rkxqA4O34DGsVikaqZ6CUClIeoywqRAEUK20c7_s52nNtPViww3o_RG6wbxEmblSpjn9kYlrmns30cYVkbb20Sq_NTFEzm0h_3kG1rYC865AkE7zSWO-avv37OcGyfoUZcRDrcAAMsewVPy0rAVvxEg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="360" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 79</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Thông báo mời thầu của Trung Quốc –Hình tải từ trên Mạng Tàu thuyền Trung Quốc</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/6, Philippines lại phát hiện Trung Quốc chuẩn bị xây đảo trên đá Gaven (Nam Huân) và đá Châu Viên (Hoa Dương). Hơn thế, các nước nhanh chóng phát hiện ra Trung Quốc hầu như đã xây đảo quy mô lớn đồng thời trên hầu hết các bãi đá và bãi triều thấp mà họ đang kiểm soát thực tế. Qua quan sát các hình ảnh vệ tinh của Google Earth, gần như cứ sau một khoảng thời gian lại có những thay đổi mới về hình dạng của các đảo và rạn san hô liên quan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc xây dựng đảo ở biển Đông thể hiện năng lực công trình đáng kinh ngạc của Trung Quốc. Công nghệ được Trung Quốc sử dụng là thổi cát lấp biển hoặc san lấp mặt bằng,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tức là dùng phương pháp thổi cát xung quanh điểm lấp biển để cát tích tụ tạo ra mặt bằng. Nó khác với cách vận chuyển đất hay cát lấy được từ chỗ khác mang đến theo truyền thống mà là dùng máy bơm (có nơi dùng ống dài) trên tàu hút nước lẫn bùn hay nước lẫn cát dưới đáy biển từ bên ngoài thổi vào nơi cần san lấp. Nước biển chảy đi, cát còn đọng lại, mặt biển trong vùng cần san lấp dần dần được lấp đầy bởi lượng cát không ngừng thổi tới. Những nơi cần san lấp có khoảng cách gần thì không cần dùng vòi thổi, những nơi xa thì tùy cự ly mà dùng vòi dài hay ngắn, vòi thổi dài nhất có thể lên tới hơn 500 m. Sau khi lấp thành mặt bằng lại tiếp tục dùng máy đầm nện chặt.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Công cụ quan trọng nhất trong công trình là tàu nạo vét hút cắt có tên “Thiên Kình”, do Công tuy hữu hạn Cục Đường thủy Thiên Tân đầu tư, liên kết với trường Đại học Giao thông Thượng Hải và Công ty VOSTA LMG của Đức tiến hành thiết kế, được đóng tại Công ty hữu hạn Cục công nghiệp nặng (Thâm Quyến), công suất và khả năng nạo vét đứng đầu Châu Á, thứ ba thế giới.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong vòng chưa đầy hai năm, Trung Quốc đã xây xong 7 đảo nhân tạo quy mô lớn ở biển Đông, bao gồm: đá Gạc Ma [Xích Qua] (từ mùa đông năm 2013 đến mùa hè năm 2014), đá Gaven [Nam Huân] (từ mùa đông 2013 đến 11/2014), đá Tư Nghĩa [Đông Môn] (mùa đông năm 2013 đến 1/2015), đá Châu Viên [Hoa Dương](khoảng 1/2014 đến 4-/2015 hoàn thành việc phun cát), đá Chữ Thập [Vĩnh Thử] (khoảng 1/2014 đến 5/2015), đá Subi [Chữ Bích] (1-6/2015), đá Vành Khăn [Mĩ Tế] (1-6/2015). Trong số các đảo mà Trung Quốc chiếm giữ, chỉ có bãi Én Đất [An Đạt] là chưa bồi đắp. Đến tháng 6/2015, Trung Quốc tuyên bố ngừng thổi cát lấp biển, 7 đảo nhân tạo hình thành dưới dạng 3 lớn, 4 nhỏ. Bốn đảo nhân tạo nhỏ bao gồm: Gạc Ma (0,102 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), đá Gaven (0,18 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), Tư Nghĩa (0,08 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), Châu Viên (0,28 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Ba đảo lớn gồm: Chữ Thập (2,8 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), Subi (4,1 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) và Vành Khăn (5,6 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Diện tích 3 đảo nhân tạo này đều lớn hơn rất nhiều so với hòn đảo tự nhiên lớn nhất là đảo Ba Bình (Thái Bình)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ở Trường Sa, diện tích đảo Ba Bình chưa bằng 1/10 đảo nhân tạo Vành Khăn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 421px; overflow: hidden; width: 260px;"><img height="421" src="https://lh3.googleusercontent.com/qlTbP4TqpcovM-9FChoq9OSf8MPTkJDprH1lMnp8ghjtrc-gApmnx92yJjwGhRyp3Ci1iVRXH0C7HQ-8Pk6tY5UDl7Au_Z2rnHe8WxJ4oRAcG_pzYfMjhXzSWiHE5YyUK9Eo_1jCv7bB9UPxpN-TwpI" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="260" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 80</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: So sánh diện tích các đảo nhân tạo của Trung Quốc </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 342px; overflow: hidden; width: 342px;"><img height="342" src="https://lh6.googleusercontent.com/nezIGM6XUVTcygGulZDu0uTJgtt1WVEp8TzXbqv09aCpyXN63wcjgiJiVQnCcLB4oBRuuQoT0Nf-F7GeqYJTZtaC_dcUQhugss6qDc0In8H9upMINUGrOFQQ0O9tPyrfi6ue3jAhoqymXhsgM0oPdNw" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="342" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 81</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Sự biến đổi của đá Chữ Thập</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 340px; overflow: hidden; width: 297px;"><img height="340" src="https://lh6.googleusercontent.com/b8CmIW_cOPfadBaFkXzHu5-C5A5MfeCR05p6Facc4s3RfVzMChDMZAw1TVqQQpvOQthcwnhuyyrLAnqd9sX-oHulCHBSQ55jLaTwejkBn0fczFPfcukuQfr0YbUxfllTQ22OdV6tDBm6PzOhHI1cX4Q" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="297" /></span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 338px; overflow: hidden; width: 300px;"><img height="338" src="https://lh5.googleusercontent.com/OW959-Mxsgoh3IUF02vgx7vqt_Vga1p0odSWkVSmpbKwhalW_b_JM1q9RPDXdxsGArIfWlErydsBbMxzmuk8UUZnxYWPW2ICdKgqgpXK8Tr-UmgBfV3N5BnLHJArk9gmItSZxg0IHTqzwHAlmwHjGMo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="300" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 82:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự biến đổi của đá Vành Khăn (bên trái) và đá Xubi (bên phải)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba đảo nhân tạo lớn được bố trí theo hình chữ “phẩm” (品), đều có sân bay lớn. Ngày 2/1/2016, máy bay dân dụng tiến hành bay thử trên đảo hoàn thành sớm nhất là đá Vĩnh Thử (Chữ Thập). Trên đảo có đường băng dài 3 000m, chất lượng ngang với đường băng sân bay Bắc Kinh, máy bay hành khách, máy bay chở hàng và máy bay quân sự đều có thể lên xuống. Sân bay trên hai đảo lớn khác cũng có quy mô tương tự. Đá Chữ Thập được cho là sẽ trở thành trung tâm quân sự của Trường Sa,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đá Subi sẽ trở thành trung tâm chính trị,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đá Vành Khăn sẽ trở thành trung tâm quản lí nghề cá.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một bến tàu đã được xây dựng ở phía đông đá Chữ Thập, tàu chở dầu cỡ lớn và tàu hải quân có thể neo đậu ở đó. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ khi việc xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc bị phanh phui, các nước đều hết sức quan tâm và cho rằng Trung Quốc đang tăng cường kiểm soát thực tế, từng bước làm thay đổi hiện trạng ở biển Đông, đây cũng là bước chuẩn bị để thiết lập ADIZ ở biển Đông. Nhờ có 3 sân bay lớn nên tầm kiểm soát của Trung Quốc có thể mở rộng tới 2 000 hải lí, về cơ bản máy bay quân sự có thể bao quát toàn bộ khu vực đường 9 đoạn, đủ điều kiện vật chất để thiết lập ADIZ. Điều đó sẽ làm biến đổi căn bản tình hình biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, mỗi lần giới truyền thông phát hiện Trung Quốc mở rộng xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa là mỗi lần dẫn đến sự phản đối và quan ngại của các nước. Nhưng lần nào Trung Quốc cũng phản bác: xây dựng đảo nhân tạo trên các đảo đá là công việc trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, các nước không có quyền can thiệp. Mãi đến ngày 9/4/2015, Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới nói rõ lần đầu tiên tình hình Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo ở biển Đông: “Công việc xây dựng có liên quan thuộc phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, là việc làm hợp tình, hợp lí, hợp pháp, không gây ảnh hưởng, cũng không nhằm vào bất kì quốc gia nào, không thể trách cứ được.” “Sau khi mở rộng, các đảo / đá ở Nam Sa sẽ có chức năng mang tính đa diện, tổng hợp, ngoài việc đáp ứng nhu cầu phòng vệ quân sự, tất yếu còn phục vụ nhiều nhu cầu dân sự khác nhau.” Đáp lại cáo buộc của các nhóm môi trường rằng các đảo nhân tạo phá hủy môi trường tự nhiên, người phát ngôn nêu rõ: “Các công trình mở rộng đảo / đá của Trung Quốc đã trải qua quá trình đánh giá khoa học và luận chứng nghiêm túc, coi trọng cả xây dựng lẫn bảo vệ, có các tiêu chuẩn và yêu cầu môi trường nghiêm ngặt, có tính toán đầy đủ đến các vấn đề như môi trường sinh thái và bảo vệ nghề cá, và không gây tổn hại đến môi trường sinh thái của Nam Hải.” Sau cùng, Trung Quốc còn cáo buộc lại Mĩ và các nước sử dụng tiêu chuẩn kép, vì “Chúng tôi thấy một số quốc gia không hề lên tiếng đối với hành vi xây cất lớn nhiều năm nay trên đảo / đá ở Nam Sa mà họ xâm chiếm trái phép của Trung Quốc, nhưng lại đưa ra những nhận xét vô trách nhiệm về các hành động bình thường, do Trung Quốc tiến hành trên lãnh thổ của mình, đây hoàn toàn là đang sử dụng tiêu chuẩn kép, không công bằng, không có tính xây dựng.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại sao đảo nhân tạo lại gây tranh cãi như vậy</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rõ ràng, như Trung Quốc phản bác, lấp biển tạo đảo không phải việc một mình Trung Quốc làm. Trước khi Trung Quốc lấp biển, Malaysia đã xây đảo nhân tạo trên bãi Swallow (đá Hoa Lau), biến nó thành điểm du lịch quốc tế, một trong những đảo nhân tạo lớn nhất. Philippines, Việt Nam, thậm chí Đài Loan cũng là những tiền lệ bồi lấp biển tại các đảo đang chiếm đóng. Vậy tại sao việc lấp biển tạo đảo của Trung Quốc lại bị phản đối mạnh mẽ như vậy?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bởi vì, việc xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc khác về bản chất với việc xây dựng đảo nhân tạo của các nước khác: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù Philippines, Việt Nam và Đài Loan có lấp biển tạo đảo, nhưng là trên nền các đảo tự nhiên, không làm thay đổi đáng kể địa hình của đảo. Hơn thế, đó chỉ là mở rộng diện tích chút ít nhằm đáp ứng nhu cầu của một số công trình. Trước khi tiến hành xây dựng đảo nhân tạo quy mô lớn, Trung Quốc cũng tiến hành các công trình lấp biển như vậy. Do những chỗ Trung Quốc chiếm lấy đều là các bãi đá hoặc bãi triều thấp, thậm chí là các bãi ngầm, nếu không lấp biển thì làm sao có chỗ đóng quân? Có thể thấy, lấp biển với quy mô nhỏ thì sẽ không bị phản đối mạnh như vậy. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngược lại, trong một thời gian rất ngắn, Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo nhân tạo với quy mô cực lớn, vượt xa các nước khác. Chẳng hạn, Việt Nam chỉ bồi đắp 60 mẫu Anh trên đảo Trường Sa Lớn (Nam Uy) trong 5 năm; Malaysia bồi đắp 60 mẫu Anh trong thời gian 30 năm. Nhưng Trung Quốc bồi đắp 3 000 mẫu Anh (hơn 12 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) chỉ trong 18 tháng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hơn nữa, nền móng xây dựng của một số đảo nhân tạo thậm chí không liên quan đến kiến trúc nhân tạo ban đầu. Những đảo nhân tạo mới này đã thay đổi hoàn toàn diện mạo ban đầu của những cấu trúc này. Chúng hoàn toàn khác với việc lấp biển của Trung Quốc trước đây và việc lấp biển của các nước khác. Vì thế, đây không phải là vấn đề lấp biển nhiều hay ít mà là sự khác biệt về bản chất giữa việc bồi đắp nhỏ trên nền vốn có với việc xây dựng đảo hoàn toàn mới. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lực lượng quân sự trên đảo của các nước khác rất ít, cơ bản chỉ để phòng thủ, thậm chí chỉ là trú đóng tượng trưng. Đá Hoa Lau của Malaysia chỉ thuần túy là một khu du lịch . Đảo Trường Sa Lớn - Việt Nam, đảo Thị Tứ - Philippines và đảo Thái Bình - Đài Loan, mặc dù đều có một số nhất định quân trú đóng và cũng có đường băng trên đảo, nhưng quy mô sân bay rất nhỏ, đường băng 1 500m, chỉ có thể sử dụng cho máy bay loại nhỏ. Còn ba đảo nhân tạo lớn của Trung Quốc đều có thể trở thành trung tâm tấn công quân sự, không thể không khiến các nước lo ngại. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> yêu sách của các nước đối với biển Đông về cơ bản đều tuân thủ luật quốc tế, mục tiêu ở biển Đông có hạn và có thể đoán được. Chỉ có Trung Quốc ngầm yêu sách “kiểm soát” toàn bộ vùng biển trong đường 9 đoạn (mặc dù Trung Quốc không thừa nhận, nhưng cũng chưa từng phủ nhận điều này với bên ngoài). Những năm gần đây, sách lược bành trướng ở biển Đông của Trung Quốc bị thế giới hình dung là “tằm ăn lá dâu” (salami slicing tactics), tức là từng bước tiến tới đạt mục tiêu chiến lược kiểm soát toàn bộ biển Đông là điều vô cùng đáng lo ngại.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Sau khi xây dựng sân bay trên 3 đảo nhân tạo lớn, Trung Quốc có thể hiện thực hóa ADIZ giám sát toàn bộ biển Đông, gây ra mối đe dọa lớn đối với tự do hàng hải ở biển Đông. Mặc dù Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh, thậm chí đích thân Tập Cận Bình cũng nói rằng “tự do hàng hải và hàng không ở biển Đông xưa nay không có vấn đề gì, sau này cũng không có vấn đề gì.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng, đó là cách nói che đậy bản chất vấn đề: tự do hàng hải là quyền tự do được luật pháp quốc tế bảo đảm chứ không phải do bất kì quốc gia nào ban phát. Theo Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc, hầu hết các khu vực của biển Đông là vùng biển chung (high seas) hoặc là vùng đặc quyền kinh tế của một nước nào đó. Về vấn đề tự do hàng hải thì vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển chung là như nhau (điều 56, 58 và 87). Vì thế, không có nước nào có quyền kiểm soát đối với hầu hết các khu vực của biển Đông. Điều này và việc Trung Quốc có quyền kiểm soát mà không ai được can dự là hai việc khác nhau về bản chất. Nếu ADIZ ở biển Đông giống như ở biển Hoa Đông, trước khi bay vào máy bay nước ngoài phải thông báo trước và được sự đồng ý của Trung Quốc, đồng thời phải chịu sự quản lí của Trung Quốc. Khi đó, đúng như Mĩ đã chỉ ra, tự do hàng hải mà các nước được hưởng xưa nay bỗng biến thành thứ “tự do” do Trung Quốc “bố thí”, tuyệt nhiên không phải là tự do hàng hải đích thực. Bởi vì Trung Quốc ban phát “tự do” này thì cũng có thể lấy nó lại. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hành vi của Trung Quốc ở biển Đông vi phạm “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”, làm gia tăng tình trạng căng thẳng trên biển. Mặc dù nói một cách nghiêm túc, việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo trên các đảo đá đã có các kiến trúc nhân tạo không vi phạm điều 5 trong “Tuyên bố chung”. Nhưng xây dựng với quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử thì thực sự làm tình hình biển Đông thêm căng thẳng. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trước khi xây dựng đảo quy mô lớn, Trung Quốc không tính đến tác động đối với môi trường. Ngay cả xét theo thủ tục trong nước của Trung Quốc, việc xây dựng đó đã vi phạm quy định của “Luật đánh giá tác động môi trường”. Điều 3 trong Luật này quy định: “Mọi quy hoạch thuộc phạm vi quy định trong điều 9 của Luật này, khi xây dựng các công trình có ảnh hưởng đến môi trường trong lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và trong vùng biển do nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát thì đều phải được đánh giá theo quy định của Luật này.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bộ Bảo vệ môi trường phải công bố kết quả thẩm định và phê duyệt đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên, công trình tạo đảo trên một vùng biển lớn như vậy nhưng lại không công khai việc đánh giá tác động môi trường trước, dư luận không có cách nào giám sát và phán xét. Đó là chưa kể việc đánh giá môi trường của Trung Quốc còn chịu sự can thiệp chính trị và kinh tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổ chức Môi trường cho rằng, Trung Quốc xây dựng đảo với quy mô lớn sẽ gây ra tác động thảm khốc đối với các rạn san hô.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy vào ngày 10/6/2015, Cục Hải dương Trung Quốc đã ra văn bản</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> để phản bác rằng họ đã “thực hiện tất cả các biện pháp đối phó trong quá trình xây dựng để đảm bảo giảm thiểu tác động của việc nạo vét đối với môi trường sinh thái của san hô”, nhưng cũng thừa nhận rằng sau công trình cũng cần “triển khai biện pháp bổ trợ môi trường sinh thái và khôi phục quần thể các rạn san hô… thực hiện việc khôi phục quần thể các rạn san hô”, trong tiến trình này, “đối với các khu vực rạn san hô đã bị hư hại nghiêm trọng do thiên nhiên hoặc nhân tạo, nếu có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục thì khoảng 5-10 năm có thể khôi phục sơ bộ, và 50-100 năm có thể khôi phục hoàn toàn một hệ sinh thái ưu việt, phức tạp và hoàn chỉnh.” Văn bản còn nêu, trước khi tạo đảo thì rạn san hô đã ở trong trạng thái “dưới mức mạnh khoẻ”, nhưng sau khi đảo được làm xong, nó vẫn ở trạng thái “dưới mức mạnh khỏe”. Ý đồ là cố lập luận rằng việc làm tổn hại đến san hô là không lớn. Cần chỉ ra rằng, khi văn bản trên được đưa ra thì việc tạo đảo của Trung Quốc chưa hoàn thành, hơn nữa tác động phá hoại rạn san hô có thể diễn ra chậm chạp. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kế hoạch tự do hàng hải của Mĩ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi công khai thừa nhận việc xây dựng đảo nhân tạo, các nước Đông Nam Á cũng như Mĩ, Nhật Bản, Australia… đều gây áp lực với Trung Quốc, mong Trung Quốc ngừng xây dựng đảo nhân tạo và không gây bất ổn ở biển Đông. Nhưng Trung Quốc luôn giữ thái độ cứng rắn. Thêm vào đó là một loạt sự kiện xảy ra trên biển giữa Trung Quốc và Mĩ từ năm 2014-2015, Mĩ ngày càng cảm thấy quyền tự do hàng hải ở biển Đông bị đe dọa.. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với việc xây đảo nhân tạo, Trung Quốc còn tăng cường kiểm soát thực tế đối ở biển Đông. Ngày 5/12/2013, khi đang thu thập thông tin về cuộc diễn tập của tàu sân bay hải quân Liêu Ninh Trung Quốc ở khoảng cách gần, tàu tuần dương tên lửa Mĩ USS Cowpens (CG-63) đã bị một tàu chiến đổ bộ của Trung Quốc “chặn mặt”. Tàu chiến Trung Quốc phát tín hiệu cảnh báo yêu cầu tàu Cowpens dừng lại, tàu Mĩ từ chối lệnh dừng và tiếp tục hành trình. Sau đó, một tàu chiến đổ bộ của Trung Quốc liền lao lên trước chặn tàu Cowpens lại, buộc tàu Mĩ phải đổi hướng đột ngột, khoảng cách của hai tàu có lúc chỉ 76 m. Quan chức Mĩ gọi đây là “hành động nguy hiểm”, còn phía Trung Quốc thì cho rằng tàu Mĩ đi vào vùng diễn tập đã được thông báo trước của tàu sân bay Trung Quốc nên không thể không buộc tàu Mĩ dừng lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 19/8/2014, một chiếc máy bay tuần tra P-8 của Mĩ bay đến vùng trời cách phía đông đảo Hải Nam 220 km tiến hành trinh sát gần. Một máy bay tiêm kích hải quân Trung Quốc J-11b áp sát và lộn nhào khi chặn đầu máy bay Mĩ, phô trương trang thiết bị tên lửa trước máy bay Mĩ. Khoảng cách giữa hai máy bay có lúc chỉ khoảng 6m. Sau sự việc, quan chức Lầu 5 góc cho biết: “Máy bay chiến đấu Trung Quốc đã thực hiện động tác táo tợn, thân máy bay nghiêng 90° khi luồn qua đầu máy bay tuần tra của Mĩ, nhằm phô trương vũ khí dưới thân máy bay. Sau đó, máy bay chiến đấu của Trung Quốc bay kèm bên hông máy bay Mĩ, cánh máy bay hai bên có lúc chỉ cách nhau 30 Ft (9,1 m).” Lầu 5 góc còn cho biết thêm, sau đó máy bay chiến đấu Trung Quốc làm động tác nhào lộn một vòng phía trên chiếc máy bay tuần tra của Mĩ, khi nó bay qua, hai chiếc máy bay chỉ cách nhau 45 Ft (13,72 m). Bộ Quốc phòng Mĩ nói, động tác của máy bay Trung Quốc rất không chuyên nghiệp, nguy hiểm và vi phạm quy định quốc tế. Phó Cố vấn an ninh quốc gia Nhà Trắng Rhodes gọi hành động của máy bay chiến đấu Trung Quốc là “khiêu khích rất đáng lo ngại”, và Mĩ đã gửi công hàm phản đối Trung Quốc t qua kênh ngoại giao.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tối 23/8, trang mạng chính thức của Bộ Quốc phòng Trung Quốc đăng tuyên bố của người phát ngôn Dương Vũ Quân. Tuyên bố nêu rõ, lúc 9:00 sáng ngày 19, một máy bay chống tàu ngầm P-3 và một máy bay tuần tra P-8 của Mĩ bay vào vùng trời cách đảo Hải Nam 220 km về phía đông để tiến hành hoạt động trinh sát gần. Máy bay tiêm kích hải quân Trung Quốc J-11b cất cánh tiến hành công việc nhận dạng, xác minh thông thường. Thao tác liên quan của phi công Trung Quốc là chuyên nghiệp và giữ khoảng cách an toàn với máy bay Mĩ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có nhà bình luận quân sự cho rằng: sự việc xảy ra như một phiên bản của cuộc va chạm giữa máy bay Trung Quốc và máy bay Mĩ năm 2001, chỉ khác là “lần này không xảy ra sự cố”. Hành vi này của Trung Quốc gần như một sự phô trương, vượt quá giới hạn cần thiết cho việc xua đuổi, nguy hiểm khó chấp nhận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/5/2015, khi tàu chiến USS Fort Worth (LCS-3) chạy đến gần đảo Trường Sa Lớn thì bị tàu hộ vệ hải quân Trung Quốc Diêm Thành bám theo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đầu tiên tàu chiến Mĩ đi vào gần đảo Trường Sa Lớn do Việt Nam kiểm soát, việc tàu chiến Trung Quốc bám đuôi như vậy không khỏi làm người ta chú ý. Quân đội Mĩ cho biết hai bên tuân thủ “quy tắc ứng xử khi gặp nhau ngoài ý muốn”, tiến hành trao đổi mang tính chuyên nghiệp, không tạo thành xung đột. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 3/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nhấn mạnh, để ứng phó với mọi hành vi xâm phạm chủ quyền và đe dọa an ninh quốc gia Trung Quốc, phía Trung Quốc tiếp tục giám sát tình hình trên biển và trên không có liên quan . Dưới tác động đồng thời của nhiều nhân tố, đầu tháng 5/2015, Bộ Quốc phòng Mĩ công bố “Báo cáo về quân sự Trung Quốc và tình hình phát triển an ninh”, nêu rõ do năm 2015 Trung Quốc tăng cường xây đảo tại biển Đông,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nên Mĩ phải tính đến phương thức khác để đối phó với Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/5, một quan chức dấu tên Bộ Quốc phòng Mĩ tiết lộ rằng Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Carter yđã yêu cầu xem xét các phương án ứng phó bao gồm: điều máy bay trinh sát hải quân đến các đảo / đá đang tranh chấp của Trung Quốc ở biển Đông, và phái tàu chiến tuần tra trong phạm vi 12 hải lí của các đảo / đá có liên quan.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 16/5, trước ngày thăm Trung Quốc, Kerry tuyên bố cần cho Trung Quốc “hiểu cặn kẽ” mức độ nghiêm trọng của vấn đề này. Tuy nhiên, trong suốt chuyến thăm, sau khi gặp mặt Lí Khắc Cường và Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Phạm Trường Long, ông còn nghe tuyên bố cứng rắn của Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị: “việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và lãnh thổ của Trung Quốc vững như hòn đá tảng, không hề lay chuyển.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc không hề nhượng bộ. Ngày 20/5, máy bay trinh sát P-8A của Mĩ tuần tra tại khu vực gần đảo Hải Nam, chở theo nhà báo Erin Burnett hãng CNN. Nhà báo CNN ghi lại toàn bộ quá trình tuần tra, đồng thời chụp hình lại toàn bộ hiện trạng công trình trên các đảo của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các cuộc tuần tra như vậy của Mĩ diễn ra thường xuyên nhưng rất ít công khai, hơn nữa việc mời nhà báo đưa tin mới chỉ là lần đầu tiên trong suốt mấy năm qua. Hành động của Mĩ vẫn còn chừa chỗ, chẳng hạn không đi vào khu vực cách đảo 12 hải lí, điều đó dường như đã được Kerry và lãnh đạo Trung Quốc ngầm thỏa thuận. Tuy nhiên sau đó, phía quân đội Mĩ cũng tuyên bố: không loại trừ sau này sẽ tiến vào phạm vi 12 hải lí. Tuyên bố đó lại vấp phải sự phản kháng quyết liệt của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước phản kháng từ phía Trung Quốc, ngày 28/5, dự lễ nhậm chức Tư lệnh mới của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mĩ Harris tại Hawaii, bộ trưởng quốc phòng Mĩ Carter hối thúc: “Trung Quốc và các nước liên quan lập tức ngừng hoạt động lấp biển xây đảo ở biển Đông, đồng thời kêu gọi các quốc gia liên quan ngừng xây dựng cơ sở quân sự trên các đảo tranh chấp và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Và Mĩ sẽ tiếp tục tiến hành tuần tra tại biển Đông theo quy định luật pháp quốc tế.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đầu tiên Mĩ nêu rõ yêu cầu Trung Quốc dừng xây đảo. Trong Đối thoại Shangri La sau đó ít lâu, Trung Quốc lại trở thành tiêu điểm tranh cãi. Carter một lần nữa yêu cầu Trung Quốc dừng các công trình xây dựng đảo và nói: Mĩ không có ý quân sự hóa tranh chấp biển Đông, nhưng cũng đảm bảo “không ai có thể ngăn cản” quyền tự do hàng hải của tàu bè Mĩ tại biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước dư luận và áp lực quốc tế, cuối cùng, ngày 16/6 Trung Quốc thông báo: “Trung Quốc sẽ hoàn thành các công trình bồi đắp trên các đảo có trú đóng tại quần đảo Nam Sa vào thời gian tới.” Sau đó lại tuyên bố: “Sau khi hoàn thành việc bồi đắp, chúng tôi sẽ tiến hành xây dựng các cơ sở đáp ứng các chức năng liên quan trong giai đoạn tiếp theo”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Rốt cục, liệu Trung Quốc dừng xây đảo do áp lực từ phía Mĩ hay Trung Quốc đã hoàn thành việc xây đảo theo kế hoạch, đó vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Đương nhiên, có khả năng Trung Quốc và Mĩ đã đạt được thỏa thuận ngầm: Mĩ chỉ yêu cầu Trung Quốc ngừng xây dựng đảo khi dự án sắp hoàn thành, nhằm giữ thể diện cho nhau.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều người cho rằng bước đi tiếp theo của Trung Quốc sau xây dựng đảo là tiến hành quân sự hóa và tuyên bố thiết lập ADIZ ở biển Đông với ý đồ củng cố “chủ quyền” đối với đường 9 đoạn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng, sau khi tuyên bố ngừng xây đảo, Trung Quốc có tiến hành quân sự hóa hay không đã trở thành tiêu điểm gai góc với các bên. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 4/8, trong thời gian diễn ra Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN tại Kuala Lumpur, Ngoại trưởng các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mĩ, Nga, Triều Tiên và Australia cũng được mời tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN. Việc Trung Quốc xây đảo ở biển Đông vẫn trở thành tiêu điểm của Hội nghị. Các nước dự Hội nghị tuy không phê phán đích danh Trung Quốc, nhưng đều lần lượt chỉ ra rằng, hành vi lấp biển xây đảo đã phá hoại sự ổn định ở biển Đông. Nước chủ nhà Malaysia phê phán “bên xây đảo không chịu thảo luận và giải quyết vấn đề gai góc này với các nước láng giềng”; Mĩ đề xuất “đồng thuận 3 dừng” ở biển Đông: dừng lấp biển, dừng xây dựng cơ sở, dừng hành động uy hiếp, đã nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của Philippines; Australia biểu thị sự quan ngại cao độ trước tình trạng leo thang ở biển Đông. Cuối cùng, Tuyên bố chung Diễn đàn khu vực ASEAN bổ sung thêm các từ ngữ như: “quan ngại về vấn đề xây dựng đảo ở biển Đông”; “thúc giục kiềm chế các hành động đơn phương”...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 5/8, Ngoại trưởng Mĩ Kerry trực tiếp đề nghị Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị dừng xây dựng cơ sở trên các đảo nhân tạo ở biển Đông,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng bị Vương Nghị phản bác là “không thực tế”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, quân đội Mĩ đề xuất lại kế hoạch đưa tàu tuần tra vào trong phạm vi 12 hải lí của các đảo / đá do Trung Quốc kiểm soát ở biển Đông, nhưng nội bộ Chính phủ Mĩ có ý kiến tranh cãi về vấn đề này. Phái cứng rắn do quân đội đứng đầu nhiều lần thúc giục đưa tàu tuần tra. Nhưng phái ôn hòa do Obama đứng đầu lại trù trừ, không quyết tâm. Cuối tháng 9, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Mĩ và hội kiến với Obama, đem đến cơ hội cuối cùng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo hãng Thông tấn Kyodo của Nhật Bản, trước bữa tiệc công khai vào tối 25/9, Obama đã bố trí bữa tiệc tối riêng. Để có thể thảo luận cởi mở về mọi vấn đề giữa Hoa Kì và Trung Quốc, chỉ có một số rất nhỏ những người thân tín của hai nhà lãnh đạo tối cao của Hoa Kì và Trung Quốc tham dự. Các nguồn tin cho biết ngoài hai nguyên thủ quốc gia, phía Mĩ có Phó Tổng thống Biden, Ngoại trưởng Kerry, Trợ lí an ninh quốc gia Rice và Đại sứ Mĩ tại Trung Quốc Baucus; về phía Trung Quốc có Ủy viên Quốc vụ viện phụ trách công tác ngoại gia Dương Khiết Trì, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vương Nghị, Chủ nhiệm Văn phòng nghiên cứu chính sách Trung ương Đảng Vương Hỗ Ninh và Đại sứ Trung Quốc tại Mĩ Thôi Thiên Khải. Trong bữa tiệc tối kéo dài ba tiếng đồng hồ, vấn đề biển Đông được Obama nói tới nhiều nhất.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Obama nhiều lần nhấn mạnh: “Mĩ tuyệt đối không thể chấp nhận việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và cơ sở quân sự ở biển Đông”, đồng thời kêu gọi Trung Quốc “dừng lại ở đó”. Nhưng Tập Cận Bình nói: “Những nơi đó là lãnh thổ của Trung Quốc”. Hai bên đã tranh luận gay gắt nhưng không đạt được bất kì kết quả nào về vấn đề biển Đông. Ngày 25/9, hai bên họp báo chung, so với danh mục đàm phán mà hai bên đưa ra từ trước, có thể nói vấn đề an ninh biển Hoa Đông và biển Đông không đạt được tiến triển nào. Các nguồn tin cho biết sau bữa tối, trong cơn tức giận, Obama đã yêu cầu những người thân tín của mình liên lạc với Harris, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kì, và nói ngay tại chỗ rằng ông ta "phê chuẩn hoạt động tác chiến ở biển Đông”. Sự thật đúng sai cụ thể thế nào không thể xác định được, nhưng về mâu thuẫn giữa Nhà Trắng và quân đội về vấn đề này, và về quyết định cuối cùng được đưa ra sau chuyến thăm Hoa Kì của Tập Cận Bình thì được các báo cáo khác hậu thuẫn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ đầu tháng 10, Mĩ liên tục tuyên bố mạnh mẽ sẽ “sớm bắt đầu” tiến hành hoạt động tuần tra trong phạm vi 12 hải lí quanh các đảo do Trung Quốc chiếm đóng nhằm thể hiện lập trường “không thừa nhận lãnh hải có được từ các đảo nhân tạo”, nhưng hành động cụ thể được giữ bí mật. Thiếu tướng hải quân Trung Quốc đã đăng một bài trên “Báo Hoàn Cầu”, nói rằng Trung Quốc sẽ “đối đầu đáp trả.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 17/10, Mĩ lên giọng tuyên bố răng tàu khu trục USS Lassen đã tiến vào phạm vi 12 hải lí của đá Subi, không thông báo trước và cũng không vấp phải sự ngăn cản nào của phía Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kế hoạch tự do hàng hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù lần này Mĩ thực hiện kế hoạch tự do hàng hải tại biển Đông (Freedom of Navigation Program), mục đích là không thừa nhận các đảo nhân tạo tại biển Đông, nhưng điều cần chỉ ra là, kế hoạch tự do hàng hải của Mĩ không phải chỉ nhằm cụ thể vào Trung Quốc mà từ năm 1979, Mĩ bắt đầu thực thi các kế hoạch mang tính pháp lí, ngoại giao và quân sự nhằm vào “yêu sách biển quá mức” của các nước ven biển, và duy trì truyền thống tự do hàng hải trên biển. Kể từ Chính phủ Carter, các chính phủ kế tiếp đều đã kế thừa và thực hiện kế hoạch này. Hàng năm, Mĩ căn cứ vào nhận định của mình về “yêu sách biển quá mức” của các nước và khu vực để triển khai hoạt động tự do hàng hải, thách thức các nước và khu vực đó bằng luật pháp, ngoại giao hay quân sự. Về mặt luật pháp, mỗi lần hành động theo kế hoạch tự do hàng hải đều tạo ra một ví dụ mới về tự do hàng hải trong khu vực đó, nhằm thể hiện Mĩ không thừa nhận về mặt ngoại giao “yêu sách biển quá mức”, đồng thời quyết tâm sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ và duy trì tự do hàng hải. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng nói là, kế hoạch tự do hàng hải của Mĩ không liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, điều nó nhằm tới là “yêu sách biển quá mức” chứ không nhằm vào các nước đối địch với Mĩ. Ngay cả các nước bạn bè nhưng chỉ cần Mĩ thấy rằng họ thể hiện “yêu sách biển quá mức” thì cũng bị áp dụng hành động đối kháng. Mĩ đã từng thực thi kế hoạch tự do hàng hải đối với Canada, Philippines và Hàn Quốc, thách thức các “yêu sách biển quá mức”. Kế hoạch tự do hàng hải cũng không liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, đồng thời cũng không thiên vị hay giúp đỡ các nước có yêu sách chủ quyền các đảo ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng cần chỉ ra rằng, mặc dù Mĩ không kí “Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc” nhưng không có nghĩa là Mĩ không tuân thủ hoặc không có quyền thực hiện “tự do hàng hải” được Công ước quy định. Ngược lại, kế hoạch tự do hàng hải của Mĩ có đầy đủ căn cứ luật quốc tế và mỗi lần thực hiện đều tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của luật quốc tế. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trước hết, tự do hàng hải là một nguyên tắc quốc tế được thiết lập từ thế kỉ XV và không phải là thứ do Công ước ban tặng. Ngược lại, trong chừng mực nhất định, Công ước đã hạn chế quyền tự do này, Chẳng hạn, lãnh hải từ 3 hải lí theo thông lệ lúc đầu được mở rộng đến 12 hải lí, quy định nguyên tắc “đi qua vô hại”... Do đó, ngay cả Mĩ không kí kết Công ước thì vẫn có tự do hàng hải theo thông lệ quốc tế, hơn thế, thậm chí về mặt lí thuyết còn được hưởng tự do hàng hải nhiều hơn, vì nói một cách nghiêm túc, những hạn chế này của Công ước không có hiệu lực đối với Mĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tuy Mĩ không kí Công ước nhưng năm 1958 đã kí 4 công ước lớn như “Công ước về lãnh hải và khu vực tiếp giáp” hay “Công ước về các vùng biển chung”. Các công ước này hiện vẫn còn hiệu lực cho đến nay, hơn nữa Công ước 1982 thực ra là kế thừa các công ước này. Tự do hàng hải không phải do Công ước 1982 ban cho mà là điều vốn có từ xưa, hơn nữa còn được quy định thành văn trong các công ước năm 1958. Các quy định liên quan đến tự do hàng hải trong đó không mâu thuẫn với Công ước 1982. Hơn nữa, kế hoạch tự do hàng hải của Mĩ còn tuân thủ nghiêm ngặt quy định của Công ước 1982 và 1958. Vì thế, không chấp nhận quyền tự do hàng hải của Hoa Kì chỉ vì nước này không kí Công ước 1982 là không hợp lí.. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Mĩ là nước có một hệ thống luật biển. Theo truyền thống luật pháp của Mĩ, các điều ước đa phương không được Hoa Kì kí kết vẫn có thể được áp dụng trực tiếp vào hệ thống pháp luật của Hoa Kì nếu chúng được coi là đã trở thành luật tập quán quốc tế. Ở Mĩ có nhiều vụ kiện áp dụng thành công loại luật quốc tế này, và đã thắng kiện trước chính phủ Mĩ. Vì vậy, ngay cả khi Mĩ chưa kí Công ước 1982, nếu kiện chính phủ Mĩ tại tòa án Mĩ về hành vi vi phạm Công ước 1982 trong một vụ kiện liên quan thì vẫn có nhiều khả năng thắng kiện.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tự do hàng hải nhìn từ góc độ luật quốc tế</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hành động tự do hàng hải của Mĩ nhằm vào đảo nhân tạo của Trung Quốc ở biển Đông phải đối mặt với nhiều vấn đề luật pháp phức tạp, vì vậy cũng cần xử lí một cách hữu hiệu và chính xác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Muốn thể hiện mục đích “không thừa nhận đảo nhân tạo, đảo nhân tạo không có tư cách có được lãnh hải”, Mĩ cần làm được hai việc: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lựa chọn đảo nhân tạo nào để đi đi vào phạm vi 12 hải lí? Điều 121 “Công ước Luật biển quốc tế” quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo là vùng đất hình thành tự nhiên, có biển bao quanh và nhô lên khỏi mặt nước khi triều cao</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”; hơn nữa, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">những đảo đá không đảm bảo cho việc cư trú hay duy trì đời sống kinh tế cho con người thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Những đảo / đá do Trung Quốc chiếm không thỏa mãn điều kiện có vùng đặc quyền kinh tế. Chúng được chia làm hai loại: một loại là bãi đá thường xuyên nhô khỏi mặt nước (như đá Chữ Thập), được hưởng lãnh hải 12 hải lí nhưng không có vùng đặc quyền kinh tế; một loại khác là bãi triều thấp, tức là những bãi đá chỉ nhô khỏi mặt nước khi thủy triều xuống thấp (như đá Vành Khăn), ngay đến cả lãnh hải cũng không có nói chi đến có vùng đặc quyền kinh tế, dù có xây đảo nhân tạo trên thì cũng chỉ được có khoảng cách an toàn 500m. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu như Mĩ tiến vào vùng lãnh hải đá Chữ Thập thì sẽ không thể hiện được ý đồ của mình, vì rằng lãnh hải của đá Chữ Thập có được là dựa vào trạng thái tự nhiên của nó chứ không phải dựa đảo nhân tạo trên đó. Do đó, đá Vành Khăn vốn là bãi thủy triều thấp mới là lựa chọn cho hành động của Mĩ: bãi Vành Khăn vốn chưa có tư cách hưởng lãnh hải 12 hải lí thì dù có xây đảo to đến mấy cũng không được hưởng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tiến vào phạm vi 12 hải lí theo phương thức nào? Điều 17 Công ước quy định, các nước có quyền “đi qua vô hại” trong vùng biển 12 hải lí của các nước ven biển. Điều 18-33 Công ước quy định cụ thể việc đi qua vô hại. Do đó, dù tàu chiến mặt nước của Mĩ có đi qua trong vùng 12 hải lí của đá Vành Khăn thì việc này cũng có thể giải thích là đi qua vô hại trong “lãnh hải của đá Mĩ Tế (Vành Khăn)”. Vì thế, Mĩ buộc phải thực hiện hành động “đi qua có hại” trong khu vực 12 hải lí của đá Vành Khăn thì mới có thể thể hiện được quan điểm vùng biển này không phải là lãnh hải của đá Vành Khăn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với Mĩ, các lựa chọn đơn giản cho “việc đi qua có hại” trong phạm vi 12 hải lí quanh Đá Vành Khăn gồm: </span></p><ul style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một là, dừng lại lâu trong vùng biển này, việc này không thỏa mãn định nghĩa về đi qua, nhưng thời gian dừng bao lâu mới là đủ có thể vẫn còn tranh cãi, hơn nữa có thể dẫn đến nguy cơ đối đầu; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hai là, vào ra nhiều lần vùng biển này nhưng điều này tỏ rõ ý khiêu khích nên không phù hợp với ý định ban đầu của Mĩ; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ba là, dùng tàu ngầm, nhưng nếu tàu ngầm nổi trên mặt nước khi di qua một khu vực nào đó thì sẽ là “đi qua vô hại” (xem điều 20 Công ước). Vì vậy chỉ cần tàu ngầm đi qua dưới mặt nước trong phạm vi 12 hải lí thì có thể coi như “không là đi qua vô hại”. Trong thời gian thực hiện, tàu không nổi lên, nhưng tính khả thi của nó bị hạn chế bởi thủy văn; </span></p></li><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cuối cùng, cho máy bay lên thẳng cất cánh từ tàu chiến. Căn cứ vào quy định 2e điều 19 Công ước, phương thức này không phải là đi lại vô hại, hơn thế còn tương đối thuận tiện và nhanh chóng. </span></p></li></ul><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, nếu Mĩ muốn đạt được ý định thì vận dụng hai phương thức sau là phù hợp nhất. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thông tin nhiễu loạn về tuần tra của Mĩ tại biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuộc tuần tra tại biển Đông ngày 27/10, tàu USS Lassen không tiến vào vùng biển đá Vành Khăn mà lựa chọn bãi Subi vốn chỉ nổi khi triều thấp. Tuy nhiên,trong quá trình tuần tra đã gặp rất nhiều vấn đề. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phía chính quyền Mĩ lúc đầu không công bố chi tiết tuần tra, chỉ nói một cách mập mờ là sẽ tiến vào phạm vi 12 hải lí, cũng không hề nói sẽ làm những gì ở đó. Nhưng những chi tiết đó rất quan trọng để phán đoán hành động tiến vào phạm vi 12 hải lí là “đi qua vô hại” hay “đi qua có hại”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo một quan chức giấu tên của Mĩ, sau khi tiến vào phạm vi 12 hải lí, tàu của Mĩ đã tắt radar, và không có máy bay bay lên hay đáp xuống.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Mĩ lại tiết lộ, khi đó có tàu Trung Quốc đi theo phía sau, hai bên trao đổi bằng tiếng Anh qua vô tuyến điện, không khí thân thiện, thậm chí nói năng như với người nhà. Nếu đúng như vậy thì cuộc tuần tra lần này giống như thực hiện quyền “đi qua vô hại”. Bộ Ngoại giao Mĩ tuyên bố “không phải đi qua vô hại” nhưng thực tế Bộ Quốc phòng là bên thực hiện thì lại không thể hiện rõ ràng. Mấu chốt vấn đề là nếu tàu Mĩ đúng là “đi qua có hại” thì phải đưa bằng chứng về việc đi qua có hại đó. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên các phương tiện thông tin đại chúng, đa số các chuyên gia khác và khách mời đều không hiểu lắm vấn đề này. Chẳng hạn, khách mời của hãng CNN đều viện lí do “đi qua vô hại” để hợp lí hóa hành vi của Mĩ, thậm chí bình luận đồng thời việc này với hành vi “đi qua vô hại” của tàu chiến Trung Quốc xuyên qua quần đảo Aleutian trước đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, một số chuyên gia luật của Mĩ đã nhanh chóng chú ý đến vấn đề này. Sau cuộc tuần tra của tàu Mĩ, hai chuyên gia Think Tank là Adam Klein và Mira Rapp-Hooper đã đăng nhiều bài phát biểu trên mạng Lawfare để thảo luận vấn đề này và chất vấn thái độ ôn hòa của Chính phủ Mĩ: hành động này rốt cục là “đi qua vô hại” hay “đi qua có hại”? Nếu đúng là đi qua vô hại thì chẳng phải đó là một dạng thừa nhận Trung Quốc có quyền lãnh hải đối với đảo nhân tạo trên đá Subi sao? Chẳng phải đó là đi ngược với ý định ban đầu của Bộ Quốc phòng hay sao?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những tranh luận đó đã truyền tới giới chính trị. Ngày 11/11, Thượng nghị sĩ có uy tín McCain gửi thư đến Bộ Quốc phòng yêu cầu làm rõ ý nghĩa pháp lí của việc tuần tra. Cuối cùng, ngày 7/1/2016, Bộ Quốc phòng đã trả lời câu hỏi của McCain, công khai các chi tiết và căn cứ pháp lí của việc tuần tra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một là, tàu USS Lassen khi đó tiến vào vùng 12 hải lí tại 5 đảo đá gồm: bãi Subi (Subi Reef), đảo Song Tử Đông (Bắc Tử / Northeast Cay), đảo Song Tử Tây (Nam Tử / Southwest Cay), rạn đá Gạc Ma (Xích Qua / South Reef) và đảo Sơn Ca (đá Đôn Khiêm / Sand Cay), những đảo / đá này do Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và Philippines chiếm đóng hoặc yêu sách, tất cả các nước đều không được thông báo trước. Hai là, khi đó tàu USS Lassen chạy liên tục ngang qua các vùng biển này, cách làm đó thuộc hành vi “đi qua vô hại”, tức là có thể thực hiện ở lãnh hải hay ở vùng biển chung. Ba là, tại sao Subi vốn là bãi triều thấp mà vẫn “đi qua vô hại”, lí do là dù bản thân bãi đá Subi không thể có lãnh hải nhưng nó lại nằm trong phạm vi 12 hải lí của đảo Sơn Ca có quyền có lãnh hải. Vì vậy bãi Subi cũng có quyền được dùng làm đường cơ sở phân định lãnh hải. Đảo Sơn Ca tuy do Việt Nam chiếm đóng nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền ở đây, vì vậy Mĩ không thể xác định được Subi có thể có lãnh hải hay không. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lập luận này dựa trên Điều 13 về “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bãi triều thấp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trong điều 13 Công ước: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1/ Bãi triều thấp là vùng đất tự nhiên, có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên lên thì bị ngập nước. Nếu khoảng cách giữa toàn bộ hay một phần bãi đó với lục địa hoặc một đảo không vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì ngấn nước triều thấp nhất trên các bãi này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2/ Nếu khoảng cách giữa toàn bộ bãi triều thấp với lục địa hoặc một đảo vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì nó không có lãnh hải riêng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt pháp lí, tình trạng của đá Subi rất phức tạp. Đá Subi là bãi triều thấp nên tự nó không có quyền có lãnh hải, tuy nhiên nó lại nằm nằm phạm vi 12 hải lí của đảo Sơn Ca / đá Hoài Ân (Sandy Cay), đều có quyền có lãnh hải. Do đó, theo điều 13, ngấn nước triều thấp của Subi có thể dùng để vẽ đường cơ sở lãnh hải cho Sơn Ca / Hoài Ân. Nói cách khác, dù bản thân đá Subi không có lãnh hải, nhưng nếu phụ thuộc vào đảo Sơn Ca / Hoài Ân thì nó sẽ được quy thuộc chủ quyền và địa vị pháp lí theo đảo Sơn Ca / Hoài Ân. Dù trên thực tế thì hiện nay đảo Sơn Ca do Việt Nam kiểm soát, đá Subi do Trung Quốc, còn Hoài Ân chưa ai kiểm soát nhưng cả hai [và cả Philippines] đều tuyên bố có chủ quyền đối với Sơn Ca và Hoài Nhơn. Và do đó, dù thuộc về Trung Quốc, Việt Nam [hay Philippines] thì Subi vẫn nằm nằm bên trong đường cơ sở lãnh hải của Sơn Ca / Hoài Nhơn. Hơn nữa, theo phán quyết của Tòa án quốc tế năm 2001 thì bãi triều thấp nói chung thuộc chủ quyền của nước có lãnh hải bao quanh nó, còn phán quyết năm 2012 nó không phải là đối tượng để sở hữu (appropriate). Phán quyết Tòa trọng tài năm 2016 lập lại kết luận phán quyết 2012 và nói thêm nó được coi như là một phần của đáy biển tương ứng, nếu nó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế. Chính vì tính phức tạp pháp lí này mà tàu Lassen đã thực hiện “đi qua vô hại” chứ không phải “đi qua có hại”. [đoạn này ko theo sát bản chính, có chỉnh lại theo các nghiên cứu khác - ND] </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói tóm lại, mặc dù cuộc tuần tra của tàu Lassen chứng tỏ quyền tự do hàng hải của Mĩ, nhưng lại không có tác dụng thể hiện ý định ban đầu là “đảo nhân tạo không có lãnh hải”; do tính phức tạp pháp lí của đá Subi nên đã tránh bị chỉ trích là “ngầm thừa nhận đảo nhân tạo của Trung Quốc có lãnh hải”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phân tích cuộc tuần tra của tàu USS Lassen </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù vấn đề luật pháp của hành trình tàu Lassen đã rõ ràng, nhưng vấn đề chính trị vẫn còn tồn tại. Mĩ có thể dễ dàng lựa chọn đá Vành Khăn vốn là bãi đá tương đối độc lập (nó không nằm trong phạm vi 12 hải lí của bất cứ đảo hay rạn đá nào), nhưng tại sao lại nghiêng sang chọn đá Subi có tình trạng pháp lí phức tạp? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác giả cho rằng, đó là vì Trung Quốc và Mĩ đã có thỏa thuận ngầm. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là, Mĩ cố tình không chọn đá Vành Khăn là nơi có thể thể hiện rõ ràng lập trường mà lại chọn đá Subi là nơi có tính pháp lí phức tạp, sử dụng phương thức “đi qua vô hại” chứ không phải “đi qua có hại” nhằm chừa chỗ cho sự việc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai là, sau sự việc, Mĩ trì hoãn công bố chi tiết, cũng là để tạo sự mơ hồ trong sự việc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba là, trong khi quân Mĩ hành động, Trung Quốc không phái tàu ra đối đầu. Mĩ dùng tàu khu trục tốc độ chậm chứ không dùng tàu chiến ven biển tốc độ cao, tức là muốn đàng hoàng tiến vào vùng 12 hải lí. Trong điều kiện rất đầy đủ thông tin, nếu Trung Quốc muốn ngăn chặn, họ có thể thực hiện tương tự như với USNS Impeccable và USS Cowpens. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bốn là, tháng 9, Trung Quốc “vô cớ” tiến vào vùng biển 12 hải lí của quần đảo Aleutian thuộc Alaska của Mĩ, đối với sự việc này Mĩ cư xử phù hợp với luật quốc tế. Mĩ đã nhượng bộ Trung Quốc một bước để Trung Quốc có bước lùi sau hành động của quân đội Mĩ. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm là, điều đáng ngạc nhiên là dù Mĩ lớn tiếng công bố sẽ tiến hành hoạt động này, Trung Quốc lại không chỉ trích với “giọng điệu gay gắt”; mà ngược lại, Phạm Trường Long còn phát biểu trong Hội nghị Hương Sơn rằng ngay cả khi “liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ thì Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ không dùng đến vũ lực”; còn Ngoại trưởng Vương Nghị thì không dùng từ “cảnh cáo” mà dùng từ “khuyên nhủ” ít khi sử dụng, hy vọng Mĩ “suy nghĩ kĩ trước khi hành động”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sáu là, sau khi xảy ra sự việc, tờ “Thời báo Hoàn Cầu” đăng bài “Lời khuyên tàu chiến Mĩ rời khỏi phạm vi 12 hải lí các đảo ở Nam Hải”. Lời lẽ bài viết ôn hòa một cách kì lạ, nói cho người Mĩ nghe thì ít mà “xoa dịu” các phần tử dân tộc chủ nghĩa trong nước nhiều hơn: “vấn đề tuần tra của Mĩ không lớn”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảy là, trả lời về sự kiện này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng nói rằng tàu Trung Quốc “giám sát, bám theo và cảnh cáo” nhưng không sử dụng biện pháp “truy đuổi” như vẫn thường dùng trong trường hợp tương tự, cũng không nói rằng Mĩ xâm phạm lãnh hải Trung Quốc mà chỉ nói Mĩ uy hiếp “lợi ích chủ quyền và an ninh Trung Quốc, đe dọa an toàn về người và cơ sở trên đảo, làm tổn hại đến hòa bình và ổn định khu vực”. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, trong bài viết của tờ “Thời báo Hoàn Cầu” còn có một chi tiết ít thấy trong đại đa số truyền thông Trung Quốc trước đây, đó là thừa nhận “các đảo và đá tại Nam Sa do Trung Quốc kiểm soát đều thuộc loại 2 và loại 3”, tức là “(2) đá, nổi chút ít trên mặt nước, có lãnh hải 12 hải lí, không có vùng đặc quyền kinh tế” ; và “(3) bãi triều thấp, khi thủy triều rút mới lộ trên mặt nước, khi thủy triều lên bị chìm dưới mặt nước, không có lãnh hải 12 hải lí”. Điều đó có nghĩa “Thời báo Hoàn Cầu” cũng thừa nhận đá Subi và đá Vành Khăn do Trung Quốc chiếm không được hưởng lãnh hải và các rạn đá như Chữ Thập không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế (và thềm lục địa). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những sự việc tiếp sau cũng chứng tỏ có thỏa thuận ngầm nào đó giữa Mĩ và Trung Quốc. Ngày 13/11, Lầu 5 góc tuyên bố có 2 máy bay ném bom B52 bay gần quần đảo Trường Sa trong tuần đã bị nhân viên quản lí không phận của Trung Quốc cảnh cáo, đồng thời nói rằng máy bay chưa tiến vào phạm vi 12 hải lí trên các đảo/đá có tranh chấp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 10/12, một máy bay ném bom B52 lại bay vào phạm vi 12 hải lí của đá Châu Viên (Hoa Dương). Châu Viên là một bãi đá nhô khỏi mặt nước, có quyền có không phận 12 hải lí. Điều 17 Công ước quy định: đi qua vô hại chỉ áp dụng cho tàu thuyền mà không phải cho máy bay.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều 5 “Công ước hàng không dân dụng quốc tế” quy định: “Các nước kí kết thỏa thuận rằng tất cả máy bay của các nước kí kết thực hiện các chuyến bay quốc tế không theo định kì, tuân thủ quy định của Công ước này, có quyền bay vào hoặc bay qua lãnh thổ nước mình mà không hạ cánh, hoặc hạ cánh không vì mục đích thương mại, không cần phê chuẩn trước, nhưng phải phụ thuộc vào lệnh hạ cánh của quốc gia mà máy bay bay qua.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, điều đó chỉ áp dụng với máy bay dân dụng chứ không phải máy bay quân sự. Do đó, hành động lần này của Mĩ có đi ngược với luật quốc tế nhưng hai bên đã bưng bít thông tin trong suốt 9 ngày, đến khi giới truyền thông phanh phui sự việc thì Mĩ mới giải thích rằng máy bay đã bay lạc vì lí do thời tiết và việc đó không nằm trong kế hoạch tự do hàng hải. Trung Quốc bày tỏ ý kiến cho rằng việc này không được làm thành lệ, với lời lẽ ôn hòa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những điểm nêu trên cho thấy, dù vấn đề biển Đông rất quan trọng, nhưng nó còn xa mới là toàn bộ quan hệ Mĩ - Trung. Việc tuần tra của tàu USS Lassen được thúc đẩy bởi những cân nhắc chính trị hơn là những cân nhắc về mặt pháp lí. Thay vì chọn cách tuyên bố thẳng thừng rằng “đảo nhân tạo không có lãnh hải” mà chọn cách duy trì khả năng leo thang hành động (triển khai thêm một bước kế hoạch tự do hàng hải), vừa có thể kết giao với đồng minh và các nước đối tác trong khu vực, vừa có thể hòa hoãn xung đột trong quan hệ với Trung Quốc, chừa chỗ để khai thông và thỏa hiệp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, hành vi đó cũng có vẻ khích lệ Trung Quốc tiến gần tới luật quốc tế hơn. Điều đáng chú ý là, thái độ của Trung Quốc về tự do hàng hải trong những năm gần đây đang có dấu hiệu thay đổi. Như phần VI.2 đã nêu, trong sự kiện tàu USNS Impeccable năm 2009, Trung Quốc cho rằng tàu chiến nước ngoài không được hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc khi chưa được phê chuẩn, điều này trái với “Công ước luật biển quốc tế”. Nhưng trong sự kiện tàu USS Cowpens năm 2013, Trung Quốc đã không kiên định cái gọi là nguyên tắc “tàu thuyền nước ngoài phải đi qua vô hại trong vùng đặc quyền kinh tế”, thái độ rất khác so với sự kiện tàu USNS Impeccable. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, trong những năm gần đây, cùng với việc chuyển mình thành một cường quốc hải quân, ngày càng có nhiều trường hợp Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. Việc Trung Quốc thường xuyên có các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản ở biển Hoa Đông, hạm đội của họ thường xuyên ra vào Miyako Kaido và tàu ngầm hoạt động dưới nước đã không còn là điều mới lạ. Hoạt động của hải quân Trung Quốc còn mở rộng hơn tại vùng đặc quyền kinh tế của đảo Guam và Hawaii của Mĩ. Tháng 9/2015, hạm đội Trung Quốc còn chạy qua tuyến đường biển quần đảo Aleutian của Mĩ. Đối với các hoạt động của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế, Mĩ đánh giá là phù hợp với luật quốc tế, thậm chí còn thể hiện thái độ hoan nghênh. Cùng một tiêu chuẩn, Trung Quốc không có lí do gì để ngăn cản hoạt động của Mĩ tại vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc tại biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vấn đề biển Đông, việc Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế sẽ là sự lựa chọn phù hợp và đúng đắn. Lí do là: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc tham gia trong suốt quá trình xây dựng Công ước, sau đó đã kí kết và Quốc hội Trung Quốc cũng đã phê chuẩn Công ước. Đó không phải là nguyên tắc do nước ngoài đặt ra và áp đặt vào Trung Quốc, không có chuyện “Trung Quốc không phải tuân thủ quy tắc do nước khác đặt ra” ở đây. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Công ước đến nay đã trở thành quy chuẩn về hành vi trên biển của cộng đồng quốc tế. Nếu Trung Quốc ngang nhiên vi phạm Công ước sẽ gặp bất lợi về mặt đạo đức và pháp lí, để lại hình ảnh “không tuân thủ luật lệ” trong con mắt thế giới, gây phương hại nghiêm trọng đến mục tiêu trở thành “nước lớn có trách nhiệm” và mong muốn đóng vai trò đặt ra luật lệ cho thế giới. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vào lúc Công ước đang xây dựng, Trung Quốc vẫn còn là quốc gia biển yếu ớt, và đứng trên lợi ích của các quốc gia ven biển để xem xét. Nhưng đến nay, Trung Quốc đã trở thành cường quốc biển, nên càng mở rộng biển càng có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc cần “vươn ra ngoài”, tự do hàng hải là cực kì quan trọng. Dưới sự kiên định và cố gắng của các cường quốc biển như Mĩ, Công ước đã giữ được rất nhiều lợi ích có lợi cho các cường quốc biển, rõ nét nhất, và cũng dễ nhận thấy nhất chính là tự do hàng hải. Vì thế, xuất phát từ lợi ích thực tế, quyền lợi biển của Trung Quốc và Mĩ hiện nay đi cùng một hướng chứ không phải đi ngược nhau. Nếu có thể, Trung Quốc có lẽ vừa muốn mình có quyền tự do hàng hải, vừa không sẵn lòng để nước khác có quyền lợi này. Nhưng điều đó vừa không phù hợp đạo lí chung, vừa không sát thực tế. Trong tình trạng lợi ích toàn cầu và lợi ích cục bộ mâu thuẫn nhau, Trung Quốc phải đưa ra lựa chọn. Về phương diện này, Trung Quốc đã có lợi ích thực tế từ một vài đảo nhân đảo tại biển Đông, nếu tiếp tục khăng khăng đòi hỏi những yêu cầu không phù hợp với luật quốc tế thì hậu quả sẽ chỉ làm tổn hại đến lợi ích toàn cầu lâu dài của Trung Quốc. Xã luận “Thời báo Hoàn Cầu” hầu như cũng thể hiện ý nguyện chuyển theo hướng này của Trung Quốc. Một số chuyên gia Trung Quốc chỉ ra rằng, Trung Quốc thật sự đã thay đổi lập trường về vùng đặc quyền kinh tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiểu kết về sự kiện đảo nhân tạo </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện tự do hàng hải, Obama tiếp tục kêu gọi Trung Quốc dừng xây dựng đảo nhưng Trung Quốc vẫn kiên quyết tiếp tục các công trình trước đây. Tháng 1/2016, Trung Quốc ngang nhiên tiến hành bay thử lần thứ nhất trên đá Chữ Thập nhưng sử dụng máy bay dân dụng chứ không phải máy bay quân sự. Hành vi đó bị Việt Nam phản đối. Việt Nam còn trình lên Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO): đá Chữ Thập nằm trong khu vực thông tin bay của Việt Nam, máy bay dân dụng Trung Quốc bay vào khu vực này lại không thông báo với cơ quan quản lí bay của Việt Nam theo quy định. Tuy nhiên, tranh chấp “vô thưởng vô phạt” này đã không ngăn được Trung Quốc tiếp tục xây đảo nhân tạo theo kế hoạch ban đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xây dựng đảo nhân tạo là kế hoạch được Trung Quốc nung nấu từ lâu. Sử dụng năng lực kĩ thuật công trình lớn làm chỗ dựa, lấy sức mạnh quân sự làm hậu thuẫn, lấy “chủ quyền quốc gia” làm cơ sở pháp lí, chỉ trong hai năm ngắn ngủi, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc đã xây dựng một số đảo và đá nhỏ thành những “quái vật khổng lồ” ở biển Đông. Điều đó đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo vùng biển quần đảo Trường Sa, và đặt nền tảng vật chất và quân sự vững chắc để Trung Quốc tiếp tục kiểm soát biển Đông thêm một bước, cũng tạo điều kiện cho Trung Quốc thiết lập ADIZ ở biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7 đảo nhân tạo được Trung Quốc xây dựng trên các đảo đá mà Trung Quốc tự tuyên bố chủ quyền và đã kiểm soát thực tế trước năm 2002 và do đó cũng đã có người cư trú trước năm 2002, nên về lí thuyết không vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC). Tuy nhiên, không nghi ngờ gì rằng động thái này có tác động nghiêm trọng đến tình hình ở biển Đông và cũng vi phạm tinh thần của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở ở biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoạt động lấp biển ở các đảo của các quốc gia tuyên bố chủ quyền lãnh thổ tại biển Đông không thể sánh kịp với việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc về quy mô và chức năng, vì thế họ phản đối gay gắt là điều hợp tình hợp lí. Tuy nhiên, ngoài việc phản đối, có lẽ không còn cách nào khác. Vì không có luật quốc tế nào có thể ngăn cản những hành động của Trung Quốc, áp lực ngoại giao cũng không có tác dụng với chiến lược “cắt lát salami” (chiến thuật tằm ăn dâu) của Trung Quốc. Bản thân các nước ASEAN không đủ mạnh để đối đầu với Trung Quốc, vì vậy họ chỉ có thể từng bước dựa vào các lực lượng bên ngoài như Mĩ, Nhật, Ấn Độ, Australia… Đối với các nước lớn này cách duy nhất là tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự thực tế (ví dụ như tuần tra), và thậm chí thiết lập lại các căn cứ quân sự ở biển Đông, biến can thiệp quân sự thành trạng thái “bình thường mới”, điều này sẽ chỉ biến dần biển Đông thành “thùng thuốc súng”. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.13. Xung đột giữa Malaysia và Indonesia với Trung Quốc </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài việc đối đầu với Mĩ và tiếp tục xung đột với Việt Nam và Philippines, sau khi Trung Quốc xây dựng đảo quy mô lớn, các hoạt động của nước này ở biển Đông thậm chí còn gây ra đối đầu với Indonesia và Malaysia là hai nước vốn có lập trường lúc đầu ôn hòa. Các nước ASEAN tăng cường đoàn kết để chống lại Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với các vấn đề biển Đông, Malaysia luôn giữ thái độ mềm mỏng. Nhưng trên thực tế, từ năm 2009 đến nay, ngày càng nhiều tàu ngư chính Trung Quốc tiến sâu vào vùng biển của Malaysia để “thực thi pháp luật”. Tháng 4 /2010, tàu ngư chính Trung Quốc 311 đã tới gần đá Hoa Lau (đá Đạn Hoàn / Swallow Island), các tàu chiến và máy bay tuần tra của Malaysia cũng có mặt đối đầu tại vùng biển này trong 18 giờ. Lúc đó, Malaysia chọn cách giữ hòa dịu, tránh gây ồn ào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, những hành động của Trung Quốc ngày càng khiến cho người dân Malaysia bất mãn. Mùa xuân năm 2013, Malaysia tổ chức biểu tình phản đối việc 4 tàu Trung Quốc tiến vào bãi ngầm James (Tăng Mẫu), song Chính phủ Malaysia vẫn muốn giải quyết ôn hòa, thậm chí cố giúp Trung Quốc giấu kín sự việc. Ngày 26/01/2014, Trung Quốc ồn ào tuyên bố rằng 3 tàu chiến Trung Quốc, bao gồm: tàu đổ bộ Trường Bạch Sơn, hai tàu khu trục tên lửa dẫn đường Hải Khẩu và Vũ Hán đang tiến hành tuần tra bãi ngầm Tăng Mẫu. Trước sự ồn ào của các phương tiện truyền thông Malaysia, Bộ trưởng Hải quân Malaysia - Tướng Jafar vẫn phủ nhận sự thật, cho rằng cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc diễn ra trên vùng biển cách lãnh hải Malaysia hàng trăm hải lí về phía Bắc, không phải ở bãi ngầm James.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc xây dựng đảo quy mô lớn, Malaysia đã không thể “ngồi yên”. Ngày 4/6/2015, tàu tuần tra Trung Quốc số hiệu 1123 đã đối đầu với tàu Cảnh sát biển và tàu của Cục Thực thi Luật Hàng hải Malaysia ở vùng biển gần bãi cạn Luconia (Quỳnh Đài). Bãi cạn Luconia nằm giữa nhóm bãi cạn South Luconia (Nam Khang) thuộc quần đảo Trường Sa. Trước đây đó là một bãi đá ngầm chìm dưới nước, nhưng hiện tại nó đã phát triển thành một đảo nhỏ cao hơn 10 m so với mặt nước khi thủy triều xuống, dài hơn 170 m, rộng 20 m, khi thủy triều lên cao nhất cũng cao từ 2 đến 3 m, dài khoảng 60 m, rộng hơn 10 m. Do chịu ảnh hưởng của thủy triều lên xuống, diện tích dao động vài chục mét vuông, nhưng diện tích hiện nay ngày càng mở rộng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Malaysia gọi bãi Nam Khang và bãi Bắc Khang là Luconia Shoals, cách đảo Borneo khoảng 150 km, rất gần điểm cực Nam của đường 9 đoạn và nằm trong thềm lục địa của Malaysia. Malaysia đã tuyên bố chủ quyền đối với chúng từ năm 1979. Malaysia đã khai thác dầu mỏ tại vùng biển bãi cạn South Luconia. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quan chức Malaysia chỉ ra rằng, tàu tuần tra Trung Quốc đã neo đậu ở vùng biển này trong hai năm qua. Phía Malaysia cũng tuyên bố rằng, hải quân và Cục Thực thi Luật Hàng hải của nước này luôn theo dõi và bảo vệ chủ quyền ở khu vực đó. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Malaysia bày tỏ, tàu thuyền các nước có thể tự do đi lại, nhưng không được thả neo nếu không được sự cho phép của Malaysia. Đối với hoạt động đánh bắt trái phép và buôn lậu của tàu nước ngoài, Malaysia hết sức chú trọng và sẽ dùng mọi biện pháp để bảo vệ và che chắn vùng biển của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia Malaysia Shahidan Kassim cho biết nơi đây không phải là nơi có tranh chấp về chủ quyền, Malaysia sẽ có hành động ngoại giao, và cũng cho biết, Thủ tướng Malaysia sẽ đề cập trực tiếp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về vấn đề này. Tư lệnh Hải quân Malaysia Abdul Aziz Jaafar nói với hãng tin AFP rằng từ tháng 9 năm trước, số lần “xâm nhập” của Trung Quốc đã gia tăng. Ngày nào Malaysia còn nhìn thấy tàu Trung Quốc thì ngày đó Malaysia còn lên tiếng phản đối. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện bãi đá Luconia Breakers (Quỳnh Đài) cho thấy, sau khi phía Trung Quốc xây đảo nhân tạo, Malaysia ngày càng ít tin tưởng Trung Quốc hơn và ngày càng đứng cùng một mặt trận với các nước ASEAN khác. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indonesia từ lâu đã vô cùng lo ngại về hoạt động của các tàu công vụ Trung Quốc ở vùng biển Natuna. Ngày 23/6/2010, tàu ngư chính 311 của Trung Quốc va chạm với tàu tuần tra của Indonesia tại vùng biển gần quần đảo Natuna. Khi các tàu tuần tra của Indonesia cố bắt giữ 10 tàu cá Trung Quốc đang đánh cá trong vùng biển này, tàu ngư chính 311 đã chĩa súng máy vào các tàu tuần tra của Indonesia dọa bắn và yêu cầu Indonesia thả các tàu đánh cá, sự việc này gần như vượt khỏi tầm kiểm soát, và cuối cùng Indonesia buộc phải tuân thủ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự việc lúc đó không bị tiết lộ ra ngoài, mãi tới tháng 8 năm đó mới được truyền thông của Nhật Bản tung ra, đồng thời người ta còn cho rằng một sự kiện tương tự như vậy đã từng diễn ra vào tháng 5 năm đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lí do khiến phía Indonesia mềm mỏng như vậy là vì họ hi vọng tiếp tục duy trì hình ảnh “trung lập” trong tranh chấp ở biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi phía Trung Quốc tiến hành xây đảo nhân tạo quy mô lớn, và Tổng thống mới Joko Widodo của Indonesia nhậm chức, Indonesia bắt đầu điều chỉnh lập trường với Trung Quốc. Ngày 15/01/2015, trong một cuộc họp báo, Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Indonesia tuyên bố rằng Indonesia đang mở rộng sự hiện diện của lực lượng không quân tại biển Đông, phát đi tín hiệu mới về việc tân Tổng thống Joko Widodo và các tướng lĩnh cấp cao trong quân đội quyết tâm đối kháng với Trung Quốc bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Natuna. Vị tướng này còn tuyên bố thẳng thừng: “Quyết tâm đánh bại mọi mưu đồ của Trung Quốc uy hiếp lãnh thổ của Indonesia ở biển Đông”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/5, Indonesia tiêu hủy 43 tàu cá bắt được tại “vùng biển của Indonesia” để “dạy” cho tàu cá nước ngoài “một bài học”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đáng chú ý là lô tàu cá bị tiêu hủy lần này có cả tàu cá của Trung Quốc. Việc Indonesia tiêu hủy tàu cá bắt được không phải là hiếm, nhưng trước đây tàu cá Trung Quốc thường được tha. Ví dụ trong sự kiện tiêu hủy tàu cá tương tự diễn ra vào năm 2014, dưới sự can thiệp ngoại giao của Trung Quốc, phía Indonesia đã tha cho 8 tàu cá của Trung Quốc. Lần này Indonesia không hề tỏ ra chùn bước trước các tàu đánh cá Trung Quốc, điều này rõ ràng là để cho thấy việc “dạy một bài học” như lời họ nói . Điều này đặc biệt là để dành cho Trung Quốc nghe. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 11/11, Bộ trưởng Điều phối Chính trị, Pháp lí và An ninh Indonesia (Coordinating Political, Legal and Security Affair Minister) Luhut Panjaitan tuyên bố rằng Indonesia không thừa nhận đường 9 đoạn của Trung Quốc,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và nếu yêu sách của Trung Quốc đối với hầu hết các vùng biển ở Biển Đông và yêu sách lãnh thổ của Indonesia ở Natuna không thể giải quyết thông qua đối thoại, thì Indonesia có thể nhờ đến Tòa án Hình sự Quốc tế để giải quyết (Phóng viên Reuters cho rằng vị Bộ trưởng này muốn nói tới cơ quan trọng tài quốc tế).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về điều này, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết: “Phía Indonesia không đưa ra yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, chủ quyền của quần đảo Natuna thuộc về Indonesia, phía Trung Quốc không có ý kiến gì khác về điều này”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai thừa nhận quần đảo Natuna thuộc về Indonesia, nhưng không đề cập đến xung đột giữa Trung Quốc và Indonesia về vùng biển xung quanh quần đảo Natuna. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vui mừng về việc Trung Quốc thừa nhận chủ quyền của Indonesia đối với quần đảo Natuna, Luhut Panjaitan tiến tới phủ nhận “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc, ông nói: “Như thế, yêu sách chủ quyền ‘Đường 9 đoạn’ của Trung Quốc sẽ không thể đứng vững được nữa, bởi vì quần đảo Natuna đã là một bộ phận của Indonesia”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình trạng pháp lí của bãi ngầm Tăng Mẫu (James Shoal)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bãi ngầm James nằm trên thềm lục địa của đảo Kalimantan thuộc Malaysia, cách bờ biển của Malaysia chỉ có 87 km (43 hải lí), cách đại lục Trung Quốc rất xa, cách cực Nam của đảo Hải Nam 870 hải lí. Đó không phải đảo mà là một bãi san hô nằm dưới mặt nước biển 22 mét. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không có bằng chứng nào Trung Quốc biết đến bãi ngầm James từ thời cổ đại. Anh là nước đầu tiên phát hiện và đặt tên cho bãi đá ngầm này. Vào thể kỉ XIX, Phòng Đo lường thủy văn hải quân Anh đã tiến hành khảo sát chi tiết ở biển Đông, bãi đá này lần đầu tiên được ghi lại trên bản đồ thủy văn, đồng thời lấy tên của nhân viên khảo sát người Anh là James Shoal để đặt tên cho bãi đá này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1935, Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc tiến hành mở rộng bản đồ cương vực lần đầu, bãi James lọt vào tầm mắt của quan chức Bộ Nội chính, họ đã phiên âm lại tên của bãi đá này theo cách phát âm của tiếng Anh là “bãi Tăng Mẫu” (Zengmu tan). Vì sao họ cho rằng một rạn san hô nằm dưới mặt nước biển hơn 20 mét là lãnh thổ của Trung Quốc? Đó có thể là vấn đề về dịch thuật. Trong tiếng Anh, từ “Shoal” dùng để chỉ khu vực nước nông ngoài biển. Nếu quan sát từ xa, thủy thủ sẽ thấy những ngọn sóng nhô lên từ khu vực này, từ đó sẽ biết đây là vùng nước nông nguy hiểm. Nhưng, từ này được dịch không chính xác thành từ “灘/tan” (than: bãi đất ven nước) trong tiếng Trung, rất dễ bị hiểu sai thành một bãi cát trên mặt biển. Những quan chức trên có thể do đó mà nhầm lẫn, hơn nữa cũng chưa từng tận mắt chứng kiến bãi James này vốn không được coi là lãnh thổ theo luật pháp quốc tế, vì thế mới đăng lên thông báo của Bộ Nội chính.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xét theo khía cạnh luật pháp quốc tế, yêu sách mà Trung Quốc đơn phương đưa ra thông qua bản đồ cương vực khó có thể đứng vững (xem mục II.8). Điều này đặc biệt đúng đối với bãi James, trong thực tiễn của luật pháp quốc tế, không có bất cứ nước nào coi loại bãi ngầm này là lãnh thổ, huống chi bãi James là do Hải quân Hoàng gia Anh phát hiện và đặt tên, do đó nếu nhìn từ khía cạnh quyền lịch sử thì người Anh mới có tư cách tuyên bố chủ quyền nhất. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế chiến II, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã tiến hành mở rộng bản đồ cương vực lần thứ hai, rất nhiều tên gọi của các đảo đá được đổi thành tên gọi theo tiếng Trung Quốc. Theo đó, tên của bãi James từ Tăng Mẫu than (bãi Tăng Mẫu) được đổi sang tên gọi tiếng Trung là Tăng Mẫu ám sa ( bãi </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngầm </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tăng Mẫu), và được đưa vào trong phạm vi của “đường 9 đoạn”, đồng thời xác định bãi James là cực nam của lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, hai bãi ngầm gần đó là Lập Địa và Bát Tiên vốn đều nằm trong danh sách của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, nhưng không biết lí do vì sao lại không được đưa vào “đường 9 đoạn”, sau đó cũng không được công bố trên danh sách của Trung Quốc Đại Lục. Đáng chú ý là, những tàu chiến của Trung Quốc đi “thu hồi” các đảo đá tại Trường Sa cũng không đi tới bãi James. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1978, Malaysia tuyên bố được hưởng vùng thềm lục địa 200 hải lí căn cứ theo “Công ước thềm lục địa của Liên hợp quốc”. Năm 1980, Malaysia tiến hành tuần tra và tuyên bố chủ quyền tại khu vực phía Nam của Trường Sa, bao gồm cả bãi Tăng Mẫu. Trên thực tế, vào những năm 1970, Malaysia đã tiến hành khai thác dầu khí tại thềm lục địa biển Đông, trong đó có một giếng dầu cách bãi ngầm James không xa về phía Bắc. Có thể nói, Malaysia đã tiến hành thực thi các quyền của mình đối với bãi James. Trong khi đó, mãi đến năm 1983, Trung Quốc mới đến bãi James lần đầu tiên. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoản 1, Điều 121 của UNCLOS 1982 quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo là khu vực đất hình thành tự nhiên có nước bao quanh và nổi trên mặt nước biển khi triều cao</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Đây là một xác nhận rõ ràng về thông lệ quốc tế lâu nay, đó là bãi ngầm không lộ trên mặt nước ở trạng thái tự nhiên thì không đủ điều kiện là lãnh thổ, càng không được có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vì thế, căn cứ theo luật quốc tế thì bãi ngầm James không được coi là lãnh thổ. Trong vấn đề tranh chấp bãi Suyan (Tô Nham / Ieodo) tại biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và Hàn Quốc, phía Trung Quốc luôn khẳng định rằng bãi Tô Nham, luôn nằm dưới mặt biển, không thể được coi là lãnh thổ, nhưng lại coi bãi ngầm James còn nằm sâu hơn bãi Tô Nham là lãnh thổ của Trung Quốc. Đây chẳng phải là “tiêu chuẩn kép” hay sao? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy nếu bãi Tăng Mẫu không được coi là lãnh thổ thì nó sẽ thuộc về ai? Theo phân tích từ luật pháp quốc tế, bãi James phải thuộc về Malaysia hơn. Lí do như sau: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là, bãi ngầm James nằm xa các đảo, bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, nằm trên thềm lục địa của đảo Kalimantan, là một cấu trúc địa lí độc lập. Như đã trình bày trong mục III.6, trên bình diện quốc tế, không có tiêu chuẩn thống nhất về phạm vi quần đảo Trường Sa, việc bãi James thuộc quần đảo Trường Sa chỉ là tuyên bố đơn phương của phía Trung Quốc. Ví dụ, người ta thường cho rằng, Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhưng thực tế Việt Nam không tuyên bố sở hữu bãi ngầm James. Trong mô tả địa lí có uy tín về quần đảo Trường Sa của Prescott, một chuyên gia về biển Đông, bãi James cũng không nằm trong phạm vi quần đảo Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai là, bãi James cách bờ biển Malaysia chỉ có 43 hải lí, gần hơn nhiều so với bất cứ hòn đảo nào lộ trên mặt nước thuộc quần đảo Trường Sa. Ngay cả khi toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc và ranh giới biển được phân chia theo nguyên tắc cách đều, thì bãi James vẫn thuộc về Malaysia. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba là, bãi James nằm trong thềm lục địa của đảo Kalimantan, khác với cấu trúc bồn trũng của quần đảo Trường Sa. Theo nguyên tắc thềm lục địa kéo dài, ngay cả khi toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc thì bãi James cũng thuộc về quốc gia có thềm lục địa liên quan là Malaysia. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bốn là, trong việc phân định biển Hoa Đông, Trung Quốc cho rằng bán đảo Hàn Quốc và đảo Nhật Bản không được hưởng quyền lợi về phân định biển giống như đại lục. Theo tiêu chuẩn này, ngay cả khi tất cả các đảo lộ ra trên mặt nước trong quần đảo Trường Sa đều thuộc về Trung Quốc, thì những đảo nhỏ bé này cũng không thể được hưởng quyền lợi giống như một đảo lớn Kalimantan của Malaysia. Do đó, bãi James lại càng phải thuộc về Malaysia.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.14. Phán quyết của Tòa trọng tài về biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc đọ sức trước và sau phán quyết của Tòa trọng tài </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bước vào năm 2016, sát ngày phán quyết của Tòa trọng tài, các bên đều triển khai một cuộc đọ sức về ngoại giao và dư luận. Trước khi Tòa trọng tài đưa ra phán quyết, Trung Quốc đã bày tỏ rõ thái độ “bốn không”, đó là: không tham gia, không chấp nhận, không thừa nhận và không thực hiện. Đến ngày 12/7/2016, sau nhiều lần trì hoãn, Tòa trọng tài đưa ra phán quyết, kết quả vô cùng bất lợi cho Trung Quốc. Trung Quốc phản ứng vụ trọng tài ở 4 cấp độ: luật pháp lí, dư luận, ngoại giao và quân sự. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt pháp lí, Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành Sách trắng:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc kiên định giải quyết tranh chấp liên quan giữa Trung Quốc và Philippines tại Nam Hải thông qua đàm phán</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, thảo luận các vấn đề pháp lí biển Đông và vụ trọng tài về biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt dư luận, Trung Quốc lần đầu tiên tỏ ý rằng bất kể kết quả của phán quyết cuối cùng như thế nào, thì đó chỉ là tờ giấy lộn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau phán quyết, cùng với việc nhắc lại chính sách “bốn không”, một mặt Trung Quốc hạ thấp Tòa trọng tài cho rằng đây không phải là Tòa án quốc tế, mà chỉ là một “tổ chức không chính thức” tạm thời, cung cấp dịch vụ thư kí để kiếm tiền. Như đã trình bày tại điểm III.9, việc hạ thấp như vậy hoàn toàn là vô nghĩa lí. Trung Quốc còn cho rằng có người Nhật đứng đằng sau, dù Shunji Yanai (Chánh án Tòa ITLOS) có thái độ thế nào đối với vụ kiện này đi nữa, sự tham gia của ông trong toàn bộ vụ kiện chỉ giới hạn ở việc lựa chọn trọng tài viên theo thủ tục - trừ việc Philippines có quyền chỉ định một trọng tài viên, thật ra Trung Quốc cũng có quyền lựa chọn một trọng tài viên, đồng thời có thể tham gia lựa chọn 3 trọng tài khác; chỉ do Trung Quốc từ chối tham gia nên mới dẫn đến việc 4 trọng tài khác đều do Shunji Yanai lựa chọn. Những trọng tài này đều là học giả về luật pháp hoặc thẩm phán có tiếng của các nước, có đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn, làm sao có thể dễ dàng bị Shunji Yanai thao túng? Trung Quốc lại nói những vị trọng tài này không phải là người châu Á, không hiểu tình hình châu Á. Tuy nhiên, nếu những người này đều là người châu Á, liệu Trung Quốc có chỉ trích rằng họ có quan hệ lợi ích và có định kiến hay không? Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân nói rằng Tòa trọng tài nhận tiền từ Philippines,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngụ ý việc Tòa trọng tài nhận tiền để làm việc, điều này lại càng vô lí hơn. Có lẽ ông ta ám chỉ quy định về kinh phí trong Điều 7 Phụ lục 7, kinh phí do hai bên chia đều (ngoài tiền thù lao cho Tòa trọng tài, kinh phí này còn bao gồm các loại chi phí dịch vụ pháp lí). Do Trung Quốc không tham dự, nên các chi phí đều do phía Philippines đơn phương gánh vác, đây là một sắp xếp không thể bình thường hơn được nữa. Giống như Tòa xử án, hai bên tham gia kiện tụng đều phải gánh vác án phí. Nếu lấy các chi phí đó để làm cái cớ hạ thấp Tòa trọng tài thì đó không những là vô lí mà còn không tôn trọng phẩm cách cũng như sự chuyên nghiệp của các thẩm phán. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kế đến, (Trung Quốc) lập luận rằng Tòa trọng tài “không có thẩm quyền” và cho rằng việc Trung Quốc không tham gia Tòa trọng tài mới là tấm gương tôn trọng luật pháp quốc tế,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nắm lấy việc nổ ra tranh cãi về khẳng định “đảo Thái Bình không phải là đảo” trong phán quyết để nói Tòa trọng tài là sằng bậy; và tuyên bố rằng “các nước lớn không cần phải tuân thủ phán quyết của tòa án quốc tế”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt ngoại giao, Trung Quốc sử dụng tất cả các nguồn lực về ngoại giao để lôi kéo các nước ủng hộ mình. Trung Quốc tuyên bố rằng tính đến ngày 11/7/2016 đã có trên 70 quốc gia ủng hộ Trung Quốc về vấn đề biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, sau khi kết thúc vụ kiện, trong số các nước mà Trung Quốc nêu tên lại có một số nước sau vụ kiện phủ nhận rằng mình đã ủng hộ lập trường của Trung Quốc (ví dụ: Ba Lan, Fiji), và có một số nước khác tuyên bố chỉ ủng hộ giải quyết vấn đề biển Đông theo luật pháp quốc tế và “Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông”, nhưng lại bị Trung Quốc diễn giải là “ủng hộ Trung Quốc”; có nước được cho là ủng hộ Trung Quốc nhưng từ ngữ biểu đạt cụ thể lại không rõ ràng, chỉ có văn bản do Trung Quốc đưa ra nên khó có thể phán đoán thật giả; có nước tuyên bố cần phải thông qua hiệp thương để giải quyết vấn đề biển Đông, tuy nhiên điều này không hề mâu thuẫn gì với phán quyết của Tòa trọng tài; chỉ có một số ít nước không liên quan (như Gambia ở Tây Phi) mới ủng hộ rõ ràng “Trung Quốc không cần quan tâm đến Tòa trọng tài ”. Tuy nhiên, không có nước nào tuyên bố rõ rằng các quần đảo tại biển Đông và biển Đông thuộc về Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc một mặt kiên trì “chính sách bốn không”, mặt khác tránh đề cập đến Tòa trọng tài biển Đông trong các dịp ngoại giao nhằm làm phai mờ ảnh hưởng của Tòa trọng tài. Ngày 14/6 tại Ngọc Kê, Vân Nam, Trung Quốc và Ngoại trưởng các nước ASEAN đã tổ chức họp. Theo tin của AFP, Ngoại trưởng Malaysia công bố văn bản về Tuyên bố chung các ngoại trưởng ASEAN “cứng rắn chưa từng có”, đề cập đến vấn đề xây dựng đảo nhân tạo, nhưng vài giờ sau đó, Ban thư kí ASEAN tuyên bố thu hồi Tuyên bố chung vì có nội dung cần phải sửa đổi ngay. Có tin đồn rằng việc đó là do chịu áp lực của nước chủ nhà Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 25/7, trong Hội nghị ngoại trưởng ASEAN tại Lào, Trung Quốc phản đối việc đưa vụ kiện trọng tài vào Tuyên bố theo đề xuất của Philippines, điều này nhận được sự ủng hộ của Campuchia và được Trung Quốc coi là thắng lợi về mặt ngoại giao. Nhưng, Tổng Thư kí ASEAN cho rằng đó là thắng lợi cho các giá trị và nguyên tắc tìm kiếm sự đồng thuận, trong Tuyên bố vẫn đề cập đến vấn đề xây dựng đảo nhân tạo và tự do hàng hải ở biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt quân sự, ngoài việc tăng cường quân sự hoá ở biển Đông, ngày 5/7, trước khi có Phán quyết, 4 thượng tướng Trung Quốc, trong đó có Tư lệnh Hải quân Ngô Thắng Lợi đã đích thân chỉ đạo cuộc tập trận ở vùng biển Hoàng Sa, bao gồm 3 hạm đội Nam Hải, Bắc Hải và Đông Hải, sử dụng các lực lượng chiến đấu trên không, tàu ngầm, tàu trên biển và lực lượng trên bờ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc đó, Mĩ, Nhật, Australia, Singapore và các nước Châu Âu tuyên bố ủng hộ vụ kiện và nhiều lần bày tỏ vụ kiện có hiệu lực pháp lí, và yêu cầu Trung Quốc tuân thủ phán quyết. Đầu tháng 7, tại Hội nghị thượng đỉnh G7 tổ chức tại Nhật Bản, các nước đã ra Tuyên bố chung, yêu cầu các nước tôn trọng kết quả của vụ kiện.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi có phán quyết về vụ kiện, Mĩ, Nhật và Australia ngay lập tức cùng ủng hộ phán quyết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước và sau khi Toà trọng tài đưa ra phán quyết, Mĩ đã điều động hai tàu sân bay USS John C. Stennis và Ronald Reagan đồng thời tới biển Đông hoạt động,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> rất có thể là để ngăn chặn việc Trung Quốc thực hiện hành vi chiếm các đảo trong khi tập trận. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 2016, một số bên tranh chấp chủ yếu ở Biển Đông đã có các cuộc bầu cử chính trị, tàm tăng thêm biến số cho vấn đề biển Đông. Tháng 1, Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng 12, ban đầu có tin đồn rằng thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng sẽ kế nhiệm chức Tổng Bí thư và trở thành nhà lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam. Truyền thông phương Tây cũng nhất trí lạc quan về ông Nguyễn Tấn Dũng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sinh ra tại Cà Mau – một tỉnh phía Nam của Việt Nam. Trước được điều về Trung ương, ông đã làm việc một thời gian dài ở miền Nam. Nếu như những tin đồn đó trở thành sự thật, thì đây sẽ là người thứ hai từ phía Nam, sau Nguyễn Văn Linh (1986-1991) đảm nhiệm chức vụ Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, đây là một việc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ trước tới nay, Nguyễn Tấn Dũng là một nhân vật tiêu biểu của phe cải cách, ông cũng được đánh giá là “phe thân Phương Tây”, đã chủ trì thúc đẩy thực hiện nhiều chương trình cải cách mở cửa, đặc biệt là tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Mĩ khởi xướng. Nhưng trong Đại hội, ông Nguyễn Tấn Dũng đã bị “cho nghỉ hưu”, thay vào đó là Tổng bí thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng – người có tuổi cao hơn đã được bầu để tiếp tục giữ chức vụ Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù vậy, nhiều nhân vật thân tín của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn nắm giữ nhiều chức vụ chủ chốt, quyền lực của Việt Nam cũng không còn chỉ tập trung trong tay của Tổng bí thư. Chưa kể, Nguyễn Phú Trọng tuy bị đồn đại là “thân Trung Quốc”, nhưng thực chất ông ta chỉ là tương đối bảo thủ, chứ không có nghĩa là sẽ nhượng bộ trong vấn đề lãnh thổ. Sau vụ kiện, Việt Nam đã ngay lập tức hoan nghênh kết quả của vụ kiện và cho biết Việt Nam cũng có thể khởi kiện Trung Quốc ra trọng tài về vấn đề biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng chú ý hơn nữa là những biến động của Đài Loan. Ngày 28/1, khi đang trong giai đoạn “vịt què”, ông Mã Anh Cửu đã phớt lờ phản ứng của Mĩ và các nước khác, đã đến thăm đảo Thái Bình (Ba Bình) cao giọng tuyên bố chủ quyền đối với biển Đông, đặc biệt nhấn mạnh Thái Bình là đảo chứ không phải là bãi đá và còn đưa ra lộ trình “Sáng kiến hoà bình ở Nam Hải”. Ngày 21/3, Mã Anh Cửu có bài phát biểu về “chính sách Nam Hải của Trung Hoa Dân quốc”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng những sáng kiến này không có nhiều ảnh hưởng. Do Đài Loan không có địa vị phù hợp trong luật pháp quốc tế và cũng do “Sáng kiến hoà bình ở Nam Hải” một mặt muốn gác lại tranh chấp, một mặt lại ngầm đồng ý với việc Trung Quốc không ngừng làm thay đổi hiện trạng, thiếu điều kiện tiên quyết mà các nước quan tâm nhất là “không thay đổi hiện trạng”. Vì thế mà Sáng kiến không được các nước chấp nhận.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi bà Thái Anh Văn của Đảng Dân Tiến lên nắm quyền, ngoài việc thay đổi lập trường “thân Trung Quốc” của chính phủ trước, chính phủ mới còn có nhiều thay đổi trong lập trường về biển Đông. Sau khi Toà trọng tài đưa ra phán quyết về biển Đông, Thái Anh Văn một mặt khẳng định Đài Loan không tham gia vụ kiện nên không bị ràng buộc; mặt khác lại khẳng định các đảo ở biển Đông và vùng biển liên quan thuộc chủ quyền của Trung Hoa Dân quốc. Nhưng quan trọng nhất là không còn một mực theo đuổi yêu sách “đường 9 đoạn”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác giả cho rằng, Đài Loan nắm giữ chìa khoá để giải quyết vấn đề đường 9 đoạn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bởi vì Chính phủ Dân quốc là Chính phủ đầu tiên vẽ ra đường 9 đoạn (khi đó là đường 11 đoạn) nên có đầy đủ tài liệu lịch sử và thẩm quyền để làm rõ ý nghĩa thực sự của đường 9 đoạn, tức là đường quy thuộc chủ quyền các đảo. Hơn thế, Đài Loan cũng là Chính phủ đầu tiên đề xuất đường 9 đoạn tạo ra chủ quyền lịch sử hay quyền lịch sử, vì vậy Đài Loan có nghĩa vụ làm rõ điều này. Nếu Đài Loan có thể tuyên bố đường 9 đoạn chỉ là đường quy thuộc các đảo, thì Trung Quốc đại lục sẽ không còn cơ sở để khăng khăng theo cách giải thích khác. Đây có thể coi là một cản trở đối với lập trường của Trung Quốc. Nếu như đường 9 đoạn được xác định là đường quy thuộc các đảo, thì các bên có tranh chấp tại biển Đông có thể giải quyết vấn đề biển Đông trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, phù hợp với lợi ích của các bên.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự thay đổi nhiệm kì Tổng thống của Philippines là biến số lớn nhất đối với vấn đề biển Đông. Do thời gian ra phán quyết của vụ kiện bị lùi đi lùi lại, ban đầu dự kiến sẽ công bố trước khi Aquino III hết nhiệm kì (ngày 30 tháng 6), nhưng cuối cùng bị lùi tới khi Tổng thống mới Rodrigo Duterte nhậm chức. Duterte là Tổng thống thuộc “phe dân tuý”. Vừa nhậm chức chưa lâu, ông đã thực hiện chính sách “gần Trung xa Mĩ” (thân Trung viễn Mĩ), khiến quan hệ với Mĩ xấu đi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông chủ trương nối lại đối thoại với Trung Quốc về vấn đề biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thái độ của ông đối với vụ trọng tài là ủng hộ kết quả vụ kiện là chính, nhưng mặt khác lại tuyên bố nếu Trung Quốc đầu tư thì hai bên có thể cùng khai thác. Đầu tháng 8, Philippines cử cựu Tổng thống Ramos làm đặc phái viên tới Hong Kong để gặp Phó Oánh, Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, mở đầu cho việc tiếp xúc mới giữa hai bên.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 20/10, Duterte thăm Trung Quốc, nhận được sự chào đón nồng hậu của Trung Quốc và được tặng món quà là 13 dự án hợp tác song phương, quan hệ Trung Quốc và Philippines được nối lại toàn diện. Trong “Tuyên bố chung Philippines - Trung Quốc”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có 3 điều liên quan tới mâu thuẫn cốt lõi về biển Đông, không khác nhiều so với tuyên bố được đưa ra trước khi xảy ra tranh cãi giữa Trung Quốc và Philippines, vụ trong tài về vấn đề biển Đông không được đưa vào trong Tuyên bố chung: không công nhận có hiệu lực cũng không tuyên bố vô hiệu. Trung Quốc và Philippines nhìn chung vẫn đi trên con đường “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Ngay sau đó, ngư dân Philippines không còn bị ngăn cản tới đánh cá ở bãi Scarborough, và tàu hải cảnh của Philippines cũng có thể quay trở lại hoạt động gần bãi Scarborough. Xem ra, tuy hiện tại không thể trở lại trạng thái Philippines kiểm soát như trước năm 2012, nhưng cũng đã thay đổi từ chỗ do Trung Quốc kiểm soát sang Trung Quốc và Philippines “cùng quản lí”, chủ quyền rơi vào trạng thái mơ hồ đối với cả hai bên, một dạng của việc thừa nhận kết quả vụ kiện.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines cũng chuyển hướng nhỏ nhẹ hơn trong tranh chấp biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các quốc gia ASEAN, Singapore thể hiện rõ sự ủng hộ phán quyết vụ kiện,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trừ Campuchia bày tỏ rõ thái độ đứng về phía Trung Quốc ra, phản ứng các quốc gia còn lại như Indonesia, Thái Lan… đều không rõ ràng. Tóm lại, sau khi phán quyết trọng tài dược công bố, dù bầu không khí vấn đề biển Đông còn căng thẳng nhưng ít nhất trong ngắn hạn không xảy ra xung đột. Tác động chính của phán quyết sẽ thể hiện trong tương lai trung và dài hạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phân tích luật quốc tế </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phán quyết của Toà trọng tài là vô cùng bất lợi cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc coi đó là giấy lộn, nhưng đối với các tranh chấp ở biển Đông trong tương lai, phán quyết này chắc chắn sẽ được các bên tranh chấp sử dụng như một con bài thương lượng và cộng đồng quốc tế sẽ sử dụng nó để đo lường hành vi của Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, phán quyết đem lại một số điểm bất lợi sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">việc “đường 9 đoạn” bị phủ nhận là điều được Trung Quốc quan tâm nhất. Có cả lí do tình cảm và thực tế cho việc này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về mặt tình cảm, “đường 9 đoạn” mà trước đây gọi là “đường 11 đoạn” đã được vẽ trên bản đồ của Trung Quốc suốt 70 năm, đại đa số người dân Trung Quốc đều xem bản đồ này từ nhỏ tới lớn. Hơn 10 năm trở lại đây, “đường 9 đoạn” thậm chí còn được tuyên truyền như là “tổ quốc hải cương” (biên giới trên biển của tổ quốc). Bây giờ nó bị tuyên bố là “không phù hợp với luật pháp quốc tế” thì không khó lí giải việc người Trung Quốc khó thể chấp nhận điều đó về mặt tâm lí.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường 9 đoạn là vấn đề mà chính phủ Trung Quốc đã cố tình né tránh và làm cho mơ hồ trong một thời gian dài, không có lời giải thích chính thức và các học giả có ý kiến khác nhau Trước phiên xử về nội dung, Trung Quốc không thể hiện thái độ gì về vấn đề này. Chính phủ Trung Quốc có điều muốn giấu khó nói, vì: nếu nói đó là vùng nước lịch sử hoặc đường biên giới quốc gia thì chắc chắn sẽ bị coi là không phù hợp với luật pháp quốc tế; còn nếu thẳng thắn nói rõ đó chỉ là đường quy thuộc các đảo thì Trung Quốc chỉ có các vùng biển theo luật pháp quốc tế, thì họ không đành lòng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Trung Quốc không công bố định nghĩa về “đường 9 đoạn”, nhưng nói chung người ta tin rằng Trung Quốc lấy “quyền lịch sử” làm cơ sở cho quyền kiểm soát (quản hạt) của mình trong “đường chín đoạn”. Philippines đã đưa ra nhiều ví dụ để cho thấy rằng trên thực tế Trung Quốc đã coi “đường 9 đoạn” là đường ranh về quyền quản hạt. Trong phán quyết không tuyên bố ngay “đường 9 đoạn” có quyền quản hạt hay không, nhưng “quyền lịch sử” của nó bị phủ nhận, điều này đã làm tổn hại đến tính hợp pháp của các hành động của Trung Quốc trong vùng biển này. Thực ra, ngay cả khi tuyên bố của Toà trọng tài không nói tới quyền quản hạt, nhưng đã nói rõ “đường 9 đoạn chưa bao giờ có tư cách pháp lí rõ ràng”, điều này tương đương với việc phá hỏng âm mưu của Trung Quốc lấy đường 9 đoạn làm ranh giới vùng nước lịch sử, phủ định việc đường này có bất cứ hiệu lực ràng buộc pháp lí nào. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều bất lợi trước tiên sau khi quyền lợi đường 9 đoạn bị bác bỏ là diện tích của vùng biển [họ yêu sách bị thu lại]. Dù quần đảo Trường Sa (ban đầu được coi là) có đủ tư cách có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí đi nữa thì cũng không thể bao trùm toàn bộ khu vực “đường 9 đoạn”, đặc biệt là ở phần phía Tây Nam thì “vùng trống” càng lớn hơn. Khu vực này cũng là điểm nóng trong những năm gần đây: “sự kiện cắt cáp tàu” dính dáng tới Việt Nam năm 2011, xung đột với Indonesia gần đây tại vùng biển gần quần đảo Natuna, đều thuộc vùng này. “Tính chính đáng” của Trung Quốc trong các hành động này phần lớn xuất phát từ “đường 9 đoạn”. Sau khi “đường 9 đoạn” bị bác bỏ thì tính chính đáng của việc thực thi pháp luật của Trung Quốc ở các vùng biển này sẽ càng bị nghi ngờ nhiều hơn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài vấn đề về diện tích ra thì những gì Trung Quốc cho là “quyền lịch sử” bên trong “đường 9 đoạn” vượt xa những quyền mà vùng đặc quyền kinh tế được hưởng. Cụ thể là nhiều phương tiện truyền thông Trung Quốc đã trực tiếp dùng “đường ranh giới biển” để hình dung về nó, cho rằng các khu vực trong “đường 9 đoạn” là lãnh hải của Trung Quốc. Hay thận trọng hơn một chút như giới học giả, ví dụ như Phó Côn Thành, đã liệt kê quyền bên trong “đường 9 đoạn”, bao gồm quyền thiết lập “các vùng nước của các quần đảo” thuộc Hoàng Sa và Trường Sa, ngoài ra còn có quyền lợi được hưởng phía ngoài “vùng nước của các quần đảo” như về hàng hải, hàng không và kiểm soát giao thông, buộc các nước phải chấp nhận sự quản lí và kiểm soát của Trung Quốc. Sau khi “chủ quyền lịch sử” bị Toà trọng tài bác bỏ, tất cả các quyền suy từ khái niệm này đương nhiên cũng bị phủ nhận</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đối với Đài Loan việc đảo Thái Bình (Ba Bình) bị đổi từ “đảo” sang “ đá” gây tranh cãi càng lớn. Giới nghiên cứu về luật pháp quốc tế nhìn chung cho rằng “đường 9 đoạn” khó có thể đứng vững về mặt pháp lí, nhưng ít người có thể ngờ rằng đảo Ba Bình sẽ bị “hạ bậc” xuống thành một đảo đá qua phán quyết này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo quy định tại điều 121 của “công ước”: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Đảo là phần đất hình thành tự nhiên, có nước bao bọc xung quanh, nhô khỏi mặt nước khi thủy triều lên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Ngoài quy định tại khoản 3 thì lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo được xác định theo các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Những đảo đá (rock) không thể duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoản 3 “Những đảo đá không thể duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng” không có định nghĩa rõ ràng. Vì vậy, có nhiều tranh luận về việc một đảo như thế nào mới có thể “duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng”. Tháng 2, Mã Anh Cửu đã mời truyền thông quốc tế cùng đến đảo Thái Bình ( Ba Bình), ra sức chứng minh đảo Thái Bình là đảo chứ không phải là đảo đá; nhóm “Bạn của tòa án” (Amicus curiae) Đài Loan cũng đã gửi báo cáo (về việc này). Kể từ đó, phía Đài Loan rất lạc quan về điều này. Kết quả mà Tòa trọng tài đưa ra đã khiến cả Đài Loan sửng sốt. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng thực ra điều này cũng không phải là không có dấu vết để truy xét. Trước tiên, do Trung Quốc vắng mặt nên Philippines phải “độc diễn” trong vụ kiện. Philippines đã chuẩn bị kĩ lưỡng: trước hết là liệt kê cặn kẽ (bằng chứng) cho thấy đảo Ba Bình không có người cư trú thường xuyên trong lịch sử, ngư dân chỉ tới tạm trú. Tiếp đó, họ tìm ra một nghiên cứu khảo sát khoa học của ba nhà khoa học Đài Loan vào năm 1949, dưới sự trợ giúp của Chính phủ, trong đó có một số bằng chứng vô cùng bất lợi, bao gồm: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, báo cáo đề cập đến việc nước ngầm trên đảo Ba Bình “mặn, không thích hợp với việc ăn uống”, trái ngược với khẳng định có nước ngọt trên đảo Ba Bình. Theo giải thích của những người lính đóng quân trên đảo sau vụ việc đó, nước ở trên đảo có thể uống, nhưng vẫn có vị mặn. Quân lính chỉ có thể dùng để tắm giặt, nước uống là nước khoáng được vận chuyển từ bên ngoài vào. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, báo cáo đề cập rằng đất trên đảo có độ mặn cao, chỉ thích hợp để trồng một số loại cây cụ thể; mặc dù báo cáo nói rằng có một số loại thực vật có thể ăn được, nhưng Philippines cũng tìm thấy thông tin chứng minh rằng chúng đều “khó ăn” và thường không được sử dụng làm thực phẩm. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines tìm được bài báo của truyền thông Đài Loan, rằng trên đảo có thiết bị khử mặn, các giếng trên đảo, có một số hoàn toàn khô cạn, có một số khô cạn không thường xuyên. Vì vậy trong “điều kiện tự nhiên”, đảo Ba Bình được cho là không thể giúp vào việc duy trì cuộc sống và hoạt động kinh tế của con người. Tài liệu mà Philippines nộp lên đều được khai thác từ Đài Loan, không phải là nói tùy tiện, độ tin cậy của các bằng chứng do phía Đài Loan nêu ra giảm xuống. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Trung Quốc vắng mặt trong phiên tòa, nhưng quá trình xét xử của Tòa cho thấy, các trọng tài viên vẫn “truy vấn” đại diện của phía Philippines một cách nghiêm túc và “khắc nghiệt”. Phán quyết cũng xem xét một số tường trình từ phía Đài Loan và Bắc Kinh. Tuy nhiên, căn cứ vào bằng chứng của hai bên, phán quyết cho rằng trên đảo có nước nhưng không đủ để giúp duy trì cuộc sống ổn định của cộng đồng, Vì vậy đảo Ba Bình được phán là đảo đá. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phán quyết này áp dụng cho tất cả đảo tại Trường Sa. Thực ra, đối với các đảo và bãi đá do Trung Quốc kiểm soát, phán quyết đã sớm được dự kiến. Ngay đến các bài viết trong “Thời báo Hoàn Cầu”, con đẻ của tờ “Nhân dân Nhật báo” </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cũng thừa nhận trước và sau phán quyết rằng: “các đảo và bãi đá tại Nam Sa do Trung Quốc Đại lục kiểm soát đều thuộc loại 2 và 3”, có nghĩa “loại 2 là đảo đá, nhô trên mặt nước một chút, có lãnh hải 12 hải lí, không có vùng đặc quyền kinh tế”, và “loại 3 là bãi triều thấp, chỉ nhô lên mặt nước khi triều xuống, không nhìn thấy khi triều lên, không có lãnh hải 12 hải lí”. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đâu là ranh giới giữa đảo và đảo đá? Có rất nhiều tranh cãi. Về định nghĩa địa lí, đảo đá (rock) không phải là một khối đá như thường được tưởng tượng. Theo quan điểm của các chuyên gia khác nhau, diện tích đảo đá dao động từ 0,0025 đến 1 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; diện tích tự nhiên của đảo Ba Bình là 0,5 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, giới hạn giữa đảo và đá. Về định nghĩa pháp lí, đảo phải có khả năng “duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế của con người”. Sự khác biệt trong các diễn giải về điều kiện này rất lớn, Tòa trọng tài đã áp dụng cách diễn giải chặt chẽ nhất, tức là phải hình thành một “cộng đồng định cư ổn định”. Lập luận này chắc chắn gây tranh cãi, nhưng không có nghĩa là từ không làm thành có. Phán quyết đã nâng ý nguyện lập pháp ban đầu lên tầm cao hơn, xuất phát từ mâu thuẫn giữa tài sản chung của nhân loại và sự chiếm hữu của một quốc gia để giải thích cơ sở phán quyết, không hẳn là không có sức thuyết phục. Cuối cùng, trong các tiền lệ trước đó có những trường đảo hợp lớn hơn đảo Ba Bình cũng được xác định là đảo đá. Bắc Kinh và Đài Loan luôn khẳng định đảo Điếu Ngư, có diện tích lớn hơn đảo Thái Bình 8 lần, có gia tộc Khách Gia Nhật Bản sinh sống lâu dài từ năm 1896 đến năm 1942, lúc nhiều nhất có đến hơn 100 người, không có vùng đặc quyền kinh tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác giả cho rằng sẽ là phù hợp hơn nếu đưa ra phán quyết về tính chất của đảo Ba Bình khi cả hai bên đã tranh luận đầy đủ về nó. Nếu Bắc Kinh hoặc Đài Loan có đại diện ra tòa tranh biện, cũng chưa chắc không có cơ hội thuyết phục các trọng tài viên. Tuy nhiên, nếu nhìn lại, ngay cả khi xem xét đến tình hình thực tế của Đài Loan thì dù đảo Ba Bình là đảo hay đá cũng không ảnh hưởng quá lớn. Nếu như Ba Bình có “tình trạng là đảo”, và không bị phán là đảo đá, thì cũng không có khả năng hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí, phạm vi thích hợp chỉ là 3 đến 15 hải lí. Tuy nhiên trên thực tế, Đài Loan chưa công bố vùng đặc quyền kinh tế của đảo Ba Bình, cũng chưa thực hiện các hành động thực thi pháp luật. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc đảo Ba Bình bị hạ bậc xuống thành đá ảnh hưởng đến Trung Quốc đại lục lớn hơn nhiều. Trung Quốc luôn muốn “hợp pháp hóa” “đường 9 đoạn”, và một trong những ý tưởng là lấy “lấy quần đảo Nam Sa như một chỉnh thể” để vẽ đường cơ sở lãnh hải, và trên cơ sở đó giành vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí “vươn tới” “đường 9 đoạn”. Như vậy cho dù “đường 9 đoạn” bị phủ định cũng vẫn cứu vãn được phần nào. Nhưng hiện nay, ngay cả đảo lớn nhất là đảo Ba Bình cũng không có vùng đặc quyền kinh tế thì các đảo khác càng không có tư cách. Tòa trọng tài thậm chí trên cơ sở đó còn phán rằng “toàn bộ quần đảo Trường Sa” không có tư cách như vậy. Điều này tương đương với việc xóa bỏ triệt để lối suy nghĩ trên của Trung Quốc ở cấp độ luật pháp quốc tế. Ngoài ra, phán quyết của Tòa trọng tài đã làm đơn giản hóa đi nhiều đối với vấn đề phân định biên giới trên biển ở biển Đông, gây bất lợi cho chiến thuật trì hoãn của Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp chủ quyền, trong thực tế đang bị các bên chiếm giữ, hiệu lực của việc phân định ranh giới mỗi đảo đá cũng đang có tranh chấp. Vì vậy, trước đây khi phân tích việc phân định vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông luôn phải chia thành nhiều tình huống để xử lí (giả dụ nó hoàn toàn thuộc về Trung Quốc hay hoàn toàn thuộc về Việt Nam, căn cứ theo hiện trạng, cũng như hiệu lực của đảo đá…) là vô cùng phức tạp. Sau phán quyết, chỉ cần xem xét khả năng các nước ven biển mở rộng 200 hải lí thì vấn đề phân định biên giới tại biển Đông đã được đơn giản hóa, hơn nữa hoàn toàn có lợi cho các nước như Philippines, Việt Nam, Malaysia… Điều này cũng khẳng định rằng các địa điểm xảy ra những vụ việc liên quan đến quần đảo Trường Sa (như truy cản ngư dân, phá hoại môi trường) trong vụ kiện này đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, đặt nền tảng luật pháp để phán quyết các yêu sách này. Mặt khác, do chủ quyền không rõ ràng và Tòa trọng tài không liên quan tới việc phân định ranh giới cụ thể nên không thể xác định các hành động này có xâm phạm các quyền lợi của Philippines hay không. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Định nghĩa về đảo và đảo đá cũng có ý nghĩa quan trọng đối với các khu vực khác. Nếu chiếu theo tiêu chuẩn này thì một số lượng lớn các đảo trên thế giới chỉ có thể coi là đảo đá. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng, phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ kiện này chỉ có hiệu lực đối với hai bên, nó có thể được coi là một án lệ, được trích dẫn trong các vụ việc về sau này, nhưng sẽ không tự động có hiệu lực trong các trường hợp khác. Ví dụ, nếu Trung Quốc và Đài Loan nộp đơn nhờ trọng tài về tính chất đảo Okino Tori-shima của Nhật Bản, thì gần như có thể khẳng định rằng đảo Okino Tori-shima là đảo đá. Nếu Trung Quốc thay đổi thái độ đối với Trọng tài, tiếp nhận và áp dụng tốt phán quyết của trọng tài thì cũng có thể có được những lợi ích bất ngờ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều có ảnh hưởng lớn nhất và đáng để bàn luận nhất trong phán quyết của trọng tài là vấn đề bãi triều thấp.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đá Vành Khăn do Trung Quốc chiếm giữ là bãi triều thấp: ở trạng thái tự nhiên nó chỉ nhô khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Trong phán quyết của Tòa trọng tài, giống như các bãi triều thấp khác, nó được coi là không có tư cách lãnh thổ,. Như vậy, các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đã bị giáng một đòn mạnh. Quần đảo Trường Sa theo cách xác định của Trung Quốc, có nhiều bãi triều thấp, trong đó có rất nhiều bãi tương đối độc lập như đá Vành Khăn, cách các đảo / đá khác hơn 12 hải lí. Theo phán quyết, các bãi này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước nào thì nước đó có “quyền chủ quyền” đối với chúng. Tất cả các bãi ngầm (khi thủy triều xuống cũng không lộ trên mặt nước) đều không có tư cách lãnh thổ, và cũng giống như các bãi triều thấp đều thuộc “quyền chủ quyền” của quốc gia ven biển. Vì vậy, ngay cả khi giả định rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, họ cũng sẽ mất đi rất nhiều bãi triều thấp và bãi ngầm theo như yêu sách ban đầu, bao gồm ngầm James – điểm cực Nam của lãnh thổ đã được tuyên truyền suốt 70-80 năm nay. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác giả cho rằng, vấn đề của bãi triều thấp phức tạp hơn so với bãi ngầm, phán quyết này có điểm nghi ngờ về thủ tục. Khác với vấn đề tình trạng của đảo Ba Bình, điều được xem xét đối với đảo Ba Bình là hiệu lực phân giới (entitlement), cái này không quan hệ với chủ quyền: dù hiệu lực phân giới nhỏ đến đâu thì chủ quyền vẫn có thể được phân định, và tiến hành phân định biên giới trên biển. Chính sự khả năng tách rời này khiến Philippines có thể bỏ qua tuyên bố mang tính miễn trừ vào năm 2006 của Trung Quốc đối với Công ước. Tuy nhiên, vấn đề đá Vành Khăn là vấn đề chiếm làm sở hữu (appropriation), nó liên quan trực tiếp đến quan hệ chủ quyền: nếu một “đảo đá” không thể trở thành lãnh thổ, thì vấn đề phân định chủ quyền của “đảo đá” đó cũng không tồn tại. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước vốn không đề cập đến vấn đề có thể quy thuộc lãnh thổ, và khi Trung Quốc phê chuẩn "Công ước" vào năm 1996, điều 3 của tuyên bố bảo lưu nêu: việc kí kết Công ước không ảnh hưởng đến chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa). Quần đảo Nam Sa ở đây đương nhiên cũng bao gồm các bãi triều thấp như đá Mĩ Tế (Vành Khăn), vì vậy Công ước không có sức ràng buộc đối với chúng. Vì vậy muốn xử lí vấn đề này thì phải dùng luật pháp quốc tế chung làm căn cứ. Trên thực tế, cơ sở duy nhất được đề cập trong phán quyết là hai án lệ (Qatar kiện Bahrain và Nicaragua kiện Colombia), được coi là đã thành luật tập quán.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tòa trọng tài đương nhiên có thể áp dụng luật quốc tế chung, nhưng trong các trường hợp được áp dụng trước đây thì trọng tài đều do cả hai bên đồng ý. Nhưng vụ kiện này là do Philippines đơn phương yêu cầu trọng tài phân xử, việc thực hiện thủ tục trọng tài hoàn toàn căn cứ vào quy định đặc biệt của Công ước. Vì vậy mâu thuẫn ở đây nằm ở chỗ: nếu đơn phương yêu cầu thủ tục trọng tài thì chỉ có thể giới hạn trong việc phán quyết các vấn đề được quy định trong Công ước; nếu muốn phán quyết một vấn đề liên quan đến luật quốc tế chung thì phải được sự đồng ý của cả hai bên. Xem xét vấn đề về thủ tục này, tác giả cho rằng vụ trọng tài lần này nên gác lại việc giải quyết bãi triều thấp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, nếu đã căn cứ vào luật quốc tế chung thì yếu tố lịch sử cũng cần phải được xem xét, nhưng trong phán quyết lần này không nhắc đến bất kì yếu tố lịch sử nào. Hơn nữa, khi dẫn hai án lệ, tác giả cảm giác rằng các bàn luận liên quan chưa đầy đủ, không đủ sức thuyết phục. Một số học giả đã đặt câu hỏi tương tự về độ tin cậy của chúng với tư cách luật tập quán.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, “đường 9 đoạn” và đảo Ba Bình chỉ là đề cập đến “quyền lợi tiềm năng”. Trung Quốc không thực sự kiểm soát “đường 9 đoạn”; cả Đài Loan lẫn Trung Quốc đều không tuyên bố đường cơ sở lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đảo Thái Bình. Nhưng phán quyết này giống như trực tiếp tuyên bố đá Vành Khăn thuộc về Philippines, đồng nghĩa với việc muốn Trung Quốc giao trả lại đảo nhân tạo đã xây dựng 20 năm, điều này hoàn toàn vượt ra khỏi phạm vi mà Trung Quốc có thể chấp nhận. Ngay cả xuất phát từ lập trường “luật là luật”, cũng cần xem xét thích đáng khả năng thực thi của phán quyết, để duy trì tốt hơn nữa hiệu lực của luật pháp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề cuối cùng liên quan đến việc phân giới biển là tình trạng pháp lí của đảo nhân tạo</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Việc đảo nhân tạo bị phán là không thể thay đổi quyền của đảo đá là điều nằm trong dự kiến. Khoản 8 điều 60 của Công ước quy định: “đảo, thiết bị và công trình nhân tạo không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, sự tồn tại của chúng cũng không ảnh hưởng gì đến việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Khoản 1 điều 121 quy định: “đảo là vùng đất hình thành tự nhiên, có nước bao quanh và vẫn nhô trên hơn mặt nước khi triều cao”. Vì vậy, theo Công ước, chỉ có đảo được hình thành tự nhiên mới có tư cách là đảo có thể đòi vùng đặc quyền kinh tế. Các nhà giàn và đảo nhân tạo được xây dựng trên các bãi ngầm, dù được xây dựng tốt đến mấy cũng không có quyền yêu sách vùng đặc quyền kinh tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các yêu cầu phân xử của Philippines còn có nhiều mục khiếu kiện về các hành vi cụ thể, đa số đều nhận được sự ủng hộ của phán quyết. Ở đây chỉ bàn về quyền đánh cá truyền thống và xây dựng đảo nhân tạo. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt pháp lí, các phán quyết liên quan đến vấn đề phân giới biển là cơ sở để phán quyết các hành vi cụ thể. Philippines nhận thức đầy đủ về điều này, các khiếu kiện của họ như “cú đấm liên hoàn” giáng xuống liên tiếp. Lấy đảo bãi Scarborough làm ví dụ: sau khi “đường 9 đoạn” bị phủ nhận, Trung Quốc không thể dùng “đường 9 đoạn” để yêu sách quyền lợi đối với vùng biển bãi Scarborough; Scarborough là đá chứ không phải đảo, do đó không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, theo đó các vùng biển lân cận chỉ có thể thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, còn Trung Quốc nhiều lắm chỉ có thể có được vùng lãnh hải 12 hải lí. Như vậy, có cơ sở để phán rằng Trung Quốc quấy nhiễu quyền chủ quyền của Philippines tại vùng đặc quyền kinh tế, cũng như không ngăn cản công dân của mình phá hoại tài nguyên sinh vật trong vùng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines còn tiếp tục khiếu kiện quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough. Theo đó, ngay cả Trung Quốc có chủ quyền đối với bãi Scarborough cũng không thể tước quyền đánh cá của ngư dân Philippines khi tiến vào phía trong vùng 12 hải lí; Trung Quốc cũng vì thế mà không thể “đâm” tàu cá Philippines tại khu vực gần bãi Scarborough. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyền đánh cá truyền thống thuộc các quyền liên quan đến lịch sử, nhưng không được coi là “quyền lịch sử” trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển . Trong Công ước không xuất hiện thuật ngữ này mà chỉ có “vịnh lịch sử” và “chủ quyền lịch sử”. Quá trình xây dựng Công ước cho thấy điều này đã bị loại trừ một cách có chủ ý. Cùng với các quyền lịch sử liên quan, nó được đưa rải rác vào trong các quyền đánh cá truyền thống không độc quyền, cũng như “chủ quyền lịch sử” độc quyền (quyền tài phán, quyền pháp lí…). Còn về cái gọi là “quyền hàng hải lịch sử” cũng không được coi là quyền đặc thù, mà chỉ được coi là một phần của tự do hàng hải, được xác định trong một loạt các điều khoản liên quan trong Công ước. Ngư dân Philippines có quan hệ gần gũi với bãi Scarborough hơn ngư dân Trung Quốc. Bãi Scarborough đã được ghi nhận trong thống kê nghề cá của Philippines vào những năm 1950, cũng có cả bằng chứng về việc ngư dân tiếp tục hoạt động trên đảo từ đó về sau. Còn trong “Canh lộ bạ” của ngư dân Hải Nam Trung Quốc không có ghi chép về việc đến đảo Hoàng Nham; và lệnh cấm đánh bắt cá dài hạn ở biển Đông sau khi Trung Quốc giải phóng mãi đến năm 1984 mới kết thúc. Do đó, có lẽ sau đó ngư dân Hải Nam mới đến bãi Scarborough đánh cá. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong đơn của mình, Philippines còn yêu cầu được trao chủ quyền đối với bãi Scarborough, nhưng tòa trọng tài đã từ chối một cách đúng đắn với lí do “không có thẩm quyền”. Tuy nhiên, một phán quyết đã được đưa ra: bất chấp bãi Scarborough thuộc về Philippines hay Trung Quốc thì Philippines đều có quyền đánh cá truyền thống, Trung Quốc không được ngăn cản ngư dân Philippines đánh bắt cá trong phạm vi 12 hải lí của bãi Scarborough. Tương tự, Philippines cũng không được ngăn cản ngư dân Trung Quốc đánh cá ở đó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do quyền đánh cá truyền thống có tính không độc quyền, đồng thời xuất phát từ việc xem xét đến sinh kế của ngư dân, Tòa trọng tài đã nới lỏng tiêu chuẩn đối với quyền đánh cá truyền thống, không khắt khe về các bằng chứng lịch sử. Ví dụ, ngư dân Philippines đề cập trong lời khai rằng họ đã nhìn thấy ngư dân Trung Quốc và Việt Nam tại bãi Scarborough, vì thế Tòa trọng tài cho rằng Việt Nam cũng có truyền thống đánh cá tại bãi Scarborough, thực tế là thừa nhận ngư dân Việt Nam cũng có quyền đánh cá truyền thống của tại đây. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phán quyết này có hiệu quả áp dụng: nếu Trung Quốc ngăn cản việc đánh cá tức là vi phạm phán quyết của trọng tài, quốc tế có căn cứ để can thiệp. Ngoài ra, lấy đây làm ví dụ, Việt Nam ít nhất cũng có quyền đánh cá truyền thống ở những nơi như Hoàng Sa. Đây có thể thành nhân tố để Việt Nam xem xét kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vấn đề tính hợp pháp của việc xây đảo nhân tạo, trong yêu cầu khiếu kiện ban đầu của Philippines chỉ đề cập đến đảo nhân tạo tại đá Vành Khăn và chỉ giới hạn ở một vụ việc; sau này, Philippines bổ sung thêm yêu cầu khiếu kiện mới: yêu cầu trọng tài phán quyết việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo là vi phạm quy định về bảo vệ biển và làm tình hình ở biển Đông thêm căng thẳng. Những yêu cầu khiếu kiện này liên quan đến tất cả các đảo nhân tạo và sẽ ảnh hưởng đến toàn cục. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lấy đá Chữ Thập làm ví dụ, đá này không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế được tạo bởi các đảo lớn của Philippines. Là một đảo đá, nó có tư cách để trở thành lãnh thổ. Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền đối với nó, và cho rằng việc xây dựng đảo nhân tạo là nằm trong “phạm vi chủ quyền” của Trung Quốc. Tuy nhiên, có phải “nước ngoài không có quyền can thiệp” vào việc xây dựng đảo hay không? Phán quyết đã phủ định điều đó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, Tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế từ lâu đã phản đối hoạt động xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc. Trung Quốc thường chỉ trích cộng đồng quốc tế nhắm mắt làm ngơ đối với “hoạt động xây dựng đảo nhân tạo từ lâu” của Việt Nam và Philippines…, mà chỉ nhằm vào Trung Quốc. Nhưng đảo nhân tạo của Trung Quốc hoàn toàn khác với “đảo nhân tạo” các nước khác. Các kiến trúc nhân tạo trước đây được giới hạn trong 3 loại: nhà giàn, mặt bằng bê tông có diện tích rất nhỏ cùng kiến trúc bên trên, một phần đất nhỏ được bồi thêm vào đảo tự nhiên ban đầu. Hai loại đầu, không chỉ Việt Nam và Philippines có, mà Trung Quốc cũng đã xây dựng từ lâu. Còn thứ loại ba, do Trung Quốc tiến vào Trường Sa quá muộn, không chiếm được đảo tự nhiên, vì vậy không có điều kiện để làm. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">So với việc bồi đắp thêm của Việt Nam và Philippines, đảo nhân tạo của Trung Quốc có một số điểm khác biệt quan trọng: thứ nhất, phần bồi đắp thêm của Việt Nam và Philippines chỉ giới hạn xung quanh bờ biển của đảo, nhưng đảo nhân tạo của Trung Quốc không phải được tạo thành từ cơ sở các kiến trúc nhân tạo ban đầu rồi bồi đắp thêm vào, mà là được xây mới hoàn toàn ở chỗ khác trên rạn đá; thứ hai, diện tích bồi đắp của Việt Nam và Philippines đều nhỏ hơn rõ rệt so với diện tích tự nhiên của đảo, còn diện tích đảo nhân tạo của Trung Quốc gấp vạn lần diện tích đất tự nhiên của đảo đá; thứ ba, vật liệu xây dựng của Việt Nam và Philippines đều được vận chuyển đến, tác động tương đối nhỏ đến môi trường ban đầu, còn Trung Quốc là phun lấp nền sử dụng vật liệu tại chỗ nên đã phá các rạn san hô lớn thành cát vụn để tạo ra đất. Không khó để tưởng tượng việc xây dựng đảo nhân tạo có diện tích lớn như vậy theo cách này sẽ trực tiếp phá hủy biết bao rạn san hô, chưa kể đến các tác động sinh thái tiêu cực khác kéo theo. Ngay cả Báo cáo của Cục hải dương Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng sẽ mất từ 50 đến 100 năm để khôi phục hệ sinh thái ban đầu với điều kiện là thực hiện các biện pháp liên tục và hiệu quả. Tòa trọng tài cho rằng báo cáo của Cục hải dương Trung Quốc có nhiều thiếu sót, và chấp nhận hoàn toàn báo cáo điều tra độc lập. Tòa cho rằng Trung Quốc đã vi phạm điều 192: “các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển” và điều 194 của Công ước: “bảo vệ và gìn giữ các hệ sinh thái quý hiếm hoặc dễ bị tổn thương…” </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có người đặt câu hỏi, xây dựng đảo nhân tạo không nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc hay sao? Thực ra, bất cứ một quốc gia nào tham gia điều ước quốc tế đều đã tự nguyện từ bỏ một phần chủ quyền của mình. Tuân thủ các quy tắc do cộng đồng quốc tế cùng lập ra và không sử dụng chủ quyền như một cái cớ để làm bất cứ điều gì mình muốn là một trong những thành tựu văn minh trong quan hệ quốc tế hiện đại. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều có lợi cho Trung Quốc là mặc dù phán quyết cho rằng xây dựng đảo là bất hợp pháp, nhưng không có quy định yêu cầu dỡ bỏ, nên cũng có thể nói việc xây dựng đảo nhân tạo hiện tại không bị ảnh hưởng gì. Nhưng nếu Trung Quốc vẫn muốn xây dựng đảo tại địa điểm khác (ví dụ bãi Scarborough) thì phán quyết này có thể trở thành cơ sở để quốc tế can thiệp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng nói là phán quyết này không hoàn toàn bất lợi cho Trung Quốc. Về vấn đề Cỏ Mây, với lí do chủ quyền chưa được xác định, Tòa trọng tài tuyên bố không có thẩm quyền phân xử việc Philippines yêu cầu Trung Quốc dừng quấy nhiễu khi Philippines tiến hành tiếp tế cho tàu chiến bị mắc cạn. Về việc Philippines yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và quyền lợi của Philippines, Tòa trọng tài không đưa ra phán quyết với lí do yêu cầu khiếu kiện không rõ ràng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, mặc dù có phần của phán quyết còn gây tranh cãi, nhưng về tổng thể vẫn là một phán quyết hợp pháp, công bằng và hợp lí. Dù Trung Quốc vẫn kiên trì “bốn không”, nhưng điều đó không có nghĩa là Trung Quốc sẽ không tuân thủ ít nhất một phần phán quyết dưới các hình thức khác. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bàn về chính sách không tham gia (vụ kiện) của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trung Quốc đã kiên quyết không tham gia vụ trọng tài ngay từ đầu, cách tiếp cận này ngày càng bị nghi ngờ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Toàn bộ vụ trọng tài được chia thành ba phần về mặt thủ tục: một là, xem xét vụ việc có thể đưa ra theo thủ tục trọng tài hay không, hai là, quyết định liệu tòa trọng tài có thẩm quyền hay không, ba là, cuối cùng mới đưa ra các phán quyết cụ thể. Nếu như Trung Quốc ít ra tham gia vào phần một và phần hai, cố tranh luận rằng Tòa trọng tài không đủ năng lực giải quyết vấn đề này, thì có thể thể hiện sự công nhận đối với Tòa trọng tài, đồng thời lại có thể phủ nhận rõ ràng việc xét xử của Tòa trọng tài, có cơ hội ngăn chặn toàn bộ vụ kiện hoặc ít nhất một phần các yêu cầu khiếu kiện trọng tài. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng việc tham gia vào bất cứ bước nào cũng đồng nghĩa với việc công nhận thẩm quyền của Tòa trọng tài. Điều này không những là một lỗi logic mà còn ảnh hưởng lớn tới hình ảnh của Trung Quốc với tư cách là nước lớn biết tôn trọng các thủ tục quốc tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu Trung Quốc tham gia vụ kiện, lợi thế đầu tiên là có thể chỉ định một trọng tài viên đại diện tốt cho lợi ích của mình. Ngoài ra, Trung Quốc còn có thể đưa ra ý kiến trong việc lựa chọn ba trọng tài viên khác. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yêu cầu khiếu kiện của Philippines có thể thành công hay không, gay go nhất là bước thứ nhất và thứ hai của thủ tục. Nếu Trung Quốc tham gia, Philippines chưa chắc có thể vượt qua được hai bước này. Trong “Văn bản lập trường”, Trung Quốc có ý lập luận rằng, đã có tiền lệ trong các vụ kiện quốc tế, có quy định tiêu chí rất cao về những gì tạo thành một “trao đổi ý kiến đầy đủ”, nhưng có thể không có sự trao đổi ý kiến “đầy đủ” giữa Trung Quốc và Philippines. Nếu tranh luận được trước Tòa theo lập luận này thì khả năng thuyết phục được các trọng tài viên. Bất kì ai có kinh nghiệm về tòa án đều biết rằng các quyết định của tòa là căn cứ vào những bằng chứng và logic được trình bày trước thẩm phán (hoặc bồi thẩm đoàn). Dựa vào những điều này, không khó để hiểu được tầm quan trọng của việc tham gia phiên tòa, và cũng có thể hình dung Philippines chắc chắn giành được lợi thế lớn trong việc trực tiếp trình bày tư liệu, giải trình tại chỗ và trả lời các câu hỏi trước Tòa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> một bất lợi cho việc không tham gia là Trung Quốc không thể theo kịp tiến trình vụ kiện nên luôn chậm hơn một bước. Ví như khi vụ kiện vừa bắt đầu, Trung Quốc luôn nhấn mạnh rằng Trung Quốc không tham gia thì Tòa trọng tài không nhận vụ kiện. Thật ra, Phụ lục 7 được lập ra là chuyên dành cho tình huống “một nước không đồng ý”. Việc phản đối của Trung Quốc không ngăn cản được vụ kiện tiến vào bước xét duyệt. Trung Quốc đưa ra hai luận điểm hữu ích: “Trung Quốc và Philippines có một thỏa thuận về giải quyết thông qua đàm phán”, và “không có sự trao đổi ý kiến đầy đủ giữa Trung Quốc và Philippines”, đều nên tranh luận theo lí trong bước xét nhận vụ kiện. Nhưng đến tận cuối năm 2014, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Văn kiện lập trường</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trung Quốc mới tổng kết bằng chứng liên quan đến hai luận điểm này, sau khi bước xét nhận vụ kiện đã được thông qua. Trong phiên xem xét về thẩm quyền, hai lập luận này không còn là tiêu điểm. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng nói là, sau khi kết thúc phán quyết về thẩm quyền thì vấn đề trọng yếu của đường 9 đoạn là tính có thể quản lí vẫn chưa được xác định. Như vậy, sau khi Philippines khởi kiện trọng tài, Trung Quốc đã có hơn hai năm để giải quyết vấn đề đường 9 đoạn. Trong thời gian này, nếu Trung Quốc có thể đưa ra một định nghĩa về đường 9 đoạn, ngay cả khi nó rất không phù hợp với luật pháp quốc tế, thì họ vẫn có thể ngăn tòa trọng tài ra phán quyết về vấn đề đường 9 đoạn. Ví dụ Trung Quốc tuyên bố vùng biển bên trong đường 9 đoạn là “vịnh lịch sử”, hoặc có “chủ quyền lịch sử”, mà Tuyên bố bảo lưu năm 2006 của Trung Quốc đã loại trừ “vịnh lịch sử” và “chủ quyền lịch sử” khỏi khả năng phân xử nên Tòa trọng tài đã không có cách nào phân xử việc này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã không có bất cứ hành động gì về vấn đề này. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, Philippines do tham gia đầy đủ vào vụ kiện nên không chỉ nắm rõ các điểm mấu chốt của từng thủ tục mà còn có thể liên tục bổ sung tài liệu, tăng thêm và sửa đổi yêu cầu. Ban đầu, yêu cầu của Philippines không phải là 15 hạng mục, chỉ trước khi xét xử về thẩm quyền mới được tăng tới con số này. Trong 15 mục đó, lúc đầu không có yêu cầu về đảo Ba Bình, nhưng đã được thêm vào trong quá trình xét xử thực tế. Philippines sẵn sàng cho vụ kiện, giành thế chủ động mọi nơi và lợi thế ngày càng lớn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, nếu tham gia vụ kiện, Trung Quốc có thể dùng một số chiến thuật để kéo dài tiến trình xét xử. Một mặt, Trung Quốc có đủ thời gian để chuẩn bị tài liệu, mặt khác, nếu có thể kéo dài tới lúc Benigno Aquino III mãn nhiệm, thậm chí Trung Quốc có khả năng đạt được thỏa thuận với tổng thống mới, hủy đơn kiện với tòa trọng tài. </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">VI.15. Kết luận: Cái kết của cộng đồng chung vận mệnh </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ năm 2009 đến nay, đã có nhiều mâu thuẫn giữa chính sách biển Đông và đường lối ngoại giao của Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc tung ra “thiện chí” với các nước Đông Nam Á và thế giới, tự khoe mình là “con sư tử thân thiện và văn minh”, còn rêu rao rằng Trung Quốc và Đông Nam Á là “Cộng đồng chung vận mệnh”. Chính sách “Một vành đai, một con đường” (Vành đai kinh tế theo con đường tơ lụa, Con đường tơ lụa trên biển thế kỉ XXI) do Trung Quốc ra sức thúc đẩy càng bị coi là chiến lược thách thức vị trí bá quyền của Mĩ. Theo logic, Trung Quốc nên tiếp tục đường lối láng giềng hữu nghị tại biển Đông, điểm khởi đầu của Con đường Tơ lụa trên biển. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong mọi hình thức tuyên truyền, Trung Quốc đã thể hiện thái độ vô cùng cứng rắn. Cứ mỗi khi các nhà lãnh đạo quốc gia lên tiếng bày tỏ thiện chí, các phương tiện truyền thông chính thống ở Trung Quốc lại tập trung vào những điều như “bảo vệ lợi ích quốc gia”, “không gây rắc rối nhưng cũng không sợ rắc rối”, mặc dù những điều đó chỉ nằm trong một hai câu của một bài phát biểu dài của nhà lãnh đạo. Quan trọng hơn là Trung Quốc ngày càng gây sức ép ở biển Đông, dồn ép không gian sống của các nước láng giềng như: đơn phương vạch ra khu vực cấm đánh bắt cá, cản trở hoạt động thăm dò dầu khí, mở rộng sự hiện diện bán quân sự tại biển Đông, hù dọa sẽ thiết lập ADIZ ở biển Đông, chiếm bãi Scarborough, v.v… Hiệu ứng quốc tế tốt đẹp từ những lời nói hoa mỹ của các nhà lãnh đạo Trung Quốc mang lại đã bị biến đi trước những hành động và tiếng gào thét của phe cứng rắn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc đã nhận thức sai về bản chất của vấn đề biển Đông, điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Xuất phát từ tư duy chống Mĩ truyền thống, Trung Quốc luôn nhận định một cách sai lầm rằng bản chất của vấn đề biển Đông chính là “vấn đề giữa Mĩ và Trung Quốc”. Dùng tư duy “luật rừng” không hợp thời để đơn giản hóa vấn đề biển Đông vốn phức tạp thành cuộc “tranh bá giữa Trung Quốc và Mĩ” hoặc “Mĩ muốn ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy”, đẩy hầu như tất cả những nước liên quan vào phía đối lập với mình. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, bản chất của vấn đề biển Đông trước hết là mâu thuẫn lãnh thổ và lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Những mâu thuẫn này không phải do Mĩ tạo ra, mà đã tồn tại từ lâu, và cốt lõi của chúng là đường 9 đoạn bao trùm toàn bộ biển Đông. Trong vấn đề đường 9 đoạn, Trung Quốc bày tỏ thái độ một cách chậm trễ, nhưng hành động thực tế ngày càng cứng rắn khiến các nước láng giềng lo ngại. Đường 9 đoạn liên quan tới lợi ích cốt lõi của một nửa các nước ASEAN, cũng dính dáng tới lợi ích quan trọng của các nước lớn trên thế giới. Một khi vấn đề này chưa được giải quyết thì Trung Quốc và các nước Đông Nam Á không thể trở thành cộng đồng chung vận mệnh. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tất nhiên, nếu không có chính sách “Tái cân bằng” của Mĩ, các nước láng giềng có lẽ chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt trước sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Nhưng điều này không có nghĩa Mĩ là kẻ chủ mưu của những vấn đề này. Mĩ chủ yếu đóng vai trò cảnh sát để ngăn chặn Trung Quốc đơn phương giải quyết vấn đề bằng vũ lực hoặc gần như vũ lực. Bất chấp việc Trung Quốc phàn nàn về điều này, cộng đồng quốc tế hoan nghênh Mĩ đóng một vai trò lớn hơn ở biển Đông. Xuất phát từ những cân nhắc về lợi ích thực tế, đại đa số các nước Đông Nam Á đã áp dụng biện pháp nắm giữ cả hai: tiếp tục duy trì quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc về kinh tế và xích lại gần Mĩ hơn về các vấn đề an ninh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cũng không nhìn đúng những lợi ích hợp pháp truyền thống của Mĩ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tự do hàng hải là lợi ích cốt lõi của Mĩ, và Mĩ cũng có các quyền lợi truyền thống của Mĩ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ cuối thế kỉ XIX đến nay, Mĩ là mắt xích quan trọng nhất trong việc duy trì an ninh, hòa bình ở biển Đông. Nếu không có Mĩ, các nước Đông Nam Á ngày nay có thể đang nằm dưới sự thống trị của Nhật Bản. Đối với biển Đông, Trung Quốc đề xuất sáng kiến “hai đường ray”, nghĩa là “các nước tranh chấp trực tiếp giải quyết tranh chấp liên quan bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán hiệp thương hữu nghị; và hòa bình và ổn định trên biển Đông do Trung Quốc và các nước ASEAN cùng nhau gìn giữ”, sáng kiến này rõ ràng có ý muốn loại trừ Mĩ ra ngoài. Vì vậy, Mĩ đưa ra Chiến lược tái cân bằng châu Á là nhằm bảo vệ lợi ích truyền thống của mình tại biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau hơn 30 năm liên tục phát triển với tốc độ cao, sức ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc ngày càng lớn. Việc đề ra sáng kiến “Một vành đai, một con đường” và thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) đã tạo ảnh hưởng lớn với các tổ chức quốc tế, và được cộng đồng quốc tế công nhận. Nhưng trong vấn đề biển Đông, hành động của Trung Quốc hầu như hoàn toàn vấp phải sự phản đối, đó là điều rất đáng suy ngẫm. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan hệ Trung - Mĩ hiện đang thường được giới lí luận vận dụng bẫy Thucydides (Thucydides Trap) để xem xét. Bẫy Thucydides bắt nguồn từ phân tích của nhà sử học Hy Lạp cổ đại Thucydides về cuộc xung đột giữa Athens và Sparta sau khi Athens trỗi dậy. Thuyết này cho rằng “các cường quốc đang trỗi dậy” sẽ thách thức “các cường quốc đã được thiết lập” và gây ra xung đột gay gắt. Về vấn đề biển Đông, Trung Quốc khẳng định mình chỉ bảo vệ lợi ích lãnh thổ, trong khi Mĩ khẳng định tầm quan trọng của tự do hàng hải và lợi ích truyền thống tại khu vực này. Nhưng trên thực tế, không bên nào tin rằng mục đích của bên kia chỉ giới hạn đến đó. Thuyết này rất hữu ích, nhưng nếu chỉ giải thích mâu thuẫn Mĩ - Trung là “hai nước đang tranh vị trí bá quyền” mà bỏ qua những nhân tố liên quan khác thì sẽ rất hạn chế; nếu áp dụng khuôn khổ này vào việc giải thích vấn đề biển Đông thì hạn chế này càng nổi rõ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù hiện nay có vẻ Mĩ đang đứng ở tuyến đầu trong việc “đối đầu với Trung Quốc”, nhưng đằng sau còn có ASEAN, Nhật, EU, Ấn Độ và thậm chí cả Nga. Việc Trung Quốc dùng vũ lực thay đổi hiện trạng ở biển Đông sẽ ảnh hưởng không chỉ đến Mĩ mà đến hầu hết các nước có lợi ích liên quan; cũng như đến luật biển quốc tế và hệ thống luật pháp quốc tế, thậm chí toàn bộ khuôn khổ quan hệ quốc tế hình thành hàng trăm năm qua. Vì vậy, “đối đầu với Trung Quốc” không chỉ có Mĩ, mà là “hiện trạng” cũng như toàn bộ trật tự quốc tế phía sau “hiện trạng” này, Mĩ chẳng qua chỉ là nước ủng hộ và bảo vệ tích cực hiện trạng đó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Hiện trạng” (status quo) là một khái niệm hết sức rất thần kì. Hiện trạng của quan hệ quốc tế không nhất thiết đã hợp lí, nhưng hiện trạng là kết quả tương đối cân bằng do lịch sử tạo nên, nói chung dễ được chấp nhận hơn các lựa chọn khác. Ngoài các xu hướng toàn cầu cực kì mạnh mẽ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chống thực dân, chủ nghĩa cộng sản,...), việc đơn phương ngang nhiên thay đổi hiện trạng một cách gấp gáp phần nhiều sẽ gây nên sự phản đối gay gắt. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tham vọng nhanh chóng thay đổi hiện trạng khiến đất nước đang trỗi dậy này rơi vào tình cảnh khó khăn “lạc lõng không được trợ giúp”. Nước Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và Nhật Bản trong Thế chiến II đều bị huỷ hoại bởi những ham muốn quá mức. Mĩ là một trong số ít nước đang trỗi dậy thoát được “bẫy Thucydides”- Mĩ nêu ra mục tiêu chiến lược dài hạn, công khai, không thù địch với Anh khiến Anh không phạm những sai lầm chiến lược; Mĩ không những không nảy sinh xung đột với Anh mà còn nhiều lần trợ giúp Anh, cuối cùng thực hiện được việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện thế giới đã trở thành một xã hội “pháp trị” vượt qua biên giới quốc gia. Hành động dựa theo luật pháp quốc tế, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong cộng đồng quốc tế. Sau Philippines, Việt Nam cũng chuẩn bị dùng luật pháp quốc tế làm vũ khí, xem xét việc khởi tố Trung Quốc trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Luật biển quốc tế. Việt Nam đã gạt bỏ phương thức đối đầu vũ trang và thay vào đó chuyển sang tìm kiếm phương thức pháp lí được cộng đồng quốc tế ủng hộ rộng rãi để giải quyết các tranh chấp quốc tế, đây là một thay đổi đáng hoan nghênh. Indonesia cũng bày tỏ sẽ cân nhắc việc sử dụng Tòa trọng tài để giải quyết tranh chấp vùng biển với Trung Quốc. Nếu Việt Nam và Indonesia cùng áp dụng phương thức pháp lí để giải quyết vấn đề này thì hình ảnh quốc tế của Trung Quốc sẽ càng xấu xí hơn – tại sao một quốc gia nhỏ “không dòng chính” như Việt Nam cũng dám sử dụng các biện pháp pháp lí để giải quyết tranh chấp, trong khi một nước lớn như Trung Quốc lại nhiều lần từ chối sử dụng phương pháp văn minh này để giải quyết tranh chấp giữa các nước? </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Suy cho cùng, vấn đề biển Đông dù là tranh chấp lãnh thổ, phân giới biển hay tự do hàng hải thì mâu thuẫn cốt lõi nằm ở chỗ, một quốc gia hiện đại trong thế kỉ XXI sẽ lựa chọn phương thức lỗi thời, dã man, đơn phương, vũ lực hay phương thức phù hợp với trào lưu phát triển của lịch sử, tuân thủ luật quốc tế và Công ước, sử dụng Tòa trọng tài để giải quyết vấn đề? </span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">KẾT LUẬN CHUNG </span></h1><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuốn sách này chia lịch sử hiện đại biển Đông thành 4 giai đoạn. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ nhất:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ đầu thế kỉ đến khi kết thúc Thế chiến II, có thể gọi là “thời kì Nhật Bản”. Theo cách nghĩ cổ súy Nam tiến, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích mở mang biển Đông thông qua các công ty tư nhân hoặc bán công. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp lãnh thổ tại các đảo ở biển Đông. Theo đó, các nước ven biển bắt đầu tích cực khẳng định chủ quyền, đều nhằm mục đích ngăn Nhật Bản giành lấy các đảo ở đây. Trong quá trình đó, Trung Quốc giành được đảo Đông Sa (Pratas); quần đảo Hoàng Sa xảy ra tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp (Việt Nam); Nhật Bản, Pháp (Việt Nam) và Anh nảy sinh tranh chấp về quần đảo Trường Sa; ngay đến bãi Scarborough cũng tiềm ẩn tranh chấp giữa Mĩ (Philippines) và Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: từ sau Thế chiến II đến năm 1989, là thời kì tranh chấp lớn về vấn đề biển Đông mà hạt nhân là việc các nước ven biển tranh giành các đảo và bãi đá. Nhật Bản bị loại khỏi tranh chấp; Anh, Mĩ, Pháp, Hà Lan thay nhau trả độc lập cho các nước thuộc địa; tuy nhiên, “Hòa ước San Francisco” chưa giải quyết được vấn đề quy thuộc các đảo ở biển Đông. Vì thế mà Trung Quốc, Việt Nam, Philippines trở thành các nước giữ vai chính trong cuộc chiến tranh chấp biển đảo. Do từ sau năm 1949, Trung Quốc có hai chính phủ là Bắc Kinh và Đài Loan (Trung Hoa Dân quốc), còn Việt Nam thì có hai quốc gia là Bắc Việt và Nam Việt nên các bên liên quan càng trở nên phức tạp. Bối cảnh Chiến tranh lạnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thế lực các bên liên quan. Trước những năm đầu 1970, Bắc Kinh và Nam Việt Nam đối đầu tại Hoàng Sa; Đài Loan và Nam Việt Nam, Philippines đối đầu tại Trường Sa. Hai bên đầu đều có điều lo lắng, băn khoăn nên không dám làm càn; ba bên sau đều là đồng minh của Mĩ, cùng giương ngọn cờ chống cộng nên không dùng vũ lực. Nhưng tình thế đã biến đổi lớn vào đầu những năm 1970: Trung Quốc thế chân Đài Loan, trở thành đại diện hợp pháp trên “ghế Trung Quốc” tại Liên Hiệp quốc và chuyển theo phe Mĩ; quân đội Mĩ rút khỏi Nam Việt Nam, Việt Nam thống nhất. Cục diện biển Đông cũng theo đó mà thay đổi: dưới chính sách “không can dự” của Mĩ, năm 1974, Trung Quốc chiếm đoạt toàn bộ Hoàng Sa từ tay Nam Việt Nam, nhưng điều này đã khiến Bắc Việt và họ quay lưng lại với nhau, và Nam Việt chiếm một số đảo ở Trường Sa; bằng trận hải chiến trên năm 1988, Trung Quốc cướp được quyền kiểm soát một số đảo đá ở biển Đông; nhân lúc Bắc Kinh và Đài Loan tiến hành cuộc chiến tranh ngoại giao, Philippines thừa cơ chiếm lấy một số đảo ở Trường Sa; Đài Loan buộc lòng co lại trên đảo đảo Ba Bình. Từ cuối nhưng năm 1970, Malaysia và Brunei cũng tham gia vào cuộc tranh chấp ở biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ ba: </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ năm 1990 đến năm 2008, biển Đông bước vào thời kì tương đối ổn định. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, để thoát khỏi tình cảnh khó khăn về ngoại giao, Trung Quốc đưa ra chính sách láng giềng thân thiện và gác tranh chấp. Tranh chấp biển Đông xuất hiện một số xu hướng mới: một là, vai chính tranh chấp chuyển từ Trung Quốc và Việt Nam sang Trung Quốc và Philippines, lãnh thổ tranh chấp mở rộng đến bãi Scarborough; hai là, cách thức chuyển từ xung đột quân sự gay gắt sang xung đột chấp pháp dân sự ít gay gắt hơn, đồng thời các nước từng bước tăng cường xây dựng đời sống dân sinh trên đảo / đá; ba là, “Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc” có hiệu lực, phạm vi tranh chấp mở rộng từ tranh chấp chủ quyền đảo sang tranh chấp phân định biển. Tranh chấp đường 9 đoạn bắt đầu nổi lên, do tranh chấp về vùng biển mà Indonesia trở thành một bên trong vấn đề biển Đông; cuối cùng, ASEAN bắt đầu có tiếng nói về vấn đề biển Đông với danh nghĩa là một lực lượng chính trị. Vấn đề biển Đông chuyển từ thế đối đầu giữa Trung Quốc với các nước sang đối đầu giữa Trung Quốc với ASEAN. “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” được kí kết năm 2002 là thành tựu ngoại giao lớn nhất đạt được trong giai đoạn này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ tư:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ năm 2009 đến năm 2016, mâu thuẫn ở biển Đông căng thẳng trở lại, hơn thế tranh chấp Mĩ - Trung Quốc tăng cao thành tiêu điểm. Năm 2008, Trung Quốc nêu mục tiêu xây dựng thành cường quốc hải quân, biển Đông trở thành bước đi đầu tiên “ra thế giới” của Trung Quốc. Năm 2009 xảy ra sự kiện tàu USNS Impeccable, tuần trăng mật giữa Mĩ và Trung Quốc ở biển Đông kết thúc, Mĩ bắt đầu thực hiện chiến lược xoay trục lại Châu Á và tái cân bằng Châu Á – Thái Bình Dương. Năm 2009, Trung Quốc chính thức đưa ra đường 9 đoạn trong văn kiện quốc tế, tranh chấp về đường 9 đoạn trở thành vấn đề tiêu điểm không thể né tránh. Năm 2012, Trung Quốc chiếm lấy bãi Scarborough từ tay Philippines, đây là lần đầu tiên có sự thay đổi về quyền kiểm soát đảo, kể từ khi “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” được kí kết. Đồng thời, Trung Quốc quấy nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của nước khác và hải cảnh tiến sâu vào phần phía Nam của biển Đông “bảo vệ ngư dân” cùng sử dụng phương thức “uy hiếp” dân sự như hay quấy nhiễu hoạt động tiếp tế, gia tăng kiểm soát thực tế đối với biển Đông. Hành vi quan trọng nhất của Trung Quốc chính là xây dựng đảo nhân tạo trên 7 các thể địa lí chiếm giữ, đồng thời quân sự hóa Hoàng Sa và Trường Sa, thay đổi triệt để thế so sánh quân sự tại biển Đông trước sự phản đối của cộng đồng quốc tế. Sau sự kiện bãi Scarborough, Mĩ chuyển từ “trung lập tiêu cực” sang “trung lập tích cực”, dùng “Kế hoạch tự do hàng hải” để biểu thị việc “không thừa nhận” đảo nhân tạo và đường 9 đoạn của Trung Quốc. Philippines kiện Trung Quốc tại Tòa trọng tài quốc tế và giành thắng lợi triệt để. Tranh chấp biển Đông giai đoạn này đã vượt qua phạm vi tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải, trở thành điểm giao tranh vị thế bá chủ thế giới giữa Mĩ và Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giai đoạn thứ tư vốn là “thời kì hành động”, không dễ giải quyết đối với một cuốn “sách lịch sử” chút nào. Tuy nhiên, cuộc bầu cử tổng thống Mĩ năm 2016 đã xuất hiện một kết quả ngoài mong đợi, Trump trở thành ông chủ Nhà trắng, dẫn đến tình huống khó xác định trong cục diện biển Đông, trước mắt vẫn khó có thể dự đoán tình hình sẽ phát triển theo chiều hướng nào. Nhưng dù thế nào vẫn có thể khẳng định rằng, điều chắc chắn là tiến trình biển Đông mà chính quyền Obama hy vọng thúc đẩy không còn tồn tại; giai đoạn thứ tư của vấn đề biển Đông đã đột ngột kết thúc, khiến cuốn sách có thể đánh dấu chấm hết đúng lúc. Từ năm 2017, cục diện biển Đông bước sang giai đoạn mới. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Lịch sử Nam Hải bị bẻ cong – Nam Hải trước thế kỉ XX”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và cuốn sách này đều thông qua việc khảo sát lịch sử cổ đại và hiện đại về biển Đông để làm rõ nhiều nghi vấn trong lịch sử biển Đông. Yêu sách chủ quyền của các nước tranh chấp biển đảo đều không xác đáng như ngôn từ họ đơn phương sử dụng. Lấy Trung Quốc làm ví dụ, không thể nói Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc “từ xưa đến nay”. Yêu sách chủ quyền Hoàng Sa của Trung Quốc phải bắt đầu được tính từ năm 1909, khi Lí Chuẩn đi tuần tra trên biển, muộn hơn rất nhiều so với tuyên bố chủ quyền năm 1816 của vua Gia Long Việt Nam; yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa miễn cưỡng mà tính từ năm 1935 thì cũng vẫn muộn hơn yêu sách của Pháp năm 1930 (đó là chưa kể Anh yêu sách từ năm 1877); trước Thế chiến II, Hoàng Sa và Trường Sa đều có tranh chấp chủ quyền; sau Thế chiến II, cả “Tuyên bố Cairo” lẫn “Hòa ước San Francisco” đều không “trao trả” hai quần đảo này cho Trung Quốc; cái Trung Quốc gọi là “thu hồi” Tây Sa, Nam Sa chỉ là hành động giành chiếm trước núp lén, nhưng vẫn sau Pháp (Việt Nam); khi Trung Quốc chiếm giữ hai quần đảo này, gần như cùng lúc Việt Nam và Philippines lần lượt đưa ra yêu sách đối với Hoàng Sa và Trường Sa; sau Thế Chiến II không tồn tại cái gọi là “cộng đồng quốc tế thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc”; đường 9 đoạn của Trung Quốc lại càng là yêu sách đơn phương, không có cơ sở trong luật pháp quốc tế; “Công ước Luật biển Liên Hiệp quốc” và vụ kiện Tòa trọng tài đều phủ nhận yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông. Đương nhiên, điều cần chỉ ra là Việt Nam, Philippines, Malaysia đều có những vấn đề riêng trong yêu sách chủ quyền và phân định các đảo tại biển Đông của mình. Điều đó có nghĩa là, không bên nào hoàn toàn có lí trong vấn đề biển Đông. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vụ kiện ra trọng tài là một ví dụ về việc giải quyết tranh chấp biển Đông bằng luật pháp quốc tế. Dù Trung Quốc hiện vẫn không thừa nhận vụ kiện Tòa trọng tài nhưng kết quả phán quyết vụ kiện vẫn sẽ có tác động sâu sắc đến tiến trình biển Đông. Tác giả cho rằng, vấn đề biển Đông nên dùng phương thức hòa bình, lấy kết quả vụ kiện Tòa trọng tài làm cơ sở, căn cứ theo luật quốc tế để giải quyết; và mong rằng biển Đông thời Donald Trump vẫn là vùng biển hòa bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xưm bản có chú thích <a href="https://docs.google.com/document/d/1-nljSoyuf3NJP0xEA9XmqQZSj0W4PCAwNALUlOai8nA/edit?usp=share_link" target="_blank">ở đây</a>.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: justify; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="font-size: 12pt; text-align: justify; text-decoration-line: none; white-space: pre-wrap;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></p><div><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-71998250238597986002023-02-25T21:11:00.005-08:002023-05-11T01:02:30.228-07:00THỜI KỲ XUNG ĐỘT THẤP (1990-2008)_ Lê Oa Đằng (Ch, V)<p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-b5e3c0d4-7fff-9bac-70ea-020fce427a92"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">CHƯƠNG V</span></h1><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">THỜI KỲ XUNG ĐỘT THẤP (1990-2008)</span></h1><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ cuối những năm 1980 đến năm 2000 là thời kì then chốt trong cục diện phát triển của Nam Hải (biển Đông). Trong giai đoạn này có 4 sự kiện lớn nảy sinh, tác động trực tiếp đến hướng đi của vấn đề biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển quốc tế” (gọi tắt là “Công ước”) được thông qua năm 1982 và chính thức có hiệu lực năm 1994. “Công ước” quy định phương pháp dùng dụng đất liền để yêu sách lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, từ đó dẫn đến tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế giữa các nước liên quan đến biển Đông, dựa theo Luật biển.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sau Chiến tranh lạnh, Mĩ rút quân trú đóng tại Philippines khiến khu vực biển Đông rơi vào tình trạng chân không quyền lực. Trung Quốc nhanh chóng thay thế Mĩ, trở thành thế lực lớn nhất tại biển Đông, nhưng vẫn không đủ sức lấn áp các nước ASEAN đang có tiếng nói chung về vấn đề biển Đông.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc đề ra chính sách mục lân (thân thiện với láng giềng), đồng thời nêu quan điểm gác tranh chấp lãnh thổ, do đó xung đột biển Đông lắng xuống.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 2002, Trung Quốc và các nước ASEAN đạt được “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”, tạo sự đảm bảo cho tình hình biển Đông tạm thời yên ắng.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.1. Chiến tranh lạnh kết thúc và việc Mĩ, Liên Xô rút khỏi biển Đông</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Chiến tranh lạnh, thế giới chia thành hai phe đối lập. Trong thời kì Chiến tranh Việt Nam (những năm 1960, 1970), biển Đông đột nhiên trở thành tuyến đầu trong đối kháng Mĩ - Xô. Sau khi rút khỏi Chiến tranh Việt Nam, tuy không còn nhòm ngó đến Việt Nam Cộng hòa tại bờ Tây biển Đông, song Mĩ vẫn giữ căn cứ quân sự tại Clark và vịnh Subic thuộc bờ đông Philippines. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, Liên Xô thuê cảng Cam Ranh của Việt Nam, tạo nên thế đối lập giữa Mĩ với khu vực biển Đông. Trong những năm 1980, Liên Xô tăng cường xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự bên ngoài lớn nhất của Liên Xô.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1989, cả thế giới chú ý tới sự kiện mồng 4 tháng 6 (Thiên An Môn - ND) xảy ra tại Trung Quốc. Các nước phương Tây đồng loạt chỉ trích cuộc đàn áp của chính quyền Cộng sản, đồng thời thi hành chính sách phong tỏa ngoại giao và cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Sự kiện đó đã khép lại giai đoạn trăng mật giữa Trung Quốc và Mĩ trong những năm 1980. Tiếp đó, tại Liên Xô và các nước Đông Âu liên tục nổ ra phong trào dân chủ. Các nước Đông Âu lật đổ thành công chính quyền Cộng sản, bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1990, hai nước Đức thống nhất, đánh dấu sự kết thúc của hệ thống Yalta sau Chiến tranh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 19/8/1989, phái bảo thủ và quân đội Liên Xô phát động cuộc chính biến, giam giữ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev. Nhưng, dưới sự lãnh đạo của phái cải cách, đứng đầu là Tổng thống nước Cộng hòa Liên bang Nga Boris Yeltsin, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô đều lên tiếng ủng hộ Gorbachev, tuyên bố Đảng Cộng sản là chính đảng phi pháp tại tại các nước cộng hòa. Cuối cùng, lực lượng chính biến buộc phải thả Gorbachev. Tuy nhiên, danh tiếng Yeltsin khi đó đã vượt qua Gorbachev, Liên Xô giải thể là không tránh khỏi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/12/1991, tất cả các nước cộng hòa đều tuyên bố độc lập, Liên Xô chính thức giải thể. Cuối cùng, Chiến tranh lạnh kết thúc bằng thắng lợi của thế giới tự do.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Trung Quốc và Việt Nam là hai trong số ít ỏi các nước theo chế độ XHCN. Bắt đầu từ cuối những năm 1970, Trung Quốc và Việt Nam luôn nằm trong tình trạng chiến tranh, Liên Xô là nước giúp đỡ lớn nhất của Việt Nam. Sau khi Liên Xô giải thể, Việt Nam đột ngột mất nguồn viện trợ lớn, còn Trung Quốc rơi vào tình trạng bị thế giới cô lập. Hai nước quyết định chấm dứt Chiến tranh biên giới kéo dài và làm dịu quan hệ. Theo đó, đàm phán vấn đề biên giới và Vịnh Bắc Bộ bắt đầu được khởi động. Tuy nhiên, tình trạng đối đầu trên các đảo thuộc biển Đông vẫn không thể hòa giải.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình hình an ninh của Philippines trước những năm 1990 là rất tốt. Mặc dù Trung Quốc tiến quân vào Trường Sa, nhưng hoạt động chủ yếu chỉ diễn ra ở phía Tây Trường Sa, không dám tiến gần phía Đông Trường Sa và đảo Hoàng Nham (Scarborough) thuộc Philippines. Nguyên nhân chủ yếu là vì Mĩ có hai căn cứ lớn tại nhóm đảo của Philippines: căn cứ không quân trên đảo Clark và căn cứ hải quân trên đảo Subic. Đó vừa là những cứ điểm hoạt động quân sự quan trọng của Mĩ ở Châu Á, vừa là điểm bảo đảm an ninh hiệu quả cho Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Liên xô giải thể, Nga mất thực lực đối kháng với Mĩ tại biển Đông. Đầu những năm 1990, Nga rút khỏi Vịnh Cam Ranh với quy mô lớn, chỉ để lại số ít quân nhân kĩ thuật. Năm 2002, Nga không đủ sức thuê tiếp Vịnh Cam Ranh nên đã rút toàn bộ quân khỏi đây. biển Đông dần trở thành sức mạnh độc quyền của Mĩ. Dù vậy, Mĩ không có lí do, cũng không nhất thiết phải tiếp tục ở lại biển Đông, vì thế Mĩ bắt đầu thu hẹp chiến lược tại khu vực Đông Á, có quan điểm cho rằng Mĩ nên rút quân khỏi Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Căn cứ Clark lần đầu tiên bị bỏ trống. Bụi nham thạch núi lửa xảy ra năm 1991 xóa sạch thêm dấu vết căn cứ Clark. Tuy nhiên, Mĩ vẫn nuôi ý đồ tiếp tục giữ căn cứ Subic khoảng 10 năm sau sự kiện này. Hiệp ước thuê căn cứ Subic vốn được Mĩ và Philippines được kí vào 16/9/1966, quy định rằng căn cứ sẽ được cho thuê trong 25 năm, và kết thúc vào 16/9/1991. Do đó, nếu quân đội Mĩ muốn tiếp tục ở lại vịnh Subic thì phải kí hiệp ước mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng thống Philippines Aquino khi đó đã sớm nhận ra rằng, sự hiện diện của quân đội Mĩ là nhân tố cực kì quan trọng đối với an ninh Philippines. Vì vậy, bà hết sức ủng hộ việc tiếp tục cho Mĩ thuê căn cứ quân sự và năm 1991 đã đạt được thỏa thuận với Mĩ trong việc gia hạn thời hạn thuê thêm 10 năm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng vào lúc đó, lực lượng dân tộc chủ nghĩa ở Philippines đã trỗi dậy mạnh mẽ. Hiệp ước căn cứ quân sự Mĩ - Philippines vốn do Tổng thống và Chính phủ chịu trách nhiệm, nhưng sau khi Tổng thống Marcos bị lật đổ vào năm 1987, Philippines đã sửa đổi Hiến pháp, theo đó Điều 18 phần 24 (section 24, article XVIII)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> quy định: sau khi Hiệp ước thuê căn cứ quân sự Mĩ - Philippines kết thúc vào năm 1991, hiệp ước mới phải do Quốc hội phê chuẩn. Điều đó có nghĩa là dành chỗ để cho Quốc hội tham gia vào Hiệp ước căn cứ quân sự Mĩ - Philippines.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những người theo chủ nghĩa dân tộc Philippines có truyền thống chống Mĩ từ lâu. Sau Chiến tranh lạnh, tình hình an ninh Philippines được cải thiện, không còn nguy cơ có tính cấp bách, lực lượng dân tộc chủ nghĩa càng cho rằng không cần thiết phải có sự hiện diện của quân đội Mĩ tại căn cứ quân sự. Phái chống Mĩ lúc đó còn bao gồm bộ phận theo Marcos trước kia : trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1987, nhóm Aquino ủng hộ dân chủ đã từng nhận được sự trợ giúp của Mĩ, lật đổ người có thế lực quân sự mạnh là Marcos. Nhóm người cũ và nhóm trục lợi bất mãn với Mĩ cũng gia nhập đội ngũ chống Mĩ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng nhóm dân tộc chủ nghĩa lại xem nhẹ vấn đề an ninh quốc gia mà lẽ ra họ phải quan tâm nhất. Sau Chiến tranh lạnh, an ninh Philippines phụ thuộc Mĩ trong suốt thời gian dài, nền quân sự tự thân rất yếu kém, thậm chí yếu kém nhất trong các nước Đông Nam Á. Hơn nữa, Philippines còn có những tranh chấp lãnh thổ với nước khác chưa giải quyết xong, chẳng hạn như quần đảo Nam Sa, đảo Hoàng Nham (Scarborough) và Sabah (với Malaysia), thậm chí có người trong nhóm dân tộc chủ nghĩa còn đưa yêu sách đối với Guam và quần đảo Bắc Mariana thuộc quyền kiểm soát của Mĩ. Khi còn sự hiện diện của Mĩ thì các nước không dám dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực đối với Philippines, nhưng không thể kì vọng điều đó nếu Mĩ rút đi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với người Philippines, một bước ngoặt tâm lí đã xảy ra vào năm 1998. Một trăm năm trước, phong trào đòi độc lập đã dấy lên ở Philippines, nhân thời cơ từ cuộc Chiến tranh Mĩ - Tây Ban Nha, Philippines đã thành lập chính quyền và tuyên bố độc lập. Nhưng sau khi cuộc chiến Mĩ - Tây Ban Nha kết thúc, Tây Ban Nha đã nhượng Philippines cho Mĩ và Mĩ nhanh chóng chinh phục Philippines, loại bỏ chính quyền Philippines. Phái dân tộc chủ nghĩa coi đây là nỗi nhục dân tộc và quốc gia. Vì thế, nhân dịp kỉ niệm 100 năm phong trào đòi độc lập, phái dân tộc chủ nghĩa coi việc đuổi sạch “đế quốc” Mĩ khỏi Philippines mang ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Nhóm dân tộc chủ nghĩa Philippines khăng khăng đòi Mĩ phải rút quân hoàn toàn khỏi Philippines trước năm 1998 và Hiệp ước thuê chỉ kí kết thêm tối đa 7 năm. Vốn dĩ, 7 năm và 10 năm không khác biệt nhiều. Nhưng vấn đề là, nếu giới hạn là 10 năm, thì có khả năng gia hạn căn cứ ở Philippines, nhưng nếu giới hạn là 7 năm, thì việc Mĩ rút hoàn toàn khỏi Philippines vào năm 1998 trở thành điều được định trước – không có chút cơ hội Philippines kí lại thỏa thuận gia hạn hợp đồng thuê ngay vào năm kỉ niệm 100 năm độc lập.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bởi vậy mà tranh chấp về 3 năm này đã trở thành tiêu điểm. Một mặt, phái dân tộc chủ nghĩa tiếp tục đòi hỏi Mĩ phải rút toàn bộ quân khỏi Philippines, thể hiện việc Philippines “hoàn toàn độc lập”; mặt khác, họ giải thích hiệp ước thuê 10 năm là một hành động khiêu khích của Mĩ đối với lễ kỉ niệm 100 năm độc lập của Philippines. Chẳng hạn, Roland Simbulan, một nhà cánh tả nổi tiếng và là giáo sư tại Đại học Philippines, tin rằng: người Mĩ quá tham lam, chỉ vì 3 năm ngắn ngủi mà đối đầu với người Philippines, rốt cục mất đi 7 năm thuê đất, quả là tham bát bỏ mâm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mọi tuyên bố của phái tả đều cho rằng, việc quân đội Mĩ trú đóng tại Philippines chỉ có lợi cho Mĩ, Philippines cho Mĩ thuê căn cứ chỉ là hành động nhận bố thí. Sớm hay muộn Mĩ cũng phải rút khỏi Philippines, vậy thì rút sớm 3 năm có can hệ gì ?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines không thiếu người có tầm nhìn toàn cục một cách lí tính. Bà Aquino đích thân xuống đường tham gia biểu tình tìm kiếm sự ủng hộ, thậm chí có lần tính tới phương thức trưng cầu ý dân. Bộ trưởng Ngoại giao Raul Manglapus cũng chỉ ra rằng việc thông qua hiệp ước này sẽ tăng cường đáng kể quan hệ Mĩ-Philippines và cuối cùng là đảm bảo sự ổn định chính trị và kinh tế của Philippines. Nghị sỹ Franklin Drilon cũng cho rằng, nếu phản đối việc thông qua hiệp ước, cũng có nghĩa phát đi một tín hiệu mạnh nhưng sai lầm tới Mĩ và điều này cuối cùng sẽ gây tổn hại đến lợi ích của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng những suy nghĩ lí tính và thực tế đó cũng không thể ngăn cản nổi khẩu hiệu yêu nước của phái dân tộc chủ nghĩa. Phái này đã kích động nhiệt huyết của dân chúng, và làm lung lay lập trường của những thành viên Quốc hội ban đầu ủng hộ hiệp ước. Ngày 10/9/1991 đã có 50 000 người biểu tình đòi bác bỏ đàm phán. Trong ngày Quốc hội bỏ phiếu, 170 000 người đã dầm mưa tập trung trước cửa Quốc hội, tạo áp lực chính trị cực lớn đối với các nghị sĩ tham gia bỏ phiếu. Cuối cùng, với tỉ lệ phiếu 12/11, chỉ với 1 phiếu sai biệt, Quốc hội Philippines đã bác bỏ việc đàm phán gia hạn hiệp ước thuê căn cứ quân sự. Kết quả này khiến Mĩ khá ngỡ ngàng và thất vọng, do trước đó đã nhận định rằng hiệp ước thuê đất có thể được thông qua, và dẫn đến việc không thể không rời khỏi căn cứ hải quân trên Vịnh Subic. Như vậy là một lần nữa trên vùng biển Đông không có lực lượng quân sự Mĩ. Không có căn cứ quân sự của Mĩ ở Philippines, liên minh quân sự Mĩ – Philippines không có đảm bảo vật chất nào, về cơ bản chỉ là lời trên giấy. Phái dân tộc chủ nghĩa lạc quan quá mức về nền an ninh quốc gia, kế hoạch hiện đại hóa hải quân do Bộ trưởng Quốc phòng đề xướng khi đó bị gác lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không lâu sau đó, Philippines phải nếm mùi cay đắng.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.2. “Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển” được kí kết và có hiệu lực</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 28/9/1945, Tổng thống Mĩ Harry S. Truman ban bố lệnh hành chính, quy định Mĩ có quyền tài phán và kiểm soát đáy biển thuộc thềm lục địa ngoài 3 hải lí tính từ bờ biển,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ý tưởng này đã khiến các nước tranh nhau làm theo, trong đó có nước thậm chí còn đưa ra yêu sách lãnh hải 200 hải lí. Để giải quyết vấn đề phân chia quyền lợi trên biển, Liên Hiệp quốc đã triệu tập Hội nghị về Luật biển lần thứ nhất, kí kết “Công ước Luật biển Geneva”. Công ước này được tạo thành từ 4 Hiệp ước: “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp”, “Công ước về thềm lục địa”, “Công ước về vùng biển quốc tế” và “Công ước về đánh cá và Bảo tồn Tài nguyên Sinh vật trong vùng biển quốc tế”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi đó, Đài Loan tham gia Hội nghị này với tư cách là đại diện của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc, và phê chuẩn “Công ước về thềm lục địa” năm 1970. Bắc Kinh chưa giành được ghế hợp pháp tại Liên hiệp quốc nên không tham gia Hội nghị lần này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hội nghị Liên hiệp quốc về Luật biển lần thứ hai được tổ chức nhưng không có tiến triển đáng kể. Hội nghị Liên hiệp quốc về Luật biển lần thứ ba được tổ chức vào năm 1973, kéo dài trong 9 năm, đến tháng 12/1982, với 130 phiếu tán thành, 4 phiếu chống và 17 phiếu trắng, Hội nghị đã đạt được “Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển quốc tế” (sau đây gọi tắt là “Công ước”). Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị, đoàn đại biểu Trung Quốc đều tích cực tham gia công việc thẩm định các vấn đề thực chất liên quan đến luật biển và đưa ra 3 văn kiện làm việc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lập trường của Trung Quốc trong Hội nghị về Luật Biển chủ yếu là: 1) kiên định bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc; 2) ủng hộ yêu cầu của các nước đang phát triển, phản đối bá quyền biển gây thiệt hại cho lợi ích của nước khác.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc giữ thái độ phê phán và phủ nhận “Công ước Luật biển Geneva”, cho rằng Công ước này được “xây dựng trên cơ sở luật biển cũ, theo chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bá quyền”. Ngày 3/3/1972, khi tham gia Hội nghị toàn thể Ủy ban đáy biển, đoàn đại biểu Trung Quốc lần đầu tiên phát biểu, nêu rõ lập trường nguyên tắc của mình về vấn đề quyền trên biển, tuyên bố kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa do các nước Mĩ La Tinh dẫn đầu, nhằm bảo vệ quyền trên 200 hải lí, bảo vệ nguồn tài nguyên biển của nước mình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu phân chia một cách đơn giản các nước tham gia thảo luận “Công ước” thành hai nhóm lớn (nhóm ven biển và nhóm quyền trên biển) thì thái độ Trung Quốc rõ ràng thuộc nhóm bảo vệ quyền lợi của các nước ven biển.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 30/4/1982, khi tiến hành biểu quyết “Công ước”, Trung Quốc bỏ phiếu tán thành, đồng thời ngày 10/12 cùng năm, trong buổi họp cuối cùng của Hội nghị, Trung Quốc đã cùng 116 quốc gia và 2 thực thể chính trị khác kí “Công ước” và “Văn kiện Hội nghị Liên hiệp quốc về Luật biển quốc tế lần thứ 3”. Về tổng thể, Trung Quốc hài lòng với “Công ước”, chỉ còn thể hiện thái độ “không hoàn toàn thỏa mãn” về 3 phương diện :</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Về chế độ tàu quân sự đi qua vùng lãnh hải, “Công ước” “quy định rất không rõ ràng”. Điều 21 trong “Công ước” quy định tàu quân sự có thể đi qua vô hại lãnh hải của các nước ven biển. Trung Quốc và 27 quốc gia khác đưa ra đề xuất sửa đổi Điều 21, yêu cầu bổ sung quy định các nước ven biển có quyền dựa theo luật pháp và quy định của mình yêu cầu tàu chiến nước ngoài đi qua lãnh hải phải được sự phê chuẩn hoặc phải thông báo cho nước sở tại trước. Tuy nhiên, đề nghị này bị nhiều nước phản đối nên không được ghi vào “Công ước”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Về định nghĩa thềm lục địa. Trung Quốc chủ trương sau cụm từ “mở rộng đến” trong khoản 1 điều 76 cần thêm 3 chữ “không vượt quá”; trong khoản 3 thêm 3 chữ “tính thông thường”, nhằm tăng thêm mức chuẩn xác và khoa học của “Công ước”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Về điều khoản bảo lưu và trình tự cưỡng chế mang tính ràng buộc của “Công ước”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều 287 “Công ước” quy định:</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi kí, phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hoặc tại bất kì thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn hình thức tuyên bố bằng văn bản, theo một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước: (a) Tòa luật biển quốc tế thành lập theo quy định tại Phụ lục VII; (b) Tòa án quốc tế (International Court of Justice); (c) Tòa trọng tài quốc tế thành lập theo quy định tại Phụ lục VII; (d) Tòa trọng tài đặc biệt thành lập theo quy định tại Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều tranh chấp được liệt kê trong đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Công ước” cũng quy định:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi quốc gia kí kết là một bên trong tranh chấp mà không có đưa ra tuyên bố hợp lệ sẽ được coi là đã chấp nhận thủ tục trọng tài theo quy định tại Phụ lục VII. Nếu các bên tranh chấp cùng chấp nhận một thủ tục giải quyết tranh chấp, thì tranh chấp đó có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục đã thống nhất, trừ phi các bên có thỏa thuận khác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng, “về nguyên tắc, quy định như vậy không được chúng tôi nhất trí”. Bởi vì Trung Quốc kiên định lập trường, tranh chấp liên quan đến luật biển giữa các nước phải do các bên trực tiếp đàm phán giải quyết, nếu tự nguyện, cũng có thể đưa ra cơ quan trọng tài giải quyết, nhưng không thể chấp nhận quyền tài phán bắt buộc của cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 309 “Công ước” còn quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận các ngoại lệ ngoài những điều khoản thể hiện rõ sự cho phép tại Công ước</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Nhưng Trung Quốc “không đồng ý bất cứ tình huống thực tế nào cũng không được bảo lưu, như vậy sẽ dẫn đến việc làm phương hại chủ quyền và quyền lợi hợp lí của các nước cũng như ảnh hưởng đến việc tiếp nhận rộng rãi các điều khoản của Công ước”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho dù có những điểm không hài lòng, nhưng Trung Quốc vẫn kí và sau đó đã phê chuẩn công ước. Điều đáng nói đến là một số khái niệm là nguyên nhân lớn gây tranh cãi ở biển Đông sau này như: chủ quyền lịch sử, chế độ đảo, đường cơ sở quần đảo và đường cơ sở thẳng… Trung Quốc đều không đưa ra phản đối. Đại biểu tham gia đàm phán Lăng Thanh sau này suy ngẫm lại và cho rằng: năm đó Trung Quốc không tính toán kĩ đến mối liên quan giữa “Công ước” với Trung Quốc, quá nhấn mạnh đến việc chống chủ nghĩa bá quyền, chỉ khi ‘Công ước’ được thông qua và cần được phê chuẩn trong nước, thì mới có người đưa ra kiến nghị bảo lưu điều khoản về quyền và lợi ích 200 hải lí, nhưng khi đó đã ở trong thế cưỡi lưng cọp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài Trung Quốc ra, các bên tranh chấp biển Đông đều tham gia Hội nghị và phát huy vai trò quan trọng, đồng thời đều là thành viên kí “Công ước”. Với tư cách là các quốc gia quần đảo, Philippines và Indonesia đều ủng hộ mở rộng quyền lợi biển, đặc biệt là chế độ quần đảo, nên là những nước đầu tiên phê chuẩn công ước ngay sau khi được kí kết. Những bên khác đều lần lượt phê chuẩn Công ước quốc tế này trong những năm 1990.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1994, Guinea phê chuẩn “Công ước”, nâng số nước phê chuẩn “Công ước” đạt mức 2/3 số nước tham gia Hội nghị, “Công ước” chính thức có hiệu lực. “Công ước” đã đưa ra các nguyên tắc rõ ràng đối với cho các tranh chấp biển quốc tế, việc thảo luận và giải quyết các tranh chấp ở biển Đông trong khuôn khổ của Công ước đã trở thành một chuẩn mực quốc tế mới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên cạnh việc đưa ra những hướng dẫn và cách thức giải quyết các tranh chấp biển đảo, “Công ước” đồng thời cũng làm cho những xung đột tiềm ẩn nhanh chóng thể hiện rõ. Ngày 25/2/1992, căn cứ vào “Công ước”, Trung Quốc đã soạn thảo “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, trong đó điều 2 quy định:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là vùng biển tiếp giáp với lãnh thổ đất liền và nội thủy nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ đất trên cạn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các đảo ven biển, Đài Loan cùng các đảo phụ thuộc bao gồm cả đảo Điếu Ngư trong đó, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa (Macclesfield); quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và toàn bộ các đảo khác thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 31.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 31.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng nước ở phía đất liền của đường cơ sở lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nội thủy của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là lần đầu tiên Trung Quốc liệt kê các đảo thuộc Trung Quốc theo luật pháp. Quy định này, đặc biệt là quy định về quần đảo Nam Sa đã gây lo ngại đối với các nước ASEAN, trở thành một trong những nguyên nhân để các nước ASEAN ra “Tuyên bố chung ASEAN” (xem phần V.7).</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.3. Đề xuất chính sách gác tranh chấp</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện 4/6/1989, điều kiện quốc tế hết sức bất lợi cho Trung Quốc, các nước phương Tây, đứng đầu là Mĩ và Liên minh Châu Âu phê phán gay gắt vụ thảm sát dân thường của Chính phủ Trung Quốc, thực hiện cấm vận kĩ thuật cao và vũ khí đối với Trung Quốc, nhóm nước G7 đóng các khoản vay cho Trung Quốc. Trước đó, hàng năm, Quốc hội Mĩ phê duyệt đều đặn các khoản ưu đãi đặc biệt cho Trung Quốc, tuần trăng mật trong quan hệ Trung – Mĩ từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách đã kết thúc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã cũng khiến Trung Quốc bị cô lập, không nguồn viện trợ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để thoát khỏi tình trạng bất lợi về ngoại giao, Trung Quốc đã đề ra một số chiến lược ngoại giao mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước tiên là </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thao quang dưỡng hối</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (韜光養晦: giấu sáng phô tối [giấu mình chờ thời]) , được Đặng Tiểu Bình khái quát bằng 16 chữ:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiện ư thủ chuyết, quyết bất đương đầu, thao quang dưỡng hối, hữu sở tác vi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (善於守拙、決不當頭、韜光養晦、有所作爲: giữ kín điểm yếu, quyết không đối đầu, giấu mình chờ thời, tạo sự khác biệt). Tư tưởng hạt nhân là chuyên chú vào phát triển, không phô lộ chỗ mạnh. Ngoại giao Trung Quốc chuyển sang trạng thái mềm mỏng, lấy phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế làm cốt lõi trong quan hệ đối ngoại.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai là coi trọng ngoại giao với các nước láng giềng và đề xuất chiến lược “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mục lân</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (睦隣: láng giềng thân thiện – ND). Đầu những năm 1990, Trung Quốc cải thiện và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước lân cận. Trung Quốc kết thúc cuộc chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm với Việt Nam, đồng ý giải quyết tranh cãi về vấn đề hoạch định biên giới trên đất liền và trên biển bằng phương thức hòa bình. Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước Đông Á, bao gồm Hàn Quốc (1992), Singapore (1990), Indonesia (1990) và Brunei (1991). Trung Quốc còn tích cực phát triển</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">13</span></span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan hệ với Nhật Bản. Năm 1990, Thủ tướng Nhật Bản Toshiki Kaifu tuyên bố nối lại các khoản vay cho Trung Quốc tại cuộc họp G7. Ngày 10/8/1991, Kaifu thăm Trung Quốc, mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Chính sách mục lân này đã cải thiện cục diện ngoại giao cô lập của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bằng hai lối tư duy này, Trung Quốc bắt đầu cũng bắt đầu kiềm chế đà bành trướng tại biển Đông kể từ những năm 1980 đến nay và chủ trương “giải quyết hòa bình” vấn đề biển Đông, không sử dụng vũ lực.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trên cơ sở đó, Trung Quốc nêu chính sách “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (擱置爭議,共同開發: gác tranh chấp, cùng khai thác). Tháng 8/1990, nhân chuyến thăm Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Lí Bằng lần đầu tiên đề cập đến chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” trong vấn đề Trường Sa. Lí Bằng nêu rõ, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước Đông Nam Á tích cực khai thác quần đảo Nam Sa, trước mắt cần gác vấn đề chủ quyền sang một bên</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Tháng 12 cùng năm, Lí Bằng nhắc lại chủ trương này trong chuyến thăm Malaysia. Năm 1991, Chủ tịch Trung Quốc Dương Thượng Côn lại lần nữa nhắc tới chủ trương này khi đến thăm Indonesia. Cuối năm 1992, trong chuyến thăm Việt Nam, trước câu hỏi về “vấn đề bãi Vạn An”, Lí Bằng đã nêu lại chủ trương này một lần nữa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, khi hai nước Trung – Nhật thiết lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc đã cố ý tránh nói tới vấn đề đảo Điếu Ngư.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi kí hòa ước với Nhật Bản, tháng 10/1978, trong cuộc họp báo nhân dịp trao văn bản kí kết, Đặng Tiểu Bình đã nói tới chính sách gác tranh chấp đối với đảo Điếu Ngư (Sankaku): “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề này cần gác lại, không nên gấp gáp, đợi 10 năm sau cũng không can hệ gì. Thế hệ chúng ta còn thiếu tri thức, bàn về vấn đề này cũng không thể đạt được nhận thức chung, thế hệ sau thông minh hơn chúng ta, nhất định họ sẽ tìm ra phương cách hai bên cùng chấp nhận được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippines trong những năm 1970, Trung Quốc giữ thái độ mềm mỏng trước việc Philippines mở rộng Nam Sa, điều này cũng được coi là biểu hiện của việc gác tranh chấp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính sách gác tranh chấp của Trung Quốc bên trong và bên ngoài có sự khác biệt: tuyên truyền trong và ngoài nước là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gác tranh chấp, cùng khai thác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng trong nội bộ Chính phủ lại là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền tại ngã, các trí tranh nghị, cộng đồng khai khai khai phát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(主權在我, 擱置爭議,共同開發:</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền thuộc ta,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gác tranh chấp, cùng khai thác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong cách tuyên truyền của Trung Quốc, chính sách “gác tranh chấp, cùng khai thác” là một cử chỉ thiện chí rất lớn. Tuy nhiên, xem ra không phải như vậy.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mặc dù khi tuyên truyền đối ngoại, Trung Quốc tránh nói “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền tại ngã</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng các nước xung quanh đều nhận thấy, chấp nhận gác tranh chấp đồng nghĩa với việc ngầm chấp nhận tiền đề “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền tại ngã</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, do đó phản ứng của các nước hết sức thận trọng. Điều cần chỉ ra là, tại Hội nghị biển Đông lần thứ ba năm 1992 (xem phần V.7), Vụ trưởng Vụ Điều ước, Bộ ngoại giao Trung Quốc Đường Thừa Nguyên đã nói rõ phương châm 12 chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền quy ngã, các trí tranh nghị , liên hợp khai phát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (主權歸我, 擱 置爭議, 聯合開發: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền thuộc về ta, gác lại tranh chấp, liên kết khai thác</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có thêm và nhấn mạnh 4 chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền quy ngã</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, trước khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố “phương châm 8 chữ”. Có thể thấy, Trung Quốc có ý đồ muốn các nước chấp nhận tiền đề “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền tại ngã</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trá hình dưới dạng chấp nhận “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gác tranh chấp</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phần lớn quần đảo Trường Sa do các quốc gia khác kiểm soát và các quốc gia này đã đầu tư vào việc phát triển các khu vực giàu dầu mỏ trong nhiều năm. Trung Quốc vừa không kiểm soát được những khu đó, vừa không có đối tác đầu tư. Vì vậy, đối với các nước, nói “cùng khai thác” chẳng khác nói “cùng được chia phần”. Hơn nữa, Trung Quốc cũng không hề có ý định cho Việt Nam cùng khai thác những địa điểm tranh chấp đang do họ kiểm soát, chẳng hạn như quần đảo Hoàng Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lời hứa gác tranh chấp của Trung Quốc thực sự cũng khiến các quốc gia ven biển cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng Trung Quốc có thực tâm gác tranh chấp hay không vẫn là một nghi vấn. Trong Hội nghị lần thứ hai về xử lí xung đột tiềm ẩn tại biển Đông, đại biểu các nước đều lo lắng với cái gọi là gác tranh chấp, vì có thể đây chỉ là một biện pháp thích nghi của Trung Quốc (xem phần V.7). Quả đúng như vậy, một khi tình thế ngoại giao lắng xuống Trung Quốc lại tiếp tục bành trướng với “sự kiện bãi Vạn An (bãi Tư Chính) và bãi Mĩ Tế (đá Vành Khăn)”, nhưng việc bành trướng không còn thông qua vũ lực để đạt tới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, Trung Quốc luôn chủ trương rằng vấn đề biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương giữa các nước liên quan, đồng thời phản đối “quốc tế hóa vấn đề biển Đông” nhằm chống lại sự can thiệp của “các nước ngoài khu vực” (chủ yếu là Mĩ).</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.4. Bắt đầu cuộc tranh cãi về đường 9 đoạn</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ năm 1947 khi Trung Quốc đề ra đường đứt đoạn cho đến đầu những năm 1990, họ chưa bao giờ nói rõ hàm nghĩa của nó. Sau khi thoát qua Đài Loan, Chính phủ Quốc dân vẫn tiếp tục sử dụng quy định “phạm vi lãnh hải 3 hải lí” ban hành năm 1931 trong một thời gian dài. Mãi đến năm 1976, Bộ Nội chính Đài Loan mới tập hợp thành viên từ các ngành ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, giao thông, tư pháp, hành chính,... để thành lập nhóm chuyên trách về lãnh hải lâm thời để nghiên cứu việc mở rộng phạm vi lãnh hải và xây dựng vùng đặc quyền kinh tế. Năm 1979, Lệnh số 5046/Đài thống(1)/Tổng thống(68) của Tổng thống Đài Loan tuyên bố “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở rộng lãnh hải nước ta thành 12 hải lí và thành lập vùng kinh tế biển 200 hải lí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây chỉ là nguyên tắc, không có khả năng thi hành trên thực tế khi đường cơ sở trên biển chưa được xác định. Tuy nhiên, khi xác định phạm vi đường cơ sở, Đài Loan không thể tránh khỏi 3 điểm khó: vấn đề đảo Điếu Ngư (Sankaku), vấn đề biển Đông và vấn đề đường ven biển của đại lục. Năm 1980, Đài Loan đã hoàn thành công tác nghiên cứu xác định điểm cơ sở đối với Đài Loan và đảo Đông Sa, nhưng việc công bố đã bị hoãn lại theo lệnh của tổng thống; năm 1989 hoàn thành việc xác định điểm cơ sở vùng bờ biển đại lục, nhưng do quan hệ hai bờ phức tạp nên Viện Hành chính tiếp tục gác lại. Trong những năm 1980, xung đột nghề cá giữa Đài Loan và các nước lân cận (chủ yếu là với Philippines và Nhật Bản) ngày càng căng thẳng, nhưng do chưa có luật về vùng biển nên không có cách nào xác định khu vực kinh tế biển và biện pháp xử lí. Vì vậy, tháng 4/1989, Bộ Nội chính khởi động lại công việc nghiên cứu xác định điểm cơ sở, đường cơ sở lãnh hải, đồng thời soạn thảo “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp của Trung Hoa Dân quốc, và Luật vùng đặc quyền kinh tế và rạn san hô đại lục của Trung Hoa Dân quốc (gọi tắt là 2 Luật).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau 8 lần triệu tập Hội nghị Nhóm công tác “nghiên cứu xác định điểm cơ sở, đường cơ sở lãnh hải, vùng kinh tế biển và luật biển nước ta”, phương án đường cơ sở lãnh hải đã được giao cho nhóm chuyên trách Bộ Nội chính. Ngày 17/9/1990, nhóm chuyên trách triệu tập Hội nghị lần thứ nhất để “Xem xét việc mô phỏng yêu sách vùng nước lịch sử trong Luật quốc tế cho khu vực biển Đông, và việc chọn dùng ranh giới truyền thống để phân định lãnh hải nước ta”, Phó Côn Thành chủ trương coi đường chữ U này là “vùng nước lịch sử”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù nhóm chuyên trách nhận thức rằng, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng biển bao quanh đường nhiều đoạn này tương đối rộng, nếu công bố ra bên ngoài có thể dẫn đến tranh cãi với</span><span style="color: cyan; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các nước láng giềng, nên phải đợi có lí lẽ mạnh để tranh luận về chứng lí</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng cuối cùng vẫn thông qua quyết nghị “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếp tục sử dụng ranh giới quốc gia truyền thống làm phạm vi vùng nước lịch sử của nước ta, và đối với đường cơ sở của 3 quần đảo Trung Sa, Tây Sa và Nam Sa, thì lấy đường cơ sở thông thường tại các đảo/ đá nổi trên mặt nước làm đường cơ sở lãnh hải. Từ ‘lãnh hải’ dùng trong chuyên đề đều được đổi thành ‘vùng nước lịch sử’”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây chính là văn bản nội bộ sớm nhất coi đường 9 đoạn là vùng nước lịch sử. Hội nghị Nhóm chuyên trách lần thứ hai xác định 109 điểm cơ sở trên 3 quần đảo Macclesfield, Hoàng Sa và Trường Sa, và đường cơ sở thông thường qua 109 điểm đó. Do số lượng đảo/ đá trong các tư liệu bản đồ không thống nhất nên chỉ lấy số lượng đảo/ đá được phát hiện đến hiện tại làm chuẩn, nếu sau này có biến đổi thì sẽ lấy số lượng biến đổi làm chuẩn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua 23 hội nghị Nhóm công tác, 8 hội nghị của các cơ quan phối hợp và 2 hội nghị của Nhóm chuyên trách, 2 Luật đã được sửa đổi đến 4-5 lần. Điều 4 bản khởi thảo Luật lãnh hải sớm nhất quy định “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử Trung Hoa Dân quốc và phạm vi xung quanh nó do Viện Hành</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chính công bố</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản sửa đổi lần thứ hai, một ghi chú được thêm vào bên dưới lời văn:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1/ Việc xác định rõ vùng nước lịch sử của nước ta và phạm vi xung quanh nó do Viện hành chính công bố. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2/ Vùng nước lịch sử như các bằng chứng lịch sử đã chỉ ra, là vùng nước vốn có, được phát hiện và đặt tên sớm nhất, được khai thác và kinh doanh sớm nhất, được quản lí và thực thi chủ quyền sớm nhất, chính là vùng Nam Hải của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3/ Xét thấy các đảo thu hồi sau kháng chiến thắng lợi đã được Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng cử người lần lượt tiếp nhận và hoàn tất từ tháng 10 năm Dân quốc thứ 35 (1946) đến tháng 6 năm Dân quốc thứ 36 (1947), bản đồ các đảo đã được đo đạc thực tế, có vẽ ranh giới vùng biển quốc gia, và có công bố bảng đối chiếu tên mới và cũ của các đảo trên biển Đông trong hồ sơ, để đảm bảo quyền chủ quyền và lợi ích của các đảo này và vùng biển xung quanh của nước ta, phải tham chiếu luật lệ của các nước như Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka,... xác định rõ ràng vùng nước lịch sử và phạm vi của nó trong Bộ luật này, đồng thời giao cho Viện Hành chính công bố văn bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong các văn bản sửa đổi và bản dự thảo Luật vùng đặc quyền kinh tế sau này đều không giải thích Đài Loan và các nước có quyền lợi như thế nào tại nơi được gọi là vùng nước lịch sử (chẳng hạn tự do hàng hải và tài nguyên biển), cũng không nói vùng nước này có tương đồng với lãnh hải hay không.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 1/7/1991, bản dự thảo được chuyển đến Ủy ban pháp quy để thẩm định,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và ngày 21/1/1992 báo cáo Viện Hành chính xem xét thảo luận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong bản dự thảo này, điều khoản nói về vùng nước lịch sử được điều chỉnh thành Điều 6, nhưng lời lẽ và thuyết giải đều không thay đổi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong văn bản chuyển tới Viện Lập pháp sau khi đã được Viện Hành chính phê chuẩn thì phần thuyết giải trong điều 6 được giảm thành 2 điều như sau:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1/ Việc xác định rõ vùng nước lịch sử của nước ta và phạm vi của nó do Viện Hành chính công bố.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2/ Vùng nước lịch sử là vùng nước vốn có, được phát hiện và đặt tên sớm nhất, được khai thác và kinh doanh sớm nhất, được quản lí và thực thi chủ quyền sớm nhất như được những chứng cứ trong lịch sử cho thấy, chẳng hạn như Nam Hải của nước ta dùng đảm bảo cho quyền chủ quyền của nước ta đối với các đảo ở Nam Hải và các vùng biển xung quanh; vùng nước lịch sử và phạm vi của nó do Viện Hành chính công bố.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Viện Lập pháp thực hiện khẩn trương, nhưng bản dự thảo đã không được đưa vào thẩm định trong nghị trình định kì của Viện Lập pháp trong năm đó, hơn thế còn bị kéo dài thêm vài năm sau. Trong khoảng thời gian đó, ngày 13/4/1993, Chính phủ Đài Loan đã soạn thảo “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cương lĩnh chính sách</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, chủ trương như sau: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất luận căn cứ theo lịch sử, địa lí, luật quốc tế hay thực tế thì các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa và Đông Sa đều là một phần lãnh thổ vốn có của nước ta, chủ quyền của chúng đều thuộc nước chúng ta. Vùng biển trong đường ranh giới vùng nước lịch sử của biển Đông là vùng biển thuộc quyền quản lí của nước ta, nước ta có quyền lợi toàn bộ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với cả hai bên eo biển, đây là lần đầu tiên yêu sách về “vùng nước lịch sử” được đưa ra trong một tài liệu công khai của chính phủ. Trong khoảng thời gian 1993-1995, các bộ ngành Đài Loan đã sử dụng cụm từ “vùng nước lịch sử” trong nhiều trường hợp,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều này đã thu hút sự quan tâm của Mĩ. Ngày 10/5/1995, Quốc hội Mĩ đưa ra tuyên bố về chính sách quần đảo Nam Sa và biển Đông, tựu chung có 5 quan điểm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điểm thứ 5 nêu rõ:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The United States would however view with concern any maritime claim or restriction on maritime activity in the South China Sea that was not consistent with international law, including 1982 United Nations Convention on Law of the Sea.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, Hoa Kì sẽ xem xét với quan ngại bất kì yêu sách biển hoặc sự hạn định hoạt động trên biển nào ở biển Đông không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đó đồng nghĩa với việc (Mĩ) phản đối lập trường “vùng nước lịch sử” của Đài Loan. Bộ Ngoại giao Đài Loan lập tức lên tiếng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với vấn đề quần đảo Nam Sa, lập trường về chủ quyền của nước chúng tôi sẽ không bao giờ thay đổi khi nó liên quan đến chủ quyền vùng biển lịch sử của chúng tôi (cái gọi là đường chữ U), chúng tôi vẫn kiên định lập trường chủ quyền, quyết không thay đổi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam khi đó lập tức phản kháng: Yêu sách chủ quyền của Đài Loan đối với “vùng nước truyền thống hình chữ U” ở biển Đông là vô căn cứ và phi lí, đe dọa tự do hàng hải ở biển Đông và an ninh khu vực.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây gần như là lời phản đối rõ ràng và sớm nhất đối với vùng nước truyền thống hình chữ U, tuy nhiên các quốc gia khác đã không lên tiếng theo. Trong bối cảnh Đài Loan lúc đó đã mất quan hệ ngoại giao với các quốc gia chủ chốt thì chủ trương do Đài Loan nêu ra không có mấy ảnh hưởng. Học giả Malaysia cho rằng, với thân phận không phải là một quốc gia nên Đài Loan không thể tuyên bố chủ quyền đối với bất kì lãnh thổ nào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do đó, không có gì ngạc nhiên khi các nước không chú ý nhiều đến chủ trương của Đài Loan.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, lực cản quốc tế từ phía Mĩ và Việt Nam cũng khiến Đài Loan cảm thấy bị áp lực. Có lẽ vì thế mà Viện lập pháp Đài Loan trì hoãn việc công bố luật. Trên thực tế, tranh cãi về điều 6 liên quan đến chủ quyền lịch sử là rất gay gắt, tuyệt đại đa số các chuyên gia luật Đài Loan đều cho rằng, vùng biển lịch sử không thể thiết lập được theo Luật quốc tế,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngay cả người ban đầu ngả theo khuynh hướng vùng nước lịch sử là Phó Côn Thành cũng cho rằng, đường 9 đoạn là “vùng nước lịch sử mà các chi tiết vẫn chưa được thiết lập đầy đủ”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ năm 1995-1996, trước cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan, Trung Quốc tiến hành bắn thử tên lửa đạn đạo tại eo biển Đài Loan, gây xung đột rất lớn với Đài Loan. Sau đó, lập trường của Chính phủ Đài Loan đối với biển Đông có bước lùi rõ rệt.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối diện với vấn đề này, Tổng thống Lí Đăng Huy đã không nhấn mạnh lập trường chủ quyền biển Đông mà đưa ra quan điểm thay đối kháng bằng lợi ích chung, giải quyết tranh chấp bằng đối thoại; bên cạnh đó còn tích cực tìm kiếm cơ hội tham gia các cuộc hội đàm quốc tế về vấn đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, việc trì hoãn không ban bố luật đã dẫn đến những bất cập cho Đài Loan, khiến một số nghị viên không hài lòng. Vài năm sau, Lâm Trọc Thủy và nhiều người khác liên tục yêu cầu Viện Lập pháp đưa dự thảo luật vào nghị trình thẩm định. Năm 1996, Phó Côn Thành nêu ý kiến cho rằng, Trung Quốc đã soạn thảo “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp” vào ngày 15/2/1992 và công bố “đường cơ sở lãnh hải lục địa và đường cơ sở lãnh hải quần đảo Tây Sa”, do vậy Đài Loan phải nhanh chóng soạn thảo luật liên quan.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do bị thúc ép nên ngày 27/5/1996, Viện Lập pháp đã triệu tập Hội nghị liên tịch lần thứ nhất để thẩm định dự thảo luật. Trong các phiên thảo luận tại Hội nghị lần thứ tư, điều 6 được tạm bảo lưu, không đưa ra biểu quyết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 22/10/1997, tại Hội nghị liên tịch lần thứ 5, dưới sự ủng hộ của Ủy ban lập pháp Đảng Dân Tiến, Hội nghị đã ra quyết nghị hủy bỏ điều này, đồng thời giải thích rõ:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí do không đưa nội dung liên quan đến vùng nước lịch sử vào Dự luật, theo đề án của Phó Côn Thành và những người khác là vì: Dự luật này là “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp”, nhưng “vùng nước lịch sử” trong Luật quốc tế lại không phải là lãnh hải hay vùng tiếp giáp, vì thế không đưa nội dung này vào Dự luật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phó Côn Thành luôn dao động trước vấn đề này: trong dự thảo đầu tiên do ông nêu ra, ông đề nghị xóa bỏ điều luật này, cho rằng xóa bỏ không có nghĩa là buông bỏ điều này, chỉ cần người đứng đầu Chính phủ công khai tuyên bố đó là vùng nước lịch sử cũng đủ. Nhưng trong Hội nghị lần thứ 5, ông ta lại phản đối việc xóa bỏ điều khoản này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều đó cho thấy điều khoản đó gây rất nhiều tranh cãi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, ngày 30/12/1997 và 2/1/1998, qua 3 lần thẩm định của Hội nghị lần thứ nhất và lần thứ hai, dự luật cuối cùng của hai luật đã được thông qua và được Tổng thống công bố vào ngày 21/1.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ khi chuẩn bị năm 1979 đến khi công bố năm 1998 phải mất hơn 20 năm.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cả hai dự luật được thông qua đều không có chữ nào nói tới vùng nước lịch sử hay quyền lịch sử.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “Đường cơ sở và đường ranh ngoài của vùng tiếp giáp” công bố ngày 11/2/1999,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đảo Đông Sa (Pratas) và đảo Hoàng Nham (Bãi cạn Scaborough) đều dùng (khái niệm) đường cơ sở thông thường.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quần đảo Trường Sa được miêu tả như sau:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Toàn bộ các đảo của quần đảo Nam Sa trong đường chữ U truyền thống của nước ta đều thuộc lãnh thổ nước ta, đường cơ sở lãnh hải được vạch hỗn hợp theo đường cơ sở thẳng và đường cơ sở thông thường, tọa độ, tên gọi điểm cơ bản và bản đồ biển sẽ được công bố riêng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, Đài Loan khi đó đã buông bỏ quá mạnh chủ trương vùng nước lịch sử, quay sang tuân thủ quy định của Luật biển quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 3/2001, Viện Hành Chính Đài Loan ban hành “Sách trắng về biển”, trong đó cũng không hề nhắc tới vùng nước lịch sử.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 15/2/2005, Viện Nội chính chính thức dừng “Cương lĩnh chính sách Nam Hải”, theo công văn số 09400162932,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đánh dấu việc Đài Loan buông bỏ hoàn toàn chủ trương vùng nước lịch sử.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, các chuyên gia như Phó Côn Thành chuyển sang nêu cách nói vùng nước bên trong đường 9 đoạn có quyền lịch sử.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ nhưng năm 1990, giới học thuật Đại lục cũng bắt đầu giải thích vấn đề này (không hẳn không liên quan đến chủ trương của Đài Loan).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù rất nhiều chuyên gia tán thành lí luận về đường 9 đoạn là đường quy thuộc các đảo, nhưng cũng có những chuyên gia đề ra thuyết vùng nước lịch sử, thậm chí là thuyết lãnh hải. Trong các trường hợp chính thức, quan chức Trung Quốc cố gắng tránh nói đến tính chất của đường 9 đoạn. Chẳng hạn, tháng 7/1995, trong cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Indonesia Ali Alatas và Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kì Tham, khi được hỏi về chủ trương đường 9 đoạn, Tiền Kì Tham đã né tránh trả lời.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng trong tài liệu thuyết giải đề án (đề nghị phê chuẩn “Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển”), Thứ trưởng Ngoại giao Lí Triệu Tinh nói:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi phê chuẩn ‘Công ước’, chúng ta vẫn có thể căn cứ vào việc đường đứt đoạn được vẽ từ rất lâu trên bản đồ, và việc ngư dân của chúng ta đã tiến hành hoạt động đánh bắt cá tại vùng biển Nam Sa trong thời gian dài, cùng các quy định về vùng nước lịch sử trong ‘Công ước’ để kiên định bảo vệ quyền lợi biển của chúng ta ở Nam Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều 14 “Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” công bố ngày 26/2/1998 quy định: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ Luật này không ảnh hưởng đến quyền lịch sử mà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hưởng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">.</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chính phủ Trung Quốc không nói rõ hơn quyền lịch sử ở đây là gì và khác biệt thế nào với vùng nước lịch sử.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indonesia bỗng nhiên trở thành người hòa giải tranh cãi trong vấn đề biển Đông. Bắt đầu từ năm 1990, “Hội nghị xử lí xung đột tiềm ẩn tại biển Đông” (Workshop on Managing Potential Conflicts in the South China Sea) được tổ chức định kì mỗi năm một lần. Trong Hội nghị năm 1999, nội dung thảo luận chủ yếu là đường 9 đoạn. Quan chức, chuyên gia, học giả thuộc bộ ngoại giao, bộ quốc phòng, cơ quan nghiên cứu khoa học các nước đều nêu câu hỏi chất vấn về đường 9 đoạn và phản đối chủ trương vùng nước lịch sử, đòi Trung Quốc thể hiện rõ thái độ về đường 9 đoạn. Mặc dù đại biểu tham gia Hội nghị đều với tư cách “cá nhân”, không đại diện cho chính phủ, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng, đó là tiếng nói đại diện cho cộng đồng quốc tế phản đối đường 9 đoạn. Sau đó, ý kiến phản đối và chất vấn đường 9 đoạn không ngừng được đưa ra, đường 9 đoạn nhanh chóng trở thành hạt nhân trong vấn đề biển Đông.</span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.5. Từ bãi Vạn An (bãi Tư Chính) đến Vịnh Bắc Bộ - tranh chấp biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1990</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện bãi Vạn An</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ những năm 1980, Trung Quốc bắt đầu hợp tác với nước ngoài tiến hành hoạt động khai thác dầu đáy biển. Ngành dầu khí Trung Quốc lần lượt kí hợp đồng với hơn 40 công ti dầu khí của hơn 10 nước, bao gồm Mĩ, Anh, Pháp, tiến hành thăm dò nguồn dầu khí gần bờ. Nhưng, từ đầu những năm 1980 đến khoảng năm 2000, kết quả khai thác không mấy khả quan. Do không thăm dò được thảm dầu khí lớn nên một loạt công ti nước ngoài tiến hành thăm dò tại khu vực phía bắc biển Đông trước năm 1985 đã lần lượt bỏ đi. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1987, công ti khoan thăm dò phương tây đã khoan giếng dầu sâu 500m, gần với kỉ lục thế giới khi đó, nhưng vẫn không thu được kết quả nên đành rời bỏ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều Trung Quốc thu hoạch được chỉ là kinh nghiệm và kĩ thuật, không phải lợi ích thật sự về tài nguyên dầu. Không khai thác được dầu khí gần bờ, Trung Quốc đành để mắt đến khu vực gần quần đảo Trường Sa. Chính trong giai đoạn này, một công ti ít tiếng tăm của Mĩ - Công ti Năng lượng Crestone Energy Co bất chợt tìm đến, khiến Trung Quốc rất vui mừng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Randall C. Thompson là người bang Colorado Mĩ, gia cảnh nghèo khó, được Sonny Brinkerhoff – chủ Công ti khai thác dầu khí Brinkerhoff Drilling Company giúp cho học bổng theo học tại trường Đại học Colorado. Trong kì thực tập hè, Thompson đã vào làm việc tại một giàn khoan dầu của Sonny Brinkerhoff. Sau khi tốt nghiệp lại vào làm tại Công ti Amoco (Amoco Company), Thompson phụ trách mảng việc liên quan đến luật pháp và đàm phán thủ tục khai thác và thăm dò dầu khí. Sau khi tích lũy kinh nghiệm qua nhiều năm làm việc, Thompson quyết định tự lập nghiệp. Từ số tiền 1 triệu USD đầu tư từ Sonny Brinkerhoff, Randall C. Thompson thành lập Công ti năng lượng Crestone Energy Co và tiếp tục làm công tác đàm phán dầu khí. Năm 1989, Durkee – một nhà đầu tư của Crestone Energy Co khuyên Randall C. Thompson đến Philippines đàm phán thăm dò dầu khí. Thompson đến Manila. Dưới sự trợ giúp của Durkee, sau khi mua lại quyền thăm dò dầu khí của Công ti Lundin Thụy Điển, Thompson lập tức bán lại 40% cho một công ti khác của Philippines, kiếm được món lời kha khá, đồng thời có quyền khống chế khu vực rộng tới 500 000 mẫu Anh, kéo dài từ Palawan đến Malaysia (GSEC 54). Năm 1990, Thompson tiếp tục bán 70% số còn lại cho một công ti của Anh (BP). Tuy nhiên, qua thăm dò, công ti thứ hai chỉ phát hiện được khối lượng rất ít dầu khí, không có giá trị khai thác, do vậy đến năm 1991, Thompson đã rời bỏ giếng dầu, trả lại quyền thăm dò cho Công ti năng lượng Crestone Energy Co. Qua những cuộc mua bán đó, tuy không khai thác được chút dầu khí nào, nhưng Thompson lại phát tài nhờ các giao dịch.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thompson biết rõ, vùng gần bờ của Philippines rất khó tìm được giếng dầu có tiềm năng khai thác nên đã hướng sự chú ý tới khu vực khác trên biển Đông. Trong cuộc đàm phán với giới lãnh đạo của công ti Anh quốc, Randall C. Thompson biết được vùng biển gần của Việt Nam rất có tiềm năng về dầu khí. Ông đã bỏ thời gian vài tuần lễ để nghiên cứu kĩ các tài liệu liên quan, cuối cùng xác định mục tiêu là khu vực gần bãi Tư Chính.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bãi Vạn An (Vanguard Bank – Việt Nam gọi là bãi Tư Chính) ở mỏm Tây Nam của đường 9 đoạn do Trung Quốc vẽ ra, bãi được người Anh ghi nhận từ thế kỉ XIX.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nó là một bãi san hô lớn chìm dưới nước, chiều dài Đông – Tây 63 km, chiều rộng trung bình 11 km, chỗ cạn nhất là 17m. Cũng giống như bãi ngầm Tăng Mẫu (James Shoal: bãi ngầm James -ND), nó là nơi không thể đòi chủ quyền. Về mặt địa lí, do chiều rộng của thềm lục địa bên ngoài bán đảo Đông Dương ở biển Đông hạn chế nên nó không có ý nghĩa về địa chất học.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng trong “Công ước” thì phạm vi thềm lục địa cũng không bị định nghĩa địa chất học hạn chế, mà là vùng biển có thể vươn tới độ sâu không quá 2000 m. Do vậy, về mặt luật pháp, bãi bãi Tư Chính vẫn nằm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1975, Việt Nam Cộng hòa đã từng đấu thầu thăm dò và khai thác dầu khí khu vực biển Đông. Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đã hai lần ra tuyên bố nhấn mạnh chủ quyền đối với thềm lục địa ven biển vào năm 1977 và 1982. Năm 1988, Việt Nam công bố bản đồ sơ lược về các khu vực dầu khí. Trong những năm 1990, Việt Nam tiến hành đấu thầu thăm dò và khai thác mỏ dầu quy mô lớn, và những mỏ dầu đó cũng đã được vẽ trong sơ đồ đấu thầu. Tuy nhiên, thời kì đó Việt Nam và Mĩ chưa thiết lập quan hệ ngoại giao, Mĩ cấm vận Việt Nam và Việt Nam cấm các hoạt động thương mại của các công ti Mĩ tại Việt Nam. Thompson đành phải tìm cách khác. Ông ta phát hiện thấy bãi Tư Chính nằm trong khu vực đường 9 đoạn của Trung Quốc nên nẩy ra ý giành quyền khai thác dầu khí từ Trung Quốc. Do đó, tháng 4/1991, Thompson tìm đến Quảng Châu, thăm các cơ quan nghiên cứu khoa học hữu quan và xác định rõ hơn giá trị khai thác dầu tại vùng này. Thông qua các mối quan hệ ở Quảng Châu, ông ta đã nối được quan hệ với giới chức cấp cao tại Bắc Kinh. Cuối cùng, tháng 1/1992, Thompson đã có cuộc đàm phán với Công ti dầu khí Hải Dương quốc gia Trung Quốc (CNOOC), đề nghị được thực hiện quyền khai thác dầu tại khu vực do ông ta phác thảo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Crestone Energy Co chỉ là một công ti nhỏ với 4 công nhân, thực chất là “công ti cặp da”, giành quyền thăm dò dầu khí từ các nước, sau đó chuyển nhượng cho các công ti khác. Một công ti cỏn con như vậy, về lí mà nói không thể lọt vào mắt Trung Quốc. Nhưng do nguyên nhân chính trị, Trung Quốc coi đây là cơ hội hiếm hoi vì:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc với Mĩ và các nước Tây Âu vẫn nằm ở mức thấp do ảnh hưởng của sự kiện 4/6/1989 (Thiên An Môn), nay có công ti Mĩ tìm đến đương nhiên sẽ có tác dụng góp phần khôi phục quan hệ Mĩ - Trung.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khu vực khai thác lại là bãi bãi Tư Chính, nằm trong tầm kiểm soát của Việt Nam – dù nằm trong đường 9 đoạn nhưng Trung Quốc không có thực quyền kiểm soát. Công việc thăm dò và khai thác sẽ mở rộng quyền kiểm soát biển Đông rất lớn cho Trung Quốc về phía Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, công ti Mĩ tham gia khai thác khu vực Trường Sa sẽ có lợi cho Trung Quốc trong việc mở rộng chủ quyền tại biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc còn kì vọng Mĩ sẽ bảo hộ lợi ích cho công ti của Mĩ và sẽ đứng về phía Trung Quốc trong các xung đột có thể xảy ra trong tương lai.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xuất phát từ những tính toán đó, ngày 8/2/1992, Công ti dầu khí hải dương quốc gia Trung Quốc bán quyền thăm dò dầu khí khu vực “bãi Vạn An Bắc 21” (Lô 136-03) cho Thompson chỉ với giá 50 000 USD (Hình 50). Diện tích khu này là 25 155 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> , phía Đông còn một khu rộng 5 076 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có thể xem là khu diện tích mở rộng. Trung Quốc cung cấp thông số địa chính đã có, bảo lưu quyền khai thác 51% sau này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Thompson đã tiến hành thăm dò nhiều hơn và còn ứng trước kinh phí. Trung Quốc hứa sẽ cho hải quân bảo vệ hoạt động thăm dò để Thompson tiến hành thuận lợi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hợp đồng hợp tác do Quốc vụ viện Trung Quốc kí ngày 16/5, có hiệu lực chính thức vào ngày 1/6.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 321px; overflow: hidden; width: 429px;"><img height="322.1942880080521" src="https://lh6.googleusercontent.com/TYarPWtLECDan3RymXXSlyQJYpmSkEp0FvO27ymAC6F7fZB8uMqxZ5Itptopi5bYheZLbyIZgLFK0RO_UQAA7rVM8wnFkPJxK295-e6BHXtNjPEWalDvUabrYAIuT_B2rOFg4hmVOWa8T0eLDMpcUH0" style="margin-left: 0px; margin-top: -0.597144px;" width="429" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 50:</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bản đồ khu vực “bãi Vạn An Bắc 21” </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Việt Nam vẽ lô số 133, 134 và 135, 136-03 trùng với lô Vạn An Bắc 21. Ngày 17/5, Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố lô theo Hợp đồng Vạn An Bắc 21 nằm trong bãi Tư Chính thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của Việt Nam, nằm trên thềm lục địa Việt Nam, Việt Nam có chủ quyền tại đây, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đề nghị phía Trung Quốc dừng ngay hoạt động thăm dò khai thác trái phép của Công ti Crestone Energy Corporation, trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ba ngày sau, Trung Quốc ra tuyên bố bác bỏ yêu cầu của Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 28, Philippines cũng lên tiếng phản đối hành động của Trung Quốc, cho rằng hành vi chính trị không giúp ích cho việc giải quyết một cách hòa bình và chính đáng yêu sách chủ quyền không thể khoan nhượng giữa các nước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng chú ý là, bãi Tư Chính không nằm trong yêu sách chủ quyền của Philippines nên Philippines không có mối quan hệ trực tiếp với bãi Vạn An.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều Trung Quốc kì vọng là Mĩ sẽ hỗ trợ công ti của Mĩ cũng không thành hiện thực. Ngày 18/6, người phát ngôn Chính phủ Mĩ Tate Whites tuyên bố Crestone Energy Corporation là công ti tư nhân, Chính phủ Mĩ không thể hiện thái độ đối với Hợp đồng này: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về tranh chấp lãnh thổ tại biển Đông, chúng tôi đã thông báo với Công ti Crestone Energy Corporation, vùng biển liên quan đến hợp đồng giữa công ti này với Trung Quốc được phía Việt Nam nói tới là trách nhiệm của Công ti Crestone Energy Corporation</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Đồng thời, phía Mĩ nhấn mạnh, sự có mặt của nhân viên Sứ quán Mĩ tại lễ kí kết Hợp đồng không đồng nghĩa với việc Mĩ ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực này, hoặc khuyến khích Công ti Crestone Energy Corporation tiến hành hợp tác.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ trước nay vẫn giữ thái độ trung lập trong vấn đề chủ quyền biển Đông, do đó tuyên bố này cũng không ngoại lệ. Một nguyên nhân nữa là khi đó đã có dấu hiệu Mĩ bỏ cấm vận Việt Nam, một công ti dầu khí lớn của Mĩ đang tích cực đàm phán với Việt Nam, nhằm sau khi Mĩ bỏ cấm vận sẽ lập tức kí hợp tác với Việt Nam. Công ti này dự định đầu tư hàng chục triệu USD, lớn hơn nhiều so với khoản 50 000 USD của Crestone Energy Corporation.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Việt Nam về vấn đề bãi Tư Chính chưa lớn, bởi khi đó hai nước đều muốn bình thường hóa quan hệ. Ngày 2/12/1992, Thủ tướng Trung Quốc Lí Bằng thăm Hà Nội đã nhấn mạnh lại: “Những vấn đề gai góc như vấn đề Nam Sa, chúng tôi đã nêu chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác”, đồng thời mong muốn giải quyết vấn đề bằng phương thức hòa bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy vậy, Trung Quốc vẫn không dừng trong việc khảo sát bãi Tư Chính. Tháng 5/1993, tàu thăm dò địa chất của Trung Quốc tiến hành thăm dò thực tế lần thứ nhất. Việt Nam ra kháng nghị yêu cầu Trung Quốc dừng hoạt động.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng lúc đó, kế hoạch khai thác bãi Tư Chính của Việt Nam chưa được triển khai, sự việc nhanh chóng lắng xuống.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Chính phủ Mĩ chính thức bỏ cấm vận Việt Nam vào ngày 3/2/1994, Công ti dầu khí Mobil Mĩ cùng với công ti đối tác Nhật Bản kí hợp đồng với Tổng Công ti dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) về quyền thăm dò mỏ dầu Rồng Xanh ngày 19/4. Có thể hình dung rằng, so với một gã khổng lồ như Mobil, một công ti cặp da như Crystal đương nhiên khó có thể nhận được sự ủng hộ của chính phủ Mĩ. Thực ra, việc Mĩ bỏ cấm vận Việt Nam cũng liên quan không ít đến việc vận động hành lang của các công ti lớn loại này. Mỏ dầu Rồng Xanh không chồng lấn nhưng khá gần với bãi Vạn An Bắc 21, và cũng nằm trong đường 9 đoạn của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việt Nam khi đó vẫn luôn tích cực thu hút các công ti dầu khí quốc tế khai thác các khu vực chồng lấn với Vạn An Bắc 21. Không kiềm chế được bản thân, vào ngày Việt Nam kí hợp đồng với Mobil, Thompson tuyên bố rằng Crestone Energy Corporation đã tiến hành khảo sát số liệu địa chấn tại lô Vạn An Bắc 21 và được phía Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/4/1994, Crestone Energy Corporation thuê tàu thăm dò “Thực Nghiệm số 2” của Trung Quốc, tiến vào Vạn An Bắc 21. Khi đó có 5 tàu quân sự Việt Nam giám sát tàu “Thực Nghiệm số 2”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trưa ngày hôm sau, tàu Việt Nam tiếp tục áp sát tàu Trung Quốc, tiến hành uy hiếp và quấy nhiễu. Ngày 15, Việt Nam lặp lại hành động uy hiếp này. Do sức yếu, tàu “Thực Nghiệm số 2” bị đẩy lùi khi chưa thực hiện được hoạt động đo đạc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các tàu chiến mà Trung Quốc hứa hẹn điều tới đã không xuất hiện.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1994, Việt Nam kí hợp đồng với công ti dầu khí của Nga với tỉ lệ vốn 50:50 để khoan thăm dò dầu khí tại khu vực chồng lấn Vạn An Bắc 21. Ngày 17/5, công ti của Nga bắt đầu khoan thử khu vực này. Trung Quốc đưa hai tàu giám sát gần bên, tuy không quấy nhiều trực tiếp nhưng ý đồ của Trung Quốc là ngăn chặn tàu Việt Nam vận chuyển thực phẩm đến giàn khoan. Sau vài tuần liên tục, công ti Nga khoan tới độ sâu 2000 m nhưng không phát hiện được dầu, cuối cùng đã rời khỏi khu vực này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nước ASEAN có nên chấp nhận Việt Nam hay không là vấn đề đã được đề cập trong các cuộc tranh luận, nhưng hai lần đối kháng này giữa Trung Quốc và Việt Nam khiến ASEAN cảm thấy bất an. Sau sự kiện bãi Tư Chính, ngày 11/6, ASEAN đã chủ động tuyên bố sẽ mời Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (xem phần V.7). Nhưng lúc đó, Việt Nam thậm chí còn chưa chính thức đưa ra yêu cầu tham gia tổ chức ASEAN. Ngày 19/6, đúng một ngày sau khi sự kiện khoan thăm dò của công ti Nga được công khai, ASEAN tổ chức Hội nghị bộ trưởng các nước và chính thức gửi lời mời tới Việt Nam. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27/7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Sau sự kiện bãi Tư Chính không lâu, việc ASEAN chủ động gửi lời mời tới Việt Nam đồng nghĩa với thái độ ủng hộ của các nước ASEAN đối với Việt Nam trong xung đột tại biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước tình hình đó, Trung Quốc buộc phải tính toán lại mối quan hệ với Việt Nam ở mức độ cao hơn. Ngày 5/9/1994, Trung Quốc tuyên bố rằng Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ đi thăm Việt Nam, đồng thời cung ứng vật tư cho Việt Nam, quan hệ Trung – Việt dịu xuống. Mặc dù sau đó Trung Quốc và Việt Nam tiến hành khẩu chiến về sự kiện Tư Chính , nhưng Trung Quốc đã không tiến hành hoạt động khảo sát lại khu vực Vạn An Bắc 21. Tháng 4/1996, Việt Nam kí hợp đồng khoan thăm dò dầu khí tại vùng chồng lấn khác với Công ti Conoco của Mĩ, tăng cường đáng kể quyền kiểm soát đối với bãi Vạn An. Hợp đồng giữa Trung Quốc với Crestone Energy Corporation đến đó bị gác lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, hợp đồng Vạn An Bắc trở thành tài sản lớn nhất của Crestone Energy Corporation. Ngày 6/12/1996, Thompson bán lại Crestone Energy Corporation cho công ti Benton, kiếm thêm được món lời to. Sau đó, hợp đồng đã đổi chủ nhiều lần nhưng vẫn không bị hủy. Nếu như mỏ dầu cuối cùng khai thác được, Thompson vẫn tiếp tục được hưởng 4,5% hợp đồng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện Vạn An Bắc bùng nổ chủ yếu bắt nguồn từ hành động bốc đồng của Trung Quốc. Khi đó, Trung Quốc và Việt Nam đã kết thúc cuộc chiến tranh dài ngày giữa hai bên, bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1991. Trung Quốc đang thực thi chính sách mục lân và gác tranh chấp, hơn nữa Việt Nam lại là nước XHCN ít ỏi còn sót lại. Vì thế, sự kiện Vạn An Bắc là không hợp thời. Trung Quốc có lẽ không ngờ Việt Nam lại đáp trả mạnh mẽ như vậy, phán đoán sai lầm này là do lợi ích dầu mỏ và việc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa cám dỗ. Sự kiện này dẫn đến ba hậu quả: một là, đẩy nhanh tốc độ tham gia ASEAN của Việt Nam, thúc đẩy việc hoàn chỉnh ASEAN, tăng cường sức mạnh của ASEAN; hai là, Việt Nam ổn định hơn trong việc cai quản phía Tây đảo Nam Uy (đảo Trường Sa Lớn). bãi Tư Chính bị liệt là một trong số 29 hòn đảo mà Trung Quốc thừa nhận là do Việt Nam kiểm soát “bất hợp pháp”; ba là, từ đó Trung Quốc chuyển việc bành trướng tại biển Đông sang phía Đông. Cũng vì điều này mà chiến trường chính của cuộc xung đột ở biển Đông đã chuyển từ Trung – Việt sang Trung – Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bàn về chủ quyền tại bãi Vạn An (bãi Tư Chính) theo luật pháp</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện bãi Tư Chính, Trung Quốc và Việt Nam đều nhìn lại lí lẽ phía mình. Việt Nam thuê công ti luật Covington and Burling Law của Mĩ viết bản báo cáo dài 29 trang, lập luận bãi Tư Chính là của Việt Nam. Luận điểm chủ yếu là: (1) bãi Tư Chính và các bãi quanh đó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Việt Nam; (2) bãi Tư Chính cũng nằm trên thềm lục địa của Việt Nam; (3) Căn cứ nguyên tắc phân chia đều nhau của “Công ước Luật biển” lẫn phân chia theo tỉ lệ theo thông lệ thì bãi Tư Chính đều thuộc Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Crestone Energy Corporation cũng mời chuyên gia luật biển nổi tiếng của Trung Quốc là Phan Thạch Anh (đã mất) viết một cuốn sách</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> phản bác lại báo cáo nói trên.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần tách vấn đề chủ quyền bãi Tư Chính ra mấy tầng bậc để bàn luận:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết, liệu bãi Tư Chính có thể được đưa vào phạm vi chủ quyền lãnh thổ với tư cách là một phần của quần đảo Trường Sa nói chung hay không. Nếu trả lời là có thì bãi Tư Chính cần được xử lí như một bộ phận quy thuộc quần đảo Trường Sa và như vậy, nó sẽ là vấn đề có bình diện liên quan lớn hơn. Phần lớn lập luận của Phan Thạch Anh là để chứng minh rằng Trường Sa thuộc về Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Do giới hạn của chương, chúng tôi không thể bàn sâu ở đây.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu bãi Tư Chính không phải là một phần của Trường Sa nói chung để quy vào phạm vi chủ quyền lãnh hải thì Trung Quốc sẽ có thể phải dùng đường 9 đoạn để tiến hành luận chứng sâu hơn. Nếu bãi Tư Chính được quy vào đường 9 đoạn thì đường 9 đoạn sẽ được định nghĩa như thế nào, có hiệu lực luật pháp hay không? Điều đó có hàm nghĩa rằng Trung Quốc có thể có được chủ quyền và tài nguyên khoáng sản, sinh vật trên toàn bộ các đảo, rạn đá, bãi cạn thuộc phạm vi đường này hay không? Đây cũng là điểm quan trọng về luật pháp cần luận chứng đầy đủ. Phần lớn điều trình bày của Phan Thạch Anh cũng nhấn mạnh luận điểm này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều cần thảo luận ở đây là, nếu bãi Tư Chính không thể coi là một bộ phận của Trường Sa để tuyên bố lãnh thổ, cũng không thể dùng đường 9 đoạn để đòi chủ quyền, thì chủ quyền của bãi Tư Chính sẽ được quy thuộc ra sao?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt lịch sử, bãi Tư Chính do người Anh phát hiện ra. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không có chứng cứ về quản lí hữu hiệu bãi Tư Chính. Nhưng về mặt bản đồ chủ quyền, Trung Quốc chiếm ưu thế hơn Việt Nam chút ít. Năm 1935, trong bản đồ cương vực lần thứ nhất, Trung Quốc không đưa bãi Tư Chính vào “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng đối chiếu Anh – Trung tên gọi các đảo ở biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (中國 南海諸島中英地名對照表: Trung quốc Nam hải chư đảo Trung-Anh địa danh đối chiếu biểu), nhưng các bãi Quảng Nhã (Prince of Wales Bank, lúc đó được gọi theo cách phiên âm là bãi Bilin wu Wei – 比鄰無畏; Tỷ Lân Vô Úy, VN gọi là bãi Phúc Tần-ND); bãi Nhân Tuấn (Alexandra Bank, khi đó gọi là bãi Ai lei sheng da – 埃勒生達; Ai Lặc Sinh Đạt, VN gọi là bãi Huyền Trân-ND); bãi Tây Vệ (Prince Consort Bank, khi đó được gọi theo cách phiên âm bãi Bilin Kang – 比鄰康: Tỷ Lân Khang) (VN gọi là bãi Phúc Nguyên-ND); bãi Lí Chuẩn (Grainger Bank, khi đó được gọi theo cách phiên âm là bãi Ge ling ze - 格陵澤: Cách Lăng Trạch, VN gọi là bãi Quế Đường-ND) gần đó lại nằm trong bảng. Trong số 5 bãi đá ở khu vực này, chỉ thiếu bãi Tư Chính. Mãi đến năm 1947, sau Chiến tranh, bãi Vạn An (Tư Chính) mới được đưa vào “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng đối chiếu tên cũ và tên mới các đảo ở biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (南海諸島新舊名稱對照表: Nam hải chư đảo tân cựu danh xưng đối chiếu biểu), hơn thế nó còn nằm trong phạm vi đường 9 đoạn. Không rõ lí do vì sao bãi Tư Chính không được đưa vào năm 1935, tuy nhiên 4 bãi đá khác đã được đưa vào thì không có lí do gì bãi Tư Chính là điểm gần nhất lại không nằm trong ý đồ chủ quyền của Trung Quốc (có vẻ tg nhầm do trong bảng đối chiếu 1935 bãi Tư Chính được gọi là bãi ‘Tiền Vệ [than]’, dịch từ Vanguard Bank - ND). Hơn nữa, khu vực bãi Vạn An Bắc 21 tuy có tên gọi của bãi Vạn An (Tư Chính), nhưng nó lại không chỉ giới hạn trong bãi Tư Chính mà còn bao gồm một phần của 4 bãi đá nêu trên.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1933, khi tuyên bố chiếm lĩnh Trường Sa, Pháp chỉ liệt kê các đảo chủ yếu mà không nói rõ chủ quyền, càng không kể đến tên bãi Tư Chính. Do vậy, nếu Việt Nam có ý dùng chứng cứ lịch sử để đưa ra yêu sách chủ quyền thì cũng phải đi theo lập luận bãi Tư Chính là một phần thuộc quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, chính Việt Nam đã phủ nhận điều này, quay sang lập luận rằng bãi Tư Chính không thuộc quần đảo Trường Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bởi vậy, nếu như bãi Tư Chính đủ tư cách để được đưa vào chủ trương lãnh thổ thì cơ hội thuộc về Trung Quốc trước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng nhìn từ góc độ địa lí, cũng giống như 4 bãi đá khác, bãi Tư Chính là bãi san hô lớn chìm hoàn toàn dưới mặt nước biển, chỗ cạn nhất là 17m và đều là bãi ngầm. Bất luận từ góc độ nào, đó không phải là lãnh thổ có thể đòi hỏi chủ quyền. Như vậy, việc nó nằm trong thềm lục địa hay vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia nào đó sẽ trở thành tiêu chí để quốc gia đó có chủ quyền đối với nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt vị trí địa lí, bãi Tư Chính cách đường cơ sở ven biển Việt Nam chỉ có 84 hải lí, cách bờ biển Việt Nam 95 hải lí,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> toàn bộ bãi đều nằm trong phạm vi 200 hải lí. Phan Thạch Anh cho rằng, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">về mặt địa chất, quần đảo Nam Sa là vùng đất lục địa ven lục địa Hoa Nam bị tách ra, từng là một phần ven lục địa Hoa Nam cổ bị tách ra trong lịch sử địa chất. Cấu trúc ngày nay là kết quả chuyển động, tích tụ về phía Nam của vùng đất này trong lịch sử diễn tiến địa chất để lại</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đặc điểm hình thành của nó rõ ràng khác với đặc điểm trầm tích bồn địa của Việt Nam trên bán đảo Đông Dương</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thực ra, cấu tạo địa chất của quần đảo Trường Sa được tạo bởi một số dạng khác nhau, đặc điểm do Phan Thạch Anh nêu ra chỉ thuộc phần phía Bắc quần đảo Trường Sa, không liên quan đến bãi Tư Chính. Hơn thế, dùng khởi nguồn địa chất hàng triệu năm về trước làm luận chứng cho sự quy thuộc thềm lục địa trong Luật quốc tế thời hiện đại là không có ý nghĩa thực tế.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt địa chất, độ rộng thềm lục địa trên dải biển Đông ngoài phạm vi bán đảo Đông Dương có hạn (phần đông các nhà địa chất đều cho rằng, độ sâu của thềm lục địa khoảng 200m), vùng lục địa Việt Nam và bãi Tư Chính cách nhau một đường rãnh sâu khoảng 1.000m. Bãi Tư Chính không nằm trên thềm lục địa theo nghĩa địa chất học.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, thềm lục địa theo nghĩa địa chất học và thềm lục địa theo nghĩa luật pháp là hai khái niệm khác nhau. Trong “Công ước”, phạm vi thềm lục địa không bị hạn định bởi định nghĩa địa chất học mà nó có thể vươn dài đến độ sâu nhất là 2000m. Vì thế, về phương diện luật pháp thì bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa của Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu như vậy, Việt Nam vẫn cần phải phân chia thềm lục địa hoặc vùng đặc quyền kinh tế với các đảo có thể thuộc về Trung Quốc. Đảo liền kề nhất với bãi Tư Chính là đảo Trường Sa Lớn (TQ gọi là Nam Uy) của Việt Nam. Nếu thừa nhận đảo Trường Sa Lớn là của Việt Nam thì bãi Tư Chính thuộc Việt Nam là điều không có gì nghi ngờ. Nhưng nếu đảo Trường Sa Lớn thuộc Trung Quốc thì sự quy thuộc của bãi Tư Chính sẽ tùy thuộc hiệu lực phân định ranh giới đảo Trường Sa Lớn lớn đến đâu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Diện tích đảo Trường Sa Lớn vẻn vẹn chỉ có 0,25 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Nó được hưởng vùng lãnh hải là điều rõ ràng, nhưng nó có đủ điều kiện tự nhiên để duy trì sự sống của con người hay không lại trở thành vấn đề, điều đáng nói là trước những năm 1970 không có người sinh sống trên đảo này. Nếu xác định đó là bãi đá không thể duy trì sự sống của con người thì nó không có tư cách hưởng quyền lợi của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, như vậy thì bãi Tư Chính sẽ thuộc về Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay cả khi đảo Trường Sa Lớn được quy vào nhóm đảo có thể duy trì sự sống của con người, thì với diện tích quá nhỏ như vậy cũng không đủ cơ sở để hưởng hiệu lực ngang bằng (với Việt Nam) trong phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Có thể tham khảo một ví dụ tương tự khác là vấn đề Bạch Long Vĩ trong quan hệ Trung – Việt (phần sau). Đảo Bạch Long Vĩ nằm trên Vịnh Bắc Bộ, diện tích chừng 3 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có nguồn nước tự nhiên, đáp ứng điều kiện sống của con người nhưng cũng chỉ được phân định quyền lợi vùng đặc quyền kinh tế 3 hải lí. Điều kiện đảo Trường Sa Lớn không bằng Bạch Long Vĩ, vì thế cho dù có được hưởng quyền lợi của vùng đặc quyền kinh tế thì cũng khó vượt qua phạm vi 3 km. Nếu như vậy thì bãi Tư Chính vẫn thuộc về Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì thế, nếu không coi Tư Chính là một phần của Trường Sa thì Tư Chính thuộc về Việt Nam là hợp pháp, đây cũng chính là điểm xuất phát trong luận chứng của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy, bãi Tư Chính có phải là một phần của quần đảo Trường Sa hay không? Phan Thạch Anh đưa ra một số lí lẽ để chứng minh. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 1935 và 1947, Vạn An (hoặc các bãi đá lân cận) đều được định danh trong danh sách đảo.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bản đồ do nước ngoài ấn hành như “Bản đồ quần đảo Châu Á và biển Đông Trung Quốc” của Pháp cũng có vẽ bãi Vạn An. Tuy nhiên, Phan Thạch Anh không giải thích tại sao việc thể hiện bãi Vạn An trên tấm bản đồ này có nghĩa Vạn An thuộc Trường Sa.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong cuốn sách trắng công bố năm 1988, Việt Nam đánh dấu bãi Tư Chính trong quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Phan Thạch Anh còn cho rằng, căn cứ khoản 2 điều 46 “Công ước Luật biển”: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo là một tổng thể các đảo, bao gồm các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp giáp và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau, tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lí, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, Nam Sa (Trường Sa) phải được coi là một “quần đảo”, bao gồm cả bãi Vạn An (Tư Chính).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách lập luận này không xác đáng, là vì:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tên gọi của quần đảo Nam Sa hay Spratly Islands xuất hiện rất muộn, hơn nữa phạm vi không được xác định. Trong các sách “Hàng hải thế kỉ XIX” đều không có cái tên Spratly Islands. Dù là Vạn Lí Thạch Đường trong sử sách Trung Quốc hay Trường Sa trong thư tịch cổ Việt Nam đều không xác định phạm vi chính xác. Khi công bố bảng đối chiếu tên gọi Trung – Anh vào năm 1935, tên gọi của quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là quần đảo Đoàn Sa vốn chỉ là tên được dịch từ tên nhóm đảo Tizard ở phía bắc của quần đảo Trường Sa. Sau Thế chiến II, dù Bộ Nội chính và Bộ Ngoại giao Trung Quốc có chỉ ra phạm vi của nó thì cũng tồn tại những tranh luận và lộn xộn rất lớn (xem phần III.6). Khi Pháp và Nhật tranh luận về chủ quyền của quần đảo Trường Sa trước Chiến tranh, phạm vi của Trường Sa không bao gồm bãi Tư Chính. Sau Chiến tranh, khi Philippines và Trung Quốc (Đài Loan) tranh cãi về chủ quyền quần đảo Trường Sa thì phạm vi Trường Sa cũng là một trong những tiêu điểm đưa ra tranh cãi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines không coi đảo Trường Sa Lớn và phía Tây của nó (tức bao gồm bãi Tư Chính) thuộc về quần Trường Sa. Đến nay, Việt Nam, Philippines và Malaysia đều không thừa nhận các bãi ngầm phía Nam 7° vĩ Bắc (bao gồm bãi ngầm Tăng Mẫu [bãi ngầm James-ND]) thuộc quần đảo Trường Sa. Do vậy, nhìn từ góc độ lịch sử thì cái tên quần đảo Nam Sa (Trường Sa) không nhất thiết bao gồm bãi Vạn An (Tư Chính).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bây giờ, khi bàn về phạm vi của Trường Sa, sở dĩ những địa danh này được bao gồm vào chỉ vì năm 1947 Trung Quốc tuyên bố “phạm vi thu hồi” có chúng trong đó. Cũng có nghĩa là, phạm vi của Trường Sa được nói đến như hiện nay chỉ mới được đề xuất sau Thế chiến II, hơn nữa do có những tranh chấp về chủ quyền của các đảo, nên đã được dùng rộng rãi để thuận tiện cho việc thảo luận. Nói cách khác, phạm vi quần đảo Nam Sa đã được chấp nhận rộng rãi (nhưng không phải thừa nhận) sau khi xuất hiện tranh chấp chứ không phải được hình thành một cách tự nhiên theo chiều dài lịch sử. Sau khi làm rõ điều đó, không khó để rút ra kết luận : dù bãi Tư Chính thường được coi là một phần của quần đảo Trường Sa, nhưng nó không đáp ứng điều kiện “để được coi là một thực thể như vậy trong lịch sử”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, “quần đảo” nêu trong điều 46 của “Công ước” được định ra là để miêu tả các quy tắc của quốc gia quần đảo. Nó quy định quốc gia quần đảo có thể có quyền phân định biển nhiều hơn các quốc gia không quần đảo, và dụng ý của nó không phải để giải thích bãi ngầm có vị thế lãnh thổ hay không, cũng không có ý đề cập đến vấn đề bãi ngầm có thể trở thành lãnh thổ hay không. Vùng đất có địa mạo thế nào thì được coi là lãnh thổ không nằm trong phạm vi thẩm quyền của “Công ước Luật biển”. (xem phần VI.13).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hơn nữa, khoản 1 điều 47 Đường cơ sở quần đảo trong “Công ước” đã chỉ rõ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao quanh các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỉ lệ diện tích nước so với diện tích đất, kể cả vành đai san hô, phải từ 1/1 tới 9/1</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đường cơ sở quần đảo chỉ có thể thiết lập ở các đảo và bãi đá lúc chìm lúc nổi nằm bên ngoài. Bãi ngầm chìm dưới nước đương nhiên không có tư cách này. Hơn nữa, vị trí địa lí của bãi Tư Chính lại nằm ở phía tây đảo Trường Sa Lớn thuộc khu vực cực Tây quần đảo Trường Sa. Nói cách khác, ngay cả khi chiếu theo quy định này để vạch đường cơ sở quần đảo thì Tư Chính cũng không nằm trong đường cơ sở.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ và phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan hệ Trung – Việt được bình thường hóa sau năm 1990. Ngày 27/8/1990, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lí Bằng của Trung Quốc có cuộc gặp bí mật với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười của Việt Nam, đặt mục tiêu bình thường hóa quan hệ song phương. Ngày 5/11 năm sau, Đỗ Mười, đã trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, thăm chính thức Bắc Kinh, quan hệ Trung – Việt chính thức bình thường hóa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hai bên bắt tay vào việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ tồn đọng trong lịch sử. Tranh cãi lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam gồm 3 điểm: một là lãnh thổ trên đất liền; hai là phân định Vịnh Bắc Bộ; ba là vấn đề các đảo tại biển Đông. Sau sự kiện bãi Tư Chính, quan hệ Trung – Việt bước vào giai đoạn hòa hoãn, tạo điều kiện triển khai đàm phán.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời kì Pháp thuộc, Triều đình nhà Thanh và Pháp kí “Hiệp ước phân định biên giới Pháp – Thanh” năm 1887. Sau khi Trung Quốc và Việt Nam bước sang thời kì mới, cũng giống như mọi điều ước liên quan đến biên giới giữa Trung Quốc với các nước khác, hiệp ước này đòi hỏi phải thương thảo lại. Nhưng cho đến cuối nhưng năm 1980, Trung Quốc và Việt Nam vẫn đang tiến hành cuộc Chiến tranh biên giới nên tiến trình này bị trì hoãn lại. Trên cơ sở “Hiệp ước phân định biên giới Pháp – Thanh” năm 1887, tranh cãi vấn đề biên giới trên bộ thực chất chỉ là vấn đề kĩ thuật. Cuộc chiến kéo dài giữa hai nước mang ý nghĩa chính trị nhiều hơn lãnh thổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1999, Trung Quốc và Việt Nam kí “Hiệp ước biên giới trên bộ Trung – Việt”. Năm 2009, hai bên hoàn thành việc khảo sát biên giới và kí kết “Nghị định thư về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Trung – Việt”, đánh dấu việc xác định cuối cùng ranh giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Việt Nam. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">So với tranh chấp trên đất liền thì những vấn đề liên quan đến việc phân định Vịnh Bắc Bộ rộng hơn. Vịnh Bắc Bộ nằm ở góc tây bắc biển Đông, là vịnh biển nửa kín do bị đất liền Việt Nam và Trung Quốc bao quanh. Ngày 26/6/1887, Trung Quốc và Pháp kí “Điều ước riêng về biên giới Trung – Pháp” (xem phần II.5 và phụ lục 1), trong đó điều 3 đề cập đến đường màu đỏ theo hướng Nam – Bắc là đường phân định ranh giới trên biển, đường màu đỏ này được vẽ trong bản đồ kèm theo, song chỉ dừng lại ở các đảo nhỏ gần bờ. Như vậy, đường màu đỏ có xuyên qua toàn bộ Vịnh Bắc Bộ hay không? Thậm chí có xuyên qua bán đảo Đông Dương để kéo dài tiếp hay không? Nó chỉ phân định đảo trên biển, hay đã tiến hành phân định cả Vịnh Bắc Bộ? Giữa Trung Quốc và Việt Nam tồn đọng tranh cãi về vấn đề này. Đường đỏ này không chỉ ảnh hưởng đến việc phân định vùng biển tại Vịnh Bắc Bộ, mà còn ảnh hưởng lớn hơn tới vấn đề quy thuộc đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa Vịnh Bắc Bộ, thậm chí còn liên quan đến sự quy thuộc của các đảo tại biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bạch Long Vĩ là đảo nhỏ với diện tích chỉ khoảng 3 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nằm giữa đảo Hải Nam Trung Quốc và vùng ven biển Việt Nam, cách đảo Hải Nam 120 km, cách thành phố Hải Phòng của Việt Nam cũng khoảng 120 km.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam luôn cho rằng đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam là điều không cần bàn cãi, và hòn đảo này hiện đang thuộc quyền quản lí của Việt Nam, nhưng chủ quyền của nó không được Trung Quốc công khai thừa nhận rõ ràng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù các chuyên gia Trung Quốc đều khẳng định Bạch Long Vĩ “xưa nay đều thuộc về Trung Quốc”, nhưng thực ra bắt đầu từ giữa thời kì nhà Thanh, Bạch Long Vĩ đã thuộc về Việt Nam trong phân định ranh giới truyền thống Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam. trong những năm 1920, Pháp đã xác lập quyền cai quản đảo Bạch Long Vĩ, năm 1937 đưa quân trú đóng tại đây. Năm 1932 tranh chấp Trung – Pháp về Hoàng Sa nổ ra. Trung Quốc tuyên bố đường màu đỏ năm 1887 kéo dài đến đất liền, phạm vi các đảo trên biển thậm chí bao gồm cả Hoàng Sa, vì thế mà Tây Sa thuộc về Trung Quốc. Thái độ biểu hiện chính thức này của Trung Quốc chẳng khác nào thừa nhận đảo Bạch Long Vĩ nằm kề với đường màu đỏ phía Việt Nam là lãnh thổ của Pháp. Năm 1944, Nhật Bản chiếm đảo Bạch Long Vĩ. Năm 1946, Pháp chiếm lại Bạch Long Vĩ, Trung Quốc không phản đối việc này. Năm 1950, sau khi Quốc Dân đảng thua trận ở Đại lục, một số ít quân lính (hơn 40 người) đã rút về đảo Bạch Long Vĩ, nhưng quyền cai quản đảo khi đó vẫn nằm trong tay người Pháp. Năm 1954, Hiệp định Geneva quy định bắc vĩ tuyến 17 thuộc miền Bắc Việt Nam, đảo Bạch Long Vĩ vì thế cũng thuộc về Bắc Việt Nam. Tháng 8 cùng năm, liên quân Pháp cùng tuyệt đại bộ phận cư dân là con cháu người Việt rút khỏi Bạch Long Vĩ, nhưng tàn quân Quốc Dân Đảng và hậu duệ người Hoa vẫn ở lại đảo. Tháng 7/1955, Bắc Kinh “giải phóng” Bạch Long Vĩ và thành lập đơn vị hành chính cấp khu tại đây. Năm 1957, Trung Quốc trao lại Bạch Long Vĩ cho Việt Nam, nhưng ngôn từ thể hiện không rõ ràng. Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam tiếp tục quản lí Bạch Long Vĩ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chú ý thêm là, năm 1953, ngay cả trước khi chiếm Bạch Long Vĩ, Trung Quốc thậm chí đã xóa bỏ 2 đoạn của đường 11 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ, biến nó thành đường 9 đoạn. Theo suy đoán, việc xóa bỏ hai đoạn đó có liên quan đến thái độ của Bắc Việt Nam đối với Vịnh Bắc Bộ và đảo Bạch Long Vĩ. Chính sự mập mờ của quan chức Trung Quốc về vấn đề này đã khiến cho người dân (và một số quan chức) Trung Quốc đến nay vẫn cho rằng Bạch Long Vĩ là (hoặc nên là) của Trung Quốc. Cách hiểu sai lầm đó làm cho việc phân định Vịnh Bắc Bộ càng trở nên khó khăn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, Trung Quốc tích cực ủng hộ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến với Pháp, Mĩ và Nam Việt Nam. Đến đầu những năm 1970, các bên liên quan đi đến việc kí “Hiệp định Paris”, Liên quân do Mĩ đứng đầu đã rút khỏi cuộc Chiến tranh Việt Nam. Trong thời kì tạm đình chiến ngắn, Bắc Việt Nam bắt đầu chuẩn bị công việc mời thầu trong khu vực thềm lục địa Vịnh Bắc Bộ. Ngày 26/12/1973, Bắc Việt Nam đề nghị Trung Quốc đàm phán phân định biên giới. Bắc Kinh đồng ý đàm phán nhưng yêu cầu hai bên không được tiến hành hoạt động thăm dò tại khu vực hình chữ nhật 107°-108°E, 18°-20°N nằm giữa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời cũng không cho phép nước thứ ba tiến hành thăm dò tại vùng Vịnh. Bắc Việt Nam đành tạm thời ngưng đàm phán thăm dò với các công ti dầu khí của Ý, Nhật Bản, Pháp,...</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi mới đàm phán, “Điều ước riêng về biên giới Trung – Pháp” được đặt trước mặt hai bên. Ngày 15/8/1974, hai bên tiến hành cuộc hội đàm lần thứ nhất về vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Phía Trung Quốc không chấp nhận áp dụng đường vạch đỏ trên toàn bộ Vịnh Bắc Bộ, đồng thời cho rằng, vùng nước Vịnh Bắc Bộ trước nay chưa hề được phân định. Nhưng phía Việt Nam kiên định cho rằng đường phân định vùng nước Vịnh Bắc Bộ đã được vẽ trong Điều ước 1887. Nếu đúng như Việt Nam nói thì Việt Nam được hưởng 2/3 vùng nước thuộc Vịnh Bắc Bộ. Trung Quốc không chấp nhận nên đàm phán không thành. Trong vòng hai của cuộc đàm phán từ ngày 7/10/1977 đến tháng 6/1978, Việt Nam (mới) yêu cầu đưa quần đảo Hoàng Sa vào nghị trình đàm phán. Điều đó càng vượt ngưỡng chấp nhận của Trung Quốc, đàm phán rơi vào tình thế đình trệ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc kiên quyết yêu cầu Việt Nam từ bỏ việc lấy Điều ước 1887 làm cơ sở đàm phán. Phía Việt Nam đề nghị tiến hành phân định và khảo sát biên giới trên đất liền làm điều kiện tiên quyết để đàm phán tiến lên bước cao hơn, gác lại vấn đề Vịnh Bắc Bộ. Năm 1979, Trung Quốc và Việt Nam đánh nhau. Sau khi Trung Quốc rút quân, hai nước tiến hành đàm phán vòng ba vào tháng 4/1979. Nhưng sau đó hai nước tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh biên giới trong thời gian dài. Không còn cơ sở đàm phán, dù về biên giới, về Vịnh Bắc Bộ hay về vấn đề các đảo biển Đông. Chỉ đến những năm 1990, sau khi bình thường hóa quan hệ, hai nước mới nối lại đàm phán vấn đề biên giới và phân định Vịnh Bắc Bộ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vòng đàm phán thứ tư được bắt đầu vào tháng 10/1992, mở đầu bằng thảo luận của các chuyên gia. Tháng 8/1993, hai nước tiến hành đàm phán cấp chính phủ. Ngày 19/10/1993, hai nước kí kết “Hiệp định nguyên tắc về việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ nước CHND Trung Hoa và nước CHXHCN Việt Nam”, đồng ý thành lập Tổ công tác liên hiệp, xử lí vấn đề biên giới trên đất liền và vùng nước Vịnh Bắc Bộ, theo tầng cấp chuyên gia. Ngày 30/12/1999, hai bên kí “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Việt Nam” (Sino-Vietnam Land Border Treaty). Trong số 227 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đất tranh chấp, Trung Quốc được 114 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Việt Nam được 113 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Biên giới trên đất liền là vấn đề được giải quyết sớm nhất trong 3 vấn đề lớn về lãnh thổ giữa hai nước. Nhưng phải đến năm 2008, hai bên mới hoàn thành việc khảo sát biên giới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ, hai bên tranh cãi quyết liệt hơn, chủ yếu tập trung vào 3 điểm: một là, nhìn nhận thế nào về “ranh giới biển truyền thống” và “vùng nước lịch sử”? Hai là, xử lí vấn đề đảo Bạch Long Vĩ thế nào trong 3 vấn đề lớn? Ba là, phân chia công bằng tài nguyên nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ ra sao?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Việt Nam cho rằng, đường vạch đỏ dùng để phân định toàn bộ mặt nước Vịnh Bắc Bộ (bao gồm cả các đảo nhỏ) – (cách diễn giải thứ ba). Việt Nam dẫn thêm “Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển”, cho rằng đường vạch đỏ đã tạo nên “vùng nước lịch sử” của Việt Nam. “Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam” được công bố ngày 12/11/1982 ghi rõ:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh đã được quy định trong Công ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc (trong sách này tác giả gọi theo TQ là Điều ước riêng về biên giới Trung – Pháp - ND) do Pháp và nhà Thanh kí ngày 26 tháng 6 năm 1887. Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ được công bố sau khi vấn đề đường cửa vịnh được giải quyết</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng, đường phân giới đó chỉ liên quan đến chủ quyền các đảo ven biển, không thể lấy đó làm cơ sở phân định toàn bộ vùng biển Vịnh Bắc Bộ, càng không thể dùng cho việc phân định sự quy thuộc của tất cả các đảo trong Vịnh Bắc Bộ (cách diễn giải thứ nhất). Trước tuyên bố trên của Việt Nam, ngày 28/11/1982, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra thông cáo nêu : “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam ra ‘Tuyên bố về đường cơ sở lãnh hải của Việt Nam’ nêu một cách vô căn cứ rằng công ước biên giới Trung-Pháp năm 1887 đã ‘quy định’ đường biên giới trên biển của Vịnh Bắc Bộ... Cần phải chỉ ra rằng công ước về biên giới Trung-Việt do Trung Quốc và Pháp kí năm 1887 về cơ bản không phân định vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Do đó, vùng biển Vịnh Bắc Bộ trước nay không tồn tại ranh giới nào trên biển</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đàm phán với Việt Nam về phân giới Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc đã tiến hành phân tích rất đầy đủ và tường tận về chủ trương “vùng nước lịch sử” của Việt Nam, và kết luận rằng chủ trương đó hoàn toàn không có căn cứ. Điểm xuất phát của Trung Quốc khi đó là, nếu dựa trên đường phân chia ranh giới đó để phân định Vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam sẽ chiếm phần lớn Vịnh Bắc Bộ. Vì vậy, Trung Quốc đã loại bỏ cách lập luận của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, kiên trì chủ trương đường phân giới chỉ là đường phân định chủ quyền các đảo nhỏ ven biển. Trung Quốc liệt kê một loạt lí do:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều ước đó chỉ quy định về việc khảo sát và phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kì, không có chữ nào đề cập đến việc phân định ranh giới vùng biển Bắc Bộ, vì vậy trong quá trình đại thần hai nước tiến hành phân định ranh giới, về cơ bản không có ý định phân giới vùng biển, càng không thể có phương án phân giới vùng biển. Ngay cả “Điều ước riêng về biên giới Trung – Pháp” năm 1887 hoặc “Phụ lục bản đồ ranh giới Trung – Pháp – Việt Việt</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Việt Việt: 粤越 tên gọi cũ của Quảng Đông -ND)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">năm 1894 cũng chỉ nhắc đến “đường màu đỏ” đi qua Trà Cổ, nêu rõ các đảo trên biển ở phía Đông của đường này thuộc về Trung Quốc; núi Cửu Đầu và các đảo nhỏ ở phía Tây của nó thuộc về Việt Nam, về cơ bản không nói tới việc phân giới vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Do vậy có thể nói, đường đỏ trong Điều ước phân ranh giới Trung – Pháp ngày 26/6/1887 chỉ là đường quy thuộc các đảo ven biển gần Móng Cái chứ không phải là đường phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ. Trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ, hai nước Trung Quốc và Việt Nam xưa nay chưa hề vạch ra đường phân giới</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thoạt nhìn, ý kiến của cả Bắc Kinh lẫn Việt Nam cũng đều có lí phần nào. Điều đó chủ yếu có cơ sở từ Điều ước:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với các đảo trên biển, chiểu theo đường vạch đỏ chạy về hướng Nam do đại thần hai nước vẽ, đường đỏ này đi qua ngọn núi ở biên phía Đông xã Trà Cổ, tức là lấy đường đỏ đó làm giới hạn. Từ đường đỏ về phía Đông, các đảo trên biển thuộc Trung Quốc; từ đường đỏ hướng về phía Tây, núi Cửu Đầu và các đảo nhỏ trên biển thuộc Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cái gọi là “biển” trong “các đảo trên biển” rốt cục có phạm vi lớn bao nhiêu? Trung Quốc cho rằng biển đó chỉ là mặt biển gần bờ biển. Nhưng nghiên cứu một cách kĩ càng và nhìn từ các cuộc đàm phán thì thấy, thực tế Trung Quốc và Pháp đã chỉ rõ phạm vi “biển” chính là toàn bộ Vịnh Bắc Bộ. Căn cứ thư trả lời ngày 11/4/1887 của đại biểu Pháp Dillon trả lời đại biểu Trung Quốc Đặng Thừa Tu:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới đây là nội dung cốt lõi của thỏa thuận miệng của Ủy ban vấn đề biên giới hai nước về các đảo này: Ủy ban vấn đề biên giới hai nước nhất trí cho rằng: những đảo trong Vịnh Bắc Bộ nằm về phía Tây kinh tuyến (Trung Quốc gọi là đường Bắc Nam) đi qua mũi phía Đông đảo Trà Cổ tức là kinh tuyến 105°43’ tính từ kinh tuyến qua Paris, đều thuộc về Việt Nam. Ủy ban vấn đề biên giới Trung Quốc yêu cầu các đảo nằm về phía Đông kinh tuyến này (đường Bắc Nam) đều thuộc về Trung Quốc. Ủy ban Vấn đề biên giới Pháp tuyên bố, do công tác khảo sát Giang Bình và những địa điểm khác chưa hoàn thành nên vấn đề này sẽ do Công sứ Pháp và Tổng lí nha môn tại Bắc Kinh thương lượng giải quyết, điểm này cũng là ý kiến đã được nhất trí sau khi thương lượng với Ủy ban vấn đề biên giới Trung Quốc, được đặc biệt ghi lại ở đây</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể thấy, việc phân định ranh giới như thế này đối với toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc Bộ là một thỏa thuận đã đạt được. Do đó, nói đường này là đường quy thuộc các đảo trong Vịnh Bắc Bộ là phù hợp với sự thực nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về đại thể, có thể tin rằng, trong đàm phán Pháp – Trung, đảo Bạch Long Vĩ không nằm trong tính toán của Trung Quốc, thậm chí cũng không nằm trong suy tính của Pháp. Nhưng, xem xét cả quá trình và căn cứ vào kết quả thực tế trong quy định của Điều ước thì Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam. Nếu đảo này quả thực không nằm trong tính toán của hai bên khi đó, thì điều này xem như một may mắn ngoài dự tính đối với Việt Nam. Dù thế nào thì vấn đề này cũng đã được giải quyết trong đàm phán Trung – Việt vào những năm 1990.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, hai bên cũng đã kí “Hiệp định giữa Trung Quốc và Việt Nam về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ” vào cuối năm 2000. Sự thật thì việc đạt được Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ được dựa trên loại ý kiến thứ hai, tương đối thỏa hiệp: vừa thừa nhận đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam vừa buộc Việt Nam phải từ bỏ lập trường coi đường kinh tuyến này là đường phân giới mặt biển trên toàn bộ Vịnh Bắc Bộ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều có lợi hơn cho Trung Quốc là, Việt Nam đồng ý thu hẹp hiệu lực phân định mặt nước tại đảo Bạch Long Vĩ. Căn cứ “Công ước” thì Bạch Long Vĩ là một hòn đảo có khả năng duy trì sự sống của con người (luôn có người sinh sống trên đảo). Do vậy, ngoài lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, nó còn được hưởng vùng đặc quyền kinh tế lên tới 200 hải lí. Tuy nhiên, trong thỏa thuận cuối cùng đạt được, vùng đặc quyền kinh tế của đảo Bạch Long Vĩ chỉ có 3 hải lí. So với đường phân định ranh giới năm 1887 thì đường phân định vùng đặc quyền kinh tế được hai bên thống nhất mở rộng hơn một chút cho Trung Quốc về phía Bắc và mở rộng hơn nhiều cho Việt Nam về phía Nam, nhưng diện tích mà Trung Quốc được hưởng lại lớn hơn. Có thể nói, Trung Quốc rất thành công trong cuộc đàm phán này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/2/2000, hai bên kí kết “Hiệp định giữa Trung Quốc và Việt Nam về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam” và “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam”. Ngày 30/6/2001, đại diện hai bên trao thư và công hàm phê chuẩn cho nhau, Hiệp định chính thức có hiệu lực từ đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong Hiệp định cuối cùng, Trung Quốc hưởng 46,77% diện tích Vịnh, Việt Nam hưởng 53,23% diện tích Vịnh. Đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam nhưng chỉ được hưởng lãnh hải 12 hải lí và vùng đặc quyền kinh tế 3 hải lí. Một đảo khác thuộc về Việt Nam là đảo Cồn Cỏ cũng chỉ được hưởng 50% thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế sau khi phân định. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 346px; overflow: hidden; width: 456px;"><img height="346" src="https://lh6.googleusercontent.com/RBTwCRoVqTrGsIwVnKC1jh7BCyWR5HnCL3UE9IY6AP_XQao90JzHvJGXTUNGFIelX6T52zMdhAc0V5oGpy1HGMW6d48Tgvv_eJePyj1qLriR-peJj5culStsVqxhpJA9qIBxIawdF1SpnX7LxOwqzs4" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="456" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 51</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Sơ đồ hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và vùng đánh bắt chung</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một hệ quả khác nảy sinh trong đàm phán Trung – Việt năm 2000 là: do Trung Quốc đã xác nhận nguyên tắc đường phân định năm 1887 chỉ có giá trị đối với các đảo ven biển trong cuộc đàm phán này nên họ không thể theo lập luận của Dân quốc dùng nó để quy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc, nếu không sẽ vi phạm nguyên tắc “không được nói ngược” (estoppel). Đương nhiên, cần nhấn mạnh lại một lần nữa rằng, dù nhìn theo phương diện nào đi nữa thì cách nhìn nhận của Dân quốc cũng không thể đứng vững.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý nghĩa luật quốc tế của việc phân định biển Vịnh Bắc Bộ</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam” đã giải quyết được vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ giữa hai bên, trở thành khuôn mẫu cho việc giải quyết phân định ranh giới trên biển của hai bên thông qua đàm phán. cho đến nay Trung Quốc vẫn luôn viện dẫn như một ví dụ thành công. Cho dù việc phân định Vịnh Bắc Bộ đã xong, nhưng ý nghĩa của nó lại không chỉ dừng lại ở khía cạnh phân định ranh giới. Luật quốc tế là luật tập quán, hiệp định và án lệ quốc tế đi trước có tác dụng tiền lệ làm khuôn mẫu cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế về sau. Phân định Vịnh Bắc Bộ là hiệp định đầu tiên về phân định ranh giới biển của Trung Quốc với nước ngoài, vì thế nó có ý nghĩa về phương diện luật tập quán đối với Trung Quốc trong phân định ranh giới biển Đông và biển Hoa Đông sau này. Cựu kĩ sư cao cấp của Cục Hải Dương quốc gia Trung Quốc Hứa Sâm An đã từng chỉ rõ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này đã mở ra một tiền lệ về phân định ranh giới biển giữa Trung Quốc và các nước lân cận, rất có ý nghĩa tham chiếu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba điểm cốt lõi trong đàm phán Trung – Việt bao gồm: Vịnh Bắc Bộ có tạo thành vùng nước lịch sử hay không; hiệu lực phân chia ranh giới Bạch Long Vĩ lớn đến đâu; và xử lí công bằng vấn đề đánh cá như thế nào, đều có ý nghĩa tham khảo đối với vấn đề phân định ranh giới biển Đông, đặc biệt là điểm thứ nhất và thứ hai. Vùng nước lịch sử được phía Việt Nam nêu ra có thể liên quan đến câu hỏi liệu vùng nước trong đường 9 đoạn của Trung Quốc có được coi là vùng nước lịch sử hay không. Hiệu lực phân định đảo Bạch Long Vĩ có thể áp dụng tương tự cho quần đảo Trường Sa. Vì vậy, một số luận cứ, chủ trương và kết luận cuối cùng trong việc phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể được vận dụng tiếp trong phân định ranh giới biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về vùng nước lịch sử </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Việt Nam cho rằng trong Vịnh Bắc Bộ có vùng nước lịch sử, đường phân giới có thể được xác định bằng đường phân giới trong “Điều ước Trung – Pháp”. Như đã trình bày trong phần V.1, Trung Quốc phản đối quan điểm này. Nếu chỉ xét chứng cứ này thôi thì quan điểm của Trung Quốc có thể đứng vững. Kết hợp dữ liệu lịch sử và cách giải thích từ hai phía Trung Quốc và Việt Nam, công bằng mà nói, đường phân định ranh giới thể hiện trong “Điều ước Trung – Pháp” thực chất là đường quy thuộc các đảo trong toàn bộ Vịnh Bắc Bộ. Kết quả đàm phán cuối cùng cũng đã bác bỏ ý tưởng về vùng nước lịch sử của Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng nói là, trong quá trình đàm phán, phía Việt Nam cũng đã không nêu ra nhiều chứng cứ chứng minh luận điểm “vùng nước lịch sử”. Tuy nhiên, nếu khảo cứu kĩ lịch sử thì Vịnh Bắc Bộ quả thực có tồn tại “đường ranh giới biển truyền thống”. Cách đề xuất “vùng nước lịch sử” của Việt Nam thực ra có cơ sở pháp lí. Như phần 2 chương này đã nêu, từ thời Nam Tống, Trung Quốc và Việt Nam đã sớm có đường ranh giới trên biển xuyên ngang Vịnh Bắc Bộ. Trong bộ sách “Lĩnh ngoại đại đáp”, Chu Khứ Phi đã nói, ở cửa sông Khâm Giang có một địa danh tên là “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thiên Phân Dao</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, được người đương thời gọi là điểm giao giới trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam (Ngũ Châu Tích và Giao Chỉ xác định ranh giới tại đây)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, từ đó vạch một đường thẳng về phía Nam, thì phía Tây Nam thuộc Việt Nam, phía Đông Nam thuộc Trung Quốc. Đây là đường ranh giới trên biển sớm nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Vịnh Bắc Bộ có thể tìm được trong sử liệu. Trong cuốn “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thanh thực lục</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Ghi chép việc thật đời Thanh) cũng có ít nhất hai chỗ nhắc đến “Biển Bạch Long Vĩ” thuộc Việt Nam: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng tiếp giáp hai phủ Liêm Châu, Quỳnh Châu thuộc nước ngoài</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cũng khẳng định việc phân định ranh giới biển giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Vịnh Bắc Bộ đã có từ rất sớm, và vùng biển Bạch Long Vĩ là do Việt Nam quản lí.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có điều, những ghi chép này lại không nói rõ rốt cục đường phân định ranh giới này chỉ nằm gần bờ biển hay chạy xuyên qua toàn bộ Vịnh Bắc Bộ. Nhưng, vào đầu đời Thanh, Cố Viêm Vũ đã ghi chép trong cuốn “Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư” rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ Ô Lôi đi thẳng khoảng hai ngày đường qua Dũng Luân, Châu Đôn đến Châu Vĩnh Yên, Giao Chỉ. Qua ải Ma Đôn, Ân Lặc lớn nhỏ, đi về phía Đông tới chỗ đầu hình cái mâu nhỏ thì chính là biển Long Vĩ. [Biển này] chạy từ ranh giới phủ Đông đến biển phía bên ngoài Nam đại hải cho đến biên giới hai nước Giao Chỉ và Chiêm Thành.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì Đạo Quang, Nghiêm Như Dục cũng đã nhắc lại lời Cố Viêm Vũ tại Quyển 14 “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quảng Đông phòng hải lược</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phương lược phòng vệ biển Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) trong “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dương phòng tập yếu</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cương yếu biên soạn phòng vệ biển</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Biển Long Vĩ ở đây chính là biển Bạch Long Vĩ, điều đó chứng tỏ ranh giới trên biển giữa Quảng Đông và Việt Nam kéo dài từ Bạch Long Vĩ về phía Nam, đến biên giới Giao Chỉ, Chiêm Thành tại “biển lớn phía Nam” thì dừng lại. Cũng có nghĩa là, đường ranh giới trên biển Bạch Long Vĩ vươn dài tới bán đảo Đông Dương. Vì thế, khởi điểm của đường ranh giới cương vực biển truyền thống giữa Trung Quốc và Việt Nam thời đó bắt đầu từ Bạch Long Vĩ chạy xuyên qua Vịnh Bắc Bộ theo hướng Bắc-Nam. Đường ranh giới trên biển truyền thống này về cơ bản giống với đường được vẽ trong “Điều ước Trung – Pháp”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy đường ranh giới cương vực biển truyền thống gần Việt Nam có thể được công nhận là vùng nước lịch sử hay không? Theo thông lệ Luật quốc tế, lấy yêu sách của Nga đối với vịnh Peter Đại đế làm ví dụ thì vùng nước lịch sử cần có 3 tiêu chí: một là tồn tại lâu dài; hai là không có bất kì tranh chấp nào; ba là thực thi chủ quyền. Vùng biển phía Tây đường ranh giới biển truyền thống ở Vịnh Bắc Bộ thuộc Việt Nam đáp ứng 3 yêu cầu trên. Trước hết, đường này đã bắt đầu được xác lập từ thế kỉ XI và muộn nhất đến thế kỉ XVII được thể hiện hoàn toàn rõ ràng, đến nay đã hơn 300 năm. Thứ hai, vào thời kì nhà Thanh, đường này được quốc gia lân cận duy nhất là Trung Quốc thừa nhận. Thứ ba, Việt Nam thực hiện quyền quản lí thực tế đối với vùng biển này, đồng thời quyền quản lí này cũng đã được nhà Thanh thừa nhận. Quyền quản lí là phương thức hành xử chủ quyền chính yếu nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyền quản lí này bị gián đoạn dưới tác động của Luật quốc tế hiện đại, vì sau khi Việt Nam trở thành nước bảo hộ của Pháp, Pháp chỉ thừa nhận lãnh hải 3 hải lí theo luật quốc tế, đồng thời cũng không tuyên bố đây là hải vực của Pháp. Theo suy luận đó, Pháp cho rằng Luật quốc tế hiện đại phủ nhận tính pháp lí của đường ranh giới biển truyền thống, vì thế đã cho rằng phần lớn Vịnh Bắc Bộ là vùng biển chung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, điều đó có đồng nghĩa với việc vùng biển phía Tây đường ranh giới biển không có cách nào trở thành vùng nước lịch sử hay không ? Tác giả cho rằng không thể khẳng định được. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Việt Nam sở dĩ Việt Nam không thể giữ được đường ranh giới biển truyền thống là do bị thực dân xâm lược chứ không phải do mình chủ động từ bỏ. Đây là điểm cần phải được xem xét. </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, cũng là điểm quan trọng nhất, đó là trước Thế chiến II, Đông Dương thuộc Pháp tiếp tục quản lí thực tế vùng biển này. Pháp đảm đương nhiệm vụ tuần tra, chống buôn lậu và tiễu phỉ (chẳng hạn người Pháp thường xuyên tuần tra trên đảo Bạch Long Vĩ). Trên thực tế, các cuộc tuần tra của Pháp bao trùm gần như toàn bộ Vịnh Bắc Bộ chứ không chỉ ở phía Tây đường ranh giới biển truyền thống. Vì vậy, dù có thể suy đoán đây là vùng biển chung nhưng việc thực thi chủ quyền tại khu vực này của nước Pháp lại không hề gián đoạn. Có thể thấy, Việt Nam có đầy đủ lí lẽ để luận chứng vùng biển phía Tây đường ranh giới biển truyền thống là vùng nước lịch sử của Việt Nam, nhưng chứng cứ lịch sử có lợi này lại không được nhắc đến trong đàm phán, dẫn đến bất lợi về mặt tính pháp lí.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu so sánh với lí luận về vùng nước mang tính lịch sử của Trung Quốc trong đường 9 đoạn sẽ dễ dàng nhận thấy, tính pháp lí của đường 9 đoạn không thể vững chắc bằng tính pháp lí của đường ranh giới biển truyền thống trong Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Điều đó được thể hiện trên một số điểm sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> về mặt thời gian, đường ranh giới biển truyền thống trên Vịnh Bắc Bộ bắt đầu hình thành từ thế kỉ XI, thể hiện liên tục đến những năm 1880, quyền quản lí thực tế còn kéo dài tới tận Thế chiến II; còn đường 9 đoạn thì mãi đến năm 1947 mới bắt đầu xuất hiện. Mặc dù có người cho rằng, cái gọi là “ranh giới biển truyền thống”của Trung Quốc bao gồm hầu như trên toàn bộ vùng biển Đông đã được kiến lập từ thời nhà Tống. Cách diễn giải này đã bị bác bỏ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngay cả khi chủ trương không được ủng hộ này đứng vững thì đường ranh giới biển truyền thống ở biển Đông do quan chức Trung Quốc nhận định đã “lùi dần” đến điểm cực Nam đảo Hải Nam từ thời nhà Thanh.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong thời gian mấy trăm năm, đường ranh giới truyền thống trên Vịnh Bắc Bộ liên tục được Trung Quốc thừa nhận, coi đó là ranh giới biển giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn đường 9 đoạn từ ra đời vào năm 1947 chưa bao giờ có ý nghĩa pháp lí rõ ràng, tới nay nội hàm vẫn không rõ, chưa nói đến có được bất kì sự thừa nhận quốc tế nào. Sự thật thì Hoàng Sa, Trường Sa và đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scaborough) đã bị nước khác kiểm soát trong thời gian dài (hoặc đến tận ngày nay).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ thế kỉ XVII đến trước Thế chiến II, Việt Nam và Pháp liên tục duy trì quyền quản lí vùng ranh giới biển trên Vịnh Bắc Bộ. Hơn nữa, trước năm 1909, vùng cực Nam thuộc ranh giới biển do nhà Thanh quản lí chỉ đến Châu Đại Mạo của đảo Hải Nam. Ví như Hoàng đế Đạo Quang đã từng ban bố lệnh liên quan đến việc tuần thú biển Đông như sau: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lại căn cứ vào tấu trình của Lí Tăng Giai, những người cùng Phó tướng Lí Hiền đã đi tuần thú Châu Đại Mạo bên ngoài Nham châu Tam Á, tiếp giáp với biển Việt Nam..., tuy liền kề với mặt biển Trung Hoa nhưng cương vực đã phân định, cần phải nắm rõ tình hình mà tính toán vẹn toàn</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đó là lời cảnh báo của hoàng đế Đạo Quang đối với thủy sư trước tình trạng buôn lậu trên biển, trong đó có nhắc đến phạm vi tuần thú chỉ đến Châu Đại Mạo. Đại Mạo là vùng đất cách Tam Á không xa, mà vùng biển bên ngoài chỉ đến Châu Đại Mạo, bên ngoài chính là “vùng biển của Việt Nam” “tuy liền kề nhưng cương vực đã được phân định”. Có thể thấy, điểm cực Nam của đường ranh giới biển truyền thống và của vùng biển thuộc quyền quản lí thực tế của Trung Quốc cách Châu Đại Mạo không xa và tiếp giáp với vùng biển truyền thống của Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mãi đến năm 1909, khi Lí Chuẩn đại diện cho Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa thì lãnh thổ mới được mở rộng đến Hoàng Sa. Trước năm 1935, cương vực trên bản đồ của Trung Quốc cũng chỉ đến phía Nam Hoàng Sa, không bao gồm Trường Sa. Đường 9 đoạn mới bắt đầu được vẽ trên bản đồ vào năm 1947, nhưng trong thời gian dài sau đó, Trung Quốc đều không thực hiện quyền quản lí trên vùng biển đường 9 đoạn đó. Dù rằng những năm gần đây, Trung Quốc không ngừng mở rộng kiểm soát tại Trường Sa, nhưng đến nay vẫn chưa có bất cứ chứng cứ nào chứng minh Trung Quốc thực hiện quyền quản lí trong vùng biển đường 9 đoạn (nhất là quần đảo Trường Sa) mà không có tranh chấp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vào cuối đời Thanh, Trung Quốc chủ động tiếp nhận quy định của Luật quốc tế hiện đại về bề rộng lãnh hải. Chẳng hạn, Trung Quốc và Mexico đã kí “Điều ước Hoa Thịnh Đốn” về thương mại, trong đó khoản 11 quy định:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The two contracting parties agree upon considering a distance of three maritime maritime leagues measured from the line of low tide as the limit of their territorial.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai bên nhất trí lấy khoảng cách 3 league (1 league bằng 10 dặm Trung Quốc) đo từ ngấn nước triều thấp làm ranh giới lãnh hải của mình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này có nghĩa là, trước khi xác lập đường 9 đoạn, Trung Quốc đã từ bỏ khái niệm “đường ranh giới biển truyền thống”, chuyển sang sử dụng chế độ lãnh hải theo nghĩa của Luật quốc tế. Trong thời kì Dân quốc, Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng chế độ này. Năm 1947, khi tuyên bố đường 9 đoạn, Trung Quốc cũng chưa từng đề xuất một khái niệm trái với chế độ đó. Năm 1958, Chính phủ Trung Quốc đề xuất lại chế độ 12 hải lí, sau đó cũng không hề nói rõ hàm nghĩa của đường 9 đoạn. Do vậy, cái gọi là đường 9 đoạn mang tính lịch sử là không nhất quán với thực tiễn pháp lí từ cuối thời nhà Thanh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chú ý là, Việt Nam từ bỏ đường ranh giới biển truyền thống là do sự khống chế của thực dân Pháp nên đó là hành vi không tự nguyện; còn Trung Quốc từ bỏ quan niệm đường ranh giới biển truyền thống (đường ranh giới biển truyền thống ở biển Đông lúc đó của Trung Quốc chỉ đến điểm cực Nam đảo Hải Nam) là hành vi tự nguyện, khi đang có đầy đủ chủ quyền. Có thể thấy, nếu như Việt Nam không được ủng hộ về vùng nước lịch sử tại Vịnh Bắc Bộ thì đường 9 đoạn của Trung Quốc càng không được coi là cơ sở pháp lí của “vùng nước lịch sử”. Điều đáng mỉa mai là, tuyệt đại bộ phận những logic được Trung Quốc sử dụng để phản bác Việt Nam lại đều có thể áp dụng trong vấn đề “vùng 9 đoạn”. Hoàn toàn có thể phủ nhận lí luận trong chủ trương của một số chuyên gia Trung Quốc về “vùng nước lịch sử đường 9 đoạn” bằng cách “lấy gậy ông đập lưng ông”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phân định chủ quyền hải đảo</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhằm tăng cường tính pháp lí của đường 9 đoạn, một số chuyên gia Trung Quốc và Đài Loan (chẳng hạn Phó Côn Thành) cho rằng ngoài cái gọi là “đường vùng nước lịch sử”, đường 9 đoạn còn có ý nghĩa địa lí xác thực, tức “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là đường cách đều chia tách các đảo tại biển Đông với các vùng đất và đảo xung quanh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này không đúng sự thật. Ví như, phần Tây Nam của đường 9 đoạn cách đường bờ biển Việt Nam rất gần, nhưng lại cách Trường Sa rất xa. Tác giả khó có thể xác định cự ly cụ thể (vì đường 9 đoạn không có toạ độ), nhưng nhìn trên bản đồ thì rất dễ phát hiện.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay cả khi những gì mà các chuyên gia Trung Quốc nói là đúng thì lập luận các đảo nhỏ như Bạch Long Vĩ có thể được phân chia vùng biển ngang bằng với lục địa (hoặc đảo lớn) là sai lầm. Như trên đã nói, hiệu lực phân định đảo Bạch Long Vĩ đã trở thành tiền lệ cho các đảo biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi bỏ đi vùng lãnh hải 12 hải lí thì vùng đặc quyền kinh tế của Bạch Long Vĩ chỉ còn 3 hải lí, tương đương khoảng 1/10 đảo Hải Nam. Diện tích Bạch Long Vĩ là 3 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lớn hơn bất cứ hòn đảo nào tại biển Đông, hơn thế từ những năm 1920 đã có cư dân sống lâu dài trên đảo, dân số lên tới vài trăm người. Còn các đảo tại biển Đông, đặc biệt là trên quần đảo Trường Sa thì trước khi bồi đắp chỉ có rất ít quân lính trú đóng tại đó, sống chủ yếu bằng nguồn cung ứng được vận chuyển tới, tuyệt đại bộ phận là “không thể duy trì đời sống của con người” trên đảo. Hơn thế, Bạch Long Vĩ được tính là đảo trung tâm (bởi nó nằm chính giữa vùng đất liền hai nước), còn các đảo biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scaborough) lại là những đảo xa (những đảo nằm gần bờ biển nước khác hơn nước mình). Căn cứ thực tiễn Luật quốc tế thì hiệu lực phân định của các đảo đó nhỏ hơn so với đảo trung tâm, thậm chí có thể coi là vùng “đất mượn”. Vì thế, dù đứng từ phương diện nào thì hiệu lực phân định của các đảo tại biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và (bãi cạn Scaborough đều nhỏ hơn so với đảo Bạch Long Vĩ. Việc dùng “ trung tuyến” để hợp lí hóa đường 9 đoạn hiển nhiên không thể đứng vững.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề nghề cá</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề nghề cá là một trong những tiêu điểm trong tranh chấp biển Đông. Nhưng vấn đề nghề cá có thể sắp đặt thông qua các thỏa thuận đặc biệt tách biệt với việc phân định lãnh thổ, lãnh hải, thậm chí vùng đặc quyền kinh tế. Việc xử lí vấn đề nghề cá Vịnh Bắc Bộ trở thành một ví dụ điển hình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong vấn đề nghề cá, ngư trường Vịnh Bắc Bộ chủ yếu nằm về phía Việt Nam, ở phía tây đường trung tuyến. Nếu dựa hoàn toàn vào Luật quốc tế thì tài nguyên trong vùng này đương nhiên thuộc về Việt Nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng, với lí do bảo vệ sự “công bằng” trong thụ hưởng quyền lợi tài nguyên nghề cá trong khu vực này nên Trung Quốc cho rằng, đường trung tuyến nên điều chỉnh về phía Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thoả thuận, ngoài việc kí Hiệp định phân giới ra, hai bên còn kí kết “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ngày 25/12/2000, thiết lập vùng đánh cá chung, cách đường phân định phía Việt Nam 30,5 hải lí. Từ năm 2001, Trung Quốc và Việt Nam đã tổ chức nhiều vòng đàm phán về nghị định thư bổ sung cho hiệp định, trong nỗ lực thúc đẩy cho hiệp định cuối cùng có hiệu lực.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên trong khu vực đường 9 đoạn là ngư trường truyền thống của các nước, theo nguyên tắc công bằng, không thể để chỉ một nước được riêng hưởng. Xét theo Hiệp định Vịnh Bắc Bộ (cũng như các hiệp định tương tự của các nước khác), ngay cả nguồn lợi thủy sản trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia cũng có thể bị chia sẻ với các quốc gia láng giềng. Sự chung hưởng đó trong một khu vực nhất định có thể là vô điều kiện, hoặc có thể là chia sẻ có hạn định. Phương thức cụ thể được quyết định theo thỏa thuận của các quốc gia liên quan. Không nên để vấn đề nghề cá trở thành điểm khó trong việc giải quyết vấn đề biển Đông.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 6pt; margin-top: 18pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.6. Từ rạn Mĩ Tế (đá Vành Khăn) đến rạn Nhân Ái (bãi Cỏ Mây) – tranh cãi giữa Trung Quốc và Philippines trong những năm 1990</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi quân đội Mĩ rút khỏi biển Đông, cục diện biển Đông đã thay đổi. Trước đó, đối kháng chỉ diễn ra ở phía tây biển Đông, tức là quần đảo Tây Sa và các đảo đá phía Tây đảo Thái Bình (Ba Bình) thuộc quần đảo Trường Sa. Sau này, điểm nóng tranh chấp biển Đông chuyển sang phía Đông, giáp Philippines. Có thể có một nguyên nhân khác, đó là cho đến năm 1986, Philippines do Marcos, “bạn thân của nhân dân Trung Quốc” cai trị nên hai bên có quan hệ tốt đẹp. Hơn thế, khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc và Marcos đã đạt thỏa thuận ngầm, đó là không quan tâm nhiều đến việc Philippines kiểm soát và khai thác Trường Sa. Nhưng, năm 1986, Marcos bị phe Dân chủ lật đổ, đại diện phe Dân chủ “thân Mĩ” là bà Aquino lên nắm quyền. Bề ngoài, quan hệ Trung Quốc – Philippines vẫn tốt đẹp, nhưng nền tảng sự tin cậy lẫn nhau thời Marcos không còn. Sau khi hành động bành trướng của Trung Quốc về phía Việt Nam gặp trở ngại thì việc chuyển dịch sang phía Đông là điều hợp lí. Do đó, bắt đầu từ giữa những năm 1990, tiêu biểu qua sự kiện rạn Mĩ Tế (đá Vành Khăn), tranh chấp đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough) và rạn Nhân Ái (bãi Cỏ Mây), tranh chấp biển Đông chuyển sang thời kì với đối kháng giữa Trung Quốc và Philippines là chủ yếu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sơ lược lịch sử rạn Mĩ Tế (đá Vành Khăn) và Nhân Ái (bãi Cỏ Mây)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đá Vành Khăn nằm về phía Đông quần đảo Trường Sa (Hình 52), cách đảo Palawan khoảng 130 hải lí. Năm 1935, Trung Quốc đặt tên nó là đảo Nam Ác (南恶岛), đến năm 1947 mới đổi lại tên như hiện nay. Dân chài Trung Quốc gọi nó là “Song Môn”. Tên tiếng Anh của đảo này là Mischief Reef, Philippines gọi nó là Panganiban Reef. Đảo này được thuyền trưởng người Anh Henry Spratly phát hiện năm 1791, tên tiếng Anh của nó là từ tên thuyền viên người Đức, Heribert Mischief.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bãi Cỏ Mây còn được gọi là bãi ngầm Nhân Ái (cách gọi của Trung Hoa Dân quốc) hay đá Thomas thứ hai (Second Thomas Reef hoặc Second Thomas Shoal). Philippines gọi nó là Ayungin, Việt Nam gọi nó là bãi Cỏ May, còn ngư dân Trung Quốc gọi nó là “Đoạn Tiết”. Rạn san hô này nằm ở phía Đông quần đảo Trường Sa, cách đá Vành Khăn chừng 14 hải lí về phía Đông Nam, cách đảo Palawan của Philippines khoảng 110 hải lí. Trước thế kỉ XIX chưa có ghi chép về sự phát hiện hay việc đi lại tới bãi Cỏ Mây. Cuối thế kỉ XVIII, người Anh phát minh ra dụng cụ đo kinh độ, năm 1795, Anh thành lập Cục đo đạc thủy văn hải quân (Hydrographic Office) nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đo đạc thủy văn. Đầu thế kỉ XIX, Anh đã tổ chức các cuộc khảo sát và thám hiểm biển Đông trong 4 năm liên tiếp từ 1807 đến 1810: lần thứ nhất dọc bờ biển Trung Quốc, lần thứ hai ở quần đảo Hoàng Sa, lần thứ ba dọc theo vùng bờ biển Nam bộ Việt Nam, lần thứ tư nhằm vào đảo Palawan của Philippines. Bốn lần khảo sát đó về cơ bản đã nắm rõ tình trạng địa lí các đảo ở biển Đông. Bãi Cỏ Mây lần đầu tiên được ghi chép lại trong quá trình khảo sát này, và qua đó nó có tên là “Rạn Thomas thứ hai”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản đồ mở mang cương vực lần thứ nhất năm 1935, Trung Quốc đặt tên bãi Cỏ Mây là “bãi Tāngmǔsī (Thomas) thứ hai” (湯姆斯第二灘: Thang Mỗ Tư đệ nhị than), rõ ràng là được phiên âm và dich theo hải đồ và tư liệu của Anh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 446px; overflow: hidden; width: 593px;"><img height="446" src="https://lh4.googleusercontent.com/eZ9ImenJq6Yrhi7fteBU7yrM6AbcCWe39N38X4uHlDU9XwKNrTnab3h7rZzenrRX2Hk-s3ZC_XeP76-Y01nrIHjp3Tl5dw0vT0tnU6J0PAbAtcUeiuYcx6dHpVcEIHDFcTj305M2Wk8gwFsUAcy0qDU" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="593" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 52</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ phụ cận đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản thân đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây đều là “bãi triều thấp” (low tide elevation), chỉ nhô lên một phần khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Chúng tự tạo thành hai thể địa lí riêng biệt, không dính dáng gì với nhau. Theo “Công ước”, bãi triều thấp riêng lẻ không đủ tiêu chuẩn để có lãnh hải 12 hải lí, càng không thể có vùng đặc quyền kinh tế. Vì thế, mặc dù Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đều tuyên bố chủ quyền ở đây, nhưng các nước này không có nhiều lợi ích kinh tế thực chất nếu căn cứ nghiêm ngặt vào “Công ước”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Thế chiến II, Pháp và Trung Quốc lần lượt tuyên bố chủ quyền tại quần đảo Trường Sa vào năm 1946 và 1947. Nhưng cả hai bên đều chưa đặt chân đến đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây. Năm 1947, Ty Phương vực Bộ Nội chính Trung Quốc xuất bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bản đồ vị trí các đảo biển Đông), trong đó tên gọi của bãi Cỏ Mây được đổi từ “Tangmusi thứ hai” thành “bãi ngầm Nhân Ái”. Đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây cũng được vẽ trong đường đứt đoạn. Chính quyền Bảo Đại của Việt Nam được thành lập năm 1949, tuyên bố rằng Việt Nam có chủ quyền tại tất cả các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1946, Philippines cũng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trước khi Lâm Tuân có hành động ở đóđó. Các bên không dàn xếp được tranh chấp, đành dùng phương thức “chưa quyết định” để tạm “gác” tranh chấp. Phạm vi tuyên bố chủ quyền của Việt Nam và của Philippines đều bao gồm rạn Mĩ Tế và rạn Nhân Ái. Nhưng nhiều khả năng do chúng không quá nổi bật nên không có nước nào đem quân đến chiếm đóng trong những lần phân tranh quần đảo Nam Sa trước đó tính từ năm 1956.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắt đầu từ những năm 1980, Chính quyền Bắc Kinh tích cực chuẩn bị tiến vào Trường Sa. Năm 1983, Bắc Kinh đặt tên lại các đảo tại biển Đông. Bãi Cỏ Mây cũng được đặt tên là Nhân Ái trong thời gian này. Năm 1987, Trung Quốc tổ chức tàu khảo sát khoa học tiến vào biển Đông. Khi đó, các đảo chính của quần đảo Nam Sa đều có quân đội của các nước khác, vì thế Trung Quốc nhắm tới các đảo đá không có quân đội nước khác trú đóng. Đợt khảo sát này bao gồm 10 bãi đá trong đó có đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây, và trên các đảo được đặt các mốc đánh dấu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện rạn Mỹ Tế (đá Vành Khăn) lần thứ nhất</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1992, Mĩ rút quân khỏi Philippines, đưa lại cơ hội hiếm có để Trung Quốc bành trướng sang phần phía đông của biển Đông. Năm 1994, Philippines giao cho Công ti Alcorn Petroleum của Philippines tiến hành đánh giá tiềm năng của một khu vực biển ngoài đảo Palawan, dẫn đến phản đối từ phía Trung Quốc. Đây được coi là cái cớ để Trung Quốc quyết tâm ra tay với Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lần này, Trung Quốc không huy động tàu quân sự mà thay bằng tàu ngư chính. Dùng thủ đoạn “dân sự” thay “quân sự” để chiếm lĩnh, cũng có thể giảm bớt nguy cơ leo thang trong trường hợp xảy ra xung đột. Tháng 8/1994, Cục trưởng Cục Ngư chính Nam Hải Quảng Đông là Lưu Quốc Quân nhận điện thoại từ Cục trưởng Cục Ngư nghiệp Bộ Nông nghiệp Trác Hữu Chiêm, yêu cầu ông này lập tức đến Bắc Kinh. Sau khi đến Bắc Kinh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Diên Hỷ trực tiếp nói với Lưu Quốc Quân rằng, để làm nổi bật sự hiện diện của Trung Quốc ở quần đảo Nam Sa, Trung ương quyết định xây dựng các khu trú ẩn cho tàu đánh cá trên rạn Mĩ Tế, do Lưu phụ trách. Đây là nhiệm vụ chính trị phải chấp hành vô điều kiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 29/12/1994, trong lúc Philippines dừng tuần tra trong mùa gió thì đội tàu ngư chính với tàu chỉ huy 1000 tấn Ngư Chính 31 đã đến đá Vành Khăn bắt đầu xây dựng nhà giàn bằng xi măng cốt thép đúc sẵn, ngoài ra còn có 4 thuyền cá tham gia vào công trình xây dựng này. Tàu khảo sát khoa học Hướng Dương Hồng 14 cũng đến đá Vành Khăn sau đợt nghỉ Tết Nguyên Đán. Tàu ngư chính số 31 phụ trách công tác cảnh giới ngoài rạn đá.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoảng 10/1/1995, Trung Quốc chặn tàu đánh cá Analita của Philippines ở vùng biển Vành Khăn, giữ tàu này một tuần, rồi đuổi tàu này khỏi khu vực Vành Khăn. Ngày 17/1, một tàu cá Philippines với 12 ngư dân tiến đến đá Vành Khăn, do chạy tốc độ nhanh nên tàu Trung Quốc không ngăn kịp đã tiến vào đầm phá . Sau khi vào trong đầm phá, tàu cá Philippines bị tàu Ngư chính 31 bắt giữ, kiểm tra và đuổi đi.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi về đến Philippines, tàu cá đã tố cáo hành vi của Trung Quốc trước báo chí, điều này khiến Chính phủ Philippines phải cảnh giác trước hành động của Trung Quốc. Ngày 2/2, Philippines đưa tàu tuần tra và máy bay trinh sát đến đá Vành Khăn để kiểm tra. Khi máy bay trinh sát tiến hành chụp ảnh đá Vành Khăn ở độ cao thấp thì người Trung Quốc ném các thứ như chai bia vào máy bay, trong đó có một chai bia ném trúng đuôi máy bay. Rất may không ai thương vong nhưng máy bay đành quay trở về.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 8/2, Tổng thống Philippines Ramos có bài phát biểu thông báo rằng Bộ Quốc phòng xác nhận đã phát hiện một tàu Trung Quốc gần rạn Panganiban (tức đá Vành Khăn) trên quần đảo Kalayaan (quần đảo Trường Sa-ND) và ông chỉ thị Bộ Ngoại giao thực hiện các hành động ngoại giao thích hợp, đồng thời nhắc nhở Trung Quốc rằng “những hành động do những người liên quan đến nước CHNDTH thực hiện là không phù hợp với Luật quốc tế cũng như tinh thần và ý định ‘Tuyên ngôn Manila’ của các nước ASEAN về vấn đề biển Đông, thông qua năm 1992. Philippines (và Trung Quốc) đều là nước kí “Tuyên ngôn” này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày hôm sau, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Davila cho các phóng viên xem các bức không ảnh do máy bay Philippines chụp tại Vành Khăn, cho thấy Trung Quốc đã xây dựng 4 công trình kiên cố có cắm quốc kì Trung Quốc tại đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 15/2, Ramos đọc một bài diễn văn dài, lên án mạnh mẽ Trung Quốc và tái khẳng định đá Vành Khăn thuộc về Philippines; ông cho rằng đây không phải là sự việc riêng giữa hai nước Trung Quốc và Philippines, mà còn ảnh hưởng đến an ninh và ổn định trong toàn bộ khu vực biển Đông; đồng thời biểu thị thái độ không loại trừ việc đưa vấn đề tranh chấp Nam Sa ra giải quyết tại Liên hiệp quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự việc này không chỉ làm dấy lên phản đối từ Philippines mà Việt Nam cũng liên tiếp đưa ra hai tuyên bố trong hai ngày 9 và 10, cho rằng hành vi của Trung Quốc mang tính nghiêm trọng, Việt Nam nghiêm khắc phản đối sự việc này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước sự việc này, ngày 9/2, Bộ Ngoại giao Trung Quốc trả lời:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngành ngư chính địa phương Trung Quốc xây dựng một vài chỗ trú ẩn cho tàu đánh cá trên rạn Mĩ Tế nhằm bảo vệ tính mạng và an toàn sản xuất của ngư dân hoạt động trong vùng biển Nam Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thậm chí Trung Quốc còn giải thích với Philippines rằng việc chiếm đóng là do “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các cán bộ cấp dưới ‘ra lệnh mà không báo cáo với Chính phủ và chưa được Chính phủ cho phép</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 21/3, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Philippines thăm Bắc Kinh và thảo luận về vấn đề biển Đông với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kì Tham. Tiền Kì Tham nêu rõ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh đạo hai nước đã đạt được sự hiểu biết cao về tranh chấp Nam Sa</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tức là biện pháp ‘gác tranh chấp, cùng khai thác’, coi đây là con đường giải quyết vấn đề tốt nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hai bên cho rằng những khác biệt cần được giải quyết một cách hòa bình thông qua đàm phán song phương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù Trung Quốc có thái độ ngoại giao mềm mỏng, nhưng lại có thái độ cứng rắn trong việc xây dựng đá Vành Khăn. Philippines không đủ năng lực và cũng không dám ngăn cản mà chỉ đưa quân đội đến trú đóng trên các bãi Cỏ Rong, Sa Bin (Tiên Tân), Hải Sâm (Ngũ Phương), Suối Ngà (Tín Nghĩa) và Bán Nguyệt (Trăng Khuyết) vào ngày 25/3, phá bỏ các cột mốc do Trung Quốc cắm khi tiến hành khảo sát khoa học tại biển Đông (Philippines gọi đây là các cột mốc do nước ngoài để lại nhưng không rõ quốc tịch) trong những năm 1980, đồng thời cho xây dựng các cột mốc của nước mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25/3, Philippines bắt giữ 4 tàu cá Trung Quốc (Quỳnh Hải 00406, 00488, 00308, 00373) tại đảo Tiên Nga, cách rạn Mĩ Tế hơn 30 hải lí, với lí do các tàu này đánh bắt cá trái phép, giam giữ tổng cộng 62 thuyền viên, mãi đến ngày 30/9 mới được thả; còn 4 chủ thuyền được thả vào ngày 26/1 năm sau.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài việc phản đối, trao đổi ngoại giao và trợ giúp pháp lí cho ngư dân trước hành động của Philippines, Trung Quốc không có hành động nào hơn, vì trọng tâm của Trung Quốc là đá Vành Khăn. Đây có thể coi như một sự thỏa hiệp và thừa nhận ngầm với Philippines.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 12/5, Philippines tổ chức một đoàn 38 nhà báo nước ngoài và Philippines đến đá Vành Khăn bằng tàu thuê tư nhân, được tàu đổ bộ Bengate và tàu tuần tra Miguel Marsoy (?) của Philippines hộ tống. Xuất phát từ Palawan tiến vào đá Vành Khăn và đến vùng biển Vành Khăn vào sáng ngày 13. Chiến hạm Philippines cố tiến để đổ bộ lên đá Vành Khăn, nhưng bị tàu Ngư chính 34 của Trung Quốc ngăn cản nên không thể vào gần rđá Vành Khăn được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Được biết, khi đó Trung Quốc đã ra lệnh, nếu không ngăn cản được thì có thể đâm chìm tàu cá Philippines, bịt lối vào chính của đá Vành Khăn (tàu Ngư chính 34 có trọng tải 500 tấn).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, tàu thuê phải neo đậu ở bên ngoài, một máy bay trực thăng đã chở các nhà báo bay trên đá Vành Khăn để chụp ảnh. Hai bên giằng co nhau suốt 7 tiếng đồng hồ, sau đó Philippines mới rời khỏi đá Vành Khăn. Trung Quốc phản đối gay gắt nhưng không có hành động gì thêm.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không nhượng bộ và Philippines cũng không thể làm gì khác dù có ưu thế về dư luận. Hải quân Philippines rất lạc hậu, chỉ có thể đối phó với buôn lậu. Vì vậy, dù Trung Quốc ở rất xa đá Vành Khăn và hành động cũng chỉ hạn chế bằng tàu ngư chính, nhưng nếu không có sự bảo hộ của Mĩ thì Philippines không thể nào đối đầu bằng vũ lực. Hơn thế, Mĩ cũng không muốn Philippines làm to chuyện. Ngày 22/6, Ủy ban công tác ngoại giao Thượng nghị viện Mĩ thông qua quyết nghị đề nghị Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei tự kiềm chế, tránh sử dụng vũ lực để mở rộng chủ quyền tại biển Đông, đe dọa an ninh và ổn định của khu vực Đông Á.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 30/7, trong cuộc đối thoại Trung Quốc – ASEAN tại Brunei, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kì Tham một lần nữa nhượng bộ: (1) Đồng ý đàm phán đa phương với ASEAN về vấn đề biển Đông, đây là bước lùi so với lập trường kiên quyết đàm phán song phương của Trung Quốc trước đó; (2) Trung Quốc biểu thị ý nguyện đàm phán theo tiêu chuẩn của Luật quốc tế; (3) Đảm bảo không can dự vào tự do hàng hải tại biển Đông.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trừ Philippines, ba lập trường đó về cơ bản thỏa mãn yêu cầu của các nước ASEAN cũng như các nước ngoài khu vực như Mĩ, Nhật Bản. Các quốc gia ASEAN bày tỏ sự hài lòng. Trong bối cảnh Mĩ không ủng hộ việc làm to chuyện và các đồng minh ASEAN cũng tỏ thái độ hòa hoãn, Philippines đành chấp nhận thực tế.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 8, trợ lí Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Anh Phàm đến Manila thảo luận với Thứ trưởng Ngoại giao Philippines về vấn đề biển Đông. Hai bên nhất trí không sử dụng vũ lực, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ bình thường giữa hai nước, giải quyết bằng thương lượng hòa bình hữu nghị, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Philippines không nhắc lại yêu cầu đòi Trung Quốc rút khỏi đá Vành Khăn. Sự việc tạm dừng tại đó, Trung Quốc đã tìm thấy chỗ đứng đầu tiên ở phía Đông biển Đông. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 353px; overflow: hidden; width: 374px;"><img height="353" src="https://lh4.googleusercontent.com/vlUMkk-qC247wIPLdfCdW2CAUxBx-Z0DA_lua_hOFN1XEwbmM2r94a3YfLsS6Tz7ueNOOyfc7Fjvsr2_-RfzzB_rCZ7aSIdYTpICWeEuE2Lbe6EHc3nRkmXoUv_ic9X-27mB_ViJR6YkKcBhZEyD3wk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="374" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 53</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba thế hệ nhà giàn ở đá Vành Khăn </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử sơ lược đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếp sau sự kiện đá Vành Khăn là sự kiện đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough), tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines đã mở rộng từ quần đảo Trường Sa sang bãi Scarborough ở phía Bắc. Đây cũng là tranh chấp lãnh thổ thứ ba sau tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa, hơn thế nó còn ảnh hưởng rất lớn đến cục diện biển Đông trong tương lai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Scarborough không phải là một “đảo”. Nó là rạn san hô cách đảo Luzon của Philippines 240 km, cách đảo Hải Nam Trung Quốc gần 900 km, cách Trung Sa khoảng 350 km. Đại bộ phận đảo nằm dưới mặt nước, chỉ có một số mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước. Tên gọi quốc tế của nó là Scarborough Shoal, Đài Loan (Trung Hoa dân quốc) gọi nó là “rạn Sikabolei” (斯卡伯勒: Tư tạp bá lặc - phiên âm của Scarborough) (năm 1935)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và “rạn Dân Chủ” (năm 1947). Năm 1983 Bắc Kinh mới đổi tên nó thành đảo Hoàng Nham. Đối với Trung Quốc, nó được coi là một phần của quần đảo Trung Sa (Macclesfield). Đây là kiểu cách phân định chỉ có một trên thế giới. Bãi ngầm Macclesfield (tức phần chính của “quần đảo Trung Sa”), đảo Hoàng Nham, bãi ngầm Hiến Pháp (bãi ngầm Truro) và các bãi ngầm khác đều cách nhau rất xa, về cơ bản, giữa chúng đều là biển nước sâu, về mặt địa lí chúng cũng không thuộc cùng một hệ thống. Hơn thế, trong “quần đảo Trung Sa” chỉ có duy nhất bãi cạn Scarborough là có thể nhô khỏi mặt nước biển. Bắc Kinh đặt tên nó là đảo Hoàng Nham, đại loại để nâng cao địa vị pháp lí của nó và thậm chí của quần đảo Trung Sa (từ bãi cạn nâng lên thành đảo).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khác với đảo Điếu Ngư (Sankaku), Hoàng Sa và Trường Sa … dù Trung Quốc có tiếng phong phú về tư liệu lịch sử, nhưng trước thế kỉ XX, không có ghi chép nào về đảo Hoàng Nham trong kho tàng sử sách đồ sộ của Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về mặt tài liệu, Trung Quốc chỉ biết đến đảo Hoàng Nham sớm nhất là vào cuối thế kỉ XIX từ các bản đồ biển của phương Tây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có thể nói, trước thời kì hiện đại, Trung Quốc không có chút liên hệ nào đến đảo Hoàng Nham.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo như tác giả được biết, bài báo sớm nhất trong báo chí Trung Quốc liên quan đến đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough) là bài viết về tranh cãi Trung – Nhật từ năm 1907-1909, đăng trên “Tạp chí Đông phương” năm 1909. Bài báo miêu tả rằng khi đó Trung Quốc không biết vị trí chính xác của hòn đảo mà người Nhật khai thác(tức đảo Pratas [Đông Sa]) và cho rằng nó nằm trong khoảng 14° vĩ Bắc, nhưng khi tra bản đồ mới phát hiện ra không có đảo nào ở vị trí đó, chỉ có “một địa điểm nhỏ chếch về phía đông bắc, nhô khỏi mặt nước 3 thước (xích)”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù bài báo không nhắc đến tên đảo, nhưng dựa vào vị trí kinh vĩ tuyến có thể biết bãi cạn nhỏ đó chính là đảo Scarborough. “Bây giờ muốn chứng minh chỗ đất này thuộc nước nào, chỗ đất đó vẫn nằm phía nam Luzon, cách xa bờ biển Trung Quốc hàng nghìn dặm, nếu lấy đó làm căn cứ cho nó thuộc Trung Quốc thì không nước nào có thể nghe theo.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo báo cáo của Tổng đốc Quảng Đông Trương Nhân Tuấn thì nơi này (chỗ đất bị hiểu lầm là đảo nhỏ) “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cách Quảng Đông rất xa, khó có thể coi đó là đất đai của Quảng Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có thể thấy, vào lúc đó Scarborough không thuộc Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngược lại, Scarborough rất gần Philippines, nhiều khả năng dân bản địa Philippines là người phát hiện ra đảo này sớm nhất. Trong thế kỉ XVIII, Scarborough đã xuất hiện trên bản đồ do người Tây Ban Nha xuất bản; giữa thế kỉ XVIII, người Tây Ban Nha lại đặt tên cho nó là Masingloc (tức Masinloc). Năm 1792, các nhà khoa học Tây Ban Nha tiến hành khảo sát đảo Scarborough, làm rõ địa hình của nó. Năm 1800, tàu tuần tiễu quân sự Santa Lucia nhận lệnh của nhà đương cục Manila, tiến hành thăm dò lại Scarborough lần nữa. Từ đó về sau, bản đồ Tây Ban Nha và các nước khác luôn thể hiện đảo đó thuộc Philippines. Năm 1866, khi có tàu bị mắc cạn ở Scarborough, chính quyền Philippines thuộc Tây Ban Nha cử người đi cứu hộ. Vì vậy khi đó, Philippines thuộc Tây Ban Nha đã có ý định chủ quyền và kiểm soát hiệu quả đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, năm 1898, sau Chiến tranh Mĩ - Tây Ban Nha, Scarborough đã “bị biến mất” trong cuộc chuyển giao giữa Mĩ và Tây Ban Nha; trong “Điều ước Paris” (Treati of Paris) thông qua năm 1898, Tây Ban Nha chuyển nhượng Philippines (và Puerto Rico) cho Mĩ,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tại điều 3 phạm vi các đảo và vùng biển của Philippines được vẽ dưới dạng các đường kinh tuyến và vĩ tuyến nối với nhau (gọi tắt là đường ranh giới điều ước), đảo Hoàng Nham nằm đúng ngay tại kinh độ 118° E ở về phía Tây, không nằm trong phạm vi chuyển nhượng. Hiện tại chưa tìm được hồ sơ giải thích tại sao khi đó lại xử lí như vậy, nhưng đường ranh giới này cũng không bao gồm một số đảo mà Mĩ cho rằng phải có trong đó. Vì vậy hai bên lại kí kết “Điều ước Washington” 1900 (Treati Washington, 1900), tức Điều ước bổ sung “việc chuyển nhượng các quần đảo xa của Philippines” (Cession of Outlying islands of Philippines). Điều ước quy định, những vùng đất của Philippines thuộc Tây Ban Nha nằm ngoài đường ranh giới thể hiện trong Điều ước cũng đều được chuyển nhượng cho Mĩ. Vì thế, về pháp lí, nếu như trước năm 1898, Tây Ban Nha có chủ quyền đối với Scarborough thì chủ quyền đó cũng đã được nhượng lại cho Mĩ theo Điều ước này. Tuy nhiên, điều quan tâm chính của Mĩ khi đó là các đảo thuộc Sulu và Sibutu, Scarborough không nằm trong mối quan tâm của họ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ Philippines được diễn giải trong Hiến pháp Philippines năm 1935 như sau::</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ARTICLE The National Territory</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Section 1. The Philippines comprises all the territory ceded to theUnited States by the Treati of Paris concluded between the United States and Spain on the tenth day of December, eighteen hundred and ninety-eight, the limits which are set forth in Article III of said treaty, together with all the islands embraced in the treati concluded at Washington between the United States and Spain on the seventh day of November, nineteen hundred, and the treati concluded between the United States and Great Britain on the second day of January, nineteen hundred and thirty, </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">and all territory over which the present Government of the Philippines Islands exercises jurisdiction</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Điều 1: lãnh thổ quốc gia (phần này được viết bằng tiếng Trung)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ Philippines bao gồm toàn bộ phạm vi được xác định trong khoản 4 điều 3 “Điều ước Paris” được kí kết giữa Mĩ và Tây Ban Nha ngày 10/12/1898; toàn bộ các đảo được xác định trong “Điều ước Washington” được kí kết giữa Mĩ và Tây Ban Nha ngày 7/11/1900; toàn bộ các đảo được Mĩ và Anh xác định trong Điều ước 2/1/1930 </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cùng tất cả lãnh thổ hiện do Chính phủ Philippines thực thi quyền tài phán</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cho rằng bản Hiến pháp này nhấn mạnh “Điều ước Paris”, và theo dường ranh giới điều ước thì Scarborough đã bị loại ra.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng, theo phân tích phía trên, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều ước Washington</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cùng “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tất cả lãnh thổ hiện do Chính phủ Philippines thực thi quyền tài phán</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trong văn bản hiến pháp đều có thể giải thích rằng Scarborough đã bao hàm trong đó, hơn nữa Philippines thời kì thuộc Mĩ đã thực sự thực thi quyền tài phán đối với Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời kì thuộc Mĩ, thái độ của Philippines đối với Scarborough là hết sức mơ hồ. Một mặt, Philippines vẫn có chứng cứ kiểm soát Scarborough. Ghi chép tỉ mỉ nhất chính là sự kiện ngày 8/5/1913, khi một tàu Thụy Điển mang tên Nippon bị mắc cạn tại bãi Scarborough, Cục Hải vụ Manila Philippines (Bureau of Navigation) đã đưa tàu cảnh vệ biển Mindoro ra cứu hộ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, một công ti trục vớt và công ti bảo hiểm đã kiện về việc phân chia hàng hóa của tàu Thụy Điển được trục vớt. Vụ kiện lần đầu tiên được xét xử tại Tòa án Quận 1 của Manila, và sau đó được kháng cáo ở tòa án tối cao, tên hồ sơ vụ kiện là Erlanger & Galinggev v. The Swedish East Asiatic Co., GR No.L-10051.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự việc đó thể hiện đầy đủ quyền quản lí của Philippines đối với khu vực Scarborough: Thứ nhất, Philippines cung cấp dịch vụ trục vớt đối với tàu gặp nạn tại địa điểm này; thứ hai, Philippines thực hiện quyền quản lí tư pháp đối với vụ đắm tàu xảy ra ở khu vực biển này. Hai điểm này đủ cho thấy Philippines có quyền kiểm soát thực tế đối với Scarborough, đồng thời cũng cho thấy có ý định chủ quyền ở mức độ nhất định.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, Mĩ lại chưa công nhận chủ quyền của Philippines đối với Scarborough. Điều này có thể thấy được từ hai khía cạnh. Trước hết, kể từ năm 1900, hầu như tất cả các bản đồ của Philippines do Hoa Kì xuất bản đều không bao gồm, thậm chí có thể nói là đã cố tình loại Scarborough ra. Các bản đồ này thường có bốn dạng: một dạng vẽ ranh giới của Philippines, loại bỏ rõ ràng Scarborough, ví như bản đồ quân sự năm 1944;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dạng thường thấy nhất có các biểu bảng ghi chú, kí hiệu và bản đồ phóng to được đặt nằm ở góc phía Tây đảo Luzon và phía Bắc đảo Palawan che khuất Scarborough, ví như bản đồ Philippines năm 1911;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dạng thứ ba là không có bảng, biểu gì đặt tại phía Tây đảo Luzon và phía Bắc đảo Palawan cả, người Mĩ thích vẽ khu vực này thành vùng trống chứ không vẽ thêm bãi Scarborough vào, ví như bản đồ Philippines năm 1909;</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dạng thứ tư mặc dù có vẽ Scarborough nhưng không ghi rõ đó là của Philippines, ví như bản đồ năm 1908</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Philippines có tô màu nhưng bãi Scarborough lại không có màu và vùng Sabah cũng không được tô màu. Vì vậy, không có cách nào để từ màu sắc kết luận rằng bãi Scarborough thuộc về Philippines. Theo những gì tác giả thấy được, trong nửa đầu thế kỉ 20 không có bản đồ Philippines nào vẽ hoặc thể hiện rõ Scarborough thuộc Philippines, hoàn toàn khác so với bản đồ Philippines thế kỉ XIX.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 281px; overflow: hidden; width: 214px;"><img height="281" src="https://lh5.googleusercontent.com/Lc-UEoS-6lFal4ncCbfwzxvXHyFxe81Fy9g6dcT1_1WVKva6wPgOxQDQkqxE8WFHm3S5IKx1B7C2at6DI1RBtHMCAB_udCCzGVa2yrBPBLM-Q8ZQxjBr3WW9cPIEXX33g6PdG86W7uhMGTyqRGOn_hw" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="214" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 54</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ Philippines (1944)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 425px; overflow: hidden; width: 316px;"><img height="425" src="https://lh5.googleusercontent.com/3vm8iz9NUUGvJ_kT6YyUuMYcb9cA_vLQqN8ilAXAroFjL_quCZWrK5lWmmL2vjXLDclCBjIj3nBfRHLeZ1l_qSZIYNPcEc01FWX9CwhC7HM8f0kmemf4JZ8tN-vgwHY4vhJp71DdhJI_DD9VBNRugDw" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="316" /></span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 434px; overflow: hidden; width: 277px;"><img height="434" src="https://lh6.googleusercontent.com/-3_0AQ0PTKlTiOmKxB_ptHR50AHSx40VUs_L5f6d9nnAiD1_nQdJfQgBqnrVR3qkhDWLQZCATGL283s0j8QO20KUiTLLk3UrHp6Cqurc3vpjI5fIe9nIB1ZOl6uiJVLawzmLbGXIhHMINbiEbUDuQQs" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="277" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify; text-indent: 27.1578pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 55</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ Philippines (1911)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span class="Apple-tab-span" style="white-space: pre;"> </span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 56</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ Philippines (1909)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines còn tuyên bố, những bản đồ mà Philippines thống kê được vào năm 1918 đều có vẽ đảo Scarborough. Tra cứu 4 tập bản đồ do Philippines thống kê thì thấy, Scarborough chỉ xuất hiện trên hai tập bản đồ toàn quốc (Map of Philippines Islands và Relief map).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng cách vẽ của hai tập bản đồ này không chứng minh được Scarborough thuộc Philippines: thứ nhất, trên bản đồ có vẽ đường ranh giới điều ước, Scarborough nằm bên ngoài đường ranh giới này (giống như Hình 54); thứ hai, không dùng màu hoặc phương thức biểu thị nào cho thấy đảo Hoàng Nham thuộc Philippines; thứ ba, trong bản đồ cũng có vẽ đảo Đông Sa (Pratas) có màu và cách biểu thị giống như đảo Scarborough, nhưng Pratas rõ ràng không thuộc về Philippines. Trên bản đồ tỉnh Zambales lại không vẽ đảo Scarborough. Cũng có người nói rằng bản đồ thống kê dân số Philippines năm 1939 (Census of the Philippines) có thể hiện Scarborough. Tra cứu lại đại bộ phận tư liệu gốc trong 7 quyển 3 tập</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đều không phát hiện thấy cái gọi là bản đồ toàn thể Philippines, và bản đồ tỉnh Zambales (đảo Scarborough thuộc tỉnh này về mặt quy hoạch hành chính) cũng không có Scarborough. Theo tìm hiểu của tác giả về bản đồ Philippines thời đó thì dù có tấm bản đồ như vậy cũng chỉ là loại tương tự như bản đồ năm 1918, không có cách nào chứng minh ý đồ chủ quyền của Philippines đối với Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, trong khoảng thời gian 1937-1938, Philippines thời thuộc Mĩ đã từng tiến hành thảo luận chi tiết về vấn đề chủ quyền đảo Scarborough. Khi đó, để phòng trước một cuộc tấn công có thể xảy ra của Nhật Bản ở biển Đông, chính phủ đã thảo luận về việc liệu nước này có nên tuyên bố chủ quyền đối với đảo Scarborough và triển khai các lực lượng phòng thủ trên đó hay không. Cuối năm 1937, trợ lí hành chính (administrative assistant) Cao ủy Hoa Kì tại Philippines (US High Commissioner to the Philippines) Kha Y (Wayne Coy) đã tham khảo ý kiến của Cục trưởng Cục đo lường lục địa và bờ biển Mã Hách (Captain Thomas Maher): đã có nước nào tuyên bố chủ quyền rạn Hoàng Nham (Scarborough Shoal - 斯卡伯勒礁) hay không? Maher trả lời ông không có thẩm quyền xử lí những việc liên quan đến chủ quyền, nhưng ông biết rằng vào năm 1800 tàu Santa Lucia của Tây Ban Nha đã từng đo đạc rạn Scarborough: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu việc đo đạc này có thể giúp Tây Ban Nha có được chủ quyền, hoặc được các nước khác công nhận chủ quyền thì có vẻ rạn đá đó nên coi là thuộc lãnh thổ của Tây Ban Nha, và do đó được chuyển nhượng cho Mĩ theo Điều ước 7/11/1990</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vài tháng sau, Jorge B. Vargas, Bộ trưởng điều hành (Executive Secretary) của Tổng thống Philippines đã hỏi Wayne Coy về tình trạng chủ quyền bãi Scarborough, và đưa ra ý kiến: “Nếu phía Mĩ không phản đối thì Chính phủ Liên bang có thể sẽ tuyên bố chủ quyền (đảo này)”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Wayne Coy chuyển ý kiến này đến Bộ Ngoại giao Hoa Kì. Tháng 6, trong thư gửi Bộ trưởng Chiến tranh Ngũ Đức Lâm (Harry Woodring), Ngoại trưởng Mĩ Hi Nhĩ (Cordell Hull) viết: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài thông tin trong tài liệu đính kèm, Bộ Ngoại giao không có thông tin gì khác về mặt chủ quyền của rạn Scarborough. Dù rạn san hô này dường như nằm ngoài đường ranh vẽ theo Điều 3 của Điều ước Paris ngày 10/12/1898 giữa Mĩ và Tây Ban Nha, nhưng vì không có chính phủ nào khác tuyên bố chủ quyền đối với nó, nó có thể được coi là một trong các đảo được chuyển nhượng theo Điều ước Mĩ - Tây Ban Nha ngày 7/11/1900</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Ông cũng biểu thị thái độ không phản đối kế hoạch của chính phủ liên bang Philippines nghiên cứu giá trị của hòn đảo trước khi xem xét tuyên bố chủ quyền chính thức, đồng thời đề nghị Bộ Chiến tranh và Bộ Thương mại cũng tiến hành nghiên cứu giá trị của hòn đảo này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong những tháng tiếp theo, cả Bộ Chiến tranh và Bộ Thương mại đều tiến hành nghiên cứu việc này và biểu thị thái độ không phản đối kế hoạch đó. Tuy nhiên, ngay khi chính phủ liên bang Philippines chuẩn bị hành động thì Nhật Bản tấn công biển Đông và Trường Sa, Scarborough không còn giá trị chiến lược, và kế hoạch tuyên bố chủ quyền chính thức của Philippines đối với đảo Scarborough theo đó phải kết thúc ngang. Những bàn thảo trước đó chỉ được lưu hành trong nội bộ chính phủ dưới dạng một bản ghi nhớ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ và Philippines đã tốn gần một năm để nghiên cứu vấn đề Scarborough, hiệu quả có thể nói là không cao. Điều đó liên quan tới việc Mĩ luôn đánh giá thấp giá trị chiến lược của đảo Scarborough. Trọng tâm thảo luận của Mĩ và Anh thời đó về phòng thủ quân sự ở biển Đông là quần đảo Trường Sa và đã vài lần cùng bí mật tiến hành thăm dò khảo sát.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem xét cả quá trình bàn thảo thì thấy, mặc dù năm 1938, Philippines và Mĩ đã khẳng định về mặt pháp lí rằng đảo Scarborough có thể là lãnh thổ thuộc Philippines, nhưng trước đó Philippines cũng chưa xác định rõ đó là lãnh thổ của mình. Đây là điều nhất quán với việc đảo Scarborough không được vẽ trong tuyệt đại bộ phận bản đồ Philippines do Mĩ ấn hành.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu thảo luận đó, Mĩ và Philippines rõ ràng đều không biết rằng đảo Scarborough đã được Trung Quốc được đưa vào lãnh thổ của mình trong bản đồ mở mang cương vực năm 1935. Chính vì vậy mà các học giả Philippines tin rằng Philippines đã đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Scarborough và cũng đã được Mĩ tán đồng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng thực tế thì quá trình thảo luận đó chỉ giới hạn trong nội bộ chính phủ, không thể sánh ngang với các tài liệu công khai tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong Thế chiến II, Nhật Bản đã từng chiếm đóng Philippines. Trong thời kì Nhật chiếm, trên bản đồ do Nhật xuất bản, đảo Scarborough được xem như thuộc về Philippines. Chẳng hạn trong “Bản đồ phần đại Đông Á chuẩn” (Hình 41)</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> quần đảo Trường Sa (Nhật gọi là quần đảo Xinnan [Tân Nam]) và Philippines được tách bằng một đường đứt đoạn và hướng của đường đứt đoạn chắc chắn chỉ ra đảo Scarborough thuộc về Philippines. Nhưng sau Chiến tranh, dù là bản đồ do Mĩ hay Philippines xuất bản thì kiểu dáng của bản đồ Philippines đều được khôi phục như cũ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, nửa đầu thế kỉ XX, dù trên bản đồ do Mĩ hoặc Philippines xuất bản hoặc trong nhận thức của chính quyền thực dân Mĩ thì đảo Scarborough đều không thuộc Philippines. Trong quá trình chuyển giao Philippines từ Tây Ban Nha sang Mĩ, đảo Scarborough trên thực tế đã “bị đánh mất”. Mặc dù trong khoảng thời gian này, Philippines có xử lí một số việc thể hiện quyền quản lí đối với đảo Scarborough, nhưng lại chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền đối với nó. Đây chính là nguyên nhân căn bản dẫn đến tranh chấp đảo Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phần lớn các bản đồ Trung Quốc trước năm 1935 chưa có đảo Scarborough (xem Bản đồ năm 1934 do Thân báo xuất bản – Hình 57). Năm 1935, qua bản đồ mở rộng cương vực lần thứ nhất, đảo Scarborough đã được đưa vào lãnh thổ Trung Quốc với tên gọi “rạn Sīkǎbāluò (斯卡巴洛 [Tư-ca-ba-lạc]- phiên âm của Scarborough” như một phần của quần đảo Nam Sa (sau này là quần đảo Trung Sa) (xem phần II.8). Các bản đồ được xuất bản sau đó mới thêm đảo Scarborough vào (Xem Bản đồ năm 1936 do Thân báo xuất bản – Hình 58). Việc một cơ quan cấp dưới vốn chỉ là nơi chịu trách nhiệm thẩm định các ấn phẩm bản đồ lại khẳng định rằng Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough (và quần đảo Trường Sa) chỉ bằng cách liệt kê tên hòn đảo trong một ấn phẩm liệu có đáp ứng các yêu cầu của luật pháp quốc tế hay không, đó là vấn đề đáng đặt dấu hỏi. Hơn thế, Trung Quốc không hề thực thi hành động nào đối với đảo này sau đó. Như đã trình bày ở trên, ngay cả Mĩ là nước liên quan mật thiết trong thời kì đó cũng không biết (hoặc không cho rằng) Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 362px; overflow: hidden; width: 383px;"><img height="362" src="https://lh6.googleusercontent.com/hKcvQiMOls79aJJowjxiof3SessBJxIsuM3rQwO_f9TrulCGzzrf2-soqdImOshju8JCJ5pb1t20Y6A6Q38BhL0IQc2x1obCL0XggAe7CnfeU7R2Ltx-WJWjS5CioxovRyvAGb7tSgWAzEWA7JNUP7w" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="383" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 57</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: “THDQ tân địa đồ” do Thân báo xuất bản năm 1934</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1947, Trung Quốc thực hiện hành động “thu hồi” các đảo tại biển Đông, nhưng hành động “thu hồi” của Lâm Tuân cũng không đụng tới Scarborough. Năm 1948, Ty phương vực thuộc Bộ Nội chính của Chính phủ Quốc dân xuất bản “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ vị trí các đảo biển Đông</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, tiến hành mở rộng cương vực lần thứ hai, vẽ đường 11 đoạn, đảo Hoàng Nham nằm trong vùng có đường đứt đoạn đó. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành đặt tên mới cho các đảo, trong đó, đảo Scarborough được đổi tên thành rạn Dân Chủ. Nhưng về mặt kiểm soát hiệu quả, Chính phủ Dân quốc không những không thực hiện được việc thu hồi đảo Scarborough bằng hành động, mà ngay cả sau Thế chiến II, hải quân Mĩ đã sử dụng đảo Scarborough làm bãi bắn bia, tiến hành luyện tập định kì tại đây, chính phủ Dân quốc cũng không biểu thị thái độ phản đối. Tuy nhiên, quân đội Mĩ không quan tâm tới vấn đề chủ quyền của đảo Scarborough, khiến cho vấn đề chủ quyền của đảo này vẫn mơ hồ như trước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 421px; overflow: hidden; width: 441px;"><img height="421" src="https://lh6.googleusercontent.com/qxmhzh4bkUqkQ1P85zTFH6MWvVwAfHHPJzGUrIZUVeeffoW44nPk_0CTPSBna-3MgOWXRFefox9eZYQptnAbAkjd4Ugr3hN_mupzZ1NDq0D10GY9Klbv8XOpoXHZOsPc7i4LV5dwo5ZyRr34tYrITvU" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="441" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 58</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: “Bản đồ Quảng Đông” trong “Tập bản đồ Trung Quốc” do Thân báo xuất bản năm 1936 (tr.427 bản gốc)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi giành được độc lập, Philippines yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, nhưng trong các tuyên bố khác nhau từ năm 1946 đến những năm 1970, phạm vi lãnh thổ mà Philippines đề xuất vẫn không bao gồm đảo Scarborough. Một tư liệu năm 1974 của Cục Tình báo CIA Mĩ cũng xác nhận Philippines chưa có chủ quyền đối với đảo Scarborough.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mãi đến 11/6/1978, Philippines ban hành Lệnh 1599 về “Vùng đặc quyền kinh tế và mục đích của nó”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thì đảo Scarborough mới nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (xem </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 30</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Các bản đồ của Philippines xuất bản trước những năm 1990 cũng không vẽ Scarborough trong ranh giới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng điều đó không có nghĩa là Philippines không có hành động thể hiện chủ quyền đối với đảo Scarborough. Ngược lại, có một số ví dụ cho thấy rằng Philippines đã từng thực hiện quyền quản lí đối với đảo Scarborough từ năm 1946 đến đầu những năm 1990: </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Năm 1957, Philippines và Mĩ đã cùng đo đạc đảo Scarborough. Đồng thời, Mĩ cũng đã thông báo trước cho Đài Loan và Việt Nam, nhưng chỉ có Philippines là nước duy nhất tham gia hoạt động này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Năm 1947, Mĩ và Philippines kí kết “Hiệp ước về căn cứ quân sự” (1947 Military Bases Agreement).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, Philippines đã nhiều lần tham gia diễn tập ném bom trên đảo Scarborough cùng quân đội Mĩ. Từ những năm 1960-1980, mỗi lần tiến hành diễn tập, Philippines đều thông qua cơ quan sự vụ biển của Liên Hiệp quốc (UN International Maritime Organization) ra thông báo hàng hải (Notices to Mariners), yêu cầu tàu thuyền rời khỏi vùng biển xung quanh đảo Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Năm 1961, dưới sự chỉ huy của đại tá Antonio P. Ventura, Cục đo đạc đất đai và bờ biển Philippines (Philippines Coast and Geodetic Survey) tiến hành đo đạc và khảo sát Scarborough trong thời gian 4 ngày, và cũng lắp đặt thiết bị đo lường thủy triều và hải lưu trên một khối đá tại đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(4) Tháng 10/1963, hải quân Philippines phát hiện các nhóm buôn lậu từ Ma Cao và Đài Loan đã cấu kết với người Philippines lấy đảo Scarborough làm căn cứ để buôn lậu đến Philippines. Cách làm cụ thể là người buôn lậu Trung Quốc vận chuyển hàng hóa đến đảo Scarborough, sau đó người Philippines tiếp tục chuyển đến đảo Luzon. Do Philippines và Mĩ sơ suất trong phòng chống nên nhóm buôn lậu Trung Quốc và Philippines thậm chí còn xây dựng 2 kho chứa hàng và một số cơ sở cầu cảng. Philippines dùng không quân và hải quân tấn công, ném bom đảo Scarborough, bắt một số trong nhóm buôn lậu, và tiêu hủy những công trình xây dựng trên đảo (Hình 59 – phía trên, bên phải).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(5) Các vụ buôn lậu tương tự đã bị phát hiện vào tháng 3/1964. Philippines quyết định tăng cường tuần tra đảo Scarborough. Năm 1965, Philippines dựng cột cờ cao hơn 8m trên đảo và treo cờ Philippines, đồng thời xây dựng một trạm đèn biển. Từ đó về sau, hoạt động buôn lậu qua đảo Scarborough giảm đi rất nhiều.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(6) Năm 1992, sau khi Mĩ rút quân khỏi Vịnh Subic, Philippines xây dựng lại trạm đèn biển ngay trong năm đó, và báo cáo cho Tổ chức Hàng hải Quốc tế để đăng kí.. Tàu quân sự và cảnh vệ Philippines liên tục tuần tra tại đảo Scarborough và các vùng biển lân cận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 388px; overflow: hidden; width: 449px;"><img height="388" src="https://lh3.googleusercontent.com/NX7CgHq79SMWa0PPCXAbMVj311XLCRUMjXEslHLg__S7IkcDGBPNrZL7ikYJB8Q9BqGhn4iHuwlX21D9na9uejZmTbjMy-x3uj96cF9foWaS-RIxOIyKaJk4csq0souG57Q5mqtRqElR337D0dQU0Hk" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="449" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 59</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ghi chép hoạt động của Philippines tại Hoàng Nham thời kì đầu sau Thế chiến II</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- Bản đồ trong “Philippine Fisheries” năm 1952 (bên trái);</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- Những ghi chép về đảo Scarborough (bên phải, phía dưới);</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- Báo địa phương đưa tin công trình xây dựng của nhóm buôn lậu bị tiêu hủy (bên phải, phía trên).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những sự việc đó cho thấy sau Thế Chiến II, Philippines Philippines đã kiểm soát hiệu quả đảo Scarborough và thể hiện chủ quyền của mình đối với nónó. Chính phủ Trung Quốc (cả Đài Loan lẫn Đại lục) đều không phản đối những hành động kể trên của Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần phải chỉ ra rằng mặc dù Philippines đã kiểm soát Scarborough ở mức độ cao, nhưng do đảo nằm xa nội địa nên Philippines quản lí không nghiêm ngặt, Nhìn chung, Philippines không kiểm soát được hoạt động đánh bắt cá của ngư dân các nước khác tại vùng Scarborough (đây là lí do tại sao nó được sử dụng làm căn cứ cho buôn lậu). Tuy nhiên, những hành động mà Philippines thực hiện có thể được coi như một cách quản lí hiệu quả.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, ngư dân Philippines có mối quan hệ mật thiết với đảo Scarborough hơn ngư dân Trung Quốc. Theo như các tài liệu ghi chép có liên quan, Philippines đã ghi đảo Scarborough là ngư trường của người Philippines trong thống kê nghề cá đầu những năm 1950 (Philippines Fisheries, 1952, 1953) (Hình 59, bên phải, phía dưới), bản đồ nghề cá cũng có vẽ đảo Scarborough trong đó (Hình 59, bên trái).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó cũng có những chứng cứ về hoạt động liên tục của ngư dân ở vùng đó.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trái lại, không có ghi chép nào về việc ngư dân Trung Quốc đến đảo Scarborough trong sách “Canh lộ bạ”. Sau giải phóng, Trung Quốc có lệnh cấm đánh bắt cá dài hạn ở biển Đông cho đến năm 1984 mới kết thúc, ngư dân Trung Quốc mới đến đảo Scarborough để đánh bắt cá sau đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước khi Cách mạng văn hóa kết thúc, cả Đại lục lẫn Đài Loan đều không có ghi chép gì về đảo Scarborough. Sau Cách mạng văn hóa, Trung Quốc có ý đồ khai thác biển Đông. Tháng 10/1977 và tháng 6/1978, Viện Nghiên cứu Hải dương Nam Hải thuộc Viện Khoa học Trung Quốc đã hai lần tổ chức hoạt động nghiên cứu tại Scarborough. Tháng 4/1985, đoàn khảo sát tổng hợp do chi cục biển Đông thuộc Cục Hải dương quốc gia tổ chức đã đến đảo Scarborough tiến hành hoạt động khảo sát tổng hợp. Năm 1994, đoàn khảo sát khoa học biển Đông đến khảo sát đảo Scarborough. Các hoạt động khảo sát này không xin phép Philippines nhưng cũng không vấp phải trở ngại nào. Thậm chí trong cuộc khảo sát năm 1994, các nhà khoa học Trung Quốc còn dựng bia xi măng kỉ niệm cao 1m trên đảo làm vật biểu tượng của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, năm 1984, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo ở biển Đông, qua văn kiện công khai đổi tên rạn Dân Chủ thành đảo Hoàng Nham.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Philippines không có phản ứng trước việc này. Cũng tương tự như vấn đề hai bản đồ mở rộng cương vực: nếu nước ngoài không phản ứng kịp thời những văn kiện đã được phát hành công khai ở Trung Quốc nhưng không được thông báo chính thức về mặt ngoại giao, thì liệu điều đó có tương đương với việc ngầm thừa nhận những nội dung những văn kiện này không? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines có thái độ khác nhau đối với vấn đề đảo Scarborough và quần đảo Trường Sa, có lẽ xuất phát từ những nguyên nhân sau:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trước năm 1992, đảo Scarborough thực tế do Mĩ và Philippines chiếm đóng và sử dụng, không có tranh chấp (rõ ràng). Nói một cách nghiêm ngặt, trước năm 1992, trong những dịp khác nhau, Trung Quốc có nêu rõ chủ quyền đối với “quần đảo Trung Sa”, nhưng định nghĩa về “quần đảo Trung Sa” của quốc tế và Trung Quốc không giống nhau, hơn nữa Trung Quốc cũng không chính thức thương thảo với Mĩ và Philippines về vấn đề chủ quyền, Philippines thậm chí có thể không biết cái gọi là “đảo Hoàng Nham” chính là bãi cạn Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đảo Scarborough quá nhỏ để có đủ điều kiện để có vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước quốc tế. Ngay cả hiện nay, không thấy nó có giá trị nào khác ngoài ngư nghiệp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Philippines còn có một lập luận cho rằng, đảo Scarborough là một phần của căn cứ hải quân Vịnh Subic cho thuê; năm 1992, khi quân Mĩ rút đi đã trao trả đảo Scarborough cho Philippines.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, kiểu lập luận này không có căn cứ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chủ quyền đảo Scarborough luôn trong luôn trong tình trạng mơ hồ. Sau năm 1992, Philippines tăng cường kiểm soát Scarborough, bắt đầu tuần tra thường xuyên đảo này. Năm 1994, sau khi “Công ước Luật biển quốc tế” có hiệu lực, Philippines công bố quyền quản lí các vùng biển xung quanh đảo Scarborough. Nhưng tại thời điểm đó, Philippines vẫn chưa tuyên bố chủ quyền đối với đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện đá Vành Khăn lần thứ nhất, cục diện biển Đông giữa Trung Quốc và Philippines trở nên hết sức căng thẳng. Tuy vậy, tình trạng đó gần như không liên quan trực tiếp đến đảo Scarborough vốn nằm cách xa quần đảo Trường Sa. Các sự kiện trực tiếp châm ngòi cho cuộc tranh cãi bắt đầu từ các tổ chức phát thanh nghiệp dư. Trước khi giao lưu mạng thịnh hành thì liên lạc qua sóng vô tuyến là một cách để kết bạn với người ở xa, không quen nhưng có chung sở thích trên khắp thế giới, và luôn được được những người yêu thích ưa chuộng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Liên lạc đường dài (distant communication hoặc DX) qua đài phát sóng ngắn là một loại hoạt động truyền thống của những người yêu thích sử dụng sóng vô tuyến. DXCC là một tổ chức quốc tế của những người yêu thích sóng vô tuyến nghiệp dư, tổ chức này chia thế giới thành nhiều “quốc gia DXCC” (DXCC country). Những “quốc gia” này không nhất thiết là quốc gia thực mà có thể chỉ là một quốc gia ảo, mô phỏng. Chẳng hạn như Mĩ có 4 “quốc gia” DXCC (Đất liền, Hawaii, Midway và Alaska). Cả thế giới có hơn 300 “quốc gia” DXCC. Nếu như một người ưa thích (hoặc một hiệp hội) nào đó liên lạc được với 100 “quốc gia” DXCC qua vô tuyến thì có thể đăng kí xin chứng nhận và được xếp hạng từ nhà quản lí của Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ. Càng liên lạc được nhiều “quốc gia” thì thứ hạng càng cao. Đến những năm 1990, quy tắc này đã trở nên “bão hòa”, chỉ có phát triển thêm “quốc gia” DXCC mới thì thứ hạng mới được nâng lên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, việc thiết lập các đài phát thanh ở những nơi xa hơn rồi yêu cầu công nhận “quốc gia” DXCC mới đã trở thành một xu hướng nóng được những người ưa chuộng vô tuyến theo đuổi lúc bấy giờ. Đảo Scarborough vì thế đã lọt vào tầm ngắm của người say mê vô tuyến. Do Scarborough là vùng đất xa xôi hẻo lánh, lại chưa từng thiết lập trạm phát sóng vô tuyến nên nếu thiết lập trạm vô tuyến tại đó thì sẽ có tư cách để trở thành “quốc gia” DXCC mới. Nhưng muốn thiết lập trạm vô tuyến thì phải tiến hành “viễn chinh” đến đó. Đây chính là bối cảnh của cuộc Dxpedition (viễn chinh DX) tại đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chú ý đến đảo Scarborough sớm nhất không phải người say mê vô tuyến Trung Quốc. Dieter, một người Đức thuộc Tổ chức DX Châu Âu, có lẽ là người có hành động thực tế đầu tiên. Năm 1990, ông đã thăm dò Lãnh sự quán Trung Quốc và Philippines về vấn đề chủ quyền đảo Scarborough và việc thiết lập trạm vô tuyến. Nghe nói, đại sứ Philippines tại Đức, Bỉ an Phất Cát Ni (比安弗吉尼: Bienvenido Tan?), đã viết thư cho Dieter vào ngày 5 tháng 2 năm 1990, nói rằng:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo bản đồ quốc gia và Bộ Thông tin Tài nguyên Philippines thì đảo Scarborough không thuộc phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Còn Đại sứ quán Trung Quốc phê chuẩn đơn xin lập trạm vô tuyến của Dieter, nhưng rốt cục Dieter không thực hiện được chuyến đi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, Dieter không phải là người duy nhất nghĩ đến việc thiết lập trạm vô tuyến trên đảo Hoàng Nham. Một người Đức say mê vô tuyến khác là Hans, đã gửi đơn đề nghị đến Hiệp hội vô tuyến điện nghiệp dư Mĩ ngày 6/10/1993, yêu cầu liệt kê đảo Scarborough là một ‘quốc gia’ DXCC mới. Tháng 3/1994, Dieter lại một lần nữa đệ đơn tới Đại sứ quán Trung Quốc và nhận được phê chuẩn. Nhưng, đối thủ cạnh tranh khác là Martti (Martti, OH2BH/VR2BH), người Phần Lan đã đi trước một bước, thuê máy bay tại Manila đến đảo Hoàng Nham quan sát từ trên không vào tháng 4/1994, ảnh chụp cho thấy các tảng đá lộ trên mặt nước quá nhỏ, việc tác nghiệp hết sức khó khăn. Dieter vì thế đã nản lòng. Nhưng Martti không thối chí, ông tìm gặp và hợp tác với Mizoguchi, một người Nhật có quan hệ rất thân thiết với giới vô tuyến Trung Quốc. Nhờ sự móc nối của ông này, tháng 5/1994, hai người đã đến thăm Hiệp hội vô tuyến Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi đó, hoạt động vô tuyến nghiệp dư của Trung Quốc mới trong trạng thái khởi đầu, trong nước hầu như không có người am hiểu về những việc liên quan đến DXCC, đương nhiên cũng không biết gì về việc chạy đua xây dựng trạm vô tuyến trên đảo Hoàng Nham. Mặc dù mối giao tiếp giữa Martti và Mizoguchi đem lại cảm hứng cho phía Trung Quốc, nhưng theo Hiệp hội phong trào vô tuyến Trung Quốc thì “người nước ngoài không thể độc lập thiết lập các trạm vô tuyến nghiệp dư ở Trung Quốc”. Vì vậy hai bên quyết định thành lập đội viễn chinh DX Liên hiệp quốc tế. Sau khi biết việc này, giới lãnh đạo Trung Quốc đã có phản ứng hết sức tích cực. Chủ nhiệm Ủy ban Thể thao Ngũ Thiệu Tổ đã khẩn trương phê duyệt phương án (Hiệp hội hoạt động vô tuyến trực thuộc Ủy ban Thể thao), Ban quản lí vô tuyến phê chuẩn việc thành lập và sử dụng trạm vô tuyến nghiệp dư tại đảo Scarborough, có số hiệu là BS7H. Đồng thời Bộ Ngoại giao cũng phê chuẩn đơn xin đến đảo Scarborough của các thành viên người nước ngoài</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (xem hình 60). Toàn bộ quá trình phê duyệt chỉ mất hai tuần lễ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chủ nhiệm Hiệp hội vô tuyến Trung Quốc Trần Bình là người Trung Quốc duy nhất tham gia trong đội Liên hiệp viễn chính, và cũng là đội trưởng. Để có thể xây dựng mặt bằng trên rạn đá phù hợp với tiêu chuẩn trở thành “quốc gia” DXCC, một người Nhật có kinh nghiệm xây dựng trạm vô tuyến trên rạn đá </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Okinotori</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">được mời tham gia thực hiện.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, đội Liên hiệp viễn chinh bao gồm 8 thành viên của 6 nước: Trung Quốc, Phần Lan, Mĩ, Đức, Nhật Bản, Philippines. Điều thú vị là, họ không xuất phát từ Trung Quốc, cũng không sử dụng tàu Trung Quốc mà thuê tàu quan trắc của Papua New Guinea (M/V Tabibuga, với thuyền trưởng là người Úc), tháng 6/1994 xuất phát từ Subic Philippines, đến đảo Scarborough vào 25/6, xây dựng trạm vô tuyến và liên lạc với điện đài trụ sở Hiệp hội vận động vô tuyến Trung Quốc BY1PK, hoàn thành chuyến viễn chinh.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng khi xây dựng trạm vô tuyến điện ở Scarborough, bốn cột của sàn trạm không nằm trên đá mà ở dưới nước biển, không được coi là thao tác trên mặt đất, vì thế đảo Scarborough không được liệt vào danh sách “quốc gia” DXCC. Vì vậy đội Liên hiệp viễn chinh lại chuẩn bị chuyến viễn chinh lần thứ hai, được Ủy ban Thể thao quốc gia, Ban quản lí vô tuyến và Bộ Ngoại giao Trung Quốc phê chuẩn như lần trước (xem hình 60). Tháng 4/1995, Đội Liên hiệp viễn chinh lại đến Scarborough, vẫn sử dụng tàu M/V Tabibuga lần trước, xuất phát từ Philippines.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 233px; overflow: hidden; width: 295px;"><img height="233" src="https://lh5.googleusercontent.com/niaM8J-7QLEzmlrgpEomsN1N6Bc0cd5gYkgfru0eSi2ksW6tdOBd3r1u9KDb5QnymzK0ho-Ufekc6BHmI9l7ZnB82LU8i0Z60RHeqYzK9Xyjd__KqyCHEUwN7onO5-viqWZAiT0wVjGqZGEPgbMdfcU" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="295" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hì</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nh 60</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Văn kiện của Trung Quốc phê chuẩn việc đổ bộ lên bãi cạn Scaborough</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lần này họ thiết lập sàn trạm rất cẩn thận, đáp ứng yêu cầu của Hiệp hội vô tuyến Mĩ. Tuy nhiên, thiết bị thông tin lại gặp sự cố (điện áp máy phát điện quá thấp), khiến các đài nghiệp dư ở bờ biển phía đông nước Mĩ, nơi đặt trụ sở của Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ, không thể nhận được tín hiệu. Thêm vào đó, Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ lại mới thông qua “nguyên tắc lãnh thổ nhỏ nhất”, tham chiếu với quy định 121 “Công ước Luật biển quốc tế” thì chỉ những đảo nào có thể duy trì sự sống của con người mới đủ tư cách trở thành quốc gia DXCC. Quy định mới này đã loại trừ đảo Scarborough ra ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, do đơn xin của đảo Scarborough gửi trước khi có quy định trên nên quy định này có áp dụng đối với Scarborough hay không vẫn là diều tranh cãi. Thoạt đầu, đơn xin trở thành quốc gia DXCC của Scarborough bị từ chối. Tháng 1/1996, phái đoàn Trần Bình đến Mĩ, ra sức tranh cãi trong Hội nghị DX tại Mĩ. Cuối cùng, sau khi thẩm tra các đơn liên quan và các tài liệu về chủ quyền nêu trên do giới vô tuyến nghiệp dư Trung Quốc gửi tới, ngày 23/1, Hiệp hội vô tuyến điện nghiệp dư Mĩ ra thông báo, chính thức đưa đảo Hoàng Nham – đại diện cho Trung Quốc, là quốc gia DXCC.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong miêu tả của phía Trung Quốc (chủ yếu là lời Trần Bình), có không ít điểm mơ hồ về chuyến viễn chinh 1994, chẳng hạn như tại sao lại có sự tham gia của các thành viên Mĩ và Philippines (Tim và KJ4HV)?</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tại sao lại xuất phát từ Philippines? Việc giao lưu với Philippines như thế nào?</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc Ban Quản lí vô tuyến, Ủy ban Thể thao Quốc gia và Bộ Ngoại giao của Trung Quốc đã phê duyệt các đơn liên quan hai lần,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cho thấy ý định chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Scarborough, phù hợp với thái độ của Trung Quốc đối với đảo Hoàng Nham, và cũng trở thành chứng cứ cho việc Trung Quốc quản lí đảo Scarborough. Hơn nữa, trong những vấn đề liên quan đến chủ quyền Scarborough, Trần Bình tuyên bố rằng ông đã thu thập rất nhiều tư liệu có liên quan vào lúc đó. Ba trong số đó có giá trị đặc biệt và có thể được coi là bằng chứng cho thấy Philippines đã phủ nhận chủ quyền của mình đối với đảo Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tư liệu thứ nhất là bức thư do Đại sứ Philippines tại Đức viết gửi cho Dieter ngày 5/2/1990, trong đó nói rõ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo bản đồ và Bộ Thông tin tài nguyên Philippines, đảo Scarborough không nằm trong phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tư liệu thứ hai là thư xác nhận của Bộ Tài nguyên thiên nhiên và Môi trường Philippines gửi Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ ngày 28/2/1994: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biên giới lãnh thổ và chủ quyền Philippines được quy định theo khoản 3 Điều ước Paris, kí ngày 10/12/1898, đảo Scarborough nằm ngoài biên giới lãnh thổ của Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tư liệu thứ ba là thư của Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Philippines gửi Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Với tinh thần vô tuyến nghiệp dư, ủng hộ việc coi đảo Scarborough là một thực thể DXCC mới của Trung Quốc</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc nhấn mạnh hai tư liệu đầu đều có thể chứng minh Philippines không có chủ quyền đối với đảo Scarborough.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việc Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ coi đảo Scarborough là “quốc gia DXCC” của Trung Quốc cũng được một số người coi là một căn cứ về việc quốc tế công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Scarborough.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng trên thực tế, dù Hiệp hội vô tuyến nghiệp dư Mĩ hay Philippines thì cũng chỉ là hiệp hội mang tính nghiệp dư, không phải là bộ máy nhà nước, mọi quyết định đều không có hiệu lực chính thức.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thư do Đại sứ Philippines tại Đức viết gửi Dieter và thư xác nhận của Bộ Tài nguyên thiên nhiên và Môi trường Philippines gửi Hiệp hội vô tuyến điện nghiệp dư Mĩ là chứng cứ rất chắc chắn và có hiệu lực pháp lí mạnh mẽ. Nhưng, có điều khó lí giải là cả hai tư liệu đó không quá xa xưa, lại có hiệu lực pháp lí đến mức như vậy, và dù giới ưa chuộng vô tuyến có tuyên bố là đã thu thập được hai lá thư đó vào năm 1994,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng lại chưa hề được đưa ra công khai. Không những thư gốc mà ngay cả bản tiếng Anh gốc cũng chưa được công khai. Thông tin liên quan chỉ là từ báo chí Trung Quốc tường thuật lại. Vì thế, hai bức thư đó có tồn tại hay không vẫn còn là điều nghi vấn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai lần viễn chinh đầu không gây tranh cãi, thuyền viên cũng không gặp cản trở nào từ Philippines khi đổ bộ lên đảo Scarborough. Nhưng lần đổ bộ thứ ba đã gây ra tranh chấp đối với đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí do là, dù đảo Scarborough đã được thừa nhận là “quốc gia” DXCC nhưng thiết bị trạm điện trong lần đổ bộ thứ hai lên đảo lại gặp trục trặc, do vậy mới có chuyến đổ bộ thứ ba. Khi đó, Martti người Phần Lan đã nhụt chí lên đảo, vì thế mà công tác tổ chức viễn chinh lần thứ ba mới chuyển sang tay người Trung Quốc. Thành viên trong đoàn viễn chinh này có 3 người Trung Quốc, 3 người Mĩ và 2 người Nhật Bản. Trần Bình không đích thân tham gia viễn chinh mà chỉ đảm nhận vai trò người tổ chức. Điểm xuất phát lần này đổi sang Quảng Châu và sử dụng tàu hải giám Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo tường thuật của người tổ chức Trần Bình thì lí do của cách sắp xếp như vậy là vì xuất phát từ Trung Quốc sẽ có ý nghĩa hơn nên đã tìm người quen liên lạc với Cục Hải dương quốc gia.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mâu thuẫn ở chỗ, ông ta cảm thấy tàu hải giám sức chứa 45 người là quá lớn, không phù hợp (thành viên đội vô tuyến chỉ có 11 người), nhưng Cục Hải dương đã điều hai chiếc tàu hải giám (số 74 và 72) đến đảo Scarborough trước. Với một thế trận như vậy, thật khó để không cảm thấy rằng chuyến đi này không có sự sắp đặt sẵn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4/1997, đội viễn chinh xuất phát từ Quảng Châu, và cố gắng thiết lập một trạm vô tuyến trên đảo Scarborough lần thứ ba. Chỉ hai ngày trước khi xuất phát (28/4), Philippines thông báo phát hiện thấy 3 chiếc tàu hải quân Trung Quốc trên đá Vành Khăn và nêu kháng nghị với phía Trung Quốc. Tình hình biển Đông lại trở nên căng thẳng. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoàn tàu đến đảo Scarborough vào ngày 30/4. Ngay khi lên đảo lắp đặt thiết bị thì hai chiếc máy bay Philippines bay đến trinh sát ở độ cao rất thấp, “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tựa như rà sát trên đầu các thành viên trong đoàn viễn chinh</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Thành viên đội vô tuyến không để tâm và vẫn tiếp tục tiến hành lắp đặt thiết bị. Nhưng, theo lời kể của họ, tất cả đều không hề chuẩn bị tâm lí trước tình huống căng thẳng đó nên cảm thấy vô cùng bất ngờ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 1/5, một tàu tuần tra của hải quân Philippines đến đảo. Quân lính Philippines đã lên cả 3 bãi đá xây dựng trạm vô tuyến để kiểm tra thiết bị và hỏi mục đích đến đảo của đội viễn chinh. Theo lời kể của một người có mặt trên đảo thì thái độ của người Philippines hết sức thiện chí, thậm chí còn phát thuốc cho những người không quen sóng gió ngoài đảo. Sau khi trao đổi với đội vô tuyến và đội tàu của Cục Hải dương Trung Quốc, người chỉ huy quân Philippines tuyên bố, nơi đó là vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Thuyền viên tàu Hải dương Trung Quốc phản bác, cho đó là lãnh thổ của Trung Quốc, vùng phụ cận 12 hải lí là lãnh hải Trung Quốc. Chỉ huy quân Philippines không đồng tình với lí giải của phía Trung Quốc. Điều đáng nói là, theo lời kể của các thành viên đội viễn chinh lên đảo, sĩ quan chỉ huy Philippines thừa nhận Philippines chưa từng có chủ trương chủ quyền đối với đảo đá này.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đồng thời, sĩ quan chỉ huy này tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến việc liệu những thiết bị được đưa đến đảo có ảnh hưởng tới hoạt động ngư nghiệp hay không. Sau khi hải quân Philippines tiến hành kiểm tra thiết bị và xác nhận không ảnh hưởng đến hoạt động ngư nghiệp, quân lính Philippines đã rời khỏi đảo. Tuy nhiên, trước khi rời đi, họ đã nhắc lại, khu vực đó là vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tàu bè Trung Quốc có thể đi qua, nhưng không được phép dừng lại quá lâu tại bất cứ điểm nào.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù tàu Philippines rời khỏi, nhưng không đi xa mà vẫn tiến hành tuần tra tại vùng biển đó. Ngày thứ hai, tàu Philippines đến nhiều hơn, thậm chí còn có cả thợ lặn xuất hiện. Mặc dù hai bên không xảy ra xô xát trong suốt quá trình tiếp cận nhưng chỉ huy tàu của Cục Hải dương vẫn quyết định quay về, kế hoạch hành động theo dự kiến ban đầu 7 ngày (có thông tin nói là 6 ngày) bị rút xuống chỉ còn 3 ngày là kết thúc. Trước khi quay về, đội tàu đã cắm cờ Trung Quốc trên đảo.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chuyến viễn chinh lên đảo lần thứ ba vấp phải sự can thiệp của tàu Philippines, dẫn đến tranh chấp về chủ quyền đảo Scarborough. Điều này cho thấy Philippines thực sự kiểm soát vùng biển xung quanh đảo Scarborough, đồng thời nó cũng phản ánh những lí do khiến Philippines có thái độ khác nhau đối với hai lần lên đảo trước so với lần thứ ba, có thể liên quan đến quốc tịch và điểm xuất phát của các tàu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vài hôm sau, ngày 9/5/1997, Trường Sa lại “dậy sóng”. Ba nghị viên Philippines đáp máy bay ra thị sát đảo Trung Nghiệp (đảo Thị Tứ), khiến quan hệ Trung Quốc – Philippines trở nên căng thẳng, không khác gì đổ thêm dầu vào lửa trong sự kiện Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13/5, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa kháng nghị đến Philippines. Bộ trưởng Ngoại giao Philippines D. Siazon, Jr. đã phản bác: đó vốn là vùng nước của chúng tôi. Đồng thời, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines cũng tuyên bố đảo Scarborough thuộc Philippines vì nó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Philippines. Trung tuần tháng 5, hai nghị viên Quốc hội Philippines lên đảo Scarborough nhổ cờ Trung Quốc, cắm cờ và cột mốc Philippines trên đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 20/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Thẩm Quốc Phóng tuyên bố: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Hoàng Nham từ xưa đến nay đều là lãnh thổ của Trung Quốc, điều đó đã được xác định từ rất lâu rồi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 21/5, Tổng thống Philippines Ramos đã thể hiện lập trường cứng rắn trong cuộc họp báo rằng: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines có chủ quyền để thăm dò và khai thác tài nguyên trên đảo Scarborough, nó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của chúng tôi</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kể từ đó, cuộc tranh giành đảo Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines chính thức mở màn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 20/5, hải quân Philippines bắt giữ tàu đánh cá Đài Sơn “62098” của Trung Quốc tại vùng biển gần đảo Scarborough, bắt giữ 21 ngư dân Trung Quốc, cáo buộc những người này xâm nhập lãnh thổ trái phép. Hai nước sau đó đã lao vào cuộc đấu ngoại giao về vấn đề ngư dân. Khi đó, Philippines nghĩ tới Mĩ, quan chức và chính khách đều hô hào tăng cường Điều ước quân sự Mĩ - Philippines. Tuy nhiên, Mĩ còn rất bực tức trước việc nước này vừa bị trục xuất khỏi căn cứ ở Vịnh Subic, cho rằng đã rất hài lòng với Điều ước, sẽ không thực hiện sửa đổi, đồng thời thể hiện việc khuyến khích các bên giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng, tòa án Philippines không thể đưa ra phán quyết “nhập cảnh trái phép” vì ngư dân (Trung Quốc) bị bắt trong vùng đặc quyền kinh tế chứ không phải trong lãnh hải, do đó không cấu thành tội “nhập cảnh trái phép”. Sự việc kết thúc trong quên lãng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước năm 1997, tình trạng của đảo Scarborough thu hút nhiều sự chú ý. Trung Quốc thản nhiên nhận đảo Hoàng Nham (Scarborough) thuộc lãnh thổ của mình không hề thắc mắc, và Philippines cũng coi khu vực xung quanh đảo Scarborough là vùng biển riêng do mình quản lí. Trong tranh chấp đảo Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines, Trung Quốc thường chỉ ra rằng Bộ trưởng Ngoại giao Philippines thừa nhận “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo Hoàng Nham là vấn đề mới xuất hiện giữa Trung Quốc và Philippines</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, điều này cho thấy yêu sách của Philippines đối với đảo Hoàng Nham là “mới”. Nhưng, ý của Ngoại trưởng Philippines lại là trước kia Philippines chưa bao giờ nhận thấy Trung Quốc có chủ trương về lãnh thổ đối với Scarborough, trong khi Scarborough luôn nằm trong sự kiểm soát của Philippines, vì vậy đây là một tranh chấp chủ quyền “mới”.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó, Scarborough trở thành chiến trường mới giữa Trung Quốc và Philippines. Philippines tăng cường hoạt động tuần tra và quản lí ngư nghiệp tại vùng đảo này. Ngày 11/1/1998, hải quân Philippines bắt giữ tàu cá Quỳnh Hải “00372” và “00472” cùng 22 thuyền viên trong vùng biển đảo Scarborough. Ngày 11/3, Philippines bắt giữ thêm tàu cá Trung Viễn “311” và “313” cùng 29 thuyền viên tại vùng biển gần đảo Scarborough. Ngày 23/5/1999, tàu Quỳnh Hải “03091” và “03082” bị tàu chiến Philippine “47” xua đuổi, truy đuổi, đâm vào trong 2 giờ đồng hồ. Sau 3 lần va đập, tàu cá Quỳnh Hải “03091” bị đâm chìm, tàu chiến Philippines bắt giữ 3 ngư dân Trung Quốc bị rơi xuống biển. Ngày 19/7/1999, hải quân Philippines lại xua đuổi, truy đuổi và đâm chìm tàu Quỳnh Hải “03061” tại vùng biển gần đảo Scarborough, khiến hơn 10 thuyền viên rơi xuống nước, được tàu cá khác của Trung Quốc vớt được. Ngày 3/11/1999, Philippines điều tàu chiến truy đuổi 3 tàu cá Quỳnh Hải của Hải Nam đang trú bão trên đảo Scarborough. Sau khi đại sứ quán Trung Quốc tại Philippines đàm phán khẩn cấp, tàu hải quân Philippines mới dừng truy đuổi. Ngày 6/1/2000, tàu Hải quân Philippines tiến hành xua đuổi 6 tàu cá Trung Quốc trong vùng biển gần đảo Scarborough. Ngày 15/1, tàu chiến Philippines “11” lại xua đuổi tàu cá Quỳnh Hải “01008” và “02022” gần đảo Scarborough. Ngày 25/1, 4 tàu cá trong đó có Quỳnh Hải “09097" bị nhân viên tàu hải quân Philippines “70” lên tàu kiểm tra và thu giữ tài sản. Ngày 5/2, tàu hải quân Philippines bắn cảnh cáo tàu cá Trung Quốc đang hoạt động tại vùng biển gần Scarborough, buộc tàu cá Trung Quốc phải cho nhân viên tàu lên kiểm tra và thu giữ sản phẩm đánh bắt của ngư dân Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 14 tháng 3 năm 2000, Philippines đổ bộ lên đảo lục soát 10 tàu đánh cá của Trung Quốc, thu giữ một số lượng lớn trai khổng lồ cùng kíp nổ và thuốc nổ dùng đánh nổ san hô.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 1/9/2002, tàu hải quân Philippines bắt giữ 4 tàu cá và 14 ngư dân Trung Quốc trên đảo Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tàu chiến Philippines còn tiến hành hoạt động quân sự trên vùng biển gần đảo Scarborough. Ngày 3/11/1999, tàu chiến Philippines lấy lí do “mắc cạn” để “neo đậu” tại Scarborough, nói ước chừng 1 tháng sau mới rời đi (xem phần sau).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 28/3/2001, pháo hạm Philippines đóng tại đảo Scarborough.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, nghị sĩ Philippines còn lên đảo với tư cách thành viên quốc hội.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong những sự kiện kể trên, mặc dù Trung Quốc đều có phản đối bằng lời, nhưng không có hành động thực tế. Trước năm 2012, không hề có một tàu công vụ hay tàu hải quân nào tiến vào vùng biển đảo Scarborough. Chính Trung Quốc cũng thừa nhận, trước năm 2012, Philippines kiểm soát thực tế đảo Scarborough.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 5/1999, Philippines xuất bản bản đồ mới, vẽ đảo Scarborough trong biên giới của Philippines. Năm 2009, Philippines thông qua luật số 2699 của Thượng viện và luật số 3216 của Hạ viện, chính thức đưa đảo Scarborough vào bản đồ lãnh thổ theo luật pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện bãi rạn Mĩ Tế (đá Vành Khăn) lần thứ hai</span><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau tranh chấp về đảo Scarborough, giữa Trung Quốc và Philippines lại xảy ra sự kiện đá Vành Khăn lần thứ hai. Trung Quốc không thỏa mãn với việc xây dựng nhà giàn dân dụng trên đá Vành Khăn. Năm 1995, Trung Quốc xây dựng nhà giàn thế hệ hai, dùng làm chỗ trú đóng đơn giản cho người canh gác nhằm kiểm soát đảo chứ không thể sử dụng được cho mục đích quân sự. Tiếp đó, Trung Quốc có ý muốn xây dựng đá Vành Khăn thành tiền đồn quân sự. Bắt đầu từ năm 1998, Trung Quốc tiến hành xây dựng trên đá Vành Khăn “nhà giàn” thế hệ ba, được coi là “lô cốt bãi cạn” – một kết cấu xi măng cốt thép lớn trên bãi ngầm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hành động của Trung Quốc gây sự chú ý của Philippines. Tháng 10/1998, trong một lần trinh sát đá Vành Khăn, Philippines chụp ảnh được công trình đang xây dựng. Ngày 5/11, Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Kadai (卡戴: Ca Đái) triệu tập Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Quan Đăng Minh để phản đối việc tàu vũ trang Trung Quốc xâm chiếm đá Vành Khăn. Cùng ngày, người phát ngôn Phủ Tổng thống Philippines phát biểu trong một cuộc họp báo:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi biết Trung Quốc đang tiến hành xây dựng một số công trình trên đá Vành Khăn, đồng thời phái một số tàu hải quân đến đó, bao gồm 2 tàu hải quân có bãi đỗ cho trực thăng. Bộ trưởng Bộ quốc phòng Philippines cho rằng việc Trung Quốc tăng cường các công sự trên đá Vành Khăn vượt quá hoạt động mang tính chất kinh tế, thể hiện rõ sự uy hiếp của Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Philippines. Philippines yêu cầu Trung Quốc dỡ bỏ các công trình đang xây dựng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại sứ quán Trung Quốc tại Philippines trả lời: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do các yếu tố tự nhiên không thể chống lại được 1995 các cơ sở trú ẩn nói trên đã bị hư hại nghiêm trọng, và cơ quan quản lí ngư nghiệp địa phương của Trung Quốc đã phải tiến hành việc sửa chữa và củng cố cần thiết cho các cơ sở ban đầu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc Trung Quốc sửa chữa và củng cố các cơ sở trú ẩn cần thiết và thích hợp trên rạn Mĩ Tế nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, và nó hoàn toàn vì mục đích sử dụng hòa bình</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Thái độ của Trung Quốc kể từ đó cũng tương tự như tuyên bố này, khẳng định rằng việc xây dựng mới chỉ là các biện pháp dân sự.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cũng đẩy mạnh các nỗ lực ngoại giao, trong đó có cuộc gặp của Ngoại trưởng Đường Gia Triền với Ngoại trưởng Philippines Siazon trong Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tại Kuala Lumpur; cuộc hội kiến của Chủ tịch Giang Trạch Dân với Tổng thống Philippines Estrada tại Kuala Lumpur vào ngày 17/11. Hai bên đạt được thỏa thuận gác tranh chấp cùng khai thác. Ngày 25/11, Tổng thống Philippines Estrada biểu thị rằng đối với các công trình do Trung Quốc xây dựng trên quần đảo Trường Sa, Philippines nhân nhượng cho phép hoàn thành nhưng không được xây thêm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp về đá Vành Khăn lắng xuống một thời gian, nhưng ở Philippines Tổng thống không thể khống chế hết mọi thứ, và quốc hội cũng có thể có một tác động nào đó. Dân biểu Julius, người gốc Palawan, nhạy cảm với hoạt động của Trung Quốc ở Trường Sa hơn Tổng thống vốn xuất thân ở đảo Luzon. Trước tình huống Tổng thống tỏ ra ôn hòa, ông đã trực tiếp mời Dana Rohrabacher - thành viên Ủy ban Quan hệ quốc tế thuộc Hạ nghị viện Mĩ đáp máy bay trực thăng không quân bay đến đá Vành Khăn để quan sát từ trên không vào ngày 1/12. Dana Rohrabacher rút ra kết luận: việc xuất hiện chiến hạm của Trung Quốc tại đá Vành Khăn là hành động uy hiếp đối với Philippines vốn đang yếu kém về quân sự, đồng thời kêu gọi Mĩ gây áp lực ngoại giao và quân sự với Trung Quốc, buộc Trung Quốc rút lui chiến hạm và phá bỏ các các công trình xây dựng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thực ra, chính phủ Mĩ cũng hy vọng các bên giữ hòa khí, trước đó đã nhiều lần tìm cách ngăn cản hành động của Dana Rohrabacher với lí do là không có cách để đảm bảo an toàn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Chính phủ Mĩ cũng không thể ngăn cản được hành động của nghị sĩ Quốc hội.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Được Quốc hội Hoa Kì khuyến khích, Quốc hội Philippines lại lên giọng một lần nữa. Ngày 12/1/1999, tại Hội nghị hàng năm Diễn đàn quốc hội Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức ở Lima, Peru, lần đầu tiên Philippines đưa vấn đề Trường Sa đối đáp công khai với Trung Quốc. Đại biểu Philippines, Phó Chủ tịch Thượng viện Hồ Bích Lễ (胡碧禮) đề xuất dự thảo nghị quyết 15, chỉ trích các hành động của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là đe dọa hòa bình và ổn định khu vực. Đại biểu Trung Quốc yêu cầu rút lại bản dự thảo, nổ ra cuộc đấu khẩu gay gắt giữa hai bên tại cuộc họp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Estrada, người có thái độ thân Trung Quốc đành xoa dịu lần nữa. Ngày 21/1, ông triệu tập Hội nghị an ninh quốc gia, bao gồm đại diện của Chính phủ, Bộ ngoại giao và Quốc hội. Công thức đồng thuận cuối cùng đạt được là giải quyết vấn đề qua đàm phán ngoại giao. Estrada còn kiên định rằng người Mĩ không nên can dự vào vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đồng thời bác bỏ ý kiến phát động dân chúng leo thang sự kiện với chủ nghĩa dân tộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với sự kiện đó, Philippines đáp trả với việc tiến hành mở rộng công trình quân sự trên đảo Trung Nghiệp (đảo Thị Tứ), dẫn đến kháng nghị của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 3/3/1999. Điều này đã dẫn tới phản đối từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 3 tháng 3 năm 1999, nhưng đã bị Philippines bác bỏ. Ngày 22/3, trong cuộc họp Nhóm công tác Trường Sa Trung Quốc – Philippines tại Manila, hai bên đã đạt được thỏa thuận, ra “Tuyên bố chung Trung Quốc – Philippines”, biểu thị quan điểm “giữ thái độ kiềm chế, không sử dụng hành động làm phức tạp tình hình” ở Nam Sa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sự kiện đá Vành Khăn lắng xuống. Trong sự kiện đá Vành Khăn lần thứ hai, Trung Quốc đã thành công trong việc nâng cấp các nhà giàn, từ chỗ ban đầu chỉ là nơi khiêm tốn cho người đến ở thành căn cứ kiên cố có thể chuyển đổi thành pháo đài quân sự bất cứ lúc nào.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù đã có tuyên bố chung Trung Quốc- Philippines, nhưng Philippines vẫn không cam chịu. Ngày 30 tháng 3, Estrada ngay lập tức thông qua thư kí báo chí của mình cho biết rằng Philippines sẽ tiếp tục đấu tranh cho chủ quyền của đá Vành Khăn, đồng thời chuẩn bị đưa vấn đề này ra Tòa án quốc tế về Luật biển thuộc Liên hiệp quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, điều đó vấp phải sự bài bác của Trung Quốc. Ngày 20/4, Đại sứ mới của Trung Quốc tại Philippine, Phó Oánh nói rằng hai bên có thể ngồi lại để đàm phán song phương, Trung Quốc kiên quyết phản đối đưa vấn đề ra quốc tế.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là lần đầu tiên Philippines đề nghị đưa sự việc biển Đông ra cơ quan trọng tài quốc tế. Kể từ đó trở đi, việc giải quyết vấn đề thông qua đàm phán song phương hay đa phương, hoặc thông qua các phán quyết của tòa án quốc tế đã trở thành một trọng tâm ngoại giao mới cho vấn đề biển Đông. 15 năm sau, việc đưa vấn đề ra cơ quan trọng tài quốc tế đã trở thành sự thật (xem phần VI.1, VI.15).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự kiện mắc cạn trên bãi Nhân Ái (bãi Cỏ Mây) và Hoàng Nham (bãi Scarborough)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau sự kiện đá Vành Khăn lần thứ hai, Malaysia lặng lẽ chiếm đóng Erica Reef (Erica Reef, Terumbu Siput) và bãi Investigator, Malaysia gọi là Terumbu Peninjau nghĩa đen là Đá ngầm quan sát) và xây dựng trạm gác hải quân trên đảo.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cả Trung Quốc và Philippines đều không có năng lực để ngăn chặn các hành động của Malaysia. Theo cách này, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, Việt Nam chiếm đá Tiên Nữ (Pigeon Reef/bãi Vô Khiết) và Malaysia chiếm bãi Én Ca (Erica Reef), dọc theo đảo Palawan tính từ Bắc đến Nam. Philippines vừa lo chậm tay trong vòng tranh chấp mới ở Trường Sa, vừa lo an ninh quốc gia nên tìm cách thực hiện các biện pháp đối phó – chiếm bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) đối diện với đá Vành Khăn, nối với đá đá Công đo (Commodore Reef) ở phía Nam thành một dải, nhằm ngăn chặn nước khác áp sát đảo Palawan.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines biết tận dụng cơ hội tốt. Ngày 8/5/1999, Mĩ và Nato “ném bom nhầm” vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc bận rộn với những khúc mắc trong quan hệ với Mĩ nên không còn thời gian để tâm đến phía Nam. Ngay ngày hôm sau, Philippines ra lệnh cho tàu chở đầu BRP Sierra Madre đang chạy trong khu vực này tiến về bãi Cỏ Mây, rồi lập tức “gặp nạn” mắc cạn tại đó. Tàu chiến đó này do Mĩ chế tạo trong thời kì Thế chiến II, sau đó chuyển cho Philippines, khi đó về cơ bản đã mất khả năng chiến đấu, thích hợp với việc thực thị nhiệm vụ mắc cạn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc kháng nghị Philippines. Philippines thông báo, đáy tàu bị rò nên không thể chạy được, đành phải để mắc cạn. Ngay lập tức, Trung Quốc và Philippines tiến hành nhiều vòng đàm phán, nhưng Philippines cứ trì hoãn, rốt cục không đi tới đâu. Philippines để lại 7 lính trên tàu, thay phiên theo định kì. BRP Sierra Madre dài 100m, trên tàu đầy đủ phương tiện sinh hoạt, thậm chí có phòng karaoke. Điều kiện sống còn tốt hơn nhà giàn trên các đảo khác. Bằng cách này, Philippines đã kiểm soát thực tế bãi Cỏ Mây. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử có một quốc gia quản lí thực tế bãi Cỏ Mây. Kể từ đó, Philippines thường xuyên bổ sung vật tư và luân chuyển binh lính đóng trên bãi Cỏ Mây, số lượng binh lính đóng ở đó khoảng 10 người.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi chiếm được bãi Cỏ Mây, Philippines có ý muốn lặp lại thủ đoạn này ở đảo Scarborough. Ngày 23/5, tàu cá Quỳnh Hải 03091 của Trung Quốc đang đánh bắt ở vùng biển gần đảo Scarborough thì bị tàu chiến số 47 của Philippines xua đuổi. Tàu va chạm nhau, 11 ngư dân rơi xuống nước được cứu, trong đó có 3 người bị Philippines bắt giữ đưa về Manila.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại sứ Trung Quốc Phó Oánh liên hệ với Philippines, và gặp gỡ các ngư dân bị bắt. Ngư dân Trung Quốc cho biết, tàu chiến Philippines đã truy đuổi trong 2 giờ đồng hồ, đâm vào cá tàu 3 lần, cố ý đâm hỏng tàu cá. Nhưng, Philippine giải thích việc va chạm nhau là sự cố ngoài ý muốn. Ngày 2/6, Philippines thả 3 ngư dân bị bắt giữ.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sóng gió vẫn chưa dừng lại. Ngày 5/6, trong một cuộc tọa đàm, Phó Oánh đưa ra tấm bản đồ Philippines xuất bản năm 1967, thể hiện đảo Scarborough nằm ngoài biên giới Philippines,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vì thế Scarborough không thuộc về Philippines. Nhưng, ngày 10, người phát ngôn Philippines Barrigan đã trả lời rằng Philippines liên tục thực thi chủ quyền tại đảo Scarborough theo Luật quốc tế, ngăn chặn buôn lậu từ mấy chục năm trước và cũng đã xây dựng đèn biển tại đây.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với các tiếp xúc ngoại giao, Philippines tìm cách kiểm soát hơn nữa bãi Scarborough. Ngày 20/10, Philippines phái đội xây dựng và lực lượng đặc biệt đến tiến hành thi công trên đảo Scarborough. Ngày 3/11, tàu chiến 507 của Philippines tiến vào đảo Scarborough từ lối vào phía Đông Nam, neo đậu trên bãi biển phía Bắc, và cho mắc cạn trên đảo để làm trạm quan sát. Đồng thời, hai tàu khu trục nhỏ và pháo hạm tuần tra bên cạnh. Ngày 4/11, máy bay do thám Trung Quốc phát hiện thấy hoạt động của Philippines nên Trung Quốc đã ra kháng nghị ngoại giao. Ngày 5/11, trợ lí Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị nêu sự việc tàu chiến của Philippines“mắc cạn” trên đảo Scarborough với Đại sứ Philippines tại Trung Quốc. Ngày 8/11, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chương Khải Nguyệt nêu rõ : “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Hoàng Nham là lãnh thổ Trung Quốc từ xưa đến nay. Phía Trung Quốc yêu cầu phía Philippines thừa nhận thực tế này, lập tức dừng ngay mọi hành động xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc tại đảo Hoàng Nham.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” Philippines viện cớ “ buồng máy bị nước vào” để trì hoãn.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đúng dịp cuối tháng 11, cuộc họp không chính thức thứ hai giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (10+3) và cuộc họp không chính thức giữa các nước ASEAN với Trung Quốc (10+1) dự kiến tổ chức tại Manila, thủ đô của Philippines. Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ sẽ tham dự cuộc họp của các nhà lãnh đạo nói trên và thăm chính thức Philippines. Khi đó, Philippines rất coi trọng việc liệu một loạt hội nghị cấp cao ASEAN và chuyến thăm Philippines của Thủ tướng Chu Dung Cơ có được tổ chức thành công tại Manila hay không. Các bộ ngành hữu quan của Trung Quốc và Philippines gấp rút chuẩn bị cho chuyến thăm của Chu Dung Cơ. Vì thế ý đồ chiếm Scarborough bằng cách cho tàu chiến “mắc cạn trên bãi” của Philippines trở thành vấn đề rất nhạy cảm ảnh hưởng đến chuyến thăm này. Trung Quốc đã gây sức ép ngoại giao mạnh mẽ với phía Philippines, yêu cầu phía Philippines cam kết lập tức rút tàu chiến “mắc cạn” ra khỏi đảo Scarborough.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 24/11, trợ lí Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị tháp tùng Thủ tướng Chu Dung Cơ sang thăm Philippines và gặp Bộ trưởng Ngoại giao Philippines, yêu cầu Philippines thực hiện cam kết rút tàu chiến càng sớm càng tốt. Ngày 26, trong chuyến tháp tùng Chu Dung Cơ sang Philippines, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Chu Bang Tạo đã tổ chức một cuộc họp báo. Khi phóng viên đặt câu hỏi về sự kiện tàu quân sự Philippines mắc cạn tại đảo Scarborough, Chu Bang Tạo trả lời, Trung Quốc đã tiếp xúc với Philippines về vấn đề này, phía Philippines cũng đã nhiều lần hứa sẽ rút tàu chiến mắc cạn đi. “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hy vọng phía Philippines giữ lời hứa, đây là một khảo nghiệm về việc Philippines có giữ lời hay không</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Ngoại trưởng Philippines Siazon buộc phải công khai phủ nhận kế hoạch chiếm Scarborough của hải quân Philippines, đồng thời tuyên bố: “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi đã hứa. Chúng tôi sẽ rút tàu chiến khỏi khu vực đó</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 29/11, trong lúc Chu Dung Cơ bước lên chuyên cơ kết thúc chuyến thăm Philippines, tàu chiến “ mắc cạn” gần một tháng đã rút đi khỏi đảo Scarborough vào 5:15 chiều hôm đó. Sự kiện mắc cạn tại đảo Scarborough kết thúc, kế hoạch dựng nhà giàn trên đảo của Philippines cũng bị gác lại.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc hai sự kiện mắc cạn trên bãi Cỏ Mây và đảo Scarborough có kết quả không giống nhau liên quan đến yếu tố then chốt là thời gian và địa điểm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt thời gian, sự kiện Cỏ Mây xảy ra vào thời điểm Mĩ ném bom nhầm Sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư nên Trung Quốc không có thời gian quan tâm đến bãi Cỏ Mây Còn sự kiện đảo Scarborough xảy ra khi Trung Quốc đã giải quyết xong xung đột với Mĩ, hơn thế Philippines lại là nước chủ nhà tổ chức Hội nghị 10+3 nên có những lo ngại lớn về mặt ngoại giao. Sự khác biệt về vị trí của hai nơi có thể là nhân tố quan trọng hơn. Đảo Scarborough cách Trung Quốc gần hơn nhiều so với bãi Cỏ Mây. Dù khi đó Trung Quốc chưa đủ sức duy trì hoạt động tuần tiễu thường xuyên tại Scarborough, nhưng nếu quyết tâm thì vẫn có khả năng truy đuổi Philippines từ Hoàng Sa hoặc từ Hải Nam. Sự thật thì từ năm 1995, Trung Quốc đã đơn phương quy định “cấm đánh bắt cá theo mùa” từ vĩ tuyến 12° N về phía Bắc ở biển Đông, điều này cho thấy Trung Quốc có ý định và năng lực kiểm soát khu vực này. Nhưng bãi Cỏ Mây cách Trung Quốc xa hơn nhiều, hơn thế căn cứ Vành Khăn cũng chưa được định hình, đối phó với hành động của Philippines, Trung Quốc cũng giống như roi dài chưa đủ tầm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước sức ép đẩy mạnh của Trung Quốc tại biển Đông, Philippines cuối cùng mới vỡ lẽ là không thể ứng phó nổi nếu không có sự trợ giúp quân sự của Mĩ. Vì vậy, năm 1999 Philippines đã lập lại quan hệ với Hoa Kì, đồng ý nối lại quan hệ quân sự giữa hai bên.</span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.7. Từ Hội nghị biển Đông đến “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện nay, Đông Nam Á đã trở thành cái tên quen tai, nhưng thực ra chỉ bắt đầu từ Thế chiến II thì khu vực này được gọi là Đông Nam Á, mục đích chính khi đó là để phân định các khu vực tác chiến chống Nhật. Trước đó, Đông Nam Á chưa có tên gọi thống nhất. Chính cách phân chia và cách gọi tên này đã khởi động ý thức xây dựng khu vực Đông Nam Á.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau chiến tranh, nhiều tổ chức quốc tế khu vực ra đời. Châu Âu thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (tiền thân Liên minh Châu Âu - EU ngày nay) vào năm 1958; Châu Phi thành lập Tổ chức thống nhất Châu Phi (tiền thân Liên minh Châu Phi ngày nay) vào năm 1961. Philippines và Thái Lan tham gia “Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á” (SEATO) vào năm 1955, nhưng đó là tổ chức mang tính chất quân sự là chính, trong 8 nước thành viên chỉ có 2 quốc gia Đông Nam Á (6 quốc gia khác là Mĩ, Anh, Pháp, Pakistan, Australia và New Zealand). Tổ chức này không trở thành một phiên bản của NATO ở Đông Nam Á như mong đợi, cũng như không đóng vai trò gì lớn. Trên thực tế, nó đã bị giải thể năm 1977, sau Chiến tranh Việt Nam (trên lí thuyết, hiệp ước này cho đến hiện nay vẫn chưa bị hủy bỏ).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời với việc thành lập tổ chức bán quân sự không thành công này, Malaysia, Philippines và Thái Lan đã thành lập Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia, ASA) vào năm 1961. Đây là tổ chức mang tính chất kinh tế, là tiền thân của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 8/8/1967, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Malaysia ra “Tuyên bố Bangkok” tại Bangkok, chính thức tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á, mục đích chính vẫn là thúc đẩy tự do thương mại ở Đông Nam Á. Năm 1976, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất kí kết “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Đông Nam Á” (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia), đánh dấu bước khởi đầu của sự phát triển ASEAN theo hướng thành một tổ chức chính trị. Năm 1984, sau khi độc lập, Brunei cũng tham gia vào tổ chức này. Sáu nước này được gọi là ASEAN cũ. Nhưng, trong khung cảnh của Chiến tranh lạnh, ASEAN khi đó chưa có sức ảnh hưởng lớn về chính trị. Năm 1987, ASEAN sửa đổi “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Đông Nam Á”, cho phép các nước ngoài Đông Nam Á tham gia Hiệp ước, điều này càng thể hiện mong muốn của ASEAN phát triển thành một tổ chức chính trị.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng phải sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, ASEAN mới hình thành lực lượng chính trị không thể xem thường. Có rất nhiều nguyên nhân khiến ASEAN chuyển mục đích từ kinh tế sang chính trị, trong đó vấn đề biển Đông là một khâu cực kì quan trọng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước năm 1988, tình thế biển Đông tuy có lúc căng thẳng, nhưng nổ ra xung đột thì chỉ có cuộc chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Quốc và Việt Nam, địa điểm cách xa 6 nước ASEAN cũ. Trung Quốc chỉ phản đối hành động bành trướng của Philippines và Malaysia ở biển Đông bằng lời, không tạo thành bất kì xung đột nào trong quan hệ giữa hai bên. Các bên khác liên quan đến biển Đông cũng chỉ giới hạn trong tiếp xúc ngoại giao, và tất cả đều có thể được giải quyết ổn thỏa. Vì vậy, trước năm 1988, các nước ASEAN cũng chưa coi vấn đề biển Đông là thách thức cần chung tay giải quyết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc hải chiến tại đá Gạc Ma (Xích Qua) năm 1988 giữa Trung Quốc và Việt Nam diễn ra tại địa điểm cách quần đảo Hoàng Sa hơn 400 hải lí về phía Nam, Trung Quốc giành được cứ điểm trọng yếu trong khu vực trung tâm của Trường Sa, thậm chí là của biển Đông. Các nước ASEAN đều lo ngại không biết Trung Quốc có bành trướng thêm về phía Nam hay không. Cựu quan chức Bộ Ngoại giao Indonesia Hasjim Djalal đề xuất rằng các quốc gia xung quanh biển Đông cần lập ra chính sách ngăn ngừa và phòng chống xung đột phát sinh trong khu vực, đồng thời biến điều này thành khả năng hợp tác khu vực.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1989, Djalal xin được kinh phí của “Viện Nghiên cứu biển Canada” (The Ocean Institute of Canada) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (The Canadian International Development Agency), đồng thời được sự trợ giúp của các bộ ngành hữu quan của Chính phủ Indonesia đã tổ chức “Hội thảo nghiên cứu xử lí xung đột tiềm ẩn trong khu vực biển Đông” (gọi tắt là Hội nghị biển Đông) lần thứ nhất tại Bali từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 1 năm 1990.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lí do xin tài trợ từ các tổ chức của Canada thay vì các tổ chức của Mĩ không chỉ vì Canada cũng rất quan tâm đến vấn đề này mà còn vì muốn ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài khu vực giảm bớt đi để được nhiều nước trong khu vực dễ dàng chấp nhận hơn. Trong lời chào mừng khai mạc, Ngoại trưởng Indonesia Alatas bày tỏ hy vọng hội nghị sẽ đi lên cấp độ chính thức sau đó và đạt được những kết quả thực chất, có lợi cho việc hoạch định chính sách liên quan đến biển Đông của chính phủ các nước.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1990, Trung Quốc đề ra chính sách “gác tranh chấp cùng khai thác”. Vì thế, Indonesia mời Trung Quốc tham gia Hội nghị về biển Đông, Trung Quốc đồng ý tham gia nếu không dính líu đến vấn đề chủ quyền, đồng thời cũng đồng ý để Đài Loan cùng tham gia Hội nghị. Vì vậy, bắt đầu từ Hội nghị biển Đông tiếp theo, những bên liên quan đến tranh chấp là Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan đều được mời tham gia Hội nghị. Kể từ đó, Hội nghị tổ chức định kì hàng năm, tính đến nay đã được tổ chức 24 lần, trở thành hội nghị quốc tế lâu đời nhất về vấn đề biển Đông.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Hội nghị lần thứ hai, các bên đã ra tuyên bố chung, đồng ý kiến nghị với Chính phủ (nước mình) các vấn đề: (1) Dưới tiền đề không cản trở đến chủ quyền và quyền chủ quyền, tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác tại biển Đông (bao gồm an ninh giao thông, tìm kiếm và cứu nạn, chống cướp biển, môi trường biển, khảo sát khoa học biển và chống buôn bán ma túy); (2) Các bên có thể suy tính đến khả năng hợp tác tại các khu vực có yêu sách lãnh thổ chồng lấn; (3) Mọi tranh chấp về lãnh thổ và quản lí ở biển Đông cần được tiến hành thông qua đối thoại và đàm phán, giải quyết theo phương thức hòa bình, không sử dụng vũ lực; (4) Các nước liên quan phải tự kiềm chế, tránh làm phức tạp hóa vấn đề biển Đông. Tuyên bố này trở thành hình thức phôi thai của Tuyên bố biển Đông sau này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1992 nảy sinh 3 sự kiện: Mĩ rút khỏi biển Đông, các nước Đông Nam Á lần lượt tăng cường quân sự; Trung Quốc công bố “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp”, nhắc lại tuyên bố lãnh thổ đất liền Trung Quốc bao gồm Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và “tất cả các đảo khác thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” đã thu hút sự chú ý của các nước; Công ti Dầu khí Hải dương Trung Quốc kí thỏa thuận với Công ti Crestone của Mĩ phát triển khu vực hợp đồng “Vạn An Bắc – 21”. Khu vực này chồng lấn với các vùng biển mà Việt Nam cũng như Malaysia và Indonesia tuyên bố chủ quyền. Tranh cãi lãnh thổ biển đột nhiên nóng trở lại.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 28/1/1992, Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN nhóm họp tại Singapore đã kí “Tuyên bố Singapore”, hoan nghênh các nước Đông Nam Á kí “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác”. Hội nghị biển Đông lần thứ 3 được tổ chức từ ngày 28/6 đến ngày 2/7. Trong bối cảnh nhiệt độ ở biển Đông nóng lên, Phó Vụ trưởng Vụ Hiệp ước, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Đường Thừa Nguyên tham dự cuộc họp, đã nêu phương châm 12 chữ “主權歸我, 擱 置爭議, 聯合開發” (</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền quy ngã, các trí tranh nghị, liên hợp khai phát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: chủ quyền thuộc về chúng tôi, gác tranh chấp, cùng khai thác) một cách không hợp thời,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tức là thêm 4 chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền quy ngã</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” vào phương châm 8 chữ “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các trí tranh nghị, liên hợp khai phát</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trước đây, khiến các bên cảm thấy bất an. Chủ trì Hội nghị là Ngoại trưởng Indonesia đã nhắc lại Tuyên bố chung 1991, các đại biểu tham dự Hội nghị liên tiếp chất vấn và chỉ trích Trung Quốc, lập trường của các nước ASEAN có xu hướng thống nhất. Tiếp đó, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 25 tổ chức tại Manila vào tháng 7 đã thông qua đề nghị của Tổng thống Philippines Ramos, lần đầu tiên đưa vấn đề an ninh vào nghị trình Hội nghị, vấn đề biển Đông trở thành tiêu điểm thảo luận. Đây là lần đầu tiên các nước ASEAN thảo luận ở cấp cao về vấn đề an ninh, cũng trở thành khởi đầu cho việc các nước ASEAN đoàn kết, đồng lòng đối thoại với Trung Quốc bằng tiếng nói chung.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoại trưởng sáu nước ASEAN đã thông qua “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông” (The 1992 Manila Declaration on the South China Sea, 22/7/1992),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đưa ra chủ trương 5 điểm : (1) giải quyết tranh chấp chủ quyền và quyền chủ quyền biển Đông bằng biện pháp hòa bình, không dùng vũ lực; (2) kêu gọi các bên liên quan tự kiềm chế, tạo bầu không khí thuận lợi để giải quyết tranh chấp; (3) với điều kiện không tổn hại đến chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước có lợi ích liên quan trực tiếp, các nước tiến hành thương thảo khả năng hợp tác trên các lĩnh vực hàng hải, hàng không, an ninh giao thông, bảo vệ môi trường biển, chống cướp biển, chống ma túy, buôn lậu,... (4) đề nghị các bên liên quan vận dụng các nguyên tắc trong “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác” làm cơ sở để xây dựng bộ quy tắc ứng xử quốc tế ở biển Đông (a code of international conduct over the South China Sea); (5) mời các bên liên quan kí Tuyên ngôn trên. Về cơ bản, “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông” nhắc lại nội dung Tuyên bố chung tại Hội nghị công tác biển Đông lần thứ hai, điểm đột phá chủ yếu nhất là đề xuất xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông, vốn trở thành điểm tranh cãi giữa Trung Quốc và các nước ASEAN suốt hơn 20 năm sau đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hội nghị Bộ trưởng ASEAN cũng đề xuất mời Việt Nam gia nhập ASEAN. Đây là điều có ảnh hưởng sâu xa tới lịch sử ASEAN. Việt Nam là nước cộng sản có chế độ chính trị khác với 6 nước ASEAN cũ, hơn thế còn là phía thù địch trong thời kì Chiến tranh lạnh. Nhưng Việt Nam là quốc gia mạnh nhất trên bán đảo Đông Dương, nếu Việt Nam không gia nhập ASEAN thì ASEAN không thể đại diện cho toàn bộ Đông Nam Á. Hơn nữa, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tranh chấp chính ở các đảo ở biển Đông. Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, các nước Đông Nam Á mới có thể trở thành một khối thống nhất làm đối trọng với Trung Quốc. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, khi Tổng thống Indonesia Suharto đến thăm Việt Nam với tư cách cá nhân vào năm 1990, Thủ tướng Việt Nam Đỗ Mười đã biểu thị nguyện vọng gia nhập ASEAN, nhưng đến năm 1992 vẫn chưa chính thức nộp đơn cho Hội nghị Bộ trưởng ASEAN. ASEAN chủ động ra lời mời là một cử chỉ hết sức tích cực.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Hội nghị, đại biểu Việt Nam (và Lào) lần đầu tiên được đặc cách mời đã kí “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác”, trở thành nước quan sát viên của ASEAN, tiến thêm một bước trong việc gia nhập ASEAN. Vài năm sau, các nước Việt Nam (1995), Lào (1997), Myanmar (1997) và Campuchia (1999) lần lượt gia nhập ASEAN. ASEAN trở thành tổ chức đại diện cho lợi ích chính trị và kinh tế của một khối thống nhất các nước ASEAN, với tổng diện tích các nước thành viên là 4,5 triệu km², tổng dân số gần 600 triệu người và trở thành một lực lượng không thể xem thường. Sau này, ASEAN tiếp tục mời Australia, Canada, Trung Quốc, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Mĩ và Hàn Quốc làm đối tác đối thoại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc cũng lần đầu tiên được đặc cách mời tham gia Hội nghị. Ngoại trưởng (Trung Quốc) Tiền Kì Tham đã nhắc lại chính sách “gác tranh chấp, cùng khai thác”, mong muốn giải quyết vấn đề biển Đông bằng phương thức hòa bình, cho rằng các nguyên tắc cơ bản của “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông” phù hợp với chủ trương của Chính phủ Trung Quốc. Vì vậy, mặc dù Trung Quốc chưa kí “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông”, nhưng được coi là đã chấp nhận Tuyên bố của ASEAN về biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nước ASEAN cũng thúc đẩy “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông” trong mọi hoạt động quốc tế. Chẳng hạn: tại Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN không liên kết tổ chức tại Jakarta vào tháng 9 sau đó, Indonesia cùng các nước đã đưa vấn đề biển Đông vào nghị trình Hội nghị. Trong Văn kiện cuối cùng có ghi: “Người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ hoan nghênh ‘Tuyên bố của ASEAN về biển Đông’”.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chú ý là, tuy Indonesia không có tranh chấp trực tiếp tại Trường Sa, nhưng lại tích cực nhất trong việc thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề biển Đông. Indonesia là nước sớm nhất tham gia vào vấn đề tranh chấp biển Đông với tư cách người hòa giải. Vì Indonesia cho rằng tranh chấp biển Đông chủ yếu diễn ra tại Hoàng Sa và Trường Sa, không liên quan đến mình nên thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp với tư cách “trung lập” sẽ có sức mạnh hơn. Chủ yếu hơn, Indonesia là quốc gia có diện tích lớn nhất, dân số đông nhất ở Đông Nam Á, luôn xem địa vị quốc tế của mình là lãnh tụ khu vực và lãnh tụ phong trào không liên kết ở Đông Nam Á: Văn phòng thư kí ASEAN được đặt ở Jakarta, Tổng thống Indonesia Suharto là một trong những người đề xướng phong trào không liên kết. Ông hy vọng sẽ phát huy ảnh hưởng lớn hơn ở Đông Nam Á, và ông cũng biết rằng ảnh hưởng của mình chỉ có thể phát huy tối đa khi ASEAN là một</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khối thống nhất,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vì vậy ông hết sức tích cực trong các vụ việc của Đông Nam Á. Vấn đề biển Đông là vấn đề quan trọng, có thể cho thấy ảnh hưởng chính trị của ông.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, không lâu sau đó, Indonesia phát hiện ra rằng họ cũng là một bên có liên quan trong tranh chấp biển Đông. Điều này bắt nguồn từ một tấm bản đồ vẽ sai của Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc do Trung Quốc ấn hành đều vẽ theo tiêu chuẩn của nhà nước, và sau khi được nhà nước phê duyệt mới xuất bản. Dạng của đường 9 đoạn trên hầu hết các bản đồ đều tương đối thống nhất. Nhưng bản đồ xuất bản năm 1993 lại đưa quần đảo Natuna vào phạm vi đường 9 đoạn. Điều không may hơn là, khi tham gia Hội nghị công tác biển Đông năm 1993, chuyên gia Trung Quốc lại phân phát bản đồ vẽ sai này cho các đại biểu. Ngay lập tức, điều đó khiến Indonesia không hài lòng và đề cao cảnh giác. Mặc dù chuyên gia Trung Quốc đã phát hiện và giải thích ngay về sai sót này, nhưng ấn tượng “Trung Quốc muốn chiếm đoạt quần đảo Natuna” đã in đậm trong trí óc của các đại biểu Indonesia. Hơn nữa, bản đồ đường chín đoạn “chính xác” do Trung Quốc xuất bản, tuy không đưa quần đảo Natuna vào trong vùng biển của Trung Quốc, nhưng đường này lại rất gần với Natuna, bao gồm cả các mỏ khí đốt tự nhiên ở phía bắc Natuna. Hơn thế, đường chín đoạn của Trung Quốc không có tọa độ và phần đối diện với Natuna để trống thay vì một đường đứt khúc. Cách Trung Quốc nối các đoạn liền kề của đường đứt khúc sẽ quyết định liệu Natuna có bị Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hay không: nếu nối lỏng tay vừa phải thì nó có thể chỉ đi ngang qua rìa của quần đảo Natuna; nếu nối nhô thêm ra ngoài thì nó sẽ bao gồm cả Natuna (xem hình 66).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với Indonesia.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 217px; overflow: hidden; width: 432px;"><img height="217" src="https://lh4.googleusercontent.com/WKa3nkbft32y2F_0hhEt6y67KwjkwVF3VmGcPH39v08P8ze4BWG9-Tr5JenKcv8YJus_S7pAgwPU7felrX-jGn_txBoojwFryoMe_mj81ht2Hp9FCjIL31_wTdrqSdzLv2rF9EYUS8P6BGUDzflygxY" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="432" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 61</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Cách nối hai đoạn liền kề của đường 9[10] đoạn trong vùng phụ cận quần đảo Natuna trên bản đồ Trung Quốc</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indonesia lập tức trở thành một bên phản đối quyết liệt chủ trương đường 9 đoạn của Trung Quốc. Theo tìm hiểu, trong chuyến thăm Indonesia năm 1995, Giang Trạch Dân đã đảm bảo bằng miệng với Tổng thống Suharto, rằng Trung Quốc không tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Natuna, nhưng điều này chưa bao giờ được Trung Quốc công nhận công khai. Cho mãi đến năm 2015, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới thừa nhận quần đảo Natuna thuộc Indonesia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Với sự trỗi dậy của ASEAN và tình hình nóng lên của vấn đề biển Đông, tại các hội nghị chính thức (Hội nghị thượng đỉnh Đông Nam Á, Hội nghị Bộ trưởng Đông Nam Á, Diễn đàn Khu vực ASEAN [ASEAN Regional Forum],...), vấn đề biển Đông ngày càng liên tục được xem là chủ đề chính của nghị trình. Mặt khác, bên cạnh các hội nghị về biển Đông, nhiều diễn đàn Đông Nam Á bán chính thức và phi chính phủ đã lần lượt xuất hiện rầm rộ. Chẳng hạn, bán chính thức có Đối thoại Shangri-La (IISS Asia Security Summit: The Shangri-La Dialogue, được tổ chức tại Singapore bắt đầu từ năm 2002). Phi chính phủ có Hội thảo về biển Đông (South China Sea Workshop), đó là một hội thảo không chính thức về biển Đông do Think Tank Mĩ CSIS/Pacific Forum (Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế/ Diễn đàn Thái Bình Dương) và Think Tank Philippines ISDS (Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược) phối hợp tổ chức.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra còn có các hội nghị của Nhóm Công tác hợp tác quân sự biển CSCAP và của Hội Nghiên cứu giao thông đường biển quốc tế SLOC v.v... Các cuộc gặp này là cơ hội để các bên trao đổi, tranh luận về vấn đề biển Đông, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường hiểu biết giữa các bên, giảm leo thang va chạm và quản lí khác biệt.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Tuyên bố của ASEAN về biển Đông” đề cập đến mục tiêu xây dựng một bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct), trở thành định hướng cho các nỗ lực ngoại giao của các nước ASEAN. Tại Diễn đàn ASEAN lần thứ hai tổ chức năm 1995 tại Brunei, Ngoại trưởng Philippines đề nghị “trước khi giải quyết xong vấn đề chủ quyền cơ bản ở biển Đông, các nước liên quan cần cố gắng đạt được một thỏa thuận không chính thức, thỏa thuận tạm thời hay quy tắc ứng xử nào đó”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 7/1996, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, các ngoại trưởng đã ủng hộ đề xuất của Philippines về việc đạt được một bộ quy tắc ứng xử trong khu vực biển Đông. Hội nghị biển Đông tháng 10/1996 đã tiến hành thảo luận về việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tháng 12, người đứng đầu các nước nhất trí xúc tiến việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử. Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN (ASEAN SOM) tháng 5/1999 đề nghị Philippines nhận trách nhiệm đề xuất dự thảo quy tắc ứng xử ở Biển Đông tại hội nghị tiếp theo. Dự thảo do Philippines soạn thảo, chuyển cho Việt Nam sửa chữa. Tháng 11/1999, bản dự thảo do hai nước chỉnh sửa được các nước ASEAN thảo luận và nhất trí thông qua (phương án ASEAN) trước ngày tổ chức Diễn đàn khu vực ASEAN. Đồng thời, tháng 10/1999, Bắc Kinh cũng xây dựng phương án của mình (phương án Bắc Kinh). Tuy nhiên, tại Diễn đàn khu vực ASEAN, giữa hai bên đã có nhiều khác biệt.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thât ra, đạt được một bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông là nguyện vọng của các bên liên quan. Qua tuyên bố song phương và các phương thức khác, một số nước đã liên tục đạt được đồng thuận cơ bản. Chẳng hạn, năm 1995, sau sự kiện đá Vành Khăn lần 1, Trung Quốc và Philippines đã đạt được một tuyên bố chung (Joint Statement RP-PRC Consultations on the South China Sea and on Other Areas of Cooperation) vào tháng 8, trong đó có nêu rõ nguyên tắc cơ bản về cách ứng xử ở biển Đông. Tháng 11/1995, Philippines và Việt Nam cũng đạt được bộ quy tắc ứng xử song phương (Joint Statement on the Fourth Annual Bilateral Consultations between Vietnam and the Philippines).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phương án ASEAN và phương án Bắc Kinh có một số điểm chung, chẳng hạn như giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình không dùng vũ lực, mở rộng hợp tác giữa các bên, xây dựng cơ chế tin cậy,... Tuy nhiên, Trung Quốc và ASEAN lại có những điểm bất đồng lớn trong một số vấn đề chính yếu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Bắc Kinh giới hạn phạm vi tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, còn ASEAN xác định phạm vi tranh chấp trên toàn bộ biển Đông. Trên thực tế, nội bộ các nước ASEAN cũng có những tranh cãi về việc quy định phạm vi như thế nào. Ví dụ như Malaysia đề xuất phạm vi áp dụng chỉ giới hạn ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đề xuất không mở rộng tranh chấp đến quần đảo Natuna; Việt Nam cho rằng cần phải phân biệt tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với vấn đề quốc phòng trên biển Đông và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền quản lí của Việt Nam.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói chung, quan niệm của ASEAN (đặc biệt là Việt Nam) là phạm vi bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phiên bản sau cùng của ASEAN sử dụng cách diễn đạt mơ hồ, không chỉ ra cụ thể quần đảo Hoàng Sa mà dùng cách nói phạm vi địa lí biển Đông chung chung. Vì vậy, theo lập luận trên, đảo Scarborough cũng nằm trong sự miêu tả của ASEAN, nhưng tranh chấp về đảo Scarborough lại không phải là tiêu điểm thảo luận lúc đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc nhấn mạnh rằng vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa nên do các nước có chủ quyền liên quan giải quyết qua tham vấn và đàm phán song phương.Nhưng ASEAN chủ trương giải quyết qua tham vấn song phương và đa phương..</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ASEAN yêu cầu tất cả các nước có yêu sách không chiếm đóng các đảo chưa có người ở trong khu vực tranh chấp, nhưng Trung Quốc thể hiện thái độ nhùng nhằng, chỉ chấp nhận tránh sử dụng hành vi dẫn đến tình trạng mở rộng hoặc </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">làm </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phức tạp tranh chấp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phương án Trung Quốc nêu rõ: không tiến hành “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">diễn tập quân sự với các nước bên ngoài</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nhằm chống lại nước thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” tại các khu vực tranh chấp, không thực hiện bất kì hoạt động trinh sát quân sự nguy hiểm và tuần tra quân sự nào trên biển. Điều này ám chỉ các cuộc tập trận quân sự của quân đội Hoa Kì với các đồng minh như Philippines. Phương án của ASEAN không đề cập đến vấn đề này. Đề xuất của Trung Quốc rõ ràng nằm ngoài phạm vi có thể chấp nhận được của ASEAN, bởi vì Hoa Kì và Philippines có liên minh quân sự, còn Malaysia, Singapore với Anh, Australia và New Zealand là đồng minh quân sự, diễn tập chung trên biển Đông là việc không thể tránh khỏi. Hơn nữa, các hoạt động trinh sát quân sự và tuần tra quân sự do Trung Quốc nêu ra đều nhằm vào Mĩ, ASEAN đương nhiên không thể chủ động hạn chế hành động của Mĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong phương án của mình, Trung Quốc yêu cầu các nước không được thực hiện các biện pháp cưỡng chế như bắt và giam giữ tàu cá hoạt động trong vùng tranh chấp. ASEAN không nêu nội dung này trong phương án của mình. Khi đó, ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trên biển Đông ngày càng nhiều, phần lớn đánh bắt trái phép động vật được bảo vệ. Nếu làm theo đề xuất của Trung Quốc, ngành ngư nghiệp ở biển Đông sẽ đi vào tình trạng không người quản lí, ASEAN đương nhiên sẽ không chấp thuận.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trung Quốc không muốn đạt tới một “Bộ quy tắc ứng xử” ràng buộc về mặt pháp lí (mặc dù tên trong phiên bản tiếng Trung cũng là một bộ quy tắc ứng xử, nhưng về sau dường như Trung Quốc đã nhận ra rằng từ này có nghĩa là ràng buộc về mặt pháp lí). Trung Quốc chỉ mong muốn đạt tới một tuyên bố về ý hướng, không có hiệu lực ràng buộc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua nhiều lần thảo luận, tháng 7/2000, Philippines soạn thảo một văn bản mới, xóa đi những chỗ miêu tả phạm vi địa lí đề cập trong bộ quy tắc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Trung Quốc vẫn kiên quyết không kí “Bộ Quy tắc ứng xử” mang tính ràng buộc. Tháng 7/2002, tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 25, Malaysia đưa ra phương án thỏa hiệp,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đề xuất một dạng tuyên bố không ràng buộc pháp lí để đổi lấy sự nhượng bộ của Trung Quốc trong việc đi đến một hiệp nghị mang tính chính trị, được Trung Quốc đồng ý. Trung Quốc đã nhượng bộ các vấn đề 3, 4, 5 nêu phía trên. Cuối cùng, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ngày 4/11/2002, đại biểu Trung Quốc và các nước ASEAN đã kí “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với nhà nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau phù hợp với những nguyên tắc nêu trên và trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hàng hải và bay trên vùng trời biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 4: Các bên liên quan tiến hành giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, trong đó có việc kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những đảo, rạn đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những cấu trúc tự nhiên khác hiện không có người sinh sống và phải được xử lí những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bao gồm:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">a. tổ chức đối thoại và trao đổi quan điểm khi thích hợp giữa các quan chức quốc phòng và quân đội;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b. bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo với tất cả những người gặp nguy hiểm hoặc gặp nạn;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c. thông báo, trên cơ sở tự nguyện, cho các Bên liên quan khác về bất kì cuộc tập trận chung/kết hợp nào sắp diễn ra; và</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">d. trao đổi, trên cơ sở tự nguyện, thông tin liên quan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 6. Trong khi chờ đợi một giải pháp toàn diện và bền vững cho tranh chấp, các bên liên quan có thể thăm dò hoặc thực hiện các hoạt động hợp tác. Chúng có thể bao gồm những điều sau đây:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">a. bảo vệ môi trường biển;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">b. nghiên cứu khoa học biển;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c. an toàn hàng hải và thông tin liên lạc trên biển;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 0pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">d. nghiệp vụ tìm kiếm cứu nạn; và</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 0pt; margin: 0pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">e. chống tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm nhưng không giới hạn ở buôn bán ma túy bất hợp pháp, cướp biển và cướp có vũ trang trên biển, và buôn bán trái phép vũ khí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 7: Các bên liên quan sẵn sàng tiếp tục các cuộc đối thoại và tham vấn về những vấn đề liên quan, thông qua các thể thức được các bên đồng ý, kể cả các cuộc tham vấn thường xuyên theo quy định của Tuyên bố này, nhằm tăng cường sự minh bạch và quan hệ láng giềng tốt, thiết lập sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau một cách hài hòa, và thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên theo phương thức hòa bình..</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 8: Các bên có trách nhiệm tôn trọng những điều khoản của Tuyên bố này và hành động phù hợp với sự tôn trọng đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 9: Các bên khuyến khích các nước khác tôn trọng các nguyên tắc bao hàm trong Tuyên bố này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 10: Các bên liên quan tái khẳng định rằng việc chuẩn nhận bộ quy tắc về ứng xử trên biển Đông sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn hòa bình và ổn định trong khu vực và nhất trí làm việc trên căn bản đồng thuận để tiến tới hoàn thành mục tiêu này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy văn kiện này chưa có tính ràng buộc về pháp lí, nhưng đã nhận được sự cam kết chính trị của các nước nên sẽ phát huy tác dụng rất lớn đối với cục diện biển Đông sau này. Cục diện biển Đông bước vào thời kì ổn định. Trong số đó, nội dung điều 5 “</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">không đưa người đến sinh sống trên các đảo, rạn đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những cấu trúc tự nhiên khác hiện đang không có người sinh sống</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” là thành quả lớn nhất của bản Tuyên bố, vì lời lẽ hết sức rõ ràng, làm cơ sở cho việc ngăn chặn hành vi bành trướng của các bên ở biển Đông. Dù sau này Trung Quốc có bồi đắp đảo với quy mô lớn thì cũng chỉ xây dựng trên những bãi đá, bãi cát ngầm đã chiếm đóng, nhưng không thể chiếm đóng các đảo hay bãi ngầm mới.</span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.8. Từ đối kháng quân sự sang đối kháng dân sự</span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân sự hóa việc quản lí ở biển Đông</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi bước sang những năm 1990, biển Đông hầu như không còn xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang ác liệt. Cùng với việc tiếp tục tăng cường chiếm đóng quân sự và mở rộng thực lực quân sự, các nước đi theo xu hướng sử dụng các biện pháp dân sự để giải quyết vấn đề biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biểu hiện rõ nhất là lực lượng vũ trang tuần tra và đối đầu hàng ngày ở biển Đông đã dần chuyển từ quân đội sang các đội giám sát nghề cá, chống buôn lậu và cảnh sát biển vốn là các cơ cấu được vũ trang thấp, nặng về quản lí hành chính. Từ giữa những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu thay đổi biện pháp, không còn sử dụng hải quân làm lực lượng đối kháng hàng đầu. Trong Sự kiện đá Vành Khăn lần thứ nhất, Trung Quốc huy động tàu ngư chính bảo vệ các công trình xây dựng trên đá Vành Khăn, thay vì dùng tàu quân sự như năm 1988. Năm 2000, Đài Loan thành lập Cơ quan Cảnh sát biển để thay thế quân đội tiếp tục quản lí đảo Ba Bình. Philippines cũng ngày càng sử dụng nhiều hơn lực lượng bảo vệ ven biển (coastal guarding) thay tàu quân sự để xử lí các vụ đánh bắt cá trái phép.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, các nước cũng ra sức di dân và tiến hành các hoạt động dân sự trên các đảo</span><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đài Loan kiểm soát thực tế bằng hoạt động dân sự trên đảo Ba Bình sớm nhất, ngay từ cuối những năm 1950, Đài Loan đã đề ra kế hoạch di dân đến đảo Ba Bình. Nhưng do Đài Loan cách đảo Ba Bình quá xa nên khó tìm được người muốn di cư ra đảo. Vì vậy, cuối những năm 1950, Đài Loan đã đề ra kế hoạch khuyến khích người hết nghĩa vụ quân sự ra đảo khai khẩn. Năm 1963, Hội hưu trí Trung Hoa Dân Quốc thành lập “Nhóm khai thác biển Đông” tại đảo Ba Bình, làm các nghề như thu vớt sắt phế thải và khai thác phốt phát. Năm 1968 mở rộng tổ chức này thành “Sở khai phát tài nguyên biển Đông”. Tuy nhiên, do phốt phát là nguồn tài nguyên quan trọng nhất trên đảo Ba Bình đã bị người Nhật khai thác hết trước khi Thế chiến II kết thúc nên trên đảo không còn tài nguyên gì đáng giá để khai thác. Vì vậy, đợt di dân đó chỉ đạt rất ít người và kết thúc dở dang. Ngày 16/2/1980, Đài Loan giao quyền quản lí đảo Pratas (Đông Sa) và đảo Ba Bình cho quận Kì Tân thuộc thành phố Cao Hùng, thành lập “Trạm công tác ngư nghiệp”, đến năm 1987 đổi tên thành “Trạm dịch vụ ngư nghiệp khu Đài Bành”. Năm 1990, Viện Hành chính phê chuẩn phương thức quản lí ủy thác hành chính đối với đảo Pratas và đảo Ba Bình, gộp lại dưới quyền quản lí của quận Kì Tân, Cao Hùng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 28/1/2000, Đài Loan thành lập Phòng tuần tra ven biển, công tác tuần tra biển Đông được giao dần cho Phòng tuần tra dân sự.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 2007, Đài Loan xây dựng khu bảo tồn, nuôi dưỡng rùa biển trên đảo. Cho đến nay, đảo Ba Bình vẫn được định vị là trạm dịch vụ ngư nghiệp và khu bảo tồn, nuôi dưỡng rùa biển, trên đảo chủ yếu vẫn là binh lính và nhân viên chính quyền, không có dân thường.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoảng cách xa xôi và giao thông bất tiện là nguyên nhân chính khiến đảo Ba Bình không thể thực hiện được việc di dân. Mãi đến năm 2005, Đài Loan mới Đài Loan mới bắt đầu xây dựng một đường băng (khoảng 1100 mét) dùng cho mục đích quân sự trên đảo Ba Bình.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 2/2/2008, Trần Thủy Biển đến đảo Ba Bình bằng máy bay dự lễ khánh thành. Nhưng tháng 10 năm đó, Bộ Quốc phòng Đài Loan lấy lí do không phù hợp với các nguyên tắc kinh tế đã bãi bỏ kế hoạch kéo dài đường băng của sân bay. Năm 2013, các nhà báo đến thăm đảo Ba Bình than rằng trên đảo hầu như không có “bến tàu đúng nghĩa”, “tàu lớn có mớn nước sâu không thể cập bờ, chỉ có thể chuyển hàng hóa xuống các thuyền nhỏ rồi dùng sức người vận chuyển lên bờ”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đảo Ba Bình vốn là nơi có điều kiện sống tốt nhất ở biển Đông (có nước ngọt), nhưng do ở quá xa đất liền, tiếp tế vô cùng khó khăn, vì thế phát triển thua xa các đảo, bãi đá ngầm khác rất nhiều.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 4.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 4.5pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Malaysia là nước thực hiện dân sự hóa trên các đảo, bãi ngầm sớm nhất. Bãi Đạn Hoàn (đá Hoa Lau) vốn là một vành đai san hô hẹp và dài bao quanh một vũng nước nông, có một phần bãi đá nổi trên mặt nước khi triều cao. Năm 1983, khi Malaysia chiếm đá Hoa Lau đã có một số người đã sử dụng nó làm nơi cho các hoạt động lặn. Năm 1991, Malaysia tuyên bố xây dựng đảo nhân tạo và đường băng trên đá Hoa Lau, biến nó thành khu du lịch quốc tế. Ngày 1/9/1993, Thủ tướng Mahathir đến thăm đảo để xem tiến độ xây dựng. Năm 1994, Malaysia chính thức tuyên bố mở cửa đá Hoa Lau. Đến nay, nơi đó đã trở thành điểm du lịch quốc tế nổi tiếng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo nhân tạo Hoa Lau có diện tích 1 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, là đảo nhân tạo lớn nhất, (cũng là đảo lớn nhất) ở Trường Sa trước khi Trung Quốc bồi đắp đảo quy mô lớn vào năm 2014. Qua việc khai thác du lịch, Malaysia đã thiết lập vững chắc hình tượng đá Hoa Lau (Pulau Layang Layang) thuộc về Malaysia trong con mắt cộng đồng quốc tế. Có rất nhiều sách báo và trang mạng quốc tế về du lịch nói tới đá Hoa Lau và liệt kê nó dưới tên Malaysia.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 424px; overflow: hidden; width: 392px;"><img height="424" src="https://lh6.googleusercontent.com/6F7A5iiRtugDaCbizQzYcaK_cazwfXRX4uLQctwZKsNIQS77XSDTEHpLjZVtt7necQFvcnRH--kqjrRtGkESCGDSsF7pvBsVCalBK36hB-Zce4Vj71F1FgnbmMG5QKq3RmsvbeASobXAbBA29sErCAo" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="392" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 62</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: đá Hoa Lau trở thành điểm du lịch quốc tế</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước năm 2002, Việt Nam chỉ đơn thuần chiếm đóng quân sự trên quần đảo Trường Sa. Tháng 2/2001, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Hội nghị Ban Biên phòng, thông qua nghị quyết thành lập cơ quan chính quyền địa phương trên quần đảo, làm cho quần đảo này có chính quyền riêng như các địa phương khác của Việt Nam, giải quyết những vấn đề liên quan đến đời sống và quản lí hành chính của người dân trên đảo. Đây là điểm mốc khởi đầu quá trình “dân sự hóa” quần đảo Nam Sa của Việt Nam. Mặc dù Việt Nam không giàu có về kinh tế, nhưng vẫn ủng hộ mạnh mẽ việc xây dựng Nam Sa qua việc phân bổ kinh phí và quyên góp. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyến du lịch đến Trường Sa được khai thông vào năm 2004. Sân bay đảo Trường Sa Lớn được xây dựng mở rộng vào năm 2005. Ngày 11/4/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố (Nghị định số 65/2007/NĐ-CP), trong đó có điều chỉnh địa giới hành chính huyện Trường Sa (đơn vị hành chính cấp 2, thuộc Huyện Khánh Hòa); thành lập thị trấn Trường Sa (đơn vị hành chính cấp 3) trên đảo Trường Sa Lớn, được coi như là khu vực thành thị hóa; thành lập “xã” (đơn vị hành chính cấp 3) trên hai đảo Song Tử Tây (TQ gọi là đảo Nam Tử) và đảo Sinh Tồn Tây (TQ gọi là đảo Cảnh Hồng),</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được coi như là khu vực làng xã hóa. Ba đảo này trở thành công trình “dân sự hóa” mẫu của Việt Nam. Bắt đầu từ năm 2008, Việt Nam lập kế hoạch di dân tới đảo Trường Sa Lớn, tổ chức cho 7 gia đình đến sinh sống trên đảo này, xây dựng các công trình và cơ sở “thường ngày” trên đảo như trường tiểu học, bệnh viện, nhà văn hóa, trạm phát điện, chùa chiền,...</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tổ chức bầu cử “đại biểu quốc hội” trên đảo Trường Sa Lớn. Theo thống kê năm 2009, năm 2009, tổng dân số huyện Trường Sa là 195 người (không kể bộ đội), trong đó dân số thị trấn Trường Sa là 82 người. Theo thống kê, từ năm 2008-2012, tổng vốn đầu tư dân sự của Việt Nam tại huyện Trường Sa là 110 tỉ đồng (khoảng 5 triệu USD), số tiền này không phải nhỏ đối với Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines là quốc gia có quyết tâm dân sự hóa sớm nhất và cũng là nước di dân nhiều nhất đến quần đảo Trường Sa. Cấp độ hành chính của nhóm đảo Kalayaan là Municipaliti (đô thị), là đơn vị hành chính cấp 3 thuộc tỉnh Palawan, dưới Municipality là Barangay, đơn vị hành chính cấp 4, cũng là cấp thấp nhất, trung tâm hành chính nằm ở đảo Thị Tứ (TQ gọi là đảo Trung Nghiệp), người Philippines gọi đó là đảo Pagasa.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngay từ năm 1980, nhóm Kalayaan đã tiến hành bầu thị trưởng lần thứ nhất. Ngày 18/1/1988, sau khi Marcos bị lật đổ không lâu, Philippines liền tuyên bố “phi quân sự hóa” nhóm đảo Kalayaan. Năm 1992 tiến hành bầu cử chính thức lần thứ nhất, lúc đó toàn bộ Kalayaan chỉ có 50 cư dân. Philippines là nước nằm gần quần đảo Trường Sa nhất, với khoa học kĩ thuật hiện đại không quá khó để di dân đến đảo Thị Tứ. Trong Trong những năm 1990, dân số đảo Kalayaan tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê năm 1995, dân số của nhóm đảo Kalayaan lên tới 349 người. Nhưng sau đó giảm xuống, đến năm 2000 chỉ còn 223 người, chủ yếu là quân nhân, viên chức nhà nước và ngư dân tạm trú. Bắt đầu từ năm 2001, Philippines quyết tâm xây dựng “khu dân cư thực sự” trên đảo Thị Tứ. Ngày 22/9/2002, Philippines đưa 90 người đến định cư thí điểm 3 tháng trên đảo Thị Tứ, nhưng vẫn không thể ngăn chặn sự suy giảm dân số trên đảo. Năm 2005, số người trên đảo giảm tới mức thấp nhất, chỉ còn 114 người. Để thu hút dân di cư, Philippines hỗ trợ 14.000 USD mỗi năm cho một người di cư, đó là khoản tiền lớn đối với Philippines. Năm 2010, dân số trên đảo cuối cùng đã tăng lên 222 người. Năm 2012, Thị trưởng Kalayaan xây dựng trường tiểu học trên đảo Thị Tứ, tạo cơ sở cho việc “bình thường hóa” thêm một bước.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Philippines tuy giàu hơn Việt Nam, nhưng đầu tư hạ tầng trên nhóm đảo Kalayaan không bằng Việt Nam. Khởi đầu, điều kiện sống trên đảo của Philippines tốt hơn so với Việt Nam, song tình hình hiện nay đã hoàn toàn đảo ngược. Bắt đầu từ năm 2012, quân đội hai nước trú đóng trên hai đảo Song Tử, tức là Việt Nam chiếm giữ đảo Song Tử Tây (TQ gọi là Nam Tử), Philippines chiếm giữ đảo Song Tử Đông (TQ gọi là Bắc Tử), tiến hành thi đấu bóng đá và bóng rổ định kì, nhằm thể hiện thiện ý, đồng thời tăng cường hình ảnh “dân sự hóa”. Mỗi lần đến đảo Song Tử Tây, binh lính Philippines không khỏi thở dài trước sự tương phản về chất lượng cuộc sống giữa hai bên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kế hoạch di dân của Trung Quốc chủ yếu diễn ra ở quần đảo Hoàng Sa. Cư dân trên đảo chủ yếu là viên chức chính phủ, hải quân, cảnh sát, công nhân xây dựng và và một số lượng lớn ngư dân trên đường ghé qua. Trung Quốc đã thành lập làng Vĩnh Hưng trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm), hầu hết dân làng là ngư dân không thường trú từ Hải Nam và một số ít ngư dân thường trú (ngư dân sống đủ nửa năm được trợ cấp sinh hoạt). Năm 2014, Trung Quốc xây dựng trường học và các công trình đi kèm trên đảo Phú Lâm, hy vọng hình thành được khu dân cư đích thực ở đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc chỉ chiếm được các bãi ngầm nên trước khi tiến hành bồi đắp đảo quy mô lớn vào năm 2014, Trung Quốc chưa có điều kiện thực hiện việc di dân. Cũng chính vì vậy mà trong số các nước chiếm giữ thực tế các đảo, bãi ở quần đảo Trường Sa thì Trung Quốc là nước có số lượng di dân ít nhất. Nhưng sau khi Trung Quốc tiến hành bồi đắp đảo với quy mô lớn, tình hình tất nhiên thay đổi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ví dụ về dân sự hóa đảo thành công của Trung Quốc là ở đá Vành Khăn, với việc xây dựng ngư trường do ngư dân Hải Nam tên là Trương Đông Hải đầu tư. Năm 2006, dưới sự trợ giúp của các chuyên gia, Trương Đông Hải đến đá Vành Khăn tiến hành hoạt động thử nghiệm nhân giống cá. Chiều ngày 29/6/2007, ông dẫn đầu đoàn gồm 9 tàu (2 tàu tiếp liệu, 2 tàu câu cá, 3 tàu chiếu sáng và 2 tàu kéo lưới) cùng 85 thuyền viên rầm rộ kéo đến Vành Khăn, thả nuôi 300 000 con cá giống như cá hồng, cá thất tinh, cá đốm Đông Hưng, cá bớp và các loại cá bột quý hiếm khác. Dùng các loại cá tạp khác (mực nang nhỏ, cá pháo nhỏ, v.v.) được đánh bắt tại chỗ ở quần đảo Nam Sa làm thức ăn, các loài cá nuôi dưỡng ở đá Vành Khăn có tốc độ tăng trưởng cao hơn 30% so với các loại cá nuôi ven bờ biển Hải Nam. Ngày 21/11/2007, cơn bão nhiệt đới cực mạnh Hagibis thổi qua bãi Mĩ Tế đã cuốn sạch toàn bộ công trình đầu tư của Trương Đông Hải. Khi đó, 9 thành viên giúp ông trông coi công việc trên đá Vành Khăn bị thiệt mạng, 3 ngư dân khác bị trôi dạt trên biển 7 ngày 8 đêm mới được cứu sống. Tháng 10/2008, Trương Đông Hải đưa 6 thuyền và 43 ngư dân quay lại Vành Khăn, đặt lồng lưới có khả năng chống chọi với gió cấp 9. Lần này ý chí đầu tư và lòng kiên trì của Trương Đông Hải đã được đền bù. Từ năm 2008 đến tháng 7/2012, ông đã liên tục đầu tư hơn 20 triệu NDT cho nuôi cá trên đảo Vành Khăn, thả nuôi gần 10 triệu con cá bột, quy mô đã mở rộng thành 11 nhóm lồng lưới vuông 4m x 4m, với 44 cửa và 10 nhóm lồng lưới hình tròn, bán kính 12m. Việc nuôi thả của ông rất thuận lợi trong 5 năm qua, các loại hải sản nuôi như cá chấm sao (Plectropomus leopardus), cá hổ vằn (Blotchy rock cod) được tiêu thụ tại Hong Kong, Mao Cao, Nhật Bản và các nơi khác với giá cao. Điều này khiến Vành Khăn có hy vọng trở thành trung tâm ngư nghiệp của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 5/12/2012, “Ủy ban xã Mĩ Tế, huyện Nam Sa, Thành phố Tam Sa” trương biển thành lập, toàn xã có 53 ngư dân, nhưng hầu hết đều sống trên tàu. Trong số đó, Ủy ban thôn và 12 ngư dân canh lồng sống trên tàu nuôi cá trọng tải 1000 tấn (tàu cá Quỳnh Phú Hoa 01), số còn lại sống trên hai chiếc tàu chiếu sáng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp định song phương giữa các quốc gia ASEAN</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề biển Đông là một vấn đề đa phương điển hình. Về lí luận, tất cả các nước liên quan phải cùng nhau giải quyết mới là con đường giải quyết triệt để. Nhưng Trung Quốc không muốn đa phương hóa vấn đề biển Đông mà muốn đối thoại trực tiếp với từng nước liên quan, tức là các nước khác đàm phán 1-1 với Trung Quốc. Các nước ASEAN đương nhiên không muốn làm như vậy vì: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thái độ Trung Quốc hết sức cứng rắn, khẳng định các đảo và vùng biển ở biển Đông đều thuộc về Trung Quốc, không có cơ sở để đàm phán; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ha</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">i, thực lực các nước ASEAN yếu hơn Trung Quốc rất nhiều, tất nhiên ở thế rất yếu khi đàm phán đơn phương với Trung Quốc; </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ ba</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vì vấn đề biển Đông về cơ bản có liên quan đến bên thứ ba nên dù đàm phán song phương thành công cũng không thể giải quyết triệt để vấn đề. Trong trường hợp đàm phán đa phương không kết quả, các nước ASEAN có xu hướng áp dụng phương thức khác, đó là tiến hành đàm phán song phương trong nội bộ ASEAN để xác định lập trường chung, trên cơ sở đó tiến hành đàm phán với Trung Quốc với tư cách một khối ASEAN thống nhất. Về mặt sách lược, đây là cách làm lí tưởng và phù hợp thực tế nhất đối với các nước ASEAN. Tuy nhiên, chỉ cần đàm phán song phương giữa các nước ASEAN đụng chạm đến lợi ích của Trung Quốc là Trung Quốc phản đối và kháng nghị. Điều đó cho thấy phương thức “đối thoại trực tiếp với nước liên quan, giải quyết song phương” do Trung Quốc đề xuất là không thực tế.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đàm phán song phương giữa các quốc gia ASEAN về các vùng biển đã được tiến hành từ lâu và cũng đạt được nhiều kết quả trên tinh thần hợp tác, hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trước 1990, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Myanmar là các nước chủ yếu đạt được Hiệp định. Ngay từ ngày 27/10/1969, Malaysia và với Indonesia đã kí “Hiệp định phân giới thềm lục địa”; ngày 16/11/1971, Indonesia, Malaysia và Singapore đã kí “Tuyên bố về eo biển Malacca”; ngày 21/12/1971, Indonesia, Malaysia và Thái Lan kí kết “Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa nửa phía Bắc eo biển Malacca”; Ngày 3/12/1981, Indonesia và Malaysia kí “Hiệp định về lãnh hải và không phận”, sau đó kí tiếp “Hiệp ước phân định ranh giới Indonesia-Malaysia năm 1982”. Ngày 24/10/1979, Malaysia và Thái Lan kí “Hiệp ước phân định ranh giới lãnh hải giữa hai nước” và “Bản ghi nhớ về phân định ranh giới thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Thái Lan”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong số đó, các hiệp ước song phương giữa Indonesia và Malaysia đều đụng chạm đến đường 9 đoạn của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không bày tỏ bất kì sự phản đối nào vào thời điểm đó, điều đó cho thấy khi đó Trung Quốc chưa yêu sách vùng biển bên trong đường 9 đoạn, ít nhất thì đó cũng không phải vấn đề nhạy cảm.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi thống nhất, Việt Nam đã đề xuất thương lượng phân định ranh giới trên biển với các nước Đông Nam Á. Nhưng những năm 1980, Việt Nam và Campuchia chỉ đạt được “Hiệp ước về vùng nước lịch sử” vào ngày 7/7/1982, đồng ý </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rằng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vùng nước nằm giữa tỉnh Kiên Giang, đảo Phú Quốc đến đảo Thổ Chu của Việt Nam và bờ biển tỉnh Kampot đến nhóm đảo Poulo Wai của Campuchia là vùng nước lịch sử của hai nước theo chế độ nội thủy”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng lại chưa phân định rõ hơn ranh giới “vùng nước lịch sử” này mà chỉ quy định tạm thời lấy đường Brévié (Brévié Line) năm 1939 làm đường phân định trước khi đạt được hiệp định.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 302px; overflow: hidden; width: 396px;"><img height="302" src="https://lh6.googleusercontent.com/G_AG_357Y8iKqZTBQAyo44bxw0ZPQ9WbK7hvzuxPUdI_jpt2VXcoy9X1qoZG54WIzWqo93VLA6Vl2cj73huiqOWbR7Fn5ijOVRT4nvLoknD1CUDiStw0kI5zrhqb6QImDGghZA92WkfWlRtngUxVQso" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="396" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 63</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Ranh giới vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia theo hiệp ước 1982</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau 1990, với việc Việt Nam gia nhập ASEAN, việc phân giới cắm mốc liên quan đến Việt Nam ngày càng đạt được nhiều kết quả. Ngày 9/8/1997, Việt Nam kí với Thái Lan “Hiệp ước phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trên vùng vịnh Thái Lan”, vùng đặc quyền kinh tế và và thềm lục địa được chia đồng thời bởi một đường thẳng, từ điểm C (tức là điểm cực bắc của vùng khai thác chung giữa Malaysia và Thái Lan) đến điểm K (tức là đến đường ranh giới mà Việt Nam và Campuchia đạt được qua đàm phán).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 359px; overflow: hidden; width: 286px;"><img height="359" src="https://lh3.googleusercontent.com/4KCy0MoCxn4dEcIxeZdt0VaXOCwZJYtzja5XYTcToYWtsWpSSrXw_i2e8doEfZWWAacnMlbj91Oc8YHZnIBmGh7uBQ7-xEF_hnagE_jeEY-aotVYjApx402aGVL0c8fb2k4airNJh_6Cc4UFKYW4oC8" style="margin-left: -0.662049px; margin-top: 0px;" width="287.3240980138676" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 64</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Ranh giới biển giữa Việt Nam và Thái Lan theo Hiệp định 1997</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đàm phán về biên giới trên biển giữa Việt Nam và Indonesia lần đầu tiên diễn ra vào năm 1971 dưới chính quyền miền Nam Việt Nam. Cả Việt Nam và Indonesia khi đó đều giữ nguyên tắc trung tuyến, nhưng đã có những tranh cãi về việc có nên sử dụng quần đảo Natuna để xác định điểm bắt đầu của đường trung tuyến hay không. Việt Nam cho rằng nên vẽ đường trung tuyến giữa đất liền Việt Nam và đảo Kalimantan, còn các đảo nhỏ ngoài khơi (như quần đảo Natuna) không tính trong đó; nhưng Indonesia lại cho rằng đảo Natuna được quyền phân định ranh giới,và đề nghị trung tuyến giữa Natuna và Côn Đảo của Việt Nam cũng phải được đưa vào trong phân định, điều này có lợi hơn cho Indonesia. Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đề xuất phương án mới, cho rằng ở bờ biển phía bắc đảo Pulao Sipitung, đảo cực bắc của quần đảo Natuna, có một rãnh sâu tự nhiên, hai nước nên căn cứ theo nguyên tắc “phần mở rộng tự nhiên của thềm lục địa”, lấy đó làm đường phân giới, nhưng Indonesia kiên quyết giữ nguyên tắc trung tuyến. Cho đến cuối những năm 1970, đàm phán giữa hai nước ngưng ngang.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ hai nước được cải thiện và đàm phán được nối lại. Ngày 26/6/2003, Việt Nam và Indonesia kí kết “Hiệp định phân định thềm lục địa”,</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> phân định ranh giới thềm lục địa tại phía Bắc đảo Natuna. Đường ranh giới được xác định bằng 5 đoạn thẳng nối liền 6 điểm cơ sở với nhau. Điểm cơ sở thứ nhất ở cực Đông (point 25) là điểm cực Bắc của đường ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Malaysia. Điểm này cùng với điểm cơ sở thứ hai (point X1) đều nằm bên trong đường 9 đoạn của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều đáng chú ý là việc phân định thềm lục địa giữa hai nước không ảnh hưởng đến việc phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước sau này. Nghĩa là, không giống với đường phân giới giữa Việt Nam và Thái Lan, đường phân giới thềm lục địa và đường phân giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia có thể không là một.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 701px; overflow: hidden; width: 458px;"><img height="701" src="https://lh5.googleusercontent.com/-0e10O5CbO5Xz2Wc5VktomeA1xHL4Mu9Fc6kVhbCKeMsBHinU5OmKQk5yE0gEbPfGJ9Brru2PNAJJYkgUwkmM_saPHv9DPcH_BbPcZmFoDdrSxPrz153A9h3ROwe8ividaHLSFaobVL_wzZVBZGyIJE" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="458" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 65</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đường phân giới biển giữa Việt Nam và Indonesia theo hiệp định 2003</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt Nam và Malaysia đều có yêu sách biển chồng lấn ở Vịnh Thái Lan lẫn ở biển Đông. Do tính chất phức tạp của tình hình (các yêu sách chủ quyền chồng lấn với Thái Lan ở Vịnh Thái Lan và thậm chí phức tạp hơn ở biển Đông) nên đến nay, Việt Nam và Malaysia chưa đạt được thỏa thuận về ranh giới biển. Nhưng hai nước đều nhất trí quan điểm “gác tranh chấp, cùng khai thác”, và không có điều kiện tiên quyết “chủ quyền thuộc về ta”. Ngày 5/6/1992, hai nước kí kết “Bản ghi nhớ (MoU) giữa Việt Nam và Malaysia về thăm dò và khai thác dầu khí tại khu vực xác định ở thềm lục địa hai nước”, xác định khu vực có diện tích 1 350 km</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (PM-3 CAA) để cùng khai thác dầu khí (không nằm trong đường 9 đoạn). Khu vực này đã bắt đầu được khai thác dầu từ năm 1997. Hai nước còn cùng tiến hành khảo sát chung các khu vực đáy biển ở biển Đông để xác định giới hạn thềm lục địa ngoài. Điều này đã dẫn đến một vòng tranh chấp mới về biển Đông năm 2009 (xem phần VI.3).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; font-family: verdana; height: 395px; overflow: hidden; width: 531px;"><img height="395" src="https://lh3.googleusercontent.com/A3vkrq5E7WnJVwL-m-ewkuMSd6xEIwGK8Vn1kC14_bD5KLRrw93O5xL-n6PUsJ9bL3IIjhs7GvczbnCCQdDVce72uaPfQKmRt1BJ1IxIhh9YdmFSNKlYyw4r9nAlmHsqntiqKduq6gXgijVd_y_fo1g" style="margin-left: -0.0185211px; margin-top: 0px;" width="531.0370422043949" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 66</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Phân định biển Việt Nam – Malaysia theo MoU 1992</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài tranh chấp về vùng biển, đến những năm 1980, giữa Malaysia, Indonesia và Singapore còn đột nhiên xảy ra tranh chấp về lãnh thổ. Malaysia và Indonesia tranh chấp về hai đảo nhỏ trên vùng biển Sulawesi gần Sabah thuộc Kalimantan: đảo Sipadan (Pulau Sipadan) và Ligitan (Pulau Ligitan). Trước tranh chấp, vùng này do Sabah quản lí. Năm 1982, Indonesia đột nhiên tranh chấp hai đảo với lí do là Anh và Hà Lan đã kí hiệp định phân định ranh giới Borneo năm 1891. Chiểu theo Hiệp định này, hai đảo nhỏ nằm trong vùng biển Indonesia. Tranh cãi bế tắc nên tháng 5/1997 hai nước chính thức kí kết hiệp ước đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền cho Tòa án quốc tế phân xử. Trong thời gian diễn ra tố tụng, Philippines đã đưa ra phản đối do có tranh chấp về Sabah (Philippines và Malaysia có tranh chấp về chủ quyền đối với Sabah mà hai đảo này lại thuộc quyền quản lí của Sabah trong lịch sử) nhưng đã bị Tòa bác bỏ. Ngày 17/12/ 2002, Tòa trọng tài ra phán quyết trao hai đảo nhỏ đó cho Malaysia. Căn cứ chủ yếu là do Malaysia đã thực quản lí hai đảo hơn 150 năm không có tranh chấp trong một thời gian dài. Hai nước đều tuân thủ phán quyết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Singapore và Malaysia tranh chấp về rạn Pedra Branca (Malaysia gọi là Pulau Batu Puteh). Pedra Branca nằm ở cửa Đông eo biển Singapore, cách Singapore 25,5 hải lí về phía Đông, cách Johor của Malaysia 7,7 hải lí, diện tích chưa đến 10 000 m². Khởi đầu, nó được Sultan Johor cai trị, nhưng đến năm 1840, Anh chiếm Pedra Branca, xây đèn biển trên đảo, giao cho Singapore quản lí. Năm 1953, Bí thư thuộc địa Singapore của Anh đã gửi một bức thư tới Quốc vương Johor, hỏi về chủ quyền của Pedra Branca. Quyền Bí thư của Sultan Johor phúc đáp, cho rằng chính quyền bang Sultan không có chủ quyền đối với Pedra Branca. Sau khi giành độc lập, Singapore tiếp tục thực hiện quyền quản lí đối với Pedra Branca. Từ năm 1962-1975, Malaysia xuất bản ít nhất 6 tấm bản đồ có ghi chú đảo này là của Singapore. Nhưng đến năm 1979, Malaysia lại đột nhiên khẳng định Pedra Branca thuộc Malaysia trong bản đồ “Ranh giới thềm lục địa và lãnh</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hải Malaysia” (bản đồ mà Malaysia dùng để khẳng định chủ quyền một số đảo trong quần đảo Trường Sa), Singapore lập tức phản đối. Tranh cãi không kết quả, năm 1994 hai bên đồng ý đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền đảo cho Tòa án quốc tế phân xử, và chính thức nộp đơn cho Tòa vào năm 2003. Ngày 13/2/2008, Tòa quốc tế phán quyết rằng Pedra Branca thuộc về Singapore. Lí do chủ yếu là do Singapore quản lí trên thực tế đảo và do Malaysia cũng công nhận tình trạng này trong lịch sử. Cả hai nước đều chấp nhận phán quyết.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp lãnh thổ và vùng biển giữa Malaysia và Brunei cũng diễn ra từ lâu. Tranh chấp chủ quyền trên đất liền chủ yếu là vấn đề Lâm Mộng (Limbang). Limbang thuộc Sarawak, phía Đông và phía Tây của Limbang đều là lãnh thổ của Brunei. Brunei khẳng định chủ quyền đối với Limbang. Về vùng biển, Brunei chủ trương vùng đặc quyền kinh tế cách bờ biển 200 hải lí, còn thềm lục địa kéo dài xa hơn. Nhưng Malaysia lại cho rằng, chiểu theo hiệp định đã kí trước kia giữa hai nước thì giới hạn vùng nước cách bờ của Brunei chỉ kết thúc bên ngoài đường đẳng sâu 200 foot (đơn vị đo lường Anh) 3 hải lí. Theo phương án của Brunei thì Brunei có chủ quyền đối với bãi Louisa (TQ gọi là Nam Thông) đã bị Malaysia tuyên bố chủ quyền, đồng thời tuyên bố có chủ quyền đối với bãi chìm Vũng Mây (TQ gọi là Nam Vi) trên thềm lục địa mở rộng. Bãi này nằm bên ngoài thềm lục địa mà Malaysia yêu sách, Malaysia không đòi chủ quyền đối với nó. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 2003, công ti dầu khí quốc gia của Malaysia Petronas trao quyền khai thác hai lô ngoài khơi trong khu vực chồng lấn cho công ti Murphy Oil, nhưng năm 2000, Brunei đã lần lượt trao quyền khai thác hai lô đó cho 3 công ti dầu khí do công ti Royal Dutch Shell Plc đứng đầu và 3 công ti dầu khí do công ti Total S.A. đứng đầu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì thế mâu thuẫn giữa Malaysia và Brunei ngày càng tăng lên. Brunei đưa tàu chiến truy đuổi tàu quan trắc của công ti Murphy. Malaysia đáp trả bằng việc điều tàu chiến ra ngăn cản tàu của Công ti Total S.A. tiến vào khu vực này. Cuối cùng, hai bên đều dừng khai thác ở đó. Ngày 16/3/2009, Malaysia và Brunei kí kết một thỏa thuận trọn gói (Exchange of Letters) giải quyết vấn đề trên bộ và trên biển, đồng thời quy định rằng hai nước sẽ hợp tác khai thác dầu khí và tài nguyên thiên nhiên tại khu vực tranh chấp ngoài ranh giới lãnh hải, vì thế hiệp định này được gọi là “đổi chủ quyền lấy dầu”.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Để làm yên lòng dân hai nước, các chi tiết của thỏa thuận không được công bố ngay lập tức mà được hé lộ nhỏ giọt thông qua các quan chức phụ trách thông tin. Về đất liền, dù Limbang không được đề cập trong hiệp định nhưng Brunei đã công nhận 5 hiệp ước liên quan đến Sarawak trong lịch sử, điều đó có nghĩa là Limbang thực sự được công nhận là thuộc Malaysia.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn về biển thì tin tức rất ít ỏi khiến còn khó hiểu hơn. Trong cuộc họp báo sau khi Hiệp định được kí kết, hai bên tuyên bố đã đạt được Hiệp định phân giới biển. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Both Leaders noted the agreement of their respective Governments on the key elements contained in the Exchange of Letters, which included the final delimitation of maritime boundaries between Brunei Darussalam and Malaysia, the establishment of Commercial Arrangement Area (CAA) in oil and gas, the modalities for the final demarcation of the land boundary between Brunei Darussalam and Malaysia and unsuspendable rights of maritime access for nationals and residents of Malaysia across Brunei's maritime zones en route to and from their destination in Sarawak, Malaysia provided that Brunei's laws and regulations are observed.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai nhà lãnh đạo đã ghi nhận thỏa thuận của Chính phủ hai nước về các điểm mấu chốt trong Thư trao đổi, trong đó có việc phân định ranh giới biển cuối cùng giữa Brunei Darussalam và Malaysia, việc thành lập Khu vực Thoả thuận thương mại (CAA) về dầu khí, phương thức phân định ranh giới đất liền cuối cùng giữa Brunei Darussalam và Malaysia, và quyền đi vào biển không bị ngưng lại (un-suspendable rights) đối với công dân và cư dân Malaysia khi đi qua các vùng</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">biển của Brunei để tới Sarawak của Malaysia, với điều kiện phải tuân thủ luật pháp và quy định của Brunei</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thỏa thuận cụ thể không được công bố. Năm 2010, Brunei tuyên bố, căn cứ vào thỏa thuận năm 2009, Brunei có chủ quyền đối với hai lô nói trên, nhưng không nhắc đến khu vực khác. Do hai lô này nằm ở giữa khu vực tranh chấp nên có vẻ có thể suy luận ra là thỏa thuận quy định rằng Brunei sở hữu toàn bộ khu vực tranh chấp. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam nộp đơn chung cho Liên Hiệp quốc về phương án phân định thềm lục địa mở rộng. Theo phương án này, thềm lục địa phía Đông Malaysia vẫn giữ nguyên cách vẽ năm 1979. Nhưng trong phương án ban đầu do Brunei nộp đã ghi rõ “phân giới biển trong vòng 200 hải lí của Brunei và Malaysia đã được phân chia theo hai hiệp định: </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lãnh hải và thềm lục địa bên trong đường đẳng sâu 100 fathom (fathom = 1,8 m -ND), đã được phân định bởi hai pháp lệnh của Hội đồng Anh năm 1958 (British Orders in Council); </span><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vòng 200 hải lí đã được phân định theo Hiệp định 16/3/2009. Brunei còn nhấn mạnh là có quyền yêu sách chủ quyền đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lí.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo ẩn ý của Brunei thì hai bên đã đạt được thỏa thuận thừa nhận vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo yêu sách chủ quyền ban đầu của Brunei. Malaysia tỏ ra đã buông bỏ yêu sách chủ quyền đối với đá Louisa).</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được Hiệp định phân giới Vịnh Bắc Bộ vào năm 2000. Một loạt hiệp định và trọng tài này đều là những ví dụ đáng tham khảo đối với vấn đề chủ quyền và phân giới biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 13pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hợp tác thăm dò Trung Quốc-Philippines-Việt Nam chóng tan</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc luôn đề xướng “gác tranh chấp, cùng khai thác”, đặc biệt là cùng khai thác tài nguyên dầu mỏ. Nhưng, các nước không nhiệt tâm lắm với việc này, bởi khẩu hiệu mà Trung Quốc đưa ra ngầm chứa ý “chủ quyền thuộc về ta”. Hợp tác với Trung Quốc sẽ bị Trung Quốc tuyên truyền là thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc. Ngoài ra, những khu vực mà Trung Quốc đề xuất cùng khai thác đều là những khu vực thềm lục địa ven biển mà các nước khác đã dày công khai thác trong nhiều năm. Với các nước, đó là cái gọi là “Cái gì của tôi là của tôi, cái gì của bạn là của chúng ta” (我的是我的, 你的是我們的: ngã đích thị ngã đích, nhĩ đích thị ngã môn đích). Vì vậy, phần lớn các nước này hợp tác khai thác dầu khí với phương Tây hoặc các nước ngoài khu vực mà không chọn hợp tác với Trung Quốc. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, năm 2004 bỗng xuất hiện sự kiện “cùng khai thác” với Trung Quốc. Nhân vật chính của sự kiện này là Philippines, nước xưa nay luôn đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Sở dĩ Philippines đột nhiên chuyển hướng như vậy là vì có một nhóm nhỏ quan chức cao cấp của Philippines luồn lách qua cơ cấu quyết sách đã định, làm trái với sách lược của đất nước và của ASEAN, trong đó có người còn dính dáng đến tham nhũng liên quan tới Trung Quốc.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Tổng thống Arroyo lên nắm quyền, đúng vào lúc Mĩ bắt đầu cuộc chiến chống khủng bố, giảm quan tâm đến Đông Nam Á. Đồng thời, Trung Quốc cũng bước vào thời kì phát triển tốc độ cao, dồn tâm sức nhiều hơn cho việc thúc đẩy việc “cùng khai thác” ở biển Đông. Khi đó, Chủ tịch Hạ viện Philippines, Jose de Venecia Jr đã đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn này. Ông ta là người thu lợi nhiều nhất trong cao trào dầu mỏ lần thứ nhất của Palawan, có sức ảnh hưởng rất lớn trong giới dầu mỏ Philippines. Ông cũng là nhân sĩ trong phe thân Trung Quốc trên diễn đàn chính trị, khởi xướng thành lập Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á, và đảm nhận chức vụ Hội trưởng Hiệp hội tìm kiếm hòa bình Châu Á, liên hệ rất mật thiết với các diễn đàn chính trị Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một nhân vật quan trọng khác của Philippines là Eduardo Manalac, làm việc một thời gian dài trong ngành dầu mỏ, từng là giám đốc thăm dò của Công ti Dầu khí Philips của Hoa Kì tại Trung Quốc trong 7 năm và có mối quan hệ thân thiết với ngành công nghiệp Trung Quốc. Năm 2003, sau khi nghỉ hưu, ông ta ông tham gia chính phủ đảm nhận chức Thứ trưởng Bộ tài nguyên năng lượng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong việc thu hút đầu tư vào các mỏ dầu ở Philippines, do tình hình chính trị khu vực biển Đông phức tạp cùng hiệu suất thăm dò trước nay yếu kém và nhiều nguyên do khác nên các công ti dầu khí quốc tế ít khi quan tâm. Vì thế Eduardo Manalac muốn hợp tác với các công ti Trung Quốc và đã thuyết phục được Arroyo, tìm sự giúp đỡ của Jose de Venecia Jr vốn có quan hệ thân thiện với Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 9/2003, Ủy viên trưởng Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Chủ tịch Quốc hội – ND) Trung Quốc Ngô Bang Quốc thăm Philippines, vào thời điểm đó ngân hàng trung ương của hai nước vừa đạt được thỏa thuận hoán đổi tiền tệ. Trong bài phát biểu của mình, Ngô Bang Quốc nhắc đến chủ trương cùng khai thác ở Trường Sa. Chủ tịch Hạ viện Jose de Venecia Jr phụ trách tiếp đón Ngô Bang Quốc tán thành lời phát biểu này ngay. Ngày 10/11, Công ti dầu khí Quốc gia Philippines và Công ti dầu khí Trung Quốc kí thư tỏ ý định, đồng ý thăm dò chung trên một vùng biển nào đó thuộc biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Manalac tin rằng nếu Philippines có thể thăm dò dầu mỏ ở đó và thu được một số lợi ích thì tốt hơn là không có gì cả, nhưng ông ta không có đủ hiểu biết về an ninh quốc gia và lợi ích của ASEAN. Arroyo xem xét toàn bộ tình hình và có hơi do dự. Nhưng tháng 7/2004, bà bất đồng với Mĩ đối với việc rút quân khỏi Iraq nên quay sang Trung Quốc. Dưới sự sắp xếp của Jose de Venecia Jr, bà bất ngờ đi thăm Trung Quốc vào tháng 8. Sau đó bà đổi thái độ do dự, điều Eduardo Manlalac về làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ti dầu khí Quốc gia Philippines, đồng thời ngày 1/9 kí “Thỏa thuận cùng thực hiện khảo sát địa chấn biển” (Joint Seismic Marine Undertaking, JSMU) với Công ti Dầu khí Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc kí kết Thỏa thuận này được giấu kín đối với các đối tác ASEAN, đã phá hoại nguyên tắc thống nhất hành động của ASEAN, đồng thời đi ngược giải pháp đa phương cho vấn đề biển Đông do chính Philippines đề xướng. Trước khi đi đến quyết định, Arroyo thậm chí cũng không bàn bạc với Bộ trưởng Ngoại giao Philippines. Sau khi biết sự việc, Bộ Ngoại giao Philippines lập tức lên tiếng phản đối nhưng đã quá muộn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hành động đơn phương này của Philippines làm kinh động ASEAN. Việt Nam rất không hài lòng và đưa ra kháng nghị, vì trên lí thuyết thì bãi Lễ Nhạc (bãi Cỏ Rong/ Reed Tablemount) nằm trong phạm vi yêu sách của Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình huống phản đối không hiệu quả, Việt Nam buộc lòng phải tham gia, hình thành cuộc khảo sát chung 3 bên.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 14/3/2005, Tổng Công ti dầu khí Hải Dương Trung Quốc, Công ti dầu khí Quốc gia Philippines và Công ti dầu khí Việt Nam kí “Thỏa thuận ba bên về khảo sát địa chấn biển chung trong khu vực thỏa thuận tại biển Đông” có thời hạn 3 năm. Ba bên sẽ nghiên cứu đánh giá tình hình tài nguyên dầu mỏ trong khu vực khảo sát chung có tổng diện tích 140 000 km².</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 302px; overflow: hidden; width: 327px;"><img height="302" src="https://lh6.googleusercontent.com/fAjiKX_WdeDUwGuZADNCY83dJH2bWq4ZGGPGls4tm0YbAjbV2ZDlRBPPvVvSnIihE4MwjPhXVK-mqsR0-wmW50nUZlGfYYXETQFW8-zzmYvsQcPcPw64yr9jYYhD0JTwJmAMBOQ7SWzsIIUDO2equb8" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="327" /></span></span></span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;"> </span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 67</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khu khảo sát chung JSMU giữa Trung Quốc, Philippines và Việt Nam</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thỏa thuận giữa Trung Quốc và Philippines có vẻ xuất phát từ mong muốn tốt đẹp, nhưng thực tế sở dĩ nó đạt thành không phải không có dính dáng tới quan hệ lợi ích của tham nhũng. Eduardo Manalac có lẽ là một người tương đối trong sạch thời kì đó, ông đã nghỉ việc vào cuối năm 2006 vì “không chịu đựng được nạn tham nhũng”. Tháng 6/2007, trước thềm cuộc bầu cử quốc hội, vụ gian lận ZTE-NBN, gây chấn động chính trường, đã nổ ra ở Philippines liên quan đến một hợp đồng xây dựng mạng băng thông rộng trị giá 3,3 tỉ USD được kí vào tháng 4 giữa vụ Công ti Trung Hưng Trung Quốc (ZTE) và Công ti mạng băng thông rộng Philippines (BNB). Giới truyền thông tiết lộ rằng hợp đồng đã biến mất một cách bí ẩn vài giờ sau khi được kí kết.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau một hồi rùm beng trên báo chí, nội dung bản hợp đồng trở thành tiêu điểm bàn luận, chính phủ Philippines viện đủ lí do để không công khai nội dung bản hợp đồng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Jose de Venecia Jr hứng chịu búa rìu dư luận khi đó, con trai ông là Jose de Venecia III đang cạnh tranh với Công ti Trung Hưng Trung Quốc cuối cùng đã trở thành bên thua cuộc. Một nghị sĩ chỉ ra rằng, vốn liếng Công ti AHI của Jose de Venecia III thấp đến mức chỉ đủ mở một “cửa hàng tạp hóa”. Từ khi thành lập năm 2002 đến đó nó không hoạt động thực sự và chỉ có một vài nhân viên. Vậy làm sao nó có thể tham gia một dự án lớn như vậy?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau bầu cử Quốc hội, Jose de Venecia Jr lại tiếp tục đảm nhận chức Chủ tịch Hạ viện. Thượng viện đã yêu cầu Tòa án Tối cao xem xét lại hợp đồng. Tòa án đã phát lệnh tạm ngưng hiệu lực hợp đồng. Jose de Venecia III phải ra hầu tòa vào tháng 10, báo chí lại một phen dậy sóng: thứ nhất, giá trị hợp đồng bị đẩy lên quá cao, vượt quá 19,7 tỉ USD so với chính dự toán của anh ta (công ti AHI của anh ta đặt thầu 240 triệu USD, Công ti AI của Mĩ đặt 135 triệu USD); thứ hai, khi tham gia đấu thầu, đầu tiên anh ta bị một người trung gian (Chủ tịch Ủy ban bầu cử, Abalos) ra giá 10 triệu USD và yêu cầu anh từ bỏ đấu thầu, nhưng sau đó Abalos bị Mike, chồng của Tổng thống Arroyo, gây áp lực, yêu cầu không được ra tranh thầu.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các cuộc điều tra sau đó chỉ ra rằng chồng của Arroyo đã thu được ít nhất vài triệu USD từ ZTE trong giao dịch này. Sau đó, Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng làm chứng rằng Abalos đã hối lộ cho ông 5 triệu USD để phê duyệt thỏa thuận.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 1/2008, Thượng viện đưa ra kiến nghị bất tín nhiệm đối với Jose de Venecia. Tháng 2, Jose de Venecia bị buộc từ chức. Sau đó, ông tiết lộ rằng Arroyo đã cử ba sĩ quan quân đội cấp cao đến nhà ông để đe dọa ông và con trai ông không được lên tiếng về vấn đề này. Cuối cùng, do áp lực của nhiều cấp, Arroyo ra lệnh dừng thỏa thuận với Công ti Trung Hưng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó lại có người tố cáo, hành vi tham nhũng của Arroyo không chỉ dừng ở công trình mạng băng thông mà còn có liên quan rất rộng. Trong rất nhiều dự án xây dựng hạ tầng mà Philippines tham gia cùng các công ti và tổ chức viện trợ nước ngoài của Trung Quốc, chẳng hạn dự án đường sắt trên đảo Luzon, họ đã hợp tác với Arroyo và gia tộc thông qua các phương pháp giảm giá tương tự để có được hợp đồng.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Jose de Venecia cũng là một quan chức cao cấp nằm trong nhóm tham nhũng này, có điều lần này là cắn xé lẫn nhau mà thôi. Ngoài ra còn có tạp chí công kích rằng trong JSMU tồn tại một “điều khoản bán nước” bí mật.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói cách khác, những vụ hối lộ này cũng do chính Trung Quốc thực hiện để thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của họ, việc khảo sát chung giữa Trung Quốc và Philippines cũng liên quan đến điều đó. Sở dĩ Trung Quốc và Philippines đạt được thỏa thuận khảo sát chung cũng là do nó liên quan đến những hợp đồng thương vụ theo phương thức giảm giá mà Trung Quốc cung cấp cho gia tộc Arroyo.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bằng cách này, vụ bê bối tham nhũng do Trung Hưng hối lộ ngày càng lớn hơn. Mặc dù Arroyo kiên quyết phủ nhận nhưng ngày càng có nhiều người Philippines công kích hành vi “bán nước” của bà. Người tiền nhiệm Estrada của Arroyo bị hạ bệ vì tai tiếng tham nhũng, đến lượt Arroyo bây giờ cũng lún sâu vào tai tiếng. Trong bối cảnh đó, tháng 7/2008, sau khi giai đoạn khảo sát đầu tiên hoàn thành vào tháng 7 năm 2008, thỏa thuận khảo sát đánh giá dầu mỏ chung giữa Trung Quốc, Philippines, Việt Nam đã không được gia hạn.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hoạt động khảo sát qua mấy năm không thu được kết quả gì đáng kể.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do thỏa thuận JSMU trước sau không được công khai hóa, không thể biết rõ các điều khoản cụ thể nên không thể đoán định đây có phải hiệp định “bán nước” hay không, chẳng hạn “cùng khai thác” có phải hàm chứa hay ngầm thừa nhận tiền đề về quy thuộc chủ quyền hay không. Nhưng xét đến việc Việt Nam cũng tham gia hiệp định này thì khả năng xảy ra tình huống này không lớn, vì đối với vấn đề này Việt Nam nhạy cảm hơn Philippines nhiều. Tác giả cho rằng, ngay cả khi có những nghi ngờ về hối lộ ở Trung Quốc trong thỏa thuận này thì cũng không thể phủ nhận rằng bản thân điều này là một nỗ lực có lợi. Tuy nhiên, do quy trình không theo chuẩn mực, có bóng dáng của hối lộ và phớt lờ lập trường chung của ASEAN nên thử nghiệm này không thành công. Hậu quả lớn hơn của vụ việc này là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Philippines đã chính thức chống lại Trung Quốc kể từ năm 2009. Còn Trung Quốc thì từ bỏ ý niệm cùng khai thác, tìm biện pháp mạnh hơn để mở mang thế lực tại biển Đông</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">V.9. Kết luận: Sự hình thành tình trạng hiện nay </span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau Chiến tranh lạnh, hòa bình và phát triển trở thành tiếng nói chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Trung Quốc và các nước ở biển Đông vừa có nhu cầu tăng cường hợp tác kinh tế, chính trị, vừa có mâu thuẫn về vấn đề biển Đông, nhưng vế sau không đóng vai trò chủ đạo. Bước tiến của Trung Quốc ở biển Đông ban đầu chỉ giới hạn ở phía Tây quần đảo Trường Sa. Nhưng sau khi Mĩ rút quân khỏi Philippines và quan hệ Trung Quốc – Việt Nam được cải thiện, Trung Quốc lại đổi hướng bành trướng sang đá Vành Khăn ở phía Đông biển Đông, lực lượng ngư chính trở thành công cụ lợi hại để Trung Quốc tiến xuống biển Đông. Mặc dù lực lượng các nước quanh biển Đông đều yếu hơn Trung Quốc, nhưng hợp nhau lại ASEAN có đủ sức mạnh chống lại Trung Quốc. Năm 1992, tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN, các nước thành viên đã ra “Tuyên bố của ASEAN về biển Đông”, đề xuất thương thảo với Trung Quốc xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với ASEAN và cục diện phát triển ở biển Đông. Từ đó, các nước có lập trường gần nhau tại khu vực biển Đông bắt đầu hình thành ASEAN như một khối giữ thế đối đầu với Trung Quốc. Bị khống chế bởi nhiều yếu tố khác nhau, sự bành trướng của Trung Quốc ở biển Đông bị hạn chế và Philippines cũng có thể chống chọi với áp lực của Trung Quốc tại bãi Cỏ Rong và bãi cạn Scarborough. Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN kí “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”, đánh dấu việc hình thành “hiện trạng” biển Đông được các bên thừa nhận. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Công ước Luật biển Liên hiệp quốc” có hiệu lực vào năm 1994 có ảnh hưởng rất sâu rộng. Sự cạnh tranh ở biển Đông đã mở rộng từ việc tranh giành các đảo sang tranh giành các vùng biển. Đường 9 đoạn trước đây bị bỏ quên bắt đầu trở thành một công cụ mới cho sự bành trướng của Trung Quốc. Đài Loan đi đầu trong việc cố gắng xác định đường 9 đoạn là vùng nước lịch sử, nhưng đã xếp lại trước sự phản đối; Trung Quốc sau đó đã cố gắng đưa ra khái niệm về quyền lịch sử để hợp lí hóa yêu sách của mình đối với vùng nước bên trong đường 9 đoạn. Cần chỉ ra rằng yêu sách của Trung Quốc đối với các vùng nước bên trong đường 9 đoạn vẫn chưa rõ ràng và giới học thuật vẫn còn đang thảo luận. Nhưng điều khiến các nước quanh biển Đông lo ngại là Mĩ nhấn mạnh trở lại tầm quan trọng của tự do hàng hải. Đường 9 đoạn dẫn đến tranh cãi, nhưng “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” đã làm dịu tranh cãi. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-family: verdana; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong giai đoạn này, các bên ở biển Đông đã đạt được không ít thỏa thuận phân định vùng biển và lãnh thổ ở biển Đông và xung quanh. Sau khi “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” được kí kết, các bên đã tích cực chuyển từ “quân sự hóa” sang “dân sự hóa” biển Đông trong khuôn khổ “Tuyên bố”, củng cố chủ quyền thông qua việc di dân hoặc thành lập đơn vị hành chính tại các đảo, bãi. Điều này khiến Trung Quốc không vừa ý, mặc dù chính Trung Quốc cũng làm như vậy. Trung Quốc, Philippines và Việt Nam thử nghiệm hợp tác thăm dò dầu khí chung ở biển Đông, nhưng đã kết thúc ngang do các vụ bê bối tham nhũng. Điều này đánh dấu sự kết thúc của chính sách biển Đông của Trung Quốc trong giai đoạn này. Ngay sau đó, Trung Quốc đã triển khai cuộc tấn công mới vào biển Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">____________</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Xem bản dịch có chú thích <a href="https://docs.google.com/document/d/1_fSKTm880AK0h2xlmGsJ88Ecvy6n8i72ReopvNXrwSw/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây.</a></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của tranh chấp biển Đông </span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-align: justify; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-align: justify; text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></p><br /></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-57527612176700696112022-12-01T22:31:00.000-08:002022-12-01T22:31:14.001-08:00Các'nước' vùng Đông Nam Á trong thiên kỉ I theo sử sách Trung Hoa<h2 style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana;"> <span style="text-align: center; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: x-large;">Vượt ra ngoài biên giới phía Nam: Đông Nam Á<br /></span></span></span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: x-large;">theo tài liệu Trung Quốc cho đến thế kỉ thứ IX</span></span></h2><span id="docs-internal-guid-764c7cc8-7fff-c9ca-7961-152f4e3d89cf"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;"><i><br /></i></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;"><i>Geoff Wade </i></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;"><br /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;">(Trích từ <i>Lost kingdoms: Hindu-Buddhist sculpture of early Southeast Asia, John Guy, New Haven Yale University Press c2014)</i></span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Lịch sử mà chúng ta có ngày hôm nay về các thực thể chính quyền (polity) và các xã hội của Đông Nam Á trong thiên niên kỉ thứ nhất của Công nguyên này vẫn còn sơ sài, mới chớm và không chính xác. Tuy nhiên, chúng thậm chí còn ít ỏi và thô sơ hơn nếu không nhờ có các ghi chép về khu vực được ghi lại trong các nguồn cổ điển Trung Quốc. Bài viết này giới thiệu một số trong những tài liệu này, nêu bật những gì chúng có thể nói với chúng ta về các chính thể và độ lâu của chúng, mối quan hệ của chúng với các chính thể khác, đặc điểm văn hoá của họ và mối quan hệ tôn giáo của họ. Phần trình bày tiếp theo không nhằm mục đích toàn diện, hoặc thậm chí nhất thiết phải có sự mạch lạc, lịch sử. Thay vào đó, chúng nhằm mục đích làm sáng tỏ các xã hội xa xưa theo cách tổng hợp, bằng cách trích ra từ nhiều nguồn dữ liệu có liên quan nhất đến các truyền thống được trình bày trong ấn phẩm này.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bối cảnh của những hiểu biết ban đầu của Trung Quốc về Đông Nam Á</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Trong thiên niên kỉ thứ nhất, sự can dự của người Trung Quốc với, và do đó, hiểu biết về, Đông Nam Á tiến hành theo nhiều chiều kích. Sự can dự về chính trị và quân sự với các chính thể liền kề ngay phía nam đã cung cấp một số hiểu biết; các đoàn sứ cung cấp các thông tin khác; thương nhân từ các nơi trên khắp Âu Á mang những thông đến Trung Quốc; và những người hành hương Phật giáo Đông Á thường đi đến quê hương Đức Phật bằng đường biển dọc theo bờ biển Đông Nam Á lục địa và xuyên qua các vùng biển xung quanh. Cho đến thế kỉ X, kiến thức của Trung Quốc về Đông Nam Á dường như chỉ giới hạn ở lục địa, bán đảo Malay và Sumatra-Java. Ba vùng này sẽ phục vụ như việc sắp xếp các loạic tài liệu Trung Hoa được xem xét dưới đây.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các thông tin lịch sử sớm nhất của Trung Quốc về các chính thể của vùng biển Đông Nam Á dường như tìm thấy trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hán Thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 漢書, một tài liệu viết ra vào khoảng năm 100 CE. Nó mô tả một chuyến đi đến Đông Nam Á cũng như các chính thể-cảng được thăm viếng trong suốt chuyến đi. Tông tích (vị trí) của tất cả các địa danh được đề cập trong tài liệu vẫn còn gây tranh cãi (xem hình 30) Trong khi đích đến cuối cùng có thể là Kanchi(puram) / Conjeevaram, kinh đô Pallava ở miền nam Ấn Độ, cuộc hành trình có thể liên quan đến một tuyến đường xuyên quốc gia ở đâu đó gần eo đất Kra, tên và địa điểm của các chính thể Đông Nam Á là những bí ẩn. Các tài liệu khác gợi cho thấycó các kết nối giao thương bằng đường biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông trong thế kỉ thứ hai hoặc sớm hơn.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Hoạt động thương mại giữa Nam Á và Đông Nam Á đã phát triển trong thời trị vì của các nhà cai trị Gupta (thế kỉ IV - VI) ở miền bắc Ấn Độ và dưới triều đại Pallava (thế kỉ IV-IX) và Pandya (thế kỉ VI-X) ở miền nam Ấn Độ. Việc mở rộng giao thương đường biển ở vịnh Bengal và biển Đông trong những thời kì này cũng cung cấp các tuyến đường biển mới cho các nhà sư Phật giáo Trung Quốc đi đến Ấn Độ. Các thế kỉ VII và VIII chứng kiến việc mở rộng giao thương đường biển giữa Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Quốc cùng với việc tăng cường sự tham gia của các thương nhân Ba Tư và Ả rập, dù có những sự kiện phức tạp như việc các thương nhân Côn Lôn 崑崙 giết tổng đốc Quảng Châu trong một vụ tranh chấp thương mại năm 684; việc những người đi biển được mô tả trong các tài liệu tiếng Trung như là người Ba Tư 波斯 (Iran ) và Arabs 大食 (Đại Thực) cướp phá Quảng Châu năm 758; việc giết chết hàng ngàn thương nhân Ba Tư 波斯 ở cảng Dương Châu 揚州 của Trung Quốc năm 760; và việc đốt phá và cướp bóc Quảng Châu của loạn Hoàng Sào 黃巢 vào năm 878. Những thương nhân từ các nước Đông Nam Á cũng tham gia vào việc giao thương này và vai trò của họ sẽ được bàn luận dưới đây. Chính trong bối cảnh giao thương đường biển tầm xa này, được thực hiện qua các tàu Đông Nam Á và Nam Á (không phải là tàu Trung Quốc) trong thời gian này, mà chúng ta có thể xác định vị trí các nước ở Đông Nam Á từ những ghi chép liên quan trongcác tài liệu Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: large;"><div style="text-align: center;"><span><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwfwOvySUXWYvJcauzmfn1mrZ86xedsljc8iWx3T0btoBMal-XuKHESzMv_tPmvMssDz1fOFTK-W1JOvccYzh8pniZyCwkQ31thdthdowEXrFHduAYIARGeTyd_gxytY0e-P0qlS47damg10dpQ5wTOr_yzdvBATHDgpZRE_n1p53fvRl3j-t-sDE_PA/s811/GeoffWade.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="811" data-original-width="635" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwfwOvySUXWYvJcauzmfn1mrZ86xedsljc8iWx3T0btoBMal-XuKHESzMv_tPmvMssDz1fOFTK-W1JOvccYzh8pniZyCwkQ31thdthdowEXrFHduAYIARGeTyd_gxytY0e-P0qlS47damg10dpQ5wTOr_yzdvBATHDgpZRE_n1p53fvRl3j-t-sDE_PA/s16000/GeoffWade.JPG" /></a></div><br /><span style="font-family: verdana; font-size: large;"><br /></span></span></div></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;">Các chính thể Đông Nam Á trên đất liền</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Tổng quan này bắt đầu với các chính thể nằm trên phần đất liền của Đông Nam Á, do đó gần gũi với các nhà quan sát Trung Quốc nhiều hơn.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Champa</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lâm Ấp </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">林邑</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Hoàn Vương </span><span style="color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">環王</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Chiêm Bà</span><span style="color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">占婆</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / </span><span style="background-color: yellow; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiêm Bất Lao</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">占</span><span style="color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">不勞</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Chiêm Thành </span><span style="color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">占城,</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Lâm Ấp, Hoàn Vương, và Chiêm Bà là tên gọi bằng tiếng Trung kế tiếp nhau của một chính thể mà các về các nhà sử học thường gọi Champa (Chữ Phạn: Campa), được thành lập bởi một tầng lớp thượng lưu nói tiếng Austronesian. Lãnh thổ của nó nằm ngay phía nam các khu vực do Trung Quốc cai quản ở vùng phía bắc Việt Nam hiện nay, kéo dài về phía nam dọc theo bờ biển miền trung cho tới đồng bằng sông Cửu Long.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Lâm Ấp dường như đã tồn tại trong khu vực này vào thế kỉ II hoặc sớm hơn, và kinh đô của nó cho đến thế kỉ VII có khả năng nằm gần Trà Kiệu hiện nay trong thung lũng sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Các sứ giả từ chính thể này xuất hiện tại triều đình nhà Tấn gần Nam Kinh hiện nay, Trung Quốc, từ năm 280 đến 290,</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Xã hội này chắc chắn đã có chữ viết vào thế kỉ IV, vì một sứ giả Lâm Ấp, được sai đến triều đình nhà Tấn vào giữa thế kỉ đó, đã dâng một bức trướng được viết bằng chữ “nước ngoài” 胡字 (hồ tự). , Và loại chữ đang nói nàycó vẻ là chữ Ấn, và đây là ghi nhận xưa nhất về việc sử dụng chữ viết ở Đông Nam Á. Những ảnh hưởng khác của Ấn Độ rõ ràng đã thâm nhập vào xã hội vào thế kỉ V, được biết ở Lâm Ấp vào thế kỉ V, các thầy giáo được kính trọng được gọi là Brahman 婆羅門 (bà la môn) và những người Brahman này thực hiện phép hôn phối trong các lễ cưới.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 10pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nhánh tôn giáo của người Lâm Ấp vào thế kỉ V được mô tả trong tài liệu </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Tề thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="background-color: white; color: #545454; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">南齊書</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, biên soạn năm 537, ghi nhận rằng vua Lâm Ấp là một người theo đạo </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nigranthas</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 事尼乾道 (sự ni can đạo), có thể là nói đến các Brahman khổ hạnh như Šaiva Pasupatas, và ông đã cho đức tượng vàng và bạc có hình thù với chu vi 10 </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wei</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Vàng, theo tài liệu Trung Quốc, có rất nhiều ở Lâm Ấp, thu hút sự chú ý của cả thương nhân lẫn kẻ xâm lăng.”</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Danh hiệu Ấn Độ đầu tiên được biết đến của vua Lâm Ấp xuất hiện trong một tài liệu năm 529, theo đó danh hiệu được nêu ra là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gao-shu-lu-tu-luo-ba-mo</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (có khả năng là Ku Šrī Rudravarman), dường như kết hợp các yếu tố Chăm và Phạn. “Đến cuối thế kỉ VI, các tên và hiệu Ấn Độ, cũng bao gồm cả các yếu tố Phạn lẫn Đông Nam Á, đã phổ biến rộng khắp trong xã hội, kể cả trong cơ cấu cai quản. Việc xuất hiện một triều đại thống nhất lên cầm quyền, nhà Tuỳ, ở Trung Quốc năm 581 một lần nữa cho phép thực hiện các hành động quân sự ở phía nam.Vào năm 605, hoàng đế Tuỳ ra lệnh mở cuộc tấn công thuỷ binh tiếp vào Lâm Ấp. Khi vào kinh đô, lực lượng của tướng Lưu Phương 劉方 đã chiếm giữ 18 ngôi đền chính, tất cả đều đúc bằng vàng và được biết là biểu thị cho 18 đời vua kế tiếp nhau của Lâm Ấp, họ cũng lấy đi 1 350 quyển kinh sách Phật giáo, cho thấy Lâm Ấp vào thời điểm đó là trung tâm Phật học lớn.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Ngoại giao và thương mại giữa triều đình nhà Đường và Lâm Ấp, bây giờ đã bị ảnh hưởng của Trung Quốc, sau đó được tăng tốc, với các đoàn sứ đến Trung Quốc và trao đổi các sản phẩm được ghi nhận trong các năm 686, 691, 695, 699, 702, 703, 706, 707, 709, 711, 712,713 và 731. Lâm Ấp phái sứ giả tới Trung Quốc lần cuối cùng năm 749.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào giữa thế kỉ VIII, một sự thay đổi đã xảy ra với tên nước của Champa được người Trung Quốc biết đến. Nói về Lâm Ấp, </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường Hội yếu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 唐會要. (Lịch sử thể chế của Nhà Đường, nộp cho triều đình năm 961): “Sau triều Chí Đức 至德 (756-58), nó đã đổi tên thành Hoàn Vương và không còn được gọi là Lâm Ấp nữa.” Chính thể này dường như đã chuyển hoặc mở rộng sự cai quản về phía nam trong giai đoạn này, và dường như đã có tranh chấp với các thế lực Đông Nam Á khác, như cho thấy từ hai bia khắc. Một là bức bia Po Nagar ở Nha Trang, miền trung Việt Nam vào năm 784, ghi nhận rằng “những người hung ác, tàn nhẫn, đen tối của các thành phố khác ... đến bằng tàu và lấy đi linga của thần” vốn được dựng tại khu Kauthāra. “</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cái tên Champa dường như lần đầu tiên xuất hiện trong tập sách Trung Hoa năm 658, ghi thành </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiêm Bác</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 瞻博 và </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Đường thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 新唐書 (Lịch sử mới nhà Đường, được biên soạn năm 1060) ghi nhận rằng chính thể Hoàn Vương cũng được biết đến với tên Chiêm Bất Lao (Campapura hay Cam Pulau) hoặc Chiêm Bà (Cāmpa) Tuy nhiên, vào năm 877, cái tên mà Champa được người Trung Quốc biết đến trong 700 năm tiếp theo được ghi nhận lần đầu tiên: Chiêm Thành, nghĩa đen là “thành người Chăm”. Nước này có sai sứ đến triều đình Ngũ Đại Thập Quốc vào các năm 951,958, và 959.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Campuchia</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phù Nam </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">扶南</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Chân Lạp </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">真臘</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Văn Đan 文單</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một chính thể khác, được biết đến trong các tài liệu Trung Hoa là Phù Nam và tập trung xung quanh vùng đồng bằng sông Mêkông, đã thu hút sự chú ý của người Trung Quốc vào những thế kỉ đầu Công Nguyên. Nó lần đầu tiên xuất hiện trong các sách vở của Trung Quốc vào những năm 220, ghi nhận rằng nước Ngô của Trung Hoa đã cử một hoặc hai đoàn sứ tới đó để thúc đẩy việc buôn bán. Mặc dù nguồn gốc của cái tên tiếp tục được bàn cãi, có vẻ khá chắc chắn rằng “Phù Nam” là một cách biểu hiện bằng tiếng Trung của một từ Khmer. Trong những năm 670, nhà sư Trung Hoa Nghĩa Tịnh 義淨 lưu ý rằng “đi về phía tây nam trong một tháng (từ Lâm Ấp), thì đến nước Bạt Nam 跋南國, trước đây gọi là Phù Nam.” Ở đây, sau này, chúng ta thấy một cách biểu hiện khác bằng tiếng Trung của cái chắc chắn cũng là một từ Khmer, rất có thể là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bnam / phnom</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (núi hay đồi). Hầu hết các học giả liên kết chính thể này với địa điểm đầu tiên được biết đến hiện nay là Óc Eo (thế kỉ I-VI), ở miền Nam Việt Nam, và Angkor Borei (thế kỉ 4 -6) ở miền Nam Campuchia. Khá nhiều tài liệu Trung Hoa nói tới Phù Nam, và nhiều tài liệu trong số đó đã được nhà sử học và ngôn ngữ học Paul Pelliot khám phá vào đầu thế kỉ XX. Phạm vi và nội dung của các điều ghi chép này không để lại chút nghi ngờ rằng bắt đầu từ thế kỉ III trở đi Phù Nam là chính thể nổi trội ở Đông Nam Á. Rõ ràng là vào thời đó, những người đi biển của Phù Nam đã đi đến Ấn Độ. Biển cũng cung cấp khả năng chinh phục cho Phù Nam, và vào một lúc nào đó ở thế kỉ III, chúng ta biết có một nhà cai trị tên là Phạm [Sư] Mạn 范師蔓, đã nhiều lần kéo quân đi tấn công và đánh phá các nước láng giềng, mà tất cả đều thừa nhận mình là các chư hầu của ông, Chính ông đã áp dụng phong cách của “Đại vương Phù Nam”. Sau đó, ông ra lệnh đóng nhiều tàu lớn, và băng qua ngay trên Trướng Hải 漲海 (Vịnh Thái Lan, tấn công hơn mười nước, trong đó có Khuất Đô Côn 屈都昆, Cửu Trĩ 九稚 và Điển Tốn 典孫.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tấn thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Lịch sử nhà </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tấn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, biên soạn 648) lẫn </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Tề thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đều cho biết rằng Phù Nam có một kho lưu trữ kinh sách và chữ viết của họ tương tự như chữ viết người </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (“phương Tây”, ở đây có nghĩa là Ấn Độ). Hai bộ sử này cũng có nói tới truyền thuyết thành lập nước này, rất có thể là một biến thể của truyền thuyết Ấn Độ về cuộc hôn nhân của Kaundinya với con gái của vua </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nagas</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (rắn).Bàn luận vào đầu thế kỉ V, một nguồn sau này ghi nhận: “Vua Kaundinya 憍陳如 (Kiêu Trần Như) gốc là người Bà La Môn ở Ấn Độ 本天竺婆羅門也 (bản Thiên Trúc Bà La Môn dã), và ông nghe có tiếng nói của thần linh bảo rằng ông sẽ cai trị xứ Phù Nam. Kiêu Trần Như phấn khởi đi về phía nam tới nước Bàn Bàn. Dân chúng Phù Nam hay tin này đã tôn ông lên làm vua. Ông đã thay đổi thể chế và sử dụng luật lệ của Ấn Độ 復改制度用天竺法 (phục cải chế độ dụng Thiên Trúc pháp).” Rất hiếm khi chúng ta tìm thấy cac ghi chép rõ ràng về quá trình Ấn Độ hóa ở Đông Nam Á, thậm chí nếu có thể là ngụ ý.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Vào nửa sau của thế kỉ V, vua Phù Nam được ghi nhận có “họ” Kiều Trần Như 侨陈如 (Phúc Kiến, Giao-din-lu), một lần nữa thể hiện rõ ràng tên Kaundinya. Được biết tên ông là Khiết Da Bạt Ma 朅耶跋摩 (Jayavarman). Nguồn này còn nói rằng nhà cai trị này đã phái tu sĩ Ấn Độ 天竺道人 (Thiên Trúc đạo nhân) Na Cà Tiên 那伽仙 (Nāgasena) đến triều đình Liêu Tống ở Nam Kinh ngày nay cống nạp, bao gồm cả một bức tượng tạc hình long vương đang ngồi 金鏤龍王坐像一軀 (kim lũ long vương toạ tượng nhất khu), một bức tranh gỗ đàn hương trắng, và hai tháp ngà. Các sử quan Trung Quốc cũng mô tả các biểu tượng tôn giáo được sử dụng tại Phù Nam vào thời điểm này: “Họ thờ phụng thần 天神 (thiên thần), và họ có các tượng thần bằng đồng, có hai mặt, bốn tay, hoặc bốn mặt, tám tay, trên mỗi tay đều có cầm giữ một vật gì đó. Khi nói thờ “thần” là nói về đạo Bà La Môn.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Thế kỉ VII cho thấy là rất quan trọng đối với Phù Nam. Phù Nam đã sai các đoàn sứ cuối cùng tới Trung Hoa từ năm 618 đến năm 649. Trong khi đó, một nước khác, được người Trung Quốc biết đến là Chân Lạp, đã xuất hiện trong khu vực. Nguồn gốc của cái tên này đã được bàn cãi nhiều, nhưng khi biết cách phát âm ở Hokkien hai chữ này cho ra một sự tương ứng gần như hoàn hảo với “Tonle”, tên Khmer của hồ (Tonle Sap) tại trung tâm địa lí của văn hoá Khmer thì có thể ít nghi ngờ rằng cái tên này bắt nguồn từ tên cái hồ đó. Như vậy, nước Chân Lạp có thể nổi lên từ khu vực xung quanh Tonle Sap.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chân Lạp bắt đầu sai sứ tới kinh đô nhà Tuỳ nằm gần thành phố Tây An ngày nay, vào năm 616. “Một trong những ghi chép đầu tiên về chính thể mới này nằm trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuỳ thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 隋書 (lịch sử nhà Tuỳ ), một lịch sử triều đại hoàn thành năm 636, chỉ hai thế kỉ sau khi đoàn sứ Chân Lạp đầu tiên tới Trung Quốc. Tuỳ thư ghi: “Nước Chân Lạp nằm ở phía tây nam của Lâm Ấp, lúc đầu thần phục Phù Nam.” Nhà vua có họ Sát Lợi </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">剎利</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Ksatriya) và tên là Chí Đa Tư Na </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">質多斯那</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Citrasena). Tuỳ thư cho biết thêm rằng chính vào thời trị vì của Citrasena, Chân Lạp đã sáp nhập Phù Nam vào. Khi Citrasena qua đời, con trai ông là Y Xa Na Tiên </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">伊奢那先</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(lśanaena) lên thay thế, sống trong thành lśānapura </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">伊奢那城</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [Y Xa Na thành] (Sambor Prei Kuk, trung Campuchia).</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gần kinh đô hồi thế kỉ VII là núi Lăng Già Bát Bà (Lingaparvata) </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">陵伽鉢婆山</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trên đó có một ngôi đền luôn luôn được năm nghìn quân bảo vệ. “Tác giả của Tuỳ thư kết luận:” Họ tôn kính thần của họ đến mức độ đó. Họ coi trọng Phật pháp và cũng rất tin tưởng vào các thầy tu Bà La Môn, Cả Phật tử và lẫn tín đồ đạo Bà la môn đều đặt tượng trong các đền thờ.”</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cựu Đường thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">舊唐書</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (soạn năm 945) thì chỉ vài thập kỉ sau, khoảng năm 707, Chân Lạp chia thành hai nước: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lục Chân Lạp</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, hay Văn Đan </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">文單</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, một khu vực miền núi ở phía bắc và </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thuỷ Chân Lạp</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ở phía nam. Thuỷ Chân Lạp có lãnh thổ với chu vi khoảng 800 lí, về phía đông chạy tới Panduranga, phía tây tới Dvaravati, phía nam tới “đại dương nhỏ” (vịnh Thái Lan), và phía bắc đến Lục Chân Lạp. Vua sống trong một kinh thành có tên là Bà La Đề Bạt </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">婆羅提拔</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Môi trường tôn giáo của Chân Lạp trong thế kỉ IX được người biên soạn </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cựu Đường thư </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trình bày như sau: “Nước này sùng kính Phật giáo và Thánh thần 天神 (thiên thần). Thờ cúng thần thánh được coi trọng tột bậc, đạo Phật chỉ đứng hàng thứ hai.” Một lần nữa, sự pha tạp tôn giáo của các xã hội trên đất liền Đông Nam Á trong thời kì này lại được phản ánh rõ ràng trong các tài liệu Trung Quốc.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Dvāravatī</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đỗ Hòa La Bát Để </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">杜</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">和羅鉢底 / Đọa Hòa La </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">墮和羅</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Độc Hòa La </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">獨</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">和羅</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đoạ La Bát Để </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">堕羅鉢底</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Thổ Hoả La </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">吐</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">火羅</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Di chuyển về phía tây trên vùng đất liền Đông Nam Á, chúng ta gặp một chính thể mà các tài liệu Trung Quốc đề cập đến bằng một loạt tên, bao gồm Đỗ Hòa La Bát Để, Đọa Hòa La, Độc Hòa La, Đoạ La Bát Để và Thổ Hoả La. Tất cả các ghi chép này đều nói đến nước Mon tên Dvaravati, nằm ỏ trung tâm hạ lưu sông Chao Phraya (Thái Lan) từ thế kỉ VI đến đầu thế kỉ X. Học giả George Coedès đã gán sự xuất hiện của nó với sự chia cắt Phù Nam. Cũng giống như các tên chính thể khác ở Đông Nam Á trong giai đoạn này và sau này, tên này được bắt nguồn từ tên thành phố trong các Kinh sách Puranic (Ấn Độ) và có nghĩa là “nhiều cửa vào” trong tiếng Phạn. Chúng ta biết phiên bản Đông Nam Á chỉ thông qua sự xuất hiện của nó trên các đồng tiền tìm thấy trong khu vực và như một yếu tố còn sót lại trong các tên truyền thống chính thức của các thành phố Ayutthaya và Bangkok. Tuy nhiên, các tài liệu Trung Quốc cho thấy rằng tên này đã được biết đến rộng rãi và được sử dụng cho nước này từ thế kỉ VII trở đi. Một ghi nhận xưa xác định vị trí nước này (theo một tên khác của nó, Dvarapati)so với các nước khác vào thế kỉ VII do nhà sư Trung Hoa nổi tiếng Huyền Trang </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">玄奘</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nêu ra trong sách kể về chuyến đi của ông ta (hoàn thành năm 646): “Phía đông bắc chỗ đó [nước Samatata ở Bengal] trong thung lũng bên cạnh biển lớn là nước Thất Lợi Sai Đa La </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">室利差呾羅國</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [Šri Ksetra, có thể là kinh đô nước Phiếu gần Pyay ngày nay], xa hơn về phía đông nam biển lớn là nước Kāmalanka </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">迦摩浪迦國</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [Già Ma Lãng Già] (có thể là Langkasuka), xa hơn về phía đông là nước Đoa La Bát Để (Dvarapati), lại xa hơn về phía đông là đất nước của Isanapura (Sambor Prei Kuk) [Yī shǎng nà bǔ luó </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">伊賞那補羅</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">:</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Y Thưởng Na Bổ La], cũng xa hơn về phía đông là nước Maha Campa, mà ở nước ta được gọi là Lâm Ấp, và xa hơn về phía tây nam là nước của Yamanadvipa 閻摩那洲國 (Diêm Ma Na châu quốc) Các đoàn sứ từ Dvaravati đến triều đình nhà Đường Trung Hoa năm 638 và 649, và sứ giả của đoàn sứ đầu tiên xin cho họ ngựa tốt.”</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Ramanna</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Lâm Dương 林陽</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong sách </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phù Nam thổ tục</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">扶南土俗</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Phong tục Phù Nam) thế kỉ III, tác giả Khang Thái </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">康泰</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ghi nhận: “Phía tây nam Phù Nam, có nước Lâm Dương .... Ở đây họ thờ Phật.” Trong tiếng Phúc Kiến, hai chữ Lâm Dương được phát âm là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ina-yna,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vốn đã được một số người đề xuất biểu thị cho Ramanna và để chỉ ra một chính thể ở chỗ mà ngày nay là khu vực hạ lưu thung lũng sông Irrawaddy (Ayeyarwady). Các mô tả này cho thấy có một cộng đồng Phật giáo sớm nhất ở Đông Nam Á. Lâm Dương / Ramanna cũng có thể là tiền thân của nước Phiếu của Sri Ksetra.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Śrī Ksetra / Pyu</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thất Lợi Sai Đa La 室利差呾羅國 / Nước Phiếu 驃</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">國</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Như đã nói ở trên, nhà sư Trung Hoa Huyển Trang ghi lại vào thế kỉ VII rằng “đông bắc Samatata ở Bengal ở thung lũng bên cạnh biển lớn là nước Thất Lợi Sai Đa La (Sri Ksetra).” Đây là ghi nhận đầu tiên của Trung Quốc về kinh đô Phiếu có thể đã tồn tại từ thế kỉ I Công nguyên hay thậm chí sớm hơn. Những di tích của thành phố có tường bao quanh có thể thấy được ngày hôm nay hơi chếch về phía đông nam Pyay ở miền trung Myanmar. Những địa điểm chính khác của nước này hay phức hợp văn hóa bao gồm Beik thano, Maingmaw, Binnaka, và Halin.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tên chính thể kế tiếp mà người Trung Quốc ghi lại cho khu vực này là nước Phiếu (hay Pyu). Nước này đã được viết không phải là một chính thể hàng hải mà là một nước vươn tới đất liền từ Trung Quốc qua quân khu Vĩnh Xương cổ ở tỉnh Vân Nam hiện đại. Tên Phiếu Việt </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">僳越</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xuất hiện vào đầu thế kỉ IV trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoa Dương quốc chí</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">華陽國志</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Ghi nhận về nước Hoa Dương), của Thường Cử </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">常璩</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Vào thế kỉ VII hoặc thứ IX, nước Phiếu được cho là có nắm quyền cai trị đối với 9 thành lớn và 290 bộ lạc. Kinh đô của nó, La Thành </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">羅城</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có tường gạch và một con hào cũng được lát bằng gạch bao quanh. Được biết ban đầu nó là “thành giữ tro cốt Phật” </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">舍利佛城</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Xá lợi Phật thành). Dân số bên trong tường thành lên đến hàng chục ngàn, và có hơn một trăm tu viện Phật giáo. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Đường thư </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có nói đến “một tượng trắng khổng lồ, cao 100 xích,” và cho biết thêm rằng người ở đó có thể đọc chữ Ấn Độ. Được biết ở đó các đồng tiền vàng và tiền bạc có hình dạng như lưỡi liềm, nhưng không có mẫu nào còn tồn tại được biết đến.”</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những thay đổi lớn đã xảy ra ở khu vực nước Phiếu vào thế kỉ IX, Trong Man thư </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">蠻書</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(sách về các nước man) thế kỉ thứ IX, Phàn Xước </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">樊綽</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ghi nhận rằng “vào năm 832, bon Man [Nam Chiếu] nổi loạn cướp phá vương quốc Phiếu”. Bọn chúng bắt bỏ tù hơn 3000 người và trục xuất họ vào nô lệ tại Zhedong và nói họ tự lo liệu cho mình”. Sử gia Gordon Luce đề xuất rằng trong giai đoạn 832-35 này, “khi Phiếu và một số các cộng đồng Mon của Miến Điện đã bị các bộ lạc thần phục Nam Chiếu áp đảo, rằng chúng ta phải xác định thời gian cho sự ra đời của người Miến Điện” theo khu vực vốn có truyền thống đi theo tên của chúng”.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;">Các nước trên bán đảo </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Sau khi khảo sát các nước và xã hội do người Trung Quốc ghi nhận trên vùng đất liền Đông Nam Á trong giai đoạn này, chúng ta hướng sự chú ý về phía nam và đi theo bán đảo mà ngày nay là các phần của Thái Lan và Malaysia – có thể là một với bán đảo mà Claudius Ptolemy, vào thế kỉ II, gọi là Aurea Chersonesus (“Bán đảo Vàng”).</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bàn Bàn</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">盤盤 / 槃槃</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một chính thể được ghi nhận là Bàn Bàn (tiếng Phúc Kiến là Puan-puan, tiếng Quảng Đông là P’oon-p’oon) lần đầu tiên xuất hiện trong các tài liệu Trung Quốc trong các ghi chép về các sứ giả đến triều đình Liêu Tống ở chỗ ngày nay là Nam Kinh. Các đoàn sứ được ghi lại vào các năm 444-54, 454-56, và 457-64, với lần cuối có vẻ như đã diễn ra trong 616-17. Vị trí của nước này được cho là phía tây nam của Lâm Ấp (Champa) và Lương Nha Tu (Langkasuka) liền kề, đặt nó quanh eo đất Kra. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> : </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">梁書</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Lịch sử nhà </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; biên soạn 636) cho chúng ta biết: “vào tháng 3 năm 529 Bàn Bàn một lần nữa sai sứ tới dâng cống vật là các tượng ngà </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">牙像 </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(nha tượng) và bảo tháp. Họ cũng dâng hàng chục loại hương liệu bao gồm gỗ gharu và gỗ đàn hương. Vào tháng 8 / tháng 9 năm534, một đoàn sứ khác đến dâng tro cốt từ xứ </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bồ Đề</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">菩提國眞舍利</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bồ Đề</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> quốc chân xá lợi) cũng như một hoạ tháp </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">畫塔</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Vua nước này cũng dâng tặng một lá cây bồ đề cùng </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhantang </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và các hương liệu khác.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ghi chép của Trung Quốc chi tiết nhất về chính thể này trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Văn hiến thông khảo</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">文献通考</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Nghiên cứu toàn diện các tài liệu hành chính; biên soạn vào đầu thế kỉ XIV). Theo tài liệu này, Bàn Bàn là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo, với “10 tu viện nơi mà các tăng ni Phật giáo nghiên cứu kinh kệ .” Tài liệu này cũng cho biết rằng “nước này có rất nhiều người Bà La Môn từ Ấn Độ đến và họ tìm kiếm sự giàu có từ nhà vua. Vua rất trọng vọng họ.” Nhưng nơi này nằm ở đâu? Đường thư cho thấy Bàn Bàn nằm ở phía nam Dvaravati. Do ảnh hưởng của Dvaravati đã lan rộng xuống bán đảo, Bàn Bàn có thể nằm quanh vịnh Bandon thuộc tỉnh Surat Thani của Thái Lan hiện đại. Có thể tên của nước thế kỉ V và VI này được giữ lại dưới tên thị trấn Phunphin ngày nay. Các dấu tích khảo cổ ở khu vực này cho thấy Bàn Bàn là một nơi với truyền thống tôn giáo đa dạng.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Langkasuka</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đốn Tốn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">頓遜</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Điển Tốn 典 遜 / Lang Nha Tu </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">狼牙脩</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Di chuyển về phía nam, chúng ta đến các vùng Songkhla và Pattani hiện đại, nơi dường như là nơi các nước Đốg Tốn / Điển Tốn và Langkasuka xưa tiên tập trung ở đó. Mặc dù nước đầu được biết đến từ thế kỉ III, các nguồn thông tin chi tiết về nó lại có sau thời gian đó. Ghi chép sớm nhất là trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vào thế kỉ VII, nêu rõ rằng cạnh phía đông của nước này liên lạc với Giao Châu, một châu phía nam của Trung Quốc (nay là một phần của miền bắc Việt Nam), trong khi cạnh phía tây của nó nối kết với Ấn Độ và Parthia. Điều này có thể đề cập đến không gì khác hơn là một chính thể mở rộng ngay bên bán đảo Mã Lai, với các cảng ở cả hai bên và các kết nối trên đất liền giữa các cảng. Ghi chép này lưu ý rằng mỗi ngày hơn mười ngàn thương nhân, từ cả hai phía đông và phía tây, gặp ở đó để buôn bán. Tập </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình ngự lãm</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">太平御覽</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Bài đọc của triều vua Thái Bình), một bách khoa toàn thư đời Tống, có chứa một đoạn trích từ cuốn sách bị mất, </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phù Nam</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kí</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">扶南記</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Ghi chép về Phù Nam) có lẽ trong thế kỉ III, cho chúng ta biết về hệ thống xã hội của Đốn Tốn. Nhà vua được gọi là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Côn Lôn</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">崑崙</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và 500 gia đình </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ Ấn Độ có mặt ở trong nước cùng hơn một ngàn người Bà La Môn, cũng từ Ấn Độ, và hai bức tranh Phật 兩佛圖 (lưỡng Phật đồ). Về người Bà La Môn, cần lưu ý rằng “Đốn Tốn thành kính tuân theo lời dạy của họ và gã con gái cho họ. Vì vậy, nhiều người trong số họ không rời khỏi nơi này và suốt ngày chỉ đọc kinh Bà La Môn.” Chúng tôi không biết vị trí cụ thể của kinh đô cũng như toàn bộ về chính thể này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thế kỉ VII, tác giả của </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cung cấp một ghi chép về một nước có tên là Lang Nha Tu hay Langkasuka. Nước này còn được biết đến dưới tên là Langkashuka trong các tài liệu Ả Rập, là Ilangasöka trong một bia khắc Cola, là Lengasuka trong bài thơ ở triều đình Java </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nagarakrtagama,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và là Langkasuka trong lịch sử Malay </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hikayat Marong Mahaiwangsa,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhà sử học Paul Wheatley khá vững khi kết luận rằng Langkasuka nằm ở vùng lân cận của Pattani, Thái Lan hiện nay, Michel Jacq-Hergoualc’h cũng đã gợi ý rằng chúng ta tìm Langkasuka xung quanh cửa sông Pattani, gần Yarang, bởi vì nó “nằm trên bờ của cửa sông đã biến mất này mà các cảng trung chuyển của nước thành phố này nằm ở đó.Các đoàn sứ đi đường biển từ Langkasuka đến các triều đại phía nam của Trung Quốc bắt đầu vào những năm 510. Những đoàn sứ được ghi đến vào các năm515, 523, 531, và 568. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">南史</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Lịch sử các triều đại phía Nam; biên soạn 659) báo cáo rằng kinh đô có tường thành bằng gạch và ở các cổng nhiều cửa của nó có các tháp và các chỗ nhô ra.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc Langkasuka là một cộng đồng Phật giáo được gợi ra từ thực tế là vào khoảng thế kỉ VII, có ba nhà sư Trung Quốc - Nghĩa Lang </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">義郎</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Trí Ngạn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">智岸</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và Nghĩa Huyền </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">義玄</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- dừng lại trên đường tới Ấn Độ và được vua nước này tiếp đãi. Bản vẽ </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương chức công đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">梁職工圖</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (bản vẽ các nước triều cống nhà Lương), hoàn thành khoảng 539 và hiện nay chỉ còn lại một phần, cung cấp một trong những minh họa ít ỏi thế kỉ VI về một người Đông Nam Á: một sứ giả từ nước Langkasuka đến Trung quốc (hình 31 ).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 31. Sứ giả từ Langkasuka; chi tiết của </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương chức công đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (bản vẽ các nước triều cống nhà Lương). Handscroll, bản sao thế kỉ XI của bản gốc thế kỉ VI. Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, Bắc Kinh</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Kelantan</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ha La Đan 訶</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">羅單</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Ha La Đàn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">訶羅陁</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Đan Đan 丹丹 / 單單</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thế kỉ V, một cái tên mới xuất hiện trong các tài liệu Trung Quốc, cái tên Ha La Đan hay Ha La Đàn, đã được thay thế bằng cái tên Đan Đan vào thế kỉ VI. Năm 430, một sứ giả từ nước “tây nam di” </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">西南夷</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ha La Đan đã đến triều đình Liêu Tống ở Nam Kinh và dâng một bức thư thừa nhận việc dốc lòng theo Phật giáo và những thành tựu xây dựng tháp của hoàng đế Trung Hoa. Các đoàn sứ tiếp theo đã đến vào năm 433 và 452. Mô tả trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuỳ thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thế kỉ VII về nước Xích Thổ (sẽ được nói nhiều hơn bên dưới) vốn chắc chắn nằm ở phía bắc của bán đảo này, lưu ý rằng Hà La Đan nằm ở phía nam của nó, gợi cho thấy ở khu vực gần Kelantan hiện đại, một bang đông bắc trong bán đảo Malaysia. Đối với Đan Đan, nhiều chỉ dẫn khác nhau trong các tài liệu Trung Quốc cũng hàm ý về một vị trí gần Kelantan. Các ghi nhận của Trung Quốc về chính thể này bắt đầu với đoàn sứ năm 530 từ Đan Đan đến triều đình nhà Lương ở chỗ hiện nay là Hồ Bắc và tiếp tục cho đến những năm 660. Có những chỉ dẫn vững chắc về việc Đan Đan theo Phật giáo vào thời điểm này, cùng với việc sử dụng các danh hiệu Bà la môn ở triều đình.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Pahang</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bà Hoàng 婆</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">皇</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / Bàn Hoàng 媻皇國</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một nước khác không có vị trí chắc chắn nào được đưa ra trong các tài liệu Trung Quốc là Bà Hoàng (Bàn Hoàng), Ngữ âm học gợi lên mạnh cái tên Pahang – một quốc gia ở bờ biển phía đông bán đảo Malaysia hiện nay. Năm 449 -50 vua Bàn Hoàng là Xá Lợi Bà La Bạt Ma </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">舍利婆羅跋摩</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Šri Bhadravarman), đã sai sứ đến triều đình nhà Tống cống 41 loại sản vật. “ Trong năm 456-57, sứ giả Trúc Na Bàn Trí </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">竺那媻智</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của nước này đã đến kinh đô của Trung Quốc và dâng tặng ra vẹt đỏ và trắng.”</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Perak</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bà Đạt 婆達 / Bàn Đạt 媻達</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bà Đạt hay Bàn Đạt là một chính thể khác không có các chỉ dẫn địa lý chắc chắn. Biết rằng nó được đề cập trong liên hệ với Bà Hoàng và vị trí của nó được ghi nhận là ở Jaba / Java thế kỉ V, vị trí của nó phỏng đoán là ở Perak, một bang trên bờ biển phía tây của bán đảo Malaysia. Ghi nhận đầu tiên về Bà Đạt là vào năm ngày 435, khi một đoàn sứ từ chính thể này đến triều đình Liêu Tống ở Nam Kinh, Trung Quốc. Tên vua Bà Đạt là Sư Lê Bà Đạt Đàn A La Bạt Ma </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">師黎婆達陁呵羅跋摩</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Šrī Bhadravarman). Vật kỉ niệm dâng triều đình ca ngợi vai trò của hoàng đế Trung Quốc trong việc “truyền bá việc coi trọng Pháp luân để tất cả chúng sinh có thể được giải thoát khỏi khổ đau”.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Kedah</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Xích Thổ 赤土 / Yết Đồ 羯荼 / Ca La 哥羅 / Ca La Phú Sa la 哥羅富沙羅</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự xuất hiện của một chính thể mới ở Đông Nam Á vào thế kỉ VI được chỉ ra qua việc của triều đình Tuỳ phái một đoàn sứ lớn đến đó vào năm 607. Đây là đoàn sứ đầu tiên của Trung Quốc được sai đi “biển Nam” kể từ thế kỉ III, xuất phát từ Quảng Châu dưới sự chỉ huy của Thường Tuấn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">常駿</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đi đến các nước Xích Thổ và La Sát (xem bên dưới). Hai địa điểm này là điểm đến duy nhất của đoàn sứ cho thấy tầm quan trọng của chúng trong khu vực và vai trò của chúng trong giao thương biển đường dài. Nhiều ghi chép cho thấy Xích Thổ </span><span style="background-color: yellow; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nằm ở thung lũng sông Bujang bên cạnh sông Merbok ở bang Kedah thuộc bán đảo Malaysia, một khu vực được các bằng chứng khảo cổ xác nhận</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đã từng là một khu phức hợp văn hóa và thương mại lớn lúc đó. Xích Thổ đã phái hai đoàn sứ sang Trung Quốc, năm 608 và 609, và đầu năm 610, đoàn sứ của Thường Tuấn quay trở về Trung Quốc, được một người Bà La Môn tiễn với hoa, tù và và trống.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuỳ thư,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kinh đô của Xích Thổ được đặt tên là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thành Tăng Chi</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">僧祗城</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, một thành với ba lớp tường cách nhau hơn một trăm bước. Hình ảnh thần tiên, và bồ tát </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">菩薩</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đang bay được sơn trên các cửa, và họ đã trang trí bốn phụ nữ với mặt được tô vẽ theo cách giống như những thần giữ cửa </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vajra</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ở các chùa Phật giáo – đứng hai bên cổng. Được biết vua có họ là “Cù Đàm </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">瞿曇</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Gautama), và tên là Lợi Phú Đa Tắc </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">利富多塞</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Riputra?). Đáng chú ý là đằng sau ngai vàng là một con bò vàng đang cúi người, phía trước của con bò là một chiếc lộng gắn đầy đồ trang sức, bên trái và bên phải chiếc lộng là hai cái quạt trang trí rực rỡ. Phía trái và phải là hàng trăm người Bà La Môn ngồi thành hàng đối diện nhau. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuỳ thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cho chúng ta biết người dân Xích Thổ có tục kính Phật và cũng đặc biệt coi trọng các Bà La Môn </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">其俗敬佛尤重婆羅門</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (kì tục kính phật vưu trọng bà la môn). Nhạc Ấn Độ </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">天竺樂</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Thiên Trúc nhạc) đã được tấu lên khi các sứ thần Trung Quốc diện kiến vua Xích Thổ. Khi sai một </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nayaka</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Skt., lãnh đạo hoặc người bảo hộ) làm sứ giả sang Trung Quốc với các sản vật địa phương, nhà vua cũng gửi một bức biểu bằng vàng lá. Như vậy, chúng ta thấy một nước có Phật giáo phát triển mạnh mẽ nhưng mà các tu sĩ Bà La Môn vẫn giữ vai trò chủ chốt trong việc tham mưu cho vua cùng các nghi thức của Ấn Độ hợp pháp hoá. Khoảng 70 năm sau đoàn sứ Xích Thổ đó, chúng ta mới nghe tới một cái tên mới là Yết Đồ (Jietu) cho chính thể này trong các tài liệu Trung Hoa, một lần nữa đó là một cách chuyển âm của cái tên Kedah Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ VII, nhà sư Trung Quốc Phật giáo Nghĩa Tịnh </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">義淨</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đi bằng đường biển đến Ấn Độ, học tập ở đó từ năm 673 đến 687. Trên đường đi, ông dừng lại ở Šrivijaya và Mạt La Du trước khi đến Yết Đồ để lên tàu đi Ấn Độ. Từ ghi nhận này và các tài liệu khác, có vẻ Yết Đồ / Kedah là một cảng trọng điểm cho các thương nhân và nhà sư đi Ấn Độ vào thời điểm đó. Trước khi thế kỉ VII kết thúc, nó dường như đã trở thành chư hầu của Srivijaya.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một tên mà dường như cũng chỉ biểu thị Kedah xuất hiện khoảng năm 800. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Đường thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lưu ý rằng phía nam của Bàn Bàn là Ca La. Ca La cũng được lưu ý trong một ghi nhận về tuyến đường biển giữa Trung Quốc và Basra, được Giả Đam </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">賈耽 </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">viết khoảng năm 800. “Chính thể này, được ghi nhận có 24 tỉnh, dường như là Kalah của các tài liệu Ả-rập, trong đó nó được lưu ý là một trung tâm giao thương chính và là điểm tập trung của các tuyến đường vận chuyển kể từ thế kỉ IX hoặc sớm hơn. Các tài liệu Trung Quốc ghi chi tiết nhiều nhạc cụ của nó. Không có bằng chứng về bất kì liên hệ ngoại giao giữa Ca La và nhà Đường ở Trung Quốc.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Qaqulla</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ca Cốc la </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">哥谷羅</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / 葛古羅 / Cà Cổ La 伽古羅 / Gia Cổ La 加古羅 / Già Câu Lặc 迦拘勒</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Chúng tôi tìm thấy trong lộ trình đi biển của Giả Đam một địa danh khác chưa xuất hiện trong các tài liệu trước đó: “Trên bờ biển phía bắc có nước Ca La. Về phía tây của Ca La là xứ Ca Cốc La ..” Về mặt ngữ âm lẫn về mặt địa lí, không thể có nghi ngờ nào rằng Ca Cốc La là nơi nhà địa lí Ả Rập gọi là Qaqulla. Hơn nữa, biết rằng các nhà địa lí này lưu ý nhiều lần rằng Qāqulla nằm trên một doi đất, nên tên này gần như chắc chắn nói đến vị trí ngày nay được biết đến như Phuket, Thái Lan. Không có thêm điều gì khác được biết đến về chính thể này.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Chính thể trên Sumatra và Java</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bây giờ chúng ta tiến từ bán đảo Malaysia đến hai đảo lớn Sumatra và Java. Biết rằng các thương nhân Ấn Độ, Trung Quốc, và Ả Rập / Ba Tư cũng như các nhà sư từ Trung Quốc và Đông Nam Á có xu hướng đi ngang qua các cảng của Sumatra để đến Ấn Độ mà không đi vòng qua Java, cho nên các chính thể trên đảo Sumatra được biết đến nhiều hơn trong giai đoạn này.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Lhok Cut</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">La Sát 羅剎 / La Việt 羅越</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước khác, ngoài Xích Thổ (Kedah), mà đoàn sứ hoàng đế nhà Tuỳ vào các năm 607-10 có tới là La Sát, có khả năng là Lhok Cut, nằm trên bờ biển phía bắc của Sumatra ở chỗ nay là Aceh, đối diện trực tiếp với Kedah qua eo biển Malacca. La Sát là một cảng quan trọng trong giao thương xuyên vịnh Bengal và rõ ràng có giao dịch với người Lâm Ấp (Champa). </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường hội yếu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ghi rằng một sứ giả người Trung quốc đi đến Bà Lợi năm 630 ghi nhận sự tồn tại của nước La Sát và sự có mặt của thương nhân Lâm Ấp ở đó. Ông lưu ý, những thương nhân Lâm Ấp đã mua được một viên ngọc lửa từ người ở La Sát mà người này có lẽ đã mua được nó từ Sri Lanka. Các nhà ngôn ngữ học từ lâu đã thấy được mối liên hệ giữa tiếng Chăm và tiếng Aceh, nhưng có không nhiều bằng chứng về tương tác lịch sử xưa cũ giữa hai nơi này. Do đó, đây là một ghi nhận chủ chốt. Tài liệu của Jia Dan năm 800 ghi nhận nước La Việt, dường như lại có cùng một vị trí với La Sát.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Panei</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bà Lợi 婆利 / 婆黎</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong năm 473-74 một sứ giả của Bà Lợi được phái đến triều đình nhà Tống. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tống thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Lịch sử Tống; 492-93) đặc biệt lưu ý rằng Bà Lợi là một xứ Phật giáo </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">凡此諸國,皆事佛道</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(phàm thử chư quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giai sự phật đạo) Vị trí nằm trên đảo Sumatra và ngữ âm gợi ra rằng cái tên này tương đương với Panci, bằng chứng khảo cổ cho điều này có thể tìm thấy trong và xung quanh Padang Lawas ở miền bắc Sumatra. Các tài liệu của Trung Quốc thế kỉ VI có chứa thêm nhiều thông tin hơn. Vua Bà Lợi được mô tả một cách ấn tượng trong </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nan sử:</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> "Nhà vua mặc đồ lụa sặc sỡ và có </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yingluos </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[dây chuyền dài] quấn trên thân mình. Trên đầu ông đội một vương miện vàng, cao hơn một </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xích</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có hình dạng như một chiếc mũ quân sự nhưng được trang trí với bảy loại đá quý. Ông đeo một thanh kiếm trang trí bằng vàng và cũng ngồi trên một cái ngai cao bằng vàng với một cái bệ bạc để gác chân lên. Các nữ tì của ông đều được trang điểm với những bông hoa vàng cùng đá quý và cầm phất trần bướm trắng hoặc quạt lông công. Khi vua đi ra ngoài, ông ngồi trên kiệu voi, chiếc kiệu này được làm từ gỗ có nhiều mùi thơm. Phía trên của chiếc ghế được trang bị với một chiếc lộng bằng lông chim, trong khi ở hai bên là màn bằng ngọc trai. Những người đi phía trước và những người phía sau thổi kèn và đánh trống. Được biết vua có họ là Kaundinya </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">憍陳如</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kiêu Trần Như). Sứ từ chính thể này tới Trung Quốc năm 517 và 522. Giống như La Sát, Bà Lợi có các liên hệ chặt chẽ với Lâm Ấp, sứ của họ cùng đi với nhau đến triều đình nhà Đường năm 631."</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Barus</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bà La Sa 婆羅娑 / Bà Lỗ Sư 婆魯師 / Bà La 婆羅 / Bà Lâu 婆婁 / Lang Bà Lộ Tư 郎婆露斯</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuỳ thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ghi rằng phía tây của Xích Thổ là nước của Bà La Sa. Rõ ràng, tên này và các tên tương tự là cách cách thể hiện khác của cái tên "Barus." Tuy nhiên, việc sử dụng chung của các tên cho thấy rằng nó gọi không phải chỉ một cảng duy nhất mà chỉ một vùng rộng lớn, có thể là toàn bộ phần phía bắc của Sumatra, nổi tiếng với long não.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Đường thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có nói cập đến một nơi gọi là Lang Bà Lộ Tư, mà nó ghi chú là nước phía tây của hai nước mà Thất Lợi Phật Thệ (Srivijaya) nằm chính giữa. Không có nghi ngờ đó là nghĩa của Barus và "Lang" là cách chuyển của tiền tố </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lam </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của tiếng Aceh - có nghĩa là "bên trong" hay "sâu". Người Ả Rập gọi khu vực này là Langabalus, và cả hai phiên bản tiếng Trung và tiếng Ả Rập đều phản ánh cái tên tiếng Aceh ‘Lam Barus.’</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Malayu</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Mạt La Du 末羅瑜 / 末羅遊 / 摩羅遊</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thế kỉ VII, tài liệu của Trung Quốc bắt đầu đề cập đến một nước có tên Mạt La Du. Đây là những ghi nhận về chính thể Mạt La Du, mà hầu hết các học giả xác định vị trí gần Jambi ở miền nam Sumatra. Năm 644 một đoàn sứ từ Mạt La Du đến triều đình nhà Đường ở Trường An (nay là Tây An). Trong ghi chép của mình, nhà sư nổi tiếng Nghĩa Tịnh nói với chúng ta rằng thiền (</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dhyana</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) sư </span><span style="background-color: yellow; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chang Min</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">常慜</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nghiên cứu các tài liệu ở Mạt La Du trên đường đến Ấn Độ, chỉ ra rằng Mạt La Du có thể là một trung tâm Phật giáo lớn vào thế kỉ VII.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Vijaya / Srivijaya</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phật Thệ </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">佛逝</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / 佛誓 / Thất [Thi] Lợi Phật Thệ </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">室利佛逝</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / 室利佛誓 / 尸利佛逝 / 尸利佛誓</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Hình. 32. Chi tiết Nanzhaotizhuan (Ghi chép về Nam Chiếu có minh hoạ) miêu tả Bồ Tát Quán Thế Âm được các vua địa phương tôn kính. Handscroll, khả năng bản sao chép thế kỉ 12- 13 từ bản gốc năm 899, Bảo tàng Fujii Yurinkan, Kyoto</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những năm 670 và 740, theo </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Đường thư</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nhiều đoàn sứ từ một chính thể có tên Phật Thệ hoặc Thất Lợi Phật Thệ đến triều đình nhà Đường, báo rằng những nước giáp ranh đã tấn công họ." Các đoàn sứ này bắt đầu vào khoảng cùng lúc với nhà sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh lên đường đi Ấn Độ bằng đường biển, vào năm 671. Nói về cuộc hành trình này, Nghĩa Tịnh đã ghi lại: “sau đó tôi đến Phật Thệ Vijayal, ở đó tôi đã dành sáu tháng để học dần dần Sabdavidya [ngữ pháp Phạn]. Nhà vua cung cấp cho tôi với người giúp đỡ đưa tôi tới Mạt La Du.” Sau thời gian ở Ấn Độ, Nghĩa Tịnh trở về Trung Quốc bằng đường biển năm 687; chuyến đi của ông - từ Tāmrallipti trở lại Xích Thổ, Mạt La Du, và Phật Thệ đi rồi đi về phía bắc đến Quảng Châu, và về đến nơi năm 689 - được ghi lại trong tác phẩm của ông </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Đường tây vực cầu cứu pháp cao tăng truyện </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">大唐西域求救法高僧传</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; (truyện Cao tăng đi tầm đạo pháp ở khu vực phía tây). Trong lúc ở Phật Thệ, “các tài liệu Ấn Độ tôi mang tạo thành hơn năm trăm nghìn slokas [đoạn thơ], nếu dịch hết sang tiếng Trung sẽ cho ra một ngàn quyển, và bây giờ tôi ở tại Bhoja [Phật Thệ] với những kinh sách này.” Như vậy Phật Thệ (Vijaya) là trung tâm thương mại cho giao thương Trung Quốc và một trung tâm học tập Phật giáo. Đó là một chính thể lớn trong khoảng 80 năm, sai sứ sang Trung Quốc trong các năm 702, 716.724.728, và 742. Rồi mãi đến năm 904 mới có sứ tiếp tục tới Trung Quốc. Các sự kiện trong nửa cuối thế kỉ VIII đến thế kỉ IX vẫn là một bí ẩn.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hầu hết các học giả chấp nhận rằng </span><span style="background-color: yellow; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phật Thệ nằm ở Palembang ở miền nam Sumatra</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, một sự khẳng định được khảo cổ học của thành phố đó hậu thuẫn. Tuy nhiên, liên hệ giữa Palembang, Srivijaya, và Malayu vẫn còn tranh luận. Bởi vì một ghi chú sau này trong sách của Nghĩa Tịnh nói rằng “Mạt La Du ( bây giờ đổi thành Thất Lợi Phật Thệ), "một số học giả cho rằng Thất Lợi Phật Thệ đã chinh phục Mạt La Du trước đó, khoảng năm 695. Tuy nhiên, các chính thể cụ thể của những sự kiện này vẫn không giải thích được, và cũng có khả năng là các cuộc tấn công vào Phật Thệ (Vijaya) đã đề cập ở đầu phần này do Mạt La Du / Jambi phát động và sau thắng lợi quân sự, Mạt La Du lấytên Thất Lợi Phật Thệ (Srivijaya).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bia khắc Sabokingking (Telaga Batu) (hình. 24) ở Palembang và bia Kota Kapur ở đảo Bangka, phía đông Palembang ngang eo biển Bangka, cả hai đều vào thế kỉVII, cùng giai đoạn được các nguồn nó trên xử lý.'</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Keling</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ha Lăng </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">訶陵</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính thể Ha Lăng lần đầu tiên được ghi nhận trong các tài liệu của Trung Quốc nói về đoàn sứ của nước này sang Trung Quốc vào năm 640, tiếp theo là đoàn sứ năm 648 và 666. Thời ki này trùng hợp với sự trỗi dậy của Vijaya. Sau đó chúng tôi biết rằng năm 760-61 tàu của Đại Thực (Ả Rập) đến Ha Lăng, chỉ hai năm sau khi con tàu tương tự đột kích Quảng Châu. Sau đó, trong năm 767 và 768, thêm hai đoàn sứ từ Ha Lăngxuất hiện tại triều đình nhà Đường ở Trường An (Tây An). Các đoàn sứ Ha Lăng sau đó đến Trung Quốc được ghi lại trong các năm 813, 816, 827-35, và 860-73. Tên của sứ giả năm 816 là Lí Ha Nội </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">李訶內</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và ông ta có vẻ là người Ả Rập (có thể Ali Hani). Ha Lăng được mô tả như một cảng lớn giữa Quảng Châu và Mat La Du, và, như vậy, nó là ở đây được xác định là một chính thể nằm tại Palembang ở nam Sumatra."</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Jabades / Yavades / Jaba / Jawa / Java / Zābaj</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Da Bà Đề 耶婆提 / Đỗ Bạc 杜薄 / Chư Bạc 諸薄 / Xã Bạc 社薄</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những tên có thể gắn kết với Java có rất nhiều trong truyền thống tài liệu của Trung Quốc cũng như bên ngoài nó. Tuy nhiên, sự đa dạng này cho thấy rằng chúng không phải chỉ đề cập riêng cho hòn đảo mà ngày nay chúng ta gọi là Java. Rõ ràng từ các ghi chép hàng hải nói tới nó đã xem xét ở trên, các liên hệ Trung Quốc-Ấn Độ trong giai đoạn này là thông qua Sumatra và bán đảo Malaysia; đảo Java dường như chỉ đóng vai trò nhỏ trong mạng lưới này. Thế thì cái tên Jawa / Jaba / Java nói tới cái gì? Cả hai nguồn Trung Quốc và Ả Rập cho thấy rằng có cũng có thể có một chính thể gọi là Jaba vào thế kỉ V, có lẽ tập trung ở miền nam Sumatra, và rằng nó rất có thể kéo dài ảnh hưởng của nó qua eo biển Sunda cho tới chính đảo Java.Tên Xã Bạc không thể gắn kết vững chắc với đảo Java cho đến khi </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lĩnh ngoại đại đáp</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">嶺外代答</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Ghi chú về những điều nên ngoài dãy núi [Ngũ Lĩnh]; năm 1178), trong đó có lưu ý rằng "nước Xã Bạc còn được gọi là Bồ Gia Long </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">莆家龍</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nó ở trong đại dương về phía đông nam, và ở thế thấp 努下 (thế hạ). Như vậy, nó là được gọi là bờ biển thấp下岸 (hạ ngạn). Chúng ta có thể đồng nhất Bồ Gia Long (Pujialong) với Pekalongan trên bờ biển phía bắc của Java và có thể khẳng định rằng Xã Bác, trong tài liệu này, là đảo Java chúng ta biết ngày nay. Các ghi chép sau này của Trung Quốc nói đến Chư Bạc và Xã Bạc cũng có thể thường được gán cho đảo Java.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Tarumã</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đa La Ma </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">多羅魔</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">/ 多羅磨</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Một trong số ít những cái tên từ thiên niên kỉ đầu tiên mà chúng tôi khá chắc chắn có thể kết hợp với đảo Java là Đa La Ma, lần đầu tiên đề cập đến trong một tài liệu thế kỉ VIII. </span><span style="font-family: verdana; font-size: large; text-align: center;">Đa La Ma</span><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"> gần như chắc chắn đồng nghĩa với Tarumã, nằm ở phía tây Java. Nhưng ít thông tin được cung cấp trong tài liệu, ngoài vị trí định hướng đi biển của chính thể này.</span></span></p><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: large;">Lời bạt</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">Bằng cách dịch và trừu tượng hóa tài liệu Trung Quốc liên quan đến các chính thể toàn khu vực Đông Nam Á trong thiên niên kỉ đầu tiên công nguyên, chúng ta có thể phân biệt một số khía cạnh của môi trường chính trị và văn hóa của thời kì này. Ở đây, các ghi chép liên quan gợi ra rằng các liên kết và các quan hệ với Ấn Độ và đặc biệt là truyền thống tôn giáo trong khu vực đã hiện rõ lên bề mặt. Rõ ràng từ các tài liệu rằng những chính thể Đông Nam Á này là pha trộn trong các hoạt động của họ. Sự cùng tồn tại và, vào những thời điểm, việc hội nhập các truyền thống tôn giáo Bà La Môn, trường phái Phật giáo (Nikaya) khác nhau, và, trong nhiều thế kỉ sau của nghiên cứu này, các khía cạnh của đạo Hồi tiết lộ một khu vực được kết nối quốc tế, và sâu sắc về tinh thần. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để xác định chính thể nào tồn tại trong giai đoạn nào. Khi vị trí cho các chính thể có thể được xác định hoặc phỏng đoán, các chi tiết đó đều được cung cấp. Hầu hết các khẳng định được đề xuất là khá vững chắc, nhưng một số chỉ là dự đoán. Cấu trúc chính thể mới được nêu ở đây cho Đông Nam Á trong giai đoạn này cũng có thể cho phép chúng tôi tích hợp tốt hơn các nguồn tài liệu, cũng như đối tượng của nền văn hóa vật chất, thành một câu chuyện mạch lạc hơn về quá khứ Đông Nam Á.</span></span></p><div><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div><div><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;">(Xem song ngữ : </span></span><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="white-space: pre-wrap;"><a href="https://docs.google.com/document/d/1I16pKWv-215N3QBkgeizgxvKsxc7s6eE35mlRJoFkBs/edit?usp=sharing">https://docs.google.com/document/d/1I16pKWv-215N3QBkgeizgxvKsxc7s6eE35mlRJoFkBs/edit?usp=sharing</a> )</span></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-43850909579302918782022-10-06T22:21:00.001-07:002023-05-11T01:04:00.574-07:00TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA ĐƯỜNG 9 ĐOẠN <p><span style="font-family: verdana;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-bca3dbe5-7fff-0901-4eb8-e8f7aa58a128" style="font-family: verdana;"><h1 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">PHỤ LỤC II: TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA ĐƯỜNG 9 ĐOẠN </span></h1><div><span style="font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lê Oa Đằng</span></div><div><span style="font-size: 20pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh cãi lớn nhất trong tranh chấp Nam Hải chính là đường 9 đoạn của Trung Quốc (còn gọi là đường chữ U), phạm vi yêu sách của các nước khác cơ bản đều trong khuôn khổ của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng đường 9 đoạn khó tìm được chỗ đứng trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Nghiêm trọng hơn, Trung Quốc luôn từ chối làm rõ tình trạng pháp lý và yêu sách chi tiết của đường 9 đoạn, điều này làm toàn bộ vấn đề phân định biên giới Nam Hải thêm phức tạp.</span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">1. Nguồn gốc và sự biến đổi của đường 9 đoạn </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc vẽ đường chữ U ở Nam Hải có thể truy ngược đến năm 1914, nhưng khi đó đường chữ U là đường liền nét, hơn nữa chỉ bao gồm quần đảo Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa (khi đó gọi là quần đảo Nam Sa và không bao gồm đảo Hoàng Nham) (xem III.4). Năm 1935, sau khi chính phủ công bố “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc Nam hải các đảo tự Hoa Anh danh đối chiếu biểu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bảng đối chiếu tên tiếng Anh tiếng Trung các đảo Nam Hải của Trung Quốc)</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và “Trung Quốc Nam hải các đảo tự đồ”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Bản đồ các đảo Nam Hải của Trung Quốc)</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và Bạch Mi Sơ vẽ “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bản</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đồ toàn thể Trung Quốc sau khi mở rộng biên giới biển về phía Nam) trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa kiến thiết tân đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” năm 1936, thì đường chữ U này được mở rộng đến quần đảo Nam Sa và đảo Hoàng Nham, với cách giải thích rằng nơi này là “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nơi ngư dân nước ta sinh sống, tất nhiên chủ quyền thuộc về ta</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, không giải thích việc vẽ ra phạm vi này có phải trải qua điều tra và có chứng cứ gì hay không. Các bản đồ Trung Quốc có đường chữ U in trước năm 1947 vừa không chính thức vừa không phổ biến. Sau Thế chiến II, Trung Quốc đến quần đảo Tây Sa tuyên bố chủ quyền, quyết định xác định thêm một bước phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc ở các đảo Nam Hải. Năm 1947, Ty Phương vực Bộ Nội chính đã xuất bản “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải), trên bản đồ đã vẽ đường 11 đoạn đứt khúc. Đồng thời cũng xuất bản “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo địa lý chí lược</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” do người chủ trì Phương vực tùng thư Bộ Nội chính là Trịnh Tư Ước biên soạn, trong sách có đính kèm bản đồ này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Chính phủ Dân quốc khi đó không giải thích thêm về đường này, nhưng theo tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao thì mục đích của nó chỉ là làm rõ rằng các đảo trong đường này thuộc về Trung Quốc (xem III.4). Trong thời Trung Hoa Dân Quốc, có rất nhiều cách để vẽ đường chữ U: đường liền nét, đường đứt đoạn gần gần như liên tục (các đoạn rất sát với nhau)...,; phạm vi của chúng cũng rất bất định, ngoài việc bao gồm các đảo ở Nam Hải. Khi đó Trung Quốc đã thực hiện tiêu chuẩn hóa bản đồ và một loạt phương pháp vẽ, cho thấy rằng đối với đường chữ U chính phủ Dân quốc không hề nghĩ tới điều gì hơn việc dùng tuyên bố chủ quyền các đảo. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1953 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi là Bắc Kinh) đã bỏ đi hai đoạn ở vịnh Đông Kinh (Vịnh Bắc Bộ), tạo thành đường 9 đoạn hiện nay (dưới đây đường chữ U thường được gọi tên là đường 9 đoạn) Bắc Kinh không giải thích nguyên nhân cho điều này, nhưng thường được cho rằng có liên quan tới tranh chấp với Việt Nam đối với vịnh Bắc Bộ và đảo Bạch Long Vĩ (xem Phụ lục I). Ngoài ra, phạm vi của đường 9 đoạn của Bắc Kinh cũng khác với đường 11 đoạn của Dân quốc (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 75</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Có nghiên cứu đúc kết thành 7 điểm: (1) các đoạn mới, cũ nối tiếp với nhau, dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ, chẳng hạn như đoạn đầu tiên phía Tây; (2) các đoạn cũ, mới song song với nhau, nhưng mở rộng ra bên ngoài, chẳng hạn như gần bãi ngầm Tăng Mẫu phía Nam; (3) các đoạn cũ, mới song song với nhau, nhưng thu hẹp vào bên trong, chẳng hạn như phía Đông đảo Luzon, phía Tây bãi Vạn An (bãi Tư Chính); (4) đoạn mới nằm trên vị trí kéo dài của đoạn cũ, chẳng hạn như nơi vùng biển Đông Nam; (5) hoàn toàn thay đổi vị trí các đoạn cũ, mới ở khu vực quan trọng, chẳng hạn như chỗ Đông Nam đảo Đài Loan; (6) độ dài các đoạn của đường cũ tương đối dài, thường từ 130 đến 210 km, tương đối có quy tắc; (7) khoảng cách giữa đường cũ và mới gần nhất khoảng 18 km, xa nhất khoảng 333 km.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [1]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 825px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-size: large;"><img height="825" src="https://lh4.googleusercontent.com/gvqWeO8HEXhUbHxoEhtppmBxF5XgUwt-vV5Z5sj_ir4qduTFPVfVd8dqDW-IUVC2fjBzISV_OwkY5XXucenWFBFmFVnjHKnkzwaD5cbKRBKytJoQxhpAtc2J70Vcd8E_Qt5ZDBiWLJV1BoEf4BdTc3TMEYttLhRFVfQj58RtdXGWc_D1kulVuiX_gQ" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc không công bố tọa độ của đường 9 đoạn, khoảng cách giữa các đoạn quá xa, do đó khó xác định phạm vi của đường 9 đoạn. Có học giả Trung Quốc còn sử dụng bản đồ số hóa chuyên dùng tỷ lệ 1/500 000 tiến hành thu thập số hóa một cách tỉ mỉ đối với từng đoạn của đường 9 đoạn, chỉ ra được tọa độ của 438 điểm rời rạc nằm trên đường, rồi dùng phương pháp “nội suy hàm đường cong căng” (Tension spline function interpolation method) để tạo ra một đường điều chỉnh liên tục “trơn tru, gọn gàng, tự nhiên, hợp lý”. Số liệu của thành quả được nhà nước nghiệm thu thuộc loại “bảo mật”.[2]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngoài ra, bản đồ của Bắc Kinh xuất bản cũng vẽ đường 9 đoạn có nét rất dày, mỗi một đoạn do 3 bộ phận cấu thành: phía trong cùng là vạch đen mảnh, giữa là vạch sậm tương đối dày, phía ngoài cùng là vạch nhạt dày hơn. Trung Quốc không nói rõ liệu vạch đen, vạch sậm hay vạch nhạt là giới hạn của khu vực của đường 9 đoạn, diện tích khu vực có được khi lấy mép ngoài hay mép trong làm giới hạn khác biệt rất lớn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bắc Kinh luôn không giải thích hàm ý của đường 9 đoạn, mãi đến năm 2009 trong hồ sơ nộp lên Liên Hợp Quốc (CML/17/2009) mới đính kèm bản đồ có đường 9 đoạn, nhưng ý nghĩa của nó vẫn không rõ ràng.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [3]</span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">2. Hàm ý không rõ ràng của đường 9 đoạn tạo ra tranh cãi </span></span></h2><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời gian dài, cả chính quyền Dân Quốc, Đài Loan lẫn Bắc Kinh đều không giải thích rõ tình trạng pháp lý của đường 9 đoạn. Học giả và truyền thông thường gọi nó là đường 9 đoạn, cũng có người gọi là đường biên giới biển truyền thống, vùng biển lịch sử, thậm chí đường biên giới biển; cụm từ “đường 9 đoạn” chưa từng xuất hiện trong các các bài viết, văn kiện chính thức của Bắc Kinh và xã luận của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân nhật báo</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”..., cách nói tiêu chuẩn là “các đảo Nam Hải và vùng biển xung quanh nó”, cách nói này hoàn toàn không thể xác định liệu vùng biển nói đến có phải chính là vùng biển trong đường 9 đoạn hay không. Trong hồ sơ nộp cho Liên Hợp Quốc năm 2009 (xem VI.3), Trung Quốc tuyên bố rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo ở Nam Hải và các vùng biển liền kề, đồng thời đính kèm bản đồ đường 9 đoạn. Đây là lần đầu tiên bản đồ có đường 9 đoạn xuất hiện trong văn kiện chính thức, nhưng ngay cả trong văn kiện này cũng không có chữ nào nhắc đến đường 9 đoạn nói chi đến giải thích các quyền mà Trung Quốc yêu sách. </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đường 9 đoạn thường được cho là yêu sách lớn nhất của trong tranh chấp Nam Hải, nhưng cơ sở pháp lý của nó mơ hồ, thiếu rõ ràng. Khó khăn pháp lý của đường 9 đoạn trước hết là do nó có phạm vi quá lớn, quan sát bằng mắt thường có thể thấy được các đoạn của của nó rất gần bờ biển các nước Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam, còn phần Tây Nam của nó có một vùng biển rộng lớn về cơ bản là không có đảo nào cả. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chuyên gia Zou Keyuan (Trâu Khắc Uyên)[4]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giả định: (1) tất cả các đảo ở Nam Hải có tranh chấp đều thuộc Trung Quốc; (2) đường cơ sở biển của quần đảo Tây Sa thì lấy công bố của Trung Quốc làm chuẩn, đường cơ sở biển của quần đảo Nam Sa thì lấy đảo nổi lên mặt nước khi triều cao làm chuẩn; (3) trên các đường cơ sở này lấy 200 hải lý làm chỉ dẫn để tính vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, nếu nó cách bờ biển của nước láng giềng dưới 200 hải lý, thì lấy trung tuyến làm chuẩn. Cách tính toán này mở rộng vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, vì theo Điều 121 của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, chỉ có đảo có thể duy trì sự sống của con người hoặc hoạt động kinh tế của chính nó mới có thể đòi quyền có vùng đặc quyền kinh tế, đảo đá hoàn toàn nổi trên mặt nước khi triều cao không nhất thiết có khả năng duy trì sự sống của con người (tất cả đảo ở Nam Sa trong phán quyết của Tòa trọng tài đều không có quyền yêu sách vùng đặc quyền kinh tế, xem VI.14). Ngoài ra, các đảo đá kiểu như ở quần đảo Nam Sa cũng rất khó có quyền đòi chia đều diện tích biển với đất liền hay với các đảo lớn. Nhưng ngay cả với các giả định thuận lợi này cho Trung Quốc thì vùng đặc quyền kinh tế có được vẫn nhỏ hơn so với đường 9 đoạn. Đặc biệt là mấy phần nổi bật sau : (1) phần phía Tây đường 9 đoạn gần vùng biển ngoài ngoài khơi phía Nam của Việt Nam; (2) phần phía Nam đường 9 đoạn gần vùng biển Malaysia; (3) phần phía Đông Nam và phía Nam đường 9 đoạn gần với vùng biển Philippines, đặc biệt là đoạn gần đảo Palawan ở Đông Nam; (4) phần ở đảo Đông Sa và đối diện đảo Luzon của Philippines. Trong đó đáng chú ý là khu vực (2) và (3) đều là hai khu vực hiện đang sản xuất nhiều dầu mỏ, đặc biệt là khu vực (2). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Thứ hai là hàm ý pháp luật của nó không rõ ràng. Theo phân tích của các học giả Trung Quốc và nước ngoài có một số cách hiểu khác nhau về quyền của Trung Quốc, xếp theo thứ tự giảm dần là : một là biên giới trên biển; hai là vùng biển lịch sử; ba là vùng biển có quyền lịch sử; bốn là đường quy thuộc các đảo. Cần phải chỉ ra là: trong các lý luận này, đặc biệt là trong hai loại diễn giải có liên quan tới quyền lịch sử và vùng biển lịch sử, có hai khái niệm khác nhau thường bị lẫn lộn : (1) hàm ý pháp luật đường 9 đoạn lúc ban đầu là gì; (2) sau nhiều năm như vậy, có sản sinh hàm ý mới có hiệu lực pháp luật hay không. Sau đây là phân tích. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">3. Đường biên giới trên biển hay đường quy thuộc các đảo? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lý luận đường biên giới biển và lý luận đường quy thuộc các đảo đối lập với nhau: lý luận trước cho rằng đường 9 đoạn là biên giới trên biển của Trung Quốc, các đảo đá, bãi cát cũng như vùng biển trong đường này đều thuộc lãnh thổ Trung Quốc;[5]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lý luận sau cho rằng đường 9 đoạn chỉ cho biết tất các đảo, bãi cát trong đường này đều là lãnh thổ Trung Quốc, không liên quan đến sự quy thuộc của bất kỳ vùng biển nào. Điểm chung của chúng là đều dựa vào ý định ban đầu của đường 9 đoạn, do đó có thể gộp làm một để thảo luận. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lấy luật quốc tế mà nói, dùng đường 9 đoạn làm biên giới quốc gia là vi phạm quy định Điều 3 của luật biển: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mọi quốc gia có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình, chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[6]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Diện tích của đường 9 đoạn rõ ràng lớn hơn rất nhiều so với giới hạn được vạch ra theo luật pháp quốc tế với giả định là tất cả các đảo trong đường này đều thuộc Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ủng hộ đường biên giới trên biển có chuyên gia luật quốc tế Triệu Lý Hải: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường đứt đoạn ở Nam Hải là đường biên giới trên biển mà Trung Quốc luôn một mực giữ vững mấy chục năm nay.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”[7]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này có nghĩa là bên trong đường 9 đoạn là nội thủy hoặc lãnh hải của Trung Quốc,bên ngoài mới là lãnh thổ của nước khác hoặc vùng biển quốc tế. Dù đại bộ phận các các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng cách nhìn này là không đúng, nhưng truyền thông không chính thức của Trung Quốc đều cố ý hoặc vô tình định nghĩa đường 9 đoạn là “đường biên giới biển”. Ví dụ, Đơn Chi Tường, một người làm truyền thông nói: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường 9 đoạn ở Nam Hải chính là đường biên giới quốc gia</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[8]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Câu thứ nhất của đoạn mở đầu bài viết công bố trên “Báo Chính hiệp nhân dân” nhưng được đăng lại trên báo mạng Nhân dân và Tân hoa chính là “v</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ùng biển Nam Hải xưa nay đều là lãnh thổ Trung Quốc, diện tích vùng biển này hơn 3 600 000 km</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[9]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vùng biển ở đây chỉ có thể chỉ vùng biển trong đường 9 đoạn. Các bản đồ của Trung Quốc xuất bản luôn dùng cách vẽ giống như đường biên giới quốc gia để đánh dấu đường 9 đoạn, cũng cố ý hoặc vô tình đưa đến sự ủng hộ của công chúng về cách nhìn này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luận cứ ủng hộ kiểu lý luận này chủ yếu là dựa vào cách vẽ trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí lược đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” và “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia khu vực địa đồ” </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">năm 1948. Theo lời kể sau này của Vương Tích Quang, người tham gia biên soạn bản đồ của Ty Phương vực, Bộ Nội chính năm đó thì : “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường biên giới quốc gia đứt đoạn được vẽ ở vị trí trung tuyến giữa nước ta và các nước láng giềng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[10]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phó Côn Thành cho rằng cách vẽ kiểu “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung tuyến</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” này “c</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ó thể suy ra là chính phủ Trung Quốc dùng một kiểu thái độ tự mình đặt ra, cố dựa vào đường biên giới này để phân biệt quyền quản lý và phân chia lợi ích</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giữa Trung Quốc với các nước lân cận đối với vùng biển Nam Hải.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”[11]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông ta còn cho rằng “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào thời điểm đó, Tuyên bố Truman đã đã gây ra làn sóng các nước trên thế giới khoanh chiếm biển, tới tấp mở rộng phạm vi yêu sách quyền của mình trên trên các vùng biển. Yêu sách của chính phủ Trung Quốc khi đó , thực tế chỉ là hưởng ứng phong trào toàn cầu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chẳng hạn, nhà địa lý học Vương Dĩnh tuyên bố đã tìm thấy “chứng cứ mới” của đường biên giới trên biển.[13]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bà đã phân tích “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia khu vực địa đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trung Quốc xuất bản năm 1949, và nhận thấy đường vẽ trên biển và đường vẽ trên đất liền là giống nhau, hơn nữa trong chú giải trên bản đồ viết là “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">biên giới quốc gia</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, vì thế bà khẳng định đường 9 đoạn là “đường biên giới quốc gia trên biển”. Theo bà, vùng biển trong đường này là lãnh hải của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những luận điểm này có ý chứng minh rằng ngay từ đầu khi vẽ đường 9 đoạn, Trung Quốc đã “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tuyên bố</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” đường 9 đoạn là đường biên giới biển. Nhưng loại lập luận này hoàn toàn không đứng vững được. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc chỉ căn cứ vào chú giải trên bản đồ để nhận định đó là chứng cứ Trung Quốc đã tuyên bố đường 9 đoạn là đường biên giới trên biển là cực kỳ thiếu cơ sở. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải chư đảo vị trí đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” dùng từ ‘vị trí’, cho thấy bản đồ thể hiện vị trí của các đảo ở Nam Hải, chứ không phải là đường biên giới.[14]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đường này hoàn toàn không phải ở vị trí trung tuyến giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, ở nhiều vị trí đều nói chung rất gần sát đường bờ biển nước ngoài (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 76</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 404px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-size: large;"><img height="404" src="https://lh3.googleusercontent.com/tDexNXLh8kBd9wBR6WmjvRyJMbDMx864bGe0wrTWpCAOvvG5TUopJPnflDaeoxT3l3NIcC6jpaxPdpaQbMVNSPJbeZX9wA9jJoD-NTWivUfulOmcbQGBf0fcEYeN26AqImMdmpWUvWDZbxbwOfESgUPDqABUyykE3DxtIuz-E9gWz7hP2Yg1mmO2fg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đường trên biển được vẽ theo cùng theo cùng kiểu cách với “đường biên giới” không nhất thiết thể hiện đường biên giới trên biển. Cách vẽ thế này là cách vẽ tắt địa lý được dùng rộng rãi trên thế giới khi đó, tức là lấy đảo, đá ở ngoài cùng quần đảo làm ranh giới, gộp toàn bộ nhiều đảo trong một đường ranh giới, khỏi phải liệt kê ra từng đảo.[15]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ví dụ nửa đầu thế kỷ XX, xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia cũng có cách vẽ đường đứt đoạn kiểu này (xem </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 38</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bản đồ này xuất bản vào năm 1937, trước khi có đường chữ U). Vì vậy khi đó, cách vẽ kiểu đường ranh giới trên biển này thực chất thể hiện đường ngăn cách đảo, chứ không phải đường phân chia vùng biển. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 835px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-size: large;"><img height="835" src="https://lh6.googleusercontent.com/P9rTB_tRC5kGOAbm6MSLH2pMcD9Wmqnt6eO1v4Z4w9T8bCExyVlzMUZOXvXFQEa9k5d8QD-PJ92Qs2Iea846awjAODXZthZyDp056r1BVJIIFdpT6qSH0p9W3w88zYsrq5TQIAp6Hf6L7u8PWwD8e3PNUZ3VK1-HTX5lsrMdHQLXSwZqOX1HoYnz_Q" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ năm</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trên hai tấm bản đồ này, đường ngăn cách giữa Philippines và Sabah cũng được vẽ cùng một dạng như đường biên giới quốc gia, có thể phân biệt rõ sự quy thuộc của các đảo, và đường này rõ ràng khác với ranh giới hiệp ước giữa Philippines và Sabah. Nếu như không hiểu đó là đường ngăn cách đảo, Trung Quốc có thể bao biện giúp Philippines và Sabah đàm phán phân chia biên giới biển theo đó được không? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nếu như đây là đường phân giới trên biển giữa Trung Quốc và nước láng giềng thì làm sao Trung Quốc có thể đơn phương vẽ ra mà không đàm phán với nước láng giềng? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ bảy</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nếu như đây là đường biên giới trên biển, khi đó Dân quốc cũng có cơ quan thẩm tra bản đồ, vì sao trong các bản đồ cùng thời của Dân quốc, cách vẽ đường chữ U này đa dạng như vậy, và với phạm vi không giống nhau ? Chẳng lẽ đường biên giới có thể thay đổi nhiều như vậy? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tám,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trên “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia khu vực địa đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” còn có sai sót nghiêm trọng: Trung Quốc đã công nhận nền độc lập của Mông Cổ vào lúc đó, nhưng bản đồ vẫn vẽ Mông Cổ vào trong biên giới quốc gia. Dù điều này không quan hệ trực tiếp đến vấn đề Nam Hải, nhưng cũng đã hạ thấp uy tín của tấm bản đồ này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vấn đề càng lớn hơn đối với lý luận này là thiếu sự ủng hộ của lịch sử. Để hiểu được ý định ban đầu của việc vẽ ra đường này phải xuất phát từ tài liệu lưu trữ. Trong kho tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao, có thảo luận về thiết lập đường 9 đoạn. Những thảo luận này cho thấy Bộ Ngoại giao và Hải quân yêu cầu Bộ Nội chính vẽ ra phạm vi của các đảo Nam Hải để cho Hải quân thuận tiện tiếp thu các đảo Nam Hải (xem III.3). Chính theo yêu cầu này, Bộ Nội chính đã làm ra bản đồ các đảo ở Nam Hải, đã vẽ ra đường đứt đoạn, và giải thích rằng trong đường đứt đoạn là các đảo của nước ta. Ví dụ, vào tháng 4-1947, trong công văn số 434 của Bộ Nội chính gửi chính quyền tỉnh Quảng Đông chỉ ra: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Chủ đề: nhờ kiểm tra xử lý việc xác định và công bố phạm vi cũng như chủ quyền của quần đảo Tây Sa và Nam Sa</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem xét về việc xác định và công bố phạm vi cũng như chủ quyền của quần đảo Tây, Nam Sa, ngày 14-4-1946 Bộ Nội chính đã nhờ các cơ quan có liên quan cử người đến bàn bạc có ghi trong biên bản, trừ việc phân công thực hiện, biên bản hội nghị được sao chép lại tương ứng, vui lòng xem xét xử lý công văn này</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.[16]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">[事由:為西南沙群島範圍及主權之確定與公布一案函請查照辦理由</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">查關於西南沙群島範圍及主權之確定與公布一案,經本部於三十六年四月十四日邀請各有關機關派員會商記錄在案,除分行外,相應抄同會議記錄,函請查照辦理為荷。]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Biên bản hội nghị của Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và Hải quân kèm theo thư nêu : </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cực Nam phạm vi lãnh thổ ở Nam Hải phải đến bãi Tăng Mẫu, trước kháng chiến chống Nhật các ấn phẩm của cơ quan chính phủ, trường học và nhà sách của nước ta đều lấy phạm vi này làm chuẩn, và Bộ Nội chính đã từng đệ trình hồ sơ này, vẫn dựa theo hồ sơ trước đó không thay đổi. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công bố chủ quyền quần đảo Tây Sa và Nam Sa sau khi Bộ Nội chính đặt tên, đính kèm bản đồ mô tả, trình chính phủ Quốc dân xin ý kiến, rồi Bộ Nội chính thông báo cả nước biết; trước khi công bố, Bộ Tư lệnh Hải quân cố chiếm đóng các đảo thuộc hai quần đảo này càng nhiều càng tốt</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [17]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">[(一) 南海領土範圍最南應至曾母灘,此項範圍抗戰前我國政府機關學校及書局出版物,均以此為准,並曾經內政部呈奉有案,仍照原案不變。 </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">(二) 西南沙群島主權之公布,由內政部命名後,附具圖說,呈請國民政府備案,仍由內政部通告全國周知,在公布前,並由海軍司令部將各群島所屬各島,盡可能予以進駐.]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Có thể thấy, nguyên nhân của việc đính kèm bản đồ là chỉ nhằm biểu thị phạm vi của quần đảo Tây Sa và Nam Sa. Do đó, ý định ban đầu của đường 9 đoạn chính là đường quy thuộc các đảo vốn được vẽ ra để xác định các đảo sẽ tiếp thu, mục đích là muốn đánh dấu đảo nào thuộc Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời Dân Quốc, đầu năm 1930, 5 bộ gồm Hải quân, Tài chính, Bộ tham mưu... qua thảo luận chi tiết, cuối cùng qua đệ trình nghị quyết cho Hội nghị Sự vụ quốc gia lần thứ 21 của Viện Hành chính, ngày 24-6-1930 “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lệnh quy định phạm vi lãnh hải Trung Hoa dân quốc là 3 hải lý</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”[18]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được ban hành, nêu rõ : “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nghị quyết Hội nghị Sự vụ quốc gia lần thứ 21 của viện chúng tôi đề xuất: ‘Phạm vi lãnh hải được quy định là 3 hải lý, ranh giới bắt buôn lậu được quy định là 12 hải lý…</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’”[19]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Và một số lệnh hành chính khác trước và sau khi ban hành lệnh này cũng đều lấy 3 hải lý làm ranh giới.[20]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quy định chiều rộng lãnh hải là 3 hải lý thời Dân quốc đã bác bỏ khả năng dùng đường 9 đoạn làm đường lãnh hải. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao khi đó, không tìm thấy thảo luận nào có liên quan về “quản lý và phân phối lợi ích của vùng biển Nam Hải”, không tìm thấy một tài liệu nào liên hệ việc vẽ đường 9 đoạn với tuyên bố Truman. Thảo luận có liên quan đến lãnh hải có thể dùng biên bản hội nghị ngày 10-6-1947 do Viện Hành chính chủ trì với sự tham dự của nhiều bên gồm Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao để làm rõ. Hội nghị này được tổ chức trước khi quyết định về việc công bố phạm vi lãnh thổ tiếp thu, trong đó có xác định lần chót vấn đề công bố đường 9 đoạn. Về lãnh hải, kết luận là: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh hải là một phần của lãnh thổ quốc gia, liên quan đến chủ quyền, không thể từ bỏ, huống chi quần đảo Nam Sa và đảo Palawan cách nhau hơn 12 hải lý, ngoài lãnh hải 3 hải lý của mỗi bên, hai bên còn có khoảng cách đáng kể trên vùng biển quốc tế (công hải)</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[21]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này có nghĩa là vùng biển trong đường 9 đoạn nhưng cách các đảo của Nam Sa 3 hải lý được chính phủ Trung Quốc coi là vùng biển quốc tế. Điều này bác bỏ tuyên bố rằng đường chín đoạn là đường [biên giới] biển có từ "ý định lập pháp".</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì vậy, lập luận của những người như Phó Côn Thành đều là lý do sau sự kiện, không được sử liệu hậu thuẫn. Chuyên gia Trung Quốc Lý Kim Minh cho rằng: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu đúng như lời ông Thành nói thì đường chữ U mà chính phủ Trung Quốc vẽ ra khi đó không phải để chống lại sự xâm lược của thế lực xâm lược nước ngoài, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà là để tiến hành cái gọi là ‘khoanh chiếm biển’</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ‘</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở rộng phạm vi yêu sách quyền lợi vùng biển’</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phát biểu của ông Thành rõ ràng không phù hợp với thực tế khi đó</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[22]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Sau năm 1949, pháp luật liên quan đến lãnh hải của hai bên eo biển [Đài Loan] tiếp tục phủ định lập luận về đường biên giới biển. Ngày 4-9-1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công bố “Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc”, mở rộng chiều rộng lãnh hải thành 12 hải lý: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1)</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #2a2a2a; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là mười hai hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm đại lục Trung Hoa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, nhóm đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa (Macclesfield), quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi vùng biển quốc tế</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[23]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Tuyên bố chỉ ra rằng đối với các đảo ở Nam Hải thì lãnh hải của Trung Quốc nằm trong phạm vi 12 hải lý ngoài đường cơ sở lãnh hải (mặc dù không có đường cơ sở nào được đưa ra khi đó). Ngay cả khi đường cơ sở lãnh hải các đảo ở Nam Hải được vẽ ra thì phạm vi [lãnh hải tương ứng] cũng còn xa mới đủ để bao phủ phạm vi đường 9 đoạn. Hơn nữa, tuyên bố này cũng chỉ ra rõ rằng có vùng biển quốc tế nằm giữa các đảo ở Nam Hải (lẫn các đảo như Đài Loan, Bành Hồ...) và đất liền. Có thể thấy, tuyên bố này có hàm ý là vùng nước bên trong đường 9 đoạn có một phần rất lớn thuộc vùng biển quốc tế. Nếu đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia thì vùng biển quốc tế ở đâu ra từ bên trong nó ? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” công bố ngày 25-2-1992 quy định: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều 3: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiều rộng của lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải. Đường cơ sở của lãnh hải nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được phân định theo phương pháp đường cơ sở thẳng, bao gồm các đoạn thẳng nối các điểm cơ sở liền kề nhau tạo thành. Giới hạn ngoài của lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một đường có khoảng cách từ mỗi điểm của nó đến điểm gần nhất của đường cơ sở lãnh hải bằng 12 hải lý.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[24]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong mọi trường hợp, đường cơ sở lãnh hải của Trung Quốc không thể chỉ ra được nơi nào để mở rộng ra 12 hải lý [mà không nằm] bên trong đường 9 đoạn. Trên thực tế, theo “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố về đường cơ sở lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Chính phủ nước nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” do Quốc Vụ viện công bố ngày 15-5-1996, đường cơ sở lãnh hải của quần đảo Tây Sa là dùng đường nối các rìa ngoài cùng của các đảo.[25]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này có nghĩa là vùng nước nằm trong đường 9 đoạn nhưng ngoài đường cơ sở lãnh hải [12 hải lý] hoàn toàn không phải là lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy, rõ ràng là sai khi nói đường 9 đoạn là lãnh hải của Trung Quốc, điều này không những không phù hợp với luật quốc tế mà còn vi phạm pháp luật trong nước của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Đài Loan chưa hề nói vùng nước bên trong đường 9 đoạn là lãnh hải của Trung Quốc, nhưng vào năm 1993 đã tuyên bố rằng vùng nước này là vùng nước lịch sử (xem V.4). Thực ra, trong văn kiện của Trung Quốc đường 9 đoạn cũng đã được xác định là “đường phạm vi quy thuộc các đảo ở Nam Hải”. Tháng 5-2003, Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước đã ban hành "</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một số quy định về việc trình bày nội dung trên bản đồ công cộng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">",[26]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều 6 của Chương 3 Đường biên giới nêu :</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1.</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phản ánh chính xác phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">(1) Phạm vi bản đồ: biên giới phía Đông vẽ ở chỗ hợp lưu của sông Hắc Long Giang và sông Ô Tô Lý (Ussuri), biên giới phía Tây vẽ đoạn sông Phún Xích (Panj) hướng chảy Nam Bắc, biên giới phía Bắc vẽ đoạn sông cực Bắc của sông Hắc Long Giang, biên giới phía Nam vẽ bãi Tăng Mẫu (ngoài bản đồ lịch sử trước thời Hán): </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 44.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 44.8422pt; text-align: justify;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">(2) Bản đồ toàn thể nước Trung Quốc phải thể hiện các đảo trọng yếu như các đảo ở Nam Hải, đảo Điếu Ngư, đảo Xích Vĩ..., đồng thời dùng ký hiệu tương ứng để vẽ đường phạm vi quy thuộc của các đảo Nam Hải. Nếu tỉ lệ xích bằng hoặc nhỏ hơn 1:100 triệu thì đường phạm vi quy thuộc các đảo Nam Hải có thể thay đổi từ 9 đoạn thành 7 đoạn, tức có thể bỏ đi đoạn thứ 2 và đoạn thứ 7 từ phía bên trái, có thể không biểu thị các điểm đảo của đảo Điếu Ngư, đảo Xích Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Ngoài ra, từ thực tiễn quốc tế thấy rằng, từ xưa đến nay, quyền tự do hàng hải chưa hề bị gián đoạn. Chính phủ Trung Quốc cũng nhiều lần tuyên bố không có vấn đề về tự do hàng hải ở Nam Hải. Nếu như đường 9 đoạn được xác định là đường lãnh hải thì tự do hàng hải đã phải bị hạn chế. Điều này trái với thực tiễn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy, từ ý định ban đầu khi vẽ đường 9 đoạn cho đến luật pháp và thực tiễn lâu dài sau đó của chính phủ Trung Quốc, đường 9 đoạn là và chỉ là đường quy thuộc đảo. Lập luận coi đường 9 đoạn là lãnh hải của Trung Quốc không phù hợp với luật quốc tế, cũng không phù hợp với luật trong nước, càng không phù hợp với thực tiễn quốc tế, là không đứng vững được. Đa số học giả Trung Quốc cũng giữ thái độ coi đường 9 đoạn là đường quy thuộc đảo.[27]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;"> 4. Vùng nước lịch sử </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Lý luận cho rằng phần trong đường 9 đoạn là vùng nước lịch sử (historic water) của Trung Quốc được đưa ra lần đầu vào năm 1993 khi Đài Loan công bố “Cương lĩnh chính sách biển”. Các chuyên gia Trung Quốc hiện đang sử dụng quan điểm này ngày càng nhiều, theo một số học giả, vùng nước lịch sử có hàm ý là có chủ quyền đối với lãnh thổ và phần nước trong vùng nước này. Như vậy, đường vùng nước lịch sử về cơ bản có hiệu lực tương đương với đường biên giới biển. Nhưng lý luận này cũng không có căn cứ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong “Công ước” có 3 chỗ nhắc đến danh từ “[tính] lịch sử”, nhưng không có đưa ra định nghĩa vùng nước lịch sử. Điều 10 về Vịnh biển có nêu: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quy định trên đây không áp dụng cho cái gọi là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào sử dụng phương pháp đường cơ sở thẳng quy định ở Điều 7.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[28]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Điều 15 Việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau viết: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có quyền sở hữu lịch sử (historic title) hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải phân định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[29]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong Điều 298 Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng Mục 2, viết: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) (1) </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc phân định ranh giới biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay quyền sở hữu lịch sử... </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thuật ngữ vùng nước lịch sử này được đưa ra cách đây 70, 80 năm, rất lâu trước khi có “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” và khái niệm vùng đặc quyền kinh tế…, với ý định thừa nhận rằng có một số vùng nước liên quan chặt chẽ đến lãnh thổ của một quốc gia, có thể khiến nước này có quyền quản lý vùng nước này. Khái niệm về vùng nước lịch sử ngay từ đầu đã mơ hồ và cũng không được thừa nhận rộng rãi trong luật pháp quốc tế. Sau khi “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” ra đời, do đã có quy định chính thức về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, vùng nước lịch sử dần dần đi đến điểm kết thúc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Định nghĩa của vùng nước lịch sử là gì, nó có quyền lợi gì, có nhiều ý kiến khác nhau. Theo nhà nghiên cứu luật quốc tế Leo J. Bouchez trong cuốn sách “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chế độ vịnh trong luật quốc tế</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” đã luận bàn về định nghĩa vùng nước lịch sử: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng nước lịch sử là vùng nước mà quốc gia ven biển không áp dụng các quy định chung của luật pháp quốc tế nhưng được cộng đồng quốc tế chấp thuận thông qua việc thực thi chủ quyền một cách rõ ràng, hiệu quả, liên tục và lâu dài đối với vùng nước đó</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[30]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Niên giám Ủy ban Luật Quốc tế</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” xuất bản năm 1962 đưa ra rõ ràng ba điều kiện cho vùng nước lịch sử: (1) Thực thi quyền lực với khu vực này; (2) Thực thi quyền lực có tính liên tục; (3) Loại quyền lực này đòi hỏi phải được sự ngầm thừa nhận của nước ngoài.[31]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này cũng có thể đại diện cho quan điểm của phần lớn các chuyên gia ủng hộ vùng nước lịch sử.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo cách nhìn của D. P. O'Connell, có ba loại vùng nước có thể xem là vùng nước lịch sử: (1) vịnh lịch sử; (2) vùng nước ven biển được một nước đòi có chủ quyền; (3) vùng biển trước đây thuộc vùng biển quốc tế, nhưng dựa vào lợi ích lịch sử đặc thù mà một nước tuyên bố thuộc chủ quyền của mình một một cách ngoại lệ.[32]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cần phải chỉ ra là cách nhìn này được viết trước khi “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Luật biển</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” năm 1982 được thông qua, và không nhất thiết phù hợp với tình hình sau Luật biển. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trường hợp thứ nhất tương đối nhiều, từ “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” chỉ được nêu trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vịnh lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Ví dụ vịnh Peter Đại đế (Peter the Great Gulf) của nước Nga ở phía Bắc biển Nhật Bản được nước Nga tuyên bố là vùng nước lịch sử. Vùng nước này ăn sâu vào đất liền, hai bên đều là lãnh thổ nước Nga, chỗ cửa vịnh rộng 102 hải lý (nhỏ hơn chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế), vùng phụ cận không có nước tranh chấp. Trong lịch sử, vùng biển này hoàn toàn do người Nga quản lý. Dù nhìn nhận từ phương diện nào cũng đều phù hợp với sự đồng thuận ở trên. Ngay cả như vậy, tư cách vịnh lịch sử của nó cũng không được quốc tế công nhận rộng rãi (Mỹ không công nhận). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng nước mà trường hợp thứ hai chỉ ra thì chỉ cần dùng khái niệm đường cơ sở thẳng và vùng nước quần đảo đã đủ bao phủ, không cần phải dùng khái niệm “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[33]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trường hợp thứ ba chỉ có Vương quốc Tonga vận dụng. Tonga là một quốc gia quần đảo, có thể vẽ đường cơ sở quần đảo theo các quy tắc của luật quốc tế cho các quốc gia quần đảo. Nhưng ngay từ ngày 24-8-1887, Tonga đã vẽ trên Công báo một khung vuông do 4 đường kinh, vĩ tuyến tạo thành, khoanh các đảo của họ vào trong đó và tuyên bố là biên giới quốc gia (đường biên giới quốc gia này lớn hơn biên giới quốc gia được hình thành theo quy tắc đường cơ sở quần đảo sau này).[24]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ phản đối, và Tonga đã thực thi chủ quyền này kể từ đó.. Như vậy, khoảng 100 năm sau, khi “Công ước” được ký kết</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tonga đã thiết lập chủ quyền lịch sử đầy đủ. Đây là ngoại lệ duy nhất được quốc tế công nhận. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Có thể thấy, ba trường hợp này đều không khớp với tình huống của Nam Hải. Nam Hải là vùng biển được Trung Quốc Đại lục, bán đảo Đông Dương, đảo Borneo và Philippines bao quanh, không phải là một vịnh. Trung Quốc Đại lục chỉ nằm ở phía Bắc của nó, xung quanh Nam Hải đều là nước có tranh chấp. Về địa lý mà nói, hoàn toàn khác với vịnh lịch sử được quốc tế công nhận. Các đảo Nam Hải cách xa Trung Quốc Đại lục nên không phù hợp để áp dụng trường hợp thứ hai. Trung Quốc không phải quốc gia quần đảo nên cũng không áp dụng thích hợp trường hợp thứ ba được, chưa kể đường 9 đoạn không phải là đường vẽ bằng các đoạn thẳng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đương nhiên, nếu như “sự quản lý” đối với Nam Hải của Trung Quốc đạt đến tiêu chuẩn như liệt kê phía trên thì dù Nam Hải không phải là vịnh, Trung Quốc cũng có thể yêu sách quyền đối với vùng biển lịch sử này, nhưng Trung Quốc không có đủ chứng cứ về quản lý lịch sử.</span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">5. Đường biên giới biển truyền thống ở đâu? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Theo phân tích tư liệu ở trên, khi vẽ đường 9 đoạn, Trung Quốc về căn bản không suy tính đến vấn đề vùng nước lịch sử. Do đó, ý định ban đầu của việc phân định này không thể là để thể hiện vùng nước lịch sử. Tuy nhiên,Trung Quốc có thể có hai cách biện giải: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trước khi luật biển quốc tế có liên quan ra đời, Trung Quốc đã có quyền quản lý “truyền thống” đối với vùng nước bên trong đường 9 đoạn, mặc dù thứ quyền quản lý này không phù hợp với yêu cầu của luật quốc tế thời Cận Hiện đại, nhưng cũng đủ để chứng minh chủ quyền lịch sử của Trung Quốc đối với vùng nước này. Khi đường 9 đoạn được vẽ, mặc dù không suy tính như vậy, nhưng trên thực tế phạm vi của nó đại để bằng với phạm vi quản lý "truyền thống". </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai:</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sau khi Trung Quốc vẽ ra đường 9 đoạn năm 1947, trải qua thời gian mấy chục năm tính từ năm 1947, một chủ quyền lịch sử đã được hình thành. Trung Quốc có lúc gọi đường 9 đoạn là “đường biên giới biển truyền thống”, cách gọi này được ngày càng nhiều chuyên gia Trung Quốc sử dụng, mục đích đại khái là để nhấn mạnh hơn quyền lịch sử của họ. Một số học giả nước ngoài, chẳng hạn như Trâu Khắc Uyên cũng dùng cụm từ ‘Traditional Maritime Line’ (Đường [biên giới] biển truyền thống) để miêu tả nó. Có hai loại khái niệm dễ bị nhầm lẫn trong lý luận về ranh giới biển truyền thống: loại thứ nhất chỉ cương vực hình thành từ thời Cổ khi Trung Quốc chưa tiếp nhận quy tắc quốc tế Cận Hiện đại, loại thứ hai chỉ tính lịch sử bắt đầu hình hình thành từ năm 1947, khi đường 9 đoạn được vẽ ra. Dùng những thuật ngữ này mà không phân biệt kỹ rất dễ che giấu sự thật rằng đường 9 đoạn mới bắt đầu có từ năm 1947, gây nhầm lẫn giữa hai khái niệm khác nhau này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Phần này trước tiên thảo luận về đường biên giới biển “truyền thống” theo nghĩa thứ nhất. Nếu như trong lịch sử, Trung Quốc đã có thực tiễn quản lý chẳng hạn như tuần tra và chống buôn lậu, thực hiện quy định quản lý nghiêm ngặt đối với việc đi biển ở Nam Hải giống như trong lãnh hải thậm chí theo như tiêu chuẩn hiện nay đối với vùng biển gần như tương đương phần trong đường 9 đoạn, thì điều đó có thể biện minh ở một mức độ nhất định chủ quyền lịch sử của Trung Quốc đối với vùng biển này. Nhưng trước tiên cần phải trả lời hai câu hỏi: thứ nhất, Trung Quốc có đường biên giới biển truyền thống theo nghĩa quản lý thực tế không; thứ hai, nếu có thì về cơ bản đường biển giới biển truyền thống của Trung Quốc có trùng với đường 9 đoạn không? Tất cả những điều này cần được chứng minh bằng dữ liệu lịch sử. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đầu tiên phải nêu rõ rằng trong việc đặt tên biển, phương Đông và phương Tây có truyền thống khác nhau. Trong truyền thống của phương Tây, tên gọi của biển nào đó chỉ là tên địa lý đơn thuần, không ám chỉ nó thuộc về nước ven biển có tên gọi đó. Ví dụ, các tên gọi lâu đời như Ấn Độ Dương, biển Nhật Bản, biển Philippines..., không có nghĩa các nhà hàng hải phương Tây cho rằng những vùng biển này thuộc Ấn Độ, Nhật Bản hay Philippines. Chỉ dựa theo tên gọi của phương Tây để nhận định rằng quốc gia nào đó có chủ quyền đối với vùng biển nào đó là thiếu căn cứ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Tuy nhiên, trong truyền thống phương Đông, việc đặt tên vùng biển nào đó lại mang màu sắc chủ quyền nhất định. Ví dụ các nhà hàng hải Ả Rập thì chia Nam Hải thành 3 phần: biển Côn Lôn, biển Chiêm Thành (Champa) và biển Trung Quốc. Trên thực tế, xét về mặt địa lý thì Nam Hải không có ba phần rõ rệt như vậy; ngoài việc thuận tiện để chỉ một vùng biển hoặc đại dương nào đó, rõ ràng là cách gọi tên đó cũng mang ý nghĩa chủ quyền nhất định. Phương Tây gọi Nam Hải là “biển Nam Trung Quốc”, chứ không tiếp tục chia nhỏ thành biển Côn Lôn, biển Chiêm Thành (Champa) và biển Trung Quốc như người phương Đông, vì đối với họ, về địa lý, đó chỉ là một biển, không cần phải tiếp tục chia nhỏ thành 3 biển theo quan hệ sở thuộc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong tài liệu lịch sử xưa của Trung Quốc, Việt Dương/Hải (biển Quảng Đông), Mân Dương/Hải (biển Phúc Kiến)... được dùng để miêu tả vùng biển ngoài khơi Quảng Đông hoặc Phúc Kiến, còn Việt Nam Di Dương, Giao Chỉ Dương, Chiêm Thành Dương... được dùng để miêu tả vùng biển của Việt Nam. Trong tài liệu lịch sử của Trung Quốc, những địa danh này còn được gán cho những ý nghĩa khác ngoài ý nghĩa địa lý, chẳng hạn như cho rằng đó là phạm vi hoạt động của ngư dân ở đó, hoặc là vùng biển liên quan đến chủ quyền của quốc gia ven biển theo suy nghĩ của nhà hàng hải , tức biên giới biển truyền thống. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khái niệm biên giới biển truyền thống loại này được Trung Quốc và các nước Đông Nam Á sử dụng cho đến giữa thế kỷ XIX (khoảng năm 1860). Tuy nhiên, loại đường biên giới này có hai vấn đề phổ biến là: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đường biên giới không rõ ràng và cũng rất khó xác định phạm vi mở rộng ra phía ngoài của nó; </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nó thiếu sự thừa nhận chính thức, cũng vì vậy mà thiếu ý nghĩa pháp luật quốc tế chặt chẽ. Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, đường biên giới này nói chung rõ ràng và cũng có ý nghĩa về mặt quản lý hành chính chính thức, chẳng hạn như tuần tra. Nếu các điều kiện này được đáp ứng thì các biên giới biển truyền thống này sẽ có thể được định nghĩa là vùng nước lịch sử. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Rất khó để xác định ranh giới biển truyền thống của Trung Quốc trước thời nhà Thanh, vì không có sử liệu rõ ràng chính xác, ngoài ra cũng không quá cần thiết, vì đường biên giới thời cổ thay đổi rất lớn, lúc tiến lúc lùi, khó thể xác nhận. Ngoài ra, vào thời Minh, Trung Quốc thực hiện chính sách cấm biển dài hạn, và ý thức về quản trị đại dương của họ vẫn ở mức phòng thủ bờ biển và phòng thủ đại dương trong một thời gian dài,và phạm vi của nó thay đổi không nhiều so với thời Thanh. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vào thời Thanh, nhờ có nhiều tài liệu lịch sử hơn, và có việc Trung Quốc và Việt Nam hợp tác bắt buôn lậu, chống cướp biển... vào đầu thế kỷ XIX nên phạm vi tuần tra của hai bên phải được xác định rõ, nhờ đó Trung Quốc và Việt Nam có sự phân định tương đối rõ ràng biên giới biển truyền thống. Thời kỳ này biên giới biển truyền thống này đã mang ý nghĩa của biên giới biển “chủ quyền lịch sử” theo nghĩa của luật pháp quốc tế hiện đại.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy đường biên giới này ở đâu? Vào năm 1833, tức một năm sau khi Hiệp Thủy sư Nhai Châu thành lập, Hoàng đế Đạo Quang có lệnh truyền liên quan đến tuần tra vùng biển này: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lại theo ý kiến của Lý Tăng Giai, phó tướng Lý Hiền... tuần tra đến bãi Đồi Mồi ngoài khơi Tam Á thuộc Nham Châu, tiếp giáp với Việt Nam Di Dương...., chỉ có điều là vùng biển Hoa và Di tuy thông thương nhưng cương vực đã phân chia, cần phải nắm rõ tình hình mới có thể tính kế vẹn toàn</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[35]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Văn kiện này là của quân thủy Hải Nam khi đó tấu trình về tình hình bắt buôn lậu ở ngoài khơi Tam Á. Trong đó có nhắc đến phạm vi tuần tra chỉ đến bãi Đồi Mồi, cách Tam Á thuộc Hải Nam không xa. Vùng biển của Tam Á chỉ đến bãi Đồi Mồi, bên ngoài là “Việt Nam Di Dương” “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tuy thông thương nhưng cương vực đã phân chia</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Đạo Quang cũng đã xác nhận điểm này. Có thể thấy, điểm cực Nam biên giới biển của Trung Quốc chỉ cách bãi Đồi Mồi không xa. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quốc thông thương thủy mạt ký</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Vương Chi Xuân có viết: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào năm Đạo Quang 20 (1840), đầu mục Nguyễn Đình Hào cùng binh thuyền của nước này (chỉ An Nam) bị bão làm hư hại ở biển Nhai Châu, được đưa đến Khâm Châu rồi trả về nước.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span></span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;">[36]</span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;"> Có thể thấy, khu vực tuần tra biển lúc đó của quân binh Việt Nam đến tận vùng phụ phụ cận Nha Châu (tức Tam Á). Liên hệ với việc quản lý của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX (xem Chương I), biên giới biển truyền thống giữa Trung Quốc và Việt Nam thời kỳ này ở phía Nam đảo Hải Nam là có thể tin được. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nửa sau thế kỷ XIX, Hải quan Trung Quốc bị người Anh kiểm soát, tuần tra hải quan thời kỳ này có biên bản tỉ mỉ bằng tiếng Anh. Trong những biên bản này, tuyến đường tuần tra của hải quan đều không vượt qua phạm vi cực Nam đảo Hải Nam. Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quảng Đông địa dư đồ thuyế</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">t” do nhà nước biên soạn và hiệu đính năm 1892, có viết rõ thêm rằng: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tỉnh Quảng Đông... Biên giới biển hiện nay kết thúc ở Quỳnh Nam [phía Nam đảo Hải Nam], phía ngoài nó là Thất Châu Dương, việc tuần tra của Quảng Đông từ đó trở lại</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;">[]</span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;"> Năm 1909, Trung Quốc muốn đến Tây Sa tuyên bố chủ quyền, thời gian này tàu của thủy quân Quảng Đông không đủ để đến Tây Sa (xem Chương I), phải mượn tàu của thủy quân Phúc Kiến và Hải quan. Điều này khẳng định một lần nữa biên giới biển của nhà Thanh Trung Quốc chỉ cách cực Nam đảo Hải Nam không xa. Có thể thấy, vào cuối thời Thanh, thủy quân Quảng Đông cũng không thể đến Tây Sa, nói chi đến việc tuần tra vùng biển ở phía Nam Tây Sa. Vì vậy, vùng biển Trung Quốc quản lý thực tế chỉ giới hạn trong phạm vi tuần tra của Hải quan, tức cực Nam đảo Hải Nam. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1894, Trung Quốc và Mexico ký “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước Washington</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, quy định lãnh hải “hai bên đều lấy nơi cách bờ biển 3 lieue (một lieue bằng 10 dặm của Trung Quốc) là ranh giới biển, lấy chuẩn là ngấn nước khi triều thấp.”</span></span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;">[]</span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo quy định này, chiều rộng biên giới biển của Trung Quốc là 30 dặm, khoảng 8 hải lý. Đến khi đó, Trung Quốc đã tiếp thu định nghĩa về lãnh hải trong luật quốc tế. Biên giới biển của Trung Quốc cũng đã hoàn toàn thoát khỏi khái niệm “</span><span style="font-size: x-large; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">biên giới biển truyền thống</span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, mà đã hoàn toàn áp dụng quan niệm biên giới biển phù hợp với luật quốc tế. Vì vậy, thời kỳ này, biên giới biển truyền thống đã mất đi hiệu lực. Biên giới biển của Trung Quốc từ 1894 đến 1947, cần phải dùng luật và thông lệ quốc tế để xác định, trong thời Dân quốc, chiều rộng này được định nghĩa là 3 hải lý. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy, có thể rút ra kết luận, ở Trung Quốc thời cổ thực sự có một đường biên giới biển truyền thống, và Trung Quốc đã có những hoạt động thực thị chủ quyền như tuần tra và bắt buôn lậu... trong đường biên giới biển này. Nhưng phạm vi này chỉ đến cực Nam đảo Hải Nam, tiếp giáp với biên giới biển truyền thống của Việt Nam. Nó không đến quần đảo Tây Sa, càng không đến quần đảo Nam Sa, càng không thể đánh đồng với phạm vi của đường 9 đoạn được. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">6. Vùng nước trong đường 9 đoạn có phải là vùng nước lịch sử? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">“Truyền thống” mà “đường biên giới biển truyền thống” loại thứ hai nói đến chỉ là truyền thống lịch sử bắt đầu hình thành sau khi Trung Quốc vẽ ra đường 9 đoạn năm 1947. Nhưng tính “lịch sử” này càng khó được chấp nhận. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khó có thể gọi một lịch sử ngắn ngủi như vậy là "truyền thống", nếu không nhiều nước có thể đưa ra những "đường [biên giới] biển truyền thống" tương tự, chẳng hạn như đường ranh giới theo hiệp ước của Philippines, được vẽ năm 1899, sớm hơn nhiều so với đường 9 đoạn. Và nhiều nước Nam Mỹ như Ecuador, Peru, v.v., đã đề xuất đường lãnh hải dài 200 hải lý vào khoảng năm 1947. Theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, chẳng phải “đường lãnh hải” của họ cũng là đường [biên giới] biển truyền thống sao? Điều này rõ ràng là đi lệch với luật pháp quốc tế, và hầu hết các quốc gia đều khó chấp nhận.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sau năm 1947, Trung Quốc không hề có quyền quản quản lý đối với vùng biển của đường chín đoạn. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một là </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các đảo nằm trong đường chín đoạn không phải do Trung Quốc độc chiếm. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">l</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">à sau năm 1947, như trong lịch sử cho đến sau này, tàu thuyền của quân đội và nhân dân các nước có tự do hàng hải ở Nam Hải: trước năm 1956 Pháp nhiều lần tuần tra ở vùng biển Nam Sa và Tây Sa; quân đội Mỹ càng duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở Nam Hải vốn là chiến trường quan trọng mà Hải quân và Không quân Mỹ tham dự Chiến tranh Việt Nam; chỉ khi Quân đội Mỹ tiếp cận rất gần đảo Hải Nam và bờ biển đất liền Trung Quốc mới gặp sự “cảnh cáo nghiêm khắc” của Trung Quốc. Tàu thuyền đi lại ở vùng biển trong đường 9 đoạn không cần được Trung Quốc cho phép, cũng không dẫn đến sự phản đối của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ba là </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào thập niên 1950-60, Nam Sa và đảo Hoàng Nham trở thành căn cứ của cướp biển và buôn lậu. Khi đó chủ yếu là Philippines và Mỹ chống lại buôn lậu ở khu vực này, tức là Mỹ và Philippines chứ không phải Trung Quốc, đã thực hiện quyền quản lý đối với vùng biển khu vực này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bốn là </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ năm 1956 đến 1984, Trung Quốc không tiến hành hoạt động đánh bắt cá ở vùng biển Nam Sa. Trong khi Việt Nam và Philippines cùng thời kỳ đều có ghi chép về tiến hành hoạt động nghề cá và quản lý nghề cá ở vùng biển Nam Hải. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm là </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bắt đầu từ thập niên 1970, các nước Malaysia, Việt Nam và Brunei đều khai thác dầu khí ở ven bờ Nam Hải, không ít mỏ dầu đó nằm trong đường 9 đoạn. Nhưng Trung Quốc hoàn toàn không ngăn cản những hoạt động khai thác này, điều đó cho thấy Trung Quốc không hề có quyền quản lý bên trong đường 9 đoạn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Từ đó có thể rằng mặc dù Trung Quốc đã vẽ đường vào năm 1947, nhưng sau năm 1947 đã không thực hành quyền quản lý một cách liên tục và không bị tranh cãi tương ứng với luật quốc tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong tuyên bố lãnh hải năm 1958 lẫn trong luật biển ban hành năm 1992 của Trung Quốc, khái niệm vùng nước lịch sử không được nhắc đến, càng không nhắc đến đường 9 đoạn. Trong các pháp lệnh do Trung Quốc và Đài Loan công bố, lãnh hải đều là 12 hải lý. Có thể thấy khi ban hành pháp luật, chính phủ Trung Quốc cũng không xem đường 9 đoạn là vùng nước lịch sử. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mãi đến năm 1993, Đài Loan mới đưa ra quan điểm về vùng nước lịch sử. Nhưng cách thể hiện này lập tức nhận bị Mỹ và các nước Đông Nam Á chú ý và phản bác. Có thể thấy, thế giới hoàn toàn không ngầm thừa nhận quyền quản lý, dù chỉ “trên giấy”, của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, so với yêu sách vùng nước lịch sử ở vịnh Bắc Bộ Việt Nam đưa ra (V.5), chứng lý đường 9 đoạn của Trung Quốc thậm chí còn xa mới có sức nặng bằng. Về mặt thời gian, đường biên giới biển của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ có thể truy ngược đến thời Tống, và cũng được Trung Quốc công nhận (là đường biên giới biển truyền thống) vào thời Thanh. Ngay cả bắt đầu tính từ khi Trung-Pháp phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 1887 cũng sớm hơn 60 năm so với đường 9 đoạn. Về mặt hiệu lực, đường đỏ [trên bản đồ phân phân định] là kết quả hiệp ước Trung-Pháp, còn đường 9 đoạn chỉ là đường do Trung Quốc đơn phương vẽ ra. Về kiểm soát thực tế, trước Thế chiến II, Pháp liên tục tuần tra và bắt buôn lậu ở vịnh Bắc Bộ, đồng thời kiểm soát đảo Bạch Long Vĩ gần đường đỏ ở phía Việt Nam, và có kiểm soát thực tế đối với đường đỏ phía Việt Nam. Còn Trung Quốc mãi đến nay vẫn không thực hiện quản lý đường 9 đoạn. Tuy nhiên, Trung Quốc không thừa nhận vùng nước lịch sử của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ. Lấy đó làm chuẩn thì đường 9 đoạn không thể xác lập thành vùng nước lịch sử được. Trâu Khắc Uyên cũng có quan điểm này.</span></span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;">[]</span><span style="font-size: x-large; white-space: pre-wrap;"> </span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">7. Đường 9 đoạn có phải là vùng nước có quyền lịch sử? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do vùng nước lịch sử bị Mỹ cùng các nước Đông Nam Á phản bác, theo kiến nghị của các chuyên gia, Đài Loan đã rút lại khái niệm “vùng nước lịch sử” này. Ngày 15-12-2005, Bộ Nội chính dùng văn kiện chữ nội địa Đài Loan số 09400162932 chính thức đình chỉ việc dùng “Cương lĩnh chính sách Nam Hải”,[40]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đánh dấu việc Đài Loan từ bỏ khái niệm vùng nước lịch sử.[41]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thời gian này, chính phủ Đài Loan quay sang đề xuất rằng họ có các quyền lịch sử đối với vùng biển trong đường 9 đoạn. Điều 14 “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Trung Quốc công bố ngày 26-6-1998 cũng quy định: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quy định của Luật này sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lịch sử mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được hưởng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [42]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt lý luận, vùng nước lịch sử hàm ý có chủ quyền lịch sử vốn khác hẳn với quyền lịch sử.</span></span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong “</span><span style="font-size: x-large; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” không có nói đến quyền lịch sử (historic right), chỉ có chủ quyền lịch sử (historic title). Như đã nói ở trên, chủ quyền lịch sử chủ yếu áp dụng cho vịnh lịch sử. Vì vậy, nghiêm khắc mà nói, trong “</span><span style="font-size: x-large; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” không có khái niệm chủ quyền lịch sử này. Có học giả lẫn lộn quyền lịch sử và chủ quyền lịch sử, từ đó cho rằng trong luật biển có đề cập đến quyền lịch sử,</span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> điều này là sai.[43] Chủ quyền lịch sử bao hàm các loại quyền(right); nhưng việc có một loại quyền nào đó (ví dụ quyền đánh cá) hoàn toàn không thể được coi là có chủ quyền. Quyền lịch sử nhỏ hơn so với quyền chủ quyền lịch sử, sự khác biệt giữa chúng là rõ ràng dễ thấy. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, trong tài liệu tiếng Anh còn có cách diễn đạt tinh tế hơn. Dupuy chỉ ra, học giả nước ngoài thường dùng cụm từ </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">historic right</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> này, còn học giả Trung Quốc lại sử dụng cụm từ </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">historical right </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngày càng nhiều trong các bài viết tiếng Anh công bố. Cái trước là một quyền đã được lập nên thông qua lịch sử, còn cái sau thì phần nhiều thể hiện một thứ quyền có liên quan với lịch sử, thứ quyền này chưa được thiết lập, nhưng có xu hướng có thể thiết lập.[44]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, thông qua phân tích hồ sơ lịch sử, Lý Kim Minh cho rằng: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phần lớn các học giả vẫn còn coi quyền lịch sử và vùng nước lịch sử như nhau</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[45]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, đối với một số học giả Trung Quốc có ý chí mạnh, khái niệm vùng nước có quyền lịch sử được đề xuất để thay thế vùng nước lịch sử, chỉ để tránh những yêu cầu cao đối với vùng nước lịch sử trong luật biển quốc tế. Ví dụ, quy định vùng nước lịch sử ngang bằng với nội thủy, điều này đi ngược lại quyền tự do hàng hải lâu nay ở Nam Hải. Nhưng nếu như có thể qua việc chia tách chủ quyền lịch sử của vùng nước này thành các loại quyền khác nhau, sau đó tìm kiếm luận chứng, có được kết luận Trung Quốc có quyền khác ngoài “nội thủy”, thì có thể không những “phù hợp luật pháp quốc tế” mà còn giành được quyền tối đa, điều này không chỉ mở ra lối khác. Đồng thời trong rất nhiều trình bày, chuyên gia Trung Quốc chỉ đề cập chung chung đến quyền lịch sử, đối phương nếu như không thể biết chỉ ra quyền gì được nói tới thì cũng sẽ khó mà phản bác chi tiết từng điểm một, từ đó họ có thể linh hoạt hơn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Như vậy, trong cái nhìn của những chuyên gia này, Trung Quốc nên đưa ra yêu sách những quyền lịch sử nào? Nội hàm và tính chất biệt lập của nó ra sao? Không có tiếng nói thống nhất, ý kiến mang tính đại diện có: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1) Phan Thạch Anh cho rằng: đường này đánh dấu quyền sở hữu lịch sử của Trung Quốc, quyền này bao gồm chủ quyền đối với tất cả đảo, đá, bãi ngầm, bãi cát trong đường 9 đoạn và quyền chủ quyền đối với vùng biển bên ngoài vùng nội thủy và tài nguyên thiên nhiên trong đường 9 đoạn, đồng thời công nhận quyền tự do đi lại, bay ngang, lắp đặt dây cáp và đường ống dưới biển của các nước khác...[46] </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói cách khác, quan điểm này yêu sách đảo, đá, bãi ngầm, bãi cát trong đường 9 đoạn thuộc về lãnh thổ Trung Quốc, đồng thời coi vùng biển bên ngoài vùng nội thủy giống như vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(2) Phó Côn Thành cho rằng: vùng nước trong đường 9 đoạn là “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, nhưng vùng nước lịch sử này khác với định nghĩa trong luật quốc tế, là một vùng nước lịch sử đặc thù, Trung Quốc được hưởng quyền ưu tiên (Preferential Rights) hơn là độc quyền. Ông ta cho rằng trong đường 9 đoạn Trung Quốc có (i) quyền ưu tiên quản lý, bảo dưỡng, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên trong vùng biển này; (ii) quyền ưu tiên bảo vệ và bảo tồn môi trường biển; (iii) quyền ưu tiên nghiên cứu khoa học; (iv) quyền kiểm soát hàng hải và không lưu - thậm chí xếp đặt việc kiểm soát quản trị liên quan tới hàng hải cho các nước xung quanh như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia... Các nước khác như Việt Nam có thể có quyền lịch sử như đánh cá, vận chuyển thương mại, quyền truy bắt khi cần thiết để bảo vệ an ninh trật tự...; Philippines, Thái Lan có có thể yêu sách quyền lịch sử tự do vận chuyển thương mại; còn các nước khác hoàn toàn không có bất cứ quyền lợi lịch sử nào, phải hoàn toàn chấp nhận quyền ưu tiên về quản lý, kiểm soát, khai thác của Trung Quốc ở vùng nước lịch sử này.[47]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(3) Trâu Khắc Uyên cho rằng quyền lịch sử của Trung Quốc chí ít có quyền đánh cá.[48]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giống như trong phân tích vùng nước lịch sử, có hai khái niệm cần xem xét đối với “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quyền lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ nhất </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là quyền trước khi đường 9 đoạn ra đời, </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là quyền hình thành từ sau khi có đường 9 đoạn. Sự khác nhau giữa chúng đã thảo luận trong phần trước. Đối với quyền lịch sử theo khái niệm thứ nhất, có hai loại quyền có thể thiết lập. Thứ nhất là quyền đánh cá. Trung Quốc là quốc gia đánh cá ở Nam Hải sớm nhất, ở vùng biển Tây Sa và Nam Sa đều có ghi chép về hoạt động của ngư dân trong thời gian dài. Ở Tây Sa, hoạt động này có thể đã bắt đầu vào thời Minh; ở Nam Sa bắt đầu vào khoảng giữa thế kỷ XIX; ở đảo Hoàng Nham đại khái chỉ mới bắt đầu từ năm 1984 khi Đại lục mở cửa nghề cá Nam Hải trở lại. Việt Nam tiến hành hoạt động đánh cá ở Tây Sa vào đầu thế kỷ XX, ở Nam Sa bắt đầu hoạt động đánh cá vào khoảng thời hiện đại. Hoạt động đánh cá của Philippines ở Nam Sa và đảo Hoàng Nham có thể mãi đến giữa thế kỷ XX mới bắt đầu. Vì vậy, Trung Quốc có quyền đánh bắt cá truyền thống không thể tranh cãi ở Tây Sa và Nam Sa. Nhưng quyền này chắc là khó mà mở rộng đến toàn bộ vùng nước trong đường 9 đoạn (ví dụ không có quyền này ở vùng lân cận đảo Hoàng Nham [bãi cạn Scarborough], cũng hoàn toàn không có chứng cứ cho thấy vùng biển phía Tây Nam đảo Nam Uy [đảo Trường Sa Lớn] là ngư trường truyền thống của Trung Quốc). </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Quyền thứ hai là quyền hàng hải. Trung Quốc chắc chắn có quyền này, nhưng các quốc gia ven biển khác cũng có quyền này, thậm chí quốc gia ngoài khu vực cũng vẫn có quyền tự do hàng hải ở Nam Hải, không thấy được vì sao quyền hàng hải truyền thống của Trung Quốc lại nhiều hơn họ. Vì vậy, cái gọi là quyền hàng hải truyền thống, thực ra là các nước cùng hưởng, chứ không phải chỉ một nước được hưởng một mình. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Còn các quyền khác của Trung Quốc thì không có căn cứ, ví dụ Phó Côn Thành nói quyền ưu tiên về quản lý, bảo dưỡng, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên trong vùng biển, quyền ưu tiên bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, quyền lợi ưu tiên nghiên cứu khoa học và quyền quản trị hàng hải, giao thông hàng không. Trong lịch sử trước thời hiện đại, Trung Quốc chưa hề tiến hành những hoạt động này trong vùng biển phía Nam đảo Hải Nam. Trước thế kỷ XX, Trung Quốc chưa lần nào tiến hành thăm dò, đo đạc gì ở Nam Hải, trái lại Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Mỹ tiến hành nhiều đo đạc, nếu có quyền như vậy thì theo đúng lý quyền đó phải thuộc về bốn quốc gia này và các quốc gia kế thừa của chúng. Nói về quyền kiểm soát, trước thế kỷ XX năng lực kiểm soát của Trung Quốc chỉ giới hạn ở cực Nam đảo Hải Nam, còn phần phía Nam là nơi Việt Nam tuần tra. Nếu như có quyền kiểm soát truyền thống như vậy thì quyền đó phải thuộc về Việt Nam. Do đó, Trung Quốc không có quyền lịch sử này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, nếu như nói Trung Quốc có quyền lịch sử theo nghĩa thứ nhất thì chỉ có thể giới hạn ở quyền đánh cá và quyền hàng hải. Tuy nhiên, mặc dù hai quyền này đều có liên quan với lịch sử, đều được coi là quyền “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">không độc quyền</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” , không cần thông qua phương thức quyền lịch sử này, mà hoàn toàn có thể có được trong khuôn khổ luật biển thông thường. Quyền đánh cá truyền thống đã có quy định trong Điều 51 của luật biển quốc tế. Quyền hàng hải có thể được bảo đảm trong nhiều điều khoản như 17-32, 34- 45, 52-54, 58, 86-115, 125... </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về quyền “lịch sử” theo khái niệm thứ hai, tức quyền “lịch sử” hình thành sau khi đường 9 đoạn ra đời, có bài viết của Quách Nhiễm thảo luận chi tiết nhất. Ông ta phân chia các quyền được xác lập dần dần của Trung Quốc thành 3 giai đoạn : “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giai đoạn 1</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, từ trước và sau khi đường chữ U được đưa ra cho đến đầu thập niên 70 thế kỷ XX, chính phủ Trung Quốc chủ yếu yêu sách chủ quyền lãnh thổ các đảo Nam Hải, trên thực tế là thông qua quá trình lịch sử mà củng cố quyền sở hữu lịch sử; </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giai đoạn 2</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đầu thập niên 70 đến thập niên 80 của thế kỷ XX, ngoài yêu sách chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc còn yêu sách thêm “vùng biển liền kề” của các đảo Nam Hải, tiến tới đưa ra đòi hỏi quyền lợi chủ quyền lịch sử theo ý nghĩa chủ quyền không hoàn toàn; </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giai đoạn 3</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sau khi “Công ước” thông qua năm 1982, Trung Quốc bắt đầu dựa theo “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển của mình, và cuối cùng vào năm 2009 đưa ra toàn bộ yêu sách Nam Hải của Trung Quốc.”[49]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ở đây, những gì ông ấy nêu là quyền sở hữu lịch sử thực sự chỉ là quyền lịch sử. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Xét từ cách diễn đạt và phân tích trong bài viết có thể thấy rằng Trung Quốc thực ra chỉ là không ngừng mở rộng “yêu sách” về quyền của họ ở Nam Hải, chứ không phải đã “thiết lập” nên các thứ quyền đó. Trên thực tế, các nước Việt Nam, Philippines và Malaysia ... cũng đều yêu sách các quyền giống như vậy. Như vậy, có thể nói họ cũng đã thiết lập “quyền lịch sử” trong vùng biển này sao? Câu trả lời hiển nhiên là không. Còn trên thực tế, Trung Quốc đã có thiết lập các quyền này chưa ? Từ phân tích của cuốn sách này có thể biết là không. Trên thực tế, ở Nam Hải đặc biệt là vùng biển quần đảo Nam Sa, sau năm 1947, dù với ngành hải sản hay ngành dầu khí, Trung Quốc đều đi sau Việt Nam, Philippines và Malaysia. Nếu như nói trong khoảng thời gian này Trung Quốc đã “thiết lập” các quyền lịch sử ở Nam Sa thì có thể nói Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei... đã “thiết lập” các quyền này còn hơn thế nữa.</span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;"> 8. Đường 9 đoạn được các nước xung quanh ngầm thừa nhận? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trung Quốc tuyên truyền rằng sau khi công bố đường 9 đoạn, trong thời gian dài (trước khi phát hiện dầu mỏ vào thập niên 1970) không có nước nào đưa ra ý kiến gì khác. Khẳng định này có vẻ đúng mà lại sai. Quả thật là trong hơn 30 năm đó không có chính phủ nào phản đối đường 9 đoạn này, nhưng cũng không có chính phủ nào thừa nhận. Thái độ của các nước đối với đường 9 đoạn là “làm ngơ” (thị nhi bất kiến).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Dù cộng đồng quốc tế có thái độ gì với đường 9 đoạn, đường 9 đoạn vẫn tồn tại khách quan: nó là một đường đứt đoạn không rõ ý nghĩa được vẽ trên bản đồ. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của đường này, không đồng nghĩa với công nhận nó là hợp lý và hợp pháp. Năm 2013, Trung Quốc thành lập Vùng nhận dạng Phòng không biển Hoa Đông, và đường này được vẽ ra cũng là khách quan, nhưng không quốc gia nào công nhận đường này là hợp pháp; Mỹ, Nhật, Anh và Úc… đã công khai tuyên bố rằng đường này là bất hợp pháp, nhưng điều này không có nghĩa là họ phủ nhận sự tồn tại của đường đó. Ví dụ khác, đường McMahon do Vương quốc Anh vẽ giữa Ấn Độ và Tây Tạng cũng tồn tại một cách khách quan, Trung Quốc cũng thừa nhận sự tồn tại của đường này nhưng không có nghĩa là Trung Quốc công nhận đường này là hợp pháp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trên thực tế, từ trước đến nay không có nước nào công nhận quyền của Trung Quốc ở khu vực này. Ngay cả lấy đòi hỏi thấp nhất của đường 9 đoạn là đường quy thuộc đảo để lượng định, các nước cũng không thừa nhận tính hợp pháp của đường này. Thập niên 1940, 1950, Philippines, Pháp và Việt Nam nhiều lần đưa ra đòi hỏi chủ quyền ở Tây Sa và Nam Sa, những đảo này toàn bộ đều trong đường 9 đoạn. Sau Thế chiến II đến năm 1974, Pháp và Việt Nam đã liên tục chiếm đóng phía Tây quần đảo Tây Sa; sau Thế chiến II đến năm 2012, Philippines liên tục kiểm soát trên thực tế đảo Hoàng Nham, bắt đầu từ thập niên 1970 Malaysia đã khai thác tài nguyên dầu khí quy mô lớn ở khu vực phụ cận các đảo mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền trong đường 9 đoạn. Theo đó, các nước này đều có tranh chấp chủ quyền các đảo trong đường 9 đoạn, vậy có thể nói những nước này thừa nhận đường 9 đoạn được sao? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Nếu lấy đòi hỏi cao nhất của Trung Quốc được cho là [coi đường 9 đoạn] như lãnh hải thì càng không thể biện minh cho điều đó. Từ sau Thế chiến II đến nay, quân đội Mỹ hoạt động nhộn nhịp, tự do chạy tàu ở Nam Hải; tàu chiến của các nước khác cũng qua lại Nam Hải không bị ngăn cản; đường lãnh hải Philippines công bố năm 1961 ăn sâu vào trong đường 9 đoạn; đường vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 1977 cũng chồng lấn với đường 9 đoạn trên một diện tích lớn. Điều này chẳng lẽ lại coi là ngầm thừa nhận tính hợp pháp của đường 9 đoạn sao? Vì vậy, nếu như nói sau khi công bố đường 9 đoạn, không có ai có tranh cãi về đường 9 đoạn tức là ngầm thừa nhận tính hợp pháp của đường 9 đoạn, thì cũng là tự dối mình. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Thực ra, cái gọi là không có nước nào đưa ra ý kiến khác về đường 9 đoạn, nói chung có lẽ chỉ vì Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra tuyên bố chính thức về đường chín đoạn (ngay cả tọa độ cũng không công bố). Các nước đại khái coi nó (chính xác) là đường phân giới đảo mà thôi. Do đó, các nước không cần phải bác bỏ cụ thể đường này, vì họ đều đã đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với các đảo đó. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể xem xét thêm một chút “đường Lý Thừa Vãn” (Syngman Rhee Line) cũng có thời gian thiết lập tương tự như đường 9 đoạn để so sánh. Đường Lý Thừa Vãn là đường [biên giới] biển do Hàn Quốc đơn phương thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1952, bao quanh Hàn Quốc và tiếp giáp với vùng biển của hai nước Trung Quốc và Nhật Bản. Khác với đường 9 đoạn của Trung Quốc được đưa ra mà không có giải thích, Lý Thừa Vãn khi đó đã tuyên bố ý nghĩa của đường này là: chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên khoáng sản và thủy sản xung quanh bán đảo Triều Tiên và trong phạm vi 199 hải lý của thềm lục địa; nhấn mạnh đến việc để ngăn ngừa tài nguyên như cá và của của cải bị tổn hại, bảo vệ quốc dân, quyền lợi quốc gia, chính phủ sẽ tiến hành giám sát và quản lý ngành thủy sản và ngành đánh bắt cá.[50]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuyên bố này lập tức gặp phải sự phản đối của Nhật Bản, cuối cùng vào năm 1965, Hàn Quốc tuyên bố hủy bỏ đường Lý Thừa Vãn, chuyển sang lấy Tuyên bố nghề cá Nhật Bản –Hàn Quốc (Japan – Korea Fishery Agreement) thay vào. Có thể thấy, nếu ngay từ đầu Trung Quốc đã có tuyên bố về ý nghĩa của đường chín đoạn thì khó có thể tưởng tượng rằng các nước láng giềng sẽ không có bất kì phản ứng gì. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một minh chứng khác là năm 1993 Đài Loan công bố “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cương lĩnh chính sách Nam Hải</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”trong đó xác định đường 9 đoạn là “vùng nước lịch sử”, và khẳng định “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước nằm trong ranh giới của vùng nước lịch sử Nam Hải là phạm vi quản lý của nước ta, nước ta có tất cả quyền và lợi ích</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,”[51]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đây là văn kiện chính thức đầu tiên của hai bên bờ [eo biển Đài Loan] có nói đến hàm nghĩa của đường 9 đoạn. Các nước lập tức bày tỏ sự phản đối, đây là lần đầu tiên trong lịch sử xảy ra tranh chấp về đường 9 đoạn. Điều này một lần nữa chứng tỏ sở dĩ trong thập niên 1940, 1950 không ai để ý đến đường 9 đoạn là do các nước có liên quan không biết ý nghĩa đường 9 đoạn của Trung Quốc là gì. Ngay cả khi Trung Quốc có bằng chứng để chứng minh rằng đường 9 đoạn được vẽ ra vào thời điểm đó có ý nghĩa khác với “đường quy thuộc đảo”, Trung Quốc cũng đã không dùng phương thức chính xác để tuyên bố rõ ràng. Từ thực tế là giới lịch sử, pháp luật và quan hệ quốc tế của Trung Quốc hiện nay vẫn tranh luận không dứt về hàm nghĩa của đường 9 đoạn, có thể thấy rằng về cơ bản không có cách nào yêu cầu các nước láng giềng có thể hiểu ý nghĩa hơn mức này, đây hoàn toàn là trách nhiệm của chính Trung Quốc. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">9. Đường 9 đoạn có thể không chịu sự ràng buộc của Luật biển Liên Hợp Quốc? </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gần đây, Trung Quốc lại đưa ra một luận chứng khác: đường 9 đoạn được tạo ra vào năm 1947, sớm hơn 35 năm so với “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, vì vậy không thể dùng “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để đòi hỏi ngược đường 9 đoạn. Ví dụ Ngô Sĩ Tồn đề xuất “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đường 9 đoạn có trước “Công ước” vốn có hiệu lực vào năm 1994, ít nhất hơn 40 năm, mà yêu cầu cái trước phù hợp cái sau, thậm chí muốn dùng cái sau phủ định cái trước, thì đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là luật không hồi tố [không có hiệu lực ngược trở lại], rõ ràng là điều thiên lệch</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[52]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 7-1-2012, Phó Cục trưởng Cục Sự vụ Biên giới và biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dịch Tiên Lương đưa ra câu trả lời về vấn đề “đường đứt đoạn” Nam Hải như sau:</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thứ nhất</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, về trình tự thời gian, Trung Quốc công bố đường đứt đoạn trước, “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” ra đời sau, yêu cầu đường đứt đoạn phù hợp với chính “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” là không phù hợp thực tế. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đường đứt đoạn là để khẳng định lại chủ quyền lãnh thổ cùng các quyền và lợi ích có liên quan của Trung Quốc trên biển, không phải vì vẽ ra đường này mới có các quyền và lợi ích đó. “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” không là khuôn phép, không ảnh hưởng vấn đề chủ quyền lãnh thổ của các nước, không thể lấy “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để phán xét chứng cứ duy nhất và chủ yếu về tính hợp pháp yêu sách của Trung Quốc ở Nam Hải . </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, “Công ước” tự nó hoàn toàn không loại trừ các quyền đã hình thành và liên tục được tuyên bố trước đó, cũng như không thể tạo ra tính “hợp pháp” cho bất kỳ quốc gia nào xâm phạm và gây tổn hại đến chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là một thứ lý luận sai trái khác. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nếu như trước khi “Công ước” có hiệu lực Trung Quốc đã công bố định nghĩa của đường 9 đoạn thì vẫn còn có cơ hội để thảo luận về mặt pháp lý. Nhưng đường 9 đoạn từ khi ra đời đến nay không có giải thích pháp lý nào. Sau khi “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có hiệu lực, cộng đồng quốc tế đã yêu cầu Trung Quốc làm rõ tình tình trạng pháp lý của đường 9 đoạn theo các quy định của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, việc này không hề có bất kỳ sự thiên lệch nào về pháp luật, cũng không liên quan gì đến cái gọi là nguyên tắc "luật không được hồi tố".</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc thế giới yêu cầu các nước dựa theo “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” để sửa đổi phép tắc lãnh hải mà nước mình ban hành đơn phương trước đó, không hề vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">pháp luật không được hồi tố </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Giống như tuyệt đại đa số luật quốc tế, luật biển quốc tế là luật tập quán. “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” được ký kết năm 1982, có hiệu lực năm 1994, hoàn toàn không có nghĩa là trước đó không có tập quán trong luật biển, không có nghĩa là vào thời đó không có luật pháp có thể tuân theo. Trong lĩnh vực công pháp quốc tế, công ước này hoàn toàn không phải là “làm ra luật mới”, mà chỉ chuyển các [luật] tập quán và quy định trước đây cũng như kết quả đàm phán của các bên thành “[luật] thành văn” (codified). Nếu như Trung Quốc cho rằng “Công ước” không được tính, cứ nhìn lại ý định ban đầu khi vẽ ra đường 9 đoạn và luật quốc tế khi đó, Trung Quốc (và thế giới) chỉ công nhận chiều rộng 3 hải lý thì làm sao được phép vẽ một "vùng nước lịch sử" mới ? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, từ tiến trình lịch sử thấy rằng, việc lập nên “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” là sự thỏa hiệp lẫn nhau đối với yêu sách biển mới của các nước. Sau Thế chiến II, các nước trên thế giới bắt đầu có phong trào khoanh vùng biển, có nước thậm chí đưa ra đòi hỏi lãnh hải 200 hải lý. Những lãnh hải được tuyên bố đơn phương này hoàn toàn không được cộng đồng quốc tế công nhận, cũng không trở thành chuẩn mực hành vi của cộng đồng quốc tế, mà còn làm bùng phát xung đột giữa các nước. Nói cách khác, không có hành vi nào trong số này hình thành luật quốc tế. Bắt đầu từ thập niên 1950 cộng đồng quốc tế đã tổ chức 3 hội nghị biển để giải quyết những vấn đề này. Các nước tham dự hội nghị, có cả Trung Quốc trong đó, cuối cùng đạt được “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” 1982 hiện nay, mục đích cơ bản của nó là để điều chỉnh sự hỗn loạn về các yêu sách biển xung đột của các nước kể từ sau Thế chiến II. Nếu nói rằng đường chín đoạn được vẽ ra vào năm 1947 không phải tuân theo các quy định của Công ước chỉ vì về mặt thời gian nó có trước khi thỏa thuận đạt được thì rõ ràng đây không phải là mục đích và ý định ban đầu của Công ước. Theo logic của Trung Quốc, lãnh hải do các nước trên thế giới đơn phương công bố trước khi có thỏa thuận về “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cũng đều không thể bị điều chỉnh bởi “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Các nước đã tuyên bố lãnh hải 200 hải lý cũng có lý do để tiếp tục yêu sách 200 hải lý, và tất cả các nước đơn phương tuyên bố không tuân thủ các yêu cầu của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” trước khi “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có hiệu lực cũng sẽ không bị ràng buộc. Điều này rõ ràng là vô lý. Nếu như các khẳng định này là đúng, thì “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cũng chỉ là một tờ giấy lộn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong các nước ven biển Nam Hải, Philippines vào năm 1961 ban hành lệnh số 3046 xác lập đường cơ sở lãnh hải, năm 1968 công bố lệnh số 5446, tuyên bố đường biên giới hiệp ước là đường lãnh hải, năm 1978 công bố lệnh số 1599 thiết lập vùng đặc quyền kinh tế, những pháp lệnh này đều trước “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, vậy những pháp lệnh này cũng không cần phải chỉnh sửa hay sao? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trên thực tế, trong đàm phán “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ướ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c” và trong quy định của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, vẫn có giành chỗ cho cái gọi là “vịnh lịch sử”, đây chính là những gì “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ướ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c” quy định về tính hợp pháp của các yêu sách do các nước đưa ra trước khi nó có hiệu lực. Nếu vùng biển mà nước nào đó yêu sách trước khi ký “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” phù hợp quy định của “vịnh lịch sử” thì yêu sách đó sẽ phù hợp với yêu cầu của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, và sẽ được “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” ủng hộ. Nếu không thì phải từ bỏ hoặc sửa đổi theo “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Nếu như đường 9 đoạn có thể phù hợp với yêu cầu của “vịnh lịch sử” thì Trung Quốc sẽ cố tiến hành luận chứng theo hướng này, chứ không phải dùng kiểu lý luận rằng đường 9 đoạn không phải tuân theo các hạn định của “Công ước”. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">10. Thái độ chính thức và các giải thích có thể có của Trung Quốc </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa nói rõ bản chất của đường 9 đoạn và các yêu sách của mình. Nhưng xét từ một loạt văn bản và các tuyên bố chính thức, vẫn có thể suy ra một số manh mối. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố lâu nay của Trung Quốc về các vùng biển ở Nam Hải là Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Nam Hải và vùng biển liền kề chúng.[53]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong công hàm Trung Quốc gửi cho Liên Hợp Quốc ngày 7-5-2009, Trung Quốc đã đổi tuyên bố thành : “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo Nam Hải và vùng biển liền kề chúng, đồng thời có quyền chủ quyền và quyền quản lý đối với vùng biển liên quan cùng với đáy biển và lòng đất của chúng (xem bản đồ đính kèm)</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[54]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bản đồ đính kèm ở đây là bản đồ có đánh dấu đường 9 đoạn, nhưng trong văn bản không nêu rõ vùng nước trong đường 9 đoạn có phải là vùng nước được nhắc đến trong đó hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có hai khái niệm là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng biển liền kề</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (adjacent waters) và </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng biển liên quan</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (relevant waters) được nói tới trong tuyên bố trên. Đối với “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng biển liền kề”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, do được nói là có chủ quyền, vì vậy vùng biển liền kề ở đây có thể được xem là nội thủy hoặc lãnh hải. Còn “v</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ùng biển liên quan cùng với đáy biển và lòng đất của chúng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” được nói là có “quyền chủ quyền và quyền quản lý” (Sovereign rights and jurisdiction), nên phải ứng với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong luật biển quốc tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy, yêu sách trong đường 9 đoạn của Trung Quốc có thể sẽ như sau: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> giả định rằng Trung Quốc có thể có được chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa và đảo Hoàng Nham. Trung Quốc sẽ vẽ ra đường cơ sở lãnh hải ở Tây Sa, Nam Sa và đảo Hoàng Nham. Trung Quốc đã vẽ ra đường cơ sở thẳng ở Tây Sa. Vì đảo Hoàng Nham chỉ giới hạn ở một hòn đảo, nên có lẽ lấy đường cơ sở tự nhiên làm chuẩn. Ở Nam Sa có thể theo 3 loại mô thức sau:[55]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, kiểu mắt lưới, tức hoàn toàn dựa theo quy định của luật biển quốc tế, mỗi đảo / đá là một đơn vị địa lý, dùng ngấn nước triều thấp để vẽ ra đường cơ sở tự nhiên. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, dựa vào mô hình của Tây Sa, có thể vẽ ra đường cơ sở thẳng “kiểu một chỉnh thể”. Tức là lấy toàn bộ quần đảo Nam Sa làm một đơn vị, dùng đường viền bên ngoài đảo làm điểm cơ sở, vẽ ra một hình đa giác bao gồm tất cả các đảo /đá. Hiện nay không thể đoán Trung Quốc dùng đảo / đá nào làm điểm cơ sở. Có thể có mấy lựa chọn: (1) lấy tất cả đảo / đá của Nam Sa (kể cả bãi ngầm) làm một chỉnh thể vẽ ra đường khu vực hình đa giác; (2) lấy tất cả đảo / đá có thể nổi lên mặt nước khi triều thấp làm một chỉnh thể vẽ ra đường khu vực đa giác; (3) lấy tất cả đảo / đá có thể nổi lên mặt nước khi triều cao làm một chỉnh thể vẽ ra đường khu vực đa giác. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ba</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có thể sử dụng phương án “kiểu phân cụm” nằm ở giữa của hai lựa chọn trên, tức là chia quần đảo Nam Sa thành nhiều đơn vị con, rồi dùng các tiêu chuẩn trình bày ở trên vẽ ra đường khu vực hình đa giác [cho mỗi đơn vị]. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong mấy lựa chọn ở trên, diện tích được vẽ ra kiểu “một chỉnh thể” là lớn nhất, còn diện tích được vẽ ra theo “kiểu mắt lưới” là nhỏ nhất. Dùng phương pháp đường cơ sở thẳng, trước hết là vi phạm luật biển quốc tế (xem phần sau) sẽ dẫn đến tranh cãi rất lớn. Hơn nữa, vùng nước trong đường cơ sở tương đương với nội thủy, tàu nước ngoài không có quyền qua lại vô hại, điều này có ảnh hưởng lớn đến quyền tự do hàng hải của nước ngoài. Nếu diện tích không lớn, nước ngoài có thể không quan tâm, nhưng nếu diện tích quá lớn, chắc chắn sẽ gây ra sự bất mãn mạnh mẽ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dùng phương án kiểu ‘một chỉnh thể’ sẽ gây ra sự phản đối rất lớn. Nếu dùng tiêu chuẩn (1) bao gồm luôn các bãi ngầm thì vi phạm luật quốc tế nhiều nhất, vì bãi ngầm không thể được sử dụng làm lãnh thổ, cũng như không có quyền hình thành đường cơ sở lãnh hải và nó bao gồm một khu vực rộng lớn, khó được các nước đồng ý. Tiêu chuẩn (2) cũng vi phạm luật quốc tế, bởi vì Điều 121 Chế độ các đảo quy định “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo là một vùng đất hình thành tự nhiên có nước bao quanh và nằm trên mặt nước khi triều cao</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.” Cho nên đảo / đá ngầm chỉ nổi lên mặt nước khi triều thấp và bị nước bao phủ hoàn toàn khi triều cao không có quyền có lãnh hải, cũng đương nhiên không thể trở thành đường cơ sở cho lãnh hải. Tiêu chuẩn (3) phù hợp yêu cầu của chế độ các đảo, nhưng sử dụng đường cơ sở thẳng vẫn vi phạm luật biển quốc tế, dùng phương án của kiểu phân cụm cũng vi phạm quy định của đường cơ sở thẳng trong luật biển quốc tế. Tuy nhiên, khi chia Nam Sa thành đơn vị nhỏ trước thì diện tích nội thủy sẽ giảm đi rất nhiều, nên cộng đồng quốc tế sẽ dễ chấp nhận hơn. Với tiền lệ ở Tây Sa, rất khó tưởng tượng Trung Quốc chỉ thỏa mãn với phương án “kiểu mắt lưới” phù hợp với luật quốc tế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, sau khi thiết lập đường cơ sở thẳng, mở rộng ra bên ngoài 12 hải lý làm lãnh hải, tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại vô hại trong đó. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ ba</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khoảng từ 12 hải lý đến 24 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải là vùng tiếp giáp lãnh hải. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ tư,</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> phạm vi từ đường cơ sở lãnh hải mở rộng ra tối đa 200 hải lý lập thành vùng đặc quyền kinh tế. Điều 121 của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” quy định, “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo đá nào không thể duy trì việc sinh sống của con người hoặc đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[56]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Xét theo thông lệ quốc tế, ngay cả đảo nhỏ có thể duy trì đời sống kinh tế riêng cũng không thể có được hiệu lực phân giới giống như đất liền và các đảo lớn. Ví dụ trong trường hợp của đảo Bạch Long Vĩ, vùng đặc quyền kinh tế của nó chỉ vươn ra ngoài lãnh hải 3 hải lý. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đồng thời trên thế giới cũng có nhiều ví dụ, một quốc gia có chủ quyền và lãnh hải của một đảo nhỏ nào đó, nhưng lại không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Toàn bộ đảo nhỏ nằm trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước khác, hình thành một loại “phi địa” (đất bị bao) đặc thù. Trường hợp này áp dụng rất thích hợp cho tình trạng của đảo Hoàng Nham. Vì vậy, ngay cả sau khi Trung Quốc vẽ đường cơ sở lãnh hải, hiệu lực phân định ranh giới cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo này đến mức nào chắc chắn sẽ là một tranh cãi rất lớn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bên trong đường 9 đoạn, nếu như vẫn còn vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế [các đảo], ở đây gọi là vùng biển dôi ra. Trung Quốc có lẽ sẽ tuyên bố nó có hiệu lực như một vùng đặc quyền kinh tế dưới dạng "quyền lịch sử". Sự tồn tại và độ lớn của các vùng biển dôi ra phụ thuộc rất nhiều vào cách Trung Quốc thiết lập đường cơ sở lãnh hải. Nếu dùng phương án “kiểu một chỉnh thể” để thiết lập đường cơ sở thẳng thì vùng biển dôi ra có thể sẽ rất nhỏ thậm chí không tồn tại. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><u>CHÚ THÍCH:</u></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[1] 賈宇《南海「斷續線」的法律地位》,中國邊疆史地研究,二〇〇五年六月,第十五卷,第二期,一一二十三〇頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[2] 彭認燦,許堅,沈文周《南海斷續線連接方案的研究》,地圖,二〇〇一年第四期,一〇〇一三頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[3] </span><a href="http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/sumissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_m%C3%BD_vnm.pdf" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/sumissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mý_vnm.pdf</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[4] From Zou Keyuan,Scarborough Reef:a New Flashpoim In Sino-philippine Relations? IBRU Boundary and Security Bulletin Summer 1999,p.72。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[5] 許森安《南海斷續國界線的內涵》,轉引自羅婷婷《九段線法律地位探析》,中國海洋法學評論,二〇〇八年第一輯,五六十六四頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[6] 同上。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[7] 趙理海《海洋法問題研究》,北京大學出版社,一九九六年,三八頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[8] 捌中國國家地理,二〇一四年八月號。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 0pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 0pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[9] 何立波《一九四六年收復南海諸島與「九段線」的由來》,二〇一一年十二月十五日,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><a href="http://history.people.com.cn/n/2014/0403/c37232724816742.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://history.people.com.cn/n/2014/0403/c37232724816742.html</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> </span><a href="http://news.xinhuanet.com/politics/2011-12/15/c_122426612.htm%E3%80%82" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://news.xinhuanet.com/politics/2011-12/15/c_122426612.htm</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[10] 引自《南海爭端與國際海洋法》,五〇頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[11]關團法律地位,三九頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[12]圆同上,二〇四頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[13] 南海九段線就是國界線,</span><a href="http://blog.sina.com.cn/s/blog_48bb0d010102uzro.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://blog.sina.com.cn/s/blog_48bb0d010102uzro.html</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[14] 李金明《國內外有關南海斷續線法律地位的研究述評》,南洋問題研究,二〇一一,第二期。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[15] 李金明《國內外有關南海斷續線法律地位的研究述評》,南洋問題研究,二〇一,第二期。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[16] 史料彙編,一八一頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[17] 史料彙編,一八二頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[18] 黃剛《中華民國的領海及其相關制度》,臺北,臺灣商務印書館,一九七三年,五三頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[19] 轉引自黃剛《中華民國的領海及其相關制度》,臺北,臺灣商務印書館,一九七三年,一六二—一六三頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[20] 黃刚《中華民國的領海及其相關制度》,臺北,臺灣商務印書館,一九七三年,五二—五四頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[21]《關於南沙群島收復範圍之審查》,民國三十六年六月十二日,外交部檔案彙編,七八四—七八八頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[22] 李金明《國內外有關南海斷續線法律地位的研究述評》,南洋問題研究,二〇一一,第二期。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[23] </span><a href="http://news.xinhuanet.com/ziliao/2003-01/24/content_705061.htm%E3%80%82" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://news.xinhuanet.com/ziliao/2003-01/24/content_705061.htm. </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[24] </span><a href="http://www.npc.gov.cn/wxz/wxzi/2000-12/05/content_4562.htm" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.npc.gov.cn/wxz/wxzi/2000-12/05/content_4562.htm</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[25] h</span><a href="http://www.fmpre.gov.cn/mfa_chn/ziliao_611306/tytj_611312/tyfg_611314/t556673.shtml" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.fmpre.gov.cn/mfa_chn/ziliao_611306/tytj_611312/tyfg_611314/t556673.shtml</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[26] 國家測繪局,《公開地圖内容表示若干規定》, </span><a href="http://dtsc.sbsm.gov.cn/article/zcf/dtscyj/201009/20100900072143.shtml" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://dtsc.sbsm.gov.cn/article/zcf/dtscyj/201009/20100900072143.shtml</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[27] 管建強《南海九段線的法律地位研究》,國際觀察二〇一二年第四期,一五 - 二二頁。 劉楠來《從國際海洋法看U形線的法律地位》。 李金明《南海斷續線的法律地位:歷史性水域,疆域線,抑或島嶼歸屬線? 》,南洋問題研究,二〇一〇年第四期。 李令華《關於南海U形線與國際海洋邊界劃定問題的探討》,現代漁業信息,二〇〇五年十二月刊。賈宇《南海「斷續線」的法律地位》。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[28] </span><a href="http://www.un.org/zh/law/sea/los/article2.shtml" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.un.org/zh/law/sea/los/article2.shtml</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[29] </span><a href="http://www.un.org/zh/law/sea/los/article2.shtml%E3%80%82" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.un.org/zh/law/sea/los/article2.shtml。</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[30] Leo J. Bouchez,The Regime of Bays in International Lanv(Leyden,A.w. Sijthoff,1964),pp281。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[31]李金明:《中法勘界鬥爭與北部灣海域劃界》,《南陽問題研究》,二〇〇〇年第二期,第七六頁。 UNDoc。 A / CN 4/143,1962/03/09“ Turicial Regime of Historic Waters,Including Historic Bays“,Yearbook of the International Law Commission(1962),Vol。 II,p.6。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[32] D.P. O'Comell,The International Law of the Sea(Oxford,Clarendon Press,1982),Vol。 I. p.417。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[33] 法律地位,二〇七頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[34] Hanns JürgenBuchholz,Low of the Sea Zones in the Pacific Oceam(),p.85。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[35]《宣宗實錄》卷二二六,二五 - 三〇頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[36] 王之春《各國通商始末記》卷九,寶普書局,一八九五年,六—七頁。 轉引自史料彙編,七七頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[37] 同上,八頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[38] Treaties,Conventions,ect,between China and Foreign states,The Statistical Department of the Inspectoriate General of Customs,1917,Vol.2,p833-843。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[39] Zhou keyuan, The international Journal of Marine and Coastal Law, Vol.14, 1999.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[40] </span><a href="http://www.land.moi.gov.tw/law/chhtml/lawdetail.asp?Lid=3910%E3%80%82" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.land.moi.gov.tw/law/chhtml/lawdetail.asp?Lid=3910。</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[41] 宋承恩,中國在南海的水域主張 - 兼論歷史性論據的角色,</span><a href="http://csil.org.tw/home/wp-content/uploads/2012/11/%E5%AE%8B%E6%89%BF%E6%EF%BC%8581%EF%BC%85A9_%EF%BC%85E4%EF%BC%85B8%EF%BC%85AD%EF%BC%85E5%EF%BC%859C%EF%BC%858B%EF%BC%85E5%EF%BC%859C%EF%BC%85A8%EF%BC%85E5%EF%BC%858D%EF%BC%8597%EF%BC%85E6%EF%BC%85B5%EF%BC%85B7%EF%BC%85E7%EF%BC%859A%EF%BC%8584%EF%BC%85E6%EF%BC%85B0%EF%BC%85B4%EF%BC%85E5%EF%BC%859F%EF%BC%859F%EF%BC%85E4%EF%BC%85B8%EF%BC%85BB%EF%BC%85E5%EF%BC%85BC%EF%BC%85B5%EF%BC%85E2%EF%BC%8594%EF%BC%8580%EF%BC%85E5%EF%BC%8585%EF%BC%85BC%EF%BC%85E8%EF%BC%85AB%EF%BC%8596%EF%BC%85E6%EF%BC%85AD%EF%BC%85B7%EF%BC%85E5%EF%BC%858F%EF%BC%85B2%EF%BC%85E6%EF%BC%8580%EF%BC%85A7%EF%BC%85E8%EF%BC%85AB%EF%BC%8596%EF%BC%85E6%EF%BC%8593%EF%BC%859A%EF%BC%85E7%EF%BC%859A%EF%BC%8584%EF%BC%85E8%EF%BC%85A7%EF%BC%8592%EF%BC%85E8%EF%BC%8589%EF%BC%85B2.pdf" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://csil.org.tw/home/wp-content/uploads/2012/11/%E5%AE%8B%E6%89%BF%E6%81%A9_%E4%B8%AD%E5%9C%8B%E5%9C%A8%E5%8D%97%E6%B5%B7%E7%9A%84%E6%B0%B4%E5%9F%9F%E4%B8%BB%E5%BC%B5%E2%94%80%E5%85%BC%E8%AB%96%E6%AD%B7%E5%8F%B2%E6%80%A7%E8%AB%96%E6%93%9A%E7%9A%84%E8%A7%92%E8%89%B2.pdf</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[42] </span><a href="http://www.npc.gov.cn/npc/bmzz/aomen/2007-12/07/content_1382501.htm%EF%BC%8C" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.npc.gov.cn/npc/bmzz/aomen/2007-12/07/content_1382501.htm,</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[43] 比如李金明,南海斷續線的法律地位:歷史性水域,疆域線,抑或島嶼歸屬線? ,南洋問題研究,二〇一〇年第四期。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[44] Florian Dupuy * and Pierre-Marie Dupuy,A Legal Analysis of China's Historic Rights Claim in the South China Sea,The American Journal of International Law,Vol。 107,No. 1(January 2013),pp。 124-141。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[45] 例李金明《國內外有關南海斷續線法律地位的研究述評》,南洋問題研究,二〇一,第二期。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[46] 潘石英:《南沙群岛石油政治,國際法》,香港:香港經濟導報出版社,一九九六年版,第六十一頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[47]《法律地位》,二〇頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[48] Zou Keyuan,</span><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">Historic Rights in International Law and in China's Practice</span><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">,Ocean Development&International Law,32:2,149-168,DOI10.1080/00908320151100280.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[49] 郭冉,《論中國在南海U形線內海域的歷史性權利》,太平洋學報,二〇一三年,二十一卷,十二期,四〇四九頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[50] 轉引自李軍,王傳劍《中韓相鄰海洋權益問題研究》,太平洋學報,二〇一〇年,十八卷,十二期,六九 - 七八頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[51] 南海最京關 </span><a href="http://www.rootlaw.com.tw/LawArticle.aspx?LawID=A040040091060500-0820413" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.rootlaw.com.tw/LawArticle.aspx?LawID=A040040091060500-0820413</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> [52] </span><a href="http://opinion.huanqiu.com/opinion_world/2014-02/4829762.htm" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://opinion.huanqiu.com/opinion_world/2014-02/4829762.htm</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> 。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> [53]中國關於菲律賓所提南海仲裁案管轄權問題立場文件,2014/12/07 </span><a href="http://news.xinhuanet.com/world/2014-12/07/c_1113547390.htm%E3%80%82" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://news.xinhuanet.com/world/2014-12/07/c_1113547390.htm</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[54] </span><a href="http://www.un.org/Depts/los/cics_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vm.pdf" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre;">http://www.un.org/Depts/los/cics_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vm.pdf</span></a><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[55] 周江《論我國南海主權主張中的附近海域》,重慶理工大學學報,二〇一一年第二十五卷第九期。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span id="docs-internal-guid-1135d54b-7fff-c47a-0f24-6bed3313b3a7"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [56] </span><a href="http://www.un.org/zh/law/sea/los/article8.shtml" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.un.org/zh/law/sea/los/article8.shtml</span></a><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">。</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_________________</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem thêm:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="-webkit-text-decoration-skip: none; background-color: transparent; color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; white-space: pre;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span id="docs-internal-guid-63ffb5b0-7fff-5cf3-82e7-1e8870e931b1"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></p></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-64101834944336870452022-10-06T06:49:00.004-07:002023-05-11T01:05:00.096-07:00VẤN ĐỀ ĐẢO BẠCH LONG VĨ <h2 style="text-align: left;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: medium;"> </span><span style="text-align: justify; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">PHỤ LỤC I: VẤN ĐỀ ĐẢO BẠCH LONG VĨ </span></span></span></h2><blockquote style="border: none; margin: 0px 0px 0px 40px; padding: 0px;"><span id="docs-internal-guid-a353cec4-7fff-4f0f-eaaf-9d49966d823c"><p style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: left;"><span style="font-family: verdana; font-size: medium;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> <i>Lê Oa Đằng</i></span></span></p></span></blockquote><span style="font-family: verdana;"><span id="docs-internal-guid-a353cec4-7fff-4f0f-eaaf-9d49966d823c"><span style="font-size: medium;"> <br /></span><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">1. Nguồn gốc của vấn đề đảo Bạch Long Vĩ </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyến biên giới Việt Nam và Trung Quốc được giải quyết tương đối muộn. Trong thời Pháp thuộc, nhà Thanh và Pháp có kí “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Pháp-Thanh”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 1887. Sau khi Trung Quốc và Việt Nam cùng bước vào thời đại mới, giống như tất cả biên giới của Trung Quốc với nước ngoài, các hiệp định của thời đại cũ cần phải được thương lượng lại. Nhưng đến cuối thập niên 1990, Trung Quốc và Việt Nam vẫn tranh chấp ở biên giới, và việc thương lượng biên giới chỉ có thể hoãn lại sau này. Năm 1999, hai nước kí kết “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”. Năm 2009, hai bên hoàn thành phân giới cắm mốc, kí kết “Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam –Trung Quốc”, cuối cùng biên giới trên đất liền Việt Nam–Trung Quốc đã được xác định. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên biển, tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam đối với Tây Sa và Nam Sa đến nay vẫn chưa giải quyết được. Ngoài ra, cuối năm 2000 Trung Quốc và Việt Nam đã kí “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, đã giải quyết việc phân định biên giới vùng vịnh Bắc Bộ, trở thành hình mẫu cho việc giải quyết phân định biên giới trên biển thông qua đàm phán giữa hai bên, cho đến nay vẫn thường được Trung Quốc viện dẫn như là một ví dụ thành công. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong việc phân định biên giới này vẫn có một điểm nghi vấn là đảo Bạch Long Vĩ nằm ở giữa vịnh Bắc Bộ (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 1</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Nó là một đảo nhỏ chỉ rộng khoảng 3 km², ở giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam, đều cách đảo Hải Nam và thành phố Hải Phòng 120 km. Dù Việt Nam luôn cho rằng đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam không có nghi vấn gì, đảo này hiện nay cũng nằm dưới sự quản lí của Việt Nam, nhưng sự quy thuộc chủ quyền của nó luôn không được Trung Quốc thừa nhận công khai. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không giống các đảo nhỏ gần bờ khác ở vịnh Bắc Bộ, đảo này nằm đơn độc ngoài khơi, không có nêu trong hiệp định biên giới đất liền. Trong hiệp định phân định biên giới trên biển năm 2000 cũng không có điều khoản xử lí sự quy thuộc chủ quyền đảo này, còn Trưởng ban Ban Hải dương Vụ Điều ước pháp luật Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tiêu Kiến Quốc khi nhận trả lời phỏng vấn của “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">International Herald Tribune</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” thì chỉ ra rằng mặc dù đảo Bạch Long Vĩ thuộc phía Việt Nam trong phân định biên giới trên biển, nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là đảo Bạch Long Vĩ được quy định thuộc Việt Nam trong hiệp định phân giới này.[1]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kiểu diễn đạt này đúng về mặt kĩ thuật, nhưng giọng điệu mơ hồ của nó về chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ vẫn khiến người ta nghi hoặc. Cũng trong bài báo này, nhà báo còn phỏng vấn Ban Hải dương Vụ Điều ước pháp luật Bộ Ngoại giao, một “quan chức có liên quan” giấu tên thừa nhận “đảo Bạch Long Vĩ thực sự thuộc Việt Nam”.[2]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đã như vậy thì tại sao không xác nhận một cách quang minh chính đại ? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span id="docs-internal-guid-90baba99-7fff-91d6-e294-0d17d50f6d42"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 351px; overflow: hidden; width: 484px;"><img height="351" src="https://lh4.googleusercontent.com/q1GNYdX2JYh_kIayIYYS5kBS9u0EaSWQLnbfqw6wPfeyaXGCO-N9y2uMzGbK5rok__n2wCDcvkNwvStYeg-CMbC6ieCrjUhui6Nq4FE2uxrD3manJ8RcRL2NjUxAXU8GNJ7FZ7EBUmrw9DI4W45ZJcmJ1XiU7KY3OzctxPU_2OMqTR6aYMP-itjIvg" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="484" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 1</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Vị trí đảo Bạch Long Vĩ ở vịnh Bắc Bộ</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử của đảo Bạch Long Vĩ ở Trung Quốc cũng rất mơ hồ, không rõ ràng. Không có nhiều nghiên cứu về nó trong giới học thuật, tài liệu chủ yếu hầu như đều lấy từ bài viết “Bạch Long Vĩ đảo chính danh” (Tên gọi đúng của đảo Bạch Long Vĩ) của Lí Đức Triều.[3]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau này trên mạng cũng có chuyên đề lịch sử này.[4]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng nguồn gốc chủ yếu cũng là bài viết này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bài viết này trình bày lịch sử đảo Bạch Long Vĩ như sau: đảo Bạch Long Vĩ vốn tên là đảo Phù Thủy Châu hoặc đảo Dạ Oanh, “từ xưa đến nay” là lãnh thổ của Trung Quốc. Nó bị Pháp chiếm đóng năm 1937, và rơi vào tay Nhật Bản năm 1943. Năm 1946 Pháp tái chiếm đảo Bạch Long Vĩ, năm 1954 Pháp chuyển toàn bộ người dân trên đảo vào miền Nam Việt Nam. Năm 1955 Trung Quốc “giải phóng” đảo Bạch Long Vĩ, năm 1957 Trung Quốc “bàn giao” cho Việt Nam đảo này. Bài viết cuối cùng cho rằng: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Bạch Long Vĩ được người Trung Quốc khai thác phát triển từ thời cổ, được người Trung Quốc tới định cư, và thuộc quyền quản lí của Trung Quốc, không thấy có chứng cứ cho thấy bất kì hiệp ước và văn kiện ngoại giao có liên quan nào quy định là lãnh thổ Việt Nam.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”[5] Phần về lịch sử đảo Bạch Long Vĩ sau thập niên 1930, đặc biệt là lịch sử sau Thế chiến II trong bài viết đại khái chính xác: năm 1955 Trung Quốc chiếm đóng và kiểm soát thực tế đảo Bạch Long Vĩ, năm 1957 ‘bàn giao’ đảo Bạch Long Vĩ cho Bắc Việt. Tuy nhiên, bài báo viết rất mơ hồ về bản chất của việc Trung Quốc có được đảo Bạch Long Vĩ, và bản chất của việc Trung Quốc “bàn giao” nó cho Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy, có mấy cách tường thuật xuất hiện. Phía Việt Nam cho rằng: “Đảo Bạch Long Vĩ từ xưa đến nay là lãnh thổ của Việt Nam.” Sau khi Pháp rút đi sau chiến tranh [Pháp-Việt], Bắc Việt đã nhờ Trung Quốc giúp quản lí, Trung Quốc nhận tạm thời quản lí giúp theo yêu cầu của Việt Nam. Vì vậy, năm 1957 trả lại cho Việt Nam là hợp lẽ. Cách tường thuật này đã bị Lí Đức Triều bác bỏ trong bài viết.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Trung Quốc (dân gian) có hai cách tường thuật. Một cách cho rằng đảo Bạch Long Vĩ bị Trung Quốc “chuyển giao” cho Việt Nam. Trong bài “Ngã quốc dữ lân quốc biên giới hòa hải dương quyền ích tranh nghị vấn đề tư liệu tuyển biên” (Tuyển chọn tư liệu về tranh chấp liên quan đến biên giới và quyền lợi trên biển giữa nước ta với nước láng giềng) viết “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">việc phân định biên giới vịnh Bắc Bộ liên quan đến một nhân tố quan trọng, tức một đảo ở giữa biển, đảo này vốn thuộc nước ta, tên là đảo Phù Thủy Châu hoặc Dạ Oanh, năm 1957 ta chuyển giao cho Việt Nam, Việt Nam đổi tên là đảo Bạch Long Vĩ.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sách “Trung Quốc và luật biển quốc tế” do Cao Kiện Quân viết cũng nói “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảo Bạch Long Vĩ... từng là lãnh thổ Trung Quốc trong lịch sử. Tháng 3-1957, nó được chuyển giao cho Việt Nam theo ‘phương thức chuyển giao bí mật’</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[6]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lí Quốc Cường ở Trung tâm Nghiên cứu Sử địa biên cương nói: “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Bạch Long Vĩ vào thập niên 50 của thế kỉ trước, thông qua đàm phán đã thuộc quyền quản lí của Việt Nam</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[7]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù ở đây không giải thích cái gọi là ‘chuyển giao’ và ‘thuộc quyền quản lí của Việt Nam’ có ý nghĩa là gì, nhưng kết hợp cách nói ở trên, hàm nghĩa thực sự chỉ là chuyển giao chủ quyền cho Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách tường thuật khác là đảo Bạch Long Vĩ chỉ được cho Việt Nam mượn vào năm 1957. Ví dụ sách “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam Hải! Nam Hải</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Y Thủy, Diêu Trung Tài, Trần Trinh Quốc nói “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">để chi viện cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam, Chu Ân Lai và Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã kí hiệp định cho chính phủ Việt Nam mượn đảo Bạch Long Vĩ của nước ta trong vịnh Bắc Bộ, để họ xây dựng căn cứ ra đa trên đó nhằm báo động trước việc máy bay Mĩ ném</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bom Hà Nội, đồng thời làm trạm trung chuyển vật tư Trung Quốc viện trợ Việt Nam</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.”[8]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đã là cho mượn thì tại sao lại chuyển giao chủ quyền sau đó? Về điểm này lại có hai cách giải thích. Một cách là; cho Việt Nam mượn đảo, nhưng Việt Nam đã chiếm đóng đảo này, sau đó (không biết khi nào) Trung Quốc đành chỉ có thể ‘nương thuyền theo nước’, đã không lấy lại được thì chỉ có thể công nhận chủ quyền thuộc về Việt Nam. Cách giải thích khác thậm chí cho rằng Trung Quốc cho đến hiện nay vẫn chỉ cho Việt Nam mượn đảo Bạch Long Vĩ, chứ không có việc cắt nhượng. Vì vậy, chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ vẫn thuộc Trung Quốc hoặc chưa xác định. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Dù hiện nay đảo Bạch Long Vĩ do Việt Nam kiểm soát, hơn nữa cũng dường như có thể khẳng định Trung Quốc đã thực sự công nhận chủ quyền thuộc Việt Nam. Tuy nhiên, vì quá trình này diễn ra rất bí mật và không rõ ràng, khiến đảo Bạch Long Vĩ trở thành một tiêu điểm tranh cãi trong nhân dân. Một loại ý kiến cho rằng việc chính phủ Trung Quốc đem đảo Bạch Long Vĩ “vốn thuộc Trung Quốc” trao cho Việt Nam, là hành vi bán nước; loại ý kiến khác cho rằng Việt Nam đã chiếm được đảo Bạch Long Vĩ từ tay Trung Quốc, rồi lại tranh giành Tây Sa và Nam Sa với Trung Quốc, “được đằng chân lân đằng đầu”, thật chẳng biết điều. Thật ra hai loại quan điểm này không có gì mâu thuẫn nhau, chỉ phụ thuộc vào điểm muốn nhấn mạnh và mục đích của người trình bày mà thôi. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Điều gì đã xảy ra từ năm 1955 đến 1957? Không thể làm rõ điều này khi hồ sơ của chính phủ chưa được giải mật, còn căn cứ vào cách trình bày của Việt Nam cũng không có cách nào để đối chứng. Vì vậy, việc thảo luận nghiên cứu chỉ có thể dừng ở đây. Nhưng một mấu chốt khác của vấn đề chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ là: nếu chỉ xem xét lịch sử trước năm 1955 thì đảo Bạch Long Vĩ phải thuộc về ai? Nếu xét về mặt lịch sử và pháp lí thì nó phải thuộc Việt Nam, nên việc nói chính phủ Trung Quốc “bán nước” hay nói Việt Nam “đã được dịp mua hời” đều thiếu căn cứ, vì Trung Quốc chẳng qua là đem lãnh thổ vốn đã thuộc Việt Nam trả lại cho Việt Nam mà thôi. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">2. Đảo Bạch Long Vĩ trong sử liệu phương Tây </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù theo quan điểm của Trung Quốc (về cơ bản toàn bộ đều bắt nguồn từ bài viết của Lí Đức Triều), đảo Bạch Long Vĩ “từ xưa đến nay” thuộc về Trung Quốc, nhưng kiểu lí luận này không hề có căn cứ vững chắc. Có rất nhiều nội dung trong bài viết “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bạch Long Vĩ đảo chinh danh” (Tên gọi đúng của đảo Bạch Long Vĩ),</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhất là loại liên quan đến lịch sử Cổ đại và Cận đại của đảo Bạch Long Vĩ, không có xuất xứ. Có thể tin một phần nội dung của bài viết: thời Cận đại, chính xác sau năm 1870, đảo Bạch Long Vĩ thực sự trở thành khu căn cứ của ngư dân Trung Quốc (thời gian sớm nhất được chỉ ra trong bài viết của ông ta là năm 1877). Các chi tiết khác kiểu như “hàng trăm, hàng nghìn năm nay” ngư dân Trung Quốc nghỉ ngơi lấy lại sức ở đây đều là phỏng đoán. Người viết tra xem cách tường thuật của phía Việt Nam, người Việt Nam cũng nói đảo Bạch Long Vĩ là nơi ngư dân của mình đánh cá “từ bao đời nay”. Rốt cuộc ai sớm hơn? Thế thì không biết bắt đầu từ lúc nào. Huống chi, theo luật quốc tế, hành vi của ngư dân không đủ để chứng minh một quốc gia có chủ quyền đối với một đảo nào đó hay không. Hoạt động của người dân chỉ sinh ra “quyền ban đầu”, chỉ có hành vi của chính phủ mới có thể sinh ra chủ quyền thực sự. Vì vậy, muốn nghiên cứu thêm cơ sở pháp lí của đảo Bạch Long Vĩ, còn phải tìm kiếm manh mối từ trong tài liệu lịch sử. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Theo quan điểm của Lí Đức Triều, mãi đến thập niên 1930 tên gọi Bạch Long Vĩ mới được đặt khi Pháp chiếm đảo này, tên gọi trước đó là đảo Phù Thủy Châu hoặc đảo Dạ Oanh. Trong đó, đảo Phù Thủy Châu là cách gọi của ngư dân Trung Quốc ở khu vực vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong các hồ sơ sách vở, cái tên này chỉ có thể bắt đầu có sau khi Trung Quốc chiếm đảo này vào năm 1955, mới có tên gọi kiểu như “Biện sự xứ Phù Thủy Châu” (trên mạng có người nói vào thập niên 1920, ở đó có một thôn gọi là thôn Phù Thủy Châu, người viết không tìm ra được xuất xứ từ sách vở đáng tin cậy). Ông ta còn nói: đảo Bạch Long Vĩ vốn tên là đảo Dạ Oanh, “từ thời Minh Thanh, cho đến thời Dân quốc, đầu thời nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, cách gọi trong sách vở chính thức của Trung Quốc luôn là đảo Dạ Oanh. Tuy nhiên, bài viết của Lí Triều Đức không dẫn tài liệu lịch sử nào để chứng minh cho hai điểm này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khẳng định của Lí Triều Đức về tên gọi đảo Bạch Long Vĩ là sai. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ nhất</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đảo Dạ Oanh không phải cách gọi có nguồn gốc từ Trung Quốc mà từ người phương Tây. Từ “Dạ Oanh” này có bản chất rất xa lạ, đại khái là bắt đầu từ cuối thời Thanh Trung Quốc mới có từ tiếng Trung này. Không chắc từ đầu thời Minh, Trung Quốc đã dùng từ này để đặt tên một đảo nhỏ ở miền Nam. Thực ra, cái tên đảo Dạ Oanh xuất phát từ người phương Tây. Trên bản đồ phương Tây, cái tên sớm nhất của đảo Bạch Long Vĩ có gốc gác từ người Tây Ban Nha, trên các bản đồ do người Tây Ban Nha xuất bản trong thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII nó được gọi là “Is. De Mejo” (đảo Tuyệt Hảo). Đến thế kỉ XVIII, người phương Tây (có thể là người Anh) đặt cho hòn đảo này cái tên là “Nightingale” (trên bản đồ khác do phương Tây xuất bản có một số biến thể nhưng cách viết vẫn tương tự), tức là Dạ Oanh. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì sao lại đặt tên này? Theo một tài liệu của Pháp năm 1944,[9]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> gốc tích tên gọi này như sau: đây là một nơi tránh bão của người đi biển vào ban đêm, trong tiếng Anh nói là </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">night in gale</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (đêm có gió lớn). Và cách phát âm này giống với các phát âm của Dạ Oanh (nightingale), vì vậy, người phương Tây đặt tên nó là đảo Nightingale (Dạ Oanh).[10]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu thấy bản đồ nào của nhà nước Trung Quốc xuất bản có tên đảo Dạ Oanh này thì đó cũng chỉ là tên dịch lại từ tên tiếng Anh này. Cho nên, Lí Đức Triều nói Trung Quốc từ thời Minh đến nay đã gọi đảo này là đảo Dạ Oanh, thực ra chỉ là muốn nó phải như thế. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể khẳng định vào thế kỉ XVIII tên gọi đảo Dạ Oanh đã xuất hiện rồi, bởi vì trên bản đồ vịnh Bắc Bộ năm 1771 nó được đánh dấu tên gọi này (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 2</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Đến nửa sau thế kỉ XIX, đảo này cũng có tên gọi là Merryman’s Island (đảo Người Vui Vẻ). Tên gọi này có nguồn gốc chưa rõ, nhưng không được sử dụng phổ biến bằng tên đảo Dạ Oanh. Đáng chú ý là mặc dù trên nhiều bản đồ phương Tây vào thời điểm đó rất khó phân biệt việc quy thuộc chủ quyền của đảo bằng màu sắc (đảo nhỏ không được tô màu), nhưng trên bản đồ có thể phán đoán được quy thuộc nước nào, đảo này phần lớn được đánh dấu là đảo của Việt Nam. Ví dụ trên “Bản đồ vịnh Bắc Bộ” năm 1795 (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 3</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), đảo này được đánh dấu màu vàng, cùng màu với Việt Nam nhưng khác với màu đỏ của Trung Quốc. Điều này cho thấy, vào cuối thế kỉ XVIII đã có quan điểm cho rằng đảo này thuộc Việt Nam rồi.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 468px; overflow: hidden; width: 519px;"><span style="font-size: large;"><img height="475.8652700365175" src="https://lh5.googleusercontent.com/f2hxT7_m_xOxcAzv6A7abhcsrC1uD-1GmE9DTMEq7mvGJpWpUm8YCnm6O4wY7KhxYywM2lSO7HOrs5x0uNLMtIEy7zkw5zPGzKdmXFymt7pYa-anhOXSqag3ZLBP7lJN1ojMGptHOBiO45YAM-oBt2Mt6foqZA7mlI3o0Hh5p3Wob44AuQdkIhrgZw" style="margin-left: 0px; margin-top: -3.93264px;" width="519" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 2</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đảo Dạ Oanh trong bản đồ của Pháp xuất bản (1771) </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 634px; overflow: hidden; width: 467px;"><span style="font-size: large;"><img height="634" src="https://lh3.googleusercontent.com/WnYFQbwLby2rZ6r0NcbEIqizMrOuD_kqLfkLZKdwXEjkgN2Vcm8-JZF0A1LH9iacdDBCzZTumfZBosM_AZLsTdmEyBDCLuNU766plC-dZ_XPyl-FXWs_5qlv9MBG-9W59wmbFyL5YUU-LeOFVKSAKE_SsSM1FiCT6tA4F9OFXWaAGJ3N_3Z76RmJyw" style="margin-left: -1.98569px; margin-top: 0px;" width="470.9713738172236" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 3</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đảo Dạ Oanh trong bản đồ của Pháp xuất bản (1795) </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Lí Đức Triều cũng nói tên gọi của đảo Bạch Long Vĩ là do Pháp đặt vào thập niên 1930 nhằm xâm lược đảo này, mưu đồ làm “nhiễu loạn thông tin”. Quan điểm này cũng là sai lầm. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong sách “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The China Sea Directory</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quốc) </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">do Cục Thủy văn nước Anh xuất bản năm 1879 đã có tên gọi Bạch Long Vĩ (Nightingale Is.) này rồi[11]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 4</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Điều này cho thấy muộn nhất vào nửa sau thế kỉ XVIII tên gọi Bạch Long Vĩ đã được xác lập. Mặc dù “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” chỉ thuần túy là một cuốn sách hướng dẫn thủy văn, không được coi là tư liệu để phán đoán về quy thuộc chủ quyền, nhưng trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quố</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">c” cách viết tên đảo Bạch Long Vĩ (BACHT-LONG-VI) hoàn toàn khác với cách viết tên bán đảo Bạch Long Vĩ (Cape PAKLUNG). Vì vậy, cách viết này có nguồn gốc từ Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 360px; overflow: hidden; width: 446px;"><span style="font-size: large;"><img height="388.92797630068515" src="https://lh4.googleusercontent.com/nU5ET7k9tmarZDd8BH8AiCC5yBkxGCHpaRMoHXf1jw5hhclXxvvI7e2psuIBgQrb4t-RUqV50fkezXuHCQ_q-x_R217_E55okCyJw7inKapa4a-K2TkVEmtirGiv0EnRMLSmevOSaHXtwQ-IPDFDW-jcqVjWaud0T_EXVlMirOtQST-hNII5r7dOgg" style="margin-left: 0px; margin-top: -9.09326e-13px;" width="446" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 4</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đảo Bạch Long Vĩ trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The China Sea Directory</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” bản 1879 </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảo Bạch Long Vĩ nói chung vẫn tiếp tục sử dụng tên gọi Nightingale Is. trên bản đồ khi đó, nhưng đến đầu thế kỉ XX, cái tên Bạch Long Vĩ (hoặc biến thể khác) cũng được dùng đồng thời và bắt đầu phổ biến để đánh dấu đảo Bạch Long Vĩ. Ví dụ trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Complete Atlas of China</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tập bản đồ Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) do Anh xuất bản năm 1917 đã có đánh dấu tên đảo Bạch Long Vĩ (Nightingale Is.) (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 5</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Một bản đồ khác của Đức năm 1925 cũng đã cho thấy điều này </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Hình minh họa 6</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Bản đồ khi đó đã rất chú ý dùng màu sắc của đảo để biểu thị sự quy thuộc chủ quyền của chúng. Trong hai tấm bản đồ trên, đảo Bạch Long Vĩ đều được đánh dấu rất rõ ràng là lãnh thổ Việt Nam. Điều này cho thấy khi đó quan điểm rằng đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam đã có và ngày càng trở nên phổ biến. Điều này xảy ra rất lâu trước khi Pháp đưa quân chiếm đóng đảo Bạch Long Vĩ năm 1937, cũng trước khi Pháp bắt đầu chuẩn bị “xâm lược” đảo này thập niên 1930 như Lí Đức Triều nói. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 592px; overflow: hidden; width: 415px;"><span style="font-size: large;"><img height="592" src="https://lh3.googleusercontent.com/iIxd-a4YqD_Qx8hSJcVtu6Z_NKxpmIvhPlCErxW0--2e1DD5whXIXisIs_wvhBgTRRDXw-goGjZ7QHwR1JhRm-nNmVW_PYf9IdIZ0pQlm2AJ8-rkOAMiJTsRm_1dZKCr4Yi2x0xD7fYXEGYiZm6uUziuw359o9HVMnplWTNPoux2xIoxZXxuVqMpWg" style="margin-left: -10.6213px; margin-top: 0px;" width="436.2425910083867" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 5</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đảo Bạch Long Vĩ trong bản đồ của Anh xuất bản (1917)</span></span></p><span style="font-size: large;"><br /><span style="border: none; display: inline-block; height: 528px; overflow: hidden; width: 565px;"><img height="558.3159874608151" src="https://lh5.googleusercontent.com/hM_YdlbefGvKdGRVvyi9zSrF5FRcsPCNgyFvvULhP0ILaP5mHmfgJVL7GKhmCCRa4erC-BSpiO_6q6Oy1KDvrWW4eChRQiifnbEjT7Z7KPlNf7lADB2sZSd9yWl3u9iMEoDreW9rlDVaUWelLVqF0aeKwmW6Do10mVgNNag43FtxoYYQMHWlMIc_Tw" style="margin-left: 0px; margin-top: -15.158px;" width="565" /></span></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 6</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đảo Bạch Long Vĩ trong bản đồ của Đức xuất bản (1925) </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">3. Lịch sử quản lí của Việt Nam đối với biển Bạch Long Vĩ </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy ghi chép của phía Trung Quốc như thế nào? Dựa theo vị trí của đảo Bạch Long Vĩ, nơi có thể tìm thấy các ghi chép này là phương chí Quảng Đông (khu vực ven biển vịnh Bắc Bộ mà hiện nay thuộc Quảng Tây thì thời đó thuộc Quảng Đông, và do đó Quảng Đông tiếp giáp Việt Nam) cùng với phủ chí các địa phương lân cận như Khâm Châu, Liêm Châu và Quỳnh Châu. Người viết đã giở xem tỉnh chí Quảng Đông cùng với bản đồ và phương chí địa lí khu vực Khâm Châu, Liêm Châu, Quỳnh Châu từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đều không có dấu tích của đảo Bạch Long Vĩ (bản đồ thậm chí không bao gồm vùng nước của đảo Bạch Long Vĩ trong đó). Ví dụ bản đồ Khâm Châu trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quảng Đông dư địa toàn đồ</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” từ giữa đến cuối thế kỉ XIX không có bao gồm đảo Bạch Long Vĩ (dù có bao gồm một số đảo ven bờ). Có thể thấy, ngay cả đến cuối thời Thanh, khó có thể nói đảo Bạch Long Vĩ là lãnh thổ thuộc quyền quản lí chính thức của chính phủ Trung Quốc. Trong bản đồ Trung Quốc xuất bản thời kì Dân quốc, đảo Bạch Long Vĩ cũng không được đưa vào. Vì vậy, vào cuối thời Thanh và thời Dân quốc, đảo Bạch Long Vĩ đều không là một bộ phận của Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đương nhiên, nếu như tra đọc phương chí cũ của Việt Nam, ví dụ “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Nam nhất thống chí</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cũng không thấy có đảo Bạch Long Vĩ trên bản đồ. Đây là tình trạng giống như ở Trung Quốc. Vì vậy, rất khó để đưa ra kết luận chắc chắn từ các bản đồ cổ (cả Trung Quốc lẫn Việt Nam): liệu đảo này có thực sự không được ai quản lí, hay cách vẽ truyền thống đã bỏ qua đảo này hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực ra, tìm trong sử liệu cổ đại của Trung Quốc vẫn có thể phát hiện một số manh mối khác giúp cho việc làm rõ “sự quy thuộc truyền thống” của đảo Bạch Long Vĩ. Trong tác phẩm địa lí “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lĩnh ngoại đại đáp</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Chu Khứ Phi thời Tống có nhắc đến một nơi gọi là Thiên Phân Dao: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 22.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 22.5pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">欽江南入海,凡七十二折。 南人謂水一折為遙,故有七十二遙之名。 七十二遙中,有水分爲二川,其一,西南入交址海。 其一東南入瓊廉海。 名曰天分遙。 人雲,五州昔與交址定界於此,言若天分然也。 令交址於天分遙已自占,又於境界數百余里吳婆灶之東以立界標,而採捕其下,欽人舟楫少至焉.[12]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 22.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 22.5pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tạm dịch: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khâm Giang về phía Nam đổ vào biển 72 phần [lượng nước]. Người phía Nam gọi một phần (折: chiết) của lượng nước là một dao, vì vậy nó có tên là 72 dao. Trong 72 dao nước, phân thành hai mảng (川: xuyên) nước, một mảng chảy vào biển Giao Chỉ ở phía tây nam, mảng kia chảy vào biển Quỳnh Liêm ở phía đông nam. Chỗ đó được gọi là Thiên Phân Dao. Người ta nói xưa kia Ngũ Châu và Giao Chỉ phân định ở đây, như là lẽ tự nhiên. Giao Chỉ hiện nay một mình độc chiếm Thiên Phân Dao, và lập một cột mốc ranh giới ở phía đông của Ngô Bà Táo khu vực có phạm vi khoảng hơn vài trăm lí, còn thuyền người Khâm Châu rất ít</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Khâm Giang ở đây là một con sông ở thành phố Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây, cửa sông ở biển Mao Vĩ của Khâm Châu. Nó là một vịnh biển nhỏ trong vịnh Bắc Bộ, ở phía Đông điểm giáp giới Trung-Việt trên vịnh Bắc Bộ, cũng ở phía Đông của bán đảo Bạch Long Vĩ. Ở phía Nam địa điểm này trong vịnh Bắc Bộ có một nơi gọi là “Thiên Phân Dao”, được người thời đó coi là điểm giáp giới trên biển của Trung Quốc và Việt Nam (xưa kia Ngũ Châu với Giao Chỉ phân định biên giới ở đây). Từ bản đồ có thể biết từ Khâm Giang ra cửa biển vẽ một đường thẳng xuống phía Nam, đảo Bạch Long Vĩ ở phía Tây đường này, thuộc phía Việt Nam. Có thể thấy, vào thời Tống, phía biển ở chỗ đảo Bạch Long Vĩ rất có thể là phạm vi truyền thống của Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hầu như sử liệu của Trung Quốc thời nhà Thanh không đề cập trực tiếp đến đảo Bạch Long Vĩ (càng không nhắc đến đảo Phù Thủy Châu), mà đề cập đến một địa danh có tên là biển Bạch Long Vĩ. Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thanh thực lục</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có sự tích về việc Trung Quốc và Việt Nam cùng chống cướp biển, trong đó đã có ghi chép về “biển Bạch Long Vĩ”. Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cao Tông thực lục</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” có chép rằng năm Càn Long 15 (1750), Tổng đốc Lưỡng Quảng Trần Đại Thụ ghi trong tờ tấu :</span></span><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: x-large; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “</span><span style="font-size: 14pt; text-align: left; white-space: pre-wrap;">廣東欽州,龍門帶,界連安南國之白龍尾海面"[13] </span></p></span><span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; text-align: left; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khu vực Khâm Châu, Long Môn của Quảng Đông tiếp giáp phía biển Bạch Long Vĩ của nước An Nam)</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này cho thấy biển Bạch Long Vĩ thuộc quyền quản lí của Việt Nam. Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên Tông thực lục</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (1833) cũng có viết: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 22.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 22.5pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“廉州瓊州二府所屬外洋,毗連越南處所,聚有盜船······據稱廉州府知府張堉春稟報,探得越南紅螺沙口白龍尾洋面有匪船三十余,只盜匪類百人肆劫。越南現有師船緝捕·…”[14]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 22.5pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 22.5pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tạm dịch: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai phủ Liêm Châu, Quỳnh Châu ở ven biển, tiếp giáp với Việt Nam, có nhiều thuyền cướp... Theo trình báo của tri phủ Liêm Châu Trương Du Xuân, trên biển Bạch Long Vĩ ở cửa Hồng Loa Sa có hơn 30 thuyền cướp, với chỉ hơn trăm tên phỉ làm chuyện cướp bóc. Việt Nam đang cho thuyền chiến truy bắt…</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Hai đoạn văn này cho thấy giữa Trung Quốc và Việt Nam đã sớm có phân định biên giới trên biển ở vịnh Bắc Bộ, và biển Bạch Long Vĩ thuộc vùng biển do Việt Nam quản lí. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Biển Bạch Long Vĩ này chỉ nơi nào? Có hai khả năng. Một khả năng là biển Bạch Long Vĩ chỉ vùng biển xung quanh đảo Bạch Long Vĩ. Như vậy đảo Bạch Long Vĩ tự nhiên thuộc sự quản lí của Việt Nam. Khả năng khác là khi đó có một bán đảo tên là bán đảo Bạch Long gần bờ biển Phòng Thành thuộc Khâm Châu, Quảng Đông (hiện thuộc Quảng Tây), mũi bán đảo này được gọi là Bạch Long Vĩ. Biển Bạch Long Vĩ ở đây có thể được đặt tên theo bán đảo Bạch Long Vĩ, trong trường hợp đó, biển Bạch Long Vĩ có bao gồm đảo Bạch Long Vĩ hay không thì cần phân tích thêm một bước. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Hai khả năng này đều có điểm nghi vấn. Theo tư liệu có được, người viết thấy rằng trong thời Thanh cái tên đảo Bạch Long Vĩ này không hề xuất hiện, cũng không phát hiện miêu tả về đảo nhỏ này (ngoại trừ tên Nightingale Is. được dùng trong tài liệu tiếng Anh của Hải quan, ví dụ hồ sơ lưu trữ của Hải quan Quỳnh Châu (Hải Nam), (xem phần sau). Vì vậy, khó có thể đứng vững khi nói rằng vào thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX Trung Quốc đã đặt tên “biển Bạch Long Vĩ” theo tên đảo nhỏ này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn về mũi Bạch Long Vĩ của bán đảo Bạch Long, tên gọi này đã có vào thời Thanh. Vì vậy, theo tập quán đặt tên trong sách địa lí thời Thanh, có nhiều khả năng là biển Bạch Long Vĩ được đặt tên theo của [mũi] bán đảo Bạch Long [Vĩ]. Nhưng điểm nghi vấn ở chỗ, hiện nay Trung Quốc luôn nói bán đảo Bạch Long Vĩ “xưa nay” đều là lãnh thổ của Trung Quốc , vậy tại sao có thể coi biển Bạch Long Vĩ là Di dương (biển của bọn Di) ? Một khả năng là bán đảo Bạch Long Vĩ là của Trung Quốc, còn biển Bạch Long Vĩ là của Việt Nam. Cách giải thích này khá gượng gạo. Khả năng khác là khi đó ngay cả bán đảo Bạch Long Vĩ cũng của Việt Nam. Bán đảo Bạch Long Vĩ nằm gần biên giới Trung -Việt hiện nay, trong lịch sử vốn là một khu vực Trung Quốc và Việt Nam trộn lẫn. Thời Đạo Quang nhà Thanh, Bạch Long Vĩ được miêu tả là “biên giới của biển bọn Di”.[15]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trên thực tế, bờ đối diện của Bạch Long Vĩ là nhóm ba đảo tộc Kinh (Vu Đầu, Vạn Vĩ và Sơn Tâm, hiện nay đều nối liền với lục địa qua việc lấn biến). Trong lịch sử, ba đảo tộc Kinh từ thời Tống đã liên tục do Việt Nam kiểm soát, đó cũng là lí do vì sao người trên đảo đều thuộc dân tộc Kinh (người Việt Nam). Khi đàm phán Trung-Việt năm 1887, ba đảo này mới được phân định thuộc Trung Quốc. Trong đàm phán Trung-Pháp, bán đảo Bạch Long Vĩ vốn là nơi Pháp muốn giành lấy, Pháp cho rằng mình có chứng cứ rất mạnh mẽ. Trong thư của Dillon, đại diện đàm phán phía Pháp, gửi Công sứ Pháp tại Trung Quốc có nêu: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 18pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 18pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sách địa lí của Trung Quốc xác nhận cương giới An Nam đến Long Môn, và bởi vì không nói rõ, nhưng có lí hơn khi nói nó bao gồm cả Bạch Long Vĩ. Cho đến gần 20 năm nay, tình hình đích thực như vậy. Sau này, khu vực giữa Bạch Long Vĩ và Long Môn bị cướp biển Trung Quốc chiếm cứ. Vì thế khu vực đó mới không phải của An Nam. Quyền lợi chúng ta có từ Bạch Long Vĩ (kể cả Bạch Long Vĩ) không ai có thể làm lay chuyển được</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.[16]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đến cuối đàm phán, Pháp mới đồng ý bán đảo Bạch Long Vĩ và ba đảo tộc Kinh thuộc về Trung Quốc. Điều này cho thấy Việt Nam ngay từ đầu đã có chứng cứ nhất định đối với bán đảo Bạch Long Vĩ. Ở đây không thảo luận sâu về vấn đề này. Tóm lại, những sử liệu này cho thấy khi đó vùng biển ngoài khơi bán đảo Bạch Long Vĩ được gọi là biển Bạch Long Vĩ, và biển Bạch Long Vĩ thuộc khu vực do Việt Nam quản lí. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vậy rốt cuộc vùng biển của bán đảo Bạch Long Vĩ này có bao gồm đảo Bạch Long Vĩ không? Từ sử liệu phía trên thấy rằng, ở vịnh Bắc Bộ, vùng biển của Trung Quốc và Việt Nam tiếp nối nhau và phân bố liên tục dọc theo bờ biển. Vùng biển của hai bên lấy khu vực phụ cận bán đảo Bạch Long Vĩ làm giao giới. Theo quan điểm thông thường thấy rằng, cái gọi là vùng biển của một nơi nào đó, là để chỉ vùng biển bắt đầu từ bờ biển kéo dài ra theo đường thẳng vuông góc với bờ biển. Lấy biển Bạch Long Vĩ làm ví dụ, nếu như để chỉ vùng biển ngoài khơi bán đảo Bạch Long Vĩ, thì nhất định phải lấy đường vuông góc bờ biển của vùng biển bán đảo Bạch Long Vĩ làm trung tâm để phân chia ranh giới với vùng biển lân cận. Ở đây giả định giao giới của biển Bạch Long Vĩ và vùng biển Khâm Châu nằm ở bán đảo Bạch Long Vĩ, nếu từ đó vạch một đường thẳng vuông góc với đường bờ biển kéo dài ra biển, thì không khó để phát hiện đảo Bạch Long Vĩ ở phía của Việt Nam. Và ngay khi giả định đường này không vuông góc với đường bờ biển mà dùng đường kinh tuyến để phân định ranh giới (càng có lợi đối với Trung Quốc), thì đảo Bạch Long Vĩ vẫn nằm về phía Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đương nhiên, ở đây còn có một vấn đề khác, đó là trong ngữ cảnh của Trung Quốc mỗi một biển nào đó có khoảng cách [tối đa] tới đường bờ biển bao xa. Nếu khoảng cách rất gần thì sẽ không có cách nào kéo dài ra đến đảo Bạch Long Vĩ, còn nếu như khoảng cách rất xa thì sẽ có thể bao gồm đảo Bạch Long Vĩ. Đáng tiếc, hiện nay không hề tìm thấy chứng cứ thích hợp để làm rõ điểm này. Cái gọi là biển của Trung Quốc, có khi cách đường bờ biển rất xa, cũng có khi có thể rất gần. Nhưng từ góc độ phân tích thấy rằng, nói đảo Bạch Long Vĩ ở trong biển Bạch Long Vĩ thì cũng cho qua được. Trong một tư liệu khác có thể tìm thấy chứng cứ ủng hộ thêm một bước. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dương phòng tập yếu</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, quyển 14 </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quảng Đông hải phòng lược</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của Nghiêm Như Dục thời Đạo Quang đời Thanh có ghi: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">又自烏雷正南二日經湧淪周整而至交趾永安州,曆大小麻墩恩勒隘茅頭少東則曰龍尾海,東府界至南大海外抵交趾占城二國界.[17]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tạm dịch : </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ Ô Lôi đi thẳng theo hướng Nam khoảng hai ngày đường qua Dũng Luân, Châu Chỉnh đến châu Vĩnh Yên của Giao Chỉ, qua ải Ma Đôn, Ân Lặc lớn và nhỏ, đi về phía Đông chỗ đầu hình cái mâu nhỏ thì chính là biển Long Vĩ [Long Vĩ hải],[biển này] chạy từ ranh giới phủ Đông đến ngoài biển lớn phía Nam [Nam đại hải] cho đến biên giới của hai nước Giao Chỉ và Chiêm Thành</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Biển Long Vĩ ở đây chính là biển Bạch Long Vĩ [Bạch Long Vĩ dương], được cho là từ giao giới của Quảng Đông với Việt Nam kéo liên tục về phía Nam cho đến “biển lớn phía Nam” ở Giao Chỉ và Chiêm Thành. Điều này cho thấy đường ranh giới của biển Bạch Long Vĩ kéo dài đến bán đảo Đông Dương. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luận điểm này cũng được sự ủng hộ từ nguồn gốc tên gọi đảo Bạch Long Vĩ . Theo cách hiểu của Việt Nam, đảo Bạch Long Vĩ có nghĩa là đảo ‘đuôi rồng trắng’. Ở ven biển vịnh Bắc Bộ chỗ biên giới Trung-Việt phía Việt Nam có một nơi gọi là Hạ Long loan, người Việt Nam gọi là vịnh Hạ Long. Nơi này có hơn 2 000 đảo đá vôi, tạo thành một mê cung trên biển, phong phú hùng vĩ, là điểm du lịch nổi tiếng, cũng là di sản thế giới được Liên Hợp Quốc công nhận. Nguồn gốc tên gọi này là tương truyền thời xưa có một con rồng hạ xuống biển, nhả ra đá quý, để lại nhiều hòn đảo, tạo thành hàng rào ngăn quân xâm lược, giúp người Việt Nam bảo vệ đất nước. Còn đảo Bạch Long Vĩ chính là chỗ đuôi rồng lúc rồng hạ xuống biển. Câu chuyện này rất đẹp đẽ nhưng rất có thể không có liên quan gì đến tên gọi của đảo Bạch Long Vĩ. Trong sách “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Anh không thấy có tên gọi vịnh Hạ Long này, nhưng đã có tên gọi đảo Bạch Long Vĩ, và bán đảo Bạch Long Vĩ (Cape Paklung) cũng được ghi trong đó. Điều này cho thấy tên gọi đảo Bạch Long Vĩ rất có thể đã xuất hiện trước tên gọi vịnh Hạ Long. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy, người viết cho rằng tên gọi đảo Bạch Long Vĩ này được đặt theo biển Bạch Long Vĩ, còn tên gọi của biển Bạch Long Vĩ thì từ tên bán đảo Bạch Long Vĩ mà ra. Như vậy, biển Bạch Long Vĩ không phải được đặt tên theo đảo Bạch Long Vĩ, mà ngược lại, đảo Bạch Long Vĩ được đặt tên theo biển Bạch Long Vĩ. Sở dĩ đảo Bạch Long Vĩ được đặt tên như vậy, chính là vì nó nằm trong biển Bạch Long Vĩ. Nếu như cách lí giải này đứng vững được thì biển Bạch Long Vĩ bao gồm đảo Bạch Long Vĩ là hợp lí. Kết hợp sử liệu thời Thanh, do đảo Bạch Long Vĩ được đặt tên dựa theo biển Bạch Long Vĩ nên rất có thể phải thuộc khu vực quản lí của Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vậy thì có bằng chứng đáng kể nào về hoạt động của người Việt trên đảo trước giữa thế kỉ XIX? Người viết không tìm ra được tư liệu nào. Miêu tả về đảo Bạch Long Vĩ trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ nam biển Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” năm 1879 có lẽ phản ánh tình hình giữa thế kỉ XIX, về cơ bản nó là một đảo hoang, chỉ có ở phía Đông Nam của đảo, do địa thế bằng phẳng, có một vài ngôi nhà nhỏ tạm bợ đơn sơ (hut). Có thể thấy rằng đảo này không có người ở thường xuyên, chỉ có thể dùng làm điểm dừng chân tạm thời trong các chuyến đi biển. Trong sách không nói tường tận hơn về đặc điểm của các ngôi nhà nhỏ tạm bợ này, do đó không có cách nào xác định rốt cuộc những ngôi nhà nhỏ đó do ai xây dựng, người phương Tây, người Việt Nam hay là người Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy có thể tin chắc rằng thời kì thế kỉ XIX người Việt Nam không thường xuyên lên đảo. Nhưng có lẽ không phải không có lí do khi phần lớn phương Tây coi đảo này là một phần của Việt Nam vào thế kỉ XIX: phải có hoạt động nào đó của Việt Nam tại đây mới khiến phương Tây có quan điểm này. Người Anh sau đó dùng cách đọc tên Bạch Long Vĩ trong tiếng Việt để viết tên đảo này theo phát âm, cách đọc kiểu này chắc chắn là từ người Việt Nam mà ra, chứ không phải từ người Trung Quốc. Kết hợp với kiến giải rằng biển Bạch Long Vĩ thuộc vùng biển Việt Nam theo sử liệu Trung Quốc cùng với phỏng đoán rằng tên gọi đảo Bạch Long Vĩ bắt nguồn từ biển Bạch Long Vĩ trong phân tích trước, càng có thể nhận định tương đối chắc chắn rằng từ thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, mặc dù vẫn là một đảo hoang chỉ có tàu thuyền tạm ghé qua, nhưng Việt Nam đã cho thấy sự hiện diện của mình trên đảo này, thậm chí có thể Việt Nam đã thể hiện chủ quyền đối với đảo này một mức độ nhất định, </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">4. Lịch sử đảo Bạch Long Vĩ nửa cuối thế kỉ XIX </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Trung Quốc bắt đầu đến đảo Bạch Long Vĩ khi nào ? Theo cách </span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giải thích</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của Lí Đức Triều là “đời này sang đời khác”, nhưng bài viết cũng thừa nhận chỉ khoảng 100 năm là có bằng chứng có thể kiểm tra (bài viết của ông ta công bố vào năm 1995). Một trong những bằng chứng mà ông nói đến là vào năm 1955, trên đảo có một miếu thờ Mã Viện, trong miếu có một cái chuông sắt do người Hải Nam đúc vào năm Quang Tự thứ ba (1877). Cần phải chú ý rằng thời gian đúc chuông sắt có thể khác với thời gian xây miếu, vì có thể chuông sắt mới được chuyển đến sau đó. Nhưng cũng không loại trừ giả định là vào nửa sau thế kỉ XIX người Trung Quốc đã bắt đầu hoạt động trên đảo này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo báo cáo của người Pháp năm 1944[18]:</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “trước đó”, thuyền cá Việt Nam cũng thường đến đảo này hoạt động, người Trung Quốc cũng cập bến ở đây. Nhưng vì trước đây không có nước ngọt (do đó người Việt Nam còn gọi đảo này là đảo Vô Thủy), nên không ai có thể sinh sống trên đảo được. Mãi đến khoảng thập niên 1920 mới phát hiện được giếng nước ngọt đầu tiên, từ đó mới có thể sinh sống trên đảo. Vì vậy có thể suy đoán, mặc dù ở nửa sau thế kỉ XIX hoạt động của người Trung Quốc ở đảo Bạch Long Vĩ tăng lên, nhưng trước thập niên 1920, nó chủ yếu vẫn được dùng như điểm cập bến tạm thời, không phải chỗ định cư. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vậy tại sao trong nửa sau thế kỉ XIX người Trung Quốc lại hoạt động thường xuyên hơn trên đảo này? Điều này có thể liên quan với sự suy yếu của Việt Nam. Khi nhà Nguyễn thành lập vào đầu thế kỉ XIX, thực lực thủy quân Việt Nam lớn mạnh (xem I.2). Trong Chiến tranh thuốc phiện, khi “tàu to súng lớn” của Anh khiến Hoàng đế Đạo Quang lo lắng, ông thậm chí còn từng có ý nhờ thủy quân Việt Nam giúp đỡ chống lại Anh. Nhưng thủy quân Việt Nam bị thiệt hại trong chiến tranh Pháp-Việt 1858-1862, không thể khôi phục được sức mạnh cũ. Kể từ đó, Việt Nam không còn đủ khả năng kiểm soát vùng biển truyền thống. Ví dụ, thập niên 1870, cướp biển hoành hành ở vịnh Bắc Bộ, Việt Nam phải nhờ Hải quân Trung Quốc sang địa phận Việt Nam giúp tiểu trừ. Còn Cửu Đầu Sơn và Lão Thử Sơn được ghi chép rõ ràng trong thời Càn Long, Đạo Quang là thuộc Việt Nam cũng bị “Quảng Đông địa dư đồ thuyết” nửa cuối thế kỉ XIX ghi là: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">“西迄防城外海 之大洲、小洲、老鼠山、九頭山皆粵境也.”[]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tạm dịch: </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Tây đến Đại Châu, Tiểu Châu, Lão Thử Sơn, Cửu Đầu Sơn ở ngoài biển Phòng Thành đều thuộc địa phận của Quảng Đông</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.) </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Lịch sử quần đảo Tây Sa của Việt Nam cho thấy trước giữa thế kỉ XIX việc kiểm soát các vùng biển và đảo xa của Việt Nam là do chính quyền thúc đẩy, chứ không phải do dân gian thúc đẩy. Sau khi chính quyền mất đi khả năng này, động lực khai thác của dân gian với các đảo xa hoàn toàn không đủ bù vào khoảng trống, vì vậy các đảo xa này vốn nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền đã trở thành địa bàn của ngư dân Trung Quốc. Ngược lại, việc khai thác ngoài biển của Trung Quốc là do dân gian thúc đẩy, và chính quyền không khuyến khích kiểu khai thác này. Cố nhiên khi quyền lực chính quyền Trung Quốc suy yếu thì việc khai thác của dân gian sẽ được đẩy mạnh. Chính do hai kiểu mô hình khai thác khác nhau này mà khi chính quyền Trung Quốc và Việt Nam đều lâm vào tình huống cùng suy yếu thì hai bên sẽ đổi chỗ cho nhau trong việc khai thác các đảo xa. Tình cảnh này cũng đúng với đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1887, Trung-Pháp kí hiệp ước biên giới và sau đó phân định ranh giới. Ngày 26-6, tại Bắc Kinh hai nước Trung-Pháp kí “T</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rung- Pháp tục nghị giới vụ chuyên điều</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” (Công ước Pháp-Thanh, Công ước Constans), Điều 3 quy định: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">廣東界務,現經兩國勘界大臣勘定邊界之外,芒街以東及東北一帶,所有商論未定之處均歸中國 管轄。 至於海中各島,照兩國勘界大臣所劃紅線,向南接劃,此線正過茶古社東邊山頭,即以該線為界 (茶古社漢名萬注,在芒街以南竹山西南 ),該線以東,海中各島歸中國,該線以西,海中九頭山(越 名格多)及各小島歸越南.[20]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tạm dich:</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Về biên giới tỉnh Quảng Đông, hiện các đại thần phân định biên giới của hai nước xác định dải đất từ phía Đông cho đến phía Đông Bắc Móng Cái, chưa thương thảo được đều đưa về cho Trung Quốc quản. Đối với các đảo ngoài biển, chiểu theo đường vạch đỏ được các đại thần phân định biên giới hai nước vẽ, về phía Nam, đường này chạy qua mỏm núi ở rìa phía Đông xã Trà Cổ, cả đường này lấy làm ranh giới (Xã Trà Cổ tên Hán là Vạn Chú, nằm ở Móng Cái đến phía Tây Nam núi Nam Trúc). Từ đường đó về phía Đông, các đảo trên biển đều thuộc về Trung Quốc, từ đường đó về phía Tây, núi Cửu Đầu (tên Việt là Cách Đa) cho đến các đảo nhỏ trên biển đều thuộc về Việt Nam</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Theo bản dịch tiếng Pháp là: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Quảng Đông, hai bên thỏa thuận rằng những địa điểm tranh chấp nằm về phía Đông và phía Đông Bắc Móng Cái, ở phía bên kia của đường biên giới đã được Ủy ban phân giới xác định, được giao cho Trung Hoa. Những đảo ở về phía Đông của đường kinh tuyến Paris 105° 43’ Đông, có nghĩa là đường thẳng Bắc Nam đi qua mũi phía đông đảo Trà Cổ hay Vạn Chu và tạo thành đường biên giới, cũng được giao cho Trung Hoa. Các đảo Cô Tô và những hòn đảo khác ở phía Tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[21]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bản đồ [phần cực Đông biên giới hai nước Trung-Việt] đính kèm Công ước có vẽ một đường thẳng màu đỏ theo hướng Bắc Nam (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 7</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), và chú thích rõ </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“ bắt đầu từ biên giới phía Bắc do đại thần phân giới của hai nước phân định và chạy xuống phía Nam, đường thẳng đỏ này đi qua phía Đông Sơn Đầu xã Trà Cổ, lấy đường này làm ranh giới</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.[22]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đường đỏ này nằm ở kinh tuyến 105° 43’ Đông Paris, hay 108°3’13” Đông Greenwich. Đảo Bạch Long Vĩ nằm ở phía Tây phần kéo dài của đường phân giới này, tức phía Việt Nam. Về khả năng áp dụng của ranh giới này (sau đây gọi tắt là đường phân giới), do sự mơ hồ về câu chữ nên có 4 cách diễn giải sau đây : (1) đường phân giới chỉ là đường phân giới cho các đảo nhỏ ven bờ, không bao gồm đảo Bạch Long Vĩ; (2) đường phân giới và đường kéo dài của nó là đường phân giới của tất cả các đảo nhỏ trong toàn bộ vịnh Bắc Bộ, bao gồm đảo Bạch Long Vĩ; (3) đường phân giới và đường kéo dài của nó là đường phân giới toàn bộ vùng nước của vịnh Bắc Bộ, chứ không chỉ là các đảo nhỏ trong vịnh, và sau này hình thành đường phân giới “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”; (4) đường phân giới và đường kéo dài của nó là đường phân giới cho tất cả các đảo giữa Trung Quốc và Việt Nam, thậm chí bao gồm các đảo Nam Hải. </span></span></p><span style="font-size: large;"><br /><span style="border: none; display: inline-block; height: 638px; overflow: hidden; width: 468px;"><img height="638" src="https://lh6.googleusercontent.com/Mt4NdeRbKZnL80nmNpg8NBUDdMbN8HaL2PLqvXelh7oNruHfKlCBOtxdUCBjINNVrkX3u9ZV9u2iFZggmmG_8O26OnGXcjcFQUvFvvFoBuAU2qTTy8UmW08ctyGOLe1nrcsCDrSRIj3vDktr3-4jmGDqYyccY0faasOf-6AUgd6cFM8My5FGrr4SZg" style="margin-left: -9.72154px; margin-top: 0px;" width="487.4430858090878" /></span></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 7</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ đính kèm “Trung-Pháp tục nghị giới vụ chuyên điều” (Công ước Pháp-Thanh, Công ước Constans) năm 1887 </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi kí hiệp ước phân giới, toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp (Nam Kì là trực thuộc, Trung Kì và Bắc Kì là nước bảo hộ). Do vịnh Bắc Bộ gần trung tâm thống trị của Việt Nam thuộc Pháp là Hà Nội, Pháp rất chú ý đến nó, tích cực hơn nhiều so với quần đảo Tây Sa. Sau năm 1887, Hải quân Pháp thường tuần tra ở vịnh Bắc Bộ, trong báo cáo năm 1944 có viết: Pháp thỉnh thoảng sẽ đến tuần tra đảo Bạch Long Vĩ.[23]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dễ nhận thấy khi đó Pháp không có ý thức chủ quyền rõ ràng đối với đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1895, tàu chống buôn lậu Khai Biện (開辦: Kaipan) của Trung Quốc cũng đã tiến hành hoạt động chống buôn lậu trên đảo Bạch Long Vĩ ít nhất một lần. Khi đó Hải quan Trung Quốc do người Anh quản lí, thuyền trưởng tàu chống buôn lậu đều là người Anh. Lộ trình bắt buôn lậu lần đó xuất phát từ Hải Khẩu, đến đảo Vi Châu và núi Cửu Đầu của Việt Nam trước, rồi chuyển hướng Tây Nam, qua đảo Dạ Oanh (đảo Bạch Long Vĩ) cập bến và kiểm tra tàu cá, cuối cùng quay trở về Hải Khẩu.[24]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Từ phân tích này, khó có thể nghĩ rằng hành động này chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Bạch Long Vĩ vì tàu tư nhân cũng đã đến các đảo thuộc Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Thông thường mà nói, trong tình huống ý đồ chủ quyền rõ ràng, tuần tra và chống buôn lậu có thể xem là chứng cứ thực thi chủ quyền, nhưng điều này vẫn cần được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố tổng hợp. Theo tình huống khi đó, dù đối với Pháp hay Trung Quốc, đảo Bạch Long Vĩ nói chung đều là một điểm về buôn lậu, cần phải đến tuần tra bất chợt, nhưng không bên nào xem đó là lãnh thổ của mình. Thế là đảo Bạch Long Vĩ tiếp tục trở thành điểm cập bến của ngư dân Trung Quốc, Việt Nam, tội phạm buôn lậu thậm chí cướp biển, Trung Quốc có thể là bên vượt trội về số người. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">5. Pháp xác lập chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khoảng năm 1920, trên đảo Bạch Long Vĩ có nguồn nước ngọt được phát hiện, khiến đảo này vốn chỉ có thể cập bến trong một thời gian ngắn trở thành nơi có thể định cư. Điều này làm sự quan tâm của Pháp tăng thêm đáng kể, và họ bắt đầu tăng cường quản lí với đảo Bạch Long Vĩ. Năm 1921, Pháp phái một quan chức đến đảo điều tra. Khi đó, trên đảo đã có các di dân Trung Quốc, họ nộp cho quan chức điều tra người Pháp một đơn xin viết tay, yêu cầu Pháp cho phép họ phát triển nông nghiệp trên đảo. Đơn này và bản báo cáo điều tra của quan chức người Pháp được chuyển giao cho cấp trên vào tháng 8-1921, đơn được phê chuẩn. Quan chức Pháp cũng đồng thời yêu cầu quân Pháp tăng cường tuần tra ở đảo Bạch Long Vĩ, từ tuần tra bất chợt không định kì nâng thành ít nhất mỗi năm một lần.[5]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong vụ việc này của người Pháp có 3 hành vi đủ thể hiện sự quản lí của họ đối với đảo Bạch Long Vĩ. Thứ nhất, việc quan chức người Pháp lên đảo điều tra thuộc dạng ý thức về chủ quyền rõ ràng. Thứ hai, việc người Hán trên đảo nộp đơn đề xuất Pháp cho phép khai thác, và việc Pháp lại đồng ý đơn xin này là đã thực thi chủ quyền, thuộc quản lí hữu hiệu. Thứ ba, trước đó, Pháp và cả Trung Quốc dù có ghi chép về việc bắt buôn lậu ở đây, nhưng đều mang tính ngẫu nhiên; sau này, mật độ tuần tra của Pháp mỗi năm một lần dù không cao, nhưng từ hành vi có tính ngẫu nhiên trở thành hành vi có “tính thông lệ”, đã thể hiện thêm một bước ý thức chủ quyền rõ ràng và sự kiểm soát hữu hiệu của Pháp đối với đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có tài liệu cho rằng, cái tên “Phù Thủy Châu” được dùng để gọi đảo Bạch Long Vĩ xuất hiện vào thập niên 1920,[26]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khẳng định này đáng ngờ. Năm 1921, khi thương nhân Hà Thụy Niên nộp đơn cho chính quyền tỉnh Quảng Đông xin khai thác quần đảo Tây Sa (xem II.2) có đề xuất xin tiếp quản “Phù Thủy Châu”, trong đó có ghi: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hôm đó khi các thương nhân đi thăm dò điều tra, trên đường đi qua biển ngoài cảng huyện Xương Giang, đã phát hiện một đảo hoang tên Phù Thủy Châu, vị trí của nó cũng ở phía Tây Nam vùng biển Quỳnh Nhai, vốn là nơi phải đi ngang qua khi lui tới quần đảo Tây Sa, diện tích rộng khoảng hơn 300 dặm vuông. Tuy nhiên, xung quanh có rất nhiều phù sa, nhưng bề mặt đảo thì bằng phẳng, có lẫn bùn cát, ở giữa đá bùn chất thành đống cao, có cây cọ, nhìn chung không khác với quần đảo Tây Sa. Dân địa phương gọi là Phù Thủy Châu, từng có một ngôi miếu cổ thờ Xương Da được dựng trên đảo, vì vậy thuộc quyền quản lí của huyện Xương Giang.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[27]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">“Phù Thủy Châu” ở đây rất có thể không là đảo Bạch Long Vĩ. Về vị trí, dù đảo Bạch Long Vĩ đúng là ở ngoài biển huyện Xương Giang, nhưng vị trí của nó không ở phía Tây Nam vùng biển Quỳnh Nhai, mà ở phía Tây Bắc, cũng không trên đường phải đi ngang qua khi lui tới quần đảo Tây Sa; về diện tích, “Phù Thủy Châu” có diện tích 300 dặm vuông, tương đương với 70 km², lớn hơn rất nhiều so với đảo Bạch Long Vĩ; về địa hình, đảo Bạch Long Vĩ là đảo núi lửa, có dạng bình đài (nền phẳng) cao hơn 50 mét so với mặt biển, không phải đảo san hô “không khác với quần đảo Tây Sa”. Có khả năng khi đó có hai nơi này đều gọi là Phù Thủy Châu, cũng có khả năng người đời sau áp dụng tên gọi Phù Thủy Châu cho đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ Nội vụ có ghi nó vào hồ sơ, và yêu cầu Ủy viên huyện Xương Giang lập tức cùng Hà Thụy Niên lên đảo khảo sát, nộp báo cáo, sau đó mới thẩm định quyền khai thác của ông ta.[28]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng hai nhân viên đo vẽ bản đồ Hà Thụy Niên thuê ở Hồng Kông đều tạm thời bận việc nên không thể đến, do đó việc khảo sát “Phù Thủy Châu” bị đình trệ không thể thực hiện được. Năm 1923, khi Hà Thụy Niên đảm nhận khai thác Tây Sa lần thứ hai, Hà Thụy Niên cũng muốn tìm người khác đến “Phù Thủy Châu” khảo sát, huyện Xương Giang đồng ý phái người đi cùng, nhưng huyện Xương Giang không mấy quan tâm tới việc này, nói không tìm được người cùng đi. Hà Thụy Niên đành phải báo cáo lên trên, đợi xây dựng xong cơ sở khai thác ở Tây Sa rồi cùng khai thác “Phù Thủy Châu” luôn. Cuối cùng, Hà Thụy Niên lại bị hủy bỏ quyền khai thác Tây Sa một lần nữa, và việc khai thác “Phù Thủy Châu” chỉ còn là lời rỗng không.[29]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nếu như “Phù Thủy Châu” đúng là đảo Bạch Long Vĩ, và nếu như cả quan chức lẫn thương nhân đều tích cực hành động dù thời điểm mà Hà Thụy Niên đề xuất việc khai thác (tháng 9-1921)[30]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có muộn hơn một chút so với lúc quan chức Pháp đến đảo, thì không chừng đảo Bạch Long Vĩ có thể đã rơi vào tay Trung Quốc rồi. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chứng cứ bản đồ lúc bấy giờ cũng có lợi cho Việt Nam. Theo người viết xem được, bản đồ Trung Quốc thời đó đều không vẽ đảo Bạch Long Vĩ thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bản đồ châu Á do Trung Quốc xuất bản, dù có vẽ “đảo Dạ Oanh”, nhưng không coi nó là lãnh thổ của Trung Quốc. Còn bản đồ của các nước khác xuất bản lại đánh dấu tương đối thống nhất đảo Bạch Long Vĩ thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Ví dụ như, “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của Anh xuất bản năm 1917 và “Bản đồ châu Á” của Đức xuất bản năm 1925 nói ở trên. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Năm 1937, Pháp phái quân đến đóng giữ đảo Bạch Long Vĩ, và thành lập một trạm gác và chính quyền địa phương, nâng cấp thêm một bước quy cách quản lí của họ, cũng đã xác định rõ thêm một bước ý thức chủ quyền và sự quản lí hữu hiệu của Việt Nam thuộc Pháp đối với đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Dân quốc nói chung biết rõ sự kiểm soát của Pháp đối với đảo nhỏ này, nhưng không hề phản đối; họ cũng không phản đối việc Pháp đóng quân ở đảo Bạch Long Vĩ. Nghe nói, năm 1934 chính quyền tỉnh Quảng Đông có phái chuyên viên đến thị sát đảo Bạch Long Vĩ.[31]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Người viết không tra tìm được tư liệu có liên quan nên chưa biết điều đó đúng hay sai. Nhưng theo thái độ của Trung Hoa Dân quốc (xem phần sau), ngay cả khi có việc này, Dân quốc cũng khó có thể coi nó là lãnh thổ của mình. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Có thể lí giải thái độ của chính phủ Dân quốc từ hai phương diện. Một mặt, từ lịch sử thấy rằng, dù người Trung Quốc có đóng góp quan trọng đối với việc khai thác đảo Bạch Long Vĩ, nhưng đảo Bạch Long Vĩ xưa nay chưa từng thuộc sự quản lí của Trung Quốc, do đó chính phủ Dân quốc không có căn cứ. Mặt khác, và quan trọng hơn là vào thập niên 1930, sau khi bắt đầu cuộc tranh chấp Tây Sa giữa Trung Quốc và Pháp, để chứng minh Tây Sa thuộc Trung Quốc, trong công hàm ngoại giao chính phủ Dân quốc gửi cho Pháp tháng 4-1937 có nhắc đến: </span></span></p><ol style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: decimal; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-right: 2.46362pt; margin-top: 1.91803pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Theo Điều 3 của“Trung-Pháp tục nghị giới vụ chuyên điều”: “...Đối với các đảo ngoài biển, chiểu theo đường vạch đỏ được các đại thần phân định biên giới hai nước vẽ về phía Nam... Từ đường đó về phía Đông, các đảo trên biển đều thuộc về Trung Quốc...... Tây Sa cách xa ở phía Đông của đường này, phải thuộc về nước nào, chỉ nhìn thì biết.” </span></span></p></li></ol><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trung Quốc cho rằng đường phân định biên giới Trung-Pháp năm 1887 có hiệu lực đối với tất cả các đảo có tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam (cách diễn giải 4 trong Tiết 4), và do đó cho rằng theo hiệp ước, toàn bộ các đảo của Tây Sa đều thuộc Trung Quốc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Yêu sách này rất khó đứng vững được, vì đường kinh tuyến này chạy xuyên qua bán đảo Đông Dương. Nếu quả đúng như vậy thì tất cả các đảo nhỏ gần bờ của Việt Nam cũng đều trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng khi đó, hai nước Trung-Pháp chỉ vẽ ra đường này để mở rộng hiệp ước về ranh giới trên bộ giữa Việt Nam và Quảng Đông ra vùng biển ở vịnh Bắc Bộ, nếu giải thích rộng ra như vậy rõ ràng khó có thể đứng vững được. Khả năng áp dụng của đường phân giới này đã được tranh luận một lần nữa trong các cuộc đàm phán Trung-Việt về phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ vào những năm 1990 (xem Tiết 7), hai bên đều không ủng hộ cách diễn giải của chính phủ Dân quốc trong thập niên 1930. Bởi vì về mặt pháp lí, cách nhìn của phía Dân quốc là hoàn toàn sai lầm. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Tuy nhiên, lập trường này của Dân quốc khi đó lại có thể rất xứng hợp trong việc xác nhận quyền sở hữu của Việt Nam đối với đảo Bạch Long Vĩ. Bởi vì đảo này ở phía Tây của đường phân giới. Theo diễn giải của Dân Quốc, đường này kéo dài đến Nam Hải, nên đương nhiên cũng có thể áp dụng cho đảo Bạch Long Vĩ trong vịnh Bắc Bộ. Còn diễn giải của Pháp là đường này chỉ áp dụng ở vịnh Bắc Bộ (sau khi đường kinh tuyến chạm vào bán đảo Đông Dương thì không thể lại tiếp tục kéo dài xuống phía Nam, vì vậy không thể làm căn cứ để phân định ranh giới Nam Hải). Dù dùng cách diễn giải của Dân quốc hay của Pháp vào lúc đó, đảo Bạch Long Vĩ đều được xác định là một phần của Pháp. Cho nên, theo lập trường của Dân quốc, đảo Bạch Long Vĩ thuộc Pháp (Việt Nam) là không thể tranh cãi. Đây cũng là lí do vì sao Trung Quốc không có ý kiến khác đối với việc Pháp quản lí đảo Bạch Long Vĩ. Kiểu thái độ này dẫn đến việc Pháp cuối cùng xác lập được chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ, vì đã có được sự công nhận của bên duy nhất có thể tranh chấp là Trung Quốc rồi. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Tóm lại, bắt đầu từ khoảng năm 1920, sau khi phát hiện nước ngọt trên đảo Bạch Long Vĩ, trên đảo bắt đầu có người định cư và tiến hành sản xuất nông nghiệp. Khi đó trên đảo có thể có đông người Trung Quốc hơn, nhưng Pháp đã xác lập chủ quyền vào năm 1921, và càng củng cố chủ quyền thêm sau năm 1937. Còn chính phủ Trung Quốc, để tìm kiếm chứng cứ cho cuộc tranh chấp Tây Sa, lại cho rằng đường phân giới năm 1887 là đường phân giới của tất cả đảo tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Lập trường này càng ủng hộ việc Pháp (Việt Nam) có chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">6. Đảo Bạch Long Vĩ thời kì sau Thế chiến II</span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Sự kiểm soát của Pháp đối với đảo Bạch Long Vĩ mới tạm thời chấm dứt từ năm 1944 khi Nhật phát động tấn công Việt Nam. Sau Thế Chiến II, năm 1946 Pháp nhanh chóng quay trở lại đảo Bạch Long Vĩ. Trung Quốc cũng không có ý kiến gì khác về việc này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1947, Trung Quốc đưa ra đường chữ U do 11 đoạn tạo thành, đây là tiền thân của đường 9 đoạn (xem Tiết III.4), nhưng không rõ phạm vi đường này có bao gồm đảo Bạch Long Vĩ hay không. Trong “Nam Hải chư đảo vị trí lược đồ” (Lược đồ vị trí các đảo Nam Hải) không có vẽ đảo Bạch Long Vĩ (</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 8</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), và cũng khó xác định tọa độ của đường đứt đoạn, đảo Bạch Long Vĩ có vẻ nằm đúng ngay khoảng trống giữa hai đường đứt đoạn, khó mà xác định đảo Bạch Long Vĩ có nằm bên trong đường 11 đoạn hay không. Trên bản đồ khác của Dân quốc khi đó cũng như bản đồ Trung Quốc do Đài Loan xuất bản sau đó, hầu hết đều không thể hiện đảo Bạch Long Vĩ. Điều này có thể bao gồm mấy tình huống: (1) Bản đồ quá nhỏ, không có đánh dấu; (2) Vị trí của đảo Bạch Long Vĩ bị khung vuông hiển thị dữ liệu khác che phủ; (3) Bản đồ vừa không nhỏ lại không có khung vuông, nhưng ở vị trí đảo Bạch Long Vĩ hiển thị một khoảng trống. Trong một số rất ít bản đồ có hiển thị đảo Bạch Long Vĩ, cũng cũng không có cách nào dựa vào đường đứt đoạn để xác định sự quy thuộc của đảo Bạch Long Vĩ. Ngược lại, trong bản đồ Việt Nam hoặc Đông Nam Á do Dân quốc hoặc Đài Loan xuất bản, thì thường vẽ có đảo Bạch Long Vĩ, nhưng đều không vẽ đường đứt đoạn. Cho nên không thể có được giải đáp chính xác cho vấn đề này. Có một điểm đáng chú ý: trên bản đồ xuất bản trong thập niên 1920, đảo này được ghi nhãn là đảo Dạ Oanh; trên bản đồ sau chiến tranh, đảo này được ghi nhãn là đảo Bạch Long Vĩ. Điều này có thể giải thích được phần nào từ lập trường của Dân quốc tiếp tục công nhận đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam. </span></span></p><span style="font-size: large;"><br /><span style="border: none; display: inline-block; height: 435px; overflow: hidden; width: 517px;"><img height="472.99999999999994" src="https://lh6.googleusercontent.com/8OnuRPZYAoWUNPS4wgDFgygFoG8RgmInAgDBVG9zLdznwt_pZMNPe0_Toto24VuNqG14NQyuq824UZFPBesRjIM--wrd1HogCf7UFY9KIGyBLMw4DnvG_JbiqqwmlIzFtNTAaNXBAsqd5qRkPa1k4AxD3EtwL8pwfmeAYw6FXwtiSkM0U37uGob8ag" style="margin-left: 0px; margin-top: -15px;" width="517" /></span></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình minh họa 8</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1950, sau khi Quốc Dân đảng thất bại ở Đại lục, có số ít quân lính (hơn 40 người) rút ra đảo Bạch Long Vĩ, nhưng đảo Bạch Long Vĩ vẫn nằm dưới sự kiểm soát hữu hiệu của quân Pháp. Năm 1954, hai bên Pháp và Việt đạt được “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp định Geneva</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, trong đó quy định bắc vĩ tuyến 17 thuộc Bắc Việt, đảo Bạch Long Vĩ vì vậy cũng phải thuộc Bắc Việt. Tháng 8 cùng năm, quân Pháp rút khỏi đảo Bạch Long Vĩ, cùng rút đi còn có 71 hộ cư dân người Việt trên đảo, gồm 269 người; tàn dư quân đội Quốc Dân đảng và 64 hộ người Hoa trên đảo, gồm 249 người tiếp tục ở lại trên đảo.[32]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vì vậy, những người còn lại trên đảo, như Lí Đức Triều nói, đều là ngư dân từ Trung Quốc đến, do tàn quân Quốc Dân đảng kiểm soát. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Thực ra, ngay từ năm 1953, thậm chí trước khi Trung Quốc chiếm đảo Bạch Long Vĩ, Bắc Kinh đã bỏ đi hai đoạn ở vịnh Bắc Bộ khỏi đường 11 đoạn, đường 11 đoạn trở thành đường 9 đoạn. Các tài liệu lưu trữ về sự kiện này cũng không hề được công khai, nhưng hầu như có thể khẳng định rằng việc bỏ đi hai đoạn này khi đó có liên quan đến thái độ của Bắc Việt đối với vịnh Bắc Bộ và đảo Bạch Long Vĩ. Có thể Bắc Việt cho rằng hai đoạn này mâu thuẫn với đường phân giới năm 1887: ngay cả ở gần bờ, đoạn thứ nhất của đường 11 đoạn rõ ràng cũng đã vượt quá đường phân giới năm 1887 xâm lấn vào phía Việt Nam. Cũng có thể phía Bắc Việt cho rằng đường 11 đoạn thấy có vẻ đã phân đảo Bạch Long Vĩ vào lãnh thổ Trung Quốc. Do đó, có thể theo yêu cầu của Bắc Việt, để dàn xếp ổn thỏa, chú ý toàn cục, thực sự cầu thị, Trung Quốc đã bỏ đi hai đoạn này.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Tháng 7-1955, Quân Giải phóng phát động cuộc tấn công đảo Bạch Long Vĩ, đã “giải phóng” đảo Bạch Long Vĩ, thành lập đơn vị hành chính cấp khu ở trên đảo – biện sự xứ (trụ sở hành chính) Phù Thủy Châu thuộc chính quyền nhân dân huyện Đàm, cũng lập các cơ quan như Ủy ban công tác đảng Phù Thủy Châu thuộc huyện ủy huyện Đàm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và đại đội phòng thủ Phù Thủy Châu của quân trú đóng thuộc phân khu quân đội Hải Nam của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc thiết lập sự kiểm soát ở đảo Bạch Long Vĩ. Xét từ việc Trung Quốc đặt tên có quy củ như thế này, có vẻ hành động này khó thể được xem là hành động tiếp quản thay theo yêu cầu của Bắc Việt. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vậy tại sao Trung Quốc lại chuyển giao đảo Bạch Long Vĩ cho Việt Nam chứ? Không thể trả lời dứt khoát khi hồ sơ lưu trữ chưa được công khai. Người viết ước đoán có hai lí do. Thứ nhất, có chứng cứ Việt Nam đã thực sự kiểm soát đảo này, và chính phủ Dân quốc cũng đã xác nhận điều đó, vì vậy Trung Quốc không có cách nào từ chối yêu cầu của Bắc Việt. Đây có thể là lí do khiến các quan chức không muốn công khai tư liệu: vì mặc dù chứng cứ của Việt Nam rất đầy đủ, nhưng Trung Quốc rốt cuộc đã kiểm soát thực tế đảo này và thành lập cơ quan hành chính, người trên đảo khi đó đều là người Trung Quốc; giao cho Việt Nam khó tránh khỏi bị chỉ trích. Trên thực tế, người trong cuộc cũng khó hiểu về việc này, ví dụ Mã Bạch Sơn, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu Hải Nam, đại diện toàn quyền công tác chuyển giao khi đó cũng cho rằng mình đã làm một việc sai lầm lớn.[33]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Thứ hai, khi đó có thể cũng có nguyên nhân về việc chi viện cho Bắc Việt, đảo Bạch Long Vĩ sau đó trở thành nơi xây dựng trạm ra đa và trạm trung chuyển tồn trữ vật tư của Bắc Việt. Nhưng sau này nhìn lại thấy rằng từ góc độ có lợi cho chiến tranh, việc cứ để đảo này trong tay Trung Quốc có tác dụng nhiều hơn là giao đảo lại cho Bắc Việt. Vì Mĩ không muốn mở rộng chiến tranh, kiêng dè việc ném bom vào lãnh thổ Trung Quốc. Trong thời chiến, đảo Bạch Long Vĩ bị Mĩ ném bom, hầu hết mọi người rời khỏi đảo. Nhưng mặt khác, nếu như đảo Bạch Long Vĩ luôn được “nương nhờ” dưới danh nghĩa Trung Quốc thì Việt Nam sẽ không dễ dàng lấy lại đảo Bạch Long Vĩ sau này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Bắc kinh lúc đầu có lẽ do thấy trên đảo chỉ có người Trung Quốc cũng như quân đội Quốc Dân đảng đồn trú, nên không muốn đảo này thuộc về Việt Nam, cũng có thể lúc đó Trung Quốc có tâm lí cầu may, cứ chiếm lấy đảo trước rồi tính sau. Tóm lại, cho đến năm 1955, Trung Quốc không hề từ bỏ ý định chiếm lấy đảo Bạch Long Vĩ, hi vọng cuối cùng rồi sẽ có được đảo Bạch Long Vĩ thông qua chiếm đóng thực tế. Nhưng Bắc Việt sau đó đã tiến hành thương lượng, và Trung Quốc cũng đã giao nó lại cho Bắc Việt vào năm 1957. Hiện nay lưu truyền các kiểu lí do giải thích vì sao giao lại cho Bắc Việt, rất có thể đây chỉ là việc tìm một lối thoát chấp nhận được để giữ thể diện cho cả hai bên. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Sau đó, Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã đánh bại Mĩ và Việt Nam Cộng hòa, Nam và Bắc Việt Nam hợp nhất trở thành nước Việt Nam mới thống nhất. Tuy nhiên, do tranh chấp Tây Sa và Nam Sa cũng như các nguyên nhân quan trọng khác, Trung-Việt quay lưng lại thành thù địch nhau, xung đột vũ trang, sau chiến tranh quy mô lớn lại tiến hành chiến tranh biên giới trong thời gian dài, mãi đến thập niên 1990 mới bắt đầu đàm phán biên giới. </span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">7. Đàm phán phân giới vịnh Bắc Bộ và cái kết cuối cùng của đảo Bạch Long Vĩ </span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thập niên 1990, hai nước Trung-Việt đã mở ra tranh luận kịch liệt về vấn đề phân định biên giới ở vịnh Bắc Bộ. Tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam trong việc phân định biên giới vịnh Bắc Bộ chủ yếu tập trung vào ba vấn đề: Thứ nhất, nhìn nhận và giải quyết “biên giới biển truyền thống” và “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” như thế nào? Thứ hai, xử lí hiệu lực phân định biên giới ở đảo Bạch Long Vĩ như thế nào? Thứ ba, phân chia công bằng tài nguyên nghề cá ở vịnh Bắc Bộ như thế nào? </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía Việt Nam thì cho rằng đường này [đường theo công ước Pháp-Thanh- ND] là dường phân giới cho toàn bộ vùng nước vịnh Bắc Bộ (bao gồm đảo nhỏ) (cách diễn giải 3). Việt Nam thậm chí còn viện dẫn “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”, cho rằng đường này hình thành “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vùng nước lịch sử</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” của hai bên Trung-Việt. Trong “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” công bố vào ngày 12-11-1982 có nêu : </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh này đã được quy định trong Công ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp và nhà Thanh kí ngày 26-6-1887. Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ được công bố sau khi vấn đề cửa vịnh được giải quyết</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.[34]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Để tránh vịnh Bắc Bộ bị Việt Nam chiếm phần lớn từ đường phân định biên giới, Trung Quốc kiên trì cho rằng đường phân giới chỉ là đường phân định ranh giới về chủ quyền các đảo nhỏ ven bờ, không thể coi là đường phân giới đối với toàn bộ vùng nước vịnh Bắc Bộ, thậm chí cũng không thể coi là phân định ranh giới cho sự quy thuộc tất cả các đảo trong vịnh Bắc Bộ (cách diễn giải 1). Ngày 28-11-1982, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố về công bố trên của Việt Nam: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 12-11-1982, chính phủ Việt Nam trong “Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam”, trong đó có tuyên bố không có căn cứ rằng hiệp định biên giới Trung-Pháp năm 1887 đã “quy định” đường biên giới trên biển ở vịnh Bắc Bộ...... Cần phải chỉ ra là, hiệp định biên giới Trung-Việt mà Trung Quốc và Pháp kí năm 1887 căn bản không phân định ranh giới vùng biển vịnh Bắc Bộ. Vì vậy ở vùng biển vịnh Bắc Bộ xưa nay không tồn tại biên giới trên biển nào.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”[35]</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Lí lẽ của chuyên gia Trung Quốc là: </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp ước này chỉ quy định sẽ cùng phân định ranh giới ở nơi giáp giới giữa Trung Quốc với Bắc Kì, chứ không có chữ nào nhắc đến phân định ranh giới vùng biển của vịnh Bắc Bộ, do đó trong quá trình phân định ranh giới, đại thần phân định ranh giới của hai nước căn bản không có ý đồ phân định ranh giới vùng biển nào, càng không nói tới việc định ra phương án phân định ranh giới vùng biển nào. Ngay cả “Trung Pháp giới vụ chuyên điều” (Công ước Pháp Thanh) năm 1887 hoặc “Bản đồ đính kèm hiệp ước biên giới Quảng Đông Việt Nam Trung Pháp” năm 1954 hình thành sau khi khảo sát biên giới, cũng chỉ là nhắc đến “đường đỏ” đi qua Trà Cổ, cho biết các đảo trên biển phía Đông đường này thuộc Trung Quốc, núi Cửu Đầu và các đảo nhỏ trên biển ở phía Tây thuộc Việt Nam, căn bản không đề cập đến việc phân định ranh giới vùng biển vịnh Bắc Bộ. Vì vậy có thể nói, đường đỏ trong Công ước Pháp Thanh ngày 26-6-1887 chỉ là đường quy thuộc của các đảo trên biển gần Móng Cái, chứ không</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phải đường biên giới của vịnh Bắc Bộ. Ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, hai nước Trung-Việt chưa hề phân định đường biên giới.</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[36]</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Ý kiến của Bắc Kinh và phía Việt Nam đều có phần đúng đắn. Điều này chủ yếu dựa trên sự mơ hồ về phạm vi của "biển" của "các đảo trên biển" được đề cập trong hiệp ước. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu tỉ mỉ, từ quá trình đàm phán thấy rằng trên thực tế Trung Quốc và Pháp đã xác định rõ phạm vi của “biển” là để chỉ toàn bộ vịnh Bắc Bộ. Theo công hàm trả lời của Dillon, đại biểu phía Pháp, gửi cho Đặng Thừa Tu, đại biểu phía Trung Quốc ngày 11-4-1887 : </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới đây là nội dung cốt lõi trong Hiệp định khảo sát biên giới bằng lời của Ủy ban vấn đề biên giới hai nước về các quần đảo này: Ủy ban vấn đề biên giới hai nước nhất trí cho rằng: phàm những đảo nằm trong vịnh Bắc Bộ do Paris nắm giữ, và ở về phía Tây kinh tuyến (Trung Quốc gọi là đường Bắc Nam) 105°43’ đi qua mũi Đông đảo Trà Cổ, đều thuộc về Việt Nam. Ủy viên Vấn đề biên giới Trung Quốc yêu cầu, các đảo nằm ở về phía Đông kinh tuyến này (đường Bắc Nam) thuộc về Trung Quốc. Ủy ban Vấn đề biên giới Pháp tuyên bố, do công tác khảo sát Giang Bình và những địa điểm khác chưa hoàn thành nên vấn đề này sẽ do Công sứ và Thủ tướng nước Cộng hòa Pháp thương lượng giải quyết tại Bắc Kinh, đây cũng là nội dung đã được thương thuyết và nhất trí với Ủy ban Vấn đề biên giới Trung Quốc. Xin đặc biệt ghi lại tại đây</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.[3</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Do đó, việc phân giới toàn bộ đảo vịnh Bắc Bộ bằng đường phân giới này là một thỏa thuận đã đạt được. Cho nên, lập luận rằng đường này là đường quy thuộc cho toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc Bộ (tức cách diễn giải 2) là phù hợp với thực tế nhất. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có thể tin rằng, trong đàm phán Trung-Pháp, đảo Bạch Long Vĩ hoàn toàn không có trong suy nghĩ của hai bên. Nhưng từ toàn bộ quá trình thấy rằng theo quy định trong hiệp ước thì kết quả thực tế là đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam. Điều này đối với Việt Nam là một niềm vui ngoài ý muốn. Bất luận như thế nào, Trung Quốc và Việt Nam đã kí “</span><span style="font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc</span><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">” cuối năm 2000, đạt được thỏa thuận phân định biên giới vịnh Bắc Bộ, trên thực tế cũng đã dựa theo cách diễn giải thứ hai, chiết trung hơn: thừa nhận đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam đồng thời cũng khiến Việt Nam từ bỏ lập trường lấy đường phân giới làm ranh giới biển cho toàn bộ vùng nước vịnh Bắc Bộ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Đối với Trung Quốc thì lại càng có lợi vì Việt Nam còn đồng ý giảm bớt hiệu lực đảo Bạch Long Vĩ trong phân giới vùng nước. Theo “Công ước”, đảo Bạch Long Vĩ là một đảo có thể duy trì cuộc sống của con người (luôn có người trên đảo), nên ngoài có lãnh hải và vùng tiếp giáp ra, nó còn có thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế lên đến 200 hải lí. Nhưng trong hiệp định, vùng đặc quyền kinh tế của đảo Bạch Long Vĩ chỉ có 3 hải lí. So với đường phân giới năm 1887, đường phân giới vùng đặc quyền kinh tế hai bên cuối cùng đạt được, ở phía Bắc phình ra một chút về phía Trung Quốc, khu vực ở phía Nam phình ra phía Việt Nam lớn hơn, Trung Quốc được lợi với diện tích lớn hơn. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vậy Trung Quốc đã công nhận đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam chưa? Thực tế là trong hiệp định không có quy định rõ ràng, từ lập trường ban đầu của chính phủ Trung Quốc đối với đường phân giới năm 1887 thấy rằng có vẻ đảo Bạch Long Vĩ không được họ công nhận thuộc Việt Nam. Nhưng trên thực tế, chủ quyền của Việt Nam đối với đảo Bạch Long Vĩ không chỉ đơn thuần bắt nguồn từ đường phân giới năm 1887, mà quan trọng hơn là chính phủ Dân quốc xác nhận rằng đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam, cũng như thực tiễn chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam thuộc Pháp trong khoảng thời gian 1942-1954, và việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với đảo Bạch Long Vĩ sau năm 1957. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vì vậy, chứng cứ cho thấy đảo Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam là rất chắc chắn về mặt luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ công khai và chính thức tuyên bố chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ. Từ hiệp định năm 2000 cũng có thể rút ra kết luận chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam: trong phân định biên giới đảo Bạch Long Vĩ thuộc phía Việt Nam. Nếu đảo Bạch Long Vĩ thuộc Trung Quốc thì nó là một “phi địa”, có quyền yêu sách lãnh hải 12 hải lí. Theo “Tuyên bố về lãnh hải” năm 1958 của Trung Quốc: “Chiều rộng lãnh hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lí. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”. Nếu đảo Bạch Long Vĩ là lãnh thổ của Trung Quốc thì 12 hải lí xung quanh nó sẽ tất nhiên là lãnh hải của Trung Quốc, không thể giao cho Việt Nam. Nhưng thực tế trái ngược, nên chỉ có thể lí giải là Trung Quốc xác nhận đảo Bạch Long Vĩ không thuộc nước họ. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Hệ quả khác của đàm phán năm 2000 là Trung Quốc đã xác nhận đường phân giới năm 1887 chỉ là nguyên tắc có hiệu lực với các đảo ven bờ, nên không thể dùng nó làm lí do trả lại Tây Sa và Nam Sa cho Trung Quốc theo cách diễn giải của Dân quốc, nếu không thì sẽ vi phạm nguyên tắc “không được nói ngược”. Hiện nay, chính phủ Trung Quốc đã không coi đây là bằng chứng khẳng định chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa. Tuy nhiên, vẫn có một số “chuyên gia”, không biết nội tình, không đếm xỉa đến lập trường của chính phủ, tiếp tục dùng đường phân giới này làm chứng cứ pháp lí đối với Tây Sa và Nam Sa để viết đường hoàng trong chuyên khảo, thật đáng tiếc. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;"><br /></span></span></p><h2 dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 400; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">8. Kết luận</span></span></h2><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Qua một loạt phân tích, manh mối cơ bản về lịch sử đảo Bạch Long Vĩ đã được sáng tỏ. Đảo Bạch Long Vĩ xưa kia là một đảo hoang không người ở. Trong tư liệu lịch sử, nó được người phương Tây ghi chép sớm nhất, và từ thế kỉ XVII đến nay, được đặt tên là đảo Dạ Oanh. Từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX (trước năm 1860), trong cái nhìn phổ biến của phương Tây, đảo này có liên hệ với Việt Nam, được xem là lãnh thổ của Việt Nam, và được gọi theo tên Việt Nam là Bạch Long Vĩ. Từ thời Càn Long nhà Thanh, Việt Nam đã bắt đầu xác lập sự kiểm soát đối với biển Bạch Long Vĩ, và điều đó được nhà Thanh thừa nhận. Tên gọi của đảo Bạch Long Vĩ có thể bắt nguồn từ biển Bạch Long Vĩ, điều này cũng ủng hộ lập luận cho rằng Việt Nam đã có chủ quyền đối với đảo này khi đó. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Sau năm 1860, do Hải quân Việt Nam suy yếu, Việt Nam đánh mất sự kiểm soát đối với các đảo xa. Đảo Bạch Long Vĩ thời kì này trở thành chỗ chân không về quyền lực, khiến cho mức độ hoạt động của người Trung Quốc trên đảo này vượt qua người Việt Nam. Nhưng cho đến trước năm 1920, do chưa có nguồn nước ngọt nên không có dân số cố định trên đảo. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Trong Công ước Pháp-Thanh năm 1887, đảo Bạch Long Vĩ được phân cho Pháp, nhưng có thể hai bên đều không có ý thức đến điều này vào lúc đó. Nước Pháp trong một thời gian rất dài không có ý định chủ quyền đối với đảo Bạch Long Vĩ. Đảo Bạch Long Vĩ dần trở thành khu vực hoạt động của người Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc cũng thiếu ý định chủ quyền. Ngoài việc bắt buôn lậu và tuần tra mang tính ngẫu nhiên ra, hai bên đều không thể hiện ý đồ chiếm cứ đảo này. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Vào khoảng năm 1920 sau khi phát hiện ra nước ngọt trên đảo, số người đến định cư trên đảo Bạch Long Vĩ bắt đầu tăng lên, người Pháp liền thay đổi thái độ trước đây. Bắt đầu từ năm 1921 với việc phái người đến điều tra, Pháp đã thể hiện và củng cố chủ quyền của mình đối với đảo này thông qua nhiều hình thức khác nhau, còn Dân quốc vẫn không có ý thức chủ quyền đối với đảo này. Thập niên 1930, sau khi Trung Quốc và Pháp bắt đầu tranh chấp Tây Sa, để làm mạnh thêm căn cứ pháp lí cho Tây Sa, chính phủ Dân quốc chủ trương rằng đường phân giới 1887 là thích đáng để áp dụng cho tất cả các đảo tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam, tương đương với thừa nhận đảo Bạch Long Vĩ là một bộ phận của Việt Nam. Năm 1937 Pháp đóng quân trên đảo, củng cố thêm một bước sự kiểm soát. Năm 1944, Nhật Bản xâm chiếm đảo Bạch Long Vĩ. Sau khi Thế chiến II kết thúc, năm 1946 Pháp quay lại đảo Bạch Long Vĩ, cho đến khi rút khỏi đảo này năm vào 1954 theo Hiệp định Geneva. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Từ năm 1920 đến năm 1954, ngoài thời gian ngắn bị Nhật Bản xâm lược ra, chủ quyền của nước Pháp đối với đảo Bạch Long Vĩ là rất toàn vẹn: có cả ý đồ chủ quyền lẫn có sự quản lí hữu hiệu (đóng quân và hình thành chính quyền địa phương), lại còn được Trung Quốc công nhận. Do đó, khi quân Pháp rút khỏi đảo Bạch Long Vĩ vào năm 1954, nơi đây đã là lãnh của thổ Việt Nam. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Sau khi quân Pháp rút lui, tàn dư của Quốc dân đảng [TQ] nắm quyền kiểm soát đảo Bạch Long Vĩ trong một thời gian ngắn, rồi Bắc Kinh chiếm đảo vào năm 1955. Năm 1957, Trung Quốc trao đảo Bạch Long Vĩ lại cho Bắc Việt Nam. Từ năm 1954 đến năm 1957, hiện thời không có nhiều tư liệu để biết có chuyện gì đã xảy ra. Tuy nhiên, theo những phân tích ở trên, việc Trung Quốc giao đảo Bạch Long Vĩ cho miền Bắc Việt Nam, cần được hiểu theo nghĩa là “trả lại”, chứ không phải “bán nước”, vì nó vốn là lãnh thổ của Việt Nam. Cùng lí do đó, dù miền Bắc theo lí cần biểu thị lòng cảm tạ đối với việc Trung Quốc trả lại đảo, nhưng điều này không được xem là phải “đền đáp công ơn”. Năm 2000 Trung-Việt giải quyết phân định biên giới vịnh Bắc Bộ cũng đã giải quyết suôn sẻ vấn đề quy thuộc cuối cùng của đảo Bạch Long Vĩ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 8.8421630859375pt; margin-right: 2.463623046875pt; margin-top: 1.91802978515625pt; margin: 1.91803pt 2.46362pt 10pt 8.84216pt; text-align: justify;"><span style="font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;"><u>CHÚ THÍCH:</u></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">[</span><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[1] </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><a href="http://news.sina.com.cn/c/2004-08-05/14403937262.shtml" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://news.sina.com.cn/c/2004-08-05/14403937262.shtml</span></a><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span></p></span><span id="docs-internal-guid-16ba2255-7fff-025d-9887-a9101ed73734"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[2] 同上.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[3] 李德潮《白龍尾島正名》,《海洋世界》一九九六年第九期。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[4] </span><a href="http://view.news.qq.com/z/2012/blwd/index.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://view.news.qq.com/z/2012/blwd/index.htm</span></a><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[5]中國人民解放軍國防大學科研部《我國與鄰國邊界和海洋權益爭議問題資料選編》,一九九二。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[6] 高健軍《中國與國際海洋法》,海洋出版社,二〇〇四,三〇頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[7]《北部灣劃界可作借鑒白龍尾島劃歸越南》,</span><a href="http://big5.xinhuanet.com/gate/big5/news.xinhuanet.corn/herald/2004-08/05/content_1717827.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://big5.xinhuanet.com/gate/big5/news.xinhuanet.corn/herald/2004-08/05/content_1717827.htm</span></a><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[8] 《南海! 南海! 》,一九九頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[9] Indo Weekly,Saigon,06/29/1944.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[10] </span><a href="http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid+c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid+c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content</span></a><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[11] </span><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The China Sea Directory,Vol. II,Second Edition,1879,p.381.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[12] 周去非著,楊武泉校注,《嶺外代答校注》,北京,中華書局,一九九九,三五頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[13] 雲南歷史研究所,《清實錄:越南緬甸泰國老撾史料摘抄》,昆明,雲南人民出版社,五二頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[14] 同上,三〇〇页。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[15] 同上,三〇三頁,「經副將李元,遊擊李鳳儀等率帶兵船,駛赴夷洋交界白龍尾」。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[16] 黃錚,蕭德浩《中越邊界歷史資料選編》下,社會科學文獻出版社,一九九三年,六八〇頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[17] 嚴如煜︽洋防輯要》,臺北,臺灣學生書局,一九七五年,第三冊,一〇四〇-一〇四一頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[18] Indo Weekly, Saigon. 06/29/1944</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[19] 廖廷臣等《廣東輿地圖說》,宣統元年重印本(一九〇八),中國方志叢書一〇七,臺北,成文出版社影印,一九六七,八頁。 其實在 中法一八八七年劃界中,這些地方已經重新確定屬越南,但地圖編撰可能有滯後。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[20] 王鐵崖編:《中外舊約章彙編》第一冊,三聯書店一九八二年版,第五一三頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[21] 法文爲: Au Kouang - tong,il est entendu que les points contestés qui sont situés à l'est et au nord-est de Monkaï, au delà de la frontière telle qu'elle a été fixée par la commission de délimitation, sont attribués à la Chine. Les les qui sont à l'est du méridien de Paris 105°43'de longitude est, c'est-à-dire de la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l'le de Tch'a -kou ou Ouan- chan (tra - co) et formant la frontière sont également attribuées à la Chine. Les îles Go-tho et les autres îles qui sont à l'ouest de ce méridien appartiennent à l'Annam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[22] 此描述見沈固朝《關於北部灣的歷史性水域》,中國邊疆史地研究,二〇〇〇,第十卷,第四期,四四五九頁, </span><a href="http://222.240.219.68:8080/files/files_upload/content/material_193/content/T/T9/%E5%85%B3%E4%BA%8E%E5%8C%97%E9%83%A8%E6%B9%BE%E7%9A%84%E5%8E%86%E5%8F%B2%E6%80%A7%E6%B0%B4%E5%9F%9F_.pdf" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://222.240.219.68:8080/files/files_upload/content/material_193/content/T/T9/%E5%85%B3%E4%BA%8E%E5%8C%97%E9%83%A8%E6%B9%BE%E7%9A%84%E5%8E%86%E5%8F%B2%E6%80%A7%E6%B0%B4%E5%9F%9F_.pdf</span></a><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> . </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[23] Indo Weekly, Saigon. 06/29/1944.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[24] 《瓊海關檔案英文類》,廣東省檔案館藏,第六七八號,一七八——一八四頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[25] Indo Weekly. Saigon, 06/29/1944.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[26] 武猛《浮水洲岛的來龍去脈》</span><a href="http://zugaozha.blog.163.com/blog/static/13014161820125146626846/" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://zugaozha.blog.163.com/blog/static/13014161820125146626846/</span></a><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,最後瀏覽二〇一五年八月。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[27] 陳天賜《西沙岛成案彙編》,三四——三五頁。 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[28] 同上。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[29]《西沙島成案彙編》,六四頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[30] Annex 14, SOPSI, p.199.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[31] 武猛《浮水洲島的來龍去脈》。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[32] 李德潮《白龍尾島正名》,《海洋世界》一九九六年第九期。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[33] 馬正大《海角尋古今》,新疆人民出版社,二1000.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[34] 《法律條約彙編》,二四七——二四八頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[35] 《人民日報》,一九八二月十一月二十九日,見《大事記》,九四頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[36] 李金明《中法勘界鬥爭與北部灣海域劃界》,《南洋問題研究》二〇〇〇年第二期。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[37]黄錚、蕭德浩《中越邊界歷史資料選編》下,社會科學文獻出版社,一九九三年,一一四六頁。</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">____________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem thêm:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương I:</span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/tranh-chap-ao-ong-sa-giua-trung-quoc-va.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp Đông Sa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là màn dạo đầu của Tranh chấp biển Đông </span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương II: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/05/mo-au-cuoc-tranh-chap-hoang-sa-va_5.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mở đầu cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa (1909-1936)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương III: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/03/chuong-iii-bien-ong-truoc-va-sau-chien.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biển Đông trước và sau thế chiến thứ hai (1937-1952)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương IV: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/04/chuong-iv-cuoc-chien-tranh-gianh-cac-ao.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc chiến tranh giành các đảo ở biển Đông (1953-1989)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương V: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/thoi-ky-xung-ot-thap-1990-2008-le-oa.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì xung đột thấp (1990-2008)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương VI: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2023/02/tranh-chap-ve-quyen-luc-tren-bien-2009_26.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tranh chấp về quyền lực trên biển (2009-2015)</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phụ lục I: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/tinh-trang-phap-ly-cua-uong-9-oan.html" style="text-decoration: none;"><span style="background-color: transparent; color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration-skip-ink: none; text-decoration: underline; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tình trạng pháp lí của đường 9 đoạn</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-63ffb5b0-7fff-5cf3-82e7-1e8870e931b1"><span style="font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Phụ lục 2: </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2022/10/van-e-ao-bach-long-vi.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-alternates: normal; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;">Vấn đề đảo Bạch Long Vĩ</span></a></span></span></p><div><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span></span><span><div><span style="font-family: Times, serif; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-24585405258878829112022-07-09T00:16:00.001-07:002022-07-10T02:48:32.308-07:00Lạm bàn về 2 từ "khai màn' và 'cưỡng hôn'<p><span style="font-family: verdana;"> <span style="font-size: 16pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">Vì sao không chấp nhận các từ kiểu như 'khai màn' hay 'cưỡng hôn' ?</span></span></p><span id="docs-internal-guid-25a60273-7fff-c196-4d90-968d2014d46a"><span style="font-family: verdana;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực tế cho thấy sắc dân nào cũng có sống cộng cư và giao lưu với các sắc dân khác. Theo đó hôn nhân dị chủng, dù không phổ biến vẫn tất yếu xảy ra. Và trong điều kiện đó ngôn ngữ cũng vậy, do nhu cầu giao tiếp thuận lợi cũng có ít nhiều pha trộn nhất định, nhất là ngôn ngữ của sắc dân thiểu số hay các cộng đồng di dân. Dù không được khuyến khích và có thể có ngăn cản/cấm đoán từ gia đình, nhưng hôn nhân dị chủng vẫn là một tồn tại thực tế, nhất là những trường hợp lấy nhau vì tình thì không có điều gì cấm cản được. Ngôn ngữ lai tạp cũng vậy vẫn tồn tại trên thực tế. Như vậy, điều có tính quy luật là bất cứ ngôn ngữ nào cũng có hiện tượng pha tạp chớ ko phải ngược lại. Tuy nhiên, do số trường hợp pha tạp </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở cấp độ từ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> hiển nhiên là khá nhỏ bé so với trường hợp đồng chủng nên tồn tại một ngộ nhận rằng trong tiếng Việt (TV) từ kép phải được tạo thành từ các từ đơn ‘đồng chủng’.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để ý thêm rằng trên thực tế, giống các trường hợp hôn nhân dị chủng thường bị tâm lí chung của XH dị ứng, ngôn ngữ pha tạp cũng thường bị số đông không hoan nghênh như thấy trong câu tục ngữ 'chửi cha không bằng pha tiếng'. Dĩ nhiên,đối các trường hợp pha tạp ở </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cấp độ câu trở lên</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đặc biệt giữa từ Hán Việt (HV) và từ ‘thuần Việt’ (tV) thì không có vấn đề gì, giống như việc người Việt gốc Hoa sống lẫn với người Việt trong khắp hang cùng ngõ hẻm đã trở thành bình thường, gần như không còn có việc kì thị. <span id="docs-internal-guid-7c9971b9-7fff-8cbb-eb21-52589c36c335"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> Còn pha trộn với các từ thuần ngoại khác nói chung vẫn được chấp nhận trong văn nói [hoặc thậm chí cũng được châm chước trong văn viết loại không trang trọng] vì lí do thực dụng, đặc biệt là trong cộng đồng di dân</span></span>. Tuy nhiên, pha tạp ở </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cấp độ từ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thì thường bị xét nét, săm soi, đặc biệt là đối với các trường hợp mới. Còn các trường hợp cũ ổn thoả thì được xem như bình thường, giống như người ta đối xử bình thường hay gần như bình thường với các cặp vợ chồng dị chủng đã có.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chẳng hạn, khi nói / viết mấy ai để ý, khó chịu và loại bỏ không dùng các từ có cấu tạo 'dị chủng' đã có từ lâu như: t</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hầy giáo, học trò, giảng dạy, khai mỏ, quân lính, quân giặc</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... (từ HV + từ tV hay ngược lại), </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ghe bầu</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mình ên</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... (từ tV + từ gốc Khmer) , </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xe buýt</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (từ tV + từ gốc Pháp), </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vi phim</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (từ HV + từ gốc Pháp), </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phí Euclid</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (từ HV + từ tiếng Anh)....</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, đối với các trường hợp mới hay tương đối mới thì thường có ý kiến phản đối, ví dụ như </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vi sóng, siêu xe, siêu sao</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">¹... Các từ này bị phản đối vì cấu tạo 'dị chủng' (từ HV + từ tV) và có thể còn vì cấu trúc 'phụ trước - chính sau' (ngược với cấu trúc quen thuộc 'chính trước - phụ sau' trong tiếng Việt) nữa. Tuy nhiên như đã phân tích, cấu tạo 'dị chủng' không hề bị cấm đoán trong TV như có thể thấy qua ví dụ vừa nêu, còn cấu trúc 'phụ trước - chính sau' cũng đã có trong từ vựng tiếng Việt, ít ra trong từ 'học trò' vừa nêu và một số từ khác. Ngoài ra, các từ HV </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vi, siêu,</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... cũng thông dụng, nên các từ mới nói trên dễ hiểu và cũng không quá thô kệch so với các từ có cấu tạo 'đồng chủng' nhưng hơi khó hiểu đối với đại chúng là </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vi ba, siêu sa, siêu [minh] tinh</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">²... đã có lúc dùng hay được đề nghị dùng. Có lẽ vì thế mà các từ nói trên hiện nay có vẻ đã được chấp nhận rộng rãi.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng để ý thêm rằng bên cạnh xu hướng đối xử bình thường với các từ 'dị chủng' cũ cũng có các trường hợp từ 'dị chủng' mới được đối xử gần như ngang bằng với từ đồng chủng, thậm chí được chuộng hơn. Chẳng hạn, bên cạnh các từ HV </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cực đại, cực tiểu</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">… dùng như thuật ngữ Toán, còn các từ </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cực lớn, cực nhỏ</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">... được dùng theo nghĩa rất lớn, rất nhỏ trong các trường hợp khác. Còn các từ HV như </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cực ngắn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">siêu</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mỏng, siêu dày…</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có lẽ được chuộng hơn </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cực đoản, siêu bạc, siêu hậu…</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vì từ TV </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đoản </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thường được hiểu theo nghĩa bóng chỉ một nét yếu kém trong nhân cách,còn hai từ HV </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bạc, hậu </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thường được hiểu theo nghĩa khác hơn là nghĩa là mỏng, dày vốn hiếm khi gặp trong thực tế sử dụng TV, và do đó không truyền tải được nghĩa muốn nói.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bây giờ đi vào từ ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khai màn’</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">³. Từ này có cấu tạo pha tạp gồm từ HV + từ tV và cấu tạo này vẫn tồn tại trong TV không có vấn đề như đã phân tích ở trên. Nghĩa của hai từ đều thông dụng và nghĩa kết hợp của hai từ là có thể đoán được. Tuy nhiên, trong TV đã có hai từ HV ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khai mạc</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ (</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khai</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> = mở, </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mạc</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> = màn), và từ tV ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở màn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ chỉ cùng khái niệm, khá thanh lịch và không có vấn đề gì trong sử dụng. Từ ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khai mạc</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ được dùng theo nghĩa [tượng trưng] cho việc mở đầu một sự kiện dù sự kiện đó có treo màn hay không. Còn từ ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mở màn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ có thể dùng thường cho sự kiện có treo màn. Do đó, không giống từ ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mình ên</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ dù đồng nghĩa với ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một mình</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ nhưng khi nói ra tạo được một sắc thái‘ đặc biệt riêng của vùng Nam bộ, còn từ mới ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khai màn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ là thừa thãi, không cần thiết, giống như gắn thêm bánh xe thứ ba cho môt cổ xe ngựa, chỉ gây thêm vướng víu, không có lợi ích gì cụ thể. Chính vì vậy mà có vẻ từ mới này không được hầu hết mọi người chấp nhận.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ mới ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cưỡng hôn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’⁴ với </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hôn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> theo nghĩa trong hôn hít cũng vậy, không có vấn đề về cấu trúc nhưng lại có vấn đề về ngữ nghĩa. Có vẻ vốn từ TV của tác giả không đủ phong phú nên không biết rằng trong TV đã có từ ghép HV ‘</span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cưỡng hôn</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ có nghĩa là ‘ép dựng vợ / gã chồng’. Đành rằng trong TV và cả trong các thứ tiếng khác vẫn tồn tại các từ đồng âm khác nghĩa, tuy nhiên khi tạo ra từ mới cần tra cứu để tránh hiện tượng đồng âm vốn có tiềm năng gây hiểu lầm trong diễn đạt. Có vẻ tác giả của từ ‘mới’ này muốn thu gọn cách diễn đạt nhưng lại vướng vào tình trạng từ đồng âm khiến người đọc hiểu nhầm, không đạt được mục đích truyền tải. Chính vì vậy, từ ‘mới’ này khó được mọi người chấp nhận.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thực tế luôn phát triển luôn đòi hỏi ngôn ngữ phải có những cách diễn đạt mới hiệu quả hơn, có sắc thái hơn hay phải có những từ mới để chỉ những khái niệm mới nẩy sinh. Nguồn từ đơn để tạo ra từ mới có thể lấy từ bất kì nguồn nào, nhưng để được chấp nhận cần đảm bảo sự kết hợp hai từ hài hòa, dễ hiểu đối với đa số theo các nhận xét trên, đặc biệt cố gắng tránh lặp lại lỗi lầm trong hai trường hợp vừa nêu, tức là tránh tạo 'bánh xe thứ ba', né từ đồng âm. </span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">¹ </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các từ tương ứng trong tiếng Anh là </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">microwave, super car, super star</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cũng có cấu tạo ‘dị chủng’ với </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">micro</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có gốc Hi Lap, </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">super</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có gốc Latin, còn </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wave, car, star</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là từ 'thuần Anh'.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">² </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các từ HV </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ba</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (= sóng), </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xa</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (= xe), </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tinh</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (= sao)... ít thông dụng trong TV, hơn nữa từ </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tinh</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lại có từ đồng âm như trong </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yêu tinh </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nên cần thêm từ bổ nghĩa, như </span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minh </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chẳng hạn, trở thành rườm rà.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">³ </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban tổ chức Festival Huế 2022 sử dụng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">⁴ </span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phóng viên Infonet dùng trong bài báo '</span><span style="font-size: 9pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chủ tịch MTTQ xã bị đình chỉ công tác để làm rõ hành vi cưỡng hôn nữ sinh</span><span style="font-size: 9pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' ngày 4/7/2022.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><br /></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-86556184246683411222022-03-30T08:01:00.004-07:002022-03-30T08:52:07.872-07:00Giải pháp thực tế cho tranh chấp biển Đông<p><span style="font-family: verdana;"> <span style="font-size: 26pt; white-space: pre-wrap;">Đây có thể là cách để giải quyết các tranh chấp ở biển Đông</span></span></p><span id="docs-internal-guid-34cb547f-7fff-1ccc-918f-ba28663e945a"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Bill Hayton</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><a href="https://www.thinkchina.sg/might-be-way-solve-south-china-sea-disputes" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.thinkchina.sg/might-be-way-solve-south-china-sea-disputes</span></a><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Biết rằng bằng chứng lịch sử về các hành động quản lí thực tế trên các đảo đá và rạn san hô đang tranh chấp cho thấy rằng, với một số ngoại lệ quan trọng, các bên chiếm đóng hiện tại ở mỗi thể địa lí có yêu sách tốt nhất về chủ quyền đối với nó, các quốc gia Đông Nam Á có lợi ích trong việc công nhận sự chiếm đóng trên thực tế của nhau đối với các thể địa lí cụ thể và sau đó thể hiện một lập trường thống nhất đối với Trung Quốc. Ngay sau đó, các tổ chức phi chính phủ có thể đóng một vai trò hữu ích bằng cách thành lập "tòa lối hai" (track two tribunal) để thu thập các mẫu bằng chứng đối địch, kiểm tra lập luận pháp lí của các bên tranh chấp và trình bày các kết quả có khả năng cho bất kì phiên tòa quốc tế nào trong tương lai.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; padding: 0pt 0pt 23pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="background-color: transparent; color: #3c3c3c; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 416px; overflow: hidden; width: 624px;"><img alt="A Philippine flag flutters from BRP Sierra Madre, a dilapidated Philippine Navy ship that has been aground since 1999 and became a Philippine military detachment on the disputed Second Thomas Shoal, part of the Spratly Islands, in the South China Sea, 29 March 2014. (Erik De Castro/Reuters)" height="416" src="https://lh3.googleusercontent.com/viLr_sQcg5XGMO4pIddxuq7hdvboMaUfPFwelI9nD1r7BsZ4Tjptro-M7Nph2Jsn904SfouptjGCUB9kjgp44Nx0E62pxYVbMSzTvdVgpcHnMXkrutZLK2bKEXENAmSV8kIikC9f" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span><span style="background-color: transparent; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một lá Cờ Philippines phất phới trên BRP Sierra Madre, một con tàu Hải quân Philippines đổ nát mắc cạn từ năm 1999 và trở thành một đơn vị quân đội Philippines trên bãi cạn Thomas thứ hai, một phần của quần đảo Trường Sa, ở biển Đông, ngày 29 tháng 3 năm 2014. ( Erik De Castro / Reuters)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Các tranh chấp về các đảo nhỏ ở biển Đông thường được cho là khó giải quyết được. Sáu bên tranh chấp, cụ thể là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH hay Trung Quốc), Trung Hoa Dân quốc (THDQ hoặc Đài Loan), Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam, yêu sách ít nhất một trong các đảo này, và một vài đảo nhỏ được ít nhất 5 bên yêu sách.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Những yêu sách lãnh thổ đối địch này thường được cho là kết quả của lịch sử nhiều thế kỉ, và hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng việc tháo bỏ, đánh giá và cân nhắc bằng chứng cho mỗi yêu sách là chuyên bất khả. Không có ý nào trong điều này là đúng. Bây giờ, chúng ta đã có hiểu biết lịch sử biển Đông đủ để giải quyết các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Vấn đề</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Có hai nhóm đảo tranh chấp chính ở biển Đông: Paracels (Hoàng Sa theo tiếng Việt, Tây Sa theo tiếng Trung Quốc) ở phía bắc và Spratlys (Trường Sa theo tiếng Việt, Nam Sa theo tiếng Trung) ở phía nam. Bãi cạn Scarborough, ở phía đông, chỉ bị tranh chấp giữa Philippines, Trung Quốc và Đài Loan trong khi số phận của Pratas (Đông Sa trong tiếng Trung), ở phía đông bắc, là một câu hỏi nội bộ Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #cb101c; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Bi kịch của biển Đông là các đảo nhỏ đang tranh chấp có kích thước vừa đúng để gây ra rắc rối.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Chẳng hạn, nếu như những đảo này không tồn tại thì sẽ là một vấn đề tương đối đơn giản khi phân chia các vùng biển và tài nguyên của biển Đông theo cách mà các nước châu Âu đã làm ở biển Bắc. Nếu như những đảo lớn hơn, giống như những đảo ở Địa Trung Hải, chúng sẽ có dân cư ổn định có thể tự quyết định chủ quyền của mình trên cơ sở quyền tự quyết. Ví dụ, chúng ta biết rằng quần đảo Natuna thuộc về Indonesia vì những người sống trên đó nói như vậy. Bi kịch của biển Đông là các đảo nhỏ đang tranh chấp có kích thước vừa đúng để gây ra rắc rối.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Vấn đề khác là Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và Philippines yêu sách các nhóm đảo trên cả nhóm chứ không phải là các thể địa lí cụ thể. Trung Quốc khẳng định yêu sách đối với toàn bộ Nanhai Zhudao (Nam Hải chư đảo): mọi thể địa lí bên trong "đường chữ U" được vẽ trên bản đồ biển Đông của Trung Quốc từ năm 1948. Đài Loan tuyên bố chủ quyền đối với từng "nhóm đảo" riêng biệt là Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa. và Trung Sa (Trung Sa thực ra là một nhóm các thể địa lí ngầm cộng với bãi cạn Scarborough). Việt Nam yêu sách Hoàng Sa và Trường Sa trong khi Philippines yêu sách bãi cạn Scarborough và "Nhóm đảo Kalayaan", bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa. Kết quả là, các yêu sách này đang chơi một trò chơi có tổng bằng không. Không thể có thỏa hiệp: hoặc được chủ quyền đối với tất cả thể địa lí trong nhóm đảo hoặc không được gì cả.</span></span></p><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 2.4; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #616161; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 416px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-family: verdana;"><img alt="philippines" height="416" src="https://lh3.googleusercontent.com/rktF5lY408UhJZgtWENHvDI7BtwE2VuRzVhoAWzj9V2dqTGVgEipK3GsMdiDGKHXS9rG-fJWF2QY2h_w3TNxMaelk3OawtZzeNykgrK4JTJZN6Ttdf6tVNdwTni0buB1DY3_RGdA" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Bức ảnh này được chụp vào ngày 29 tháng 3 năm 2014 cho thấy một tàu Hải quân Philippines đã được cho nằm măc cạn từ năm 1999 để khẳng định chủ quyền của quốc gia này đối với bãi Second Thomas (bãi Cỏ Mây), một rạn san hô xa xôi ở biển Đông mà Trung Quốc cũng yêu sách. (Jay Directo / AFP)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Kết quả là Sturm und Drang (Bão tố và Căng thẳng) trong các hành lang quyền lực và trên các đường phố bên ngoài, chi tiêu khổng lồ vào khí tài quân sự và từ chối giải quyết các vấn đề cấp bách nhất ở biển Đông, đặc biệt là sự suy sụp nguồn cá.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Giải pháp</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Rất may, có một giải pháp tiềm năng cho trò chơi có tổng bằng không này, và đó là một giải pháp đã được chứng minh là thành công ở Đông Nam Á: </span><span id="docs-internal-guid-ce73637a-7fff-12ec-38c0-adda77e9a935"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kiên trì</span></span><span style="font-family: verdana;"> trình bày bằng chứng có thể xác minh được cho một tòa án trung lập.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Indonesia và Malaysia đã giải quyết tranh chấp đối với các đảo Ligitan và Sipadan thông qua Tòa án Quốc tế (ICJ) vào năm 2002.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Thích đáng hơn với tranh chấp biển Đông là việc ICJ giải quyết tranh chấp giữa Malaysia và Singapore về ba bãi đá không có người ở ở eo biển Singapore vào năm 2008. ICJ có thể ra phán quyết rằng Pedra Branca thuộc về Singapore trong khi Middle Rocks thuộc về Malaysia. mặc dù cả hai chỉ cách nhau một kilomet. Toà ra phán quyết nghiêng về Singapore đối với Pedra Branca chủ yếu vì Singapore đã thực hiện các hành động quản lí thực tế ở đó, đặc biệt là qua việc xây dựng một đèn biển trên đá này. Các thẩm phán cũng đã xác định một số phận khác cho thể địa lí thứ ba, South Ledge, vì nó ở nằm dưới mặt nước khi triều cao và do đó không phải là 'lãnh thổ'. Toà phán rằng chủ quyền chỉ có thể được giải quyết sau này, một khi hai nước đã đồng ý về ranh giới của các vùng lãnh hải của họ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">ICJ bác bỏ những khẳng định mơ hồ của Malaysia rằng Pedra Branca thuộc về Vương quốc Hồi giáo Johor “từ thời xa xưa” và thay vào đó, họ đã xem xét các bằng chứng ghi chép về việc chiếm đóng và quản lí. Sau đó, toà đã đi đến kết luận dựa trên nguyên tắc pháp lí quốc tế “à titre de souverain” - hỏi xem quốc gia nào có thể chứng minh tốt hơn rằng họ đã thực thi thẩm quyền thực tế đối với thể địa lí đó.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: red; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Với việc loại bỏ những khẳng định mơ hồ về chủ quyền “từ thời xa xưa” và việc đòi hỏi bằng chứng cụ thể về các hành động quản lí thực tế, ICJ cũng cho các bên tranh chấp biển Đông một con đường thoát khỏi bế tắc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Dù các nguyên tắc pháp lí như thế này có nguồn gốc từ châu Âu thời trung cổ, giờ đây chúng có thể được coi là của toàn cầu. Chúng đã được sử dụng để phân xử các tranh chấp trong các bối cảnh đa dạng như biển Đỏ và Caribe cũng như ở Đông Nam Á. Hoàn toàn có thể áp dụng chúng cho tất cả các đảo nhỏ đang tranh chấp ở biển Đông.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Với việc loại bỏ những tuyên bố mơ hồ về chủ quyền “từ thời xa xưa” và việc đòi hỏi bằng chứng cụ thể về các hành vi quản lí thực tế, ICJ cũng cho các bên tranh chấp biển Đông một con đường thoát khỏi bế tắc của họ. Các chính phủ và cố vấn của họ không cần kiến thức toàn diện về mọi thời kì lịch sử biển Đông để đi tới kết luận về chủ quyền. Họ chỉ cần kiểm tra bằng chứng về các hành vi chiếm đóng và quản lí thực tế của các cơ quan nhà nước khác nhau.</span></span></p><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 2.4; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #616161; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 409px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-family: verdana;"><img alt="pedra branca" height="409" src="https://lh4.googleusercontent.com/rE_2_7hqv3dQTQ1jvmM9zDm6QL6L5jAayNnyWCn-oC7BXSZfz0siT8BX0gZ2wNSG0OGugEgLdi1qO6wRtJYbR0i2ra5XLiAy1GgE0BXIVFlylduqB-pYoQL6OLDssAfDAdRjDwjm" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Đá Pedra Branca vào ngày 22 tháng 5 năm 2021. (SPH Media)</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Bằng chứng lịch sử</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Việc số hóa và việc để mở nhiều kho lưu trữ quốc gia trong hai thập kỉ qua đã cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra lại lịch sử việc đưa ra tuyên bố chủ quyền ở biển Đông một cách chi tiết hơn nhiều so với mức khả thi trong thế kỉ XX. Bây giờ có thể đưa ra một số tuyên bố có thẩm quyền về việc ai đã làm gì và khi nào.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Nhiệm vụ đã trở nên dễ dàng hơn nhiều khi các bên tranh chấp đưa ra bằng chứng để hậu thuẫn cho các tuyên bố của họ trong phạm vi công cộng. Bây giờ chúng ta có thể đánh giá liệu một số tài liệu nhất định có ý nghĩa trong các tranh chấp chủ quyền khác nhau hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Dựa trên tất cả các bằng chứng này, giờ đây chúng ta có thể nói rằng trước thế kỉ XIX không có quốc gia nào thực hiện bất kì hành động chủ quyền thực tế nào đối với bất kì đảo nào trong các đảo hiện đang tranh chấp.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Các bằng chứng lưu trữ hiện có cho thấy các hành động chiếm đóng Paracels (quần đảo Hoàng Sa) sớm nhất được tiến hành bởi Đại Việt (Việt Nam) vào năm 1816, bởi Nhà Thanh (Trung Quốc) vào năm 1909 và bởi Nhật Bản vào năm 1938.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Ở Spratlys (quần đảo Trường Sa), các hành động quản lí chính thức đầu tiên được thực hiện bởi Anh vào năm 1877, bởi Pháp vào năm 1933, bởi Nhật Bản vào năm 1939, bởi THDQ vào năm 1946, bởi Việt Nam Cộng hòa (VNCH hoặc Nam Việt Nam) vào năm 1956, bởi Cộng hòa Philippines vào năm 1970 và bởi Malaysia vào năm 1978. Việc chiếm đóng lần đầu của CHNDTH diễn ra vào năm 1988. Các yêu sách của Nhật Bản đã được từ bỏ trong Hiệp ước San Francisco năm 1951 và các yêu sách của Anh và Pháp đã được phép mất hiệu lực.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #cb101c; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Các chính phủ đã không nắm được quyền kiểm soát hoàn toàn các thể địa lí khác nhau trước thập niên 1970 (ở Hoàng Sa) hoặc thập niên 1980 (ở Trường Sa).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Bằng chứng có ghi chép cho thấy rõ hai điểm quan trọng. Thứ nhất, nó cho chúng ta biết rằng các nước chiếm các thể địa lí khác nhau tại các thời điểm khác nhau theo cách lộn xộn. Các quốc gia tranh nhau cài cắm người hoặc công trình trên một số đảo nhỏ, nhưng đây thường chỉ là những công việc nhất thời. Chỉ vì các quan chức đặt chân đến một thể địa lí cụ thể không có nghĩa là sau đó họ duy trì sự chiếm đóng hiệu quả đối với nó. Các chính phủ đã không nắm được quyền kiểm soát hoàn toàn các thể địa lí cho đến những năm 1970 (ở Hoàng Sa) hoặc những năm 1980 (ở Trường Sa).</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Thứ hai, nó cho chúng ta biết rằng các bên tranh chấp khác nhau chưa bao giờ quản lí toàn bộ quần đảo hoặc nhóm đảo, chứ chưa nói đến toàn bộ biển Đông. Chỉ vì một hành động được thực hiện trên một đảo không có nghĩa là việc chiếm đóng hiệu quả được khẳng định trên các thể địa lí khác. Các bên yêu sách thường đưa ra những yêu sách khoa trương bằng cách xuất bản bản đồ hoặc đưa ra tuyên bố, nhưng điều này hoàn toàn khác với việc thiết lập sự chiếm đóng thực sự.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Hiểu được lịch sử này dưới ánh sáng của phán quyết ICJ về Pedra Branca sẽ mở ra một hướng đi để giải quyết các tranh chấp. Thay vì xem xét các yêu sách đối địch nhau đối với toàn bộ quần đảo, ICJ hoặc một cơ quan khác nào đó được các bên yêu sách thoả thuận, chỉ cần đưa ra kết luận về các hành động quản lí thực tế trên từng thể địa lí. Hiểu biết của chúng tôi về các tài liệu lưu trữ cho chúng tôi biết rằng những hành động này chỉ xảy ra trong thời kì hiện đại.</span></span></p><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 2.4; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #616161; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 437px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-family: verdana;"><img alt="paracel" height="437" src="https://lh3.googleusercontent.com/qXLmok5LK_9p0YIsskYoTLv_OvrnYnBvKIJiQPgIx0XBGR_IPQpHW70oM7vr55ME4UH25gyQLvOvSpJr9flMqkEnyjGzOYjUgb9K_VLZQ4k3nnNylkNlft5o_fiRlDjBW2zqXWPQ" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Ảnh vệ tinh đảo Woody (Phú Lâm) đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa ở biển Đông, được chụp vào tháng 1 năm 2017. (Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS))</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Phân rã các yêu sách</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Điều quan trọng là phải tách biệt các yêu sách. Cũng giống như trong trường hợp Pedra Branca, về mặt lí thuyết, có thể xem xét các tuyên bố chủ quyền của từng thể địa lí ở biển Đông một cách riêng biệt. Phải thừa nhận rằng điều này sẽ dễ dàng hơn trong một số trường hợp so với những trường hợp khác. Một số thể địa lí hoàn toàn bị cô lập nhưng tại Tizard Bank, Union Reef và North Danger Reef (cụm Song Tử), các bên tranh chấp chiếm các đảo nhỏ khác nhau trên cùng một rạn san hô lớn. Mặc dù vậy, ở đây vẫn có thể gỡ rối lịch sử của chúng.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Hãy lấy rặng san hô khổng lồ ở Tizard Bank. Pháp đã đặt một cột mốc chủ quyền trên thể địa lí nổi trên mặt nước lớn nhất của nó, đảo Itu Aba (Ba Bình), vào năm 1933. Quân đội Nhật và Pháp đều đã chiếm đóng Ba Bình trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Pháp đặt một cột mốc chủ quyền khác trên Ba Bình vào tháng 10 năm 1946 và một đoàn thám hiểm của Trung Hoa Dân Quốc cũng làm như vậy vào tháng 12 năm 1946. Trung Hoa Dân Quốc duy trì sự hiện diện thực tế trên Ba Bình cho đến tháng 5 năm 1950. Tháng 5 năm 1956, một doanh nhân Philippines, Tomas Cloma, đã cố tuyên bố chủ quyền một nhóm đảo cho riêng mình, khiến THDQ chiếm đóng lại Ba Bình. Pháp, nước vừa rời khỏi các thuộc địa Đông Dương, đã khẳng định lại yêu sách trước đó của mình đối với đảo này và sau đó cả CHNDTH và VNCH mới độc lập đưa ra những yêu sách khoa trương về chủ quyền đối với cả quần đảo Trường Sa. Tháng 8 năm 1956, Quân đội VNCH đổ bộ lên đảo Trường Sa, cách 300 km về phía Tây Nam. Năm 1962, các tàu chiến của VNCH đến thăm Nam Yết, một đảo khác trên Tizard Bank, bên kia đầm phá đối diện Ba Bình, và vào năm 1972, quân đội VNCH đã chiếm đóng thực tế nó. Năm 1974, VNCH chiếm Sand Cay (Sơn Ca) trên cùng bãi đá này. Năm 1975, quân đội VNCH bị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH hay Bắc Việt Nam) đánh đuổi khỏi cả hai đảo này. Vài ngày sau, VNCH bị chính phủ Cách mạng miền Nam Việt Nam xoá tư cách quốc gia, rồi chính phủ này sáp nhập vào VNDCCH vào năm sau đó. Năm 1988, bên tranh chấp cuối cùng là CHNDTH đến chiếm đóng đá Gaven ở đầu phía tây của bãi Tizard.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="color: #cb101c; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không có quốc gia nào trong số các quốc gia có yêu sách sẵn sàng đưa các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình ra một tòa án độc lập</span><span style="color: #cb101c; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Để đi tới phán quyết về chủ quyền của các thể địa lí này sẽ cần phải xem xét chi tiết cả lịch sử về chiếm đóng lẫn sự kế thừa các yêu sách từ quốc gia này sang quốc gia khác. Tòa có thể chấp nhận rằng lịch sử của đảo Nam Yết, Sơn Ca và Gaven tách biệt với lịch sử của Ba Bình không? Sự chiếm đóng lâu dài của THDQ có vượt trội hơn sự chiếm đóng ngắn hơn của Pháp không? VNCH có kế thừa yêu sách của Pháp không? VNDCCH cũng kế thừa nó không? Liệu CHNDTH có kế thừa tuyên bố của THDQ hay vấn đề đó vẫn còn tranh cãi? Đây sẽ là những câu hỏi khó trả lời, nhưng đó là mục đích của các tòa án quốc tế và ICJ đã giải quyết những câu hỏi phức tạp không kém trong quá khứ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Rất may, hầu hết các rạn đá tranh chấp hiện chỉ có một bên chiếm đóng thực tế, điều này sẽ giúp việc đánh giá các tuyên bố chủ quyền trở nên đơn giản hơn. Dù vậy, một số đã có những bên chiếm đóng khác trong quá khứ và tòa sẽ phải phán quyết dựa trên giá trị tương đối của các yêu sách đối địch nhau. Mỗi thể địa lí có một lịch sử khác nhau, nhưng lịch sử đó có thể biết được và đánh giá được.</span></span></p><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 2.4; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #616161; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 291px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-family: verdana;"><img alt="itu aba" height="291" src="https://lh6.googleusercontent.com/T9dSbvt_bKxNPyS71psF4676LcAUMLhNMmfc7x1NRNjGq4BKG-7sLH-dX58PVclHaIQj1P4ZphCu68T0Vr2TuDZnviF8OwJYljMtkUVonGl4VhH6zxyzTYJ_sTUwWE346bieM2UA" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Đảo Itu Aba (Ba Bình) năm 2016. (Wikimedia)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Vai trò cho người ngoài cuộc</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Không có quốc gia nào trong số các quốc gia có yêu sách sẵn sàng mang các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình ra một tòa án độc lập. Có hai lí do chính cho việc này. Thứ nhất, tất cả đều không chắc chắn về sức mạnh của các yêu sách của họ và của các đối thủ của họ. Thứ hai, họ sợ những hậu quả chính trị trong nước của việc bị thua một lập luận công khai như vậy. Ví dụ, các chính trị gia Malaysia tiếp tục tranh cãi về Pedra Branca hơn một thập kỉ sau phán quyết của ICJ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Có một vai trò ở đây đối với các cơ quan bên ngoài. Nhóm chuyên gia (think tank), các nhà nghiên cứu, luật sư và các tổ chức có thể hoạt động như một "ICJ ảo" để tranh tụng thử các lập luận mà các chính phủ có thể đưa ra trong một phiên xử thực tế. Các chuyên gia, dù độc lập hay đảng phái, có thể thu thập bằng chứng đã được các chính phủ và những người khác đưa vào phạm vi công cộng và tìm kiếm các tài liệu bổ sung. "Tòa lối hai" (track two tribunal) này có thể mời các chính phủ nộp bằng chứng nhưng vẫn có thể tiến hành dù họ có hợp tác hay không.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Kết quả sẽ là một ma trận bằng chứng: một lịch sử chi tiết về các hành vi chủ quyền khác nhau được thực hiện trên mỗi thể địa lí được nêu tên. Các luật gia chuyên gia có thể được mời để tranh luận về giá trị của các yêu sách và đưa ra các ý kiến tư vấn về yêu sách nào là mạnh hơn. Những điều này sau đó sẽ được chuyển đến tất cả các nước có yêu sách và công bố rộng rãi. Thế giới sẽ có thể hiểu được cách giải quyết có bằng chứng và công bằng về các tranh chấp ở biển Đông có thể trông như thế nào.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="color: red; font-family: verdana;">Điều này sau đó gợi ra cơ sở cho một giải pháp thỏa hiệp cho các tranh chấp ở biển Đông: mỗi bên yêu sách giữ nguyên những gì mình đang chiếm giữ và từ bỏ yêu sách của mình đối với các thể địa lí khác.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Giải pháp khả thi</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Dựa trên các bằng chứng lịch sử đã có trong phạm vi công cộng, có khả năng là một "ICJ ảo" như vậy sẽ thấy rằng, với một số ngoại lệ quan trọng, mô thức (pattern) chiếm đóng hiện tại ở biển Đông là mô thức hợp pháp, vì nó là mô thức duy nhất đã từng tồn tại. Hai ngoại lệ chính cho điều này là:</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">- Nửa phía tây của quần đảo Hoàng Sa ("Nhóm Lưỡi liềm"): do Việt Nam kiểm soát cho đến khi lực lượng của họ bị Trung Quốc đánh bật ra năm 1974</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">- Song Tử Tây (Southwest Cay) ở Trường Sa: do Phi Luật Tân chiếm đóng cho đến khi bị VNCH trục khỏi năm 1975</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này sau đó gợi ra cơ sở cho một giải pháp thỏa hiệp cho các tranh chấp ở biển Đông: mỗi bên yêu sách giữ nguyên những gì mình đang chiếm giữ và từ bỏ yêu sách của mình đối với các thể địa lí khác. Có một cái tên pháp lí cho nguyên tắc này: </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">uti possidetis, ita possideatis</span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - đang có thì tiếp tục giữ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Không nước nào sẽ phải chịu nhục nhã hoặc bất lợi về mặt chiến lược khi rút khỏi bất kì thể địa lí nào mà họ hiện đang chiếm giữ. Mỗi nước chỉ đơn giản là phải thừa nhận thực tế - rằng họ sẽ không bao giờ có được tất cả các đảo đá mà họ yêu sách theo cách khoa trương.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Điều này đã được hàm chứa trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) được ASEAN và CHNDTH thông qua năm 2002. Theo Điều 5, tất cả các bên kí cam kết “tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, trong đó có việc hạn chế hành động đưa người tới sinh sống trên các đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và các thể địa lí hiện nay không có người ở và xử lí những khác biệt của chúng theo cách thức xây dựng ”.</span></span></p><p dir="ltr" style="background-color: white; line-height: 2.4; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #616161; font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 373px; overflow: hidden; width: 624px;"><span style="font-family: verdana;"><img alt="dallas reef" height="373" src="https://lh5.googleusercontent.com/v8TiHSPWvMDJIb-D92EDNRhtW4w8Z1AkUEaUsDZevuhvN0YAoIU83Qtlo0Gp4nwlO5jlwQnyeLKL_BBZtjznPrKzZifKq9G0SBHKvhx_ypeda4rV_5Gr0oCouiEam1Hd9fc6vzCf" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Đá Dallas (Suối Cát) thuộc quần đảo Trường Sa, 1999. (Wikimedia)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Thật ra, các cam kết hiện tại về không leo thang tranh chấp và không chiếm bất kì thể địa lí không có người ở nào, đã công nhận trên thực tế (de facto) việc chiếm đóng của các nước khác. Các quốc gia sẽ không phải gánh chịu bất kì hậu quả thực tế nào qua việc biến những cam kết ngầm này thành những tuyên bố chính thức hơn. Được trang bị bằng chứng lịch sử để biện minh cho quyết định của mình, các bên tranh chấp có thể tiến lên - song phương hoặc tập thể. Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể thừa nhận ra vị trí trên thực tế của nhau và từ đó giải quyết phần Đông Nam Á của câu đố. Sau đó, họ sẽ tìm kiếm sự công nhận trên thực tế tương tự từ Trung Quốc và / hoặc Đài Loan.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Sự công nhận như vậy sẽ kết thúc bất cứ mơ tưởng nào rằng Việt Nam và Philippines có thể có một ngày lấy lại Hoàng Sa và Song Tử Tây tương ứng. Nhưng đây sẽ là một cái giá đáng phải trả nếu đền bù bằng sự ổn định trong khu vực. Đối với Việt Nam, việc thừa nhận Trung Quốc sở hữu Hoàng Sa sẽ gây đau đớn nhưng nó có thể mở ra một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về đường biên giới trên biển ở cửa Vịnh Bắc Bộ và các khu vực xa hơn về phía nam. Trên thực tế, điều này sẽ chấm dứt yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc và mở rộng các vùng biển cho hoạt động thăm dò năng lượng và đánh bắt cá của Việt Nam.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="color: red; font-family: verdana;">Cơ bản hơn, tất cả các chính phủ liên quan - dù độc tài hay dân chủ - sẽ cần thuyết phục công chúng của mình về giá trị của sự thỏa hiệp.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Những trở ngại cần xem xét</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Tất nhiên, có nhiều khó khăn về chính trị và pháp lí cần xem xét. Một vấn đề nút thắt sẽ là số phận của "các bãi triều thấp". Phán quyết năm 2008 của ICJ về South Ledge sẽ không giúp ích được nhiều ở đây. Malaysia, Việt Nam và Trung Quốc đều đã xây dựng tiền đồn trên các thể địa lí nằm dưới mặt nước khi triều cao và do đó không được coi là lãnh thổ.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Ví dụ nghiêm trọng nhất là đá Vành Khăn, bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1994. Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài biển Đông kết luận rằng các cấu trúc khổng lồ của Trung Quốc trên đá Vành Khăn được xây dựng bất hợp pháp bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines. Hàm ý của phán quyết là các công trình kiến trúc phải được phá bỏ hoặc giao cho Philippines. Trong khi đó, sẽ không kì vọng có quốc gia nào công khai thừa nhận chủ quyền của các quốc gia khác đối với các bãi triều thấp, nhưng họ có thể thừa nhận sự hiện diện trên thực tế (de facto) theo cùng tinh thần như các cam kết khác trong DOC.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Cơ bản hơn, tất cả các chính phủ liên quan - dù độc tài hay dân chủ - sẽ cần thuyết phục công chúng của họ về giá trị của sự thỏa hiệp. Lập luận mạnh mẽ nhất của họ sẽ là thỏa hiệp là một bước cần thiết trong việc theo đuổi hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Sự đóng góp của một "ICJ ảo" hoặc "tòa lối hai" sẽ củng cố những lập luận này với bằng chứng cho tính hợp pháp lịch sử của chúng, không để lại nhiều chỗ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn giận dỗi. Khi đó, các chính phủ có thể tập trung vào số phận của nghề cá và các nguồn tài nguyên xa bờ khác. </span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Không còn có thể viện cớ rằng các tranh chấp ở biển Đông là quá phức tạp để giải quyết. Các bằng chứng cần thiết được công bố công khai và các nguyên tắc pháp lí tổng quát được chấp nhận rộng rãi. Trong tình hình địa chính trị hiện nay, có động cơ rõ ràng cho các chính phủ Đông Nam Á bắt đầu tiến trình chính thức công nhận việc chiếm đóng của nhau ở quần đảo Trường Sa. Sự công nhận lẫn nhau như vậy sẽ giúp củng cố các yêu sách của riêng họ và tạo điều kiện tạo ra một vị thế đàm phán rõ ràng hơn với Trung Quốc.</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: verdana;">Một số trường hợp sẽ khó giải quyết hơn những trường hợp khác và trình tự công nhận sẽ cần phải tính đến điều này. Các tổ chức phi chính phủ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp các chính phủ vượt qua những trở ngại và cạm bẫy có thể xảy ra và tạo ra sự hậu thuẫn cho những thỏa hiệp chính trị cần thiết.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: verdana;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bài báo này được ISEAS - Viện Yusof Ishak công bố lần đầu như là </span><a href="https://www.iseas.edu.sg/articles-commentaries/iseas-perspective/2022-25-how-to-solve-the-south-china-sea-disputes-by-bill-hayton/" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan điểm của ISEAS 2022/25 “</span><span style="color: #1155cc; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Làm thế nào để Giải quyết Tranh chấp biển Đông</span></a><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">”.</span></span></p><span style="font-family: verdana;"><br /><br /></span><br /></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-66211953100139463282022-03-13T19:48:00.001-07:002022-03-13T19:48:21.117-07:00Chế độ tân phong kiến ở Nga<p> <span style="color: #17365d; font-family: Arial; font-size: 26pt; white-space: pre-wrap;">Chế độ phong kiến mới giải trình</span></p><span id="docs-internal-guid-164c2af2-7fff-fd9c-f05c-d5292ca18a2f"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"></p><hr /><a href="http://www.the-american-interest.com/article.cfm?piece=939" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: blue; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Neo-Feudalism Explained</span></a><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (American Interest, March-April 2011)</span><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vladislav L. Inozemtsev</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều chuyên gia phương Tây ngày nay phát hoạ Nga như là một quốc gia đang lùi theo đường xoắn ốc về chế độ độc tài, chậm rãi (hoặc không phải là quá chậm rãi) đi theo con đường của Liên Xô mà chế độ độc tài của nó sụp đổ dưới áp lực ngày càng tăng từ một xã hội dân sự đang nổi lên. Ý kiến phổ biến quy sự quay vòng trở lại chế độ độc tài này cho bản chất của nhóm chính trị chủ chốt (elite) hiện tại của Nga. Các thành viên của nhóm này (như lập luận của nhiều nhà phân tích phương Tây, kể cả Ian Bremmer) xuất thân một cách không tương xứng từ cái gọi là </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">siloviye structury</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (cиловые структуры – cấu trúc quyền lực), đó là cơ quan thực thi pháp luật và các cục an ninh có nguồn gốc là các cơ quan mật vụ và quân đội từ thời Liên Xô</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Các giả định này kết hợp nhau cho ra cái đang cân bằng chỉ là một biểu hiện khá lạc quan về triển vọng trung tới dài hạn của Nga: Hoặc là xã hội dân sự Nga sẽ tỉnh dậy trở lại và cứu vãn ngày tàn, như nó được cho là đã làm trong các năm 1989-1991, hoặc nhóm chủ chốt hiện tại sẽ già đi và rời khỏi sân khấu. Dù theo hướng nào, thay đổi tích cực đang ló dạng ở chân trời.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thật không may, tất cả các giả định này là sai. Nước Nga hiện tại không phải là một ứng viên để trở thành một Liên Xô phiên bản 2.0. Nó là một quốc gia trong đó công dân có quyền truy cập không hạn chế thông tin, sỏ hữu tài sản riêng, tự do rời khỏi hay trở về nước, và phát triển doanh nghiệp tư nhân tất cả các loại. Tất nhiên, những hạn chế nghiêm trọng trong lĩnh vực chính trị vẫn được giữ nguyên, và đất nước này, như chính Tổng thống Dmitry Medvedev mới đây cho biết, "chỉ tới một mức độ nhất định, chứ chưa hoàn toàn" đáp ứng các tiêu chuẩn dân chủ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rõ ràng, điều sắp xếp này − tự do kinh tế đi đôi với hạn chế chính trị − không làm hài lòng tất cả mọi người. Đối với cách nghĩ thông thường của người Mĩ, điều đó cho thấy một cái gì đó phải bị hi sinh. Điều này cũng là sai. Đúng là có một số người Nga có nói lên sự không hài lòng với chế độ hiện hành và sự lạm dụng quyền lực lan tràn ở các cơ quan cảnh sát, các quan chức địa phương và các đầu sỏ chính trị gắn liền với bộ máy quan liêu. Tuy nhiên, hệ thống vẫn có vẻ vững bền một cách cơ bản. Sức mạnh của nó bắt nguồn từ một nguyên tắc cơ bản: để cho các đối tượng giải quyết các vấn đề của họ một cách riêng lẻ sẽ dễ dàng hơn là thách thức các định chế quốc gia một cách tập thể. Bởi vì những gì mà người phương Tây gọi là tham nhũng không phải là một tai họa của hệ thống nhưng lại là nguyên tắc cơ bản cho hoạt động bình thường của nó. Tham nhũng ở Nga là một dạng chất bôi trơn trong giao dịch khi không có bất kì một cơ chế luật định hợp pháp và được chấp nhận chung thay thế. Các giao dịch này gộp chung lại lột tả một hình thức phong kiến mới. Điều này không quá kinh ngạc với nhận thức lịch sử, bởi vì ít hay nhiều đó là giai đoạn mà sự phát triển kinh tế - xã hội Nga đã phải đạt tới khi nó bị đông cứng trong hơn bảy mươi năm thống trị của cộng sản. Bây giờ nó đang tan.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hệ thống vẫn hoạt động nhưng theo cách riêng của mình. Được xây dựng dưới thời Vladimir Putin, "quyền lực theo chiều dọc" ở Nga cho ra một cơ chế chuyển đổi tương đối đơn giản giữa quyền lực và tiền bạc. Ở mỗi bậc của hệ thống phân cấp này một mức độ nhất định hối lộ và chủ nghĩa địa phương ăn chia (clientelist parochialism) không chỉ được bỏ qua mà còn được ngầm chấp nhận để đổi lấy lòng trung thành vô điều kiện và dành một phần lấy được cho cấp trên của mình. Hệ thống này dựa trên sự tự do kinh tế của các công dân, nhưng những hạn chế cẩn trọng về chính trị trên các quyền tự do này tạo ra sự giàu có của những kẻ hưởng lợi lớn nhất. Có hàng loạt các sàn và trần cho các hạn chế về tự do, do đó, nó là một chế độ phong kiến với nhiều tầng bậc hơn so với loại phong kiến cũ. Tuy nhiên, về cơ bản nó hoạt động theo cùng một cách: kẻ yếu dâng tiền "lên", và kẻ mạnh bảo hộ "xuống."</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hệ thống này của Nga không thể tồn tại nếu không có các quyền tự do kinh tế, và đó là lí do tại sao sẽ không có hệ thống thứ hai nẩy ra từ Liên Xô cũ. Tuy nhiên, hệ thống này hết sức lo sợ các quyền tự do chính trị, các quyền này không phù hợp với quan điểm phong kiến của nó. Do đó, nước Nga sẽ không thể nào sớm giống như bất kì quốc gia nào ở Tây Âu hoặc Bắc Mĩ. Nó sẽ không sụp đổ, và nó sẽ không phát triển một cách triệt để. Nó chỉ đơn giản là nó. Và hi vọng gì cho tương lai sẽ giống như chuyện châm biếm Stalin rằng chân trời là một nơi xa xôi sẽ tiếp tục lùi xa đi khi bạn tiến tới nó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thời đại này, ngay cả một hệ thống ổn định, cứ cho là như vậy, cũng cần tiến về phía trước chỉ để ở lại tại chỗ. Vì vậy nhiều người tin rằng sư bình thường của Nga hiện nay không thể chịu đựng được lâu. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev, người chân thành kêu gọi hiện đại hoá trong những ngày này, cho chúng ta một trong các trường hợp hiếm hoi về một đánh giá đầy đủ các mối đe dọa hiện tại. Ông dường như hiểu rằng các yếu tố đảm bảo sự ổn định của Nga không có khả năng hà hơi tiếp sức vào tinh thần sáng tạo cần để tồn tại trong thời kì hỗn loạn. Nhưng với cái bóng của Putin lơ lửng bên trên, Medvedev không thể thuyết phục cả nhóm thân cận bên trong của bộ máy hành chính lẫn công chúng nói chung rằng các mối đe dọa mà ông đã xác định là có thật và nguy hiểm. Không có sự ủng hộ của họ, ông không có gì và không có nơi nào để lãnh đạo.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong bất kì trường hợp nào, Medvedev sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng hệ thống này không thể giữ được ổn định lâu dài, thậm chí nếu ông ta đúng khi thấy rằng nó không bao giờ có thể phát triển. Nước Nga không phải là một chế độ độc tài nhưng là một quốc gia tương đối tự do, ở đó chế độ hiện hành cai trị theo sự đồng thuận hơn là đàn áp, và ở đó dường như không có mối đe dọa nghiêm trọng đối với chế độ. Một hệ thống không phình trên quy mô lớn vừa đủ thích hợp với các công dân Nga so với những gì họ cho là những lựa chọn thay thế có sẵn. Nếu bảo với họ rằng hệ thống có thể sụp đổ thì họ sẽ không hoảng loạn như người ta tưởng. Như nhà sử học Joseph Tainter từng ghi nhận, "Những gì mà những nhà quan sát thấy như là sự suy giảm. . . không nhất thiết là như vậy đối với phần lớn dân chúng [đối với họ] sự sụp đổ vốn không phải là một thảm họa, mà là một quá trình</span><span style="color: #444444; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tiết kiệm </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hợp lí cũng có thể đem lợi ích cho phần lớn dân chúng."</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Suy cho cùng, ngay cả trong thời phong kiến, lãnh chúa đôi khi cũng thất bại và nông dân tham gia trong việc tái phân bố tự phát của cải.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thậm chí còn ít liên quan đến tương lai của Nga là ý tưởng cho rằng các quan chức KGB thời Xô Viết chịu trách nhiệm về những thiếu sót của hệ thống chính trị Nga hiện tại. Những người ủng hộ quan điểm này đã bỏ qua hai sự kiện.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước hết, họ quên rằng chế độ chính trị gần như độc tài:”siêu tổng thống " của Nga xuất hiện trong giai đoạn" dân chủ "giữa những năm 1990, khi Boris Yeltsin, nguyên Tổng thống lúc đó, dùng sức mạnh giải tán Quốc hội hợp pháp và thúc ép thông qua một hiến pháp mới theo đó các quyền hạn của Tổng thống không được cân bằng bởi bất kì hạn chế nào. Thật vậy, tình trạng của ông giống như Fuhrer (lãnh tụ) của nước Đức như được xác định bởi Ermächtigungsgesetz (đạo luật uỷ quyền) 23 tháng 3 năm 1933. Sau đó, nhóm thân cận của Yeltsin dàn dựng chiến thắng của ông trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996. Điều đó đã làm đất nước này đi chệch khỏi con đường tự nhiên về xen kẽ quyền lực giữa các chính trị gia tự do và xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên dường như đã dẫn Đông Âu đến sự phát triển thường khoắc khoải nhưng thành công của nó trong những năm 1990 và những năm 2000. Từ đó trở đi, ý tưởng rằng "không có một thay thế" cho nhà lãnh đạo hiện tại hoặc cho người kế tục được ông lựa chọn đã trở thành một phần có tính sống còn trong chính trị Nga. Nó chẳng có dính dáng một chút gì tới những dấu tích phân nhiệm của KGB.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ hai, họ quên rằng gốc gác phục vụ trong quân đội và ngành an ninh của phần lớn nhóm chủ chốt Nga không nằm trong và tự chúng không phải là những dấu hiệu của sự suy giảm dân chủ. Nhiều người trong số những người vốn thuộc ngành an ninh là những người có năng lực và trung thực. Những người bên ngoài nước Nga đã quên rằng, trong nhiều thập kỉ quan trọng, nhóm chủ chốt trong KGB là nhóm tiến bộ nhất trong một Liên Xô đang rệu rã. Vấn đề thực sự không phải là vấn đề do </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">siloviki</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (силовики - ngành anh ninh) gây ra nhưng do "sự lựa chọn tiêu cực" − cách mà cả những người dân chủ cũ lẫn đối thủ của họ thu nạp thành viên mới vào tầng lớp chủ chốt.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiện tượng Putin phản ánh thực tế rằng các nhà lãnh đạo Nga những năm 1990 thích một viên chức bình thường không có thành tích nào đáng chú ý trở thành Tổng thống mới hơn là, chẳng hạn, những người giàu kinh nghiệm nếu không nói là hoàn hảo như Yevgeny Primakov và Yuri Luzhkov, cả hai đều được nhiều người ưa chuộng vào lúc đó. Sự nổi lên của Putin, người chỉ mới thăng tới cấp trung tá trong thời Xô Viết và sau này trở nên nổi tiếng chỉ do những vụ tham nhũng của mình ở hội đồng thành phố St Petersburg, đã trở thành điển hình về sự lựa chọn nhân sự vào những năm 2000. Các quan chức không hiệu quả, thậm chí những người kém năng lực hơn được tuyển dụng vào với số hàng trăm chiếm lấy những vị trí quan trọng trong các Bộ và các ủy ban, bằng lòng với hiểu biết rằng những người xoàng xĩnh như thế không thể đua tranh hoặc dời họ đi nơi khác. Kết quả là, việc quản lí nhà nước Nga ngày nay ít chịu ảnh hưởng xấu từ một chế độ độc tài kém năng lực hơn là từ một "đầu sỏ quyền lực.”</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một vài ví dụ cũng đủ để chứng minh vấn đề “lựa chọn tiêu cực" này. Sergei Ivanov là một gián điệp chuyên nghiệp, được phái tới London công tác vào năm 1981. Sau vài năm, ông ta đã được chuyển tới Phần Lan (không phải như một phần thưởng cho thành tích tuyệt vời như người ta có thể tưởng), và sau đó đến Kenya, nơi mà việc làm của ông ta tạo ra một sự xoá bỏ về mặt tổng thể những gì đã đạt được của mạng lưới tình báo Nga ở phía đông châu Phi. Giờ đây, ông ta tự hào với vai trò là Phó Thủ tướng Chính phủ trong chính phủ của ông Putin. Hoặc hãy xem Boris Gryzlov, một kĩ sư trước đây đã trở nên nổi tiếng nhờ phát minh ra bộ lọc được cho là có thể làm sạch nước do bất kì loại ô nhiễm nào, kể cả các hạt phóng xạ. (Một điều tra của viện Hàn lâm Khoa học Nga về các bộ lọc này cho thấy sử dụng chúng chẳng có lợi lộc gì). Năm 2001, ông ta được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, và năm 2003 ông được "bầu” làm Chủ tịch viện Duma </span><span style="color: #444444; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="color: #444444; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ду́ма -</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hạ viện), nơi ông trở thành nổi tiếng với quan điểm cho rằng: "</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Duma không phải là nơi thích hợp cho các cuộc tranh luận</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">." Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hiện tại, Anatoly Serdyukov, là giám đốc của một cửa hàng đồ nội thất cho đến năm 2000 và hầu như không phân biệt nổi một tàu khu trục với một tàu kéo. Và danh sách cứ thế tiếp tục ...</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quan chức như vậy thường cố gắng để che giấu sự thiếu hiểu biết của họ bằng cách kiếm lấy học vị tiến sĩ hoặc giáo sư trong khi đang đương chức. Đối với người Mĩ thật khó mà tưởng tượng ra một điều như vậy, nhưng như Serdyukov, người có bằng tốt nghiệp đại học về kinh tế rồi thông qua một chương trình giáo dục từ xa vào năm 1994 kiếm được bằng tiến sĩ kinh tế vào năm 2000 và trở thành một giáo sư thực thụ vào năm 2006 trong khi đang giữ chức Bộ trưởng Thuế vụ Nga. Ngày nay, có 71 giáo sư trong số 450 đại biểu Duma. (Không có giáo sư nào trong Hạ viện thứ 110 của Mĩ, và chỉ có ba trong Bundestag thứ 17 của Đức.) Đặc điểm chủ yếu nhóm chủ chốt chính trị ở Nga hiện nay là một đặc điểm về sự dốt nát hoàn toàn dưới một vỏ bọc các bằng cấp khoa học, rắc rối nếu che đậy kém. Nước Nga sẽ là quá may mắn khi được đặt dưới chế độ cai trị mật vụ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, như nó vẫn là, những kẻ không tên tuổi tiếp tục đến từ những nơi không ai biết đạt được những thành công chưa từng có và các vị trí cấp cao. Tất cả những gì họ thực sự có năng lực để làm là ăn cắp công quỹ, nhận hối lộ và quỳ gối trước mặt các ông chủ gần như cũng không đủ năng lực như họ. Cho đến nay nước Nga đã nâng hiện tượng lựa chọn tiêu cực lên một tầm cao vô hình. Sư kiện này, hơn bất kì cái gì khác, giải thích </span><span style="color: #444444; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thành tích không dò được </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của nó và cho chúng ta một cơ sở nào đó để dự báo sự tiến triển của nó.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #660000; font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những hệ quả</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 10pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rõ ràng, thành phần chính trị chủ chốt hiện tại của Nga kém năng lực một cách đột biến so với tầng lớp quan chức của Liên Xô cũ thường có, nhưng những dấu hiệu của sự phi-chuyên môn hoá của nó có thể được tìm thấy trong toàn xã hội. Ngày nay, chỉ có 14% những người tốt nghiệp từ các trường đại học Nga chuyên về kĩ thuật. Ở Đức là 29%, và ở Trung Quốc gần 42%. Do thiếu uy tín chuyên môn, các vi trí nghề nghiệp chủ yếu được sắp xếp qua các mối quan hệ cá nhân, còn kinh nghiệm và hiệu suất thực sự không quan trọng. Giám đốc điều hành Gazprom, Alexei Miller, không có kinh nghiệm trong kinh doanh năng lượng khi ông ta được bổ nhiệm vào vị trí đứng đầu công ti. Ngay cả khi giá khí đốt tăng cao, sản lượng của Gazprom đã giảm từ 523,2 tỉ mét khối năm 2000 xuống 461,5 tỉ trong năm 2009. Giám đốc điều hành của Rosatom, cựu Thủ tướng Sergei Kirienko, không có kinh nghiệm trong lĩnh vực hạt nhân. Chỉ có một trong 11 lò phản ứng hạt nhân mới mà ông hứa sẽ lắp đặt ở Nga khi được bổ nhiệm vào năm 2005 được đưa vào hoạt động.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc phi chuyên môn hoá nước đại của giới cao cấp Nga thực sự có nghĩa là gì? Gần đây, nó có nghĩa là việc trở thành một quan chức suốt đời là cực kì phổ biến. Đó là chỗ làm ra tiền.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc phi-chuyên môn hoá ở Nga trùng hợp với lưu lượng tiền mặt dồi dào đổ vào nền kinh tế Nga, phần lớn là do giá dầu tăng cao. Thu ngân sách liên bang đã tăng từ 1,2 nghìn tỉ rúp trong năm 2001 lên 8,2 nghìn tỉ rúp trong năm 2008, và đồng rúp đã tăng so với đồng đô la Mĩ từ 29,5 xuống 24,9 rúp mỗi một đô la. Điều này cho phép bộ máy quan liêu của Nga tăng thêm số lượng của cải, nó có thể chiếm đoạt thông qua hối lộ và các nguồn lợi không chính thức khác. Theo ước tính thực hiện bởi chuyên gia Nga hàng đầu về nạn tham nhũng, Georgyi Satarov, tổng số tiền hối lộ trong nền kinh tế Nga tăng vọt từ $ 33 tỉ đến hơn $ 400 tỉ mỗi năm trong thời Putin cầm quyền.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai xu hướng sâu sắc theo sau tình trạng này. Xu hướng đầu là công việc trong bộ máy chính phủ đã trở nên ngày càng hấp dẫn đối với những người trẻ tuổi không nằm trong số tốt nhất và nhanh nhạy nhất của Nga. Độ tuổi trung bình của một đại tá cảnh sát ở Nga bây giờ là 42; trong những năm cuối cùng của thời Liên Xô cũ là 57. Độ tuổi trung bình của một sĩ quan cảnh sát thuế vụ nhỏ hơn 33. Trong số các sinh viên tốt nghiệp của một trong các trường đại học Tây hoá nhất ở Moscow là Trường Kinh tế, 88 trong số 109 sinh viên ghi danh vào các khóa học do tôi giảng dạy trong năm 2008 mơ ước về một nghề nghiệp trong bộ máy hành chính. Điều này có nghĩa là giai cấp cầm quyền Nga rất có khả năng ngày càng trở nên bảo thủ hơn vì nó trở nên trẻ hơn và có được học vấn nhiều hơn. Điều này bác bỏ hoàn toàn ý niệm phổ biến trong các học giả nước ngoài, cho rằng sự lão hóa của thế hệ các nhà lãnh đạo có kinh nghiệm thực tiễn chính trị thời Liên Xô cũ có thể mở đường cho các nhà lãnh đạo trẻ hơn và phóng khoáng hơn lên nắm quyền.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xu hướng thứ hai thậm chí còn rõ ràng hơn: tiền bạc ngày nay không những có thể được "trích ra" từ lĩnh vực phục vụ công cộng mà nó còn có thể mua các vị trí có ảnh hưởng trong nhóm chủ chốt quyền lực. Ví dụ, có hơn 49 "quan chức” giàu triệu đô và 6 “quan chức” giàu tỉ đô ngồi trong viện Duma, và 28 “quan chức” triệu đô và 5 “quan chức” tỉ đô trong Hội đồng Liên bang. Ngược lại, trong 15 nước EU đầu tiên chưa từng có một triệu hay tỉ phú nào ngoài tỉ phú Silvio Berlusconi thắng được một ghế trong quốc hội. Bởi vì viện Duma và Hội đồng Liên bang gồm các đại biểu do điện Kremlin chọn lựa, người ta chẳng cần phải căng óc để tưởng tượng những tay siêu giàu kiếm được các vị trí này bằng cách nào. Họ dâng tiền “lên" với cả bổng lộc lẫn lòng trung thành, rồi họ được bảo hộ "xuống" − một dấu hiệu của trao đổi xã hội phong kiến. Trong lúc đó, đa số các bộ trưởng Nga đang cố gắng thuyết phục các công dân bình thường rằng thu nhập trung bình chính thức của họ ít hơn $ 100.000 một năm. Dù có ai tin họ hay không, không có Bộ trưởng nào mắc nợ hoặc Thống đốc nào bị phá sản ở đất nước này hiện nay.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người ta có thể thấy hai hướng phát triển thú vị trong chính trị Nga và công việc làm ăn phát sinh từ tất cả những điều này. Hướng đầu tiên là một sự chuyển đổi đều đặn bất kì doanh nghiệp thành công nào thành lập ở Nga kể từ năm 2000 thành một doanh nghiệp bán gia đình. Trong một xã hội thiếu vắng sâu đậm lòng tin xã hội, ai mà bạn có thể tin tưởng được nếu không phải là gia đình của riêng bạn? Chế độ gia trưởng cũng thể chế hoá như chế độ phong kiến, và, như mọi lúc, chúng hỗ trợ nhau.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mọi người đều biết rằng những lô đất tốt nhất tại Moscow đều nằm dưới sự kiểm soát vững chắc bởi doanh nhân giàu có nhất trong nước, Yelena Baturina, người đã kết hôn với cựu Thị trưởng Moscow Yury Luzhkov kể từ năm 1991. Điều này cũng có thể nói về nước Cộng hoà Bashkortostan, Ural Rakhimov, con trai của Tổng thống phục vụ lâu năm Murtaza Rakhimov, nắm quyền kiểm soát dầu và kinh doanh xăng dầu. Vợ của cựu Bộ trưởng Y tế và Phát triển Xã hội Mikhail Zurabov sở hữu nhiều công ti chịu trách nhiệm mua các loại dược phẩm mà sau đó được phân phát miễn phí cho những người nghèo. Đa số dược phẩm được nhà nước mua với giá cao gấp từ 3 tới 5 lần giá thị trường. Người nghèo đã được phục vụ, nhưng kẻ giàu trở nên giàu đậm hơn nhiều trong quá trình này. Có một ví dụ nào tốt hơn về việc ăn nên làm ra khi làm điều tốt theo kiểu Nga không?</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Toàn bộ các gia đình đang xâm nhập vào dịch vụ của chính phủ. Ví dụ, hãy nhìn thêm trường hợp Anatoly Serdyukov, Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ đứng đầu bởi cha vợ mình, Viktor Zubkov; hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế và Phát triển xã hội hiên nay, Tatyana Golikova là vợ của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Nga Victor Khristenko. Có những câu chuyện còn màu sắc hơn về việc thiết lập các "triều đại cầm quyền" trong các nước cộng hòa "dân tộc". Tại Chechnya, Ramzan Kadyrov, 29 tuổi là người kế tục </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trên thực tế</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cha mình là Akhmat, ông này bị ám sát vào năm 2004. Dagestan kể từ tháng Hai 2010 đã nằm dưới sự cai trị của Magomedsalam Magomedov, con trai của Magomedali Magomedov, thủ lĩnh của Dagestan những năm 1983-2006. Những khuôn mẫu này được lặp đi lặp lại ở tất cả các cấp chính quyền.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng có lẽ đã đủ với những câu chuyện. Như một người nào đó đã nói, số nhiều của các giai thoại không phải là dữ liệu. Điều quan trọng hơn nhiều là giới chủ chốt Nga thực sự cai trị quốc gia. Họ làm điều đó trong khi làm việc với quy tắc luật pháp thể chế hoá khả thi tối thiểu, các vụ sửa đổi luật pháp không dứt và một giả định thường trực về miễn nhiễm của quan chức. Đã có năm cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức tại Nga kể từ ngày "độc lập" với Liên bang Xô viết − mỗi cuộc bầu cử đều diễn ra theo những quy định sửa đổi. Viện Duma phê chuẩn gần 400 luật mới mỗi năm, nhiều gấp sáu lần Quốc hội Mĩ. Khi đại biểu không bận rộn thông qua luật mới thì họ đi sửa đổi những luật hiện có. Về mặt này, cũng không ổn định như những điều có vẻ như ở Washington gần đây, liệu một doanh nhân người Mĩ bình thường có thể tưởng tượng nổi một luật về thuế trong đó một điều khoản quan trọng mới được thêm vào hoặc một điều khoản cũ bị sửa đổi mỗi hai tuần hay không?</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một số luật được thông qua và một số quy định được áp đặt đơn thuần chỉ để hủy diệt một doanh nghiệp cụ thể hoặc buộc chủ sở hữu phải chuyển công ti của họ cho các ông chủ mới. Cảnh sát thuế hoặc công tố viên cáo buộc doanh nhân có một số hành vi sai trái, buộc họ phải bán doanh nghiệp hoặc đơn giản là chạy trốn khỏi đất nước là việc diễn ra phổ biến. Sau đó, các luật sư “nhiều kinh nghiệm hơn " dễ dàng tìm thấy nguyên nhân để tranh cãi lại các quyết định của Toà án hoặc quyết định của chính phủ, từ đó mở cửa lại doanh nghiệp cho các chủ sở hữu mới. Tương tự như vậy, nếu một doanh nhân bị phát giác phạm tội trốn thuế, vi phạm hải quan, ông ta có thể bị truy tố, nhưng người ở Sở thuế hoặc Hải quan đã kí vào tờ kê khai thuế của ông ta vẫn được miễn tố. Trong trường hợp trốn thuế nổi tiếng nhất ở Nga, Mikhail Khodorkovsky và Platon Lebedev đều đã bị kết án tù vào năm 2005 vì đã không đóng thuế đúng hạn trong các năm 2000-2003. Không viên chức thuế vụ nào cho là có nhiệm vụ kiểm tra tờ khai thuế bị cáo buộc sai lầm của họ đã bị trừng phạt. Tội của Khodorkovsky và Lebedev không phải là gian lận về thuế mà là tội đang tìm cách vượt quá trần (ceiling) quy định của họ trong hệ thống tầng bậc của chủ nghĩa phong kiến.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #660000; font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ai sẽ đến kế tiếp?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 10pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy nước Nga ngày nay là một kiểu "nhà nước công ti" trong đó chính trị chỉ là một loại hình kinh doanh. Các vấn đề chính trị được giải quyết như thể chúng là các vấn đề thương mại, và các vấn đề thương mại như thể chúng là vấn đề chính trị. Mục tiêu quan trọng nhất của giới chủ chốt là bảo tồn một hệ thống cho phép những kẻ không có năng lực nắm quyền kiểm soát của cải của đất nước. Việc hi vọng rằng thay đổi sẽ đến khi giai cấp cầm quyền hiện nay nghỉ hưu và những người mới thay thế họ là vô vọng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như vậy,nhà nước Nga sẽ thừa kế loại lãnh đạo nào? Kinh nghiệm của thập kỉ qua cho thấy rằng thậm chí nếu hệ thống hiện tại là dễ bị tổn thương đối với nhiều áp lực bên ngoài thì các nhóm xã hội có chỗ dựa đủ rộng rãi trong nước được hưởng lợi từ hệ thống này sẽ giữ cho nó được tiếp tục. Từ trước tới giờ, nhiều người dường như sẵn sàng tham gia các nhóm này để được chia phần "của họ" với sự hi sinh, nỗ lực và rủi ro tối thiểu. Trong những điều kiện như vậy, có nhiều cách khác nhau để thu nạp các thành viên mới vào giới chủ chốt hiện tại mà không có bất kì thách thức đáng kể nào cho quyền lực của nó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều lính mới sẽ đến từ các trường cao đẳng và đại học Nga. Dưới đây là một số xu hướng đứng hàng đầu gần đây. Đầu tiên, giáo dục đại học Nga ngày nay tập trung không cân xứng vào khoa học xã hội. Điều này tự nó không phải là điều xấu, nhưng các cán bộ giảng dạy đã lỗi thời và không xứng hợp, vì vậy chất lượng của nghiên cứu rất thấp. Đôi khi các giáo sư và trợ giáo chỉ đơn giản cung cấp cho sinh viên tầm nhìn riêng của họ về tình hình, và những quan điểm này thường có tính ý thức hệ hoặc những biểu hiện của lòng trung thành với giai cấp cầm quyền.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hơn nữa, một số đại diện của lớp người này chưa bao giờ giảng dạy trước đây bây giờ trở thành chủ nhiệm khoa và chủ tịch các khoa và các ban mới được thành lập với số lượng đáng ngượng. Trong các trường đại học tốt nhất của Nga, Đại học Quốc gia Lomonosov Moscow chỉ có 17 khoa khi tôi tốt nghiệp vào năm 1989. Bây giờ có 39 khoa, và trong số những khoa mới bạn có thể tìm thấy như Khoa Chính trị thế giới, đứng đầu là đại biểu Duma Andrey Kokoshin, Khoa Hành chính, đứng đầu bởi Giám đốc Nhân viên mới của Chính phủ Vyacheslav Volodin, trường cao đẳng truyền hình, dưới sự chủ trì của nhà bình luận bảo thủ cực đoan Vitaly Tretiakov. Dĩ nhiên, cả ba người này đều là viên chức đảng của Đảng nước Nga Thống nhất. Nhân đây cũng nói thêm rằng Hiệu trưởng của trường đại học này là thành viên của Hội đồng đảng nước Nga Thống nhất khu vực Moscow.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài ra, hệ thống ghi danh đã thay đổi đột biến trong những năm gần đây. Thay vì các trường cao đẳng tổ chức các kì thi, hiện nay chỉ có một kì thi quốc gia thống nhất, cho phép ngay cả những người từ các tỉnh xa với điểm cao thường có xuất xứ không rõ ràng, được truy cập dễ dàng hơn các trường cao đẳng đô thị. Những thanh niên này, hầu như đến từ giữa hư không và với một học vấn trung học rất yếu kém, phải đua tranh với các bạn đồng lứa ở các thành phố lớn có chuẩn bị tốt hơn nhiều. Tất nhiên, ngay lập tức họ nhận ra rằng lòng trung thành chính trị có thể giúp họ trong cuộc đua tranh bất bình đẳng này, điều này dựng ra sàn diễn cho một hình thức khác của việc đổi trao phong kiến.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày nay, cũng vậy, chỉ một tỉ lệ nhỏ sinh viên có thể sống nhờ vào tiền lương của cha mẹ. Phần lớn những người trẻ tuổi đều đi làm trong khi còn đi học, và họ thường làm việc trong các công ti mới của Nga tổ chức một cách thứ bậc theo phương Tây, với các truyền thống kỉ luật và hợp lí hóa mọi chức năng (chưa nói đến một số lượng không thể tưởng tượng được thủ tục giấy tờ). Chủ nghĩa cơ hội trong môi trường như</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #444444; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vậy có thể có vẻ là quá trình hợp lí duy nhất. Vì vậy, người tốt ngh</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">iệp từ một thành phố nhỏ ở xa xôi, được dạy bởi những người không chuyên nghiệp, ấn tượng sâu sắc với sự xa hoa đô thị, và có làm việc một vài năm trong văn phòng của một công ti sản xuất thực tế hầu như không có gì, sẽ tự thấy mình là ứng viên tốt nhất có thể có cho ngành thấp nhất của giới chủ chốt Nga mới. Với những người ở quê ra thành như thế được hệ thống "sản xuất" với số lượng lớn hàng năm, chế độ hiện hành có thể cảm thấy khá an toàn với nhận thức rằng nó có thể hấp thu hầu như tất cả những kẻ gây rối tiềm năng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một dự trữ nhân sự cho giới chủ chốt có thể bắt nguồn từ hàng ngũ các cơ quan “cưỡng chế” của Nga . (Chúng ta có thể gán cho các cơ quan này nhãn “thực thi pháp luật" chỉ theo nghĩa châm biếm). Dưới thời Putin họ trở nên mạnh mẽ và được nhân bội lên. Ngày nay, ở đất nước này có hơn 200.000 sĩ quan quân đội chuyên nghiệp đang thực hiện nhiệm vụ. Khoảng 1,1 triệu binh sĩ phục vụ như các nhân viên của Bộ Nội vụ, hơn 300.000 phục vụ trong Cục An ninh Liên bang, khoảng 200.000 người làm việc trong các văn phòng công tố, và khoảng 150.000 khác trong các ủy ban điều tra khác nhau. Gần như cùng một số lượng như vậy làm cảnh sát thuế và hơn 100.000 phục vụ trong Hải quan và các Sở Di trú Liên bang. Chúng tôi sẽ không đề cập đến các tổ chức nhỏ như Cục Quản lí phòng, chống ma tuý và nhiều tổ chức khác nữa. Tổng cộng, hơn 3,4 triệu người − </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gần 12% lực lượng lao động nam hoạt động</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> − làm việc trong các tổ chức gò theo các nguyên tắc tổ chức theo chiều dọc, sự phục tùng mù quáng và tham nhũng từ gốc rễ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những cơ quan này rất kém hiệu quả. Không có sự sụt giảm về số lượng tội phạm ở Nga từ 2000 tới 2009, các cuộc tấn công khủng bố ở các thành phố Nga vẫn tiếp tục, và không quá 4% các loại ma tuý buôn bán ở Nga hoặc di chuyển qua lãnh thổ Nga bị ảnh sát chặn lại. Vì vậy, các cơ quan này tìm cách che dấu trên quy mô lớn. Hàng năm, FSB </span><span style="color: #262626; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(ФСБ, </span><span style="color: #404040; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Федеральная служба безопасности</span><span style="color: #262626; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - </span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cơ quan an ninh liêng bang) báo cáo trên hàng trăm vụ tấn công khủng bố bị ngăn chặn, nhưng các báo cáo này vẫn còn phân loại mật, vì vậy chúng ta không thể xác định hiệu quả thực sự của các dịch vụ an ninh. Lưu ý rằng khoảng 89% của tất cả các trường hợp giết người và gây tổn hại nghiêm trọng đến cơ thể đã đưa đến các toà án, trong khi đối với các tội phạm kinh tế, tỉ lệ báo cáo theo số liệu thống kê chính thức chỉ là 9,8%. Điều này cho thấy rằng phần nhiều trong các trường hợp này cuối cùng được giải quyết qua những hợp đồng tham nhũng "thân hữu" giữa cảnh sát và các nhà doanh nghiệp. Số tiền trung bình hối lộ cho một cảnh sát giao thông hiện nay vào khoảng 2.000 rúp (khoảng $ 70). Để có được một công việc như "người đang làm nhiệm vụ" như vậy thường phải trả tới $ 50.000 ngay cả ở thành phố thuộc tỉnh. Thái độ phổ biến nhất của công chúng đối với cảnh sát là không tin cậy và căm ghét. Ngay cả trong trường hợp nổi tiếng ở làng Kuschevskaya thuộc khu vực Krasnodar, nơi có 12 người bị đâm tìm thấy vào tháng 11 năm 2010 và một băng nhóm từng khủng bố và hãm hiếp người dân địa phương hơn mười năm, nhưng không ai gọi cảnh sát cầu cứu, vì một số cảnh sát và thậm chí một vài đại biểu đảng nước Nga Thống nhất nằm trong số những kẻ tình nghi là tội phạm. Các cơ quan "cưỡng chế" được nhồi nhét với những người trẻ tuổi không xứng đáng nhưng đầy tham vọng, là nguồn kế cận mới của tầng lớp cầm quyền Nga.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguồn tự nhiên nhất của tầng lớp thống trị mới, như tôi đã gợi ra, là con cháu của tầng lớp hiện tại. Các con trai và con gái của các quan chức đứng đầu tích cực len lỏi vào các cơ quan chính phủ, cũng như vào đội ngũ nhân viên của các tập đoàn lớn sở hữu nhà nước và do nhà nước kiểm soát. Ví dụ, Dmitry Patrushev, con trai cả của Nikolay Patrushev, Giám đốc FSB từ 1999-2008, vào tháng 5 năm 2010, ở tuổi 32, được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành ngân hàng do nhà nước kiểm soát Rosselkhozbank, lớn thứ tư ở Nga. Sergei Matvienko, con trai của Valentina Matvienko, Thống đốc St Petersburg, bây giờ là Chủ tịch của công ti VTB-Phát triển, chi nhánh bất động sản của Ngân hàng VTB thuộc sở hữu nhà nước, và là một trong những tỉ phú trẻ nhất Nga ở tuổi 37. Sergei Ivanov, con trai của Phó Thủ tướng đã nói ở trên, chỉ mới 25 tuổi khi được bổ nhiệm làm phó chủ tịch của ngân hàng Gazprombank, chi nhánh tài chính của Gazprom, và cứ thế tiếp tục.. Người ta có thể chắc chắn rằng con cái của các quan chức hàng đầu của Nga hiện nay sẽ chiếm ít nhất một phần ba các vị trí quan trọng trong chính phủ và quản trị trong 10 đến 15 năm nữa. Và rõ ràng là không ai trong số họ sẽ có động cơ dù nhỏ nhất để thay đổi hệ thống. Họ sẽ phản đối mạnh mẽ bất kì thay đổi nào để họ có thể làm lợi cho con cái mình. Họ là những bá tước trong các chế độ phong kiến mới, và con cái của họ được sinh ra trong thái ấp.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguồn tuyển dụng ít rõ ràng nhất đến từ chiến lược mới được xây dựng về việc kết nạp các thành viên thuộc "tầng lớp trí thức" bị bỏ dở trong những năm 1990 và trong nửa đầu những năm 2000. Cái gọi là cộng đồng chuyên gia, bao gồm các nhà kinh tế, các nhà khoa học xã hội, các sử gia và nhà báo, đã bị gãy đổ trong nhiều năm. Phần lớn các nhà bình luận và các nhà nghiên cứu hàng đầu vẫn đứng ngoài các nhóm chuyên gia lớn được chế độ ủng hộ. Tuy nhiên, vẫn có thể dễ dàng tuyển dụng một phần cộng đồng này vào nhiều chương trình và sáng kiến khác nhau thuộc các loại chính phủ kiểm soát nhẹ tay hơn. Sự cám dỗ của cơ hội được trình bày quan điểm, xuất hiện trên truyền hình, tham dự các cuộc tụ họp chính thức và có thể truy cập vào các quỹ được phân phối bởi chính quyền trung ương hoặc địa phương có thể khó cưỡng lại nổi trong điều kiện thiếu thốn các lựa chọn thay thế. Từng bước một, tầng lớp thống trị có thể giảm bớt đi bất kì đối lập có thể có nào.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Còn những người tốt nhất và lanh lợi nhất của Nga thì sao? Ho có tương lai nào trong một nước Nga tân phong kiến? Trong những năm dưới thời Putin, hơn bao giờ hết các quan chức chính phủ đã làm cho giới trẻ tự do hết sức khó khăn để tham gia vào bất kì hình thức hoạt động phản đối hợp pháp nào. Không có đảng chính trị mới nào chính thức đăng kí tại Liên bang Nga kể từ đầu những năm 2000 (hai đảng đã đăng kí, Chỉ nước Nga [Just Russia]và Chính nghĩa [Right Cause], đại diện chỉ cho một phân bổ của các đảng nhỏ hơn tồn tại trước đó). Muốn tổ chức một cuộc trưng cầu đòi hỏi phải thu thập được 2.000.000 chữ kí, và thậm chí nếu yêu cầu này được đáp ứng, hầu hết các chữ kí sẽ bị tuyên bố là vô hiệu. Không một hội đồng lập pháp địa phương nào mà không bị kiểm soát bởi Đảng nước Nga thống nhất. Cùng lúc đó, chính phủ vẫn cho phép mọi người dân được rời khỏi đất nước một cách tự do. Đây không phải là điều tình cờ. Quy mô của dòng chảy các chuyên gia trẻ tuổi tài năng triển vọng nhất đổ ra khỏi nước Nga gần như không thể tin được. Không biết được các con số chính xác, nhưng các ước tính cho thấy cao đến mức 40,000-45,000 mỗi năm, và có khoảng ba triệu công dân Nga ngày nay sống ở nước ngoài ở Liên minh châu Âu.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dòng chảy này rõ ràng làm tăng “mật độ " số người xoàng xĩnh còn lại trong nước. Tổng thống Medvedev nhận ra xu hướng này có thể trở nên nguy hiểm như thế nào và muốn ngăn chặn việc ra đi bằng cách thiết lập các trung tâm khoa học "xuyên biên giới" như Skolkovo, có thể phát triển thành một khu của Nga tương đương với Silicon Valley. Nỗ lực này có nhiều khả năng thất bại − trước hết vì nhà chức trách Nga hiện nay cố gắng thu hút các học giả nước ngoài và những người Nga đã rời khỏi đất nước bằng cách đề nghị trả họ mức lương rất cao, không để ý đến thực tế rằng điều này cũng có thể thu hút cả những người coi khoa học như một hoạt động thương mại hơn là một nhiệm vụ cao quý. Andre Geim, người đã được trao giải Nobel Vật lí năm ngoái, đã cho biết rằng ông sẽ không bao giờ trở về Nga. Đây là một dấu hiệu rất rõ ràng về những gì đang xảy ra với đất nước này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tất cả điều này dẫn đến hai kết luận liên quan. Một mặt, Nga đã xây dựng nên một hệ thống trong đó việc thực thi quyền lực nhà nước đã trở thành một doanh nghiệp độc quyền. Hệ thống này chủ yếu được điều khiển bởi các bạn bè và đồng nghiệp của người tạo ra nó là Vladimir Putin, và được vận hành một cách trung thành bởi những kẻ mới đến cần mẫn nhất nhưng với tài cán kém cỏi nhất. Mọi doanh nghiệp quốc gia lớn đều có liên kết với các cơ quan liên bang hoặc bị chúng kiểm soát, còn các doanh nhân địa phương vẫn phải cố gắng mặc cả với bộ máy quan liêu khu vực. Tất cả mọi của cải mới được làm ra trong những năm 2000 đều thuộc về bạn bè của Putin và những người đã giúp ông ta xây dựng “hệ thống dọc tiêu cực” này. Vì vậy, trong những năm sắp tới, cạnh tranh bên trong giới chủ chốt sẽ giảm xuống, chất lượng quản trị sẽ tệ hại nhiều hơn nữa, và những gì còn lại của việc quản lí hiệu quả sẽ sụp đổ. Tuy nhiên, thay đổi các xu thế này vẫn sẽ là một bước hoàn toàn không hợp lí đối với tầng lớp chính trị này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc đó, có một nhóm xã hội rất lớn muốn tham gia hệ thống này, chứ không phải chống đối nó (trái ngược với những năm cuối cùng của Liên Xô). Điều này cũng giống như muốn tham gia vào chương trình Ponzi</span><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ở phía dưới đáy với hi vọng rằng người ta có thể không ở lại mãi phía dưới đáy, và rằng trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ tốt hơn so với những người còn ở bên ngoài chương trình hoàn toàn. Khi sự phi-chuyên nghiệp hoá trong chính chính phủ đi lên (cùng với "thương mại hóa" các dịch vụ nhà nước) sự cạnh tranh giữa những kẻ không chuyên nghiệp cũng sẽ tăng lên, vì nguồn cung cấp những kẻ như thế không bao giờ bị thiếu hụt. Vì vậy, trong tương lai, nhóm chủ chốt cầm quyền ít cạnh tranh nội bộ hơn sẽ có thể cùng nhau lựa chọn bất kì một số lượng đàn em nào.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #333333; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhóm chủ chốt Nga về cơ bản đã "băng đảng hoá" và tư nhân hóa một trong những nước giàu nhất thế giới. Nó rất biết ơn vì đặc quyền này đến nỗi có thể nằng nì Putin quay trở lại điện Kremlin vào năm 2012 thêm 12 năm ảm đạm nữa. Vào lúc đó, các nhóm những người trẻ phóng khoáng mà nhiều nhà phân tích phương Tây gắn hi vọng về sự thay đổi vào họ sẽ lớn lên. Những người xoàng xĩnh trong số đó sẽ thành một phần của hệ thống. Không chút nghi ngờ, hầu hết những người tốt nhất trong họ sẽ không còn cư trú ở Nga nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><br /></p><br /><br /></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-9959340023074084822022-02-04T02:02:00.007-08:002022-02-04T15:08:41.636-08:00GHI NHỚ VỀ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA 6/1975<p> <span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">MẬT</span></p><span id="docs-internal-guid-49c34e38-7fff-8a73-cdb7-3f9831e460c6"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">DS (L) 584</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Loạt hồ sơ của Ban</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban nghiên cứu</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">DS số 15/75</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">GHI NHỚ CỦA BAN NGHIÊN CỨU </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">QUẦN ĐẢO HOÀNG SA</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TÓM TẮT</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Quần đảo Hoàng Sa (HS) là một nhóm các đảo san hô và rạn san hô ở biển Đông. Từ lâu, quần đảo này đã được các thủy thủ châu Á và châu Âu biết đến. Cho đến nay, giá trị kinh tế chính của quần đảo là nguồn phân bón và các sản phẩm từ biển. (Đoạn 1 - 7)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Trong quá khứ, Pháp và Nhật đã tuyên bố chủ quyền với quần đảo này nhưng trong những năm gần đây, các bên tranh chấp là Việt Nam Cộng hòa (VNCH), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) và Trung Hoa dân quốc ở Đài Loan. Cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lẫn Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (CPCMLT) đều bỏ ngỏ lập trường của mình. Anh chưa bao giờ đòi chủ quyền quần đảo này. (Đoạn 8 - 14)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Nam Việt Nam cho rằng họ kế tục Pháp còn Pháp lại kế tục Đế quốc An Nam. Trung Quốc (TQ) đưa ra yêu sách chủ quyền dựa trên mối liên hệ lịch sử lâu dài với quần đảo. Tuy nhiên, cho đến những năm 1920, các bên yêu sách dường như ít chú ý đến quần đảo này. Trong những năm 1930, cả Pháp lẫn TQ đều thiết lập sự hiện diện trên quần đảo này, nhưng cả hai đều không tìm cách trục đuổi bên kia. Tình trạng này bị gián đoạn bởi sự chiếm đóng của Nhật Bản vào năm 1939, nhưng đã được lặp lại sau khi chiến tranh kết thúc. (Đoạn 14 - 30)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. CHNDTH và VNCH tiếp tục chính sách chung sống của các chính quyền trước đó, bất chấp các tuyên bố và phản tuyên bố và các vụ đụng độ đôi khi xảy ra, cho đến tháng 1 năm 1974 (Đoạn 31 - 38)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Sau đó, trong một cuộc tấn công quân sự ngắn, TQ đã đánh bật Việt Nam ra khỏi vị trí và thiết lập quyền kiểm soát đối với toàn bộ quần đảo. (Đoạn 39 - 42)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Lí do để thực hiện hành động này dường như đã bao hàm sự cần thiết phải đáp trả một cách kiên quyết các chỉ dấu về một chính sách tích cực hơn của Nam Việt Nam nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ ở biển Đông từ mùa thu năm 1973. Sự hiện diện có thể có của dầu trong khu vực cũng có thể là một yếu tố. (Đoạn 43 - 46)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Kể từ tháng 1 năm 1974, TQ bận rộn củng cố vị trí của họ trên quần đảo nhưng hành động quân sự của họ không làm mạnh thêm vị thế pháp lí của họ. Phía Việt Nam tiếp tục duy trì yêu sách của mình cho đến khi VNCH sụp đổ vào tháng 4 năm 1975, nhưng khó có khả năng TQ sẽ bị trục khỏi đó bây giờ. Không rõ nhà cầm quyền mới của miền Nam Việt Nam có thể sẽ có thái độ như thế nào đối với các yêu sách của TQ. (Đoạn 47 - 49)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">PHỤ LỤC A: Bản đồ biển Đông </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">PHỤ LỤC B: Bản đồ quần đảo HS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">PHỤ LỤC C: Tên các đảo</span></p><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giới thiệu</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Vào tháng 1 năm 1974, một hành động quân sự ngắn ngủi đã diễn ra tại quần đảo Hoàng Sa (HS) trên biển Đông, kết quả là quân CHNDTH đánh bật quân VNCH khỏi các đảo trong nhóm mà cho đến nay họ đã kiểm soát, và khẳng định quyền kiểm soát của TQ đối với tất cả các đảo thuộc quần đảo HS. Do đó, sự chú ý lại tập trung vào quần đảo HS vốn là đối tượng của các yêu sách trái ngược nhau. Bài viết này cập nhật và mở rộng bản ghi nhớ của Ban Nghiên cứu (LR 17/20) về cùng chủ đề được đưa ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1959. Bài viết có tính đến nhiều thông tin lịch sử mới liên quan đến chủ quyền đối với quần đảo đã được đưa ra ánh sáng từ năm 1959.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vị trí địa lí và các đặc điểm tự nhiên</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Quần đảo Hoàng Sa được tạo thành từ 200 đảo san hô và bãi đá ngầm. Tại Phụ lục A là bản đồ thể hiện tình hình của nhóm trên biển Đông, và tại Phụ lục B là bản đồ thể hiện các đảo của nhóm. Danh sách các đảo mang tên TQ và Việt Nam, nếu biết được, và tọa độ địa lí của chúng nằm ở Phụ lục C. Các đảo nằm trong khoảng từ 17° 20 'đến 16° bắc và từ 111° 13' đến 113° đông. Chúng nằm rải rác trên một khu vực dài khoảng 90 dặm và rộng 90 dặm. Trung tâm của nhóm cách đảo Hải Nam khoảng 200 dặm về phía đông nam, thuộc tỉnh Quảng Đông CHNDTH, và cách thành phố Đà Nẵng của VNCH khoảng 250 dặm về phía đông. Tuy nhiên, có một số bãi đá trong nhóm chỉ nằm cách bờ biển của CHNDTH khoảng 122 dặm, và một hòn đảo, Tri Tôn, cách đất liền Nam Việt Nam khoảng 130 dặm. Các đảo đều là đóng thấp; điểm cao nhất có vẻ là trên đảo Đá (Rocky), cao hơn mực nước biển không quá 40-50 feet.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Quần đảo này nằm trên tuyến đường biển trực tiếp từ Nam TQ đến Đông Nam Á. Rõ ràng là quần đảo này đã được các thủy thủ châu Âu biết đến ít nhất là vào cuối thế kỉ 16. Chẳng hạn, chúng xuất hiện với tên gọi "Ilha de Pracel" trên bản đồ trong bản in năm 1595 ở London của cuốn sách Discours of Voyages của Linschotten người Hà Lan. Chúng cũng được thể hiện trên nhiều bản đồ châu Âu được xuất bản trong suốt hai thế kỉ sau đó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Hầu hết các công việc khảo sát trên quần đảo dường như được thực hiện bởi các thủy thủ Anh; điều này giúp giải thích tại sao rất nhiều quần đảo và rạn san hô có tên tiếng Anh. Một số tên trong số này sau đó đã được TQ và Việt Nam sử dụng qua việc dịch hoặc phiên âm theo các tên gốc tiếng Anh.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Các mô tả chi tiết về các kênh và nơi neo đậu của quần đảo có thể được tìm thấy trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Sea Pilot</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Hoa tiêu biển Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tập 1 trang 100-106 (do Hydrographer to the Navy xuất bản, bản in lần 3, London 1964). Một số lượng lớn xác tàu trên các đảo được mô tả trong sách đó chỉ ra cả tầm quan trọng của tuyến đường lẫn bản chất nguy hiểm của vùng biển xung quanh.</span></p><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đặc điểm của quần đảo</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Có nước ngọt và thực vật trên một số đảo, nhưng không có dân bản địa. Khí hậu là nhiệt đới. Cho đến nay giá trị kinh tế chính của quần đảo là nơi dừng chân của ngư dân cả TQ lẫn Việt Nam, đồng thời là nguồn cung cấp phân chim và phốt phát. Bản ghi nhớ của Ban Nghiên cứu năm 1959 lưu ý rằng các báo cáo của TQ nêu rằng họ đã dành số tiền tương đương 114.000 bảng Anh để trang bị cho việc phát triển phân bón trên quần đảo. Khoảng 100 000 tấn được vận chuyển năm 1958, Người ta cũng tuyên bố rằng các sản phẩm biển trị giá 2,7 triệu nhân dân tệ đã thu được từ quần đảo vào năm 1958. Tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Peking Kuangming Jihpao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Quang Minh nhật báo Bắc KInh) ngày 8 tháng 4 năm 1974 cho biết rằng vào năm 1973, khoảng 2000 picul (1 picul = khoảng 133 lbs : tạ) của các hải sản được lấy từ Hoàng Sa, và dự kiến rằng sản lượng của năm 1974 sẽ còn lớn hơn nữa. Một bài báo trước đó của Quang Minh, ngày 19 tháng 2 năm 1974, lưu ý rằng có dừa trên quần đảo cho trái nhiều. Hiện nay người ta cho rằng có thể có các mỏ dầu có giá trị trong khu vực này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Vào những năm 1930, người ta tin rằng quần đảo này có thể có giá trị chiến lược như một căn cứ thủy phi cơ. Trên thực tế, quần đảo không được sử dụng cho mục đích như vậy. Nó được coi là có vị trí tốt cho các mục đích khí tượng.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các bên yêu sách quần đảo</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. Trong quá khứ Pháp và Nhật đều yêu sách chủ quyền quần đảo này. Yêu sách của Pháp, dựa trên việc Pháp vốn là nước kế tục Đế quốc An Nam, có vẻ đã được chuyển cho Việt Nam từ năm 1954. Điều đó được thảo luận phía dưới. Yêu sách của Nhật, vốn bị người Pháp và người TQ tranh chấp, chỉ tính từ năm 1939 khi hải quân Nhật chiếm đóng quần đảo HS sau khi chiếm đảo Hải Nam. Theo Điều 2 (f) của Hiệp ước Hòa bình San Francisco 1951, Nhật Bản từ bỏ "Tất cả các quyền, quyền sở hữu và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo HS''.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. Trong những năm gần đây, có hai nước yêu sách chủ quyền với quần đảo này: VNCH (Nam Việt Nam) và CHNDTH. Phe Quốc dân đảng TQ ở Đài Loan (những người tự xưng là chính phủ hợp pháp của TQ) cũng vậy, cho rằng quần đảo này thuộc về TQ. Vì Đài Loan không phải là một quốc gia riêng biệt nên các hành động của phe Quốc dân đảng hoặc nhân danh họ chỉ thích đáng trong mối liên hệ đến yêu sách của TQ. Chỉ những hành động diễn ra trước năm 1950 (khi Quốc dân đảng theo quan điểm của chúng tôi không còn là Chính phủ của TQ) mới giúp củng cố các yêu sách của TQ. Các hành vi kể từ năm 1950 về mặt pháp lí nghiêm ngặt là không thích đáng đối với vấn đề chủ quyền. Trên thực tế, kể từ khoảng năm 1950 không hề có sự hiện diện của phe Quốc dân đảng TQ trên quần đảo HS, và sự quan tâm của họ đối với quần đảo này dường như chỉ giới hạn ở những tuyên bố không thường xuyên rằng quần đảo này là của TQ. Quần đảo cũng được thể hiện như là của TQ trên các bản đồ được xuất bản dưới sự bảo trợ của Quốc dân đảng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10. Một bên yêu sách tiềm năng khác, VNDCCH (Bắc Việt Nam), có thể đưa ra yêu sách như một quốc gia kế thừa Đông Dương thuộc Pháp, cho đến năm 1974 rõ ràng đã ngầm chấp nhận yêu sách của TQ. Ngày 22 tháng 9 năm 1958, Bắc Việt tuyên bố thừa nhận Tuyên bố của Chính phủ TQ vào ngày 4 tháng 9 vào ngày 14 tháng 9 về phạm vi lãnh hải của TQ. Việc chấp nhận này được thông báo theo các lời lẽ chung chung và không đề cập cụ thể đến các đảo, kể cả quần đảo HS, được liệt kê trong Tuyên bố của TQ như là lãnh thổ của TQ. Người ta từng tin rằng không có khả năng Bắc Việt thách thức yêu sách của TQ đối với quần đảo này. Tuy nhiên, một số nghi ngờ đã được đặt ra đối với niềm tin này bởi phản ứng của Bắc Việt đối với các sự kiện ở quần đảo HS vào tháng 1 năm 1974. Lúc đầu, Bắc Việt không sẵn sàng đưa ra bình luận, nhưng sau đó vào ngày 22 tháng 1, Bộ Ngoại giao Bắc Việt nói với Phóng viên AFP:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 22.5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">"Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là sự nghiệp thiêng liêng của mỗi người dân. Các vấn đề về lãnh thổ và biên giới giữa các nước láng giềng thường là kết quả của các tranh chấp lịch sử và đòi hỏi phải xem xét thật cẩn thận và nghiêm ngặt. Những vấn đề này phải được giải quyết qua thương lượng và trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt đẹp ”.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù tuyên bố này dường như ngụ ý rằng câu hỏi về quần đảo HS là một vấn đề cần thảo luận và Bắc Việt không sẵn sàng tán thành các yêu sách của TQ hoặc Nam Việt Nam, nhưng không có dấu hiệu tiếp theo nào về cách Bắc Việt nghĩ về câu hỏi này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (CPCMLT), hiện nay (tháng 5 năm 1975) nắm quyền kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam, trong quá khứ chưa bao giờ đưa ra yêu sách cụ thể đối với quần đảo này. Sau cuộc đụng độ tháng 1 năm 1974, các phát ngôn viên của CPCMLT thường không chấp nhận bị lôi kéo vào câu hỏi về quần đảo HS. Tuy nhiên, báo cáo từ Sài Gòn cho biết tại Uỷ ban Liên hợp quân sự hai bên ở Sài Gòn ngày 30 tháng 1 năm 1974, một người phát ngôn của CPCMLT có nói: "Sự cố quần đảo HS một ngày nào đó sẽ được giải quyết trên tinh thần anh em và hòa giải". Trong các báo cáo do các nguồn của chính phủ VNCH đưa ra, các đại diện của CPCMLT tại Bắc Kinh và New Delhi đã bình luận về cuộc đụng độ Hoàng Sa tương tự như những điều mà Bắc Việt Nam sử dụng được trích dẫn ở trên. Do đó, có vẻ như CPCMLT cũng hàm ý rằng có một cuộc tranh chấp mà họ có thể là một bên trong đó. Việc các lực lượng tự xưng đại diện cho CPCMLT chiếm đóng gần đây đối với một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa trước đây do VNCH nắm giữ cũng có thể có những hàm ý đối với Hoàng Sa.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lập trường của Anh</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12. Mặc dù quần đảo HS đã được các thủy thủ Anh biết đến từ lâu, nhưng Anh chưa bao giờ quan tâm nhiều đến quần đảo này. Chưa bao giờ có yêu sách của người Anh đối với bất kì đảo nào và Anh tránh đưa ra bất kỉ lập trường công khai nào đối với quyền sở hữu của chúng. Cách tiếp cận gần nhất đối với lập trường công khai của Anh là tuyên bố trong China Sea Pilot (Hoa tiêu biển Đông) rằng TQ sáp nhập các đảo vào năm 1909. Quyển</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hoa tiêu biển Đông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là một ấn phẩm chính thức.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Quan điểm của Anh vào đầu thế kỉ 20 dường như cho rằng quần đảo này thuộc trách nhiệm của TQ. Vào những năm 1920, khi Pháp quan tâm đến quần đảo, Anh có xu hướng ủng hộ yêu sách của TQ chống lại Pháp, vì những lí do chiến lược. Quan điểm này của Anh vẫn tiếp tục duy trì cho đến khi Nhật sáp nhập quần đảo vào năm 1939, Bộ Hải quân đặc biệt quan tâm đến việc giữ quần đảo này nằm khỏi tay người Pháp.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14. Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quan tâm chính của Anh là ngăn ngừa tranh chấp Hoàng Sa dẫn đến một sự cố quốc tế lớn. Do đó, trong sự kiện 1959, được mô tả dưới đây, Đại sứ Anh tại Sài Gòn đã được chỉ thị cảnh báo Tổng thống Diệm về những nguy hiểm liên quan đến việc Việt Nam bắt giữ ngư dân TQ. Trong cuộc đụng độ gần đây nhất vào tháng 1 năm 1974, Anh đã từ chối đưa ra một lập trường công khai.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Yêu sách của VNCH</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. Yêu sách của Việt Nam, như đã kê ra, chẳng hạn, trong ấn phẩm của Bộ Thông tin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vietnam Yesterday and Today</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tháng 1 - tháng 2 năm 1974, trong một bức thư của Bộ Ngoại giao VNCH gửi Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vào tháng 1 năm 1974, và trong Bạch thư về các quần đảo HS (Paracels) và Trường Sa (Spratlys), do Bộ Ngoại giao Saigon phát hành vào tháng 2 năm 1975, đã trình bày như sau:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) Chủ quyền đối với quần đảo này đã được Đế quốc An Nam, Pháp và nay là VNCH lần lượt thực thi. Có thể khẳng định rằng quần đảo này đã được người dân Việt Nam biết đến ít nhất từ năm 1700 khi chúng được Hoàng đế An Nam lúc bấy giờ chỉ định cho "Đội Hoàng Sa" (Quần đảo Cát Vàng). Vào thời điểm đó, quyền độc quyền khai thác tài nguyên trên đảo đã được Hoàng đế trao cho một số binh lính nhất định. Một số tài liệu nói rằng Đế quốc An Nam bắt đầu thực hiện chủ quyền đối với quần đảo từ việc thành lập một đơn vị phòng thủ đặc biệt cho Hoàng Sa vào năm 1802; các tài liệu khác nói rằng quần đảo đã được Hoàng đế chính thức sáp nhập vào năm 1816. Từ đó trở đi, quần đảo được thể hiện trên bản đồ của An Nam, trong khi yêu sách đối với quần đảo được củng cố qua việc xây dựng một ngôi miếu và các công trình kiến trúc khác. Với việc Pháp nắm quyền ở Đông Dương vào cuối thế kỉ 19, quyền quản lí quần đảo được chuyển qua những người cai trị mới của An Nam. Trong thời kì này, phía TQ không đưa ra bất kì yêu sách nào đối với quần đảo và thực ra đã không nhận trách nhiệm đối với nó liên quan đến các đơn khiếu nại Bảo hiểm phát sinh từ vụ hai tàu (tàu "Bellona" và "Himeji Maru") bị đắm vào năm 1894 và 1895 .</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(b) Các tài liệu của Việt Nam thừa nhận rằng người Pháp không quan tâm nhiều đến quần đảo này vào đầu thế kỉ 20, và do sự thờ ơ này, không có sự phản đối nào của phía Pháp khi Chính phủ TQ sáp nhập quần đảo này vào năm 1909. Sự quan tâm ngày càng tăng của Nhật Bản đối với quần đảo này trước những năm 1920 cũng bị người Pháp phớt lờ.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(c) Nhưng từ khoảng năm 1920 trở đi, người Pháp tích cực khẳng định quyền kiểm soát của họ đối với quần đảo. Họ bắt đầu tuần tra thường xuyên bằng tàu hải quan và hải quân, dựng một đèn biển và đặt một đồn trú đóng nhỏ của lính An Nam trên một đảo trong quần đảo. Năm 1932, quần đảo HS được chính thức sáp nhập vào Đông Dương thuộc Pháp như một đơn vị hành chính. Hành động này của Pháp đã được hoàng đế Bảo Đại xác nhận vào năm 1938.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(d) Việc kiểm soát quần đảo bị gián đoạn do sự chiếm đóng của Nhật từ năm 1939 đến năm 1945, nhưng đã được tiếp tục lại vào năm 1945. Yêu sách đối với quần đảo này được khẳng định tại Hội nghị Hòa bình San Francisco năm 1951, và cùng với sự kết thúc sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam vào năm 1954, quyền kiểm soát các đảo được chuyển giao cho VNCH.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem xét lại yêu sách của Việt Nam</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16. Không thể xác minh phần lớn tuyên bố lịch sử suốt thời kì tiền Pháp. Cuốn sách gần đây do Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên xuất bản tại Saigon (Võ Long Tê, Les Archipels de Hoàng-Sa et de Trường-Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens d'histoire et de géographie [Quần đảo HS và TS theo sách sử địa cổ của VN], Saigon, 1974.) chứa các đoạn trích từ các sách vở cũ hậu thuẫn yêu sách của Việt Nam rằng quần đảo này đã được Đế quốc An Nam biết đến ít nhất từ thế kỉ 18. Quần đảo được thể hiện trên một số bản đồ đương đại của Đế quốc An Nam được in lại trong sách, ví dụ như trong "Đại Nam Nhất thống toàn đồ" được sản xuất vào khoảng năm 1838, nhưng công trình này không chứa bất kì bằng chứng nào hậu thuẫn cho tuyên bố rằng các đảo được chính thức sáp nhập vào Đế quốc An Nam vào năm 1802 hoặc năm 1816. Bạch thư năm 1975 cũng vậy.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">17. Một số sách phương Tây thế kỉ 19 đề cập đến quần đảo, nhưng không phải tất cả đều hậu thuẫn lập luận của Việt Nam. Một sĩ quan hải quân Mĩ, John White, từng đến quần đảo vào thập kỉ 1820 đã mô tả chúng rất chi tiết, nhưng không cho biết chúng thuộc về ai (A </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Voyage to Cochin China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London 1824, trang 95-96). Năm 1930, Thư viện Văn phòng Ngoại giao cho rằng tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gazetteer of the World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> năm 1856 đã liệt kê quần đảo này là phụ thuộc của Đế chế An Nam. Một công trình mô tả về Cochin China (xứ Đàng Trong) được xuất bản tại Paris năm 1862 đã liệt kê các lãnh thổ tạo nên xứ Đàng Trong, và ngày mà những lãnh thổ này được Pháp nắm lấy. Về Hoàng Sa, nó có ghi: "Beaucoup plus loin de la côte en face de Hue, est l'archipel de Paracel, ou Kat-vang, rempli d'écueils ...." [Cách rất xa bờ biển đối diện với Huế là quần đảo HS, hay Kát Vàng, phủ đầy với các rạn san hô…] (E Cortambert và Leon de Rosny, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tableau de la Cochin-Chine</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Paris, 1862, trang 7). Ngày nắm giữ các quần đảo không được đưa ra. Một sách khác, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Souvenirs de Huế</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của Michel đức Chaigneau, xuất bản ở Paris năm 1867, viết rằng: "La royaume d'Annam, qui occupe presque tout le littoral de l'Indo-Chine, est composé de la Cochin-Chine, de Tonquin, d'une partie du Cambodge, de quelques l'îles près de la côte, et de l'archipel de Paracel, formé d'îlot, d'écueils et et de rochers inhabités."[Vương quốc An Nam chiếm gần như toàn bộ vùng ven biển của Đông Dương, bao gồm Đàng Trong, Đàng Ngoài, một phần của Campuchia, một số đảo gần bờ, và quần đảo HS được hình thành từ các đảo nhỏ, rạn san hô, đá không người ở].</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ghi chú:</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các tài liệu Việt Nam thường gán cuốn sách này cho Chaigneau cha, tức là JB Chaigneau, người đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ Pháp-An Nam vào đầu thế kỉ 19, và đã mất vào năm 1820, thay vì gán cho con trai ông, do đó hàm ý răng bằng chứng "độc lập" cho HS thuộc An Nam có sớm hơn nhiều).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Việt Nam khẳng định rằng việc TQ xử lí các đơn đòi bảo hiểm phát sinh từ vụ 2 tàu "Bellona" và "Himeji Maru" bị chìm trên quần đảo HS lần lượt vào năm 1894 và 1895, hậu thuẫn quan điểm của họ rằng Hoàng Sa chưa bao giờ là của TQ. Phiên bản của Việt Nam là sau vụ hai tàu đắm này, các công ti Anh bảo hiểm số đồng chở trên tàu đã tìm cách nhờ Bộ trưởng Anh tại Bắc Kinh giúp đỡ trong việc khắc phục hậu quả vì số hàng này đã bị ngư dân từ đảo Hải Nam của TQ hôi của. Phiên bản đó cáo buộc Chính quyền TQ đã từ chối tất cả trách nhiệm và cho rằng quần đảo này không thuộc Hải Nam, do đó theo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vietnam Yesterday and Today, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">"ngầm đùn đẩy trách nhiệm lại cho chính quyền Đông Dương".</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. Xem xét lại các hồ sơ của Bộ Ngoại giao Anh liên quan đến vụ này không xác nhận cách giải thích của Việt Nam về các sự kiện này. Các tài liệu này nêu rõ rằng Chính phủ TQ đã từ chối xem xét đơn đòi bồi thường của các công ti Bảo hiểm trên các cơ sở sau: (i) rằng các đơn đó đã được nộp sau sự kiện có liên quan rất lâu; (ii) rằng các công ti đã không thực hiện đầy đủ nỗ lực để cứu hộ; và (iii) một phần của đơn khiếu nại, liên quan đến việc các nhà chức trách trên đảo Hải Nam không cung cấp trợ giúp thích đáng trong việc truy tìm số đồng bị đánh cắp, không có giá trị vì các quy định về cứu hộ năm 1876 của TQ không được tuân thủ. Tại Luân Đôn, các quan chức luật Hoàng gia lập luận rằng có thể đã tồn tại một khiếu nại hợp lệ với nhà chức trách ở Hải Nam vì đã không trợ giúp trong việc việc thu hồi đồng, nhưng sự chậm trễ quá lớn có nghĩa là không nên ép đưa đơn khiếu nại bồi thường. Không có gì trong các giấy tờ này cho thấy TQ phủ nhận việc họ có trách nhiệm đối với các đảo và chắc chắn không có đề cập đến trách nhiệm đối với các đảo nằm về chính quyền Pháp ở Đông Dương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lưu ý</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Bản sao của những giấy tờ này đã được chuyển đến toà Đại sứ Nam Việt Nam tại London vào năm 1974, theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao tại Sài Gòn sau khi HMG [CP Anh] chỉ ra rằng hồ sơ của chúng tôi không hậu thuẫn quan điểm đưa ra trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vietnam Yesterday and Today</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Có thể vì vậy, tuyên bố cuối cùng của Việt Nam về vụ này mà chúng ta thấy, tức là Bạch thư tháng 2 năm 1975, không đề cập đến lập luận dựa trên hai vụ đắm tàu.)</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">20. Sự quan tâm của người Pháp đối với quần đảo sau năm 1920 được ghi nhận đầy đủ. Việc tuần tra tích cực hơn của hải quân đối với quần đảo được đề cập trong một cuốn sách nhỏ của P A M Lapique, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A Propos de îles Paracels,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> xuất bản tại Sài Gòn năm 1929. Cuốn sách của Võ Long Tê và Bạch thư trích dẫn mô tả chính thức của Tuyên bố 1932 và 1938 như: "Arrête No 156 SC de 15 Juin 1932 du Gouverneur Général de l'Indochine portant sur l'organisation administrative des îles de Hoang-Sa à la province de Thừa-Thiên" [Sắc lệnh số 156 SC ngày 15/6/1932 của Toàn quyền Đông Dương về tổ chức hành chính của quần đảo HS thuộc tỉnh Thừa Thiên]. (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nam-triều Quốc-ngữ Công-báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Bulletin officiel [de la court de Huế en langue annamite], năm 1931, No 8, trang 223). Một Sắc lệnh năm 1939 của Toàn quyền Pháp sửa đổi Sắc lệnh năm 1932 như sau: Hai "Phái đoàn hành chính" được thành lập tại quần đảo HS dưới tên gọi "Phái đoàn Crescent (Trăng Khuyết) và các đảo phụ thuộc" và "Phái đoàn Amphitrite (An Vĩnh) và các đảo phụ thuộc”. Các quan chức đứng đầu hai "phái đoàn" này sẽ cư trú lần lượt trên đảo Hoàng Sa và đảo Phú Lâm (Bulletin Administratif de l'Annam số 9 ngày 5 tháng 6 năm 1939.) Nhiều báo cáo chính thức khác nhau nói rõ rằng người Pháp đã đóng quân ỏ một số đảo của nhóm này vào những năm 1930 và cũng dựng lên các tòa nhà, trong đó có cả "đồn cảnh sát" trên các đảo Phú Lâm và đảo Hoàng Sa và một đèn biển trên đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, hiện không có ngọn đèn biển nào được liệt kê trên đảo này trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Sea Pilot</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. Sắc lệnh năm 1939 của Toàn quyền Pháp có vẻ đã được ban hành sau khi quân Nhật nắm giữ quần đảo HS. Công báo Nhật Bản ngày 18 tháng 4 năm 1939, công bố Sắc lênh ngày 30 tháng 3 năm 1939 thông báo việc sáp nhập "Shinnan Gunto" (Tân Nam quần đảo) vào Đế quốc Nhật Bản - một cụm từ được sử dụng để chỉ cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa. Một bản fax của sắc lệnh Nhật Bản được tìm thấy trên tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ming Pao Monthly</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Minh báo nguyệt san), Hong Kong, tháng 12 năm 1974.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22. Mặc dù Việt Nam khẳng định rằng Pháp đã chiếm lại Hoàng Sa vào đầu năm 1946, nhưng người Pháp dường như không có bất kì hành động nào đối với quần đảo này cho đến khi Bộ Ngoại giao TQ thông báo vào tháng 1 năm 1947 rằng TQ đã chiếm đóng quần đảo HS sau khi Nhật thua trận. Pháp phản đối và phái một tàu khu trục nhỏ, "La Tonkinoise'', đến quần đảo HS. Phía Pháp không cố tìm cách gây chiến với phía TQ, nhưng một nhóm từ tàu này đã được đổ bộ lên đảo Hoàng Sa. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời báo New York</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đưa tin vào tháng 8 năm 1947 rằng cả hai nhóm quân vẫn còn ở trên quần đảo. Có nguồn tin cho rằng Pháp vẫn trú đóng trên đảo Hoàng Sa cho đến ít nhất là năm 1952.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23. Việt Nam khẳng định rằng yêu sách của họ đối với quần đảo này đã được đưa ra trước Hội nghị Hòa bình San Francisco năm 1951 - "Việt Nam" tham dự Hội nghị với tư cách là một Quốc gia trong khối liên hiệp Pháp, và đã kí kết Hiệp ước Hòa bình được nhắc đến trong các tường thuật báo chí đương thời, chẳng hạn như báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếng Dội</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ở Sài Gòn ngày 13 tháng 9 năm 1951 và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Revue France-asie</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tháng 12 năm 1951. Chưa xác nhận được là có thể truy tìm một tuyên bố như vậy trong hồ sơ chính thức của Hội nghị Hòa bình do Văn phòng Ngoại vụ lưu giữ. Đó có thể là tuyên bố này được đưa ra bên ngoài các phiên chính thức của Hội nghị. Cũng chưa xác nhận được có thể truy được bằng chứng nào về việc Pháp chính thức bàn giao quần đảo này cho VNCH năm 1954 hoặc sau đó. Rõ ràng là vào năm 1955, VNCH đã có quân đóng trên một số đảo, và năm 1956, đại diện Ngoại giao của Pháp tại Manila nói với Đại sứ Anh rằng, trong khi Pháp vẫn duy trì yêu sách đối với quần đảo Trường Sa, thì yêu sách đối với quần đảo HS đã chuyển cho Việt Nam. Bộ Ngoại giao Pháp đã xác nhận riêng vào tháng 1 năm 1974 rằng họ coi các tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với cả Trường Sa và Hoàng Sa như đã hết hiệu lực, nhưng họ không muốn công bố rộng rãi về điều này.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Yêu sách của CHNDTH</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24. Yêu sách của CHNDTH đối với quần đảo HS phần lớn dựa trên một kết nối lịch sử lâu dài. Nó lờ đi sự hiện diện của Pháp và Việt Nam trên các đảo, hàm ý rằng thách thức duy nhất đối với người TQ là từ người Nhật. Theo phía TQ:</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 27pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(a) Quần đảo này đã được TQ biết đến trong hơn một ngàn năm. Nó đã được ngư dân TQ thường xuyên lui tới ít nhất là từ thế kỉ 15. Quần đảo này đã xuất hiện trên bản đồ TQ kể từ thời kì đó và được nói đến trong sách vở TQ, dù các tên "Hsuan-Te Ch'un-Tao" (Tuyên Đức quần đảo) cho nhóm An Vĩnh và "Yung-lo Ch'un-Tao" (Vĩnh Lạc quần đảo) cho nhóm Lưỡi Liềm là tên thời nhà Minh (nhà Minh từ 1368-1644). Theo một bài báo của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân Nhật báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vào ngày 5 tháng 6 năm 1950 với tựa đề "Sự xâm phạm chủ quyền của TQ đối với quần đảo Nam Sa là không thể dung thứ", Nhóm đảo này như một tổng thể được gọi là "Ch'i-chou-yang" (Thất Châu Dương) hay "Đại dương 7 đảo)”, và thường được nói đến bằng cái tên này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 27pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(b) Năm 1907, tư lệnh hải quân của tỉnh Quảng Đông, đề đốc Li Chuẩn, do bị báo động trước sự quan tâm ngày càng tăng của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông, đặc biệt là ở rạn đá Pratas, đã cử một phái đoàn đến thị sát các đảo khác nhau và làm rõ chủ quyền của TQ qua việc dựng cờ và cột mốc. Quần đảo HS đã được đến viếng như một phần của cuộc thực hành này, và Li Chuẩn đã thấy các ngư dân TQ đang làm việc trên quần đảo này. TQ thừa nhận rằng những biện pháp này không ngăn cản được sự quan tâm của Nhật Bản đối với quần đảo, nhưng tuyên bố rằng TQ luôn kiên cường chống lại sự xâm lấn của Nhật và phần lớn đã thành công trong việc này cho đến khi Nhật sáp nhập quần đảo vào năm 1939.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 27pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(c) Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, "Chính phủ TQ lúc đó" đã tiếp thu quần đảo HS sau khi Nhật Bản đầu hàng. Sau khi nước CHNDTH được thành lập, Chính phủ mới đã thực hiện các biện pháp tích cực để khẳng định chủ quyền và quyền kiểm soát hiệu quả của mình đối với quần đảo này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem xét lại yêu sách của TQ</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Đúng là quần đảo này xuất hiện trên bản đồ TQ và được nhắc đến trong sách du kí và lịch sử của TQ ít nhất là từ thời nhà Minh. Một số ví dụ về bản đồ và sách vở có từ thời kì này có thể được tìm thấy trong một bài báo trên tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minh Báo Nguyệt san</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của Hồng Kông tháng 5 năm 1974. Loại bằng chứng này tự bản thân nó không cấu thành bằng chứng có tính quyết định rằng quần đảo này là của TQ. Không có thông tin thực chất nào có thể tiếp cận được chỉ ra việc TQ quan tâm tích cực đối với quần đảo trong thế kỉ 19. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là chính quyền Quảng Đông đã không chối bỏ một cách tường minh trong vụ "Bellona" và "Himeji Maru" rằng quần đảo có thể thuộc trách nhiệm của họ. Họ dường như cũng biết rằng các ngư dân từ Hải Nam đã có đến quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">26. Bằng chứng thực sự đầu tiên về sự quan tâm tích cực của TQ đối với quần đảo có vẻ là vào năm 1909, không phải năm 1907 như TQ khẳng định. Vào tháng 7 năm 1909, Bộ trưởng Anh tại Bắc Kinh báo cáo rằng đề đốc Lí Chuẩn đã đến quần đảo này do tranh chấp với Nhật Bản về rạn đá Pratas. Theo tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bưu điện Hoa nam Buổi sáng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngày 10 tháng 6 năm 1909, chuyến đi tới các đảo khác nhau không nhằm mục đích sáp nhập lãnh thổ mới, mà để khẳng định lại yêu sách của TQ đối với các đảo ở biển Đông. Không đề cập nào được đưa ra về quan tâm của Đông Dương thuộc Pháp đối với quần đảo. Thủ thư Bộ Ngoại giao, tổng hợp những gì đã biết về Hoàng Sa vào năm 1920, lưu ý rằng vào năm 1912-1913, British Imperial Merchant Service Guild [Hiệp hội Dịch vụ Thương gia Hoàng gia Anh Guild] (một cơ quan tư nhân liên quan đến việc cung cấp đèn biển) đã cố gắng cho xây một đèn biển trên quần đảo HS. Nhân viên của Guild tại Sài Gòn đã báo cáo vào thời điểm đó rằng quần đảo này là của TQ, đã được sáp nhập vào năm 1909.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Có rất ít bằng chứng khác về sự quan tâm của TQ đối với quần đảo từ sau năm 1909 cho đến cuối những năm 1920. Văn phòng Ngoại giao Anh nói với Bộ Hải quân vào tháng 10 năm 1922 rằng Hải quan TQ khi đó đang có ý định phái một tàu thu thuế hải quan đến quần đảo này để biểu thị chủ quyền của TQ và thực hiện một cuộc khảo sát. Không rõ chuyến đi này có thật sự diễn ra hay không. Có bằng chứng cho thấy Chính quyền tỉnh Quảng Đông đã tiến hành khảo sát quần đảo vào năm 1927 hoặc 1925. Năm 1930, một báo cáo của cơ quan báo chí nói rằng Chính phủ TQ đề nghị thành lập một trạm thời tiết và trạm vô tuyến trên quần đảo. Tờ British Legation ở Bắc Kinh năm 1930 cũng đã tường thuật rằng TQ đang nghĩ đến việc thắp sáng các hòn đảo.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. Mặc dù CHNDTH đã phớt lờ việc Pháp sáp nhập các đảo vào năm 1932 khi chi tiết hoá tuyên bố chủ quyền của mình, nhưng Chính phủ TQ khi đó có phản đối sắc lệnh sáp nhập quần đảo của Pháp. Tờ British Legation đưa tin rằng các bài báo bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo đã xuất hiện trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minkuo Jihpao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Dân quốc Nhật báo) - báo của Quốc dân đảng cầm quyền ngày 19 tháng 5 năm 1932 và trên tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shih Chieh Jihpao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Thế giới Nhật báo) ngày 3 tháng 8 năm 1932. Một bài báo khác về lập trường của TQ, trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minkuo Jihpao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngày 8 tháng 8 năm 1932, được in lại dưới dạng fax trên tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minh Báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cho tháng 12 năm 1974. Quần đảo Hoàng Sa, cũng như quần đảo Trường Sa, được thể hiện là lãnh thổ TQ trong tập Bản đồ Bưu điện chính thức của TQ, do Tổng giám đốc Bưu điện xuất bản ở Nam Kinh năm 1936.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">29. Quân đội TQ đóng trên đảo Phú Lâm vào năm 1947 (xem đoạn 22 ở trên), dường như đã ở lại quần đảo này cho đến khi phe Quốc dân đảng TQ bị phe Cộng sản đánh bại vào năm 1949. Không rõ quân Quốc dân đảng rút khỏi quần đảo khi nào; phía Pháp đã báo cáo vào tháng 5 năm 1950 rằng cờ của Quốc dân Đảng TQ vẫn còn bay trên một số đảo ở nhóm phía bắc của quần đảo HS. Có khả năng cuộc rút lui của phe Quốc dân đảng đã diễn ra trước khi Pháp tới, gần như ngay sau đó. Sau khi quân Cộng sản chiếm được đảo Hải Nam vào tháng 4 năm 1950, quân Quốc dân đảng sẽ rất khó tiếp tục tiếp tế cho quân lính đóng trên quần đảo HS. Một báo cáo của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">United Press</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ Đài Bắc vào tháng 9 năm 1951 nói rằng không có quân lính Quốc dân đảng nào trên đó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Không rõ Chính quyền mới của TQ đưa ra yêu sách của TQ đối với quần đảo HS lại vào lúc nào. Mặc dù chương trình phát sóng vào tháng 5 năm 1950 từ Đài phát thanh Bắc Kinh, có dẫn "các nguồn có thẩm quyền" (sic) ở Bắc Kinh, có nói đến quần đảo Trường Sa và các đảo khác ở biển Đông, là của TQ, không có đề cập cụ thể nào tới quần đảo HS. Tuyên bố chính thức đầu tiên đề cập đến quần đảo này được đưa ra trong tuyên bố của Chou En-Lai về bản dự thảo Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản của Mĩ - Anh vào ngày 15 tháng 7 năm 1951, họ Chu khi đó là Bộ trưởng Ngoại giao. Tuyên bố này lưu ý rằng dự thảo Hiệp ước quy định việc Nhật từ bỏ Hoàng Sa và các đảo khác nhưng không giao chúng cho quốc gia nào. Chu phản đối sự thiếu sót này và khẳng định yêu sách của TQ về "chủ quyền bất khả xâm phạm" đối với quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. Mặc dù CHNDTH không được mời tham dự Hội nghị San Francisco, nhưng quan điểm của nước này về quần đảo HS và các vùng lãnh thổ khác có nêu trong Hiệp ước Hòa bình đã được Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, ông Gromyko đưa ra vào ngày 5 tháng 9 năm 1951. Ông nói rằng dự thảo Hiệp ước đã “vi phạm rõ ràng các quyền hợp pháp của người dân TQ đối với các bộ phận không thể tách rời của TQ: Đài Loan (Formosa), Bành Hồ (Pescadores), Hoàng Sa và các vùng lãnh thổ khác bị cắt khỏi TQ do sự xâm lược của Nhật Bản.” Dù có các tường thuật của báo chí năm 1950 và 1951 rằng phe Cộng sản TQ đã có ý định chiếm quần đảo HS, hành động tích cực mà TQ có vẻ đã thực hiện để hậu thuẫn yêu sách chủ quyền của họ là việc họ đưa quần đảo HS và các đảo khác ở biển Đông lên bản đồ của TQ.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Diễn biến tranh chấp giữa CHNDTH và VNCH</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">32. Tạp chí </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Reconstructs</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Tái thiết TQ) tháng 3 năm 1959 cho biết từ năm 1953 đảo Phú Lâm đã được phát triển đến mức mà vào năm 1955, nó có dân số vài trăm người, bao gồm công nhân trong một xí nghiệp phân bón nhà nước, nhân viên của một trạm khảo sát hải sản, nhân viên khí tượng, ngư dân và khoảng 200 lao động thời vụ đến từ tỉnh Quảng Đông. Mặc dù không có bằng chứng độc lập nào về thông tin này, nhưng rõ ràng là TQ đã xác lập tốt trên đảo Phú Lâm ít nhất là vào cuối năm 1955. Đề cập đầu tiên đến quần đảo này trong ngân sách của tỉnh Quảng Đông là vào năm đó.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33. Vào mùa hè năm 1956, TQ bị thúc giục phải khẳng định lại yêu sách của họ đối với các nhóm đảo khác nhau ở biển Đông do Philippines quan tâm đến quần đảo Trường Sa trở lại. Trong trường hợp quần đảo HS, việc tái xác nhận bằng lời nói đi kèm với các động thái dường như được vạch ra để mở rộng sự chiếm đóng của TQ đối với các đảo khác trong nhóm ngoài đảo Phú Lâm. Báo cáo từ Sài Gòn vào đầu tháng 6 năm 1955 cho biết khoảng 200 lính TQ, với trang bị, đã đổ bộ lên đảo Robert (Hữu Nhât). Những hành động này của TQ đã khiến Việt Nam nhắc lại yêu sách của mình, và gia tăng một số hoạt động quân sự của Việt Nam ở quần đảo này. Cuối cùng, việc tăng cường lực lượng của hai bên tương ứng đã dẫn đến sự kiện tháng Giêng năm 1955, trong đó, theo phía TQ thì phía Việt Nam đã bắn vào một "tàu đánh cá" của TQ. Phía TQ báo cáo các cuộc đụng độ tiếp theo vào tháng 3 và tháng 4 năm 1957.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">34. Những sự cố này một lần nữa dẫn đến việc khẳng định lại lẫn nhau các yêu sách. Tuy nhiên, Tuyên bố của TQ về phạm vi lãnh hải của họ, được đưa ra vào ngày 4 tháng 9 năm 1958. có liệt kê các đảo mà TQ tuyên bố chủ quyền, bao gồm cả Hoàng Sa, có vẻ không kích động bất kì phản ứng nào từ VNCH.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">35. Các cuộc đụng độ tiếp theo trên các đảo đã xảy ra vào năm 1959. Cuộc đụng độ đầu tiên xảy ra vào ngày 22 tháng 2 năm 1959, một tàu tuần tra của hải quân Việt Nam đã chở khoảng 50 người TQ ra khỏi đảo Duncan (Quang Hoà). Bộ Ngoại giao TQ đã đưa ra phản đối chính thức, tái khẳng định đảo Quang Hoà và phần còn lại của quần đảo HS là lãnh thổ của TQ. Phía Việt Nam thẩm vấn những người bị bắt giữ trong vài ngày và sau đó tuyên bố rằng họ chỉ là ngư dân. Thuyền của họ đã được tiếp tế và họ được phép ra đi tự do. Một sự cố khác diễn ra vào ngày 26 tháng 3. Quan sát thấy một số thuyền mành TQ đang dỡ hàng trên đảo Quang Hoà, lực lượng hải quân Nam Việt Nam đã đổ bộ lên đảo và phát hiện khoảng 40 người TQ cùng với bồn chứa nước và các thiết bị khác. Phía Việt Nam yêu cầu người TQ rời đi. Người TQ đồng ý nhưng xin ân hạn 6 ngày. Điều này đã được chấp nhận và cuối cùng thì người TQ đã rút lui đúng hạn. Mặc dù đã có một số phản đối của TQ về hành động chống lại những người được cho là ngư dân TQ này, và mặc dù có báo cáo rằng có tàu hải quân TQ tuần tra trong khu vực quần đảo HS, nhưng các sự cố này vẫn trôi qua mà không phát triển gì thêm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. Không có diễn biến lớn nào trong tranh chấp quần đảo HS từ năm 1950 cho đến năm 1971. Cả hai bên đều duy trì các tuyên bố của mình và có thực hiện một số nỗ lực để hậu thuẫn chúng. Nhưng các tuyên bố có xu hướng nhẹ nhàng và các cuộc đụng chạm được né tránh. Phía TQ bắt đầu đưa ra "các cảnh báo nghiêm trọng" liên quan đến các cuộc xâm nhập của máy bay quân sự Hoa kì vào vùng trời của TQ trên một số đảo trong quần đảo HS vào ngày 26 tháng 6 năm 1959. Những cảnh báo này tương tự như các cảnh báo đã đưa ra trước đây về các vụ xâm nhập vào vùng trời của TQ trong vùng eo biển Đài Loan. Đến ngày 13 tháng 5 năm 1960, khi Bộ Ngoại giao TQ ra thông cáo về những vụ xâm nhập tiếp tục này, cho rằng trong số 96 "cảnh báo nghiêm trọng" được đưa ra từ tháng 6 năm 1959 thì 19 có liên quan đến các vụ xâm nhập quần đảo HS. Trong 11 năm sau đó, TQ đã đưa ra 401 "cảnh báo nghiêm trọng" khác với Hoa kì. Vào khoảng một phần tư đến một phần ba các cảnh báo này liên quan đến quần đảo HS. Điều này bao gồm cái đã được cho thấy là "cảnh báo nghiêm trọng" cuối cùng như vậy, vào ngày 25 tháng 12 năm 1971. Ngoài ra, các bức ảnh báo chí và bài báo không thường xuyên, cộng với một cuốn sách xuất bản ở Bắc Kinh năm 1962 - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Our Country's South Sea Archipelagoes (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quần đảo Nam Hải của Quốc gia chúng tôi) - minh chứng cho sự quan tâm tiếp tục của TQ đối với quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Về phía Việt Nam, dấu hiệu chính của việc tiếp tục quan tâm đến quần đảo này là các biện pháp hành chính năm 1961 và 1969. Tháng 7 năm 1961, theo một sắc lệnh do Tổng thống Diệm kí, quần đảo HS được chuyển từ tỉnh Thừa Thiên gắn vào tỉnh Quảng-nam, đặt thành xã Định-hải, dưới quyền một "phái viên hành chính”. Năm 1969, theo quy chế của Bộ trưởng Bộ Nội-vụ, xã Định-hải được đổi lại thành xã Hoà-long thuộc tổng Hoà-vang, tỉnh Quảng-nam. Không biết hiệu quả thực tế, nếu có, của các biện pháp này là gì,</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38. Trong suốt năm 1971, câu hỏi về chủ quyền đối với các quần đảo khác nhau ở biển Đông nổi lên trong ánh đèn sân khấu do các tuyên bố mới của Philippines đối với quần đảo Trường Sa. Điều này khiến TQ công khai tuyên bố chủ quyền của họ đối với tất cả các nhóm đảo khác nhau, trong đó có quần đảo HS, trên biển Đông. Đối lại, Việt Nam khẳng định lại chủ quyền trong Tuyên bố ngày 15 tháng 7 năm 1971. Từ năm 1971 đến đầu năm 1974, TQ thỉnh thoảng nhắc đến yêu sách của họ đối với Hoàng Sa và các quần đảo khác trên biển Đông, chẳng hạn như tại Liên Hợp Quốc, nhưng không cho thấy bất kì ý định nào làm xáo trộn hiện trạng của quần đảo này. Sau Tuyên bố tháng 7 năm 1971, Việt Nam dường như không công khai bất kì tuyên bố nào cho đến tháng 1 năm 1974.</span></p><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TQ chiếm trọn</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, người phát ngôn của Bộ NG TQ đã đưa ra một tuyên bố. phản đối hành động của Chính phủ VNCH trong việc sáp nhập một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy. Tuyên bố của TQ tiếp tục khẳng định lại theo các lời lẽ tiêu chuẩn tuyên bố chủ quyền của TQ đối với các đảo khác ở biển Đông, kể cả quần đảo HS. Phía Việt Nam đáp trả, trong một loạt các tuyên bố rối rắm, với việc khẳng định lại yêu sách của họ đối với quần đảo này.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. Theo các tường thuật phía Việt Nam, tuyên bố này của TQ được theo sau bằng việc TQ nhanh chóng tăng cường lực lượng hải quân tại và xung quanh quần đảo HS. Trong một tuyên bố ngày 16 tháng 1 năm 1974, Việt Nam cáo buộc CHNDTH đã chiếm các đảo ở nhóm Lưỡi Liềm vào ngày 15 tháng 1 vốn trước đó không phải do TQ chiếm giữ. Trong báo cáo thêm, phía Việt Nam cho rằng TQ đã cử một thêm lực lượng hải quân bổ sung đến quần đảo này vào ngày 17 tháng 1, bao gồm 11 tàu, trong đó có 2 tàu tên lửa loại Komar. Lúc 8 giờ 29 phút giờ địa phương sáng ngày 19 tháng 1, một bộ phận đổ bộ của TQ đã nổ súng vào một lực lượng Việt Nam đang có mặt trên đảo Quang Hoà. Phía Việt Nam cho rằng lực lượng của họ đã cố gắng đàm phán với người TQ nhưng lại bị bắn. Hai binh sĩ Việt Nam thiệt mạng và hai binh sĩ khác bị thương. Ngày hôm sau, theo phía Việt Nam, TQ đã tiến hành một cuộc tấn công khác bằng cách sử dụng máy bay và tên lửa có trên tàu khu trục, cùng với hai đại đội lính thủy đánh bộ. Với lực lượng này, TQ đã đánh chiếm tất cả các đảo do phía Việt Nam trú đóng từ trước cho đến lúc đó. Trong một "báo cáo cuối cùng" do người phát ngôn quân đội Việt Nam tại Sài Gòn đưa ra ngày 29 tháng 1 năm 1974, phía Việt Nam cho rằng 2 tàu chiến TQ đã bị bắn chìm và 2 tàu bị hư hại trong quá trình giao tranh. Tổn thất của Việt Nam được cho là mất 1 tàu hộ tống, 3 tàu chiến bị hư hỏng, 18 binh sĩ thiệt mạng, 43 bị thương và 116 mất tích. Trong số những người mất tích có 4 nhân viên dân sự Việt Nam, trước đây phụ trách các dịch vụ khí tượng trên đảo Hoàng Sa, và một nhân viên dân sự Mĩ. Phần lớn những người mất tích đã ở trên tàu hộ tống mà TQ đánh chìm.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. Phiên bản của TQ, như được đưa ra trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao TQ ngày 29 tháng 1 năm 1974, là từ ngày 15 tháng 1 trở đi, phía Nam Việt Nam đã cử các đơn vị hải quân và không quân xâm phạm các đảo do TQ nắm giữ trong nhóm đảo Hoàng Sa. Sau đó, vào ngày 19 tháng 1, quân lính Nam Việt Nam đã thực hiện một cuộc tấn công vũ trang vào "cụm đảo Chenhang [Sâm Hàng] của TQ (tức là đảo Quang Hoà), trong vụ này một số "ngư dân và dân quân TQ" đã bị giết và bị thương. Cùng ngày, các tàu hải quân của Nam Việt Nam "đã nổ súng trước" vào tàu chiến TQ đang làm nhiệm vụ tuần tra. Việc này dẫn tới "các đơn vị hải quân, ngư dân và dân quân" TQ đánh trả.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42. Tường thuật của TQ không đưa ra chi tiết chính xác về những tổn thất hai bên, nhưng thông báo rằng "nhân viên của phía bên kia mà chúng tôi bắt được trong cuộc chiến tự vệ này sẽ được trả về nước vào một thời điểm thích hợp". Ngày 29 tháng 1, Tân Hoa Xã đưa tin Chính phủ TQ đã quyết định trả về nước theo từng đợt, "Thiếu tá Phạm Văn Hồng cùng 47 sĩ quan và binh sĩ khác của quân đội Saigon của Nam Việt Nam và người Mĩ đã xâm nhập vào TQ". Đợt đầu tiên, gồm 5 người bị bệnh và bị thương và người Mĩ cũng bị bệnh, sẽ được trả về thông qua Hội Chữ thập đỏ Quốc tế và Hội Chữ thập đỏ Quốc gia Hoa kì, qua ngã Hong Kong vào ngày 31 tháng 1 năm 1974. Việc trao đổi này đã diễn ra như thông báo. Các tù nhân Nam Việt Nam còn lại đã được bàn giao, cũng tại Hồng Kông, vào ngày 17 tháng 2 năm 1974. Tất cả đều đã được đối xử tốt.</span></p><br /><br /><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí do cho hành động của TQ</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43. Không có lí do rõ ràng ngay lập tức vì sao TQ lại phải hành động để thay đổi hiện trạng ở quần đảo HS. Đúng là TQ đã cho thấy họ quyết tâm không từ bỏ các yêu sách lãnh thổ tới mức có thể được. Nhưng họ đã xoay xở để sống chung với tình thế ở quần đảo HS trong khoảng 20 năm.</span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Họ có thể lo lắng rằng việc VNCH thông báo các thay đổi hành chính vào mùa thu năm 1973 ảnh hưởng đến Trường Sa (mà TQ cũng tuyên bố chủ quyền), có thể là tiền đề của một chính sách dấn tới hơn của Việt Nam về vấn đề của toàn bộ yêu sách đảo ở biển Đông của họ. Một số tuyên truyền của TQ sau cuộc chiếm trọn tháng 1 năm 1974 dường như đã giải thích điều này. Vì vậy, một bản hùng ca về "Trận chiến quần đảo Tây Sa (HS)" xuất hiện vào tháng 3 năm 1974, đề cập đến các cuộc tuần tra của các tàu hải quan Việt Nam, ngụ ý rằng đây là một bước phát triển mới. Cũng có thể đúng là phía TQ đã không thể hành động sớm hơn đối với lo ngại về một chính sách dấn tới của Việt Nam do thời tiết xấu ở quần đảo HS vào mùa thu và rằng ngay sau khi gió mùa kết thúc và phía Việt Nam lại chủ động ở quần đảo này, nên phía TQ tấn công.</span></p><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45. Giả sử phía TQ lo ngại về một chính sách dấn tới của Việt Nam ở quần đảo HS, quyết định của họ để hành động như họ đã làm có thể đã được thúc đẩy bởi một số cân nhắc. Một có thể là khả năng có dầu ở biển Đông. Nếu Việt Nam có điều kiện xác lập vững chắc hơn là cho đến lúc đó trong Nhóm đảo Hoàng Sa, thì rất có khả năng do thiếu công nghệ để tự mình can dự vào việc thăm dò và khai thác các nguồn dầu mỏ có thể có, Việt Nam có thể nhượng quyền cho các công ti nước ngoài. Đây quả thực là chính sách của Việt Nam tại các vùng biển phía nam và đông nam của VNCH.</span></p><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. Phía TQ có thể đã đánh liều thực hiện hành động như vậy ở Hoàng Sa vì một số lí do. Không giống như các đảo khác mà TQ tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, quần đảo HS thực sự có lực lượng Trung Quốc trú đóng trên một số đảo của nó. Không có khả năng hành động của Trung Quốc sẽ dẫn đến sự can dự của một thế lực thứ ba: quan hệ với Hoa kì đã được cải thiện kể từ năm 1971, sự hiện diện quân sự của Hoa kì tại Việt Nam đang rút xuống, bao gồm cả việc rút Hạm đội 7 khỏi Vịnh Bắc Bộ, có nghĩa là nguy cơ xảy ra một cuộc đụng độ bất ngờ với Hoa kì, luôn là một điều có thể xảy ra trong quá khứ, đã bị loại bỏ. Cuối cùng, VNCH không có quan hệ ngoại giao với CHNDTH, và thực sự đã có việc thiếu tin cậy và thù địch lẫn nhau giữa hai chính phủ. Do đó, TQ không xúc phạm một chính phủ bạn bè hoặc có khả năng là bạn bè. Nhưng nếu chậm trễ, thì không phải không thể xảy ra tình huống chính phủ chính yếu hoặc duy nhất ở Nam Việt Nam có thể sẽ là "Chính phủ Cách mạng Lâm thời" mà CHNDTH đã có quan hệ ngoại giao. Khi đó, có thể ít dễ dàng hơn để CHNDTH khẳng định yêu sách của đối với quần đảo này chống lại một Nhà nước "xã hội chủ nghĩa" bạn bè.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">47. VNCH tiếp tục phản đối các hành động của TQ ở quần đảo HS sau tháng 1 năm 1974, và tiếp tục công khai tuyên bố chủ quyền của mình đối với quần đảo này, chẳng hạn tại Hội nghị Luật Biển tháng 7 năm 1974 ở Caracas. Tuy nhiên, không có nỗ lực nào được thực hiện trong việc sử dụng các biện pháp quân sự để giành lại quyền kiểm soát quần đảo HS, dù có những đe dọa sẽ làm như vậy trước đó. Bị bế tắc ở quần đảo HS, phía Việt Nam nắm lấy cơ hội khẳng định vị thế của mình ở quần đảo Trường Sa. Không những không có sự hiện diện của CHNDTH trên quần đảo này mà nó còn nằm ngoài tầm hoạt động hiệu quả của các lực lượng hải quân và không quân CHNDTH cho mọi ý định và mục đích. Dù có sự phản đối của TQ, VNCH đã tăng cường lực lượng trú đóng hiện có trên quần đảo Trường Sa vào đầu tháng 2 năm 1974, và tiếp tục duy trì lực lượng hùng hậu trên quần đảo này cho đến tháng 4 năm 1975.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">48. TQ đang bận rộn củng cố vị trí của họ trên quần đảo HS. Trong những tuần sau khi nắm được trọn quyền lúc đầu, đã có sự di chuyển đáng kể của các tàu hải quân và máy bay của TQ trong khu vực; từ các hình ảnh được đăng trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Pictorial</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Báo ảnh TQ) trong năm và trên các ấn phẩm khác của TQ, có vẻ như phần lớn hoạt động này là do việc đưa vào lực lượng trú đóng, vũ khí và thiết bị xây dựng mới tạo ra. Sau đó, TQ đã nhấn mạnh quyền kiểm soát của họ đối với tất cả các đảo trong các bài báo trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình. Từ những nguồn khác nhau này, có vẻ như rõ ràng là ngày càng có nhiều người TQ thường trú trên quần đảo, và rằng các tòa nhà mới, cầu cảng và thậm chí cả những đoạn đường ngắn dành cho xe cơ giới đã được xây dựng. Các tòa nhà bao gồm một nhà máy điện, một rạp chiếu phim và một bệnh viện cũng như các hãng xưởng nhỏ liên quan chủ yếu đến ngành đánh bắt cá. Một báo cáo của NCNA (Tân Hoa Xã) vào tháng 11 năm 1974 nhấn mạnh tầm quan trọng tiếp tục của quần đảo như một trung tâm báo cáo khí tượng. Các đảo hiện có hệ thống điện thoại và bưu điện liên đảo và nhận báo, thư từ đất liền. Một Ủy ban Cách mạng cho toàn bộ các đảo trên biển Đông có trụ sở chính tại quần đảo HS. Một số hoạt động này rõ ràng có liên quan đến việc tìm kiếm tiềm năng, có thể là cho dầu mỏ. Vào tháng Giêng năm nay, đã có một số thông tin báo chí đưa tin rằng những gì có vẻ là giàn khoan dầu đã được nhìn thấy ở khu vực quần đảo HS. Các báo cáo của NCNA tháng Giêng và tháng Hai năm nay đề cập đến "thành viên của các nhóm thăm dò", những người đã làm việc để "khai thác các nguồn tài nguyên ngầm".</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phía TQ đưa ra quan điểm rằng quần đảo thuộc sở hữu của họ tại Phiên họp ECAFE ở Colombo vào tháng 3 năm 1974, nhưng không đưa ra bất kì phản đối nào khi đại biểu VNCH nêu ra yêu sách của nước mình tại Hội nghị Luật Biển ở Caracas vào tháng 7 năm 1974. .</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">49. Phía TQ rõ ràng đã khẳng định được sức mạnh của mình trên quần đảo này là sẽ khó bị đánh bật khỏi. Một yếu tố mới đã được đưa vào tình hình là việc VNCH vị Cộng sản Việt Nam lật đổ. Ở giai đoạn này, khó thể nói nhà cầm quyền mới Nam Việt Nam sẽ có thái độ nào đối với tranh chấp. Với tư cách là một quốc gia kế thừa VNCH cũ, CPCMLT, nếu muốn, có thể tiếp tục duy trì một yêu sách chính thức đối với quần đảo HS. Theo quan điểm của luật pháp quốc tế, hành động quân sự của CHNDTH không làm yêu sách pháp lí của nước này về chủ quyền mạnh thêm. Ngoài ra, Tuyên bố về các Nguyên tắc của Luật Quốc tế liên quan đến Quan hệ hữu nghị và Hợp tác giữa các Quốc gia mà Chính phủ của Nữ hoàng tán thành, nêu rằng: "không có sự thụ đắc lãnh thổ nào do đe dọa hoặc sử dụng vũ lực sẽ được công nhận là hợp pháp". Do đó, Anh sẽ không sẵn lòng chính thức xác nhận yêu sách của TQ đối với quần đảo HS, vì ngoài hành động gần đây, giữa TQ và Việt Nam, nước nào có yêu sách mạnh hơn thì vẫn còn chưa rõ ràng.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 6 năm 1975</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban Viễn Đông.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ phận nghiên cứu</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Văn phòng nước ngoài và thịnh vượng chung</span></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">--------------------</span></div><div>Bạn nào quan tâm có thể xem:</div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"><a href="https://drive.google.com/file/d/1Tnxo0xt0taZLxvyW2NSbpOHwdFWypX1F/view?usp=sharing" target="_blank">Bản gốc tiếng Anh</a> lấy từ ANA (Văn khố quốc gia Úc) ; download về và mở bằng Acrobat Reader</span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản<a href="https://docs.google.com/document/d/1kOk93iy4Uo6Sr42yIUYkVIzPBPQL4eER1oWvBF9IDaE/edit?usp=sharing" target="_blank"> song ngữ</a></span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-6520747442095697722021-07-27T10:39:00.010-07:002021-07-27T16:40:16.797-07:00Về 'điểm cao 1509' Hà Giang<p> <span style="font-family: Arial; font-size: 26pt; white-space: pre-wrap;">NÓI THÊM VỀ ‘ĐIỂM CAO 1509’ HÀ GIANG</span></p><span id="docs-internal-guid-5088c017-7fff-eae4-08a1-0f4b0133b324"><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong </span><a href="https://www.facebook.com/Osinhuyduc/posts/4041425342559283?__cft__[0]=AZXI_UGFwAv0lrqHXXMHpGxR12WgKLZ3yz4aNBEAgT3kRPxMbRuAI3fQ0DuajrzV0u0yeETMkMnins_XJP0BxsGUp2x73gXa9wJJyTjzHlMtq2LGatw6-6c8vNRgCIvvGug&__tn__=%2CO%2CP-R" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">stt “HÀ NỘI - BẮC KINH & VIỆC GỌI ĐÚNG TÊN CUỘC CHIẾN”</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mới đây nhân ngày TBLS, Huy Đức có nhắc đến việc Tàu+ sau khi rút quân khỏi các tỉnh phía biên giới phía Bắc trong cuộc chiến tranh xâm lược VN chớp nhoáng năm 1979 vẫn tiếp tục quấy phá liên tục trên quy mô nhỏ hơn cho đến năm 1989, và đặc biệt năm 1984 chúng đã dùng lực lượng lớn tấn công, chiếm giữ được 29 điểm dọc biên giới, trong đó có điểm cao 1509 ở Hà Giang. Hàng ngàn thanh niên VN đã hi sinh để cố lấy lại các vị trí bị mất.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘Trong cuộc phỏng vấn hồi tháng 2-2009, Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất cho chúng tôi, phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị, biết: </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0,77 hecta nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.’</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là thông tin do cá nhân đưa ra nhưng tôi tin là không có bịa đặt (dù có một số chi tiết cần xem xét lại) vì tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban biên giới CP, cũng </span><a href="https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/09/130916_trao_doi_bien_gioi_viet_nam" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã từng xác nhận</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> rằng trong khu vực này Việt Nam đã nhượng cho Trung Quốc khu vực nghĩa trang </span><span style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quân đội Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“</span><span style="color: #3f3f42; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo thông tin mà tôi được biết thì đúng là có việc Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà 2 bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này.</span></p><p dir="ltr" style="background-color: #fdfdfd; line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #3f3f42; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo tôi, đây là nhân nhượng tự nguyên, thỏa đáng, hợp tình hợp lý. Bởi vì đây là nhân nhượng vừa mang tính nhân văn, nhân đạo, vừa phù hợp với nguyên tắc mà hai bên đã thỏa thuận khi xác định đường biên giới đi qua khu vực có sự tồn tại của dân cư khu vực biên giới…như tôi đã đề cập ở phần trên.”</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến, nhất là của DLV cho rằng sau khi kí hiệp định biên giới năm 1999 (HĐ) và nhất là sau khi cắm mốc theo nghị định thư 2009 (NĐT) thì mọi thứ ở đây trở về như cũ tức VN không có nhường gì ở ‘điểm cao 1509’.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phần sau đây sẽ phân tích xem trong 2 ý kiến trái ngược này, ý kiến nào là đúng với thưc tế.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trước nhất, thử tìm hiểu điểm cao 1509 là gì. Theo bản đồ quân đội MĨ (AMS), vẽ và in dựa theo bản đồ của Sở Địa lí Đông Dương (SGI) chắc chắn phần biên giới dựa theo công ước phân giới Pháp-Thanh, ở khu vực biên giới Việt - Trung ở Hà Giang cách thị trấn Thanh Thuỷ khoảng 5 km về phía đông nam có một ngọn núi mà Tàu gọi là Lão Sơn, mà vòng cao độ (hay đường đẳng cao: nối các điểm có cùng độ cao) ở </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trên cùng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có ghi số 1509 (xem bản đồ 1). Điều đó có nghĩa tất cả các điểm trong vòng cao độ này có độ cao từ 1509 m trở lên. Và có lẽ vì vậy mà phía VN gọi nó là khu vực điểm cao 1509 mà có tác giả Nhật gọi có bằng tên núi Đất.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 443px; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="443" src="https://lh6.googleusercontent.com/A-ccfE0WctrKBmAAnsOn9I2Zt06IYEtVcELdzTib7NLU8gT1kJ0wZlq6-3pzWyNKOUPhl6onEsiSVmVvP3OsJ2c5Rn27YtTytM7uOIWzoI5O8SOnw89diQ50PInvdE1MEnRkguuI" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 1</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khu vực điểm cao 1509 theo bản đồ AMS</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, theo bản đồ phân giới Việt-Trung 2009 thì trên đỉnh núi đó ko có chỗ nào có độ cao vượt quá 1422 m và vòng cao độ gần tương ứng với vòng cao độ 1509 là vòng 1400 (xem bản đồ 2). Còn theo Google Earth (GE) thì chỗ cao nhất trên núi chỉ có độ cao là 1393 m !</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="border: none; clear: left; display: inline-block; float: left; height: 396px; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="396" src="https://lh4.googleusercontent.com/Oz7LLgLZwpTOPJxkLTsC9vONoJYUUDdsAv22q8tYgWxgsS1X3WUlp58TI6t66CqH0mK5TWCGGBRt8azJHZfgLhGfNYq6iSZckN9inftjfEdqSV1iFojuIYYZAuYqOSX6t540Hqa1" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 2</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khu vực điểm cao 1509 theo bản đồ NĐT (vòng 1400: hình trái tim)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dựa vào NĐT và bđ kèm theo NĐT, có thể vẽ bản đồ đường biên giới mới trên GE (đường đỏ với các cột mốc và các điểm định khác có nêu trong NĐT thể hiện bằng các kim ghim màu vàng), và GE đã vẽ sẵn biên giới cũ (màu vàng - chúng tôi đã kiểm tra khá khớp với đường biên giới trên bản đồ AMS). Sau đó, chúng tôi chồng phần bản đồ liên quan của bản đồ AMS và của bản đồ biên giới mới theo NĐT lên GE. Từ các bản đồ riêng và các bản đồ chồng nhau này có thể rút ra các nhận xét:</span></p><br /><ul style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu coi ‘điểm cao 1509’ là phần nằm trong vòng cao độ 1509 của bản đồ AMS thì trước kia VN và Tàu gần như chia đôi điểm cao này (VN có phần nhỉnh hơn). Còn sau HĐ thì VN gần như hưởng trọn điểm cao này (xem bản đồ 3).</span></p></li></ul><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 427px; margin-left: 1em; margin-right: 1em; overflow: hidden; width: 624px;"><img height="427" src="https://lh6.googleusercontent.com/mJop2XghvmA9v-tk_mJPJWTderampboUafEqSki36_xU38ofRN3pqSCzqsDKjBA5mtOU8y4pQLEyiBU4NsaVOLuBqBplKz_INyJTn2DQY7mGQP-l2R8b0UUqLunM8SNeXGZ1sM4w" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="624" /></span></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 3</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> : (VN và Tàu gần như chia đôi kv ‘điểm cao 1509’ trước đây và VN gần như hưởng trọn kv này sau HĐ phân giới 1999)</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều trên có nghĩa là phe DLV có vẻ nói đúng. Tuy nhiên, điều này chỉ là ‘tự sướng’ vì trên thực tế vòng cao độ 1509 hoàn toàn không ăn khớp với thực tế vì nó nối những điểm có độ cao chênh nhau thậm chí đến 60 m (các số in vàng chỉ độ cao của điểm trên vòng cao độ 1509 theo GE). Kĩ thuật đo đạc địa hình xưa còn lạc hậu, hơn nữa khu vực này hiểm trở nên sai sót đó là dễ hiểu. Do đó, khu vực trong vòng cao độ 1509 như trong bản đồ trên (GE cho biết rộng tới khoảng 58 800 m²) không thể là khu vực ‘điểm cao 1509’ trên thực tế. </span></p><br /><ul style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px; padding-inline-start: 48px;"><li aria-level="1" dir="ltr" style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; list-style-type: disc; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><p dir="ltr" role="presentation" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu coi ‘điểm cao 1509’ là phần nằm trong vòng cao độ 1400 trên bản đồ NĐT thì trước kia 2 bên chia nhau điểm cao này (VN chỉ được khoảng ⅓ - xem bđ 4). Sau HĐ thì VN hẩu như mất trọn vẹn điểm cao này, chỉ còn giữ được phần rìa phía Nam và phía Đông mà khoảng cách lớn nhất từ đường biên giới mới tới vòng cao độ 1400 trong phần rìa này </span><span style="font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chỉ khoảng 12m </span><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(có vẻ để bù lại bù lại Tàu+ nhường phần sườn Đông Bắc cho VN). Điều này hoàn toàn ăn khớp với khẳng định của ts Trần Công Trục và đại tá Hoàng Đình Xuất. </span></p></li></ul><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><img height="472" src="https://lh6.googleusercontent.com/7QipDW8K6E2qb62KHe_GDsOW0fGJtwOpKjHT77CEq2PaSxDfDxjay9SZBViveH4cjIwBAYjFgHS_jmmy_knxGlyGMqcAO9eTda9LmX7A3j9HMwBHhuhw_Aq6K6D3wqmNw7ldVjvq" style="font-style: normal; margin-left: 0px; margin-top: 0px; white-space: pre;" width="624" /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 4</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> : (tứ giác ABCD là phần VN nhượng Tàu+ sau NĐT).</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng lưu lý thêm rằng trong bản đồ kèm theo NĐT khu vực các cột mốc 253-255 được vẽ phóng đại lên kèm trong bản đồ chính (bđ 5). Việc này có thể do địa thế phức tạp của khu vực nhưng kết hợp với các thông tin đã nêu thì cũng có lí do để tin rằng đó cũng là do có sự thay đổi về đường biên giới ở đây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><img height="502" src="https://lh4.googleusercontent.com/CPNaCnL5oaUs8ro3P8KtqNwLsvZaJDa4yb5MjArwLDiVmeWH7lKL5CXOkxOixHohGPFYjstTBb5yZgp1M8RKuDAgCmMOvgV7urfzztm28rNPHkV69yg2mISwYDDF7JArKpQbgcbl=w640-h502" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: medium; font-style: normal; margin-left: 0px; margin-top: 0px; white-space: normal;" width="640" /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 5</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khu vực các cột mốc 253-255 được vẽ phóng đại kèm vào bđ chính</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, phát biểu của đại tá Xuất cũng có chi tiết ko đúng như diện tích phần đất bị mất chỉ khoảng 0,22 ha chứ ko phải 0,77 ha, Ngoài ra, khoảng cách từ ‘điểm cao 1509’ đến Hà Giang khoảng 21,6 km nên khó tin là từ đó có thể nhìn thấy xe hơi ở thị xã Hà Giang (nếu nói thấy ở thị trấn Thanh Thuỷ thì có thể hợp lí hơn - xem bđ 6).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><img height="472" src="https://lh6.googleusercontent.com/7QipDW8K6E2qb62KHe_GDsOW0fGJtwOpKjHT77CEq2PaSxDfDxjay9SZBViveH4cjIwBAYjFgHS_jmmy_knxGlyGMqcAO9eTda9LmX7A3j9HMwBHhuhw_Aq6K6D3wqmNw7ldVjvq" style="font-style: normal; margin-left: 0px; margin-top: 0px; white-space: pre;" width="624" /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 6</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Khoảng cách từ ‘điểm cao 1509’ tới tx Hà Giang khá xa</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng nói thêm rằng dù độ cao ghi trên bản đồ NĐT không thật khớp với GE (có thể do 2 bên dùng kĩ thuật khác nhau), nhưng khi rà trên GE thì những điểm trên vòng cao độ 1400 của bản đồ NĐT đều có độ cao 1380 với sai số ± 5 m, tức là địa hình do bđ NĐT thể hiện khá ăn khớp với địa hình trên GE (xem thêm bđ 7), còn bđ AMS chỗ này địa hình quá chênh lệch với GE như đã nêu trên.</span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><img height="472" src="https://lh4.googleusercontent.com/UIWzZcc5D3tHCl8B7jQPCOmNR7KxLggeANQRpIvTnIye4sqsl7LXPbF6slP7TIYKqZwJMs1OjZmgZIG3BJGC6pIfCTsmCU8zl-fS1zqYJWSLoC2bMUTUKx7Mc95_di766cObR9VD" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: medium; font-style: normal; margin-left: 0px; margin-top: 0px; white-space: normal;" width="624" /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 7</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: vòng cao độ 1400 bđ NĐT thể hiện trên dưới dạng 3 chiều khá ăn khớp với địa hình trên GE</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;">Tóm lại, không thể coi khu vực ‘điểm cao 1509’ là khu vực trong vòng cao độ 1509 trên bản đồ AMS mà phải coi đó là khu vực nằm trong vòng cao độ 1400 của bản đồ NĐT (xem thêm bản đồ 8).</span></p><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><img height="441" src="https://lh5.googleusercontent.com/yMDH4HO64VAzAUCoqFIBVc-jysPxNXK4y1CgHHSfHS6-vBsksC-qb1p1KAYv5RD403Gynjn7zJuoBATQ9nufPerzVyb2cPa5Ge_Cmr-quA15ItofNnv2QPkOEBrTJk__KNR3ZmtQ" style="font-family: "Times New Roman"; font-size: medium; font-style: normal; margin-left: 0px; margin-top: 0px; text-align: left; white-space: normal;" width="624" /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ 8</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: coi khu vực ‘điểm cao 1509’ là kv trong vòng cao độ 1400 của bđ NĐT là khớp với thực tế</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như đã nêu, đường biên giới trên bản đồ AMS phần chắc là đường biên giới cũ theo công ước Pháp-Thanh và theo phân tích trên thì khu vực ‘điểm cao 1509’ hầu như Tàu+ chiếm trọn sau HĐ phân giới 1999. Và như vậy, ý kiến cho răng khu vực ‘điểm cao 1509’ giữ nguyên trạng hay là không chính xác. Đó chỉ là phản ứng lấp liếm, cả vú lấp miệng em đối với nhưng người thiếu thông tin. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qua phân tích trên, có thể thấy thêm có những chỗ có độ sai lệch lớn hơn nhiều về cả 2 phía, ví dụ như ở Na La, ở khu vực có chữ X, chữ Y,,, trên bản đồ 6 và có thể suy rộng ra trên toàn tuyến biên giới nhưng phân tích chúng không nằm trong phạm vi của bài viết này. Ban đọc nào quan tâm có thể tìm hiểu thêm ở bài viết bưóc đầu "Một số thí dụ về những sự khác biệt giữa biên giới Việt Nam - Trung Quốc và bản đồ của Quân đội Mĩ' (<a href="https://songphan.blogspot.com/2013/10/mot-so-thi-du-ve-nhung-su-khac-biet.html" target="_blank">phần 1</a>, <a href="https://songphan.blogspot.com/2013/10/mot-so-thi-du-so-sanh-bien-gioi-moi.html" target="_blank">phần 2</a>).</span></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-11372212639818315492021-05-29T08:03:00.001-07:002021-05-29T21:02:03.198-07:00Đồng minh có hứa giao biển Đông cho Trung Quốc?<p> <span style="font-family: Arial; font-size: 26pt; white-space: pre-wrap;">Đồng minh có hứa giao biển Đông cho Trung Quốc?</span></p><span id="docs-internal-guid-ef6161ed-7fff-d6d2-65c5-7afae810bc4c"><span id="docs-internal-guid-06a2d894-7fff-565f-d183-592143db1609"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">(Did the allies promise the sea to China?)</span></span></span></span><div><span><span style="font-family: Arial; font-size: medium;"><span style="white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></span></div><div><span><span style="font-family: Arial; font-size: medium;"><span style="white-space: pre-wrap;"><a href="https://www.stratforumph.com/post/did-the-allies-promise-the-sea-to-china?fbclid=IwAR35_E8MTHVODCpMPi9tS27CNCHSH0Qi5QdXHac0t57D70afslJWxuPfE4g" target="_blank">Philippine Strategic Forum</a></span></span></span></div><div><span><span style="font-family: Arial;"><span style="white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">26/5/2021</span><span style="font-size: large;"><br /></span></span></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><br /></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><a href="https://www.billhayton.com/?page_id=2" target="_blank"><span style="font-size: medium;">Bill Hayton</span></a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="font-size: medium;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUX5J-Uavzr0YnEGiJ7Y5KJI-4O8Y8kFH8ntH350BLFdZLRgOkzMT-MqHxcFheJQp7wJoXUc_KLrZfA_2ygyQW04-rUR-btEhJEIhLSXB9lQXB5-ryvcw9ZP2TrzwxUUPadgVWOER1dzK3/s1493/Cairo1943.JPG" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1089" data-original-width="1493" height="459" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUX5J-Uavzr0YnEGiJ7Y5KJI-4O8Y8kFH8ntH350BLFdZLRgOkzMT-MqHxcFheJQp7wJoXUc_KLrZfA_2ygyQW04-rUR-btEhJEIhLSXB9lQXB5-ryvcw9ZP2TrzwxUUPadgVWOER1dzK3/w631-h459/Cairo1943.JPG" width="631" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div></span></div></span><p></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Nguồn ảnh: Cơ sở dữ liệu <a href="https://www.egypt-lastminute.com/the-1943-cairo-conference-that-shaped-the-global-order-post-world-war-2/" target="_blank">WW2</a></span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Trong số rất nhiều huyền thoại xoay quanh lịch sử biển Đông, một trong những huyền thoại khó xóa bỏ nhất là ý kiến cho rằng trong Thế chiến thứ hai, các đồng minh phương Tây đã hứa giao các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp cho Trung Quốc. Huyền thoại này tiếp tục xuất hiện trong các cuộc thảo luận công khai dù không có bằng chứng hậu thuẫn nó. Ngay cả Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Huang Xilian (黄溪连: Hoàng Khê Liên), cũng đã nhầm lẫn khi lặp lại điều đó.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Tháng 7 năm 2020, Đại sứ Liên nói với Thời báo Manila rằng, "Trung Quốc đã thu hồi và nối lại việc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa sau chiến tranh theo Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Potsdam và các công cụ khác sau chiến tranh." Đại sứ đã sử dụng từ ‘Nam Sa’ như là tên Trung Quốc cho quần đảo Trường Sa. Có lẽ ông ta nói mà không biết mình đang nói những điều vô nghĩa.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"><a href="https://www.ndl.go.jp/constitution/e/shiryo/01/002_46/002_46_001l.html" target="_blank">Tuyên bố Cairo</a> là một văn bản ngắn được công bố vào ngày 1 tháng 12 năm 1943 sau một loạt các cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc. Ba nhà lãnh đạo tuyên bố rằng, một khi chiến tranh kết thúc, “Nhật Bản sẽ bị tước bỏ tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà họ đã chiếm giữ hoặc trấn đóng kể từ đầu Thế chiến thứ nhất năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp của Trung Quốc, như là Mãn Châu, Formosa, và Pescadores (Bành Hồ), sẽ được thu hồi về Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nước này đã chiếm đoạt bằng bạo lực và lòng tham. "</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Điều đầu tiên cần lưu ý về Tuyên bố Cairo là nó không đề cập đến quần đảo ‘Nam Sa’ hoặc Trường Sa, hoặc Hoàng Sa hoặc bãi cạn Scarborough hoặc bất kì thể địa lí nào có tranh chấp hiện nay. Những đảo duy nhất được nêu tên cụ thể là Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ) nằm ngay phía tây của Đài Loan. Chỉ có hai nhóm đảo này được hứa trả Trung Quốc, không có đảo nào khác.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Câu tiếp của Tuyên bố Cairo nói rằng các lực lượng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà họ đã xâm lược nhưng không nói gì về việc các lãnh thổ đó sẽ được trả lại cho những quốc gia nào. Câu văn này bao hàm các vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương, từ Miến Điện đến Papua New Guinea, từng là một phần của các đế quốc Anh, Pháp và Hà Lan trước khi bị Nhật Bản xâm lược. Các chính phủ đó muốn lấy lại các thuộc địa của họ sau khi Nhật Bản bị đánh bại, nhưng Hoa Kì không đồng ý. Kết quả là, lời văn của Tuyên bố Cairo rất mơ hồ. Các nhà lãnh đạo có thể đồng ý rằng Nhật Bản nên bị trục xuất khỏi các lãnh thổ đó, nhưng số phận tương lai của chúng vẫn chưa được quyết định.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Còn nữa. Quần đảo Nam Sa / Trường Sa không thể được coi là “vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” vì Trung Quốc đã không hề yêu sách nó vào năm 1943. Bằng chứng lịch sử rõ rệt. Năm 1943, Bộ Thông tin của Trung Hoa Dân Quốc (RoC) đã xuất bản cái mà họ gọi là ‘China Handbook 1937-43’ (Cẩm nang Trung Quốc 1937–43), một hướng dẫn toàn diện về địa lí, lịch sử, chính trị và kinh tế của nước này. Trên trang mở đầu, nó nói rằng “lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc kéo dài từ [Dãy núi Sajan (薩揚嶺:Tát Dương lĩnh) ở phía bắc]. . . đến đảo Tri Tôn của Hoàng Sa.”</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4g2sw7C0Xs8_tBC3P9Mv2yaa-FcMWoWyIx3bJzlfWj2yqO3klo7ABQOd6AKFhYRipfswq5__x8HP7Wop6EJWVlwUmbTXHFCI7X4YucxZD4EB-tf5_NqkAt5GlakDx3Q2uejmr13I571pa/s1203/ChinaHandbook+1937_43a.JPG" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-size: medium;"><img border="0" data-original-height="1203" data-original-width="915" height="720" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4g2sw7C0Xs8_tBC3P9Mv2yaa-FcMWoWyIx3bJzlfWj2yqO3klo7ABQOd6AKFhYRipfswq5__x8HP7Wop6EJWVlwUmbTXHFCI7X4YucxZD4EB-tf5_NqkAt5GlakDx3Q2uejmr13I571pa/w547-h720/ChinaHandbook+1937_43a.JPG" width="547" /></span></a></div><span style="font-size: medium;"><br /></span><div style="text-align: center;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaacTiIpPiZIjM5MurKVxKd_WNgZHwEWPelsU6N0IZ6GkYpRc45dcV5X8wBXWlikccSU6Zps_St_tuDVXLt_7T0J5PRCiXH5Z1qPqPfEZUqF6EaDsvtdzciTp3BGhxgS-8GtDACQBjrqni/s768/ChinaHandbook+1937_43b.webp" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-size: medium;"><img border="0" data-original-height="576" data-original-width="768" height="520" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaacTiIpPiZIjM5MurKVxKd_WNgZHwEWPelsU6N0IZ6GkYpRc45dcV5X8wBXWlikccSU6Zps_St_tuDVXLt_7T0J5PRCiXH5Z1qPqPfEZUqF6EaDsvtdzciTp3BGhxgS-8GtDACQBjrqni/w693-h520/ChinaHandbook+1937_43b.webp" width="693" /></span></a></div><span style="font-size: medium;"><br /></span><div style="text-align: center;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></div><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Nói cách khác, vào năm 1943, Trung Quốc chỉ yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc biển Đông, chứ không yêu sách Trường Sa hay bãi cạn Scarborough. Hai ấn bản của Cẩm nang Trung Quốc đã được xuất bản trong năm đó; ấn bản đầu ở Calcutta vào tháng Bảy và ấn bản thứ hai ở New York vào tháng Mười Một. Cả hai đều in cùng một lời văn.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Mãi đến tháng 6 năm 1947, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Trung Quốc mới đồng ý yêu sách quần đảo Trường Sa / Nam Sa (Nansha). Ngay cả khi đó, ấn bản năm 1947 của cuốn Cẩm nang Trung Quốc này cũng tỏ ra thận trọng. Nó nói rằng “ranh giới …. cực nam [của Trung Quốc] vẫn cần được xác định. . . và chủ quyền của quần đảo Đoàn Sa (Tuansha) phía nam đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc, Khối thịnh vượng chung Philippines và Đông Dương ”.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Vào thời điểm này, các nguồn tài liệu của Trung Quốc gọi Trường Sa là “Tuansha” (Đoàn Sa). Cái tên Nansha (Nam Sa) - bãi cát phía nam - lúc này được dùng để chỉ bãi ngầm Macclesfield, xa hơn về phía bắc, vì trước đây đó là khu vực cực nam của Trung Quốc. Chỉ đến năm 1947, cái tên "Nam Sa" mới được chuyển xuống xa hơn về phía nam. (Tôi đã giải thích lịch sử cách Trung Quốc yêu sách các đảo ở biển Đông trong một <a href="https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/0097700418771678" target="_blank">bài báo học thuật gần đây</a>.)</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"><br /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg_S0u9EiGmbnbwv8jdh6JTQNJUClGKCkz91ANTauadvl1s5TkwzWzPeKIzPH6n0ZMY7Hq9XabCztxrmasWvH_tHupmCwqMpflhh1WYt7N5iOLzLbStj6mT4b56mgRqdoEW35tffwF1lM8J/s1199/ChinaHandbook+1937_45a.JPG" style="font-family: "Times New Roman"; margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center; white-space: normal;"><span style="font-size: medium;"><img border="0" data-original-height="1199" data-original-width="903" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg_S0u9EiGmbnbwv8jdh6JTQNJUClGKCkz91ANTauadvl1s5TkwzWzPeKIzPH6n0ZMY7Hq9XabCztxrmasWvH_tHupmCwqMpflhh1WYt7N5iOLzLbStj6mT4b56mgRqdoEW35tffwF1lM8J/w482-h640/ChinaHandbook+1937_45a.JPG" width="482" /></span></a></span></p><span style="font-size: medium;"><br /></span><div style="text-align: left;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhoiGmq-kWIsNIlz1kXrAHw07j4BlxoGm_5NKroP-N9oEF13gSUmi_qDMFre7a-CpGmeOe7BeEgwgL0hr-cmtiYmBIFOOYUUNsQE7YQEYfTI0GbLBznBu1I79jAGCy3TCfjchq7nsKeQkU_/s1201/ChinaHandbook+1937_45b.JPG" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><span style="font-size: medium;"><img border="0" data-original-height="1201" data-original-width="907" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhoiGmq-kWIsNIlz1kXrAHw07j4BlxoGm_5NKroP-N9oEF13gSUmi_qDMFre7a-CpGmeOe7BeEgwgL0hr-cmtiYmBIFOOYUUNsQE7YQEYfTI0GbLBznBu1I79jAGCy3TCfjchq7nsKeQkU_/w484-h640/ChinaHandbook+1937_45b.JPG" width="484" /></span></a></div><span style="font-size: medium;"><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Nói tóm lại, rõ ràng là không phái đoàn nào tại Hội nghị Cairo có thể có ý cho rằng cụm từ “lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” bao hàm cảTrường Sa hoặc bãi cạn Scarborough. Đơn giản là các đảo này không được bất kì ai coi là của Trung Quốc vào thời điểm đó. Tình hình phức tạp hơn một chút khi nói đến quần đảo Hoàng Sa. Năm 1931, Pháp với tư cách là thế lực thực dân ở Đông Dương đã chính thức yêu sách Hoàng Sa (dựa trên những yêu sách </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">[đúng ra là dựa trên việc thực thị chủ quyền </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: medium;"><span style="white-space: pre-wrap;">không có tranh chấp</span></span><span style="font-family: Arial; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;"> - ND]</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: large; white-space: pre-wrap;">xưa hơn nhiều của thuộc địa An Nam). Do đó, không rõ liệu Nhật Bản đã đánh cắp quần đảo này từ tay Trung Quốc hay Pháp, vì vậy tình trạng của quần đảo này vẫn còn mơ hồ.</span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Tuyên bố Potsdam năm 1945 hoàn toàn không đề cập đến các đảo ở biển Đông. Bản văn được Tổng thống Harry Truman,kế nhiệm của Roosevelt, cùng với Churchill và Tưởng Giới Thạch,<a href="https://www.trumanlibrary.gov/library/personal-papers/subject-file-1943-1980/president-trumans-travel-logs-1945?documentid=NA&pagenumber=118" target="_blank"> chỉ nói</a> rằng “Các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật Bản sẽ được giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ như chúng tôi xác định. " Nó không nói gì về việc lãnh thổ nào sẽ được trả cho Trung Quốc kiểm soát.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Điều này cũng đúng với <a href="https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%20136/volume-136-I-1832-English.pdf" target="_blank">Hiệp ước Hòa bình San Francisco</a> năm 1951. Điều 2 chỉ nói rằng “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, quyền sở hữu và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa”. Một cụm từ tương tự cũng xuất hiện trong Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc. Không có hiệp ước nào nói bất cứ điều gì về việc các hòn đảo đó đúng lẽ thuộc về nước nào. Câu hỏi chỉ đơn giản là bỏ ngỏ.</span></span></p><span style="font-size: medium;"><br /><br /></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Bằng chứng lịch sử là rõ ràng. Không có gì trong bất kì văn kiện nào trong số các văn kiện này hứa hẹn giao các đảo ở biển Đông - ngoại trừ Đài Loan và quần đảo Bành Hồ - cho Trung Quốc. Thật quá xấu hổ cho rất nhiều người tự xưng là hiểu biết về chủ đề này vẫn tiếp tục kéo dài những huyền thoại thế n.</span></span></p><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br /></div><br /><br /></div>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-16569257794464518532021-02-20T06:45:00.031-08:002022-02-04T23:28:04.889-08:00Sáng chế ra Trung Quốc (Ch. 4: Lịch sử TQ)<p> <b><span style="font-size: large;">4</span></b></p><p><span style="font-size: 18pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">SÁNG CHẾ LỊCH SỬ TRUNG HOA</span></p><span id="docs-internal-guid-775ec24d-7fff-a515-3224-4386f6e5cf15"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoshi - </span><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc sử</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Zhongguancun </span><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">(中关村: Trung Quan thôn) là giải đáp của Bắc Kinh cho Thung lũng Silicon</span>. Cách đây một thế hệ, người ta vẫn có thể đạp xe qua các phần của nó dọc theo những con đường lầy lội giữa những cánh đồng lúa. Ngày nay, <span id="docs-internal-guid-698bb1d1-7fff-b963-9b7d-4906e589aded"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đây là chỗ đóng của 10 công viên khoa học mà từ đó Lenovo, Baidu và hàng trăm công ti khổng lồ công nghệ cao khác nổi lên, hầu hết đều không được biết đến bên ngoài đất nước của họ</span></span>. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quan thôn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cũng là một trung tâm trí tuệ. Nó được bao quanh bởi các khu học xá khổng lồ của hai trường đại học Thanh Hoa và Bắc Kinh, được xây dựng cách đây nhiều thập kỉ trong <span id="docs-internal-guid-f40cdae7-7fff-1c9d-6278-1f00254b2b56"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cảnh biệt lập ở vùng nông thôn tráng lệ khi đó</span></span> để giữ cho sinh viên tránh xa tệ nạn thành phố và an toàn dưới sự kiểm soát chính trị. Tại trung tâm của nó là trường đại học nhân dân, Renmin (Nhân dân), ban đầu được Đảng Cộng sản thành lập vào năm 1937 để đào tạo cán bộ cho đảng. Và trên tầng năm của một trong những tòa tháp lấp lánh của Đại học Nhân dân là chỗ của 'Viện Lịch sử nhà Thanh'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ một năm sau chiến thắng trong cuộc nội chiến, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản đã yêu cầu trường đại học của đảng viết lịch sử của triều Thanh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">1</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> <span id="docs-internal-guid-029578ea-7fff-b540-8b33-1cb8a7b990ce"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Với tư cách là</span></span> một trong những nhà sử học hàng đầu của Mĩ về thời nhà Thanh, Pamela Kyle Crossley, đã chỉ ra rằng, chỉ thị sẽ 'hoàn thành <span id="docs-internal-guid-60fac6d2-7fff-ef58-1385-c323b5db2434"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tiến trình</span></span> truyền thống, trong đó mỗi triều đại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thể hiên</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tính hợp pháp của mình qua việc viết sử triều đại trước'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chỉ thị của đảng đã dẫn đến việc thành lập chính thức Viện Lịch sử nhà Thanh vào năm 1978 và sau đó, vào năm 2002, một cái gì đó lớn hơn nhiều. Theo đề xuất của Giáo sư Li Wenhai (李文海: Lí Văn Hải), trước đây là hiệu trưởng của Đại học Nhân dân - kiêm bí thư Đảng ủy nhà trường, giám đốc Hội Lịch sử Trung Quốc và giám đốc Ủy ban Hướng dẫn Giảng dạy Lịch sử của Bộ Giáo dục - Quốc vụ viện đã phê duyệt việc thành lập 'Ban Biên soạn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Quốc gia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lịch sử nhà Thanh'. Dự án nhận được sự tài trợ của chính phủ khiến các nhà sử học khác phải khóc vì ghen tị. Hiện nó đã được số hóa gần 2 triệu trang và hình ảnh, dịch hàng chục ngàn trang nghiên cứu nước ngoài sang tiếng Trung, xuất bản nhiều bộ tài liệu nhiều tập và tổ chức hàng chục hội nghị học thuật.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">3</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay từ đầu, Ban Biên soạn Lịch sử Nhà Thanh đã là phương tiện để Đảng Cộng sản chỉ đạo cách thức mà Nhà Thanh được nhớ đến. Tuy nhiên, sau khi Tập Cận Bình bước lên đỉnh cao quyền lực vào năm 2012, bàn tay của đảng nắm quanh cổ họng dự án chặt hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều giới hạn nghiêm ngặt đối với những gì có thể, và quan trọng hơn là không thể nói về thế kỉ 17, 18 và 19. Lí do là hiển nhiên: đối mặt với yêu cầu độc lập ở Đài Loan và cảm xúc li khai ở Tây Tạng và Tân Cương, không có gì có thể được phép làm đảo lộn tự sự </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">chính thức của quốc gia</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> rằng những nơi này đã được sáp nhập một cách trơn tru, hòa bình và hữu cơ vào đất mẹ và do đó chúng là những phần không thể thiếu của một quốc gia có gốc rễ từ xa xưa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kể từ năm 2013, các nhà sử học nước ngoài như Crossley, Evelyn Rawski, James Millward, Mark Elliott và nhiều người khác đã kể một câu chuyện khác về Đại Thanh quốc - rằng đó là một triều đại Mãn Châu đã mở rộng lãnh thổ của mình thông qua chinh phục, bạo lực và áp bức - đã bị nguyền rủa ở Trung Quốc, bị tố cáo là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">những tên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đế quốc và không được chấp nhận cho tiếp cận các tài liệu lưu trữ. Cuộc đấu tranh tương tự cũng đã xảy ra với các nhà sử học Trung Quốc có tư tưởng độc lập. Vào đầu năm 2019, 'ban Nghiên cứu Lịch sử Trung Quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc' đã cảnh báo rằng, 'Một số rất nhỏ học giả thiếu sự cảnh giác thích đáng trước các tư tưởng học thuật phương Tây và đưa các biến thể lí thuyết của chủ nghĩa hư vô lịch sử nước ngoài vào lĩnh vực nghiên cứu lịch sử nhà Thanh'. Cụm từ 'chủ nghĩa hư vô lịch sử' ngày càng trở nên phổ biến trong những năm gần đây: chính phát biểu chính thức về nghiên cứu của Đảng Cộng sản không ủng hộ quan điểm của chính đảng về lịch sử. Bài báo của Zhou Qun </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(周群: Chu Quần)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phó tổng biên tập tạp chí riêng của ban, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lishi yanjiu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">('Nghiên cứu Lịch sử'), đã được đăng lại trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân Nhật báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">để đảm bảo thông điệp được đón nhận rộng rãi. Dưới tiêu đề 'Nắm chắc quyền diễn ngôn lịch sử triều Thanh', bài viết giúp nhắc nhở người đọc rằng: 'Nghiên cứu lịch sử và học hỏi từ lịch sử là một kinh nghiệm quý báu của đất nước Trung Quốc trong 5 000 năm, và nó cũng là một vũ khí thần kì quan trọng để Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">4</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Như một mô tả về quan điểm lịch sử của Đảng Cộng sản, điều đó khó có thể tốt hơn, có lẽ ngoại trừ chính Mao Trạch Đông: 'Hãy bắt quá khứ phục vụ hiện tại', như ông đã nói với sinh viên năm 1964. Cuộc chiến ý thức hệ đối với các sự kiện của ba bốn trăm năm trước vẫn còn sống và dường như vẫn còn là sống còn đối với sự tồn tại của nước CHNDTH ngày nay. Ban Biên soạn Lịch sử triều Thanh Quốc gia là bức tường thành bảo vệ đảng chống lại những âm mưu của nước ngoài phá hoại sự đoàn kết dân tộc thông qua mưu mẹo nghiên cứu tài liệu lưu trữ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có một sự cứng rắn mới đối với việc Đảng Cộng sản áp đặt một lịch sử 'đúng đắn về mặt tư tưởng' ngoài việc sáng tạo và trình bày một câu chuyện quốc gia bắt đầu từ 5 000 năm trước thời Mao. Tuy nhiên, nó không xưa 5 000 năm. Niềm tin rằng có một nơi được gọi là 'Trung Quốc' và một dân tộc được gọi là 'người Trung Quốc' tồn tại liên tục trong 5 000 năm chỉ xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ 20. Ý tưởng này được sinh ra trong óc của những người lưu vong chính trị, xa quê hương và mơ tới một thế giới mới. Để thế giới mới đó được tạo ra, trước tiên họ phải tạo ra một câu chuyện về thế giới cũ. Và người đã làm nhiều nhất để đưa câu chuyện thế giới cũ này thành hiện hữu là một người mà chúng ta đã gặp: tác giả cải cách triệt để, cha đẻ của báo chí Trung Quốc, Lương Khải Siêu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc Timothy Richard mất vào tháng 4 năm 1919, ông đã trở thành người nước ngoài nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Hiện ông đã bị quên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">lãng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">ở quê nhà nhưng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">vẫn có thể tìm thấy </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">ảnh của ông trong các viện bảo tàng ở Bắc Kinh. Rất có thể ngay cả Tập Cận Bình cũng đã nhìn thấy nó, vì Richard đã có một vị trí trong đền thiêng của Đảng Cộng sản với tư cách là người đầu tiên công bố tên của Karl Marx và Friedrich Engels bằng tiếng Trung. Đó là một viễn cảnh khó có thể xảy ra đối với một cậu bé nông dân quê miền viễn Tây xứ Wales.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Richard sinh năm 1845 tại Ffaldybrenin, một ngôi làng chỉ có một nhà nguyện nằm ẩn mình trên những ngọn đồi vùng Carmarthenshire, trong một gia đình theo đạo Tin Lành thuần thành. Năm 14 tuổi, Richard chọn làm lễ báp-têm trong làn nước lạnh giá của một con sông gần đó và một thập kỉ sau anh đăng kí thánh chức tại trường cao đẳng thần học ở thị trấn Haverfordwest. Gần như ngay lập tức, có vẻ như Trung Quốc đã trở thành thiên hướng của anh. Sau bốn năm học tập và một cuộc hành trình ba tháng bằng tàu thủy, Richard đến Thượng Hải vào ngày 12 tháng 2 năm 1870. Hội Truyền giáo Baptist đã phái ông lên phía bắc, đến Chefoo / Zhifu (芝罘: Chi Phù - nay được gọi là Yantai [烟台: Yên Đài]) ở tỉnh Sơn Đông, ở đó ông sống cùng người dân, mặc quần áo địa phương và học tiếng Trung. Ông kết hôn với một nhà truyền giáo khác, Mary Martin, vào năm 1878 và họ có 4 người con. Vai trò của họ với tư cách là những người tổ chức và nhân viên cứu trợ trong nạn đói thời bấy giờ khiến họ được kính trọng và sau đó, được bảo vệ <span id="docs-internal-guid-7a5c133c-7fff-82b2-6800-f408f6820008"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trước </span></span><span id="docs-internal-guid-8daee968-7fff-e395-5f1e-bc0d1d81b135"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ác cảm với</span></span> truyền giáo nảy sinh ở nhiều nơi khác trên đất nước.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">5</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái độ của ông đối với công việc truyền giáo rất khác với nhiều đồng đạo của ông. Ông tìm kiếm đối thoại và điểm chung, hi vọng chuyển đổi qua nêu gương thay vì dụ dỗ. Năm 1891, Richard được bổ nhiệm làm thư kí của Hội Truyền bá Cơ đốc giáo và Kiến thức tổng quát cho người Trung Quốc (SDK - còn được gọi là Hội Văn học Cơ đốc cho Trung Quốc, hoặc CLS), với mục đích là dịch và phổ biến các tài liệu 'dựa trên các nguyên tắc Cơ đốc giáo'. Niềm tin vững chắc của Hội là sứ mệnh của họ không chỉ là tôn giáo mà còn mang tính xã hội: 'Cơ đốc giáo thuần túy, trên thực tế, đã nâng cánh mọi quốc gia đã thừa nhận nó hoàn toàn', như họ đã đưa vào báo cáo hàng năm năm 1898. Họ đã rao giảng ‘phúc âm’ về Tây phương hóa cũng nhiều như phúc âm của chúa Kitô. Chiến lược rõ ràng của hội là vươn tới 'những người cai trị tương lai của Trung Quốc', và họ đã tìm ra được một nhóm đối tượng dễ tiếp thu trong một bộ phận của giới thượng lưu. Hội hoạt động với tên tiếng Trung được dịch là 'Broad Study Association’ (Hội Học tập rộng rãi), đã làm cho điều này trở nên dễ dàng hơn qua việc che khuất bản chất tôn giáo của nó. Một trong những chiến thuật thành công nhất của SDK là phân phát sách và tờ rơi cho các thí sinh bên ngoài nơi tổ chức các kì thi truyền thống dành cho thư lại tương lai. Trong khoảng thời gian từ năm 1892 đến năm 1896, Hội đã phân phát hơn 120 000 tờ rơi cho các thí sinh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">7</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với lãnh đạo của hội, cải cách chính trị và tôn giáo đi đôi với nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một chiến thuật khác là xuất bản </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wanguo gongbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Vạn quốc Công báo), một tạp chí tiếng Trung chuyển tải một pha trộn lập luận Cơ đốc giáo với các bài báo về tiến bộ của châu Âu và các kêu gọi cải cách chính trị, nhiều bài trong số đó do Timothy Richard viết hoặc dịch. Trong suốt năm 1894, ông đã dành nhiều số <span id="docs-internal-guid-02f55c23-7fff-b27d-1656-82ecc7186b8f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">báo </span></span>cho một phiên bản tóm tắt của một cuốn sách lịch sử cụ thể mà ông tin rằng sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến độc giả của báo. Cuốn sách ông chọn là cuốn sách dày 463 trang: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Nineteenth Century: A History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế kỉ 19: Lịch sử </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) của Robert Mackenzie, được xuất bản lần đầu ở London, Edinburgh và New York vào năm 1880. Nó không phải là một công trình học thuật mà là một tác phẩm hướng đến một tầng lớp trung lưu mới muốn khám phá vị trí của họ trên thế giới. Khoảng một nửa cuốn sách tập trung vào Anh, phần còn lại nhìn vào Châu Âu, đặc biệt là Pháp và Nga, cũng như Thổ Nhĩ Kì và Hoa Kì. Hầu như không có gì về châu Á hoặc châu Phi ngoài thuộc địa Ấn Độ của Anh. Mục đích của Richard khi chọn cuốn sách này để dịch là <span id="docs-internal-guid-8fb897f1-7fff-8b05-e59d-de73452ea5ec"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nhằm </span></span>cho thấy Anh và Pháp đã vượt lên từ đói nghèo và sự tàn phá trong thời chiến như thế nào để trở thành những cường quốc như họ đã trở thành. Đối tượng của ông cũng giống như Mackenzie: tầng lớp trung lưu thành thị, biết chữ. Và đơn thuốc của ông rất đơn giản: giáo dục, cải cách và tự do hóa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đăng loạt bài </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế kỉ 19</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1894. Khi mỗi bản in xuất hiện, tình hình chiến tranh Trung-Nhật trở nên tồi tệ hơn. Trên thực tế, mọi thất bại liên tiếp đều trở thành bằng chứng thực tế cho thông điệp của Mackenzie: thông qua cải cách, ngay cả Nhật Bản dù mới nổi đôi chút cũng đã trở nên mạnh mẽ hơn so với Đại Thanh quốc xơ cứng. Nhu cầu về các tác phẩm của Mackenzie lớn đến mức, vào năm sau, hội đã xuất bản một ấn bản hoàn chỉnh của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế kỷ 19</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> với tựa đề tiếng Trung là 'Sơ lược lịch sử mới phương Tây'. Ý tưởng về 'Lịch sử Mới' rất quan trọng đối với Richard, như ông đã giải thích trong lời nói đầu: 'Cũng giống như một tấm gương sáng cho thấy cái đẹp và cái xấu, vì vậy Lịch sử mới tiết lộ những gì phát triển và những gì cần được thay thế'. Do đó, 'Lịch sử Mới' không chỉ là một cách để tìm hiểu về quá khứ; nó còn là một hướng dẫn để chỉ dẫn con người hiện đại, các dân tộc hiện đại và các chính phủ hiện đại. Bản dịch đã gây ấn tượng mạnh: 4 000 bản chính thức đã được bán trong hai tuần. Quan trọng hơn, các bản in lậu đã được in trên khắp đất nước. Nhà sử học Mary Mazur ước tính rằng, tổng cộng, khoảng một triệu bản đã được bán và tầm ảnh hưởng của cuốn sách 'không thể bị đánh giá thấp'. Nó đã được gần như toàn bộ giới thượng lưu, kể cả hoàng đế tìm đọc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">8</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 360px; overflow: hidden; width: 280px;"><img height="407" src="https://lh6.googleusercontent.com/s4WIla8PBAawFeaxeGaaU_AYbYPngZb7rYAIjdjv6xT1snkO3oMqfwX7RMJamMI7NITuDCiR9YlYHBWwklNxAjOcoDBr_F5Q_7LBwaeTyCrVRpdp9l-mmVq3W3pLjivZ3Gm8nXK4" style="margin-left: -12px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 188px; overflow: hidden; width: 297px;"><img height="407" src="https://lh6.googleusercontent.com/s4WIla8PBAawFeaxeGaaU_AYbYPngZb7rYAIjdjv6xT1snkO3oMqfwX7RMJamMI7NITuDCiR9YlYHBWwklNxAjOcoDBr_F5Q_7LBwaeTyCrVRpdp9l-mmVq3W3pLjivZ3Gm8nXK4" style="margin-left: -324px; margin-top: -98px;" width="601.5" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">8. Timothy Richard với vợ Mary (nhũ danh Martin) và hai cô con gái lớn của họ là Eleanor (trên cùng) và</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"> Mary Celia. Bức ảnh này có lẽ được chụp ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, vào năm 1883. Richard là một</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space: pre;"> nhà truyền giáo Baptist người xứ Wales, đã cố sống như những người Trung Quốc mà ông muốn cải </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space: pre;"> đạo. Ông đã kết hợp truyền giáo với cải cách xã hội. Các bản dịch của ông đã giới thiệu cho nhiều thành</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space: pre;"> viên của giới tinh hoa Trung Quốc những ý tưởng của châu Âu. Lương Khải Siêu là người phiên dịch /</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space: pre;"> thư kí của ông trong một vài tháng quan trọng năm quan trọng 1895 và nhiều ý tưởng của Siêu về việc</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; white-space: pre;"> viết lịch sử Trung Quốc là do Richard gợi hứng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-8dc3be62-7fff-902a-1796-fa00934f56c5"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">9. (a) Lương Khải Siêu khi còn là sinh viên. Tóc của ông được cắt tết theo kiểu đuôi sam của tất cả đàn </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">ông sống dưới sự cai trị của nhà Thanh. Phần trước của đầu được cạo và phần còn lại được vén ra sau</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">để tạo thành một bím tóc đuôi sam. (b) Siêu sống lưu vong ở Nhật Bản, đầu những năm 1900. Ông đã</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">cắt bỏ 'đuôi sam' và bây giờ ăn mặc theo phong cách của một quý ông Nhật Bản / phương Tây hiện đại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi cuốn sách được xuất bản, Richard đã trực tiếp làm việc truyền giáo cho giới thượng lưu khi đến Bắc Kinh vào thời điểm diễn ra kì thi cấp cao nhất cho các thư lại tương lai, diễn ra ba năm một lần. Nhiều người trong số những người thị </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jinshi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tiến sĩ) đã biết Richard từ các bài viết của ông trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc Công báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và một số rất háo hức muốn gặp ông. Sau khi bị thua Nhật, năm 1895 là thời kì lên men ở kinh đô. Vào tháng 4, học giả cải cách Khang Hữu Vi và học trò của ông là Lương Khải Siêu đã tổ chức cho 1 200 thí sinh trong kì thi kí kiến nghị yêu cầu hoàng đế không chấp nhận các điều kiện nhục nhã do Hiệp ước Shimonoseki áp đặt (xem Chương 2).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">9</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kiến nghị của họ bị từ chối nhưng điều đó chỉ càng làm tăng thêm quyết tâm của những người cải cách. Tháng 8, Vi thành lập tờ báo của riêng mình, tạp chí độc lập đầu tiên được xuất bản ở Bắc Kinh. Mô hình cho tờ báo là rõ ràng; đó là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của SDK . Trên thực tế, Vi thậm chí còn đặt nó cùng tên, trước khi đổi nó thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongwai Jiwen </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">('中外紀聞: Trung ngoại kỉ văn (Tường thuật Thế giới) ba tháng sau đó. Siêu, người vừa trượt kì thi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiến sĩ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> lần thứ hai, đã đồng ý làm biên tập viên của nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17 tháng 10 năm 1895, Richard và Khang Hữu Vi gặp nhau lần đầu tiên. Theo lời kể của Richard, Vi đến để nói rằng ông ấy muốn ‘hợp tác với chúng tôi’ trong công việc tái tạo lại Trung Quốc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">10</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mối quan hệ đã phát triển đủ mạnh để Richard trở thành thành viên sáng lập của nhóm vận động cải cách của Vi, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qiang Xue Hui,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (強學會: Cường học hội) hay 'Hội Tăng cường học tập', được thành lập vào tháng sau. Đồng thời Lương Khải Siêu tình nguyện làm thư kí của Richard, giúp ông dịch và giao dịch với quan lại. Hai ông đã có chung một tầm nhìn cho tương lai của đất nước. Trong thời gian cuối năm 1895 và đầu năm 1896, trong khi làm thư kí cho Richard, Siêu đã nghĩ ra và xuất bản một thư mục gồm các <span id="docs-internal-guid-0e9026b2-7fff-d862-b166-e9a545d6e4d3"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tài liệu</span></span> quan trọng có ý định như là một hướng dẫn cho các nhà cải cách. Hai trong số các khuyến nghị cụ thể của ông là cuốn sách của Mackenzie và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của hội</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi hai người làm việc cùng nhau, những ý tưởng về cải cách của Siêu tiếp tục phát triển. Ảnh hưởng của Richard có thể được nhìn thấy trong nhiều tác phẩm sau này của Siêu, về lịch sử, cải cách chính trị hay vai trò của phụ nữ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">11</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi triều đình cấm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung ngoại kỉ văn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Siêu đã lập ra một tờ báo khác, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shiwu Bao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(時務報: Thời vụ báo), <span id="docs-internal-guid-cca4abd3-7fff-d600-c54c-2e8d0cafd00d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trong an toàn ở</span></span> Thượng Hải vào tháng 8 năm 1896. Ông đã mô phỏng theo dạng thức </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cho tờ báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và đăng nhiều bài cùng chủ đề và cùng lập luận</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">12</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là một cuộc hành trình trí tuệ mà Lương Khải Siêu đã trải qua kể từ năm 1890, khi thi trượt kì thi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiến sĩ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lần đầu lúc mới 17 tuổi. Trên đường về nhà trong thất vọng qua Thượng Hải, Siêu đã khám phá ra bản đồ phương Tây và những tư tưởng cải cách đã thay đổi hoàn toàn hướng đi của cuộc đời ông. Vào cuối những năm 1890, Siêu có lẽ là nhà báo viết bằng tiếng Trung có ảnh hưởng nhất và những ý tưởng về lịch sử trong các bài báo của ông trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời vụ báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lại bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng của Timothy Richard, và qua ông này, của Robert Mackenzie. Khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cường học hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xuất bản 'Tuyển</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tập những bài báo của thời đại” (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Jing Shi Wen/</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">經世文: Kinh thế văn) vào tháng 2 năm 1898, 31 bài tiểu luận do Richard viết, cùng với 44 bài của Siêu và 38 bài của Vi.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">13</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Richard cũng giới thiệu các ý tưởng của Thuyết Darwin Xã hội cho Siêu vào khoảng cùng thời điểm khi các bản dịch sách của Herbert Spencer và Thomas Huxley (được mô tả trong Chương 3) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">của Yan Fu (嚴復: Nghiêm Phục) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đang được xuất bản. Họ đã gợi hứng để Siêu phát triển ý tưởng về 'nhóm' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">qun </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(群: quần) - và cách tốt nhất để đảm bảo sự tồn tại của nó. Trong thời kì này, nỗi sợ hãi về tuyệt chủng đã trở thành <span id="docs-internal-guid-1e85842a-7fff-b55d-d1ad-39d9e806d18a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">hồn ma gây phấn khích các nhà cải cách</span></span>. Bài tiểu luận năm 1897 của Siêu '</span><span id="docs-internal-guid-84ffa1cc-7fff-edd9-c3ab-dabd733ae194"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'Về nhóm' (說群/</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shuo Qun </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Thuyết quần)</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đã giới thiệu ý tưởng cho độc giả của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời vụ báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">14</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo Siêu, chính các nhóm người sẽ cung cấp năng lượng cho sự thay đổi xã hội. Điều đó có nghĩa là họ là đối tượng thích hợp cho bất kì nhà viết sử nào - không phải nhà nước và những người cai trị nó. Điều này ngụ ý một sự cắt đứt hoàn toàn với những ý tưởng truyền thống về 'cách học cũ và chỉ ra hướng mà những suy nghĩ của Siêu về Lịch sử mới của Trung Quốc' đang hướng tới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những ý đồ của Vi và Siêu cũng như hi vọng cải cách của họ (chưa kể đến của Timothy Richard) đã bị bóp nghẹt vào ngày 22 tháng 9 năm 1898 khi thái hậu Từ Hi tiến hành đảo chính. Các đồng minh của Từ Hi đã quản thúc hoàng đế và xử tử 6 trong số những nhà cải cách hàng đầu nhưng không chặn được Vi và Siêu trốn sang Nhật Bản. Richard lẽ ra sẽ gặp hoàng đế vào ngày hôm đó nhưng dường như đã được cảnh báo về mối nguy hiểm và đã làm việc với những người liên lạc để đảm bảo rằng Vi và Siêu nhận được sự bảo vệ ngoại giao.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">15</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau khi được ổn định nơi lưu vong, những người cải cách nhận ra mình ở trong một vạc dầu âm mưu và khi phát triển lí thuyết trong tư cách là cộng đồng sinh viên Trung Quốc, lấy cảm hứng từ sự hiện đại hóa nhanh chóng của Nhật Bản, mơ ước thay đổi ở quê nhà. Siêu trú ngụ ở Yokohama và học tiếng Nhật. Nhờ đó ông có thể đọc nhiều sách phương Tây đã được dịch sang tiếng Nhật nhưng chưa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">dịch </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">sang tiếng Trung. Chân trời trí tuệ của ông mở rộng thêm một lần nữa. Trong một bài báo năm 1902, ông giới thiệu hàng chục đầu sách của các tác giả khác nhau, từ Aristotle đến nhà sử học người Đức Karl Ploetz. Nhiều ý tưởng và thuật ngữ mà ông đã chấp nhận và sáng tạo rõ ràng mang ảnh hưởng của các nhà tư tưởng châu Âu này được lọc qua các bản dịch tiếng Trung và tiếng Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về cơ bản, Siêu theo cách nhìn quê hương của người lưu vong. Viết từ Yokohama, rõ ràng với ông rằng Đại Thanh quốc không bao gồm 'mọi thứ dưới gầm trời' hoặc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nhưng chỉ là một trong số rất nhiều nước. Trong một bài báo vào năm 1899, ông gọi nước đó là '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhina</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">', mượn tên trong tiếng Nhật.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">16</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thiếu các từ tương đồng trong tiếng Trung cho các khái niệm phương Tây gắn liền <span id="docs-internal-guid-8dad10a3-7fff-a987-e4b2-7339eccb2829"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">với</span></span> các bài viết về 'Lịch sử Mới' của châu Âu, chẳng hạn như 'country' (đất nước) và 'nation' (dân tộc), ông bắt đầu thử nghiệm với các từ mới. Vào tháng 10 năm 1899, ông viết rằng trong khi có một thuật ngữ tiếng Trung là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guo-jia</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (quốc gia), có nghĩa là state-clan (nước-nhà [bộ tộc]), sự sống còn của chủng tộc da vàng đòi hỏi phải có một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guomin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc dân) - dân của nước. Cách duy nhất để cứu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc) khỏi sự tuyệt chủng theo 'Chủ nghĩa Darwin xã hội' bởi chủng tộc da trắng là huy động những người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">min </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân)- người dân - bảo vệ nó. Với một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, quốc gia sẽ thuộc về toàn thể nhân dân, những người sẽ hình thành một dân tộc từ đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">17</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Siêu đã phát triển ý tưởng của mình về tầm quan trọng của 'nhóm' thành một trọng tâm chú ý duy nhất về dân tộc như là động cơ của lịch sử. Năm 1900, ông viết: 'Châu Âu ngày nay, mỗi một phần của nó, <span id="docs-internal-guid-fe0884c1-7fff-9b41-c85b-1d3f284af59b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được hưởng lợi không gì bằng từ chủ nghĩa dân tộc</span></span>.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">18</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều cốt yếu, theo quan điểm của Siêu, chính nhân dân sẽ xác định quốc gia chứ không phải ngược lại. Như chúng ta sẽ thấy trong Chương 5, tất cả các thuật ngữ này - 'nhân dân', 'chủng tộc' và 'dân tộc' - đều mới và được định nghĩa rất lỏng lẻo, và ý nghĩa của chúng sẽ thay đổi trong vài năm sau đó khi các cuộc đấu tranh chính trị nổ ra giữa phe cải cách và phe cách mạng. Tuy nhiên, những ý tưởng mới nổi của Siêu về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sẽ tiếp tục xác định </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thứ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> 'Lịch sử Mới' mà ông muốn viết và cách những người kế tục ông sẽ xác định lịch sử Trung Quốc cho thế kỉ sau và xa hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1901 Siêu xuất bản quyển sách đã trở thành bản văn nền móng cho 'Lịch sử Mới của Trung Quốc': cuốn 'Trung Quốc sử tự luận' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguoshi Xulun </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國史敘論). Trong đó, ông đặt ra những nền tảng trí tuệ mà trên đó một dân tộc sẽ được xác định và xây dựng. Ông viết về một nơi - không còn được gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhina </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mà là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Trung Quốc) - và ông tuyên bố rằng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">này chỉ gồm một dân tộc duy nhất có lịch sử gắn kết họ với nhau và làm họ khác biệt với các láng giềng. Ông nói với độc giả của mình những gì nên được đưa vào lịch sử của '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' và những gì nên bỏ qua, và các thuật ngữ chính xác để thảo luận về nó. Thuật ngữ ông chọn cho 'nhân dân' rõ ràng bị ảnh hưởng bởi các cuộc tranh luận về chủng tộc đang diễn ra giữa các nhà cách mạng và nhà cải cách lưu vong (được thảo luận trong Chương 3). Đó là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc) - nghĩa đen là 'dòng giống người' - nhưng là một thứ có thể dễ dàng được dịch là 'chủng tộc' (race). Do đó, Chinese people là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Quốc). Ông mượn ý tưởng từ các nhà sử học Đức để lập luận rằng tác động của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đối với lịch sử giống với tác động của chủng tộc Aryan / da trắng.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">19</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu tin rằng có một mối liên hệ hữu cơ giữa việc viết sử và sự <span id="docs-internal-guid-0ec2c589-7fff-7ce5-9eaa-022f2b0dd85b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sinh tồn</span></span>. Tất cả các nhóm đều cạnh tranh nhưng những nhóm nào có lịch sử - và đối với Siêu, đó là hai chủng tộc da trắng và vàng - sẽ sinh tồn, trong khi những người 'không có lịch sử' - da đen, da nâu và da đỏ - sẽ không </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">sống sót</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Trong một bài luận khác được xuất bản khoảng cùng lúc đó, ông tuyên bố rằng 'các chủng tộc da đen, da đỏ và da nâu thấp kém hơn da trắng do liên quan tới các cơ cấu vi sinh trong máu và sức mạnh não bộ. Chỉ có <span id="docs-internal-guid-bc99dee9-7fff-3660-f52a-47565c5844a6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chủng tộc </span></span>da vàng mới có thể cạnh tranh với da trắng.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">20</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, điều quan trọng đối với sự tồn tại của chủng tộc là có một lịch sử giúp củng cố cho nhóm chủng tộc đó. Nhóm lựa chọn của Siêu là 'dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Trung Quốc)' và do đó 'Lịch sử Mới' của ông phải là một câu chuyện về sự liên tục. Nhưng khái niệm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Quốc)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phải đủ linh hoạt để bao gồm tất cả các dân tộc khác nhau của đại quốc. Ông đã xé bỏ cách viết lịch sử truyền thống của các triều đại và áp dụng cách phân loại của châu Âu gồm 'cổ đại', 'trung đại' và 'hiện đại'. Đối với ông, thời kì cổ đại bắt đầu với vua Hoàng Đế huyền thoại vào năm 2700 TCN và kết thúc bằng việc tạo ra một '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(trung quốc)' thống nhất dưới thời nhà Tần vào năm 221 TCN. Theo lời của Siêu, 'Đây là thời đại mà </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong guo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (trung quốc: nước ở giữa) trở thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Trung Quốc), khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tự phát triển, tư đấu tranh với nhau và tự thống nhất'. 'Thời trung đại' bắt đầu vào năm 221 TCN và tiếp tục cho đến cuối triều đại của Hoàng đế Càn Long vào năm 1796, năm mà thời 'hiện đại' bắt đầu. Như giáo sư Xiaobing Tang (唐小兵: Đường Tiểu Binh) lưu ý, việc phân chia thời kì này dựa trên quan điểm của Siêu về địa lí 'tự nhiên' của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và ông đã chọn nó với biên giới của Đại Thanh quốc trong đầu. Ông mô tả thời 'cổ đại' là thời kì mà </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> này tranh giành với các nhóm khác, chẳng hạn như người Miêu. Hàm ý ở đây là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ban đầu là một nhóm chủng tộc, người Hán, mặc dù Siêu bất đồng sâu đậm với sự phân biệt chủng tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tộc Hán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Chương Bỉnh Lân, người cũng hoạt động ở Nhật Bản lúc đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều quan trọng là phải hiểu rằng vào năm 1901, Siêu không mô tả một dân tộc Trung Quốc đang hiện hữu mà thật ra đang tạo ra một dân tộc qua việc viết lịch sử của nó. Với việc chọn nhóm nào được đưa vào </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và nhóm nào bị loại trừ, ông đã vẽ ra một ranh giới xung quanh dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">vẫn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">còn kéo dài cho đến ngày nay. Ông cảm thấy không cần phải giải thích </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tại sao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ông viết lịch sử về nhóm người cụ thể này: sự cần thiết có vẻ chỉ đơn giản là hiển nhiên. Siêu không viết lịch sử vì tự thân nó mà song song với các bài tiểu luận và bài báo về nhu cầu cải cách chính trị. Lịch sử là nền tảng của công việc chính trị của ông. Siêu muốn hiện đại hóa nhưng cũng muốn bảo tồn Đại Thanh quốc và ông cần một hệ tư tưởng biện minh cho các lập luận của mình. Ông tìm thấy nó trong một quan điểm về lịch sử của châu Âu, dựa trên quan điểm của 'Chủ nghĩa Darwin xã hội' về sự tiến bộ, trong đó tính xác thực của một dân tộc là do nguồn gốc bề ngoài cổ xưa của nó cung cấp. Do đó, sự tồn tại của dân tộc phải được chứng minh bằng cách truy tìm lịch sử <span id="docs-internal-guid-4ef26918-7fff-8583-b5bb-cf5ea0230c8d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tiến</span></span> triển của nó. Điều đáng lưu ý là ông thể hiện sự liên tục <span id="docs-internal-guid-e7d35506-7fff-f605-f7ab-fab3de33cc82"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">từ quá khứ xa xôi tới</span></span> hiện tại. Việc các thành viên của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ban đầu có thực sự biết rằng họ là một phần của nhóm đó hay không <span id="docs-internal-guid-fb3e3880-7fff-8872-1807-3f35786ca4f5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chẳng là vấn đề</span></span>. Điều quan trọng là mối liên hệ giữa lúc đó và bây giờ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">21</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông khâu nối câu chuyện lại dựa trên sự pha trộn bằng chứng với phỏng đoán, chọn lấy <span id="docs-internal-guid-12336f46-7fff-8ded-52c8-f98215b5f120"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chuyện này bỏ đi chuyện khác</span></span>, và tất cả để biện minh cho chương trình hành động chính trị hiện đại của ông. Chương trình đó vẫn xác định tính Trung Hoa của CHNDTH cho đến ngày nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đặc trưng của 'Châu Á' thời trung cổ do Siêu đưa ra <span id="docs-internal-guid-48904455-7fff-c583-1c5c-919698236775"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bao gồm chỉ</span></span> những chủng (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) được sáp nhập vào lãnh thổ nhà Thanh trong thế kỉ 17 và 18: thổ dân 'Miêu' (một <span id="docs-internal-guid-1cbdc14d-7fff-4bde-f5b0-dac18e038524"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cụm từ</span></span> gọi chung bao gồm người Hmong và các dân tộc miền núi phía Nam khác), người Hán (được mô tả là cháu chắt của Hoàng Đế), cộng với người Tạng, người Mông Cổ, người Tungus (Mãn) và Hung Nô (Duy Ngô Nhĩ hoặc Thổ Nhĩ Kì). Siêu lập luận những 'chủng tộc châu Á' này đã đánh nhau với người Hán nhưng sau đó hợp nhất với họ để tạo thành một chủng tộc duy nhất rất khác với những chủng tộc bên ngoài.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">22</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, những chủng này là thành phần 'hiển nhiên' của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hiện đại theo lịch sử. Điều này cũng có các hàm ý 'hiển nhiên' không kém đối với lãnh thổ của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- nó phải bao gồm tất cả các lãnh thổ mà các dân tộc đó sinh sống: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc bản bộ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">('Trung Quốc thuần túy', lãnh thổ cũ của nhà Minh) cộng với Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ và Mãn Châu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu sau đó xác định điểm khởi đầu của thời kì 'hiện đại' là thời điểm mà </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trở nên kết nối với thế giới rộng lớn hơn và bị buộc phải <span id="docs-internal-guid-8b976d72-7fff-8dae-1f28-02a59174a93b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> đi vào 'cuộc cạnh tranh sống còn xem ai thích ứng nhất’</span></span> với các quốc gia thuộc chủng tộc da trắng.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">23</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông lập luận rằng sự pha trộn chủng tộc chứ không phải sự tách biệt, là chìa khóa để <span id="docs-internal-guid-a79de171-7fff-8865-3656-9a16623f8915"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sống còn</span></span>, và đặc biệt là rào cản giữa người Hán và người Mãn Châu cần được phá bỏ. Đối với Siêu, người Hán là cốt lõi của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và rõ ràng là vượt trội. Mục đích của sự pha trộn là để nâng cao các dân tộc khác lên cấp độ tiến hóa của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây chỉ là <span id="docs-internal-guid-d5cc6546-7fff-a60a-1a4e-065da6926c0f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chút hương thoáng</span></span> của những gì sẽ đến. Vào tháng 2 năm 1902 Siêu thành lập một tờ báo ra hai tuần một lần có tên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xinmin Congbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(新民叢報: Tân dân Công báo). Mỗi số bán được khoảng 10 000 bản, được phân phối chủ yếu ở Nhật Bản nhưng cũng có ở Trung Quốc và nước ngoài. Ảnh hưởng to lớn của nó đối với những người cải cách có thể thấy </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">được </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">qua một bức thư từ người bạn và nhà tài trợ của Siêu, Hoàng Tuân Hiến, gửi vào tháng 11 năm 1902, trong đó Hiến nói rằng những ý tưởng và thuật ngữ mới được phát triển trong các bài báo của Siêu đã xuất hiện rộng rãi trên các tờ báo khác và thậm chí còn được thảo luận trong các kỳ thi tuyển quan lại nhà Thanh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">24</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân dân Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sẽ là nơi công bố hầu hết những suy nghĩ mới của Siêu cho đến khi nó bị đóng cửa vào tháng 11 năm 1907. Ông đã nói rõ về mục đích của tờ báo này: nó được dành để đưa một dân tộc mới thành hiện hữu. Số đầu tiên bao gồm phần đầu trong 6 phần của một bài tiểu luận lớn, trong đó Siêu giải thích lịch sử mới cần được viết cho dân tộc mới này ra sao. Nó được gọi là 'Tân sử học' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xin shixue </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(新史學, nghĩa đen là 'nghiên cứu lịch sử mới'), và ông bắt đầu với việc mượn cách ví von mà Timothy Richard đã sử dụng trong lời tựa của mình cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cuốn sách của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mackenzie 7 năm trước. 'Việc viết sử ... là tấm gương phản chiếu dân tộc, cũng là cội nguồn của lòng yêu nước.' Ông tiếp tục với việc cho rằng 24 bộ sử truyền thống của các triều đại chỉ là một bản tường thuật toàn diện, độc nhất về việc người ta chém đầu nhau và ông kêu gọi phải làm 'cách mạng' việc viết sử.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">25</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu bày tỏ rõ ràng. Ông lập luận rằng nếu không có loại sử phù hợp, '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">không thể cứu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc chúng ta được'. Lịch sử phải thuộc về nhân dân, không phải của kẻ thống trị. Như nhà sử học người Mĩ Peter Zarrow nhận xét, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân sử học </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'là loại lịch sử được thiết kế đặc biệt để thúc đẩy tình cảm dân tộc'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">26</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Câu hỏi về chủng tộc và phân nhóm, một lần nữa, là cơ bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cạnh tranh giữa các chủng tộc đối địch là động cơ của sự tiến bộ và kết quả sẽ quyết định liệu một chủng tộc cụ thể sẽ thống trị-'trong lịch sử' hay bị mai một-'phi lịch sử'. Tuy nhiên, suy nghĩ của Siêu về chủng tộc đã tự diễn biến. Thay vì 6 chủng tộc mà ông đã nêu tên như là thuộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong tiểu luận trước đó, ông chỉ nêu tên 3 chủng tộc : Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kì được xác định <span id="docs-internal-guid-dea6a984-7fff-eea7-223a-2c6306448b49"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tách </span></span>biệt nhưng các chủng tộc khác - Hán, Tạng, Mãn và Miêu - thì không. Theo quan điểm của Siêu, bất kì sự khác biệt nào có thể có giữa các nhóm này đều <span id="docs-internal-guid-0823019f-7fff-7fab-9eea-94d8d236221a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">không quan trọng</span></span>, bởi vì: '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là một đất nước đại thống nhất! Con người thống nhất, ngôn ngữ thống nhất, văn hóa thống nhất, tôn giáo thống nhất, truyền thống thống nhất.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">27</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông không đưa ra lí do nhưng sự thay đổi xảy ra vào lúc ông đang tranh luận chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Hán của Chương Bỉnh Lân, và Siêu đang <span id="docs-internal-guid-bd256a42-7fff-9252-cbba-e31ba97cdc13"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">biện hộ </span></span>cho sự thống nhất của 'chủng tộc da vàng' chống lại kẻ thù lớn hơn là 'chủng tộc da trắng'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không chỗ nào Siêu biện minh cho sự phân chia chủng tộc của mình ngoài những quy chiếu mơ hồ đến ngôn ngữ, chữ viết và truyền thống, và cũng như trường hợp của tất cả các cách phân loại như vậy, chúng có rất nhiều mâu thuẫn. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông đã làm việc quá nhanh. Người viết tiểu sử người Trung Quốc của Siêu, Li Guojun, ước tính rằng trong năm 1902 Siêu đã viết 450 000 chữ chỉ riêng trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Dân Công báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">28</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, cơ bản hơn, Siêu đang sáng chế ra một cách nhìn về quá khứ hoàn toàn mới và thử nghiệm với các ý tưởng như ông đã làm. Những ý tưởng của ông về quá khứ Trung Quốc đang được hình thành và tái hình thành, xuất bản và tái bản hàng tuần. Một số trong những ý tưởng này đã bị loại bỏ, những ý tưởng khác lại đến để xác định một quốc gia-dân tộc mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu mô tả mấy dãy núi - Himalaya, Pamir và Altai - là biên giới tự nhiên của đất nước Trung Quốc. Kích cỡ của chúng đã ngăn cản việc truyền bá nền 'văn hóa cao' của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span id="docs-internal-guid-d339ee8b-7fff-fb0a-2f87-57f6ef48147c"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sang </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ấn Độ và Tây Á. Tuy nhiên, ông cũng mô tả các dãy núi cao ngang bằng khác, chẳng hạn như Côn Lôn, chia cắt Tây Tạng với các đồng bằng trung tâm, và Thiên Sơn, chạy giữa Tân Cương, là 'có thể thấm qua được'. Có thể thấy có người Mông Cổ, người Tây Tạng, người Thổ Nhĩ Kì, người Tungus và người Miêu sống ở cả hai bên của 'biên giới tự nhiên' này nhưng điều đó không ngăn họ là một phần 'tự nhiên' của dân tộc Trung Quốc. Siêu cũng không nghĩ rằng những nơi khác mà những tộc người này có thể thấy có sinh sống - nam, đông nam hoặc trung Á - nên được đưa vào lãnh thổ của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Logic không nhất quán và, như nhà Hán học Julia C. Schneider đã chỉ ra, chứng tỏ rằng động lực chính đằng sau những ý tưởng lịch sử của Siêu là để biện minh cho sự tồn tại của Đại Thanh quốc và phạm vi lãnh thổ của nó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">29</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu hạ thấp những điểm tương đồng có thể tạo cơ sở cho một trật tự 'tự nhiên' khác. Ví dụ, người Mông Cổ và người Tây Tạng có chung một nền văn hóa Phật giáo, cùng với những người ở Nepal và bắc Ấn Độ. Các xã hội Mông Cổ, Tây Tạng và Mãn Châu có truyền thống theo đạo shaman. Các dân tộc Thổ Nhĩ Kì Hồi giáo có mối liên hệ văn hóa với các dân tộc ở phía Tây đến tận Istanbul, và các dân tộc thiểu số kiểu 'Miêu' ở vùng cao có thể thấy sống trên khắp Đông Nam Á. Những nền văn hóa này đều khá khác biệt với nền văn hóa của người Hán ở trung nguyên, nhưng Siêu đã giảm thiểu sự khác biệt và nhấn mạnh những điểm tương đồng để làm nổi bật sự thống nhất của tính </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Qua đó, logic của ông là muốn giữ 'ngũ tộc' thời nhà Thanh (Mãn, Hán, Mông, Thổ và Tạng), cùng với năm lãnh thổ tương ứng của họ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">30</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đây là những lựa chọn mà ông đưa ra vào đầu những năm 1900 vì lí do chính trị rõ ràng nhưng hậu quả của những ý tưởng đó đã kéo dài lâu hơn Nhà Thanh. 'Quốc sử' Trung Quốc, cho đến ngày nay, thường được viết như một lịch sử của một lãnh thổ vốn không thực sự 'cố định' cho đến giữa thế kỉ 20.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu đã phát triển mối liên hệ giữa việc viết lịch sử và việc xây dựng một dân tộc trong một tiểu luận tiếp theo vào năm 1903. Trong đó, Siêu bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với những ý tưởng của nhà lí luận chính trị người Đức gốc Thụy Sĩ Johann Bluntschli, vốn đã quen thuộc đối với những nhà cải cách ở Nhật Bản. Siêu đã chấp nhận các định nghĩa của Bluntschli về các từ 'people' và 'nation'. Một 'people' là kết quả của một lịch sử văn hóa chung và do đó không nhất thiết phải tương ứng với các biên giới. Mặt khác, một 'nation' bao gồm các cư dân của một đất nước nhất định. Siêu đã chọn sử dụng từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc) như từ tương đương với 'people' và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guomin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc dân) cho 'nation'. Theo Bluntschli, Siêu lập luận rằng việc tạo ra một nation - một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guomin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- sẽ tự động tạo ra một 'nation-state', một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guojia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc gia)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, Siêu khác Bluntschli trong việc xác định những gì tạo nên một 'people'. Bluntschli đề cập 8 tiêu chí: ngôn ngữ, tôn giáo, ngoại hình, cách sống, nghề nghiệp, truyền thống, việc chung sống và liên minh chính trị. Tuy nhiên, một số trong <span id="docs-internal-guid-90a1fd59-7fff-af3c-b954-8e5e191463b8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các tiêu chí này</span></span>, khá rõ ràng là sẽ chia tách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc </span><span id="docs-internal-guid-5ee77f4a-7fff-2cd4-29be-5a10ec10586f"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">theo cách nhìn nhận phổ biến</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Do đó, Siêu nói, chỉ có ba tiêu chí thực sự quan trọng: tiếng nói, chữ viết và truyền thống. Bản chất cốt yếu của dân tộc do đó sẽ được định nghĩa theo một cách rất truyền thống - theo văn hóa. Tất cả những ai thừa nhận nền văn hóa cao hơn - tiếng nói, chữ viết và truyền thống của nó - đều là một phần của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đây chỉ đơn giản là sự trình bày lại quan điểm văn hóa truyền thống của Nho giáo. Nhưng nó phù hợp với quan điểm phân biệt chủng tộc về dân tộc mới manh nha của Siêu. Trong tiểu luận năm 1903, ông lập luận, 'Dân tộc lớn này (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">da minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: đại dân tộc) phải lấy người Hán (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Han ren</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Hán nhân) làm trung tâm và tổ chức của nó phải do bàn tay của người Hán lập thành. Về sự việc này không có gì phải bàn cãi cả'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">31</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói cách khác, tương lai của tất cả các nhóm khác trong vương quốc nhà Thanh là trở nên bị đồng hóa. Ông phản đối những người tranh luận cho việc người Hán 'đi một mình'. Ông gọi ý tưởng đó là 'chủ nghĩa tiểu dân tộc', hay </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xiao minzu zhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tiểu dân tộc chủ nghĩa), và làm nó tương phản với ý tưởng của chính ông về ‘chủ nghĩa đại dân tộc', hay </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">da minzu zhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(đại dân tộc chủ nghĩa). Dạng tiểu dân tộc sẽ chia tách đất nước, trong khi dạng đại dân tộc sẽ thống nhất nó chống lại mối đe dọa từ các nước bên ngoài (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guo wai</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: quốc ngoại).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">32</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Để hậu thuẫn cho khẳng định của ông về sức mạnh đồng hóa, Siêu đã tạo ra một huyền thoại lịch sử lớn khác, tồn tại cho đến ngày nay. Để chứng tỏ rằng văn hóa Hán sẽ thắng thế trong tương lai, ông cho rằng nó đã thắng với người Mãn khi nói rằng, 'Họ đã hoàn toàn đồng hóa vào </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Khẳng định này rõ ràng là sai, vì các thành phố vẫn được chia thành các khu sinh sống riêng biệt cho hai nhóm. Lệnh cấm kết hôn giữa họ chỉ được dỡ bỏ vào năm 1902 và hai dân tộc này phần lớn sống tách biệt. Tuy nhiên, Siêu bám vào nó như là thủ đoạn chính trị. Ông cũng phóng ngược lập luận của mình về xa xưa để khẳng định rằng, ngoài người Mãn (1644–1912), những kẻ xâm lược </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trước đây - Tabgach [拓拔: Thác Bạt] (386-535), Khiết Đan (907–1125), Kim Nữ Chân (1115) –1234) - cũng đã được chuyển đổi sang nền văn hóa cao của Trung Quốc. Tuy nhiên, ông đã thừa nhận rằng Mông Cổ (1279–1368) không bị thay đổi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thật trớ trêu điều mà danh sách của Siêu làm rõ là trong hơn một nửa thời gian từ năm 386 CN cho đến khi tiểu luận của Siêu được xuất bản vào năm 1903, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc bản bộ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">('Trung Quốc thuần túy') đã bị ‘bọn rợ’ từ phía bắc cai trị. Trong những thời kì đó, trên thực tế </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từng là một thuộc địa nằm trong các đế quốc do những người phi-Hán cai trị. Tuy nhiên, trong cách diễn giải dân tộc chủ nghĩa của Siêu về khoảng thời gian dài đó, đây thực sự là một cuộc thực dân hóa ngược : tất cả những người cai trị nước ngoài đó đều đã bị nền văn hóa Hán ưu việt khuất phục và trở thành một phần của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Có một <span id="docs-internal-guid-791e7cb0-7fff-7c12-9871-c79184f2271f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tinh tuý</span></span> Trung Quốc đã tồn tại không thay đổi trong nhiều thiên niên kỉ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu tìm kiếm một câu chuyện về sự liên tục, một lịch sử giống như những lịch sử châu Âu mà ông đã tiếp thu từ khi gặp gỡ với Timothy Richard vào năm 1895. Nếu muốn trở thành một dân tộc, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cũng cần một lịch sử. Một lịch sử dân tộc, được viết theo sự cách thức của Siêu, phải nhấn mạnh tính liên tục hơn tính gián đoạn, và tính tự nhiên hơn tính tùy tiện. Kết quả phải chuyển đổi một bộ các mảnh trái ngược nhau thành một tự sự tiến triển, kể một câu chuyện về cách 'chúng ta' đến 'đây'. Để làm được điều này, Siêu đã sáng tạo ra khái niệm 'sức mạnh đồng hóa': dân tộc tiến bộ và trương rộng ra khi ngày càng nhiều người trở nên bị đồng hóa vào nền văn hóa vượt trội của nó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">33</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông không thể chấp nhận dân tộc Trung Quốc là dân tộc yếu. Như ông đã viết trong bài giới thiệu năm 1909 (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc sử tự luận</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), 'Nhìn từ góc độ hình dáng bên ngoài, tộc Hán thường thua kém nhưng nhìn từ góc độ tinh thần bên trong, tộc Hán thường ưu thắng'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">34</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói cách khác, người Hán chỉ có vẻ bị đô hộ; những ai thực sự có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra sẽ hiểu rằng trong suốt chặng đường của mình, dân tộc Hán vẫn gắn kết và mạnh mẽ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ năm 1903 đến 1905, quan điểm của Siêu về dân tộc được phát triển và thuật ngữ ông chọn chuyển từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Quốc) sang </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa). Điều này dường như xảy ra do cuộc tranh luận của ông với Chương Bỉnh Lân về bản chất của chủng tộc Hán. Siêu nói rõ trong một bài báo xuất bản năm 1905 rằng, đối với ông, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hanzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tộc Hán) là xương sống của dân tộc, nhưng ông không đồng ý với Lân việc đưa cả những tộc khác vào trong đó. Đối với Siêu, sắc dân thuần khiết nhất là người Hoa, hậu duệ ban đầu của các vua Hoàng Đế và Xích Đế. Sau đó, họ đã đồng hóa 8 sắc dân khác để tạo thành tộc Hán: Miêu và Mãn, Thục, Ba và Địch, Hứa và Hoài, Ngô và Việt, Mân, Bách Việt và Bách Bồ. Siêu thừa nhận rằng Miêu và Bồ thực sự vẫn chưa bị đồng hóa nhưng dù sao thì ông cũng coi họ là một phần của tộc Hán. Do đó, người Hán với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là một. Một lần nữa, trước nhiều bằng chứng ngược lại, Siêu đã phủ nhận bất kì sự khác biệt nào giữa các nhóm khác, mặc dù rất nhiều khác biệt vùng miền về ngôn ngữ và truyền thống đã có lúc đó và vẫn còn cho đến ngày nay.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">35</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng vào đầu những năm 1900, Siêu tin rằng dân tộc này đang trong một cuộc đấu tranh sinh tồn với chủng tộc da trắng. Do đó,việc nói về sự chia rẽ là hành động tự sát theo nghĩa đen: sức mạnh chỉ có thể đến từ sự hòa quyện với nhau. Chỉ có thể có một dân tộc và mọi người ở </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cần phải trở thành một phần của dân tộc đó: không có chỗ cho những bản sắc riêng biệt. Theo quan điểm của ông, việc người Hán là cốt lõi của đất nước Trung Quốc và những dân tộc khác chỉ phải đồng hóa là chuyện ko cần phải <span id="docs-internal-guid-a66b76e8-7fff-ade1-409b-788e67de5110"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nghĩ ngợi</span></span>. Điều này không chỉ áp dụng cho các nhóm dân tộc khác; Siêu cũng không quan tâm đến sự khác biệt địa phương giữa người Hán với nhau. Việc chống lại người ngoài quan trọng hơn nhiều so với những khác biệt nhỏ giữa những người bên trong. Tầm nhìn của Siêu về dân tộc vừa mang tính sắc tộc vừa mang tính văn hóa. Điều đã giữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span id="docs-internal-guid-37dc4935-7fff-b8cc-319a-8efb0fa196d0"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gắn kết lại </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">với nhau và cho phép nó chiến thắng những kẻ xâm lược là nền văn hóa vượt trội của nó. Nền văn hóa ưu việt này đã đồng hóa tất cả những ai mà nó tiếp xúc. Lịch sử của dân tộc Trung Quốc do đó là câu chuyện về sự tiến bộ và mở rộng của nền văn hóa này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu không có thời gian để viết lịch sử quốc gia vĩ đại của mình. Các bài viết của ông chuyển sang nhu cầu xây dựng 'công dân mới', tranh luận về giá trị tương đối của cải cách và cách mạng, về vai trò của phụ nữ và hầu hết các chủ đề khác được tranh luận trong thập kỉ đầu của thế kỉ 20. Nhưng những ý tưởng mà Siêu đưa ra - về dân tộc và sự cần thiết của một quốc sử để sản sinh ra dân tộc - vẫn tồn tại dai dẳng. Năm 1904, người bạn thân của ông là Xia Zengyou (夏曾佑: Hạ Tăng Hựu) đã viết cuốn sách mà Siêu chưa viết được: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cuốn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc sử đầu tiên của Trung Quốc do một người Trung Quốc viết được xuất bản ở Trung Quốc. Hai người có chung ý tưởng: Hựu thường xuyên viết bài cho tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Dân Công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Siêu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dưới một bút danh. Có lẽ vì những bài báo đó, và có lẽ là do chính Siêu gợi ý, Hựu đã được Nhà xuất bản Thương mại tư nhân ở cảng Thượng Hải - an toàn ngoài tầm của chính quyền nhà Thanh - mời viết một cuốn sách giáo khoa lịch sử mới cho các trường học: 'Z</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">uixin Zhongxue Zhongguo Lishi Jiaokeshu' </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(最新中學中國歷史教科書: Tối tân Trung học Trung Quốc Lịch sử Giáo khoa thư). Công ti hi vọng sẽ thu được tiền từ nhu cầu mới được tạo ra vì chính phủ nhà Thanh vừa phê duyệt cải cách giáo dục thiết lập hệ thống trường học quốc gia lần đầu tiên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một trong những mục đích rõ ràng của các quy định là củng cố 'nền tảng cho tình yêu dân tộc' của học sinh, mặc dù ý tưởng về dân tộc của triều đình nhà Thanh, không có gì đáng ngạc nhiên, có phần khác với của Siêu. <span id="docs-internal-guid-6f91322f-7fff-6af5-af18-4427514e4fdb"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Triều đình </span></span>sử dụng từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guojia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc gia), hơn là từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc) mà ông ưa thích. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là một công thức đặc biệt của Nho giáo dựa trên ý tưởng của các vòng tròn xúc cảm đồng tâm - từ cá nhân lan tỏa ra bên ngoài, thông qua gia đình và dòng họ tới quốc gia.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">36</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Siêu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là về tình yêu thương dân tộc trên hết thảy. Tuy nhiên, các quy định mới cũng theo ý tưởng của Siêu khi kêu gọi rõ ràng việc học 'quốc sử' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoshi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Quy định cũng nêu cụ thể rằng học sinh phải được giáo dục về ‘quy tắc đạo đức của các hoàng đế của triều đại hiện tại', điều mà một nhà cải cách như Siêu cũng đồng ý.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuốn sách của Hựu theo sát những chỉ dẫn do Siêu vạch ra cho <span id="docs-internal-guid-654dc0eb-7fff-777c-55fc-86895b449471"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quốc sử</span></span> mới. Lời nói đầu của ông đề cập đến các ý tưởng của Chủ nghĩa Darwin xã hội về sự tiến hóa để giải thích tại sao chủ đề của cuốn sách là tiến bộ và thay đổi. Ông chia quá khứ thành các thời kì cổ đại, trung đại và hiện đại nhưng chỉ ra cách mà mạch liên tục của dân tộc Trung Quốc chạy xuyên suốt nó, hay như ông nói, 'Người Hán đã xác định ranh giới lãnh thổ của Trung Quốc’. Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các nhóm phi-Hán - <span id="docs-internal-guid-08332bcc-7fff-5613-f4a9-33faecaa1507"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dân </span></span>Thổ và Mông - trong việc hình thành dân tộc. Cuốn sách của Hựu đã <span id="docs-internal-guid-b6ba75cb-7fff-25d6-f120-ebfecf7924fd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">xác lập biên giới quốc gia theo</span></span> các dãy núi và biện minh việc sáp nhập Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương vào bên trong biên giới của đất nước. Cuốn sách được bán dưới dạng sách giáo khoa trường phổ thông nhưng đối tượng ban đầu của nó cũng bao gồm dân chúng biết chữ rộng lớn hơn. Nó vẫn vô cùng phổ biến và trở thành một <span id="docs-internal-guid-8c4a9720-7fff-526c-3e57-8ea590f63055"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cuốn sách</span></span> tiêu chuẩn trong các trường học sau cuộc cách mạng năm 1911 và khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập. Nó thậm chí còn được tái bản vào năm 1933 cho một thế hệ giáo viên và học sinh mới. Vào lúc đó, có vẻ đối với người đọc có thể cuốn sách chỉ đơn giản là mô tả trật tự tự nhiên của mọi thứ. Nhưng câu chuyện của cuốn sách này cho thấy rằng nguồn gốc của lịch sử mà nó kể </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">do những suy nghĩ lúc tha hương của Hạ Tăng Hựu và Lương Khải Siêu và xa hơn là cuộc gặp gỡ của Siêu với Timothy Richard vào năm 1895 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">định đặt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hầu hết người nước ngoài biết đến Deshengmen (德胜门: Đức Thắng Môn) ở Bắc Kinh là do trạm xe buýt mà <span id="docs-internal-guid-fd4315f2-7fff-2f01-05a4-8f5af3665940"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">từ đó các chuyến tham quan Vạn Lí Trường Thành khởi hành</span></span>. Vươn cao lên phía trên nó là cổng 'Đức Thắng Môn' <span id="docs-internal-guid-1d517bad-7fff-a180-7fec-3ae61758f582"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phục chế</span></span> mà theo đó khu vực này được đặt tên - một trong hai cổng ban đầu còn <span id="docs-internal-guid-1a6b4d87-7fff-92dc-f417-80def34e0a4a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sót lại dẫn</span></span> vào thành phố cổ. Bức tường mà cổng tựa vào được xây dựng từ thời nhà Minh nhưng đã biến đi từ lâu, được dỡ bỏ vào <span id="docs-internal-guid-8c82377f-7fff-3369-62a7-7bd6e19be8fb"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thập niên</span></span> 1960 để xây dựng đường tàu điện ngầm và đường vành đai thứ hai của thành phố. Việc phá bỏ các bức tường thành thoạt đầu là do các <span id="docs-internal-guid-8241e10d-7fff-d751-b493-f04d08df1357"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">yêu cầu tiến bộ cộng sản thúc đẩy và sau đó là do các đòi hỏi lợi nhuận tư bản nhưng có thể dễ dàng tin rằng đó cũng nhằm trừng phạt cá nhân đối với gia đình Lương Khải Siêu</span></span>. Con trai ông, Liang Sicheng (梁思成: Lương Tư Thành) và con dâu, Lin Huiyin (林徽因: Lâm Huy Nhân), cả hai đều là kiến trúc sư hàng đầu, đã đấu tranh trong suốt hai thập niên 1940 và 1950 để bảo tồn các bức tường và toàn bộ thành phố cổ như chúng vốn có. Thật đáng buồn cho những người yêu thích di sản đích thực, họ đã bị thua. Ngay cả các cổng và tháp còn sót lại phía sau cũng được xây dựng lại để làm cho chúng trông ấn tượng hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một 'tháp [bắn] tên' phòng thủ khổng lồ nằm trên Đức Thắng Môn như một nhắc nhở về những bức tường cũ, che bóng cho chỗ bây giờ là một ngã ba đường thậm chí còn lớn hơn. Rất lâu trước khi bến xe và ngã ba được xây dựng, cổng này là điểm khởi đầu của tuyến đường chính đi Tây Bắc. Các đoàn quân đã từng dấn bước đi qua nó trên đường tới biên giới. Có lẽ điều này giải thích vì sao khu vực này là nơi sinh sống của một cộng đồng người Hồi theo đạo Hồi, tập trung xung quanh một nhà thờ Hồi giáo nhỏ. Cho đến cuối những năm 1990, đường Đức Thắng Môn là đường một chiều chỉ rộng 20 mét, có nhiều cửa hàng và doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, các nhà quy hoạch thành phố Bắc Kinh có những ý tưởng lớn hơn. Trong thời gian vài năm, ba phần tư dân số đã được chuyển đi trong khi chiều rộng đường tăng lên gấp bốn lần. Các doanh nghiệp nhỏ bị san bằng và thay thế bằng các văn phòng và trung tâm mua sắm.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">37</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhà thờ Hồi giáo vẫn tồn tại, ít nhất là trên danh nghĩa. Nhà thờ Hồi giáo Fayuan ( 法源: Pháp Nguyên) được xây dựng lại vào năm 2003, chủ yếu là một điểm thu hút khách du lịch, vì những tín đồ ban đầu của nó đã bị di dời khỏi khu vực lân cận.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay đối diện nhà thờ Hồi giáo là một trong những khu phức hợp văn phòng sáng bóng được xây dựng vào thập niên 2000. Và ở vị trí trang trọng nhất, ngăn cách với tháp tên bởi những luồng giao thông, là trụ sở của 'Hanban' (汉办: Hán biện), Viện Khổng Tử. Hán biện, hay 'Văn phòng Quốc tế của Hội đồng tiếng Trung’, tên chính thức của nó, là một cơ quan của Bộ Giáo dục Trung Quốc chịu trách nhiệm thúc đẩy việc giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc trên toàn thế giới. Được hậu thuẫn rộng rãi bởi các nguồn lực của chính phủ, Hán biện hiện đang điều hành hơn 500 'Viện Khổng Tử' tại hơn 140 quốc gia trên thế giới.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">38 </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Công việc của các viện này chủ yếu tập trung vào việc học ngôn ngữ nhưng quan điểm cụ thể về lịch sử và văn hóa cũng là một phần của cả gói học tập. Cuốn sách duy nhất về lịch sử mà Hán biện giới thiệu cho học viên của mình có tựa đề </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kiến thức chung về lịch sử Trung Quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Cùng với các tập sách đi kèm về địa lí, loạt sách này được in theo ít nhất 12 ngôn ngữ: từ tiếng Anh sang tiếng Na Uy đến tiếng Mông Cổ. Đây là ‘quốc sử' chính thức - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoshi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- được gói chung vào cho người nước ngoài tiêu thụ. Và lịch sử mà Viện Khổng Tử chọn để kể vẫn theo mô hình do Lương Khải Siêu đặt ra, mặc dù có một vài sửa đổi kiểu cộng sản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các phần được đặt các tiêu đề như 'Thời kì đại thống nhất phong kiến : Tần và Hán', 'Thời kì phát triển thêm của xã hội đa sắc tộc nhất thể: Minh và Thanh', v.v. Chủ đề đầu là 'Tổ tiên của dân tộc Trung Hoa', cho chúng ta biết rằng con cháu của Hoàng Đế và Xích Đế hợp nhất để tạo thành Hoa Hạ, vốn 'là ông cha của người Hán, và là bộ phận chính của dân tộc Trung Hoa'. Đến thời nhà Tùy vào thế kỉ thứ 6, chúng ta <span id="docs-internal-guid-6058f1e2-7fff-9ed8-0fce-b83dc474165e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được </span></span><span id="docs-internal-guid-da4da416-7fff-1a81-d673-5e77a5cf8ef7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cho biết </span></span>rằng, 'Dân tộc Trung Hoa, với cốt lõi là dân tộc Hán, đã trở thành một cộng đồng tương đối ổn định, do đó, sự tái thống nhất của nhà Tùy là một xu hướng lịch sử.' Sự lặp lại dư thừa cho thấy rằng những khó khăn của Siêu trong việc dịch các khái niệm về 'people' và 'nation' vẫn còn tồn tại và kéo dài tới tận thời CHNDTH.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chủ đề của nửa đầu cuốn sách là sự hiện hữu ban sơ của một nơi gọi là Trung Quốc và một dân tộc được gọi là người Trung Quốc <span id="docs-internal-guid-a21a1b8e-7fff-87f2-3bc8-76c49e885b20"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">từng </span></span>đã tồn tại qua hàng thiên niên kỉ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> tới nay</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Ngay cả khi nó không được gọi là 'Trung Quốc', hoặc bị phân chia thành các quốc gia đối địch, nó vẫn là 'Trung Quốc' theo cách nào đó. Tiền đề cơ bản là tính liên tục. Chúng ta được cho biết, 'Nhiều <span id="docs-internal-guid-4dec152c-7fff-b759-3bfa-8ed730f9a2e3"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">định </span></span>chế được khởi xướng từ triều đại Tần và Hán [hơn 2 000 năm trước] đã được các triều đại sau này kế thừa liên tục. Ba thế kỉ từ khi nhà Đường kết thúc vào năm 907 tới khi quân Mông Cổ đến vào năm 1260 được mô tả là một 'thời kì loạn lạc', nhưng 'Trung Quốc' vẫn nằm ở vị trí đó suốt. Khi người Mông Cổ xâm lược Trung Quốc, họ đã trở thành một triều đại Trung Quốc một cách thần kì: 'Năm 1279 ... Trung Quốc được thống nhất thành một dân tộc một lần nữa'. Càng lố bịch hơn nữa khi những người sáng lập triều đại nhà Thanh được mô tả là 'các bộ tộc Mãn Châu ở đông bắc Trung Quốc' và việc họ thôn tính thậm chí không được thừa nhận là xâm lược.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">39</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những thiên lệch của cuốn sách đặc biệt dễ thấy, trong những trường hợp hiếm hoi, khi nó bị buộc phải bàn luận tới các dân tộc 'không-Hán', đặc biệt là các dân tộc này xâm lược và cai trị 'Trung Quốc'. Người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xianbei </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(鮮卑: Tiên Ti)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, từng đã thành lập nước Ngụy trên khắp vùng đất mà ngày nay là miền bắc Trung Quốc và Mông Cổ, có vẻ đã phát hiện ra rằng, 'Chìa khóa để củng cố quyền cai trị của họ là ... học hỏi từ người Hán’. Chúng ta được cho biết người Tây Tạng thường sống trong lều nhưng ngưỡng mộ văn hóa nhà Đường thế nào. Họ nhận được những món quà của văn hóa Trung Quốc thông qua cuộc hôn nhân của hoàng đế với Công chúa Văn Thành. Khái niệm 'sức mạnh đồng hóa' của Lương Khải Siêu vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nói chung các dân tộc khác ở Đông Bắc Á không có mặt trong sách này như trong quốc sử trừ khi họ học theo hoặc chống lại người Hán.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tất nhiên, có rất nhiều cuốn sách lịch sử được xuất bản ở Trung Quốc và nhiều sử gia với hiểu biết sâu sắc hơn nhiều về quá khứ. Nhưng cuốn sách này là cuốn được chính phủ Trung Quốc chọn để trình bày lịch sử quốc gia của mình ở nước ngoài. Câu chuyện của nó là câu chuyện được tìm thấy trong các sách <span id="docs-internal-guid-3328e75b-7fff-d9ee-04ae-eaf3bc9699b9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">giáo khoa </span></span>của Trung Quốc và tạo thành nền tảng cho việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường xuyên liên hệ tới các tiền lệ lịch sử. Đây là câu chuyện mà các tổ chức như Viện Lịch sử nhà Thanh đang làm ra. Kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, không gian chính trị cho những quan điểm bất đồng về lịch sử - chưa bao giờ mở rộng - đã bị thu hẹp hơn nữa. Lịch sử quốc gia được thu gọn lại thành câu chuyện về sự bành trướng của một nền văn hóa vượt trội lên những nền văn hóa thấp kém hơn nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt;">Làm sao chúng</span> ta có thể kể câu chuyện về mảnh của bề mặt trái đất này và các dân tộc đã sống trên đó theo cách nào khác? Nếu chúng ta tránh bị cám dỗ theo giả định rằng Trung Quốc là một đơn vị lãnh thổ nguyên thủy có ranh giới 'tự nhiên', thì chúng ta cần nhìn những gì đã xảy ra trong từng thời kì theo <span id="docs-internal-guid-b32f3e36-7fff-6149-c287-e7c5b1915c31"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">điều kiện </span></span>của nó, không nhất thiết phải như là một giai đoạn trên con đường dẫn đến tình trạng hiện nay. Câu chuyện nên được đóng khung trong bối cảnh khu vực, làm nổi bật cách các dân tộc di chuyển, các quốc gia nổi lên và chìm xuống, biên giới biến động, giao thương lưu thông và các nền văn hóa lai tạp </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nhau </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">như thế nào. Nếu chúng ta tránh những giả định về sự ưu việt và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">sự </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thấp kém thì chúng ta bắt đầu thấy những dòng chảy trong quá khứ là đa hướng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt;">Chẳng hạn, nếu đọc ngược </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">với xu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt;"> hướng</span> các bộ sử chuẩn, chúng ta có thể theo quan điểm của nhà sử học Nhật Bản Hidehiro Okada.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">40</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong tường thuật của ông, những cư dân được ghi nhận sớm nhất ở phần này của Đông Á đều từ nơi khác đến. Người Hạ là người phía nam, có thể gốc Đông Nam Á, họ định cư ở vùng đồng bằng ven biển phía nam và phía đông. Mặt khác, người Thương và người Chu dường như là những người du mục từ Bắc Á tới. Người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mãn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cao nguyên đã tạo thành nước Sở vào đầu thế kỉ thứ 8 TCN. Theo cách kể thông thường, những nhóm này là bọn người man di, tách biệt với 'người Trung Quốc'. Okada lập luận điều ngược lại: những 'người man di' này thực chất là những cư dân gốc chấp nhận lối sống định cư ở đô thị và do đó khiến họ khác biệt với những người họ hàng hoang dã của họ - họ sống <span id="docs-internal-guid-2b8912ec-7fff-77e0-ab8a-aa37a0a6da1d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ở thành thị</span></span> và được một hoàng đế cai trị qua ngôn ngữ viết. Đây là ba chỉ dấu của nền văn minh ban đầu, không phải sắc tộc. Các thành phố bao gồm các thành viên của nhiều nhóm sắc tộc nhưng với việc chấp nhận văn hóa đô thị, các 'công dân' đã tự tái tạo thành một nhóm mới. Vào khoảng năm 100 TCN, vị quan triều đình, Tư Mã Thiên, đã soạn thảo một phiên bản lịch sử có sửa đổi để làm hài lòng ông chủ hoàng đế. Ông đã lần ra nguồn gốc các vua của triều đại Hán từ 'thời cổ đại', cố làm mờ đi nguồn gốc không thuần nhất của nó. <span id="docs-internal-guid-5414503a-7fff-1825-c3bc-31d56da05d67"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Tư Mã Thiên có tài tuyên truyền không chút thua kém tài viết sử </span></span>và là một người thành công đáng kể. Câu chuyện mà ông thêu dệt vẫn được tái chế sau hai thiên niên kỉ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc gia Hán bắt đầu tan rã vào khoảng năm 184 CN với sự khởi đầu của một cuộc nổi dậy của giáo phái tôn giáo 'Khăn Vàng' (黃巾: Hoàng Cân). Chiến sự và nạn đói xảy ra sau đó đã giết chết gần 90% dân số, từ 50 triệu giảm xuống chỉ còn 5 triệu. Tàn quân của nước Hán cuối </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cùng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sau đó chạy về phía nam đến thung lũng sông Dương Tử. Vùng đất mà họ bỏ lại sau lưng sau đó đã được nhiều người di cư từ Bắc Á trám vào. Họ đã tạo ra một nước mới ở phía bắc với một dạng tiếng nói mới, 'bắc hóa'. Sự phân chia bắc-nam này kéo dài khoảng 200 năm cho đến năm 589 CN, nước Tùy ở phía bắc, do người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiên Ti </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở trung Á thành lập , đánh bại người phía nam.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhà Tùy bị nhà Đường lật đổ vào năm 618. Họ cũng có phần nào là hậu duệ người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiên Ti</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đế chế đó bắt đầu bị chia cắt vào thế kỉ thứ 9 và cuối cùng sụp đổ vào năm 907. Chỗ của nó đã bị một số nước đối thủ nhỏ hơn chiếm lấy và thế kỉ tiếp theo được đặc trưng bởi biến động và chiến tranh với khu vực phía bắc một lần nữa do các dân tộc Turkic (Thổ) cai trị. Người Shatuo (沙陀: Sa Đà) bị thay bằng người Khitan (契丹: Khiết Đan - mà từ đó chúng ta có cái tên xưa của Trung Quốc: Cathay), đã lập ra triều đại Liêu, cho đến khi họ bị người Jurchen (女直: Nữ Chân) chinh phục, cai trị cho đến năm 1234. Theo Okada, không một dân tộc nào trong số này thấy mình như đang cai trị </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(trung quốc: nước chính giữa). Họ là những người Nội Á mà đối với họ Trung Quốc là phần phụ của đế quốc. Bắc Kinh trở thành kinh đô mùa đông của người Nữ Chân, ở xa cái lạnh khắc nghiệt của Siberia, và đồng thời giữ vai trò kép là thủ đô hành chính cho thần dân của họ. Thời kì này gần như hoàn toàn bị bưng bít trong câu chuyện 'quốc sử', vốn thích tập trung vào sự tồn tại của một nước đối địch, dưới quyền nhà Tống, vốn kiểm soát phần phía nam của nơi ngày nay là Trung Quốc, mặc dù lãnh thổ của nó dần dần bị thu hẹp dưới áp lực từ phía Bắc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Mông Cổ chiếm Bắc Kinh năm 1215 trước khi dập tắt Vương triều Kim Nữ Chân vào năm 1234. Trong nửa thế kỉ sau, quân Mông Cổ ngày càng tiến sâu về phía nam, ép nhà Tống ra tận bờ biển trước khi kết liễu nó trong một trận hải chiến gần Quảng Đông năm 1279. Người Mông Cổ đặt tên cho chính quyền Trung Quốc của họ là ‘triều Nguyên' để làm cho nó dễ chấp nhận hơn về mặt văn hóa, nhưng nó không phải là một nước Trung Quốc <span id="docs-internal-guid-d1ef3516-7fff-159d-43a7-1350136b94de"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mà cũng không phải là</span></span> một đại quốc Nội Á. Mặc dù Hốt Tất Liệt dời đô đến Bắc Kinh vào năm 1271, ‘Trung Quốc’ chỉ đơn giản là một phần của hãn quốc, vào năm 1279, trải dài từ bán đảo Triều Tiên đến đồng bằng Hungary. Với một nhận thức nào đó về sự trớ trêu lịch sử này, Lương Khải Siêu sau này tôn vinh nhà Nguyên của người Mông Cổ như là ‘triều đại thống nhất </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">', vì họ chinh phục cả hai nước Nữ Chân và Tống, lần đầu tiên đưa lãnh thổ hai nước này dưới cùng một hoàng đế kể từ khi nhà Đường sụp đổ, gần 4 thế kỉ trước. Ngay cả Lương Khải Siêu cũng phải thừa nhận rằng ‘Trung Quốc’ do đó là di sản của người Mông Cổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương quốc Mông Cổ thống nhất này chỉ tồn tại chưa đầy một thế kỉ trước khi các cuộc nổi dậy ở địa phương làm nó tan rã. Một đại quốc dựa trên sự mở rộng liên tục chỉ đơn giản là không thể đối phó với các <span id="docs-internal-guid-d73bec68-7fff-9ef3-08ad-b160f37ce204"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đòi hỏi</span></span> của việc điều hành ổn định. Đầu thế kỉ thứ 14 là thời kì hỗn loạn li tâm và ở một số nơi, các lãnh chúa địa phương tuyên bố dưới vỏ bọc của các đế chế đã có từ trước. Một trong số đó, Chu Nguyên Chương, thành lập kinh đô mới phía nam (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nan-jing</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) ở Nam Kinh và tự xưng là người đứng đầu của triều đại mới, <span id="docs-internal-guid-44b4246b-7fff-a420-0bee-c7a593857b1b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">triều </span></span>Minh (có nghĩa là 'sáng’) vào năm 1368. Mặc dù Siêu và các tác giả ‘quốc sử' sau đó đã miêu tả Nhà Minh như là một triều đại đích thực của Trung Quốc, họ đã giảm nhẹ mức độ mà các nhà cai trị nhà Minh bắt chước người Mông Cổ một cách có ý thức. Thật vậy, cơ cấu quan liêu cơ bản của <span id="docs-internal-guid-a3b794b0-7fff-b105-ba65-de246636df89"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">triều đình</span></span>, với Nội các (ban thư kí), Đô sát viện, Ngũ quân phủ được mượn từ triều đình của Hốt Tất Liệt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này cũng đúng với chính quyền địa phương. Người Mông Cổ đã chia đất nước thành các thái ấp cá nhân: thủ lĩnh của mỗi địa phương là thủ lĩnh bộ lạc đã chinh phục nó. Nhà Minh đã sao chép nguyên tắc này nhưng khi các học giả của họ đặt bút viết lịch sử của triều đại trước, họ đã xóa bỏ các chi tiết này và làm cho hệ thống có vẻ tổ chức tập quyền hơn. <span id="docs-internal-guid-9f0bce8e-7fff-b30f-a61b-6cef3d47a079"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Okada nói rằng chính</span></span> vì lợi ích của mình mà các thư lại nhà Minh tự thể hiện mình là cốt lõi của một nước theo Nho giáo nhưng quyền lực thực sự nằm ở 'tầng lớp quý tộc quân sự' - con cháu của các tướng lĩnh đã giúp sức cho Chu Nguyên Chương. Điều này cũng là một mô hình vay mượn trực tiếp từ người Mông Cổ. Nhà Minh cũng tổ chức dân số theo các lối của người Mông Cổ. Các gia đình quân nhân được tổ chức theo ‘bách hộ sở, 10 bách hộ sở lập thành 'thiên hộ sở' và sau đó 5 thiên hộ sở lập thành ‘vệ sở'. Các sổ ghi chép điều tra dân số còn sót lại cho thấy rằng các thủ lĩnh của các ‘vệ sở' nói chung là di sản của Mông Cổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vị hoàng đế thứ hai của nhà Minh xây dựng kinh đô phía bắc (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bei-jing </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) ở Bắc Kinh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">không phải </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chỉ vì ông thích khí hậu ở đó. Vị trí - ở cửa ngõ vào Mông Cổ - đã được cân nhắc và chiến lược. Ông muốn trở thành hoàng đế của nhà Minh lẫn <i>kha hãn</i> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(khan) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của người Mông Cổ. Bằng cách dùng vỏ bọc nhà Nguyên, nhà Minh cũng mở rộng quyền kiểm soát của họ sang hai khu vực đã bị người Mông Cổ chinh phục: vương quốc Thái cũ ở Vân Nam và lưu vực sông Liêu do dân Triều Tiên sinh sống. Trong phiên bản lịch sử của Lương Khải Siêu, những người phương Bắc xâm lược đã được 'văn minh hóa' và 'Hoa hóa' bởi nền văn hóa vượt trội của người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mà họ tiếp xúc ở </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Cấu trúc cơ bản của các nhà nước nhà Minh (và sau này là nhà Thanh) cho chúng ta biết rằng văn hóa đã lưu chuyển theo cả hai hướng. Người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là lai tạp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với nhà Minh, 'ranh giới tự nhiên’ của đại quốc <span id="docs-internal-guid-c13e9fd2-7fff-4bc3-24af-e0fefe7386f7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">từ vùng núi Vân Nam trải dài về phía bắc và phía đông qua các dãy núi Tứ Xuyên, dãy Altun (阿尔金: A Nhĩ Kim), dãy Min (岷: Dân) và Qilian (祁連: Kì Liên) trước khi nối vào biên giới ít tự nhiên hơn là Vạn Lý Trường Thành</span></span>. Những ranh giới này được thiết kế đặc biệt để ngăn chặn người Tây Tạng, người Thổ Nhĩ Kì, người Mông Cổ và người Mãn Châu - về mặt vật lí nhưng cũng về mặt tâm lí. Những ranh giới này <span id="docs-internal-guid-e4409cda-7fff-19e5-cf84-46acd711be2b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">duy trì</span></span> trong 300 năm cho đến khi nhà Mãn Thanh phá vỡ vào năm 1644. Đối với họ, với tư cách là người thừa kế các nền văn minh Khiết Đan, Nữ Chân và Mông Cổ, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chỉ là một điểm đi qua trên con đường dẫn đến vị thế tối cao trong khu vực. Các chiến dịch quân sự của nhà Thanh sẽ nâng diện tích lãnh thổ mà Bắc Kinh cai trị </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">lên gấp ba lần</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">. Nếu người Mông Cổ tạo ra Trung Quốc, như Lương Khải Siêu khẳng định, thì người Mãn Châu đã tạo ra 'Trung Quốc rộng lớn hơn'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là một tường thuật <span id="docs-internal-guid-90898822-7fff-38c7-827d-a027ed83cedb"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">còn xa mới </span></span>toàn diện về hai thiên niên kỉ nhưng nó là một nỗ lực để cho thấy một lịch sử khác có thể được viết ra như thế nào nếu chúng ta chọn xem nó như một câu chuyện địa phương hơn là một câu chuyện quốc gia. (Đối với một tường thuật <span id="docs-internal-guid-82bfe8f5-7fff-f86a-8975-979499a8a8b9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dài hơn và chuyên sâu</span></span> hơn, cuốn sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Demystifying China: New Understandings of Chinese History </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Loại bỏ bí ẩn về Trung Quốc: Những hiểu biết mới về lịch sử Trung Quốc, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">do Naomi Standen biên tập, sẽ là một nơi tốt để bắt đầu.)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">41</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Khi chúng ta hiểu được 'sự lộn xộn' của 20 thế kỉ này, chúng ta có thể thấy rằng cần phải có trí tưởng tượng đáng kể, loại mà <span id="docs-internal-guid-7a209ace-7fff-09aa-335b-3ba6795065d1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỉ có chủ nghĩa dân tộc mới có thể cung cấp được</span></span>, <span id="docs-internal-guid-42b057e0-7fff-bc88-d531-72d45223a7ff"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mới thấy được một dân tộc ‘Trung Quốc’ cốt lõi đã kéo dài xuyên suốt trong ngần ấy thời gian đó</span></span>. Tốt nhất thì phiên bản lịch sử này thực sự chỉ là một tường thuật của một số người dân thành thị nhận ra một vị hoàng đế và viết bằng một bộ chữ cụ thể.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc tìm kiếm tính hợp pháp chính trị ở mỗi thời đại đã khiến các hoàng đế yêu cầu sử quan viết các bộ sử chính thức nhấn mạnh tính liên tục. Vào khoảng năm 800 CN, các sử quan này đã xây dựng một tín điều chính thức: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">daotong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(道統: đạo thống) - 'dẫn truyền đạo' - trong đó những người cai trị có thể tìm kiếm tính hợp pháp bằng cách mô phỏng một cách có ý thức tư duy của những người người cai trị trước đó như Khổng Tử và các nhà tư tưởng khác đã đặt ra. Như Tim Barrett, giáo sư tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi ở London, đã lập luận, ‘Thôi thúc tái xây dựng có thể <span id="docs-internal-guid-4cc053e0-7fff-3dec-2be3-c2c86d277330"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sáp nhập nhiều sáng chế trí tuệ vào</span></span><span id="docs-internal-guid-7a462cc8-7fff-53e9-9b37-97f653a98769"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> mà không bị căng kéo</span></span>’.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">42</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông lưu ý rằng việc viết ‘sử’ trong mỗi khoảng thời kì đều có dính dáng đến <span id="docs-internal-guid-d25e9a3a-7fff-e960-32c1-4f6e3f7295d2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">việc lọc lựa</span></span> đáng kể bằng chứng để trình bày một phiên bản ăn khớp với các nhu cầu của hiện tại. Việc phát minh ra giấy và kéo khiến có thể cắt và dán các câu chuyện theo ý muốn. Trong việc này, công việc hiện tại của ban Biên soạn Lịch sử Quốc gia nhà Thanh là hoàn toàn <span id="docs-internal-guid-d2bf0161-7fff-ed0d-01eb-eca16c9fb03d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nằm trong</span></span> tiền lệ. Công việc của ban là chỉnh sửa và tái thể hiện lịch sử của triều đại trước để hợp pháp hóa chế độ hiện tại và làm mất tinh hợp pháp những người chỉ trích nó với cáo buộc đi theo 'chủ nghĩa hư vô lịch sử'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mỗi người cai trị cần, và vẫn cần khẳng định <span id="docs-internal-guid-a45cf55e-7fff-cb59-68e2-967221054bd0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bắt nguồn</span></span> từ các <span id="docs-internal-guid-da456788-7fff-84a8-708c-36ac01ee3d59"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bậc thánh hiền </span></span>xa xưa. Kết quả là một tường thuật nhấn mạnh tính liên tục, ngay cả khi có rất ít bằng chứng. Sự gián đoạn bị <span id="docs-internal-guid-922032d5-7fff-c54c-30a0-2420659a1d1b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lờ đi</span></span>, nhảy xổm qua, bị loại ra khỏi ‘lịch sử’. Câu chuyện nhận được là về một triều đại nối tiếp triều đại khác bị chia cắt bởi những thời kì gián đoạn và chia rẽ ‘ngoại lệ’. Một khảo sát không vụ lợi về quá khứ sẽ phát hiện ra rằng trên thực tế, sự thống nhất mới là ngoại lệ. Nhưng Tập Cận Bình đã tuyên bố Trung Quốc là một cường quốc lớn và các cường quốc lớn cần có một lịch sử lớn - một cái gì đó như dài 5 000 năm. Và các cường quốc lớn thì không bị xâm lược hoặc làm nhục; họ là kẻ chiến thắng - luôn vậy. Dân tộc mà Lương Khải Siêu đã <span id="docs-internal-guid-470d28b8-7fff-f834-3012-ff469f01e6bc"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phù phép nên</span></span>, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa), đã và sẽ luôn luôn ở đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay bên trong cổng phía đông cũ của hoàng thành, vốn dùng làm tên gọi cho ga tàu điện ngầm Đông Trực Môn, là một mê cung với những con hẻm lát gạch xám, vẫn còn những hàng cây rợp bóng hiền hòa. Khoảng trống giữa các thân cây giờ đây là nơi đậu cho những chiếc xe máy điện im <span id="docs-internal-guid-662a5897-7fff-663a-dd24-d338299f52c9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tiếng </span></span>nhưng nguy hiểm đe dọa những người đi bộ không cẩn thận trên khắp Bắc Kinh. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhà số 23 Beigouyan Hutong (北沟沿胡同: Bắc Câu Yển Hồ Đồng) trông giống như bất kì tòa nhà nào khác trong khu phố này: một bức tường trần với những ô cửa sổ có thanh chắn và một mạng chằng chịt dây cáp điện giăng mắc trên mái ngói. Tuy nhiên, gắn vào bức tường bên cạnh cánh cửa màu đỏ của nó, là một tấm bảng tiết lộ rằng đây là một '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">siheyuan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (tứ hợp viện), một kiểu nhà ở truyền thống có sân ở giữa, được bảo vệ. Giống như hầu hết các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tứ hợp viện</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nhà này đã bị chính phủ Cộng sản chia nhỏ. Thay vì chỉ một gia đình giàu có ở, giờ đây nó là nơi sinh sống của hàng chục gia đình nghèo. Tuy nhiên, những người thụ hưởng cách mạng cao tuổi này vẫn tự hào rằng họ đang sống ở nơi từng là chỗ ở của Lương Khải Siêu. Một người in lại một bản chụp của một bản vẽ cũ, cho thấy nơi này vào những năm đầu của thế kỉ 20 trông như thế nào, trước khi có thêm những ngôi nhà thay <span id="docs-internal-guid-edb8c4e3-7fff-832e-240d-ccb4a829685c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vào chỗ </span></span>những khu vườn và ao thanh lịch.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ Nhật Bản Siêu trở về Bắc Kinh sau cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa năm 1912, được tổng thống mới Viên Thế Khải của Trung Hoa Dân Quốc chào đón. Ông được bổ nhiệm lần lượt vào các vị trí trong chính phủ: bộ trưởng tư pháp, bộ trưởng tài chính và cố vấn nhà nước, từ đó ông tiếp tục tranh biện cho sự thay đổi xã hội tự do. Vào tháng 12 năm 1913, tiếp theo Siêu là Khang Hữu Vi cũng trở về, sau 15 năm sống lưu vong. Lần cuối cùng ông nhìn thấy Bắc Kinh là khi ông chạy trốn khỏi nó vì lo cho mạng sống của mình vào năm 1898. Sau khi đoàn tụ với Siêu, gần như người tiếp theo họ đến gặp là Timothy Richard. Tại cuộc gặp gỡ đó, Siêu giải thích lí thuyết của ông về ba giai đoạn lịch sử và quan điểm của ông rằng sự phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới về khoa học, thịnh vượng và dân chủ sẽ mang tới một xã hội hoàn hảo vốn thống nhất các khái niệm hòa bình của phương Tây với lí tưởng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đại đồng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- đại hòa hợp của Nho giáo. Richard hoàn toàn đồng ý. Quay trở lại năm 1879, ông đã soạn thảo một kế hoạch cho một liên bang thế giới.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">43</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo lời kể của con gái ông, ông đã vận động các nguyên thủ quốc gia và vô số người khác về sự cần thiết của nó trong nhiều thập kỉ sau đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">44</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tất nhiên, những giấc mơ như vậy sẽ bị đập tan, cùng với hi vọng của <span id="docs-internal-guid-01225ba8-7fff-979f-0c8a-f6e128e94c58"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các vị</span></span>i đàn ông này về cải cách chính trị ở Trung Quốc. Đất nước mới nhanh chóng suy sụp thành các thái ấp do các lãnh chúa địa phương kiểm soát. Tổng thống Viên Thế Khải thậm chí còn tự xưng là hoàng đế vào năm 1915. Đồng thời, một chính phủ hiếu chiến hơn ở Nhật Bản đã tìm cách tận dụng tối đa điểm yếu này với những đòi hỏi ngày càng hiếu chiến hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 201px; overflow: hidden; width: 290px;"><img height="407" src="https://lh3.googleusercontent.com/J7yjHsQJAUpIyzXoyJCUjMKd4rvb7NO1kb_HG4_53wu0_2p4tpv05mUzDhQ_pLRTYIFbQ6CnPj_1tBpoVREBzKmNCLwNVhIEd-dhEA-Zhn8YVx739el6AWwCrBw5BHeidQ_07XvB" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 407px; overflow: hidden; width: 289px;"><img height="407" src="https://lh3.googleusercontent.com/J7yjHsQJAUpIyzXoyJCUjMKd4rvb7NO1kb_HG4_53wu0_2p4tpv05mUzDhQ_pLRTYIFbQ6CnPj_1tBpoVREBzKmNCLwNVhIEd-dhEA-Zhn8YVx739el6AWwCrBw5BHeidQ_07XvB" style="margin-left: -332px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">10. Ngôi nhà trước đây của Lương Khải Siêu ở Bắc Kinh, gần ga tàu điện ngầm Dongzhimen (Đông Trực</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;"> Môn) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;"> hiện là nơi sinh sống của khoảng chục gia đình. Một cư dân tự hào trưng bày một bức tranh cho </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">thấy dinh thự </span><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">này từng trông như thế nào trước khi nó được chia và phân phối lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">11. Nhà cải cách và học giả Khang Hữu Vi. Ông đã giúp thuyết phục hoàng đế bắt đầu các cuộc cải cách</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">vào năm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">1898, nhưng đã bị bóp nghẹt trong vòng 100 ngày. Sau đó, ông trốn dưới sự bảo hộ của Anh trong</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">khi tiếp tục </span><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;">kích động cải cách và khôi phục quyền lực của hoàng đế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 13.3333px; white-space: pre;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi châu Âu sụp đổ trong biến động của Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản là nước đầu tiên nhìn thấy cơ hội có lợi. Với con mắt thèm muốn nhắm vào vùng đất của Đức trên bán đảo Sơn Đông, Nhật Bản tuyên chiến vào cuối tháng 8 năm 1914, ba tuần sau đồng minh Anh của họ. Tuy nhiên, Lương Khải Siêu nhận ra rằng chiến tranh cũng là một cơ hội cho Trung Quốc. Ông vận động chính phủ, <span id="docs-internal-guid-92f0ba9c-7fff-de68-5dbd-c9d052ef7829"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lập luận </span></span>rằng sự ủng hộ chính thức đối với Anh và Pháp có thể buộc các cường quốc này phải đối xử công bằng hơn với Trung Quốc sau chiến tranh. Tháng 8 năm 1917 chính quyền Bắc Kinh cũng tuyên chiến với Đức. Trong khi không có quân để điều đi, họ đã phái khoảng 140 000 dân thường lao động dưới bùn và máu ở Mặt trận <span id="docs-internal-guid-92110d76-7fff-583b-c774-66b0a65dbaba"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phía </span></span> Tây trong năm cuối cùng của cuộc chiến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay sau khi kí hiệp định đình chiến vào tháng 11 năm 1918, các cường quốc chiến thắng đã tuyên bố triệu tập một hội nghị hòa bình quốc tế tại Paris để đảm bảo rằng một cuộc xung đột khủng khiếp như vậy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Một thế giới mới nằm trong triển vọng: một thế giới trong đó hòa bình và công lí sẽ thắng thế và quyền của các quốc gia mới sẽ được tôn trọng. Niềm hi vọng của Siêu đã được nâng lên. Mặc dù không phải là thành viên của chính phủ, ông quyết định dẫn đầu một phái đoàn cá nhân đến Paris để vận động cho các quyền của Trung Hoa Dân Quốc. Ông dẫn theo sáu đồng bạn từng học ở Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản để họ có thể đưa ra các lập luận của đất nước mình cho các nhà đàm phán thông qua các phương tiện truyền thông thế giới.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">45</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhóm nhỏ đó rời Thượng Hải vào tháng 12 năm 1918 và đến London vào ngày 12 tháng 1 năm 1919. Họ không ấn tượng bởi thành phố lạnh lẽo và ẩm mốc đang vật lộn trong sự kìm kẹp của suy thoái kinh tế sau chiến tranh, ‘một bức tranh nghèo nàn và hoang tàn’, Siêu gọi như vậy.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">46</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phòng khách sạn của họ lạnh cóng, thức ăn thì khủng khiếp và sương mù làm mặt trời trông ‘như máu’. Nhưng phái đoàn không đến London chỉ để du lịch. Họ đã đến với một sứ mạng cụ thể trong đầu. Một phần tư thế kỉ sau cuộc gặp đầu tiên của họ, Lương Khải Siêu đã <span id="docs-internal-guid-d4f51b21-7fff-0097-b95c-3d97457641ec"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phải </span></span>nói lời <span id="docs-internal-guid-a252b4b5-7fff-c60d-fa6f-32414916d890"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vĩnh biệt</span></span> với Timothy Richard.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Richard đã rời Trung Quốc lần cuối cùng vào năm 1916. Vì sức khỏe yếu, ông đã từ chức thư kí của Hội Truyền bá Cơ đốc giáo và Kiến thức chung tại một cuộc họp ở Thượng Hải vào năm trước. Một <span id="docs-internal-guid-abba4eb0-7fff-7d15-e183-f28f17b55a8d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đề xuất</span></span> cảm ơn đã được chính thức đồng ý, lưu ý rằng tên của Richard đã trở thành một ‘từ thông dụng ở Trung Quốc’. Tác động của ông đối với các phong trào cho cả sứ mệnh truyền đạo Cơ đốc lẫn cải cách chính trị rất sâu sắc. Khi trở lại Anh cũng có những điều khích lệ: một bằng tiến sĩ danh dự, một số cuộc họp từ biệt và một vài cuốn sách để tôn vinh ông. Ông nghỉ hưu tại một ngôi nhà nhỏ ở vùng Golders Green, ngoại ô London, nơi ông tiếp một số nhân vật vĩ đại và thánh thiện lúc đó: Bá tước Grey, Tướng Smuts và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lord Robert Cecil nằm trong số đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">47</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu đã có nhiều vấn đề cấp bách trong đầu khi đến London, nhưng theo một ghi chép còn sót lại của cuộc họp, người đầu tiên ông muốn gặp là Timothy Richard. Ông ngay lập tức nhờ phái bộ ngoại giao Trung Quốc thu xếp cuộc hội ngộ. Ông đã đi đến Golders Green, mặc bộ đồ mới kiểu phương Tây, để tặng Richard những bản sao của một số bài viết gần đây của ông.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">48</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Gặp lại nhau, hai người một lần nữa tìm thấy mục đích chung. Dù sức khỏe yếu, Richard vẫn dành thời gian của mình cho sự nghiệp hòa bình thế giới. Trong nhiều năm, ông đã kiên quyết quảng bá ý tưởng của mình về một liên bang thế giới cho tất cả những ai lắng nghe. Điều này dường như sắp xảy ra trong khoảng thời gian Siêu đến thăm ông. Ông đã đưa ra các lập luận cho một 'Hội Quốc Liên' mới tại các cuộc họp công khai và trong các bức thư gửi các nhân vật hàng đầu. Một lần nữa hai người đàn ông chia sẻ hi vọng về một tương lai hòa bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, không phải ai ở London cũng hài lòng khi thấy Siêu. Một thế hệ trẻ sinh viên Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc đã được báo động. Bởi vì ông đã ở Nhật Bản quá lâu và từng phục vụ chế độ độc tài của tổng thống Viên Thế Khải, họ nghi ngờ động cơ của Siêu. Vào tháng 2, một nhóm sinh viên đã gửi cho ông một bức thư sắc bén cảnh báo rằng đây không phải là thời điểm để thương thảo với Nhật Bản. Họ tuyên bố rằng thế giới đã thay đổi, và 'Hội Quốc Liên' mới được nước Hoa Kì ‘chính trực’ cùng nước Anh và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nước </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Pháp 'dân chủ' sẽ đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ được đối xử công bằng. Chẳng phải Trung Quốc đã không gửi hàng chục ngàn lao động đến làm việc và chết ở Mặt trận phía Tây sao? Do đó, đất nước không được tôn trọng và đối xử công bằng sao?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 3, Siêu rời Anh đến Pháp, ông kinh hoàng vì ảnh hưởng của chiến tranh, đặc biệt là sự tàn phá gây ra cho thành phố lịch sử Reims.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">49</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tại Paris, ông đã quan sát, vận động và bình luận về các cuộc đàm phán hòa bình đã được tiến hành từ giữa tháng Giêng. Hóa ra, các nước ‘chính trực’ và ‘dân chủ’ đã phản bội Trung Quốc. Anh và Pháp đã đồng ý một thỏa thuận bí mật với Nhật Bản để đổi lấy việc Nhật Bản tham chiến. Trong khi Nhật Bản được coi như một ‘cường quốc lớn' tại các cuộc đàm phán, Trung Quốc chỉ được coi là một 'cường quốc nhỏ ': tệ hơn Bỉ, Brazil hay Serbia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phái đoàn Trung Quốc cũng gặp khó khăn do sự chia rẽ giữa những người ủng hộ chính phủ được công nhận ở Bắc Kinh và ban lãnh đạo Quốc Dân đảng đối thủ của Tôn <span id="docs-internal-guid-762d7e96-7fff-7ae1-0899-eaaa796b66b5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Dật Tiên</span></span> có trụ sở tại Quảng Châu. Khoảng trống trong giới lãnh đạo Trung Quốc được lấp đầy bởi các nhóm sinh viên lưu vong biểu tình bên ngoài hội nghị, phân phát các tập sách nhỏ và tổ chức các kiến nghị và thư gửi các chính phủ khác. Họ không biết, chính quyền Bắc Kinh đã thực hiện một thỏa thuận nhục nhã. Ngày 24 tháng 9 năm 1918, trên thực tế, chính phủ đã đồng ý cho phép Nhật Bản chiếm đóng vùng đất của Đức bị thua trận trên bán đảo Sơn Đông để đổi lấy các khoản vay mới để xây dựng các tuyến đường sắt.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">50</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả của hội nghị là một cuộc đấu trí giữa các 'cường quốc lớn'. Thay vì trả lại những thứ nước Đức thua trận sở hữu cho Trung Hoa Dân Quốc mới, họ giao chúng cho Nhật Bản.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">51</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Với đòn bất ngờ này, tất cả những hi vọng dân tộc chủ nghĩa về một trật tự thế giới mới dựa trên các quốc gia có chủ quyền và bình đẳng đã bị dập tắt. Trật tự mới trông rất giống với trật tự cũ. Siêu cũng bị tổn thương như thế hệ trẻ và đổ hết sức mạnh của mình vào việc in ấn. Chính bức điện của Siêu về cách đối xử của Trung Quốc tại Hội nghị Hòa bình Versailles <span id="docs-internal-guid-b5ad20a6-7fff-5e87-043b-380e59008f14"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nguồn cội của</span></span> một bài báo gây xôn xao dư luận ở quê nhà. Điều đó dẫn đến các cuộc biểu tình của sinh viên ở Bắc Kinh vào ngày 4 tháng 5 năm 1919, và việc đốt nhà của Cao Rulin (曹汝霖: Tào Nhữ Lâm), bộ trưởng truyền thông, người đã đàm phán về các khoản vay đường sắt của Nhật Bản năm trước. Nó cũng mở ra giai đoạn tiếp theo, triệt để hơn của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, cái được gọi là Phong trào ngày 4 tháng 5.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard không hề biết điều này. Ông đã trải qua cuộc phẫu thuật ngay sau khi Siêu rời Lon</span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">h</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">don nhưng kông hồi phục. Ông qua đời tại London vào ngày 17 tháng 4 năm 1919, ở </span><span id="docs-internal-guid-956e2828-7fff-f970-e353-7a7e6ccdce0d" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tuổi 73</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">. Hai ông đã biến việc viết sử thành công cụ cho mục đích cải cách chính trị. Trong một thế kỉ kể từ đó, cách giải thích quá khứ đó đã được áp dụng vào việc phục vụ một quốc gia-dân tộc như Siêu đã mơ ước. Nó đã trở thành nền tảng cho ý thức về </span><span id="docs-internal-guid-14f288f2-7fff-478e-4354-451174f48b09" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chính mình</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> của </span><span id="docs-internal-guid-a3f57b04-7fff-9050-d5d6-a22a5c2617a5"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc gia </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc và quan trọng là đối với ý thức của thế giới bên ngoài về Trung Quốc. Nhưng đó là </span><span id="docs-internal-guid-597f6744-7fff-b40a-e850-b0db3e1559ff" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cách </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nhìn một phần về quá khứ, một </span><span id="docs-internal-guid-597f6744-7fff-b40a-e850-b0db3e1559ff" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cách </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nhìn được </span><span id="docs-internal-guid-0394df23-7fff-ee58-a2cf-9f35da244cd4"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tạo nên qua phù phép</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> để hậu thuẫn một dự án chính trị và tiếp tục ưu tiên cho ý tưởng về một dân tộc trên tất cả các đối thủ của nó. Chủ nghĩa dân tộc là một chất gây ảo giác mà những người nghiện có thể nhìn thấy ảo ảnh về sự toàn vẹn ở chỗ mà những người khác chỉ thấy sự khác biệt và đa dạng. Với sự bảo trợ chính thức bên trong Trung Quốc và sự hậu thuẫn không điều kiện từ bên ngoài, phiên bản ‘Trung Quốc’ vẫn giữ ưu thế so với các phiên bản Tây Tạng, Thổ Nhĩ Kì, Mông Cổ, Mãn Châu hoặc Miêu trong cả việc viết lịch sử lẫn chính trị. Và, ở Bắc Kinh, Viện Lịch sử nhà Thanh đang đảm bảo mọi thứ vẫn theo hướng đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">__________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. </span><a href="http://www.iqh.net.cn/english/Classlist.asp?column_id=65&column_cat_id=37" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.iqh.net.cn/english/Classlist.asp?column id=65&column cat id=37</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Pamela Kyle Crossley, ‘Xi's China Is Steamrolling Its Own History', Foreign Policy.com, 29 January 2019. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Zhou Ailian and Hu Zhongliang, ‘The Project of Organizing the Qing Archives', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese Studies in History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 43/2 (2009), pp. 73–84.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 4. ‘Firmly Grasp the Right of Discourse of the History of the Qing Dynasty', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">People's Daily</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 14 January 2019, </span><a href="http://opinion.people.com.cn/ni/2019/0114/c1003-30524940.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://opinion.people.com.cn/ni/2019/0114/c1003-30524940.html</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Thomas Jansen, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard (18451919): Welsh Missionary, Educator and Reformer in China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Swansea: Confucius Institute at the University of Wales – Trinity Saint David, 2014. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Society for the Diffusion of Christian and General Knowledge Among the Chinese, Eleventh Annual Report, Shanghai, 1898. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Eunice Johnson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard's Vision: Education and Reform in China, 1880-1910</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Eugene, OR: Pickwick Publications, 2014, pp. 67-</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. Mary Mazur, ‘Discontinuous Continuity: New History in 20th Century China', in Tzeki Hon and Robert Culp (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Politics of Historical Production in Late Qing and Republican China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Leiden: Brill, 2007, p. 116; Johnson, Timothy Richard's Vision, p.65.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. Xiantao Zhang,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> The Origins of the Modern Chinese Press: The Influence of the Protestant Missionary Press in Late Qing China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London: Routledge, 2007, pp. 67-8. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10. Johnson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard's Vision</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 60. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. Harriet T. Zurndorfer, 'Wang Zhaoyang (1763–1851) and the Erasure of “Talented Women” by Liang Qichao', in Nanxiu Qian, Grace Fong and Richard Smith (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Different Worlds of Discourse: Transformations of Gender and Genre in Late Qing and Early Republican China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Leiden: Brill, 2008.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12. Yuntao Zhang, ‘Western Missionaries and Origins of the Modern Chinese Press’, in Gary D. Rawnsley and Ming-yeh T. Rawnsley (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Routledge Handbook of Chinese Media</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London: Routledge, 2018, pp. 73-4 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Johnson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard's Vision</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 69. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shiwu Bao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, No. 26, 1897. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. Joseph Richmond Levenson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Liang Ch’ich'ao and the Mind of Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1953, pp. 31–2. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16. Xiaobing Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space and the Nationalist Discourse of Modernity: The Historical Thinking of Liang Qichao,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Stanford, CA: Stanford University Press, 1996, p. 15. 1</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Rebecca E. Karl, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Staging the World: Chinese Nationalism at the Turn of the Twentieth Century</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Durham, NC; London: Duke University Press, 2002, pp. 69–70. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> pp. 34-5. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. Ibid., p. 33. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">20. Xu Jilin, ‘Tianxia-ism, the Distinction Between the Civilised and Uncivilised, and Their Variations in Modern China', in Gao Ruiquan and Wu Guanjun (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese History and Literature: New Ways to Examine China's Past</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Singapore: World Scientific Publishing, 2018, p. 137. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. Peter Zarrow, ‘Old Myth into New History: The Building Blocks of Liang Qichao's “New History"’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Historiography East and West</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1/2 (2003), p. 228. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22. Schneider, Julia C., </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nation and Ethnicity: Chinese Discourses on History, Historiography, and Nationalism </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(1900s1920), Leiden: Brill, 2017, p. 98. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23. Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 44-5; Rebecca E. Karl, ‘Creating Asia: China in the World at the Beginning of the Twentieth Century',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> American Historical Review,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 103/4 (1998), p. 1098. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24. Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 47. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Ibid., p. 62. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">26. Zarrow, 'Old Myth into New History', p. 211. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Schneider, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nation and Ethnicity</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 106. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 242. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">29. Schneider,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nation and Ethnicity</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 107–8. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Ibid., p. 108. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. Ibid., p. 87. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">32. Ibid., p. 90. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33. Ibid., p. 98. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Ibid., p. 100. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">35. Ibid., p. 121. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. Tze-ki Hon, 'Educating the Citizens', in Tze-ki Hon and Robert Culp (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Politics of Historical Production in Late Qing and Republican China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Leiden: Brill, 2007, p. 83. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Lü Junhua, ‘Beijing's Old and Dilapidated Housing Renewal’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cities</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 14/2 (1997), pp. 59–69. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38. Xinhua, 'Over 500 Confucius Institutes Founded in 142 Countries, Regions', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Daily</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 7 October 2017, </span><a href="http://www.chinadaily.com.cn/china/201710/07/content_32950016.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.chinadaily.com.cn/china/201710/07/content_32950016.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. Office of the Chinese Language Council International, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Common Knowledge About Chinese History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Beijing: Higher Education Press, 2006, pp. 123, 138. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. Hidehiro Okada, 'China as a Successor State to the Mongol Empire', in Reuven Amitai-Preiss and David O. Morgan (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Mongol Empire and Its Legacy,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Leiden: Brill, 1999, pp. 260–72. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. Naomi Standen (ed.), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Demystifying China: New Understandings of Chinese History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lanham, MD: Rowman & Littlefield, 2013 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42. Tim Barrett, 'Chinese History as a Constructed Continuity: The Work of Rao Zongyi', in Peter Lambert and Björn Weiler (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">How the Past was Used: Historical Cultures</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, C. 750-2000, Oxford: Oxford University Press, 2017, chapter 11. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43. Johnson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Timothy Richard's Vision,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 124. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Eleanor Richard, 'A Foster Father of the League of Nations', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Peking and Tientsin Times,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> March 1919.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45. Limin Bai, 'Reappraising Modernity after the Great War' (blog post), 17 September 2015, National Library of New Zealand. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 175. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">47. Richard, 'A Foster Father'. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">48. Handwritten page from Dr Wyre Lewis's box at the National Library of Wales relating to Liang Ch'i-ch'ao's visit to Timothy Richard at Golders Green in London. Many thanks to Eunice Johnson, Jennifer Peles, Peter Thomas and Meryl Thomas for locating this document. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">49. Jonathan D. Spence, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Gate of Heavenly Peace: The Chinese and Their Revolution,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Harmondsworth: Penguin, 1982, p. 115.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">50. Bruce Elleman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wilson and China: A Revised History of the Shandong Question</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Armonk, NY: M.E. Sharpe, 2002, pp. 24-9 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">51. Erez Manela, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Wilsonian Moment: Self-Determination and the International Origins of Anticolonial Nationalism,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Oxford: Oxford University Press, 2007, pp. 114-17.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_________________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản song ngữ <a href="https://docs.google.com/document/d/1b4Re_PVcdK73IMyd9m-iHprhBIlf3GTdqW_oJZacbYk/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây</a>:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a><span> <span> </span><span> </span><span> </span><span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank"> </a></span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank">Chương 5 </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"><span>Chương 2 </span></a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> </span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-6.html" target="_blank">Chương 6</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank">Chương 4</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a></p><div><br /></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-55091198342336362992021-02-07T06:20:00.019-08:002022-02-05T04:29:55.518-08:00Sáng chế ra Trung Quốc (Ch. 5: dân tộc Trung Hoa)<p><b><span style="font-size: medium;"> Chuong 5</span></b></p><p><span style="font-family: Arial; font-size: 18pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">SÁNG CHẾ DÂN TỘC TRUNG HOA</span></p><span id="docs-internal-guid-8fc7b8b7-7fff-8c49-aace-359462522088"><p dir="ltr" style="line-height: 1.8; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- dân tộc Trung Hoa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối tháng 8 năm 2018, một vị khách đặc biệt đã được hướng dẫn tham quan một kì quan kĩ thuật của Trung Quốc trên dãy Himalaya Tây Tạng. Đập Zangmu (藏木: Tạng Mộc) nằm trên sông Yarlung Tsangpo (雅鲁藏布: Nhã Lỗ Tạng Bố) cao hơn 3000 mét so với mực nước biển. Khi mở ra vào năm 2015, đây là nhà máy thủy điện có độ cao cao nhất trên thế giới, tạo ra 500 megawatt mỗi giờ, tăng gấp đôi sản lượng điện của Tây Tạng. Nguồn điện đảm bảo đã thu hút những khách hàng mới của khu vực: các công ti khai thác mỏ, một tuyến tàu cao tốc chạy sát biên giới với Ấn Độ và các phát triển du lịch hạng sang. Và tiếp theo sau họ là những người di cư từ các vùng đất thấp đến.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vị khách đến thăm con đập ngày hôm đó là bậc thánh thứ hai trong Phật giáo Tây Tạng, Panchen Lama (Ban Thiền Lạt Ma). Hoặc có <span id="docs-internal-guid-04e4b64f-7fff-c8bd-7db2-7f4cc81b127a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thể không phải vậy</span></span>, vì Gyaltsen Norbu là Ban Thiền Lạt Ma do chính phủ Trung Quốc lựa chọn. Năm 1995, Đức Đạt Lai Lạt Ma <span id="docs-internal-guid-42e8bc53-7fff-0268-4d39-3b095cfa5719"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lưu vong</span></span> đã chọn một cậu bé khác, Gedhun Choekyi, làm Ban Thiền Lạt Ma nhưng cậu ta ngay lập tức bị các quan chức Trung Quốc bắt đi. Bây giờ cả hai Ban Thiền Lạt Ma này đều đang bị Trung Quốc giam giữ. Sự khác biệt giữa họ là Gyaltsen Norbu thường xuyên được phô ra trước các phương tiện truyền thông quốc gia đi viêng các dự án xây dựng và tương tự, trong khi Gedhun Choekyi không hề xuất hiện 25 năm nay. Hai người đàn ông này là những con tốt trong cuộc chiến giành trái tim và khối óc của người dân Tây Tạng của nhà nước Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo các phương tiện truyền thông chính thức, thông điệp mà Ban Thiền Lạt Ma Trung Quốc gửi đến người dân trong chuyến thăm của mình là ‘Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, với đồng chí Tập Cận Bình (TCB) làm cốt lõi, rất coi trọng công tác tôn giáo và dành tình yêu thương cho những người có đạo.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">1</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông nói với một <span id="docs-internal-guid-08278c48-7fff-e4dd-57cb-d4adfbde5bd5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cuộc tụ tập của Hội</span></span> Phật giáo chính thức rằng họ phải 'đề cao sự lãnh đạo của đảng, kiên quyết phản đối chủ nghĩa chia rẽ, chú ý kết hợp Phật giáo với tri thức hiện đại và học tập chính sách, và là cầu nối giữa đảng và chính phủ để đoàn kết và kết nối với tín đồ'. Sau đó, ông được chụp hình trước đập Tạng Mộc, xác nhận thành quả của 'sự phát triển xã hội’.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây chính xác là vai trò mà Đảng Cộng sản mong đợi Ban Thiền Lạt Ma thực hiện. Đó là cách mà vị Ban Thiền Lạt Ma trước đã đóng vai, ít nhất là trong một thời gian. Năm 1949, trong khi Tây Tạng vẫn còn độc lập, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 được một quan chức đảng tên là Tập Trọng Huân liên lạc và sau đó giúp lập kế hoạch </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cho cái</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mà chính phủ Trung Quốc vẫn gọi là giải phóng Tây Tạng bằng Quân đội Giải phóng Nhân dân vào năm 1950. Tuy nhiên, vào năm 1962, sau khi chỉ trích tác động của các chính sách cộng sản đối với người Tây Tạng, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 đã bị tước danh hiệu, bị tố cáo và bị cầm tù cho đến năm 1982. Tuy nhiên, trong những năm cuối đời, ông đã được phục chức và nối lại quan hệ với Tập Trọng Huân. Lúc đó ông Huân đã trở thành phó thủ tướng của đất nước phụ trách công tác dân tộc, tôn giáo và 'Mặt trận thống nhất’. Hai người đã hợp tác để đảo ngược nhiều chính sách từng gây ra rất nhiều đau khổ. Họ cũng tạo ra một bộ máy hành chính dân tộc-Tây Tạng địa phương để </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">thay mặt cho Bắc Kinh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quản lí trung thành khu tự trị. Khi Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 đột ngột qua đời vào năm 1989, phó thủ tướng đã viết một bài điếu văn dài trên tờ báo chính thức của đảng, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân Nhật báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mô tả tình bạn 40 năm của họ và 'tình yêu của Ban Thiền Lạt Ma đối với Đảng Cộng sản'. Sau nhiều năm kinh nghiệm làm việc với các sắc dân thiểu số ở phía bắc và phía tây của đất nước, Tập Trọng Huân đã đi đến cái nhìn rằng tốt hơn là để cho các nhóm thiểu số tự quản lí công việc của họ, miễn là họ vẫn trung thành với đảng. Đó là một lập trường hoàn toàn khác so với lập trường mà con trai ông, nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc, <span id="docs-internal-guid-0bf9bcfd-7fff-1026-2fc4-376da27aa2cd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">TCB</span></span>, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đang </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">áp dụng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 196px; overflow: hidden; width: 290px;"><img height="350" src="https://lh4.googleusercontent.com/yNdkzO7g7hUB9o0Yg9TJSAL5KgH2IQYg33PZdOukD1ZQphxGtAqiEagekim533A0V6MkGv0EW0m_AX0YwV0dGMjN1r_rlbrDsmoJ2UvuKuh9DwsurNtNZL588-P4YQIwpn6nIztU" style="margin-left: 0px; margin-top: -79px;" width="621" /></span></span><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 194px; overflow: hidden; width: 292px;"><img height="350" src="https://lh3.googleusercontent.com/faBJmLuEh-p5IoUd0tLBQFanWIx4qeAFuNQ4N7ArVCXYrEIri1kyNz5EJYBWVKd4t04ezjpmxUvk7PzwRBcc1XHA86qeuya51ax8qbVCdFV3gXhdkhpgMzW2S6gUSq453GUKOp4W" style="margin-left: -329px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">12. Cha của Tập Cận Bình là Tập Trọng Huân cùng với Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 ở thành phố Tây An trong khi ông này đi công du Bắc Kinh, ngày 22 tháng 4 năm 1951. Tập Trọng Huân ủng hộ quyền tự chủ lớn hơn cho các dân tộc thiểu số, trái ngược hoàn toàn với các chính sách hiện tại của con trai ông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-aed715a7-7fff-f8bb-7116-8883bd7f5489"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">13. Tôn Dật Tiên (giữa) đứng bên vợ là Soong Ching-ling (Tống Khánh Linh) và Mikhail Borodin, cố vấn chính trị của Liên Xô (đeo kính) ở Quảng Châu, năm 1923. Tại đại hội vài tuần sau đó, Quốc dân đảng, dưới ảnh hưởng của Borodin, sửa đổi nguyên tắc chủ nghĩa dân tộc của nó trước sự phản đối của Tiên và nhà tlí luận <span id="docs-internal-guid-c3742ea7-7fff-3a0e-7156-e0633d1ce165"><span style="font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">của ông là </span></span> Uông Tinh Vệ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 22 tháng 3 năm 2018, <span id="docs-internal-guid-0bf9bcfd-7fff-1026-2fc4-376da27aa2cd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">TCB </span></span> đã có bài phát biểu bế mạc Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc với tựa đề được dịch sang tiếng Anh là ‘The Communist Party will always be the backbone of the Chinese people and the Chinese nation” (Đảng Cộng sản sẽ luôn là trụ cột của nhân dân Trung Quốc và dân tộc Trung Quốc). Ở hầu hết các nước, 'dân tộc' (nation) và 'nhân dân' (people) được coi là như nhau, nhưng việc <span id="docs-internal-guid-0bf9bcfd-7fff-1026-2fc4-376da27aa2cd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">TCB </span></span>liên tục sử dụng hai từ này đi đôi với nhau trong cụm từ '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo renmin yu zhonghua minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (Trung Quốc nhân dân dữ Trung Hoa dân tộc) cho chúng ta biết rằng có điều gì đó khác biệt về ý nghĩa của chúng trong tiếng Trung và sẽ biến đi khi chúng được dịch sang tiếng Anh. Những độc giả đã đọc được đến đây sẽ cảnh giác sự phân biệt giữa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Trung Quốc) và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Trung Hoa), mặc dù cả hai đều được dịch sang tiếng Anh là 'China’: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhong-guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là cách diễn tả <span id="docs-internal-guid-86026287-7fff-3d54-b72a-8edfbd3ee4dc"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cho ‘nước</span></span> trung tâm’, trong khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhong-hua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có hàm ý về dân tộc mạnh hơn nhiều. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Renmin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(nhân dân) thường được dịch là 'people' (người dân) nhưng các học giả đã tranh luận dài dòng về cách dịch </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc), chủ yếu là do nguồn gốc lẫn lộn của từ này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo renmin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(nhân dân TQ) có các liên kết rõ ràng với Đảng Cộng sản. Trong những năm đầu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), nó là một mảnh từ vựng tiêu chuẩn. 'Nhân dân TQ' là một thực thể chính trị, là thành viên của bốn giai tầng được ưa chuộng đứng về phía đảng: công nhân, nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản. Quốc kì thể hiện mỗi giai tầng bằng một ngôi sao nhỏ. 'Nhân dân', trong công thức này, loại trừ kẻ thù của đảng: địa chủ, tư sản và những người ủng hộ Quốc dân đảng (Guomindang hoặc Kuomintang / KMT).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trái lại, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa) liên quan nhiều hơn đến ngôn ngữ của kẻ thù. Nó làm nền tảng cho hệ tư tưởng của Quốc dân đảng và nổi bật trong các tác phẩm thời chiến của lãnh tụ Tưởng Giới Thạch (TGT). Trong cuốn sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vận mệnh của Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">năm 1943, TGT mô tả một dân tộc Trung Hoa - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(中華民族)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- được hợp thành từ nhiều 'nguồn’ khác nhau, nhưng đều tạo thành một chủng tộc duy nhất vì tất cả đều là con cháu của cùng một tổ tiên.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">3</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Họ có thể đã chia thành Hán, Mãn, Tạng, Mông và Hồi trong suốt 5000 năm trước, nhưng số phận không thể tránh khỏi của họ là tái hợp lại thành một dân tộc Trung Hoa duy nhất. TGT cũng khẳng định rằng các biên giới tự nhiên của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoàn toàn trùng khớp với các biên giới ở kích cỡ lớn nhất của Đại Thanh quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thời điểm đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lên án công thức này. Những ý tưởng tập thể của nó bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các chính sách của Liên Xô và quan điểm của Joseph Stalin. Năm 1931, đảng này thậm chí còn tuyên bố rằng các 'dân tộc' - và họ <span id="docs-internal-guid-36c03c32-7fff-be7d-1d5a-599143886e9e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nêu cụ thể</span></span> người Mông Cổ, người Hồi và người Tây Tạng, cùng những tộc người khác - có quyền li khai khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, vào thời điểm họ nắm quyền vào năm 1949, đảng này đã xét lại quan điểm của mình. Đến năm 1950, họ <span id="docs-internal-guid-356441e7-7fff-1631-1d8a-6744039ceaae"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kiên quyế</span></span>t trở thành một nước cộng hoà đa sắc tộc trong ranh giới hiện có của nó. Điều tốt nhất mà 'các nhóm thiểu số có óc ‘li khai’ có thể hi vọng là quyền tự chủ. Ngay khi nắm quyền, CHNDTH đã kêu gọi các nhà nhân chủng học phân loại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">theo mô hình của Liên Xô và vào năm 1954, các nhà nghiên cứu đã đưa ra con số hơi tùy tiện là 56, bao gồm Hán, Tạng, Uyghur </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(Duy Ngô Nhĩ)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Mông, Mãn và các nhóm thiểu số nhỏ hơn nhiều.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">4</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ đến giữa những năm 1980, ý tưởng về một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mới bắt đầu được các nhà lí thuyết cộng sản chấp nhận. Một nhà tiên phong đặc biệt là Fei Xiaotong (費孝通: Phí Hiếu Thông), một trong những nhà nhân chủng học đã tham gia vào dự án phân loại dân tộc ban đầu 30 năm trước đó. Ông nói về một 'cấu trúc nhất thể đa nguyên': mỗi nhóm có thể có những đặc điểm nhận dạng riêng nhưng đặc điểm chính của nhóm đó phải là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này được hình thành dựa trên một quan điểm của quá khứ rất giống với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">quan điểm của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Tưởng Giới Thạch - rằng tiến trình lịch sử Trung Quốc là câu chuyện của các nhóm dân tộc riêng biệt hợp nhất thành một.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong suốt những năm 1990, khi hệ tư tưởng cộng sản chính thống thoái trào, các tuyên bố của Đảng Cộng sản ngày càng tô vẽ từ 'dân tộc' bên cạnh từ ‘nhân dân'. Ví dụ, tháng 10 năm 2000, trong một bài phát biểu kỉ niệm 50 năm Chiến tranh Triều Tiên, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã nói về những người lính bảo vệ 'phẩm giá dân tộc'. Năm sau, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã xuất hiện vài lần trong một bài phát biểu của Giang Trạch Dân chính thức chào mừng các nhà tư bản gia nhập đảng. Họ từng không là một phần trong 'nhân dân' của Mao Trạch Đông nhưng giờ đây họ đã được bao gồm trong 'dân tộc' của Giang Trạch Dân.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">5</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tư duy mới này càng được gán thêm tính cấp bách bởi các vụ bạo lực và biểu tình sắc tộc ở Tây Tạng và Tân Cương trong những năm 2000. Một số ít nhân vật rất có ảnh hưởng ở CHND Trung Hoa đã xem ý niệm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tách biệt là mối đe dọa đối với tương lai của đất nước. Một số người, chẳng hạn như giáo sư Ma Rong (马戎: Mã Nhung) ở Đại học Bắc Kinh và Giáo sư Hu Angang (胡鞍鋼: Hồ An Cương) của Đại học Thanh Hoa, cảnh báo rằng việc khuyến khích sự khác biệt sắc tộc có thể dẫn đến việc đất nước tan rã giống như cách mà Liên Xô và Nam Tư bị chia cắt vào những năm 1990. Kết quả là họ đi đến ủng hộ một giải pháp thay thế triệt để - một cách tiếp cận 'nồi súp tan chảy’ (melting pot) trong đó sự khác biệt về sắc tộc sẽ bị xóa bỏ vì lợi ích của sự thống nhất của một 'dân tộc Trung Hoa’ duy nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu được làm theo, đây sẽ là sự phủ nhận trực tiếp các chính sách do Tập Trong Huân thực hiện và được CHNDTH theo đuổi trong nhiều thập kỉ. Đáng chú ý, một trong những người ủng hộ chính của cách tiếp cận này dường như lại là con trai của ông Huân, TCB. TCB đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của cái mà ông gọi là 'năm đồng nhất' bắt buộc đối với tất cả công dân Trung Quốc. Họ phải đồng nhất với tổ quốc, với dân tộc Trung Hoa (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), với văn hóa Trung Quốc, con đường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc và với chính Đảng Cộng sản. Điều này chỉ có thể có ý nghĩa nếu TCB tin rằng có một dân tộc duy nhất với một nền văn hóa duy nhất. Nhưng người Hán và người Tạng, cùng với người Duy Ngô Nhĩ và nhiều nhóm khác, nói các ngôn ngữ khác nhau, viết bằng các chữ viết khác nhau và sống theo những cách sống khác nhau. Vậy, có một dân tộc Trung Quốc duy nhất hay có một số dân tộc khác nhau tập hợp lại dưới một dân tộc duy nhất? Tìm câu trả lời cho câu hỏi này đã là một vấn đề nan giải đối với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc ngay từ lúc bắt đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13 tháng 1 năm 1897, Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn hay Tôn Văn), sau này là tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, đã đến </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nhà bảo tàng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Madame Tussauds ở London để xem hoạt cảnh mới mở: tác phẩm sáp Vua John đang kí Đại HIến chương (Magna Carta).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">6</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thật ra, ông tới đó để </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nói lời </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cảm ơn. Ba tháng trước đó, ông đã bị bắt cóc và giam giữ trong tòa nhà của phái bộ ngoại giao Trung Quốc ở West End của thành phố. Trong 12 ngày, các quan chức cố gắng gây áp lực buộc Tôn Văn phải thú nhận tội phản bội. Họ đe dọa sẽ đưa ông ra khỏi nước này và hành quyết ông, nhưng không nhất thiết phải theo trình tự đó. Tuy nhiên, Tôn Văn đã cố gắng mua chuộc lính gác người Anh trong phái bộ ngoại giao gửi <span id="docs-internal-guid-8ef02f3d-7fff-7489-b6e2-4863bdcc69c4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dùm thư tới</span></span> người bạn và thầy giáo y khoa cũ, tiến sĩ James Cantlie. Cantlie sau đó nhận được một án lệnh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">habeas corpus </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(buộc đi hầu toà) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Tòa án Tối cao, yêu cầu phái bộ ngoại giao thả Tôn Văn. Magna Carta, trên thực tế, đã cứu sống Tôn Văn.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">7</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các báo Anh đăng tải câu chuyện. Tôn Văn đã trở thành người nổi tiếng, thậm chí còn hơn thế nữa khi cuốn sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kidnapped in London </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(Bị bắt cóc ở London) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ông được xuất bản cùng thời điểm với chuyến đi đến Madame Tussauds. <span id="docs-internal-guid-01924669-7fff-738f-27db-8a1767b03b8a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Với </span></span>một đòn quyết định, chính quyền nhà Thanh đã biến một nhà bất đồng chính kiến thành một ngôi sao toàn cầu. Cho đến lúc đó, Tôn Văn vẫn chậm chạp trong việc xây dựng phong trào đối lập. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xing Zhong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hui </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- ‘Hưng Trung Hội' - ông đã lập ở Hawaii hai năm trước (xem Chương 1) có một ít người ủng hộ; cuộc nổi dậy do ông cùng tổ chức ở Quảng Châu năm 1895 đã thất bại, với hầu hết những người mưu đồ đều bị bắt; và các thư lại có tư tưởng cải cách không muốn <span id="docs-internal-guid-f95e558d-7fff-a8d3-dc64-9185f124ac15"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dây dưa </span></span>gì với một kẻ kích động mới nổi, được học với các nhà truyền giáo như ông. Trong một cuộc phỏng vấn với một nhà báo Anh ngay sau khi được trả tự do, Tôn Văn đã nói rõ rằng mục tiêu của ông là hoàn toàn khác với mục tiêu của những người cải cách: 'Chúng tôi đã thay đổi ý tưởng của mình để tạo ra một cuộc cách mạng và làm triều đại hiện tại biến đi', ông giải thích.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">8</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tôn Văn nói thêm rằng ông thấy việc tầng lớp quan lại tham nhũng cũng là một phần lớn của vấn đề như những người cai trị nhà Thanh. Ông cực đoan đến mức Timothy Richard, khi đó đến London, chẳng <span id="docs-internal-guid-f95e558d-7fff-a8d3-dc64-9185f124ac15"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dây dưa </span></span>gì với ông.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">9</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng tôi biết rất chi tiết những gì Tôn Văn đã làm trong suốt 8 tháng ông ở lại London vì chính phủ Trung Quốc đã thuê một công ti thám tử để theo dõi ông khắp chốn. Ngày 5 tháng 12 năm 1896, ông được cấp một thẻ vào phòng đọc tại Bảo tàng Anh theo sự giới thiệu của Bá tước Robert Kennaway Douglas, một nhà ngoại giao người Anh đã nghỉ hưu, người đứng đầu bộ phận phương Đông của thư viện. Tôn Văn dành hầu hết thời gian trong thư viện, đọc nhiều sách về chính trị và thời sự.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">10</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông nắm bắt được những ý tưởng thời thượng của <span id="docs-internal-guid-273a9a2c-7fff-d7ec-6d6f-ca95c7ac8494"><span style="font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thuyết </span></span>Darwin Xã hội do Herbert Spencer và Thomas Huxley quảng bá. Đây là những ý tưởng mà Yan Fu (嚴復: Nghiêm Phục) đã dịch một phần sang tiếng Trung hai năm trước đó, từng đã khơi dậy suy nghĩ của một thế hệ những người cấp tiến (xem Chương 3).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">11</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chúng cũng sẽ được cho thấy là nền tảng cho những ý tưởng tiếp theo của Tôn Văn về tính dân tộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, khi mùa xuân ở Anh chuyển sang mùa hè, Tôn Văn nói lời tạm biệt với người dẫn chương trình James Cantlie và đến Canada và sau đó đến châu Á. Các thám tử do phái bộ ngoại giao thuê vẫn bám sát ông trong suốt cuộc hành trình, báo cho Bắc Kinh về những nỗ lực của Tôn Văn trong việc quyên tiền và sự ủng hộ từ cộng đồng người Hoa ở Bắc Mĩ, đặc biệt là hai thành phố Vancouver và Victoria. Một kết quả thành công trong việc gây quỹ là ông đã có thể nâng cấp khoang hành khách của mình từ hạng trung thành 'phòng quốc gia' cho chặng cuối cùng của cuộc hành trình.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">12</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bị cấm rời Hong Kong sau vai trò trong Cuộc nổi dậy ở Quảng Châu, Tôn Văn đã chọn sống lưu vong ở Nhật Bản. Ông đến Yokohama vào ngày 10 tháng 8 năm 1897, ở đó ông được giới thiệu và nhanh chóng hoà nhập với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">những người <span id="docs-internal-guid-b3d03243-7fff-5d39-b034-b1eb23f45a46"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> Nhật đồng cảm</span></span> thuộc nhiều thành phần - từ những người ủng hộ chủ nghĩa liên Á 'chủng tộc da vàng' đến những người siêu cực đoan, bao gồm một số bộ trưởng chính phủ. Điều này cho phép ông tiếp cận với nhiều nguồn tài trợ từ những người, mà sau Chiến tranh Trung-Nhật và vì nhiều lí do khác nhau, muốn nhìn thấy nhà Thanh kết thúc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">13</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguồn tài trợ thêm đến từ cộng đồng người Hoa ở Yokohama, đặc biệt khi những người ủng hộ Tôn Văn thành lập một trường học mới. Họ coi dự án như một cơ hội để thu hẹp khoảng cách về tư tưởng và văn hóa giữa những người cải cách và những người cách mạng. Họ đã tìm cách liên hệ với Lương Khải Siêu và mời ông làm hiệu trưởng đầu tiên. Tuy nhiên, Siêu quá bận rộn với việc biên tập tờ báo cải cách của mình ở Thượng Hải. Thay vào đó, thầy và là đồng minh của Siêu là Khang Hữu Vi, một học giả có những diễn giải lại Nho giáo cấp tiến đã gây xôn xao dư luận, đã đề xuất một số ứng viên khác. Vi cũng gợi ý cho ngôi trường một cái tên bắt nguồn từ những bài đọc không tưởng của ông trong các kinh sách xưa: đó là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Datong Xuexiao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(大同學校: Đại Đồng học hiệu), ‘Trường Đại Đồng’. Tuy nhiên, mối quan hệ thân thiện giữa nhà cải cách Siêu, và nhà cách mạng Văn chỉ kéo dài vài tháng. Khi chủ trương của Siêu trở nên có ảnh hưởng lớn, ông trở nên thân thiết hơn với hoàng đế ở Bắc Kinh. Mối liên hệ của ông với những nhà cách mạng lưu vong đã trở thành một điều xấu hổ, đặc biệt là trong thời kì Cải cách Trăm ngày vào mùa hè năm 1898. Các đồng minh của Siêu ở Yokohama đã cấm Văn đến trường mà chính ông đã góp tay thành lập và những người ủng hộ ông tài trợ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự chia rẽ tiếp tục trầm trọng hơn cho đến khi thái hậu Từ Hi đảo chính hoàng đế và chống lại những cải cách của ông vào ngày 22 tháng 9 năm 1898. Cả Vi và Siêu đều phải trốn khỏi đất nước. Đặc vụ Nhật Bản đã giải cứu Siêu từ Thiên Tân và sau đó đón Vi ở Hong Kong. Họ đưa hai ông đến Yokohama, mà trong vài tháng sau tháng 11 năm 1898, họ cố gắng lập ra một liên minh chính trị giữa những người cải cách và cách mạng ở đó.Tuy nhiên, Vi vẫn chưa chuẩn bị để làm việc với 'tên cướp vô học' say mê chủ nghĩa duy vật phương Tây. Văn cũng không kém phần thù địch với tên Nho giáo thối tha bị ám ảnh bởi những lí thuyết vô nghĩa.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">14</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Trong vòng vài tháng, người Nhật đã mất kiên nhẫn với Vi và vào tháng 3 năm 1899, ông rời Nhật đi Canada để tìm kiếm bè bạn đồng cảm hơn trong cộng đồng người Hoa ở đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự ra đi của Vi khiến cho một tình bạn khó có thể xảy ra phát triển giữa nhà cải cách thầy tu Lương Khải Siêu, người ủng hộ sự đoàn kết của 'chủng tộc da vàng’ chống lại người da trắng, và Tôn Văn nhà cách mạng mà tổ chức </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hưng Trung Hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ông đã <span id="docs-internal-guid-9713130e-7fff-178a-bdae-51fccf5025b1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quyết tâm</span></span> ‘đánh đuổi người Mãn'. Những thiện cảm của Siêu bắt đầu hướng tới cách mạng, trong khi Văn tiếp thu nhiều ý tưởng của Siêu về dân tộc. Hai người thậm chí còn là tác giả của một số bài báo chung trên tờ báo mà Siêu hiện đang biên tập từ Yokohama, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qingyibao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">('Thanh Nghị báo’).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">15</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nỗi ám ảnh chung của họ là nỗi sợ hãi của người theo chủ nghĩa Darwin xã hội về sự t<span id="docs-internal-guid-929f8089-7fff-3d99-bb05-7091fb400693"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tận diệt</span></span> của chủng tộc da vàng dưới bàn tay của người da trắng. <span id="docs-internal-guid-dca4c52a-7fff-a0a4-7bee-d086c9dc02df"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Cũng cùng tầm quan trọng</span></span> là cả hai đều không có thời gian cho sự phân biệt chủng tộc của người Hán của những người như Chương Bỉnh Lân. Siêu coi người Mãn là một phần của chủng tộc da vàng giống như người Hán, còn Văn phản kháng người Mãn trong tư cách là một tầng lớp ưu tú thối nát chứ không như là một nhóm chủng tộc. Đầu năm 1902, Văn từ chối cùng Lân triệu tập một cuộc họp để kỉ niệm ‘sự sụp đổ của TQ’ Mãn Thanh. Trong một bài phát biểu sau đó, Lân phàn nàn rằng Văn 'hoàn toàn thiếu sự hết lòng với ý tưởng cứu tộc Hán'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">16</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cùng có kẻ thù chung và cùng sống ở Yokohama, ý tưởng của Siêu và Văn đã phát triển cộng sinh. Trong khi Siêu, học giả ‘bên trong' nghĩ về dân tộc Trung Hoa mà ông muốn tạo ra, thì Văn, nhà hoạt động 'bên ngoài' lại nghĩ về quốc gia tương lai mà ông muốn lãnh đạo. Tuy nhiên, cả hai giấc mơ đều xoay quanh ý tưởng của Siêu về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lương Khải Siêu đã đặt ra thuật ngữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc), trong một bài luận thuyết năm 1903, với nghĩa đen là 'dòng giống con người'. Siêu đã chọn nó như một từ tương đương cho khái niệm 'Nation' trong tiếng Đức của Johann Bluntschli <span id="docs-internal-guid-66fb8203-7fff-4128-6764-59a5ffbb0d05"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mà qua</span></span> Bluntschli muốn nói (một cách khó hiểu) tới từ tiếng Anh 'people’. People/</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nation </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bluntschli trở thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc) của Siêu. Cũng khó hiểu không kém, Bluntschli đã sử dụng từ tiếng Đức '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Volk</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' theo nghĩa của từ tiếng Anh 'nation'. Siêu dịch nation/</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Volk </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guomin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc dân). Đối với Siêu, có thể có nhiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong một quốc gia và một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thậm chí có thể tồn tại xuyên biên giới. Mặt khác, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guomin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quốc dân) mô tả các công dân của một quốc gia.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">17</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nguồn gốc lẫn lộn này vẫn còn đánh dấu tư tưởng và chính sách của CHNDTH đối với người thiểu số ở Tây Tạng, Tân Cương và những nơi khác khi các nhà lãnh đạo hiện đại của nó cố gắng vật lộn với cùng những vấn đề mà những người theo chủ nghĩa cải cách và cách mạng vào những năm 1900 phải đối mặt - làm thế nào để dung hoà giấc mơ của họ về một dân tộc thuần nhất với thực tế của một đế chế đa dạng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phà từ thành phố Vancouver của Canada đến phần phía nam của đảo Vancouver đi theo một tuyến thẳng nhưng đầy nguy hiểm qua các đảo có nhiều rừng của biển Salish. Nó chạy ngoằn ngoèo qua các eo biển và lách tránh những con tàu đang hoạt động và các du thuyền thưởng ngoạn, cho đến khi vào bến tại Vịnh Swartz. Ngay trước khi nó đến bến, hành khách ngồi phía cảng đã được chiêm ngưỡng một khung cảnh bề ngoài của một thái ấp tư nhân: đảo Than, hiện là tài sản của gia đình Shields, nhà công nghiệp Canada. Tuy nhiên, chỉ hơn một thế kỉ trước, hòn đảo hẻo lánh này là chỗ ẩn náu mà Khang Hữu Vi trốn lánh để thoát những kẻ ám sát được cả nhà Thanh lẫn chính phủ Nhật Bản thuê mướn. Thái hậu Từ Hi muốn ông chết vì có thiện cảm với vị hoàng đế đang bị giam cầm, trong khi người Nhật muốn loại ông ra khỏi đường đi để nhà cách mạng do họ lựa chọn, Tôn Dật Tiên, có thể khống chế phong trào chính trị lưu vong. Tuy nhiên, chính phủ Anh muốn giữ ông ta sống với hi vọng rằng nỗ lực cải cách của ông có thể thành công. Họ cung cấp bảo vệ ở Hong Kong, ngăn chặn âm mưu ám sát của các đặc vụ Nhật Bản ở Singapore và cho ông một cảnh sát bảo vệ ở Canada.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiếng tăm của Vi đã đến cảng Victoria trước ông. Khi con tàu chở ông từ Nhật Bản cập cảng vào ngày 7 tháng 4 năm 1899, ông đã lập tức trả lời phỏng vấn cho hai tờ báo địa phương, kêu gọi cải cách chính trị ở Trung Quốc và yêu cầu chính phủ Anh can thiệp ủng hộ cải cách. (Tuy nhiên, khi những lời nhận xét này được in lại trên báo của Lương Khải Siêu, phần nói về việc yêu cầu sự giúp đỡ của Anh đã bị cắt bỏ.) Ông đã được phó thống đốc bang British Columbia và nhiều chức sắc khác tiếp đón và có bài phát biểu trước đông đảo khán giả ở các khu phố Tàu của Victoria và Vancouver. Lần đầu tiên ông nói về sự cần thiết của lòng yêu nước để gắn kết Hoa kiều với quê hương của họ bên kia bờ đại dương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng dù chính phủ Anh sẵn sàng bảo vệ Vi, họ vẫn không muốn thúc ép cải cách chính trị lên Đại Thanh quốc. Vi đến London vào tháng 5 và tháng 6 năm 1899 để vận động can thiệp quân sự nhưng thất vọng trở về Canada. Thay vào đó, ông và các doanh nhân Trung Quốc tại bang Victoria thành lập </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Baohuanghui </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dịch nghĩa 'Hội Bảo Hoàng' nhưng được biết đến trong tiếng Anh như là Chinese Empire Reform Association (Hội Cải cách đế quốc Trung Hoa) nhằm tổ chức cộng đồng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">huaqiao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(hoa kiều) ủng hộ cải cách. Họ đã chọn làm phương châm, ' </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bao zhong, bao guo, bao jiao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (‘bảo chủng, bảo quốc, bảo giáo’, với từ ‘giáo’ Vi muốn nói là Nho giáo). Vi được tôn làm chủ tịch của Hội, với Lương Khải Siêu là phó chủ tịch. Sau đó Vi lui về đảo Than để suy ngẫm và viết lách.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">18</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ngày 19 tháng 9 năm 1899, ông sáng tác một bài thơ về nơi trốn lánh của mình:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một khách lạ trôi dạt từ nơi cách xa hai mươi ngàn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">li</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tóc mai dài bạc ở tuổi bốn mươi,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quay đầu nhìn Dải Ngân hà và ngắm ánh trăng sáng;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiếm nhất trên đảo Than là trò chuyện với người cùng thôn;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xấu hổ khi làm cho hàng xóm bàng hoàng trước những rắc rối và thảm họa của đảng ta;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 0pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xấu hổ vì đã không làm được gì cho đồng hương;</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sợ rằng đây có thể là cuộc li lương mãi mãi... </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">19</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biết mình không được hoan nghênh ở Nhật Bản nên phần lớn thời gian vài năm sau đó Vi sống ở các vùng khác nhau của Đế quốc Anh. Năm 1900, ông ở Singapore, năm 1901 ở Penang và Malaya, và năm 1902, ông viết tác phẩm lớn nhất của mình, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Datongshu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(‘大同書: Đại đồng thư, cùng tên với trường học ở Yokohama) khi sống ở ga đồi <span id="docs-internal-guid-9a399e60-7fff-9d08-33bc-fdfdebe6f566"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Indian </span></span>vùng Darjeeling. Cuốn sách đã đưa ra một cách nhìn không tưởng về một xã hội tương lai, trong đó các ranh giới xã hội xung quanh gia đình, giới tính, giai cấp, dân tộc và nghề nghiệp sẽ nhạt nhoà đi và thế giới có thể sống hoà làm một. Vi không thấy chủ nghĩa dân tộc có giá trị gì, thay vào đó ông muốn thấy các quốc gia hợp nhất để tạo thành các liên bang khu vực và sau đó thành một quốc gia toàn cầu với quốc hội và quân đội riêng của mình.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">20</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, đó là một cách nhìn phân biệt chủng tộc về tương lai. Vi đã dự kiến những chủng tộc da sậm sẽ được biến đổi thông qua kết hôn, di cư và triệt sản. Người da trắng và da vàng kết hôn với người châu Phi sẽ được trao huy chương vì sự phục vụ của họ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">21</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cuối cùng thì chủng tộc toàn cầu mới sẽ có sức mạnh thể chất của người da trắng và các kĩ năng tinh thần của người da vàng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vi chỉ cho xuất bản hai chương đầu của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đaị đồng thư </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lúc ông còn sống,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">22</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và trước công chúng, ông tiếp tục ủng hộ giải pháp của Nho giáo cho các vấn đề của Đại Thanh quốc: mọi nỗ lực phải được thực hiện để cứu hoàng đế và thiết lập chế độ quân chủ lập hiến theo đường hướng của Anh. Tuy nhiên, dù mong muốn rõ ràng về sự bình đẳng toàn cầu, ông không muốn đối phó với quần chúng. Thay vào đó, ông đã <span id="docs-internal-guid-ff37934b-7fff-d7dd-289c-eaba4247b873"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tranh thủ</span></span> sự ủng hộ của các doanh nhân Hoa Kiều ở nước ngoài và giới thượng lưu khoa cử ở quê nhà. Nhóm đầu được khuyến khích thành lập các công ti mới thông qua việc liên kết </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa kiều</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trên khắp Bắc Mĩ để cung cấp quỹ cho hội, nhóm sau được cổ vũ <span id="docs-internal-guid-39af1bc0-7fff-e0e6-7b6e-b503348e1695"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">giữ vững lập trường vì</span></span> hoàng đế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy vậy, dù là một học giả lỗi lạc, Vi vẫn bị cấm đến Hoa Kì bởi Đạo luật Loại trừ Trung Quốc do Tổng thống Arrthur đưa ra vào năm 1882. Không thể tự mình vận động hoa kiều ở Mĩ cho ‘Hội Bảo Hoàng’, năm 1903 Vi đã cử hai người ủng hộ thân cận nhất thay ông thực hiện công việc. Lương Khải Siêu dường như không gặp khó khăn gì khi nhập cảnh vào đất nước này và trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 đã được các cộng đồng người Hoa trên khắp Hoa Kì và Canada đón nhận.Vi cũng phái con gái của mình, Kang Tongbi (康同璧: Khang Đồng Bích), từng thành lập các chi nhánh phụ nữ của hội ở British Columbia, bang Washington, San Francisco, Chicago và, vào ngày 20 tháng 10, tại thành phố New York.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">23</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu đã đi vòng quanh nước Mĩ trong nhiều tháng. Tuy nhiên, trải nghiệm này dường như đã khiến ông hết ảo tưởng về những giá trị của hệ thống chính trị của Mĩ. Trong khi thưởng ngoạn những bông hoa mùa xuân ở Washington DC và ấn tượng trước những tòa nhà cao tầng của New York, ông cũng nhìn thấy những khu phố Tàu quá đông đúc và mất vệ sinh. So sánh các thành phố của Mĩ với những thành phố đã biết ở quê nhà, ông rút ra kết luận rằng cái lỗi nằm ở người Trung Quốc vốn chưa sẵn sàng cho nền dân chủ cộng hoà. ‘Bây giờ nếu chúng ta áp dụng quy tắc đa số thì sẽ giống như tự sát cả nước. Tự do, chủ nghĩa hợp hiến, chủ nghĩa cộng hoà, tất cả những thứ này sẽ giống như mặc bộ quần áo mùa hè sang trọng vào mùa đông: chắc chắn là đẹp nhưng lạc lõng.... Nói ngắn gọn, hiện giờ người dân Trung Quốc phải chấp nhận sự cai trị độc đoán và không xứng đáng với tự do.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">24</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông vẫn tin rằng chủ nghĩa cộng hoà là hình thức chính quyền cao nhất nhưng cho đến khi người Trung Quốc sẵn sàng cho nó, chế độ quân chủ lập hiến sẽ phải là con đường phía trước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Siêu quay lại Nhật Bản quyết tâm trở lại cho một quá trình chuyển đổi từ từ sang nền dân chủ và điều này đã gây nên một cuộc chia tay cay đắng với Tôn Dật Tiên. Sẽ không còn các bài viết chung nữa. Cuộc chiến ý thức hệ giữa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hội Bảo hoàng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quân chủ của Vi và những kẻ mưu đồ cách mạng của Tôn Văn ngày càng trở nên tồi tệ và trở thành cuộc chiến toàn cầu vì lòng trung thành của cộng đồng người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa kiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Bắc Mĩ, Đông Nam Á, Úc và nơi khác. Ban đầu, lợi thế nằm ở Vi. Ông có tầm vóc uyên bác và thông điệp của ông về Nho giáo, lòng trung thành với nhà Thanh và sự thay đổi dần dần đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các cộng đồng Hoa kiều giàu có nhất. Tôn Văn thiếu tất cả những lợi thế này nên ông buộc phải điều chỉnh thông điệp chính trị của mình để thu hút thêm nhiều người theo đuổi phong trào cách mạng: ông đã thêm vào một khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc cực đoan hơn nhiều. Trong suốt năm 1904, nhóm của ông đã phân phát hàng ngàn bản cuốn sách bài Mãn dữ dội của Trâu Dong, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân Cách mạng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(xem Chương 3). Trong đó, Dong kêu gọi người Hán 'tiêu diệt hơn 5 triệu người thuộc tộc Mãn có sừng và có lông, tẩy rửa 260 năm đau đớn khắc nghiệt và khó nguôi ngoai, để đất đai của tiểu lục địa Trung Quốc trở nên trong sạch.' </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">25</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cho đến thời điểm này, Tôn Văn vẫn cảnh giác với chủ nghĩa dân tộc của tộc Hán. Ông dường như chỉ dùng nó như một chiến thuật để thu hút người ủng hộ tránh xa chủ nghĩa dân tộc dòng giống da vàng của Vi và Siêu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các cuộc tranh cãi giữa những người cải cách và cách mạng, những người ủng hộ chủng tộc da vàng và những người ủng hộ chủng tộc Hán, đã thống trị cộng đồng lưu vong ở Nhật Bản và các cộng đồng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa kiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rộng lớn hơn ở Đông Nam Á và Bắc Mĩ trong thập kỉ tiếp theo. Trong khi Siêu viết và suy nghĩ, Văn mưu tính và hành động. Với hi vọng mang lại một cuộc cách mạng, ông đã thực hiện đủ mọi thỏa thuận với các hội kín, các lãnh chúa trong nước và các thế lực nước ngoài. Vào cuối tháng 8 năm 1905 Văn đã tạo ra một bước đột phá. Ông, Chương Bỉnh Lân và các nhà cách mạng đối thủ khác đã cố gắng gạt bỏ những khác biệt của họ và thành lập </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo Tongmenghui </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- (Trung quốc Đồng Minh hội). Vào ngày 12 tháng 10 năm 1905 Văn đã phác thảo những ý tưởng của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong ấn bản đầu tiên của tờ báo của mình, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minbao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Dân báo). Đó là: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzuzhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- chủ nghĩa dân tộc (nghĩa đen, ‘thuyết về dân tộc'); </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minquanzhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- chủ nghĩa dân quyền (nghĩa đen, ' thuyết về quyền của nhân dân'); và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minshengzhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- chủ nghĩa dân sinh (nghĩa đen, ‘thuyết về dân sinh’). Ba 'chủ nghĩa' này cuối cùng được gọi là 'nguyên tắc Tam Dân'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù bây giờ <span id="docs-internal-guid-0f83acf7-7fff-8b61-61dc-3ba9cf9a8916"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">3 chủ nghĩa này</span></span> đã cố kết trong các phe chính trị khác nhau, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ nghĩa dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">rõ ràng mang dấu ấn suy nghĩ của Siêu. Trong bài luận năm 1903 của mình, Siêu đã chọn từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (dân tộc) tương đương với 'people’ and ‘</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guomin</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (quốc dân) cho 'nation'. Đối với Siêu, một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có thể bao gồm một số </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và, vì tương lai của chủng tộc da vàng phụ thuộc vào sự thống nhất của tất cả các nhóm trong Đại Thanh quốc, ông đã biện giải cho một 'chủ nghĩa dân tộc lớn', một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">da-minzuzhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(chủ nghĩa đại dân tộc) để mang <span id="docs-internal-guid-8debefba-7fff-bcec-dbee-9a8cf8f7339b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kết hợp các nhóm này </span></span>lại với nhau. Văn, một người thực hành hơn là một nhà tư tưởng, đã vay mượn từ Siêu nhưng điều chỉnh các từ ngữ của ông ta để thuận tiện cho chính trị. Đối với ông, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cuối cùng sẽ có nghĩa là 'dân tộc' (nation).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhà sử học James Leibold đã lập luận rằng từ nationalism (chủ nghĩa dân tộc) trong tiếng Anh không đủ để giải thích ý của Văn muốn nói.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">26</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Văn đang trong tình cảnh chênh vênh về chính trị. Trâu Dong khó có thể xem là nhà cách mạng duy nhất công khai ủng hộ việc diệt chủng người Mãn Châu. Một số người cũng kêu gọi từ bỏ các tỉnh Tây Tạng, Tân Cương, Mãn Châu và Mông Cổ cho người dân bản địa của họ để biến nước cộng hoà tương lai trở thành một khu vực thuần Hán. Tuy nhiên, Văn đã đồng ý với Siêu về sự cần thiết phải bảo tồn lãnh thổ của đại quốc. Ngay từ năm 1894, Văn đã viết thư cho quan nhà Thanh là Lí Hồng Chương (xem Chương 2) kêu gọi triều đình </span><span id="docs-internal-guid-0a32d82c-7fff-807b-2705-818f9fc43495"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘tranh đua với phương Tây bằng việc chiêu mộ người dân đến khai khẩn vùng đất hoang dọc biên giới rộng lớn của đại quốc'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">27</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Năm 1900, để thể hiện sự quyết tâm </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong việc duy trì lãnh thổ của đất nước tương lai (mà lúc đó ông gọi là Trung Quốc), Văn đã viết một danh sách dài tất cả những nơi nên được đưa vào biên giới của nó: mọi nơi dưới sự cai trị của nhà Thanh, từ tây Tây Tạng đến đông Mãn Châu. Ưu tiên của Văn là nước cộng hoà tương lai nên kế thừa và bảo tồn lãnh thổ của Đại Thanh quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bằng cách nào đó, Văn cần phải giữ được sự ủng hộ của Chương Bỉnh Lân, người cộng tác của mình trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và những người Hán phân biệt chủng tộc khác, đồng thời, duy trì giấc mơ của chính ông về một nhà nước tương lai bao gồm tất cả các khu vực có các <span id="docs-internal-guid-6a634278-7fff-923c-0c11-aafa0487ab34"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sắc dân không là người Hán sinh sống</span></span>. Đây là vấn đề tư tưởng lớn nhất mà các nhà cách mạng phải đối mặt và Văn đã giao nhiệm vụ tìm kiếm giải pháp cho một sinh viên mới đến tên là Wang Jingwei (汪精衞: Uông Tinh Vệ).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vệ là một học giả 19 tuổi và là một chuẩn quan chức của tỉnh Quảng Đông được chính quyền nhà Thanh cử đi học 'Tây học' tại Đại học Hosei ở Nhật Bản vào cuối năm 1904. Khi đến đó, Vệ trở nên quyết tâm trong việc lật đổ những người bảo trợ của mình. Anh gia nhập </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngay sau khi hội được thành lập và đóng góp đầu tiên của anh cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã được lan truyền qua các ấn bản đầu tiên và thứ hai. Đó là một bài báo dài gồm hai phần dành riêng cho việc giải quyết vấn đề của Tôn Văn. Trong đó, Vệ dùng <span id="docs-internal-guid-6dedc6c2-7fff-af8f-bc47-33f93879e232"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cách phân biệt ‘people’ (dân tộc) với 'nation' (quốc dân) của Vi</span></span> và hỏi liệu một ‘quốc dân’ có thể bao gồm nhiều hơn một 'dân tộc' hay không. Anh lập luận rằng người Mãn rõ ràng là một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khác, nhưng chẳng phải người Hán đã đồng hóa thành công những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khác trong quá khứ sao? Có phải là không hợp lí khi sự cai trị của người Mãn chấm dứt, thì họ cũng sẽ bị đồng hóa? Người Hán là 'tộc chủ' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhu-ren / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">主人: chủ nhân) mà tất cả các dân tộc khác của vương quốc Thanh sẽ hợp nhất để tạo thành dân tộc mới.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">28</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặt khác, do kết quả của những đi tới Bắc Mĩ, niềm tin chính trị vững chắc của Siêu là Đại Thanh quốc cần một chương trình cải cách từ từ chứ không phải cách mạng. Điều này buộc ông phải lập luận rằng sự phân chia giữa Hán và Mãn đã phá sản, loại bỏ nhu cầu thay đổi chính trị mang tính cách mạng. Ông cho rằng quá trình hoà nhập chủng tộc này sẽ tạo ra một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa) mới</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">để cứu chủng tộc và đất nước. Chuyến đi Hoa Kì dường như đã thuyết phục ông về tầm quan trọng của 'nồi súp tan chảy' về văn hóa và ông đã viết về sự cần thiết của các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khác nhau 'cùng tan chảy trong cùng một lò nung’.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">29</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> <span id="docs-internal-guid-b55a0f81-7fff-1a2a-4f5d-9713d75d58f6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Trái lại</span></span>, Uông Tinh Vệ và Tôn Văn tin rằng người Mãn chưa bị đồng hóa và do đó phải bị lật đổ trước khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có thể được tạo ra. Điểm chung của cả những người theo chủ nghĩa cải cách và cách mạng là họ coi sự đa dạng sắc tộc chỉ là một hiện tượng tạm thời sẽ bị loại bỏ bởi sức mạnh đồng hóa của người Hán. Họ cũng đồng ý rằng ưu tiên hàng đầu là bảo tồn lãnh thổ của đại quốc. Đối với Văn, đối với Siêu và đối với CHNDTH ngày nay, tổ chức của lãnh thổ này sẽ có thứ bậc rõ ràng. Có một Trung Quốc cốt lõi - Văn gọi nó là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhina Benbu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(中國本部: Trung Quốc bản bộ <span id="docs-internal-guid-93ba9d81-7fff-8fb0-8585-4fcd95d413f8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">[TQ thuần túy]</span></span>) - và có bốn vùng phụ thuộc của nó, hay còn gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">shudi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(属地: thuộc địa): Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương. Đây sẽ là cơ sở chính trị mà sau đó, Văn sẽ xác định dân tộc của mình và quốc gia của dân tộc đó. Bất kể bên nào giành chiến thắng trong trận chiến chính trị, bên theo chủ nghĩa cải cách hay bên cách mạng, thì phương án cho các khu vực ‘không-Hán' của Đại Thanh quốc - <span id="docs-internal-guid-2bb35fbb-7fff-63c9-9cae-535560dc54c2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Mãn Châu và Mông Cổ </span></span>- đều như nhau: hoà nhập vào quốc gia tương lai và sự đồng hóa sắc tộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hóa ra, mối đe dọa lớn nhất đối với phong trào chính trị cải cách do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu dẫn đầu không đến từ các đối thủ cách mạng của họ mà từ chính triều đình nhà Thanh. Khi thập niên 1900 <span id="docs-internal-guid-d8295091-7fff-fe75-b71c-9485185020b1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mở ra, thái</span></span> hậu Từ Hi đã đồng ý với nhiều cải cách mà Siêu đã </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">từng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">vận động, và bà từng phản đối kịch liệt vào năm 1898. Lệnh cấm kết hôn Hán-Mãn được dỡ bỏ vào năm 1902, cải cách trường học được công bố vào năm 1904, các kì thi truyền thống cho bộ máy hành chính bị bãi bỏ vào năm 1905, và năm 1906 các quan chức được cử ra nước ngoài để nghiên cứu hiến pháp của các nước khác. Có vẻ như sự thay đổi căn bản đã được tiến hành mà không cần </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">tới </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Vi và Siêu. Sức mạnh lập luận của họ bắt đầu suy giảm và gần như hoàn toàn sụp đổ vào ngày 14 tháng 11 năm 1908 khi hoàng đế Quang Tự, người mà phong trào của họ đã cố gắng 'bảo vệ’, qua đời ở tuổi 37. Kể từ khi ông bị giam và dì của ông, Từ Hi, qua đời vào ngày hôm sau, những người chỉ trích bà ta tự động cho rằng khi nằm trên giường bệnh, bà đã sắp xếp để đầu độc hoàng đế, và cháu trai hai tuổi của ông, Phổ Nghi, được chọn làm người kế vị.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc kêu gọi 'bảo vệ' cậu bé hoàng đế Phổ Nghi chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai, kể cả Khang Hữu Vi. Nội dung gây xúc cảm trong câu chuyện của những người cải cách đã cạn kiệt và thế chủ động chuyển sang phe cách mạng. Sau năm 1909, những người ủng hộ giàu có của Vi ở Bắc Mĩ nhanh chóng chuyển lòng trung thành sang Văn. Văn đã nhận tiền của họ và sử dụng nó để phát động nhiều cuộc nổi dậy vũ trang lặp đi lặp lại. Tất cả đều thất bại nhưng mỗi cuộc nổi dậy đều làm tăng uy tín của ông. Tình hình chính trị dường như đã đi vào bế tắc cho đến khi quân đội ở phía đông nam thành phố Vũ Xương nổi dậy vào ngày 10 tháng 10 năm 1911. Hội Đồng minh Cách mạng của Văn thật ra không liên quan gì đến cuộc binh biến ban đầu, nhưng khi nó lan rộng, phong trào nở rộ và vào cuối năm đó, số phận của Nhà Thanh đã được </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">định đoạt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong sự hỗn loạn của hai tháng đó, sự phân biệt chủng tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hanzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Chương Bỉnh Lân và Trâu Dong đã được thể hiện bằng máu trên đường phố. Lấy khẩu hiệu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Geming Paiman </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(革命排滿 : Cách mạng bài Mãn)- theo nghĩa đen, những người theo Tôn Văn đã gây ra bạo lực khủng khiếp cho người tộc Mãn ở nhiều nơi. Điều này bắt đầu với cuộc nổi dậy ban đầu ở Vũ Xương. Phe cách mạng báo cáo rằng chỉ có khoảng 20 chiến binh của họ bị giết, so với hơn 500 người Mãn.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">30</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhà sử học Edward Rhoads đã xác định được 10 thành phố từng xảy ra các vụ thảm sát. Mười hai ngày sau Vũ Xương, cách mạng lan tới Tây An và khoảng 10 000 người, một nửa dân số Mãn, đã bị giết trong những cuộc tàn sát bừa bãi. Các vụ giết người hàng loạt khác đã diễn ra ở Phúc Châu, Hàng Châu và Thái Nguyên, nơi có thể có tới 20 000 người đã chết.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">31</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tại Trấn Giang và Nam Kinh, các đơn vị đồn trú đã đầu hàng không kháng cự, tuy nhiên người Mãn vẫn bị giết với số lượng lớn và các khu dân cư của họ bị phá hủy. Cá nhân người Mãn bị nhận diện ra do hình dạng của cái đầu được cho là phẳng của họ, bởi cách họ nói hoặc bởi đôi chân không bị bó của phụ nữ. <span id="docs-internal-guid-d42a1354-7fff-9787-11e8-d84352f422e0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Người bị giết ngay tại chỗ không đếm xuể</span></span>.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">32</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều lãnh đạo tỉnh lo sợ rằng cuộc bạo động diệt chủng này có thể trở nên không ngăn chặn được và kêu gọi phe cách mạng lên án và ngăn chặn. Chính trong bầu không khí đó, một công thức khác về dân tộc Trung Hoa đã <span id="docs-internal-guid-a03551d5-7fff-ef9d-30fe-35252f13a6d6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nổi lên bên trên</span></span>: ý tưởng về một 'nước cộng hoà năm sắc tộc' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngũ tộc cộng hoà.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ý tưởng này, được hình thành từ những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc, có thể <span id="docs-internal-guid-fde6e2ad-7fff-1aaf-bd30-6785f6830c3b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có nguồn gốc</span></span> từ các trang của một tạp chí khác được những người lưu vong ở Nhật Bản xuất bản vào những năm 1900. Điều khiến tờ báo 'Đại Đồng’ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Datongbao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Đại Đồng báo) này trở nên khác biệt là các biên tập viên của nó đều là những nhà cải cách và là người dân tộc Mãn. Việc lựa chọn tên cho thấy rõ ảnh hưởng của các tư tưởng tân Nho giáo của Khang Hữu Vi nhưng các tác giả của nó không phải là người không tưởng. Họ sợ hãi trước sự trỗi dậy của tư tưởng bài Mãn, và những tác động của nó đối với họ và gia đình. Trong 7 số báo mà họ đã xuất bản vào năm 1907 và 1908, họ đã tìm cách giải quyết vấn đề quan hệ Hán-Mãn. Họ ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến và dân chủ nghị viện, nhưng quan trọng nhất là họ tìm cách 'hợp nhất Mãn, Hán, Mông, Hồi và Tạng thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'. Ảnh hưởng của ý tưởng về 'nhiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' của Lương Khải Siêu là rõ ràng,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">33</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng trong khi Siêu cuối cùng muốn trộn tất cả </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa) duy nhất, các tác giả ở báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Đồng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">muốn năm nhóm được công nhận là các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tộc: dòng họ) khác nhau và kêu gọi sự bình đẳng giữa các tộc, <span id="docs-internal-guid-7408b859-7fff-e1e6-fc52-027dffdf919e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trong </span></span>tư cách là các nhóm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Họ đã làm việc từ bên trong, nhưng cũng điều chỉnh mạnh mẽ tầm nhìn về đại quốc do Hoàng đế Càn Long đặt ra hơn một thế kỉ trước đó. Đó là một khuôn khổ trong đó năm nhóm dân - Mãn, Hán, Mông, Hồi và Tạng - mỗi nhóm được xác định bởi các chữ viết mà họ sử dụng, và mỗi nhóm tương ứng với một lãnh thổ cụ thể, có thể cùng tồn tại trong đại quốc trong khi duy trì tín ngưỡng và hệ thống quản trị của riêng mình. Đây là những gì Pamela Crossley đã gọi là 'quy tắc đồng thời'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">34</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ví dụ, người Tây Tạng có thể là Phật tử và chấp nhận quyền lực của các Lạt Ma nhưng vẫn là thần dân của hoàng đế. Đổi lại, hoàng đế có thể công khai thực hành Phật giáo, lễ bái trong chùa Lạt Ma ở Bắc Kinh và tỏ ra là một nhà lãnh đạo hào hùng của người Tạng. Ông cũng có thể xuất hiện như một </span><span id="docs-internal-guid-e60e8c33-7fff-820b-ca5a-9271b3d86ed1"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khả hãn</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đối với người Mông Cổ và một nhà cai trị Nho giáo đối với người Hán. Hệ thống đủ linh hoạt để mỗi nhóm cảm thấy tự chủ, nhưng là một phần của toàn bộ. Sự đổi mới xuất hiện trong các trang của báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Đồng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là thay vì lòng trung thành cá nhân với hoàng đế, trong thế giới hiện đại, năm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nên cảm thấy trung thành với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(TQ)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mà tất cả họ đều là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc dân </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Họ cho rằng đây là một cách sắp đặt có thể giữ đất nước lại với nhau cả về mặt dân tộc lẫn lãnh thổ. Trong những tháng cuối cùng đầy sôi bỏng của năm 1911, đó cũng là một thỏa hiệp mà những người cách mạng buộc phải chấp nhận. Họ không trong vị thế nắm quyền vì triều đình vẫn <span id="docs-internal-guid-2817a28b-7fff-9e8b-b9fa-274d4512da09"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">còn nắm</span></span> các lực lượng quân sự trung thành và nhiều chỉ huy cũ của triều đình đã li khai để tạo lập các thái ấp độc lập của riêng họ. Quan trọng hơn, viễn cảnh về một nước cộng hoà do người Hán thống trị thay thế đại quốc đa sắc tộc khiến các hoàng tử Mông Cổ lo sợ phải tuyên bố độc lập vào tháng 12. Tây Tạng cũng đang đi trên con đường độc lập với các cuộc giao tranh đang diễn ra và Tân Cương trên thực tế đã trở thành khu tự trị dưới quyền một lãnh chúa địa phương. Hơn một nửa lãnh thổ của đại quốc này đã nằm ngoài tầm kiểm soát của Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôn Dật Tiên và những người cách mạng biết rằng họ phải thương lượng để đạt được quyền lực với cả triều đình nhà Thanh lẫn với các lãnh chúa địa phương. Một trung gian chính là nhà cải cách tộc Mãn, Yang Du (杨度: Dương Độ), cũng từng học ở Nhật Bản và là một trong những người ủng hộ báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đại Đồng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">năm 1907/8. Ông đã chia sẻ những ý tưởng của báo này về cải cách và bình đẳng nhóm sắc tộc. Đến năm 1911, ông trở lại Bắc Kinh và gần gũi với cả lãnh chúa phương bắc Viên Thế Khải, người đã trở thành tể tướng của triều đình, lẫn với Uông Tinh Vệ, nhà lí luận của Tôn Văn.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">35</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều đó đặt ông vào vị trí then chốt trong việc tác động đến thỏa hiệp kết thúc Đại Thanh quốc và mở đầu Dân quốc. Vào thời điểm đó, cả triều đình lẫn phe cách mạng đều không tin vào một thỏa thuận chính trị trong tương lai dựa trên sự bình đẳng giữa 5 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đối với triều đình, đại quốc là có thứ bậc: với người Mãn đứng đầu. Mặt khác, các nhà cách mạng không sẵn sàng công nhận bất kì nhóm nào về mặt chính trị; mọi người chỉ đơn giản là một phần của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc Trung Hoa) duy nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi đi qua Bắc Mĩ và châu Âu, Tôn Dật Tiên trở về Thượng Hải vào ngày Giáng sinh năm 1911, đúng lúc các cuộc đàm phán đang đạt đến điểm đỉnh. Vào ngày 29 tháng 12, nhà đàm phán phe cách mạng Wu Tingfang (伍廷芳: Ngũ Đỉnh Phương) đã đưa ra nhượng bộ quan trọng: người Mãn, người Mông, người Hồi và người Tạng sẽ được đối xử bình đẳng với người Hán.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">36</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quốc gia tương lai sẽ là một 'nước cộng hoà năm tộc' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wuzu gonghe </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(五祖共和: ngũ tộc cộng hoà). Không bên nào muốn điều này ngay từ đầu, nhưng đó là thỏa hiệp mà họ đã đi đến. Như James Leibold đã <span id="docs-internal-guid-b8e89a92-7fff-6e2e-0d93-fcb465b349f1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cho thấy</span></span>, đó là kết quả mà Tôn Văn buộc phải chấp nhận trong hoàn cảnh cụ thể của tháng 12 năm 1911.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">37</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phần thưởng của Văn đến vào ngày 1 tháng 1 năm 1912, khi ông được đại hội đại biểu cách mạng suy tôn là tổng thống lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc mới. Tuy nhiên, ông đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình về thành phần dân tộc của quốc gia trong bài phát biểu nhậm chức. ‘Cốt tủy của quốc gia tồn tại trong dân tộc của nó. Sự hợp nhất các lãnh thổ Hán, Mãn, Mông, Hồi và Tạng thành một quốc gia duy nhất cũng có nghĩa là sự hợp nhất <span id="docs-internal-guid-4756b94c-7fff-867e-14e1-a69accda7d89"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">của các tộc </span></span>Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng và các tộc [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">] khác thành một dân tộc duy nhất (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yiren</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Có thể nói đây là sự thống nhất </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' Tôn Văn, giống như Siêu, trong tim vẫn là một 'người muốn làm tan chảy'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ vào ngày cuối cùng của triều đại nhà Thanh, ngày 12 tháng 2 năm 1912, khi triều đình chính thức nhượng quyền nhân danh hoàng đế cậu bé Phổ Nghi, </span><span id="docs-internal-guid-ebe08a81-7fff-d375-c7d2-dc0d52519aed"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngôn ngữ về năm dân tộc - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">mới được sử dụng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lần đầu tiên.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">38</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> <span id="docs-internal-guid-86399624-7fff-7fcf-dd63-77f0c289a604"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Việc nhượng quyền đã thực hiện</span></span> trong một tuyên bố đã được các nhà cách mạng ở Thượng Hải viết ra, do Viên Thế Khải ở Bắc Kinh <span id="docs-internal-guid-c15ffd22-7fff-468f-dee8-04c44c0447c2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỉnh sửa</span></span> và sau đó được <span id="docs-internal-guid-39ae04e7-7fff-9e4f-ae9f-2ee057f4ec2b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thái hậu Longyu (隆裕: Long Dụ), mẹ nuôi của hoàng đế, vợ góa của vua trước </span></span>và cháu gái của Từ Hi tuyên bố. Khải bổ sung hai quy định quan trọng vào chiếu thoái vị của phe cách mạng: thứ nhất, giới quý tộc <span id="docs-internal-guid-946c4fad-7fff-0049-9757-87f4cd6c1069"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Mãn, Mông, Hồi và Tạng hiện có </span></span>sẽ được giữ nguyên và thứ hai, tôn giáo của các dân tộc thiểu số sẽ được bảo vệ. Do đó, hai nền tảng chính của sự tách biệt sắc tộc sẽ được Dân quốc mới duy trì.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôn Văn chỉ giữ chức tổng thống lâm thời 10 tuần trước khi nhường lại cho Viên Thế Khải, đang dọa sử dụng quân đội của mình chống lại cách mạng. Mười tuần đó được đánh dấu bằng một cuộc tranh chấp kết tinh những bất đồng cơ bản trong chính sách của Dân quốc về chủng tộc và dân tộc: nên có gì trên cờ của quốc gia mới? Văn đã rất rõ ràng về ý thích của mình. Ngược về năm 1895, người bạn thời thơ ấu của Văn là Lu Haodong (陸皓東: Lục Hạo Đông) đã tạo ra một biểu ngữ bầu trời xanh với mặt trời trắng (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">qingtian bairi / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">青天白日: thanh thiên bạch nhật</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cho cuộc nổi dậy đầu tiên chống lại nhà Thanh ở Quảng Châu. Khi cuộc nổi dậy thất bại, Đông bị bắt và bị xử tử, trở thành thánh tử đạo đầu tiên của cuộc cách mạng theo quan điểm của Văn. Tôn Văn đã khẳng định rằng lá cờ của Đông là lá cờ được </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chấp nhận khi các nhóm cách mạng hợp nhất vào năm 1905 và đã đấu tranh mọi cách để thay đổi nó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">39</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, lá cờ được xác định rõ ràng với Văn, với tổ chức và niềm tin của ông. Nhưng đó chỉ là một trong số nhiều ứng viên cho vai trò này. Một số người theo chủ nghĩa dân tộc Hán đã sử dụng một lá cờ có 18 ngôi sao, mỗi ngôi sao cho một tỉnh (hiện đại) của nhà Minh trước đây, điều này ngầm loại trừ bất kì đề cập nào đến các vùng không thuộc Hán. Một lá cờ khác chỉ đơn giản mang chữ tiếng Trung 漢 cho 'Hán'. Cuối cùng, lá cờ được Dân quốc chấp nhận vào ngày 10 tháng 1 nhằm biểu thị điều ngược lại: sự thống nhất hài hoà của 5 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong một quốc gia mới. Nó bao gồm 5 sọc màu. Sọc trên cùng màu đỏ tượng trưng cho người Hán, bên dưới có màu vàng cho người Mãn, màu lam cho người Mông, màu trắng cho người Hồi và cuối cùng là màu đen cho người Tạng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 185px; overflow: hidden; width: 291px;"><img height="286" src="https://lh5.googleusercontent.com/umjm9_wyeKB3A7c3TD-ryREqIhA5IIMZQN2ddwmQzOXXZrvKUtdmma97AkXnB8rDMLvXXnH4iyqaTvY8TnobTzsZpR-7IpFH0Jg8dF3bmD4p0c2IFsGAZicwSAKc55naLGVPfNy3" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-954d7daf-7fff-249b-d065-19e1a14cf0cb"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">14. Tôn Dật Tiên đứng bên những lá cờ của nước Trung Hoa Dân quốc mới thành lập. Ở bên phải, cờ 'Năm tộc dưới một liên minh' và ở bên trái, cờ 18 sao 'Sắt Máu' của quân đội Dân quốc. Vào ngày 15 tháng 2 năm 1912, ngày triều đình nhà Thanh chính thức từ bỏ quyền lực, Siêu đã đến lăng mộ Xiaoling (Hiếu lăng) của Chu Nguyên Chương, người sáng lập triều đại nhà Minh, để kỉ niệm ngày cáo chung của chế độ 'Tartar' (Thát Đát) cùng với những người ủng hộ cách mạng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguồn gốc chính xác của lá cờ là bí ẩn. Nhà sử học văn hóa Henrietta Harrison cho biết ban đầu nó được sử dụng làm cờ hải quân cho các quan nhỏ và sau đó được Cheng Dequan (程德全: Trình Đức Toàn), tổng đốc tỉnh Giang Tô (bao quanh Thượng Hải) chấp nhận, ông được nhà Thanh bổ nhiệm nhưng là người tộc Hán chuyển sang phe cách mạng và tuyên bố thành phố Tô Châu độc lập vào tháng 11 năm 1911.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">40</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chính lực lượng của ông đã chinh phục Nam Kinh và dù lá cờ của họ trên danh nghĩa là đa sắc tộc, đã tàn sát những cư dân Mãn đã đầu hàng.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">41</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một trong những phụ tá của Văn, thủ lĩnh của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Thượng Hải, Chen Qimei (陳其美: Trần Kì Mĩ) cũng đã chấp nhận nó. Ông cho rằng với việc thể hiện tộc Mãn trên lá cờ, quan lại nhà Thanh sẽ có thể ủng hộ Dân quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, lá cờ có hai lợi thế so với lựa chọn theo ý thích của Văn. Nó được coi là không đảng phái và cũng bao gồm năm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng theo quan điểm của Văn, cả hai lí do đó đều là tiêu cực. Ông tiếp tục phản đối nó rất lâu sau khi bị buộc phải từ chức tổng thống. Bề ngoài, ông phản đối <span id="docs-internal-guid-1c2ab369-7fff-441d-6bad-283da5937b04"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đối với</span></span> gợi ý cho rằng màu sắc trên lá cờ hàm chứa một hệ thống tôn ti về chủng tộc, nhưng phản đối thực sự của ông là ý tưởng về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">riêng biệt. Trong một bài phát biểu vào năm 1920, ông nói với cử tọa của mình, 'Cụm từ 5 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là không phù hợp', và kêu gọi các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khác nhau kết hợp với nhau thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">duy nhất, giống như ở Mĩ, vốn là sự pha trộn của các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">châu Âu khác nhau và bây giờ chỉ hình thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mĩ'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">42</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi Viên Thế Khải chính thức tuyên thệ nhậm chức tổng thống lâm thời của Dân quốc vào ngày 10 tháng 3 năm 1912, các đại biểu đại diện cho mỗi người trong số 5 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cúi đầu trước ông ta và lá cờ mới. Trên thực tế, đó là một phiên bản hiện đại hóa của nghi lễ triều cống trước đây, ngoại trừ việc dưới thời nhà Thanh, các đoàn triều cống đến từ các lãnh thổ khác nhau, trong khi giờ đây họ đến từ các nhóm dân tộc khác nhau sống trong một lãnh thổ duy nhất: Trung Hoa Dân quốc. Trên thực tế, Dân quốc đang sụp đổ. Một tháng sau lễ tuyên thệ nhậm chức, quân đội Tây Tạng dưới sự lãnh đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đánh đuổi các đơn vị trú đóng của Trung Quốc. Một vài tháng sau đó, Tổng thống Viên Thế Khải đã phái một lực lượng mới để giành lại quyền kiểm soát, nhưng lực lượng này không thể khiến Đức Đạt Lai Lạt Ma khuất phục. Thay vào đó, Khải cố gắng phục hồi các kĩ thuật cai trị cũ của nhà Thanh. Ông đã gửi hai lá thư thân thiện cho Đức Đạt Lai Lạt Ma phong tặng các tước hiệu cũ của nhà Thanh cho ông. Vào cuối tháng 10, bản tin nhà nước chính thức của Dân quốc, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Peking Gazette </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Công báo Bắc Kinh), đã tuyên bố một cách lạc quan, “Giờ đây khi Dân quốc đã được thiết lập vững chắc và năm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đoàn kết sâu rộng thành một gia đình, Đức Đạt Lai Lạt Ma tự nhiên cảm động với cảm giác gắn bó sâu sắc với mẫu quốc.' Theo đại diện ngoại giao của Anh tại Tây Tạng, Charles Bell, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời bằng cách nói rằng ông không muốn nhận các tước hiệu, nói thêm rằng ông có ý định cai trị Tây Tạng một cách độc lập.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">43</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bell và người Anh đặc biệt ủng hộ Đức Đạt Lai Lạt Ma. Họ mong muốn giữ Tây Tạng như một quốc gia đệm trung lập giữa Dân quốc mới và lãnh địa đế quốc của họ ở Ấn Độ. Càng có thể tách Tây Tạng ra khỏi sự kiểm soát của Bắc Kinh thì họ càng cảm thấy an toàn hơn và họ cảnh báo Khải đừng cố thực hiện một cuộc xâm lược toàn diện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi đó, dù bị đẩy khỏi chức vụ tổng thống, Văn vẫn theo đuổi giấc mơ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của mình. Ông vẫn cực kì nổi tiếng trong dân thành thị và mặc dù có lập trường khác nhau trên hầu hết các vấn đề, Viên Thế Khải rõ ràng thích có Văn làm đồng minh hơn là kẻ thù. Khi Văn từ Thượng Hải đến Bắc Kinh vào ngày 24 tháng 8 năm 1912, ông được chào đón như thể ông vẫn còn là nguyên thủ quốc gia, với một vệ sĩ danh dự, một bữa tiệc và một chỗ trú khổng lồ. Ngày hôm sau, Văn, các nhà lãnh đạo còn lại của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và các nhà lãnh đạo của một số đảng cải cách nhỏ hơn đã đến một địa điểm của Kinh kịch, Hội quán Huguang (湖廣: Hồ Quảng), để dự đại hội thành lập đảng chính trị mới của họ, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guomin Dang</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - 'Quốc dân đảng’.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">44</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc dân đảng đã thông qua một chương trình hành động chính trị 5 điểm, trong đó rất quan trọng là ‘thực hiện nghiêm ngặt việc đồng hoá chủng tộc [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhongzu tonghua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">/ 種族同化: chủng tộc đồng hoá]'. Theo quan điểm của Văn, điều này sẽ diễn ra thông qua một quá trình dung hợp (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ronghe </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">/ 融合), một khái niệm có nguồn gốc từ thời Văn ở trong Phòng đọc của Bảo tàng Anh ở London, 14 năm trước, khi ông nghiên cứu các ý tưởng của <span id="docs-internal-guid-89112e5d-7fff-cb50-1cda-59ccb2d19f43"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thuyết </span></span>Darwin xã hội. Vài ngày sau đại hội, Văn trình bày điều này trong một bài phát biểu tại Câu lạc bộ Quảng Đông - Hồ Nam ở Bắc Kinh. Ông lập luận: 'Sự tiến hóa của thế giới phụ thuộc vào việc học cách tiến từ dã man đến văn minh’. Các nguyên tắc của Darwin sẽ đảm bảo rằng những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn minh hơn sẽ được tự nhiên lựa chọn hơn là những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tiếp tục hoạt động như <span id="docs-internal-guid-6dd349e1-7fff-7394-5e79-19b93c5cf360"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">muông</span></span> thú. Vì người Hán sở hữu 'tri thức văn minh' nhất, họ có nhiệm vụ dẫn dắt các dân tộc thiểu số thấp kém hơn thoát khỏi man rợ và tiến vào văn minh. Ông gọi nhiệm vụ này là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ganhua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(感化: cảm hóa)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mà James Leibold dịch là "cải cách thông qua các ví dụ về sự vượt trội về đạo đức’. Tôn Văn nói với khán giả của mình rằng các nhà lãnh đạo của Tây Tạng và Mông Cổ chỉ li khai khỏi Dân quốc vì họ không hiểu những lợi ích của nó: ‘Trình độ giáo dục của họ vẫn chưa đầy đủ... chúng ta chỉ có thể giúp họ dần dần thấy điều gì là đúng đắn, ông nói một phóng viên.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">45</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo Văn, cách hiệu quả nhất để mang lại sự hoà trộn các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào nhau là khuyến khích <span id="docs-internal-guid-d2eac8e0-7fff-be1c-8e09-80e97a0b9f5c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">việc người Hán văn minh di cư</span></span> đến các vùng biên giới còn man rợ. Và chìa khóa cho kế hoạch của ông là phát triển đường sắt đến những vùng xa xôi của Dân quốc - một kế hoạch mà ông phác thảo ban đầu trong bản đồ doi ông vẽ vào năm 1900. Tổng thống Viên Thế Khải có thể không đặc biệt quan tâm đến việc hoà trộn thành một dân tộc mới, nhưng chắc chắn ông hiểu tầm quan trọng chiến lược của việc kiểm soát biên giới. Trong tháng ở Bắc Kinh, Văn đã có 13 cuộc gặp gỡ dài với Khải, bàn về quốc phòng, đối ngoại, cải cách nông nghiệp và phát triển công nghiệp. Giữa các cuộc họp này, Khải đã bổ nhiệm Văn làm 'giám đốc đường sắt' và cấp cho ông ta ngân sách 30 000 đồng nguyên mỗi tháng, cùng với toàn quyền lập kế hoạch mạng lưới đường sắt quốc gia và đàm phán các khoản vay với người nước ngoài để chi trả cho việc đó. Tuần sau đó, Văn rời Bắc Kinh trên chuyến tàu cũ của thái hậu Từ Hi để bắt đầu chuẩn bị cho nhiệm vụ phía trước. Ông nói với nhà báo người Úc đi cùng, William H. Donald, rằng ông sẽ xây dựng 100 000 km đường ray mới trong vòng 10 năm để nối Tân Cương và Tây Tạng với phần còn lại của đất nước. Khi Donald nói với ông rằng các tuyến đường khó thể làm được vì có các dãy núi cao, Văn có vẻ khẳng định rằng bất cứ nơi nào có đường mòn trâu bò đi lại thì có thể làm đường sắt được. Văn nói với một nhà báo Pháp rằng kế hoạch này sẽ tiêu tốn khoảng 16 tỉ franc và ông đang tìm kiếm các nhà cho vay nước ngoài để biến nó thành hiện thực.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">46</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đối với Văn, điều rất quan trọng hơn nhiều là chi tiền vào việc nối các vùng biên giới phía tây bắc với 'Trung Quốc thuần túy', và do đó bảo tồn lãnh thổ của Đại Thanh quốc cho Dân quốc, hơn là các dự án khả thi hơn ở các vùng thuộc Hán của đất nước. Tuy nhiên, dù ông hết sức mong muốn xây dựng nó, nhưng không có người cho vay. Dù vậy, Văn vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch của mình, kể cả sau tháng 7 năm 1913, khi Khải sa thải ông khỏi công việc khi sự khác biệt chính trị giữa họ chuyển thành nội chiến.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">47</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mất quyền lực và sống trong tình trạng bán nghỉ hưu ở Thượng Hải, Văn tiếp tục mơ về đường sắt và chủ nghĩa dân tộc. Vào cuối thập kỉ đó, ông đã thảo ra hai tác phẩm lớn: ‘Kiến quốc phương lược’ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Jianguo fanglue / </span><span style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">建國方略</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) và ‘Tam Dân chủ nghĩa’ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">San Min Zhuy</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">i / 三民主義) được biết đến nhiều hơn. Hai <span id="docs-internal-guid-be80fbde-7fff-48de-bf36-ab30f90d8bbc"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cuốn này</span></span> nên được xem như bạn đồng hành. Trong ‘Kiến quốc phương lược’ (sau này được xuất bản bằng tiếng Anh là ‘The International Development of China’), ông đã dựa trên biên giới nước Mĩ làm cơ sở cho ý tưởng của mình. Văn kêu gọi một kế hoạch 'trồng trọt và di dân' lớn và buộc hàng chục nghìn nông dân không có đất đai và binh lính chuyển đến các vùng biên giới để khai hóa dân cư. Trong 'nguyên tắc Tam dân', Tôn Văn đã mượn định nghĩa của Lương Khải Siêu về hai hình thức chủ nghĩa dân tộc - hẹp và rộng - để nói rằng, cho đến nay, 'Chúng ta chỉ đạt được khía cạnh tiêu cực của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzuzhuyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(民族主義: dân tộc chủ nghĩa)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và phải đi xa hơn nữa để đạt được mặt tích cực, 'đối với</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tộc Hán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phải hi sinh huyết thống, lịch sử và bản sắc mà họ rất tự hào và hợp nhất với các tộc Mãn, Mông, Hồi và Tạng với tất cả lòng chân thành trong một lò luyện duy nhất để tạo ra một trật tự mới của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân tộc Trung Hoa, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giống như Mĩ đã tạo ra </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ nghĩa dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> dẫn đầu thế giới qua việc hoà trộn vài chục dân tộc khác nhau: da đen và da trắng.’</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào tháng 10 năm 1919, Văn thành lập một đảng mới với tư cách là tổ chức kế tục Quốc dân đảng, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa Quốc dân đảng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Đảng Quốc dân Trung Hoa) nhưng phải đến tháng 1 năm 1924, đảng này mới triệu tập đại hội đầu tiên và lấy 'nguyên tắc Tam Dân' của Tôn Văn làm tuyên ngôn của mình. Họ đã tiến hành họp trong điều kiện chiến tranh, gặp nhau tại trường Đại học Sư phạm Quốc gia Quảng Châu ở phần duy nhất của đất nước mà họ kiểm soát: vùng xa phía nam. Dưới ảnh hưởng của các cố vấn Liên Xô mới do Joseph Stalin cử tới, nguyên tắc ‘chủ nghĩa dân tộc’ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzuzhuyi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - đã bị sửa đổi đáng kể. Nó không kêu gọi 'hoà trộn’ nhiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thành một nhưng hứa hẹn rằng tất cả sẽ được đối xử bình đẳng. Tuy nhiên, điều này không thể hiện sự thay đổi đầu óc của Văn. Các tài liệu được tìm thấy trong các kho lưu trữ của Nga cho chúng ta biết rằng lời văn về các dân tộc riêng biệt sống trong một quốc gia duy nhất hoàn toàn là việc làm của các cố vấn Liên Xô và được chèn thêm lên trên các phản đối của Tôn và nhà lí luận của ông ta là Uông Tinh Vệ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">48</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bốn ngày sau, Văn có bài phát biểu đầu tiên trong một loạt các bài phát biểu tại Đại học Quốc gia Quảng Châu mà ông vừa thành lập. Tách xa các cố vấn Liên Xô, ông đã trực tiếp nói ngược với bản tuyên ngôn. Ông nói với các cử tọa rằng, không giống như các quốc gia khác trên thế giới, Trung Quốc có một </span><span id="docs-internal-guid-16666db3-7fff-82ea-5e8d-5dd536db9c40"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dân tộc)</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> duy nhất tạo thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guojia</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (quốc gia: biểu hiện Nho giáo của dân tộc) duy nhất. Dù thừa nhận có những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khác trong nước trên thực tế, ông nói rằng họ có thể không được kể tới vì họ sẽ bị đồng hóa vào tộc Hán <span id="docs-internal-guid-00b4d120-7fff-d324-14c5-5d01e7a50cd2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thượng đẳng</span></span>: '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa tổng cộng có 400 triệu người. Trong số đó chỉ có vài triệu người Mông, một triệu người Mãn và vài triệu người Tạng cùng vài trăm nghìn người Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi, tổng cộng không quá 10 triệu người không là người bản địa. Do đó, xét trên đại đa số, chúng ta có thể nói rằng 400 triệu người Trung Quốc hoàn toàn thuộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Hanzu), có chung huyết thống, ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục - một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thuần khiết duy nhất.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">49</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nói tóm lại, Tôn Văn không có thời gian nào cho những ý tưởng của cố vấn Liên Xô về các dân tộc thiểu số sống cạnh nhau trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">sự </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">bình đẳng trên danh nghĩa. Ông tin vào thuyết Darwin xã hội và sự cần thiết để tộc Hán gộp các sắc dân thiểu số vào một chủng tộc Trung Hoa, có thể cạnh tranh và đánh bại bọn đế quốc da trắng. Niềm tin của ông vào thuyết Darwin xã hội mạnh mẽ đến mức ông tin rằng quá trình đồng hóa sẽ diễn ra theo cách tự nguyện, không dùng vũ lực hay sự ép buộc. Điều này dẫn ông tới lập luận rằng ‘quá trình tự nhiên này đã diễn ra trong nhiều thế kỉ và Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương đều đã trở thành Trung Quốc vì các dân tộc của các vùng này ngưỡng mộ văn hóa người Hán. Trong bài giảng thứ sáu, ông gợi ý rằng 'sức mạnh đồng hóa' này cuối cùng có thể mở rộng đến tận An Nam, Bhutan, Borneo, Miến Điện, Triều Tiên, Nepal, Đài Loan và tất cả các nước triều cống trước đây, để gộp tất cả vào trong một nước đại Trung Quốc thống nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôn Văn mất năm 1925 và một năm sau đó, Tưởng Giới Thạch tự lập mình làm nhà lãnh đạo quân sự và chính trị của Quốc dân đảng. Đến năm 1928, Quốc dân đảng đã chiếm được Bắc Kinh và thành lập chính phủ quốc gia. Một trong những hành động đầu tiên của đảng này là bỏ đi 'lá cờ năm màu' được dùng 16 năm trước, và thay thế nó bằng một phiên bản thiết kế 'Bầu trời xanh, Mặt trời trắng' được Văn yêu thích. Sau đó, tại đại hội lần thứ ba vào năm 1929, đảng từ bỏ tuyên ngôn năm 1924 cũng như cam kết về quyền tự quyết cho các nhóm thiểu số. Có vẻ như đảng này sẽ thực hiện lí tưởng của Văn về một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> duy nhất. Tuy nhiên, một lần nữa, thực tế của việc kiểm soát các biên giới đã đan xen vào. Đáp ứng yêu cầu của các lãnh đạo chính trị địa phương và nhận thức được mối đe dọa từ các thế lực nước ngoài, chính phủ mới của Dân quốc bắt đầu quá trình thành lập các tỉnh đặc biệt ở Nội Mông và các khu vực có người Tạng sinh sống.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">50</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, họ tạo ra các khu tự trị cho 'Nội Tây Tạng (Khu tự trị đặc biệt Xuyên Biên (川邊) vào năm 1939 và vào năm 1947, cho Nội Mông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, cùng lúc đó, việc xây dựng đường sắt mà Văn đã từ lâu đề cao đã bắt đầu chuyển ước mơ về sự ‘hoà trộn’ dân số của ông thành hiện thực.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">51</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong 40 năm đầu của thế kỉ 20, 25 triệu người Hán chuyển tới ba tỉnh đông bắc và dù hầu hết những người định cư này sau đó đã rời đi, người Mãn đã trở thành sắc dân thiểu số nhỏ ở đó. Quê hương của người Mãn trước đây, nơi người Hán chính thức bị cấm sinh sống cho đến thập niên 1860, trở thành lãnh thổ của người Hán. Người Mãn đã bị đồng hóa và tiếng Mãn, vốn vẫn là ngôn ngữ chính thức của Nhà Thanh cho đến khi kết thúc, gần như hoàn toàn biến mất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Mông Cổ hiện nay cũng là một nhóm thiểu số nhỏ ở Nội Mông, mặc dù khu vực này đã được tuyên bố là tự trị. Họ chiếm chưa đầy 1/5 dân số gồm 24 triệu người của khu tự trị. Mặc dù họ không bị đồng hóa ở mức độ như người Mãn, nhưng số lượng người vẫn còn nói, đọc và viết được tiếng Mông Cổ đang giảm dần.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">52</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Cương và Tây Tạng lại là một câu chuyện khác, chủ yếu là vì hai nơi này ở xa các trung tâm dân cư chính, thách thức về khí hậu và khó xây dựng đường sắt đến. Đường vào Tân Cương mất hơn một thập kỉ để xây dựng và việc kết nối với thủ phủ Urumqi của tỉnh chỉ được mở vào năm 1966. Tỉnh này được CHNDTH tuyên bố là một khu tự trị vào năm 1955 nhưng trong những năm sau đó, dân số người Hán đã tăng từ khoảng 10 % lên đến 40 % dân số vào thời điểm điều tra dân số năm 2010. Các sắc dân Hồi nói tiếng Thổ Nhĩ Kì, viết chữ Ả Rập, vẫn chiếm đa số, nhưng chỉ có vậy. Kết nối đường sắt đến Tây Tạng thậm chí còn mất nhiều thời gian hơn để hoàn thành và chỉ đến được thủ đô Lhasa (拉薩: Lạp Tát) vào năm 2006. Do đó, dân số người Hán vẫn còn tương đối nhỏ trong Khu tự trị Tây Tạng, mặc dù đã phát triển nhanh hơn rất nhiều ở khu vực có người Tạng sinh sống trong lịch sử nhưng được kết nối tốt hơn ở các tỉnh Thanh Hải và Tứ Xuyên. Tuy nhiên, ở cả Tân Cương lẫn Tây Tạng, người Hán tập trung ở các thị trấn và thành phố có kết nối đường sắt, nơi có thu nhập và mức sống cao hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những thập kỉ thường xuyên bạo lực kể từ cuộc cách mạng 1911/12, chính sách của nhà nước Trung Quốc đối với các dân tộc ở bốn vùng lãnh thổ phụ thuộc xoay chuyển, đôi khi rất kịch tính, giữa các lập trường đối địch của Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên. Đã có những khoảng thời kì dài khi sự khác biệt giữa các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được dung thứ, thậm chí được khuyến khích và những thời kì khác khi nhà nước chuyển sang chế độ 'hoà tan' để cố gắng xóa bỏ sự khác biệt nhân danh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Văn tin rằng công việc hoà tan sẽ đạt được với những con số tuyệt đối: 'Không quan trọng nếu có những xáo trộn dọc theo vùng biên giới', ông nói với một phóng viên vào tháng 5 năm 1912. ‘Họ chỉ là một thiểu số cực kì nhỏ, không phải là một lực lượng đủ mạnh để làm loạn’ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">53</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một thế kỉ sau, sự lạc quan theo chủ nghĩa sô vanh của ông đã được chứng minh là đúng trong một số trường hợp nhưng không đúng trong những trường hợp khác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 13 tháng 8 năm 2018, gần như cùng lúc với Ban Thiền Lạt Ma đi tham quan các dự án xây dựng ở Tây Tạng, một quan chức Trung Quốc ít được biết đến trước đây tên là Hu Lianhe (Hu Lianhe 胡联合: Hồ Liên Hợp) đã làm toàn cầu phải chú ý tại Geneva. Đối với sự xuất hiện của ông trước Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt chủng tộc, Hợp <span id="docs-internal-guid-d3170101-7fff-5ca0-b33b-d800c98fe55c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được liệt kê bình dị</span></span> như là một quan chức cấp cao của Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của Đảng Cộng sản. ‘Kẻ chủ mưu đàn áp’ có thể là một <span id="docs-internal-guid-b463e285-7fff-62a6-eb76-d5aec190d65f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">danh hiệu</span></span> tốt hơn, vì Hợp là bộ não đằng sau chiến dịch an ninh ở Tân Cương bắt đầu vào đầu năm 2017 và, vào thời điểm ông ta xuất hiện, đã dẫn đến hơn một triệu người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và những người Hồi nói tiếng Thổ Nhĩ Kì khác bị giam trong 1 200 trại 'cải tạo' xa xôi. Hợp nói với ủy ban rằng điều này không có gì đáng lo ngại. Các trại này là 'trung tâm giáo dục nghề nghiệp và đào tạo việc làm', <span id="docs-internal-guid-be1c9063-7fff-e900-eb4d-5525a0af212c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mà ở đó </span></span>những kẻ cực đoan có thể được 'trợ giúp để họ phục hồi và tái hoà nhập vào xã hội’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">54</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Các cựu tù nhân không đồng ý khi mô tả sự tra tấn về thể xác và tinh thần mà họ phải chịu đựng dưới bàn tay của những người thẩm vấn sau hàng rào thép gai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc ra tay rộng lớn trong trại là một phản ứng trước một số cuộc tấn công của các phần tử cực đoan <span id="docs-internal-guid-0ea60782-7fff-edf9-ab5f-1d57515fe64a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Duy Ngô Nhĩ</span></span> nhắm vào các thành viên của người Hán. Giọt nước tràn li dường như là vụ giết hại 5 thường dân gần thị trấn chiến lược Hotan (和田: Hoà Điền) ở tây nam Tân Cương vào tháng 2 năm 2017. Quan chức địa phương được chỉ thị nhận diện bất kì ai có dấu hiệu ‘tư tưởng cực đoan, có thể bao gồm việc đeo khăn trùm đầu, để râu hoặc chỉ trích nền giáo dục tiếng Hán’. Kết quả là, khoảng 10% dân số người lớn đã bị giam giữ trong các trại và chịu áp lực nhiều tháng (hoặc lâu hơn) cho đến khi họ thuyết phục được lính canh rằng họ từ bỏ chủ nghĩa li khai và chấp nhận những lời dạy của Đảng Cộng sản. Đồng thời, lực lượng an ninh được triển khai với số lượng rất lớn trên toàn tỉnh. Xe bọc thép, cảnh sát bán quân sự trên xe mô tô và lực lượng đặc biệt phô diễn qua Hoà Điền, thủ phủ Urumqi và bất kì nơi nào khác mà đảng cảm thấy không an toàn về khả năng kiểm soát của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hồ Liên Hợp là nhân vật chủ chốt trong việc suy nghĩ lại chính sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Trung Quốc. Sau khi nhận bằng tiến sĩ tại trường Đảng cho luận án chống khủng bố, ông được ban Chính trị và Pháp luật Trung ương của đảng này tuyển vào và sau đó được biệt phái vào Trung tâm Nghiên cứu Chống Khủng bố tại một viện nghiên cứu do quân đội điều hành, Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Trung Quốc. Ông trở thành cố vấn hàng đầu của đảng về chống khủng bố và tham gia soạn thảo luật chống chủ nghĩa cực đoan. Sau đó, vào năm 2004, ông kết hợp với giáo sư Hồ An Cương, nhà phê bình hàng đầu về hiện thân đầu tiên của chính sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của CHNDTH, tại Đại học Thanh Hoa. Hợp và Cương đã cùng nhau viết hơn chục bài báo về sự cần thiết của một cách tiếp cận mới.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">55</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hồ Liên Hợp cho biết đã phát triển 'thuyết về ổn định', một thứ đòi hỏi có 'sự chuẩn hóa hành vi của con người'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đặc biệt, Hợp và Cương chú trọng vào Tây Tạng và Tân Cương, cảnh báo rằng nếu không có hành động kiên quyết, đất nước này sẽ mất đi sự trung thành của dân bản địa ở đó và phải đối mặt với số phận giống như Liên Xô. Như một tiếng vọng trực tiếp của Lương Khải Siêu và Tôn Dật Tiên một thế kỉ trước, họ kêu gọi chính phủ áp dụng ‘nồi tan chảy' và hoà trộn 56 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> duy nhất. Trong một bài báo năm 2011, họ kêu gọi đảng loại bỏ tất cả các quyền dựa trên nhóm, cải thiện kết nối giữa các khu vực người thiểu số sinh sống và phần còn lại của đất nước (nghĩ tới đường sắt), tăng cường sử dụng ngôn ngữ quốc gia chuẩn và tăng cường di dân trên tất cả các vùng của đất nước.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">56</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 28 tháng 9 năm 2014, cách tiếp cận này đã nhận được sự ủng hộ chính thức của Tập Cận Bình. Phát biểu tại ‘Diễn đàn Công tác Dân tộc Trung ương', ông nói rõ rằng sẽ có một sự thay đổi hướng, rằng Đảng Cộng sản sẽ quan tâm nhiều hơn đến hội nhập và ít hơn đến việc thể chế hóa sự đa dạng. Theo tường thuật, ông nói 'Chúng ta không nên tiếp tục với những gì đã thối rữa'. Diễn đàn đã thông qua một cách tiếp cận mới đối với các vấn đề dân tộc, một phiên bản mềm mỏng hơn của ‘hoà trộn’ chính thức được gọi là ‘pha trộn’ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiaorong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(交融: giao dung). Nó tuân theo cách thức của Hợp và Cương; chính sách tăng cường dịch chuyển lao động để đưa người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ đến làm việc trong các nhà máy ở các khu vực người Hán của đất nước, xây dựng các cộng đồng dân tộc hỗn hợp, thúc đẩy hôn nhân giữa các sắc tộc, v.v.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">57</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này đã được chính thức hóa tại Đại hội Đảng năm 2017, quyết nghị đưa khái niệm 'hình thành một ý thức tri giác tập thể mạnh mẽ cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc Trung Hoa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' trong Điều lệ của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, Tập Cận Bình và những người ủng hộ ‘thế hệ thứ hai' của chính sách dân tộc đang đấu tranh chống lại sự đối kháng thâm căn cố đế. Thực tế đơn giản là CHNDTH vẫn phân loại người dân thành các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khác nhau cho chúng ta thấy rằng dự án xây dựng dân tộc mà Lương Khải Siêu và Tôn Dật Tiên mơ ước đã không thành công, dù đã gắng thực hiện hơn một thế kỉ. Tuy nhiên, khi TCB chống lại di sản tư tưởng và quan liêu của Viên Thế Khải, Joseph Stalin và cha ruột của mình, ông dường như quyết tâm hoàn thành một nhiệm vụ vốn bắt đầu vào năm 1903 với việc sáng chế ra ý tưởng về một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dân tộc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">duy nhất ngay từ đầu.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_______________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. United Front Work Leading Group Office of the Tibet Autonomous Region Committee of the Communist Party of China, “Panchen Erdeni Visits Shannan for Buddhist Activities', 28 August 2018, </span><a href="http://www.xztzb.gov.cn/news/1535419327828.shtml" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.xztzb.gov.cn/news/1535419327828.shtml</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. W.J.F. Jenner, 'Race and History in China’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">New Left Review</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1 September 2001, p. 55. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3 Chiang Kai-shek, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China's Destiny</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Westport, CT: Greenwood Press, 1985, p. 13. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Thomas Mullaney, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Coming to Terms with the Nation: Ethnic Classification in Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Berkeley, CA: University of California Press, 2011. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5.Jenner, 'Race and History in China', p. 77. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Lai To Lee and Hock Guan Lee (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-Sen, Nanyang and the 1911 Revolution</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 2011, pp. 18-19. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7, Patrick Anderson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Lost Book of Sun Yatsen and Edwin Collins,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> London: Routledge, 2016, pp. 22–3. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. Daily News, ‘The Politics of Sun Yat-sen: Why His Head is in Peril, 26 October 1896, quoted in Anderson, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lost Book of Sun Yatsen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 15. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. Harold Schiffrin, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen and the Origins of the Chinese Revolution</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Berkeley, CA: University of California Press, 1968, p. 128.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10. Marie-Claire Bergère (trans. Janet Lloyd), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Stanford, CA: Stanford University Press, 1998, pp. 65-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. James Leibold, 'Positioning “Minzu”’ Within Sun Yat-Sen's Discourse Of Minzuzhuyi', J</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ournal of Asian History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 38/2 (2004), p. 168. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12. Schiffrin, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 139. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Ibid., p. 148. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14. Bergère, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 77–8. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. Leibold, 'Positioning ‘Minz’‘, p. 170. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16. Kenji Shimada, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pioneer of the Chinese Revolution: Zhang Binglin and Confucianism</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Stanford, CA: Stanford University Press, 1990, p. 28. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">17. Julia C. Schneider, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nation and Ethnicity: Chinese Discourses on History, Historiography, and Nationalism</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (1900s1920s), Leiden: Brill, 2017, pp. 80-82. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Cheng Zhongping, ‘Kang Youwei's Activities in Canada and the Reformist Movement Among the Global Chinese Diaspora, 1899–1909', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Twentieth-Century China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 39/1 (2014). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. ‘Jane Leung Larson, ‘Kang Youwei: A Drifting Stranger from 20,000 Li Away', Baohanghui Scholarship (blog) 2 June 2013, </span><a href="https://baohuanghui.blogspot.com/2013/06/a-drifting-stranger-from-20000-liaway.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://baohuanghui.blogspot.com/2013/06/a-drifting-stranger-from-20000-liaway.html</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">20. Jonathan D. Spence, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Gate of Heavenly Peace: The Chinese and Their Revolution,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Harmondsworth: Penguin, 1982, pp. 35-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. Frank Dikötter, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Discourse of Race in Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Oxford: Oxford University Press, 2015, p. 56.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 22. Marc Andre Matten, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Imagining a Postnational World: Hegemony and Space in Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Leiden: Brill, 2016, p. 241. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23. 'Life and Legacy of Kang Tongbi', Barnard, </span><a href="https://barnard.edu/headlines/life-andlegacy-kang-tongbi" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://barnard.edu/headlines/life-andlegacy-kang-tongbi</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24. Xiaobing Tang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Space and the Nationalist Discourse of Modernity: The Historical Thinking of Liang Qichao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Stanford, CA: Stanford University Press, 1996, p. 139. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Zou Rong, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Revolutionary Army: A Chinese Nationalist Tract of 1903</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Paris: Éditions de l'École des Hautes Études en Sciences Sociales, 1968, p. 58. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">26. Leibold, ‘Positioning “Minzu”’, p. 174. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Ibid., p. 186. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. So Wai Chor, ‘National Identity, Nation and Race: Wang Jingwei's Early Revolutionary Ideas, 1905-1911', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Modern Chinese History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 4/1 (2010), pp. 63-7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">29. Leibold, ‘Positioning “Minzu”’, p. 176. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Ma Mingde, ‘Tang Hualong in the 1911 Revolution', in Joseph W. Esherick and C. X. George Wei (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China: How the Empire Fell</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London; New York: Routledge, 2013, p. 141. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. James Leibold, ‘Xinhai Remembered: From Han Racial Revolution to Great Revival of the Chinese Nation', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Asian Ethnicity</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 15/1 (2014), p. 3. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">32. Edward Rhoads,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Manchus and Han: Ethnic Relations and Political Power in Late Qing and Early Republican China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 1861– 1928, Seattle: University of Washington Press, 2000. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33. Ibid., pp. 114-16. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">34. Pamela Kyle Crossley, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A Translucent Mirror: History and Identity in Qing Imperial History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Oakland, CA: University of California Press, 1999. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">35. Gray Tuttle, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tibetan Buddhists in the Making of Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> New York: Columbia University Press, 2007, p. 61. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. Rhoads, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Manchus and Han</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 214. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Leibold, 'Positioning “Minzu”’, p. 180. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38. Tuttle, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tibetan Buddhists</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 62. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. Tjio Kayloe, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Unfinished Revolution: Sun Yat-Sen and the Struggle for Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Singapore: Marshall Cavendish International (Asia), 2018. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. Henrietta Harrison, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Making of the Republican Citizen: Political Ceremonies and Symbols in China 1911–1929</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Oxford: Oxford University Press, 2000, p. 101. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. Li Xizhu, ‘Provincial Officials in 1911/12', in Joseph W. Esherick and C. X. George Wei</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China: How the Empire Fell</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London; New York: Routledge, 2013. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42. Leibold, 'Positioning “Minzu”’, p. 181. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43. Tuttle, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tibetan Buddhists</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 64. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Bergère, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 228. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45 Leibold, ‘Positioning “Minzu”, pp. 184</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. Bergère, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 236. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">47. Richard Louis Edmonds, ‘The Legacy of Sun Yat-Sen's Railway Plans', China Quarterly, 421 (1987).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 48. Leibold, 'Positioning “Minzu”’, p. 197. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">49. Ibid., p. 191. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">50. James Leibold, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Reconfiguring Chinese Nationalism: How the Qing Frontier and its Indigenes Became Chinese</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Basingstoke: Palgrave Macmillan, 2007, p. 58. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">51. Edmonds, ‘Legacy of Sun Yat-Sen's Railway Plans’. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">52. Chien-peng Chung, ‘Comparing China's Frontier Politics: How Much Difference Did a Century Make?', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nationalities Papers</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 46/1 (2018), p. 166. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">53. Leibold, 'Positioning “Minzu”’, p. 183. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">54. Xinhua, 'Slandering Xinjiang as “No Rights Zone” Against Fact, Chinese Official Told UN Panel’, China Daily.com, 14 August 2018, </span><a href="http://www.chinadaily.com.cn/a/201808/14/WS5b7260a6a310add14f385a92.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.chinadaily.com.cn/a/201808/14/WS5b7260a6a310add14f385a92.html</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">55. James Leibold, ‘Hu the Uniter: Hu Lianhe and the Radical Turn in China's Xinjiang Policy’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ChinaBrief</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 18/16 (10 October 2018). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">56. James Leibold, “The Spectre of Insecurity: The CCP's Mass Internment Strategy in Xinjiang’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Leadership Monitor</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Hoover Institution (1 March 2019). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">57. James Leibold, 'A Family Divided: The CCP's Central Ethnic Work Conference', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ChinaBrief</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 14/21, Hoover Institution (7 November 2014).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_____________________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản song ngữ <a href="https://docs.google.com/document/d/17DmJkbQZvgsc40xS7T_TclqjzjiZCJT3NasZN7K1yaM/edit?usp=sharing" target="_blank">ở đây</a>:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a><span> <span> </span><span> </span><span> </span><span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank"> </a></span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank">Chương 5 </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"><span>Chương 2 </span></a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> </span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-6.html" target="_blank">Chương 6</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank">Chương 4 </a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-71317348262790734662021-01-27T19:25:00.023-08:002022-02-07T00:31:26.364-08:00Sáng chế ra Trung Quốc (Ch. 7: Lãnh thổ quốc gia)<p> <b><span style="font-size: medium;">Chuong 7</span></b></p><p><span style="font-size: 14pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">SÁNG CHẾ LÃNH THỔ QUỐC GIA</span></p><span id="docs-internal-guid-3f9739cc-7fff-3ed4-c374-e0dfac507585"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu - lãnh thổ </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 14 tháng 5 năm 2018 bắt đầu giống như bất kì ngày thứ Hai nào khác đối với các giám đốc điều hành của hãng Gap China, nhưng trong vòng vài giờ, những lo lắng thông thường về việc quản lí một chuỗi cửa hàng quần áo đang mở rộng trong một thị trường phát triển nhanh đã bị thay bằng sự hoảng loạn. Vào thời điểm mọi người đã về nhà, các ông chủ của công ti bị buộc phải công bố một lời xin lỗi khó hiểu. Họ đi ngủ với mong mỏi đã làm đúng mức trong việc làm <span id="docs-internal-guid-632bed48-7fff-110b-d496-72d15eee25ef"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lắng dịu</span></span> cuộc phản đối trực tuyến do một chiếc áo thun ngắn tay trị giá </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">$</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">7,99 được bán trong một cửa hàng đại lí của nhà máy cách đó 11 000 km gây ra. Thứ Hai hôm đó, các giám đốc điều hành nhận lấy một cảm ứng hung bạo vào chứng loạn thần kinh về lãnh thổ của Trung Quốc đương <span id="docs-internal-guid-a881d766-7fff-5987-e403-e6129704dc24"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đại</span></span>.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một vài tháng trước đó, Gap đã phát hành một loạt áo thun có ý cho khách hàng được thể hiện chút tự hào về địa phương. Loạt hàng này bao gồm áo có in tên ‘Trung Quốc', ' Nhật Bản', 'San Fran' và 'Paris' ở mặt trước và mặt sau. Hầu hết các thiết kế đều được minh họa bằng cờ của quốc gia liên quan, nhưng phiên bản Trung Quốc thì khác: nó có bản đồ. Một người yêu nước Trung Quốc tinh mắt, chọn một số quần áo giảm giá sau chuyến đi đến thác Niagara phía Canada, nhận thấy rằng bản đồ trên chiếc áo thun 'Trung Quốc' không bao gồm đầy đủ các yêu sách lãnh thổ của đất nước. Khi họ chứng minh với sự trợ giúp của một bức ảnh có chú thích, bản đồ của Gap đã bỏ sót các đảo ở biển Đông, các khu vực trên dãy Himalaya do Ấn Độ chiếm đóng và đặc biệt là đảo Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bài đăng của một khách du lịch theo chủ nghĩa dân tộc trên trang mạng xã hội Weibo (Vi bác) của Trung Quốc có thể đã không được chú ý nếu không được blogger nổi tiếng 7sevennana nhặt ra. Cho đến thời điểm đó, cô được biết đến nhiều nhất với việc bình luận về các trò chơi máy tính khi mặc áo hở vai. Tháng 5 năm 2018 cô ấy định vị lại mình là một người yêu nước. Khi chuyển bức ảnh áo thun cho hàng nghìn người theo dõi, cô đã thêm thông điệp của chính cô gửi tới Gap: 'Nếu quý vị kiếm được tiền từ Trung Quốc, tại sao quý vị không thể cẩn thận về vấn đề lãnh thổ của Trung Quốc?' Gap nhanh chóng thấy mình đang gặp rắc rối. Ngay từ hôm đó, những lời kêu gọi tẩy chay các cửa hàng Gap bắt đầu lan truyền trên Weibo. Đội quân kiểm duyệt trực tuyến của chính phủ đã không hề có cố gắng nào để ngăn chặn họ. Nhiều người ủng hộ tẩy chay đã khẳng định rằng Gap hẳn đã cố tình chọn cách làm bẽ mặt đất nước này với việc chọn bản đồ thay vì chọn cờ cho thiết kế. Có lẽ đó là vì áo thun được in ở Ấn Độ hoặc Đài Loan, họ gợi ý. Các <span id="docs-internal-guid-5de0a9cd-7fff-db91-2507-555a57b5f3f2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cáo buộc</span></span> dày lên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với một công ti có 136 cửa hàng, trong đó có một trung tâm thương mại rộng 1 900 mét vuông trên đường Tây Nam Kinh, Thượng Hải, không mở cửa thậm chí trong một năm, chưa kể 200 nhà thầu phụ sản xuất có trụ sở tại Trung Quốc,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">1</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> rõ ràng hệ lụy là hiển hiện. Thực tế thương mại đòi hỏi công ti phải xin lỗi. Trước khi hết phương cứu vãn, Gap China đã lớn tiếng tuyên bố trong tuyên bố riêng trên Weibo rằng họ 'tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc', rằng chiếc áo thun 'do sai sót không phản ánh đúng bản đồ của Trung Quốc' và rằng công ti ‘chân thành xin lỗi vì lỗi vô ý này'. Những chiếc áo thun đã được thu hồi khỏi các kệ hàng ở Trung Quốc và các cửa hàng trực tuyến ở mọi nơi khác. Những lời đe dọa tẩy chay đã biến mất và những người yêu nước trên Weibo đã tự vỗ về mình vì hoàn thành tốt công việc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những sự cố như vậy ngày càng trở nên phổ biến. Gap không phải là công ti duy nhất gặp rắc rối vì thiếu sót trong việc công nhận các yêu sách chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Tháng 1 năm 2018, chuỗi khách sạn Marriott cũng đã phải xin lỗi sau khi liệt kê Đài Loan và Tây Tạng là hai quốc gia riêng biệt trong một cuộc điều tra ý kiến khách hàng. Cùng lúc đó, một số hãng hàng không nước ngoài liệt kê Đài Loan là một 'quốc gia’ riêng biệt đã buộc phải chỉnh lại trang web của họ. Tháng 3 năm 2019 MAC, thương hiệu mĩ phẩm thuộc sở hữu của Estée Lauder, đã phải xin lỗi sau một email gửi đến khách hàng ở Hoa Kì đã không đưa Đài Loan vào bản đồ của Trung Quốc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">2</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 27 tháng 4 năm 2017, Quốc hội chỉ làm công việc đóng dấu của Trung Quốc đã thắt chặt ‘Luật Khảo Sát và làm Bản đồ’ của đất nước để ‘nâng cao nhận thức của cộng đồng về lãnh thổ quốc gia' bên cạnh nhưng điều khác. Người phát ngôn của Ủy ban Thường vụ Đại hội Nhân dân Toàn quốc, He Shaoren (何紹仁: Hà Thiệu Nhân), nói với các nhà báo rằng việc vẽ sai ranh giới của đất nước 'gây thiệt hại về mặt khách quan cho tính toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của chúng ta'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">3</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 2 năm 2019, chính phủ đã đi xa hơn với các quy định cụ thể về việc in bản đồ trong sách báo ở Trung Quốc nhằm bán ra thị trường nước ngoài. Mỗi bản đồ sẽ đòi hỏi có sự cho phép của các quan chức cấp tỉnh và không bản đồ nào được phép phân phối trong nước. Khả năng một công dân Trung Quốc có thể nhìn thấy một bản đồ thể hiện một phiên bản trái phép các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc được coi là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia đến nỗi nó biện minh cho sự can dự của ‘Nhóm công tác quốc gia chống ấn phẩm khiêu dâm và bất hợp pháp', theo quy định này.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">4</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Để tỏ rõ quan điểm này, vào tháng 3 năm 2019, chính quyền thành phố cảng Thanh Đảo đã cho hủy 29 000 bản đồ tiếng Anh dùng để xuất khẩu vì chúng thể hiện Đài Loan là một quốc gia riêng biệt.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">5</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc còn lâu mới là quốc gia duy nhất lo ngại về biên giới của mình. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là mức độ mà sự lo lắng về những biên giới đó đã trở thành bệnh rối loạn thần kinh cả nước. Các tuyên bố của chính phủ đã <span id="docs-internal-guid-22981696-7fff-6b95-721c-c54aed107287"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">liên kết </span></span>rõ ràng các luật và quy định về làm bản đồ năm 2017 và 2019 với chiến dịch 'giáo dục lòng yêu nước' của nhà nước. Một phần mục đích của họ là hướng dẫn việc giảng dạy học sinh theo cái nhìn đúng đắn về đất nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thông điệp từ giới lãnh đạo quốc gia nhắc nhở một cách ám ảnh người dân rằng cách duy nhất để trở thành một người yêu nước Trung Quốc là nhiệt thành <span id="docs-internal-guid-1d0bcb66-7fff-19f2-3b23-e26d3e194f42"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trong việc đưa</span></span> Đài Loan ‘quay trở lại’ dưới sự kiểm soát của đại lục; kiên định rằng Trung Quốc là chủ sở hữu hợp pháp của mọi đảo đá và san hô ở biển Đông; đòi Nhật Bản giao lại quần đảo Điếu Ngư / Senkaku và kiên quyết các yêu sách chủ quyền tối đa ở dãy Himalaya. Các phương tiện truyền thông chính thức liên tục nhắc nhở công dân về các yêu sách lãnh thổ của nhà nước, khuyến khích họ tự mình gắn bó với những yêu sách đó và nuôi dưỡng cảm giác bị tổn thương và hổ thẹn đối với những tranh chấp biên giới chưa được giải quyết. Sự hoang tưởng về biên giới quốc gia ở Trung Quốc không chỉ là nỗi ám ảnh của những người chơi <span id="docs-internal-guid-3f6b51ae-7fff-32c2-4e3c-f6617125783f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trò chơi</span></span> trực tuyến hay những người yêu nước trên Weibo, mà nó là trọng tâm của chính nhà nước. Các bài phát biểu của Tập Cận Bình nói rõ rằng tầm nhìn của ông về việc phục hưng quốc gia chỉ có thể hoàn thành khi tất cả lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền nằm dưới sự kiểm soát của Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng câu chuyện về việc làm thế nào mà một số vùng lãnh thổ được coi là ‘đúng lẽ’ của Trung Quốc trong khi những vùng khác thì không lại không hề đơn giản. Trong thế kỉ 20, một số khu vực được coi là các bộ phận ‘tự nhiên’ của đất nước, chẳng hạn như là Ngoại Mông, đã bị buông bỏ trong khi những nơi khác đã từng bị từ bỏ, đặc biệt là Đài Loan, lại được đòi phải lấy lại. Khi Đế chế nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911, hầu hết các biên giới của nó chỉ là tưởng tượng hơn là hiện thực. Ngoại trừ một số chỗ, nơi mà các đế quốc Nga, Pháp hoặc Anh đã buộc họ phải xác định.Trong những thập kỉ sau cuộc cách mạng, tầng lớp tinh hoa quốc gia ở Bắc Kinh lần đầu tiên phải 'chỉnh lại' lãnh thổ quốc gia. Đây là một quá trình phải diễn ra trên thực địa nhưng cũng trong trí tưởng tượng của quốc gia. Các bản đồ phải được vẽ nhưng cũng không kém quan trọng là cái nhìn thế giới được thể hiện trên các bản đồ đó phải được khắc sâu vào tâm trí của mọi người. Sự lo lắng về tính dễ bị xâm phạm của những đường biên giới đó đã được cố tình tạo ra ngay từ đầu. Có những lo sợ về các đe dọa từ nước ngoài nhưng cũng có những mơ tưởng bành trướng và những toan tính chính trị. Câu chuyện về việc sáng chế ra lãnh thổ của Trung Quốc hiện đại - và những lo lắng về lãnh thổ - khởi đầu từ một thế kỉ trước, sau chiến tranh và với sự tiếp xúc khoa học địa lí phương Tây. Nó kết thúc bằng việc tái khám phá Đài Loan, việc nó kết nối lại với đất liền và sau đó là việc nó li khai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phần lãnh thổ quan trọng cuối cùng bị triều đình nhà Thanh chính thức từ bỏ đã được kí kết vào ngày 17 tháng 4 năm 1895. Hiệp ước mà Lí Hồng Chương đã đồng ý tại cảng Shimonoseki của Nhật nhượng Đài Loan và quần đảo Pescadore (Bành Hồ) ngoài khơi bờ biển, ‘cho Nhật Bản vĩnh viễn và với chủ quyền trọn vẹn’ (xem Chương 2). Chỉ hơn một tháng sau, quyền tổng đốc đảo này, một người dân đại lục, cùng một số quan chức và thương nhân, tuyên bố độc lập dưới tên 'Cộng hòa Đài Loan' thay vì phục tùng sự cai trị của Nhật Bản. Họ hi vọng sẽ thu hút được sự ủng hộ của Anh và Pháp nhưng người châu Âu không thấy có lợi trong việc can thiệp và nước Cộng hòa này sụp đổ chỉ 11 ngày sau khi được tuyên bố. Tuy nhiên, việc phản kháng vẫn tiếp tục. Phải mất thêm 5 tháng nữa quân Nhật mới chiếm được tất cả các thành phố và 5 năm nữa trước khi t<span id="docs-internal-guid-95573574-7fff-8d54-18f1-5895085c71c4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tàn dư băng đảng cuối cùng </span></span>hoàn toàn bị nghiền nát.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">6</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong suốt chiến dịch kéo dài này, triều đình nhà Thanh <span id="docs-internal-guid-e7917a61-7fff-4f5d-a358-0f41772fda99"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">không chịu</span></span> cung cấp bất kì sự trợ giúp nào cho các thần dân cũ của mình ở tỉnh cũ. Thực tế, sự ủng hộ vật chất cho nước Cộng hòa phản loạn này đã bị cấm một cách rõ ràng bởi một sắc lệnh của triều đình vào tháng 5 năm 1895.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">7</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Số phận của Đài Loan đơn giản là không đủ quan trọng để Bắc Kinh có đánh liều xung đột thêm với Nhật Bản. Nửa thế kỉ sau 'Chiến tranh thuốc phiện' lần thứ nhất, triều đình nhà Thanh đã bị buộc phải chấp nhận tính chất ràng buộc của các hiệp ước quốc tế. Họ đã kí kết từ bỏ các quyền của mình đối với lãnh thổ này và đó là kết cục của nó. Tuy vậy, số phận của Đài Loan đã không trở thành một vụ gây tranh cãi. Mặc dù việc tách hòn đảo ra khỏi thân thể của đại quốc là một đòn mạnh giáng vào uy tín của triều đình, nó hầu như không làm xáo trộn dân chúng nói chung. Quan hệ của đại lục với Đài Loan trong năm 1895, tốt nhất có thể được mô tả là ‘nửa tách rời'. Ngay cả sau khi sáp nhập một phần vào năm 1684, nhà Thanh đã coi đảo này như một chốn biên cương nguy hiểm, chủ yếu là cho thổ dân hoang dã và bệnh tật chết người. Triều đình chỉ tuyên bố nó là một tỉnh 200 năm sau, vào năm 1885, sau cuộc chiến với Pháp. Đài Loan tiếp tục là một tỉnh chỉ trong một thập kỉ, trước khi nó được nhượng cho Nhật tại Shimonoseki.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">8</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi kí kết hiệp ước, các quan chức nhà Thanh gần như hoàn toàn không để ý tới những diễn biến ở Đài Loan. Đảo này bị mất, theo cùng cách mà các mảnh lãnh thổ khác đã bị mất đi qua kí kết các hiệp ước khác. Năm 1858, nhà Thanh đã nhượng 500 000 km² phần đất phía bắc sông Amur cho Nga thông qua Hiệp ước Aigun.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">9</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, thông qua các 'hiệp ước bất bình đẳng khác', họ buộc phải cho phép các cường quốc châu Âu thiết lập các thuộc địa nhỏ quanh bờ biển. Đài Loan dường như đã ra đi theo cùng cách; không có cách nào khả thi để giành giật lại nó khỏi nanh vuốt của Nhật Bản. Khoảng hơn 2 triệu thần dân nhà Thanh trên đảo, chủ yếu là những người nói tiếng Phúc Kiến và tiếng Quảng Đông, cùng với thổ dân, đã trở thành thần dân thuộc địa của Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đáng ngạc nhiên, có lẽ, cùng vô tâm về số phận của Đài Loan cũng là đặc điểm của phong trào cách mạng. Tôn Dật Tiên (Tôn Văn) và các đồng chí của ông không hề đòi trả lại đảo này cho nhà Thanh kiểm soát. Cho đến nay, theo như chúng ta biết, không có lúc nào cá nhân Tôn Văn quan tâm đến việc chống lại sự thống trị của Nhật Bản, mặc dù nó tiếp tục âm ỉ. Đối với Tôn Văn, Đài Loan do Nhật Bản kiểm soát với vai trò là một căn cứ để </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">từ đó </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lật đổ Nhà Thanh thì quan trọng hơn là một bộ phận tương lai của Dân quốc. Chúng ta có thể thấy điều này trong hành vi của ông năm 1900. Năm đó, Tôn Văn rời Nhật Bản và đi vòng quanh Đông Nam Á để tìm kiếm sự ủng hộ cho một cuộc nổi dậy đã được dự tính ở tỉnh Quảng Đông. Ông thất vọng: cả những người theo chủ nghĩa cải cách <span id="docs-internal-guid-ec89ffe6-7fff-8835-5429-cb8625cf903d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kiên định</span></span> lẫn lãnh đạo cộng đồng các địa phương đều không coi trọng ông. Thay vào đó, khi trở lại Nagasaki, ông đã tham gia vào một âm mưu của Nhật Bản nhằm chiếm cảng Amoy (Hạ Môn ngày nay). Dưới sự bảo trợ của Tokyo, Tôn Văn đã đặt trụ sở tại Đài Loan và ra lệnh cho các lực lượng cách mạng của mình tụ tập đông đảo xung quanh căn cứ hậu thuẫn chính của họ ở Quảng Châu. Tuy nhiên, trong một động thái hấp tấp điển hình, Tôn Văn đã thay đổi kế hoạch vào phút cuối, chuyển hướng người tranh đấu đến Amoy, nơi ông dự định tham gia cùng họ với một chuyến hàng vũ khí Nhật Bản. Tuy nhiên, người Nhật đã trở nên lo ngại sẽ kích động phản ứng của Nga và đã rút lại toàn bộ kế hoạch. Lực lượng nổi dậy của Tôn Văn bị cô lập, bị đánh bại và bị tiêu diệt.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">10</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất chấp <span id="docs-internal-guid-2da68cbf-7fff-85d9-f009-1b0466098f98"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> việc bị </span></span>phản bội ở Amoy, Tôn Văn tiếp tục coi chính phủ Nhật Bản là nhà bảo trợ chính của mình, và phong trào cách mạng tiếp tục không chú ý đến vấn đề Đài Loan. Những người cải cách cũng không mấy quan tâm đến đảo này. Khi một nhà hoạt động hàng đầu của Đài Loan, Lin Xiantang (林獻堂: Lâm Hiến Đường), gặp Lương Khải Siêu ở Nhật Bản vào năm 1907, Siêu khuyên ông không nên hi sinh mạng sống để chống lại sự cai trị của Nhật Bản, vì đại lục sẽ không thể giúp đỡ. Do cả hai không ai nói được tiếng của người kia, Siêu phải giao tiếp với Đường qua 'bút đàm'. Điều này chỉ làm cho thông điệp của Siêu trở nên sắc bén hơn: 'Chúng ta) vốn cùng một gốc, nhưng giờ thuộc hai quốc gia khác nhau.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">11</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Triều đình nhà Thanh, các nhà cách mạng và những người theo chủ nghĩa cải cách đều có cùng quan điểm: Đài Loan đã bị nhượng theo hiệp ước và Trung Quốc đã mất nó. Có vẻ đáng chú ý, dù địa vị chính trị của đảo này ngày nay tạo ra sự thu hút, nhưng trên thực tế hòn đảo đã biến mất khỏi các cuộc thảo luận chính trị trong thập kỉ trước cách mạng 1911/12. Ngay cả sau cách mạng, khi Tôn Văn không còn cần đến sự <span id="docs-internal-guid-de5c160c-7fff-01aa-c3cb-0c53a8990eff"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">hậu thuẫn</span></span> của Nhật nữa, ông và những người ủng hộ vẫn tiếp tục phớt lờ số phận của Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi một số nhà cách mạng <span id="docs-internal-guid-1be80459-7fff-4f87-ae6f-f73d73dc6065"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sẵn sàng</span></span> nhượng đi các lãnh thổ ngoại vi của nước Đại Thanh để tạo ra một quốc gia thuần 'Hán' ở trung tâm, thì Tôn Văn và Lương Khải Siêu cùng chia sẻ quyết tâm đảm bảo rằng Dân quốc sẽ kế thừa tất cả lãnh thổ của đế chế cũ. Các khu vực ‘không-Trung Hoa’ (Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương) chiếm hơn một nửa lãnh thổ và chứa các tài nguyên thiên nhiên quan trọng. Nhưng để bày tỏ mong muốn bảo vệ lãnh thổ quốc gia, Văn, Siêu và những người ủng hộ họ đã phải tạo ra những từ mới để mô tả nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có một số từ chỉ 'nơi chốn' trong tiếng Trung, nhưng không có từ nào có nghĩa là lãnh thổ, với hàm ý có quyền sở hữu và chủ quyền. Từ truyền thống là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiangyu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(疆域: cương vực), có nghĩa đen là ranh giới (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiang / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">疆) của bờ cõi vương quốc (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yu / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">域: vực). Trong thời các vương triều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vực</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trải ra xa cùng mức với quyền lực của hoàng đế và vì vậy, trên lí thuyết, ít nhất có thể bao gồm cả các nước triều cống và chư hầu.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">12</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ý nghĩa của nó rất mơ hồ và chắc chắn không hàm ý sự tồn tại của một biên giới xác định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một từ mới cho 'lãnh thổ' đi vào tiếng Trung từ tiếng Nhật, đặc biệt là từ bản dịch tiếng Nhật của một văn bản của nhà xã hội học người Anh-Darwin Herbert Spencer (xem Chương 3). Trong bản dịch năm 1883 cuốn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Political Institutions,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thể chế chính trị</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Spencer</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sadashiro Hamano đã chọn hai </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kanji ryo-do </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- nghĩa đen là ‘vùng đất được cai quản’ - tương đương với 'lãnh thổ'. Là hiệu trưởng của Đại học Keio, Hamano là một nhân vật có thẩm quyền và cách dịch của ông nhanh chóng lan truyền thành cách dùng phổ biến. Mười lăm năm sau, khi Lương Khải Siêu dịch cuốn tiểu thuyết </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc gặp gỡ kì lạ với những người phụ nữ xinh đẹp </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Tokai Sanshi từ tiếng Nhật sang tiếng Trung cho tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qingyibao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(清議報: Thanh Nghị báo)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ông đã cũng sử dụng hai chữ này</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">13</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong tiếng Trung cổ điển, chúng được phát âm là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ling-tu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(領土: lãnh thổ) nhưng có cùng một nghĩa - 'vùng đất được cai quản’. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">do đó mang nghĩa rõ ràng của một đất nước có chủ quyền, nằm trong một biên giới xác định.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó, từ này được một trong những môn đồ của Tôn Dật Tiên là Hồ Hán Dân tiếp thu. Một trong những vai trò của Dân trong phong trào cách mạng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là cung cấp những biện giải lí thuyết cho các chính sách của Tôn Văn.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">14</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dân giải thích về những hàm ý chính trị của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong một bài báo dài (‘Tinh cảm bài ngoại và Luật quốc tế- </span><span face="Roboto, sans-serif" style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">排外與國際法</span><span face="Roboto, sans-serif" style="font-size: 13.5pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">:</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bài ngoại dự quốc tế pháp), được in trên một số ấn bản của tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dân báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> của những người cách mạng trong suốt năm 1904 và 1905. Ông đã <span id="docs-internal-guid-1a24dd55-7fff-8630-2fc4-653b4d5f12f4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lập </span></span>luận rằng chủ quyền lãnh thổ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu zhuquan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(領土主權) - là nền tảng của luật quốc tế và rằng, về mặt logic, các nhà cách mạng cần phản đối các 'hiệp ước bất bình đẳng' do các thế lực nước ngoài đòi hỏi. Ý tưởng của Dân - và những từ mới của ông - phần lớn dựa trên cuốn sách 1 000 trang của một học giả pháp lí Nhật, Takahashi Sakue, có tựa đề </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Luật quốc tế trong thời bình </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, được xuất bản năm trước. Cuốn sách của Takahashi, bản thân nó lại là tóm lược của một số tác phẩm phương Tây được in trong vài thập kỉ trước đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">15</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nói cách khác, niềm đam mê lãnh thổ mới được tìm thấy của phong trào cách mạng là hậu duệ trực tiếp của các thuyết dân tộc chủ nghĩa châu Âu cuối thế kỉ 19.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế hệ con cháu của bậc tổ tiên Âu Á này nổi lên trong các cuộc tranh luận về hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) một thập kỉ sau đó. 'Hiến pháp lâm thời' do các đồng minh của Tôn Dật Tiên viết ngay sau cuộc cách mạng và được tổng thống mới được dựng lên, Viên Thế Khải, phê duyệt vào ngày 11 tháng 3 năm 1912, đưa ra chi tiết tương đối chính xác cái mà nó tin lãnh thổ của Dân quốc phải là gì. Trên thực tế, hiến pháp này nói rằng nhà nước mới kế thừa các ranh giới của Đại Thanh quốc như còn đứng vững khi cách mạng nổ ra. Điều 3 chỉ đơn giản nói rằng “Lãnh thổ của THDQ bao gồm 22 tỉnh, Nội và Ngoại Mông, và Tây Tạng.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">16</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Việc lựa chọn '22' tỉnh là rất có ý nghĩa vì Đài Loan là tỉnh thứ 23. Biết rằng lời văn trong hiến pháp vẫn còn đưa ra yêu sách đối với Ngoại Mông, <span id="docs-internal-guid-f8845238-7fff-7795-9ae6-e92ef5eb9d09"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bất chấp nó đã</span></span> tuyên bố độc lập ba tháng trước đó, đối với Tây Tạng bất chấp cuộc nổi dậy đang diễn ra ở đó, và đối với Tân Cương bất chấp nó độc lập trên thực tế vào thời điểm đó, điều này dường như là bằng chứng rõ ràng rằng Dân quốc đã chính thức từ bỏ mọi yêu sách với Đài Loan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1914, khi Viên Thế Khải, cựu tướng lãnh nhà Thanh, người đã buộc Tôn Dật Tiên từ chức vào năm 1912, ban hành một ‘Hiệp ước Hiến pháp’ mới cho đất nước, định nghĩa về lãnh thổ quốc gia đã được thay đổi. Điều 3 trở thành sự lặp lại rõ ràng là dư thừa 'Lãnh thổ [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">] của THDQ vẫn giữ nguyên như cương vực [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiangyu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">] của đế chế cũ.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">17</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Dù có các từ mới, định nghĩa hiến pháp năm 1914 về lãnh thổ đơn giản là tránh né một câu hỏi khác về mức độ chính xác của cương vực đế chế cũ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi Viên Thế Khải mất năm 1916, Hiệp ước bị đình chỉ và hiến pháp đầu tiên được khôi phục lại. Vì vậy, từ ngày 29 tháng 6 năm 1916, định nghĩa về lãnh thổ quốc gia trở lại như trước với '22 tỉnh, Nội và Ngoại Mông, Tây Tạng và Tân Cương'. Nhưng 7 năm sau đó, Dân quốc đã quay trở lại sự lặp lại. Hiến pháp được phê duyệt vào ngày 10 tháng 10 năm 1923 đã thay thế Điều 3 bằng dòng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chữ ' </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lãnh thổ [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guotu / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">國土- quốc thổ, nghĩa đen là ‘đất quốc gia’] của THDQ dựa trên cương vực [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiangyu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">] vốn có của nó'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">18</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một lần nữa, không có định nghĩa nào về lãnh thổ hoặc cương vực được đưa ra. Tám năm sau đó, 'Hiến pháp lâm thời' mới do chính phủ Tưởng Giới Thạch (TGT) ban hành vào ngày 1 tháng 6 năm 1931 đã tạo ra một thỏa hiệp. Điều 1 kết hợp sự mơ hồ và tính cụ thể với việc nêu rằng , ‘Lãnh thổ [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">] của THDQ bao gồm các tỉnh khác nhau cùng Mông Cổ và Tây Tạng’,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">19</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nhưng số tỉnh để ngõ không xác định. Đến năm 1931, Thanh Hải đã bị buộc phải tái hợp nhất vào đất nước trong tư cách một tỉnh. Mông Cổ và Tây Tạng đã độc lập với Dân quốc trong gần hai thập kỉ cho đến thời điểm này nhưng TGT vẫn tuyên bố chủ quyền. Đáng chú ý, Đài Loan vẫn không được xét tới. Bản hiến pháp cuối cùng của Dân quốc được ban hành trước cuộc nội chiến thậm chí không cố đưa ra định nghĩa lãnh thổ quốc gia. Bản được thông qua ngày 25 tháng 12 năm 1946 chỉ nói, ở Điều 4, rằng ‘Lãnh thổ của THDQ theo ranh giới quốc gia hiện có sẽ không bị thay đổi trừ khi có nghị quyết của Quốc hội. '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">20</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 413px; overflow: hidden; width: 273px;"><img height="413" src="https://lh4.googleusercontent.com/7SbQEtQtM2giqRZowIxIKAIEPzO3MI7-QRhv9eMtgKgGnmrdW4FCianMDZuAVP3VNnCmIaE8Zyc8CjyPSU9yBKzdXDKgfZ0FZqq6l-EQ8re3GpNTRjUVpbbQXKl-N6H04vzOiQ2K" style="margin-left: -348px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-41f3cd05-7fff-ce35-026d-601bd25524a4"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: #192a00; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">17. Tôn Dật Tiên (ngồi) với Tưởng Giới Thạch trẻ, người mà ông vừa bổ nhiệm làm Chỉ huy Học viện Quân sự Whampoa (Hoàng Phố), đứng ngay sau ông, năm 1924.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc tiến đi lùi lại trong hiến pháp này cho thấy rằng trong suốt thời kì này và thậm chí về sau, có một khó khăn đáng kể trong việc quyết định chính xác ranh giới đất nước nên được vạch ra ở đâu. Một số câu hỏi cơ bản cần được trả lời trước tiên, chủ yếu là: đâu là ranh giới của nước Đại Thanh mà THDQ được kế thừa bề ngoài vào năm 1912? Những người <span id="docs-internal-guid-60a0c046-7fff-c05e-9fc6-21e77458bea2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">canh tân</span></span> hóa Quốc dân đảng nghĩ rằng có một câu trả lời đơn giản cho câu hỏi đó dựa trên quan điểm về biên giới mà họ có được thông qua tiếp xúc với các cường quốc và chuyên gia nước ngoài. Thực tế không hề đơn giản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trên thực tế, Đại Thanh quốc đã dựng nên một liên bang đa sắc tộc, trong đó năm ‘khu vực chữ viết’ - Trung, Mãn, Mông, Tạng và Thổ - được cai trị riêng biệt thông qua các cấu trúc khác nhau và theo các quy tắc khác nhau. <span id="docs-internal-guid-78f4b20c-7fff-ab4b-0e4d-b28b082ddfc9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Đó là một cách tiếp cận được biết trong tiếng Trung</span></span> là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jimi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (羈糜: ki mi) - kiềm chế lỏng lẻo (lỏng cương) - mặc dù các phương pháp cai quản của nhà Thanh sẽ thay đổi tùy thuộc vào dân tộc mà họ đang đối phó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">21</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, sứ mệnh của những nhà cách mạng như Tôn Dật Tiên là tạo ra một quốc gia-dân tộc thống nhất duy nhất được cai trị từ trung ương thông qua một bộ cơ cấu và quy tắc duy nhất. Như chúng ta đã thấy ở Chương 5, Viên Thế Khải, người đã lên nắm quyền thông qua hệ thống đế quốc cũ, quen thuộc với các kĩ thuật cai trị truyền thống hơn là với những ý tưởng mới của những người theo Quốc dân đảng Tây học. Bản năng bảo thủ đã khiến ông hướng tới một định nghĩa ‘mù mờ’ hơn về nhà nước, trong khi việc các nhà <span id="docs-internal-guid-cd7f79c6-7fff-f1b8-96a6-a4abd2491b81"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">canh tân hoá</span></span> tìm kiếm sự rõ ràng về câu hỏi có tính quốc gia này đã <span id="docs-internal-guid-72f623b3-7fff-8b46-6e44-fac95268bc36"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dẫn họ đi</span></span> tìm kiếm điều gì đó chính xác hơn. Nhưng họ càng cố áp đặt sự thống nhất lên những người cai trị địa phương mạnh mẽ thì các lãnh chúa càng li khai, gây ra sự cát cứ của chính quốc gia mà họ đang cố gắng thống nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đế chế Thanh chỉ chính thức xác định biên giới của mình ở những nơi mà nó bị các cường quốc khác buộc phải làm như vậy: từ Hiệp ước Nerchinsk năm 1689, đã vạch một đường ranh giới với Nga ở phía đông bắc, đến Hiệp ước năm 1894 với Vương quốc Anh, phân định một phần ranh giới với Miến Điện ở phía tây nam.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">22</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ở nơi khác, tình hình còn xa mới rõ ràng: ranh giới của cương vực - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiangyu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> - trải dài đến đâu? Vào cuối thời hoàng đế Càn Long năm 1796, triều đình nhà Thanh đã nhận triều cống từ 13 vị vua có lãnh thổ nằm xa hơn về phía tây ngoài tỉnh Tân Cương và cũng từ vua Gurkha bên ngoài Tây Tạng dù không có vị vua nào nằm dưới sự cai trị của nhà Thanh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">23</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Như vậy, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cương vực </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có bao gồm các nước này không? Mặt khác, ngay cả bên trong cương vực nhà Thanh, triều đình đã thực thi quyền kiểm soát đối với các vùng xa xôi có dân cư thưa thớt thông qua những người cai trị địa phương mà quyền kiểm soát riêng và lòng trung thành của họ không phải là tuyệt đối. Ví dụ, khu vực Kham (康: Khương) ở phía đông Tây Tạng, từ lâu đã được cai trị bởi các thủ lĩnh tự trị mà trên danh nghĩa dưới quyền của những vị vua đóng đô tại Lhasa (拉薩: Lạp Tát) và thông qua họ, dưới quyền của hoàng đế ở Bắc Kinh thậm chí càng trên danh nghĩa hơn.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">24</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Mặc dù các quan chức nhà Thanh đóng ở một vài nơi chiến lược, nhưng nhiều khu vực rộng lớn không được giám sát. Một chiến dịch quân sự nhằm áp đặt quyền cai trị trung ương đối với Khương vào các năm 1745/6 là một thất bại đắt giá. Quy tắc '<span id="docs-internal-guid-0aef7ff5-7fff-aaa6-8bf5-c0350df0e931"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lỏng cương</span></span>' đã được khôi phục.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, chúng ta sẽ thấy những nỗ lực của nhà Thanh nhằm kiểm soát khu vực trung tâm châu Á trong thế kỉ 19 không phải là những nỗ lực để bảo vệ lãnh thổ của họ khỏi sự săn đuổi của người ngoài mà là những động thái cạnh tranh không ngừng (một 'cuộc cờ lớn') giành nhau lãnh thổ và ảnh hưởng giữa 3 đế quốc: nhà Thanh từ phía đông, Nga từ phía bắc và phía tây và Anh từ Ấn Độ ở phía nam. Trong suốt thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, cả ba đều <span id="docs-internal-guid-a18f89a1-7fff-494b-b31f-adb30de5219a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tranh </span></span>nhau để giành lấy sự ủng hộ hoặc thống trị đối với hàng chục nhà cai trị địa phương, lãnh chúa và các loại lãnh đạo khác - tinh thần và thế tục. Chúng ta có thể thấy một tác động của sự cạnh tranh gia tăng này trong việc thay đổi nghĩa của từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bianjiang </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(邊疆: biên cương) trong tiếng Trung. Nhà sử học James Leibold ở Australia đã chỉ ra cách thức mà nó được dùng để chỉ khu vực trung gian giữa hai quốc gia vào thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ 19, ở một số nơi, nó có nghĩa là đường vạch của một biên giới xác định.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">25</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Triều đình Mãn Thanh, những người kế thừa truyền thống thống cai trị Nội Á, đã biết cách chơi cuộc cờ này. Họ có quan hệ với các dân tộc Nội Á khác trải ngược về nhiều thế hệ trước. Tuy nhiên, nước Dân quốc mới đang cố gắng áp đặt một trật tự chính trị hoàn toàn khác dựa trên khuôn mẫu của phương Tây về chủ quyền và biên giới cứng. Các nhà lãnh đạo của nó có nghĩa vụ phải tìm ra câu trả lời cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bianjiang wenti </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(邊疆問題: biên cương vấn đề) - câu hỏi về biên giới. Họ phải 'chỉnh' lãnh thổ quốc gia thế nào khi quốc gia đang trong quá trình tan rã? Nhưng <span id="docs-internal-guid-f7ce8488-7fff-2597-1be7-0d56dafbb5e0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cũng có</span></span> một câu hỏi lớn hơn: làm sao quốc gia mới có thể khiến người dân của mình cảm thấy trung thành với nhau và với những nơi mà họ chưa từng thấy, gần như chắc chắn sẽ không bao giờ đến nhưng vẫn được cho là quan trọng đối với sự tồn vong của quốc gia? Cả hai nhiệm vụ này được đưa ra cho một lớp các nhân tố mới đặc biệt: các nhà địa lí.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người được coi là cha đẻ của ngành địa lí học hiện đại ở Trung Quốc là con út trong gia đình có 6 người con ở ngoại ô Shaoxing (紹興: Thiệu Hưng), một thành phố nổi tiếng với rượu gạo ở cửa sông Qiantang (錢塘: Tiền Đường), phía nam Thượng Hải. Đất đai và thị trường giàu có của vùng châu thổ sông rất tốt cho gia đình Zhu Kezhen (竺可桢: Trúc Khả Trinh). Tổ tiên đã làm ruộng qua nhiều thế hệ, nhưng khi các thành phố ven biển mở rộng và số lượng đô thị tăng lên, cha của Khả Trinh nhận ra rằng làm một <span id="docs-internal-guid-dfa475ba-7fff-a770-b602-8bd3ae1f98d6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">người buôn bán</span></span> sẽ có một cuộc sống tốt hơn hơn là làm một người trồng lúa. Đến năm 3 tuổi, Khả Trinh đã trở thành đứa con cưng của cha mẹ. Trong khi các anh chị em của anh chuẩn bị cho cuộc sống lao động chân tay, Khả Trinh lại được hướng tới việc theo đuổi trở thành trí thức. Anh được gửi đến một trường tư thục ở Thượng Hải, cách đó 150 km, và sau đó thậm chí xa hơn về phía bắc, đến Thiên Tân, để theo học trường Cao đẳng hầm mỏ Tangshan (唐山: Đường Sơn).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">26</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Được hưởng lợi từ những thuận lợi tự nhiên của môi trường địa phương của mình và sự bùng nổ kinh tế của vùng ven biển, Trúc Khả Trinh sau đó lại nhận được cơ may từ chính trị quốc tế. Sau cuộc nổi dậy năm 1900 được phương Tây gọi là loạn Boxer (Quyền phỉ), chính quyền nhà Thanh đã buộc phải bồi thường 450 triệu lượng bạc cho các cường quốc phương Tây. Chính phủ Hoa Kì đã đòi 25 triệu đô la, một số tiền mà ngay cả các nhà ngoại giao của chính họ ở Bắc Kinh cũng coi là quá đáng - có lẽ gấp đôi so với thiệt hại thực tế mà công dân Hoa Kì và chính phủ của họ đã gánh chịu trong bạo lực. Trong suốt những năm 1900, áp lực đã gia tăng đối với chính quyền của Theodore Roosevelt phải làm gì đó để giảm bớt gánh nặng nợ nần chồng chất lên chính quyền nhà Thanh. Đến năm 1909, một thỏa hiệp xuất hiện: khoản vượt quá, khoảng 11 triệu đô la, được đưa vào một quỹ để chi trả cho việc học tập của sinh viên Trung Quốc. Điều này được cho là sẽ có lợi cho cả sinh viên Trung Quốc và các trường đại học Mĩ trong khi cũng chuyển hướng các thành viên tương lai của tầng lớp thượng lưu Trung Quốc <span id="docs-internal-guid-d878ad65-7fff-2594-6c51-8671509e2829"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ra khỏi </span></span>Nhật Bản và hướng về Hoa Kì.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">27</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Một trong những người đầu tiên được chuyển hướng là Trúc Khả Trinh, người thứ 28 nhận được Học bổng Bồi thường Quyền phỉ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1910, ở tuổi 20, Khả Trinh đến Đại học Illinois để theo học ngành nông học. Nhưng ông đã không đến Hoa Kì để trở thành một nông dân giỏi hơn. Ông muốn trở thành một nhà khoa học và sau khi nhận bằng, ông đã đăng kí học tiến sĩ khí tượng học tại Harvard. Tại đó, người <span id="docs-internal-guid-07802aa1-7fff-4e95-c228-e81786321e24"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">giám sát</span></span> ông là Robert DeCourcy Ward, giáo sư khí hậu đầu tiên của Mĩ. Tuy nhiên, tầm nhìn của Ward rộng hơn thời tiết rất nhiều. Năm 1894, ông đồng sáng lập Liên đoàn Hạn chế Nhập cư và các ý kiến học thuật của ông kết hợp khí tượng học với thuyết ưu sinh: ông tin rằng khí hậu quyết định văn minh. Ông khẳng định rằng trong mùa màng của vùng ôn đới của hành tinh ‘có nhiều điều bí mật, ai có thể nói có bao nhiêu về nó? - về năng lượng, tham vọng, sự tự lực, công nghiệp, sự tiết kiệm, về cư dân.’ Ngược lại, ở vùng nhiệt đới, khí hậu đang hoạt động mạnh mẽ, và 'tiến bộ tự nguyện về hướng một nền văn minh cao hơn là không hợp lí để mong đợi.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">28</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Kết quả là theo quan điểm của Ward, hoàn toàn chính đáng cho người da trắng từ vùng ôn đới đến phát triển các vùng nhiệt đới trên quả đất, thậm chí với lao động nô lệ nếu cần thiết. Ông đặc biệt ấn tượng với khả năng lao động ‘cu li’ của người Trung Quốc trong mọi điều kiện. Khả Trinh nhiệt tình tiếp nhận tất cả các lí thuyết này, lấy được Tiến sĩ và trở về Trung Quốc vào năm 1919 để trở thành giáo sư địa lí đầu tiên tại Đại học Sư phạm Vũ Xương, chuyển đến Đại học Sư phạm Đông Nam ở Nam Kinh vào năm sau.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">29</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Nam Kinh, ông đã truyền lại những ý tưởng này cho thế hệ các nhà địa lí Trung Quốc thứ hai, những người sẽ dành cả sự nghiệp để giúp xây dựng nhà nước mới. Theo lời của một nhà sử học thời kì này, Zhihong Chen (陈志宏: Trần Chí Hoành), 'Ảnh hưởng của Ward thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm của Khả Trinh.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">30</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Thuyết quyết định về môi trường của giáo sư người Mĩ đã đưa ra một cơ sở khoa học mới cho sự phân biệt chủng tộc của người Hán thịnh hành thời bấy giờ và giúp thiết lập các thông số cho ngành địa lí mới nổi. Theo Khả Trinh, Vĩ độ ôn đới của TQ đã ban cho người dân nước này (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo-ren</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: TQ nhân) màu da trung gian và khả năng thích nghi mạnh mẽ bất thường với mọi loại môi trường. Theo lí luận của ông,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những người quen với khí hậu nhiệt đới không thể chịu đựng được mùa đông ở vùng ôn đới ... Những người đã quen với khí hậu ôn đới không thể chịu được thời tiết nhiệt đới hoặc lạnh giá ... Nhưng người Trung Quốc chúng ta là một ngoại lệ! Bất kể môi trường nóng hay lạnh mức náo, ở đó có dấu chân của người Trung Quốc. ... Khi đào Kênh Panama, chỉ có người Trung Quốc chúng ta tiếp tục làm việc không mệt mỏi và hiệu quả, khi công nhân nước ngoài thậm chí không thể làm việc được. Chính vì vậy người nước ngoài gọi người Trung Quốc là ‘hiểm họa da vàng.’ Đây cũng là một tia nắng ban mai cho người Trung Quốc chúng ta trong tương lai!</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số nhiều sinh viên của Khả Trinh tại Nam Kinh trong những năm 1920 có Zhang Qiyun (thường được ghi là Chang Chiyun / 張其昀: Trương Kì Quân). Trong ba thập kỉ sau đó, Quân sẽ nhân hóa việc tìm kiếm lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc. Quân sẽ giúp xác định nó, tuyên truyền nó, khảo sát nó, tư vấn cho chính phủ về việc bảo vệ nó nhưng sau đó, cuối cùng, trốn khỏi nó. Trong quá trình học tập và sau đó là sự nghiệp chính trị, ông sẽ đặt những hiểu biết của mình vào việc phục vụ cuộc đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trong quá trình này, ông đã ràng buộc số phận của mình và của các ông chủ chính trị của mình, với Đài Loan.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">31</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trương Kì Quân tham dự lớp học địa lí đầu tiên của Trúc Khả Trinh vào năm 1920. Ba năm sau anh tốt nghiệp và gia nhập vào đội ngũ Báo chí Thương mại ở Thượng Hải, nơi anh của một trong những người bạn học của anh là một biên tập viên đã thành danh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">32</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Biên tập viên Chen Bulei (陳步磊: Trần Bố Lôi) cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị dân tộc chủ nghĩa. Cùng với nhau, Quân, Lỗi và Trinh tạo thành một nhóm có ảnh hưởng ở nơi giao thoa giữa học thuật, báo chí và tuyên truyền. Cùng nhau, bộ ba này đã đưa địa lí vào trung tâm của tư duy chính trị Trung Quốc và đưa nó phục vụ cho của sứ mệnh dân tộc chủ nghĩa của Quốc dân đảng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân đã dành bốn năm tiếp theo để viết sách giáo khoa địa lí được sử dụng trong hầu hết các trường học ở Trung Quốc <span id="docs-internal-guid-8d8c9185-7fff-37e2-010b-7243ee7df7a0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cuối thập niên</span></span> 1920 và sau đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">33</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hồi kí của ông cho thấy Trinh là người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nội dung sách. Sau đó, Trần Bố Lôi trở thành biên tập tờ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shangbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(商報 : Thương báo), ông đã mời Quân viết bình luận về các chủ đề địa lí. Năm 1927, theo đề nghị của Trinh, Quân được bổ nhiệm làm giảng viên địa lí tại Đại học Trung ương ở Nam Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mười năm tiếp theo, 'thập niên Nam Kinh', là khoảng thời gian có nhiều thay đổi sâu sắc trong cả chính trị lẫn hệ thống giáo dục của THDQ. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc dân đảng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chiếm được Nam Kinh và Thượng Hải vào tháng 3 năm 1927 và trong vòng 18 tháng, đảng này đã nắm quyền kiểm soát cả nước </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">trên danh nghĩa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Với việc TGT được đưa lên làm chủ tịch, Chính phủ Quốc dân đảng bắt đầu áp đặt cách nhìn thống nhất quốc gia của họ lên đất nước: cách nhìn nghiêng về ý tưởng của Tôn <span id="docs-internal-guid-158593fb-7fff-cb55-8095-15ee47ec6979"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Dật Tiên</span></span> về một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa dân tộc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thuần nhất hơn là dung nạp sự khác biệt của Viên Thế Khải. Hệ tư tưởng về ‘đất nước của năm chủng tộc’, vốn đã định hướng cho quốc gia từ năm 1912, đã bị bãi bỏ. Vào ngày 29 tháng 12 năm 1928, như một dấu hiệu của ý định, quốc kì chính thức được thay đổi từ các sọc màu của 'năm chủng tộc', đã treo từ khi Dân quốc ra đời, thành một lá cờ đỏ với hình lá cờ ban đầu 'Bầu trời xanh, Mặt trời trắng' của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được Tôn <span id="docs-internal-guid-158593fb-7fff-cb55-8095-15ee47ec6979"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Dật Tiên</span></span> ưa thích đặt ở góc trên trái. Nó vẫn là lá cờ của THDQ (ở Đài Loan) cho đến ngày nay. Chủ nghĩa dân tộc mới này đã xác định toàn bộ cách tiếp cận của THDQ đối với vấn đề biên giới và tình cảnh của các dân tộc thiểu số sống ở các khu vực biên giới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo cách nhìn của chính phủ mới, biên giới phải được ‘cứu’ bằng cách đảm bảo rằng cư dân của nó trở thành những công dân trung thành của THDQ. Mặc dù đâylà được cho là kỉ nguyên ‘tự quyết’ - Tổng thống Hoa Kì Woodrow Wilson đã tuyên bố phải như vậy vào năm 1918 - Quốc Dân đảng không có ý định đưa ra sự lựa chọn như thế cho cư dân Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ hay Mãn Châu. Trong mắt họ, quyền tự quyết được dành cho dân tộc Trung Hoa trong cuộc đấu tranh chống các thế lực ngoại bang. Đó không phải là cuộc tranh luận học thuật đơn thuần mà là một cuộc đấu tranh một mất một còn, vì một trong những <span id="docs-internal-guid-10ee29df-7fff-67a0-e288-c7015ef93432"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thế lực</span></span> đó, Nhật Bản, đã triển khai lập luận 'quyền tự quyết' cho sự cáo chung đế quốc của họ. Các quan chức Nhật Bản nêu bật sự khác biệt về sắc tộc bên trong nước Đại Thanh để lập luận rằng những nhóm đó có quyền tự quyết và li khai khỏi một nước Dân quốc do người Hán thống trị. Họ tuyên bố sẽ đề cao nguyên tắc này vì trên thực tế, họ đã sáp nhập Mãn Châu vào năm 1931 và khuyến khích sự li khai ở Mông Cổ và Tân Cương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong hoàn cảnh đó, Quốc dân đảng đã biến việc nghiên cứu lịch sử và địa lí thành vũ khí. Năm 1928, Giám đốc Bộ Tuyên truyền của chính phủ Nam Kinh, Dai Jitao (戴季陶 : Đái Quý Đào - kiêm hiệu trưởng Đại học Trung Sơn ở Quảng Châu), đã kêu gọi thành lập khoa địa lí ở tất cả các trường đại học lớn của đất nước, cho rằng chúng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quốc gia. Khoa địa lí đầu tiên được thành lập vào năm 1929 tại Đại học Trung ương, nơi Trương Kì Quân đã là thành viên. Trong 8 năm sau đó, các khoa địa lí đã được thành lập tại 9 trường đại học lớn khác. Hầu hết trong số đó <span id="docs-internal-guid-e856eea4-7fff-b0ae-4f94-60dc1e73aac7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đều có giảng viên</span></span> là các học sinh cũ của Trúc Khả Trinh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">34</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sinh viên tốt nghiệp các khoa này được dành riêng để phục vụ nhà nước và công tác biên giới. Nhà sử học Trung Quốc Ge Zhaoguang (葛兆光: Cát Triệu Quang) đã mô tả thời kì này trong học thuật là 'cứu quốc áp đảo khai sáng’ (jiuwang yadao qimeng / 救亡壓倒啟蒙: cứu vong áp đảo khải mông). Nhiều chuyên gia đã dùng những năm 1920 để nghiên cứu sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc và lịch sử còn tranh cãi của biên giới đất nước hoặc thay đổi quan điểm công khai của họ hoặc đi vào im lặng vào cuối những năm 1930, khi mối đe dọa từ Nhật Bản ngày càng gia tăng. Họ bao gồm các nhà địa lí, sử gia và nhân chủng học nổi tiếng như Liu Yizheng (柳詒徵: Liễu Di Trưng), Gu Jiegang (顧頡剛: Cổ Hiệt Cương) và Fei Xiaotong (費孝通: Phí Hiếu Thông). Họ, và những người khác, đã chọn 'cứu quốc' trước ‘khai sáng.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">35</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến năm 1927, giáo dục phổ thông đã được giới tinh hoa địa phương kiểm soát và rất đa dạng về nội dung và chất lượng. Ngay cả trước khi họ nắm quyền trên cả nước, giới lãnh đạo Quốc dân đảng đã nhận ra tầm quan trọng của giáo dục trong nỗ lực xây dựng quốc gia mới. Hội nghị toàn đảng lần thứ tư vào tháng 1 năm 1928 tuyên bố rằng ‘giáo dục thực sự là vấn đề sống còn đối với công dân Trung Quốc’ và phải đóng một vai trò trung tâm trong cuộc chiến của đảng chống lại các ‘hệ tư tưởng sai trái’ (chẳng hạn như chủ nghĩa cộng sản).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">36</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Vài tháng sau, vào tháng 5 năm 1928, ngay sau khi thành lập 'Chính phủ quốc gia của Quốc dân đảng ở Nam Kinh, đảng đã triệu tập 'Hội nghị giáo dục toàn quốc lần thứ nhất'. Hội nghị quyết định thông qua một chương trình giảng dạy quốc gia mới cho các trường học dựa trên ‘nguyên tắc Tam Dân’ của Tôn Dật Tiên: Dân tộc, Dân chủ và Dân sinh. Trong vòng vài tháng, Quốc dân đảng đã chiếm được Bắc Kinh và rất nhanh chóng bắt đầu áp dụng một 'chương trình giảng dạy tạm thời' mới trên toàn quốc. Từ năm 1929 tất cả các trường học được kì vọng sẽ khơi dậy cho học sinh tình cảm yêu nước mãnh liệt, đặc biệt được huy động thông qua việc giảng dạy lịch sử và địa lí.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">37</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Học sinh được <span id="docs-internal-guid-4eeaf254-7fff-a28a-eb65-46a68c45af58"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kì vọng</span></span> học tập các vùng miền của đất nước, ‘để bồi dưỡng tinh thần dân tộc.’</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một đóng góp lớn cho phong trào giáo dục yêu nước này là loạt sách giáo khoa do Trương Kì Quân viết. Năm 1928, Tạp chí Thương mại đã xuất bản một cuốn sách có tên là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Benguo Dili </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(本國地理: Bản quốc Địa lí) – 'Địa lí nước ta'. Thông điệp chính của nó là Trung Quốc đã hình thành một đơn vị tự nhiên dù có kích cỡ khổng lồ và đa dạng . Sử dụng sự đào tạo về địa lí của mình, Quân chia đất nước thành 23 vùng tự nhiên dựa trên môi trường và cách sống của cư dân. Sau đó, ông so sánh chúng và nói với các học sinh rằng, chẳng hạn, đồng bằng sông Dương Tử là tốt cho trồng trọt nhưng không có khoáng sản; Sơn Tây giàu than nhưng lại quá khô hạn cho nông nghiệp; Mãn Châu có nhiều rừng trong khi Mông Cổ tốt cho chăn nuôi, v.v. Sau đó, ông nói với các học viên trẻ rằng sự đa dạng này thực sự là bằng chứng về sự cần thiết phải thống nhất đất nước, vì mỗi phần khác nhau là một phần thiết yếu của một tổng thể cố kết.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">38</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, ‘tổng thể’ mà Quân miêu tả trong sách giáo khoa là một lãnh thổ mà trên thực tế không hề tồn tại. Cuốn sách chứa nhiều bản đồ khác nhau của đất nước được vẽ trên nền trống để phần còn lại của thế giới biến mất khỏi tầm nhìn. Đường vạch đen đơn chỉ ranh giới quốc gia bao gồm những khu vực rộng lớn không thực sự nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ: các quốc gia độc lập Mông Cổ và Tây Tạng. Tuy nhiên, Quân mô tả chúng như một phần tự nhiên của Dân quốc. Thực tế sẽ được làm tương thích như thế nào với bản đồ không được giải thích với học sinh. Đáng chú ý, với quan điểm chính trị hiện nay, có một thiếu sót <span id="docs-internal-guid-bf797796-7fff-bdda-1e22-6a2606bda1b8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lớn</span></span>: Đài Loan không được vẽ trong bất kì bản đồ quốc gia nào trong sách giáo khoa. Có vẻ như, theo quan điểm của Quân, hình dạng 'tự nhiên' của nước Cộng hòa giống hệt như hình dạng của Đế chế nhà Thanh khi nó sụp đổ vào năm 1911. Mông Cổ được bao gồm vào, còn Đài Loan thì không. Các đảo đá và rạn san hô ở biển Đông hoàn toàn không được thể hiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây không phải là những ý tưởng bên lề; cuốn sách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản quốc Địa lí </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Quân đã có tác động rất lớn. 10 ấn bản đã được in trước tháng 7 năm 1930, thêm 7 ấn bản nữa in sau năm 1932 và nó được tôn vinh là một trong ba cuốn sách giáo khoa quan trọng nhất của đất nước vào thời điểm đó.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">39</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nó còn xa mới là ví dụ duy nhất. Hàng chục sách giáo khoa địa lí đã được in trong những năm 1920 và 1930 và tất cả đều không tính đến Đài Loan, trong khi lại nhấn mạnh tầm quan trọng của Mông Cổ và Tây Tạng. Bản thân Quân, trong một cuốn sách giáo khoa khác do ông tham gia viết vào năm 1933, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Waiguo Dili </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(外國地理: Ngoại quốc Địa lí)- 'Địa lí nước ngoài'- mô tả người dân Đài Loan là 'trẻ mồ côi' bị mẹ ruột là dân tộc Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, bỏ rơi và bị mẹ kế là Nhật Bản bạo hành.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">40</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân, và các tác giả khác của những cuốn sách này, là những người theo chủ nghĩa dân tộc, những người đã tìm cách khơi gợi cảm xúc về lòng trung thành với quốc gia và lãnh thổ của nó trong trái tim đối tượng trẻ của họ. Họ phải đối mặt với một vấn đề vừa mang tính sư phạm vừa mang tính chính trị sâu sắc. Làm thế nào họ có thể thuyết phục, chẳng hạn một đứa trẻ ở một thành phố lớn ven biển cảm thấy có mối liên hệ nào với người chăn cừu ở Tân Cương? Tại sao chúng lại có mối liên hệ với nhau? Mục đích chung của môn địa lí nhân văn là giải thích môi trường khác nhau đã tạo ra các nhóm có nền văn hóa khác nhau ra sao. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc đòi hỏi tất cả các nhóm khác nhau này phải cảm thấy là một bộ phận của một nền văn hóa duy nhất và trung thành với một quốc gia duy nhất. Câu đố này để tuỳ cho các nhà địa lí dân tộc chủ nghĩa giải quyết. Họ tìm ra hai cách chính để làm như vậy. Một nhóm tác giả sách giáo khoa chỉ đơn giản nói rằng tất cả công dân Trung Quốc đều như nhau: họ là thành viên của một chủng tộc ‘da vàng’ và một quốc gia duy nhất và không cần giải thích gì thêm. Tuy nhiên, nhóm thứ hai thừa nhận rằng các nhóm khác nhau đã tồn tại nhưng thống nhất vì một điều gì đó lớn hơn. Trong nhóm này, một số tác giả đã sử dụng ý tưởng 'chủng tộc da vàng', một số sử dụng ý tưởng về một nền văn hóa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn minh</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chung, trong khi những người khác nhấn mạnh tính 'tự nhiên' của biên giới thật (physical) của đất nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các tác giả sách giáo khoa lập luận rằng câu trả lời cho ‘câu hỏi biên giới' là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">để </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> làm cho cư dân ‘văn minh' lên. Một người, Ge Suicheng (葛綏成: Cát Tuy Thành, <span id="docs-internal-guid-acb5b7b0-7fff-16f2-3740-fa1eab7d45d5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">làm việc cho bên xuất bản đối thủ nhưng cũng có tinh thần dân tộc là Công ti xuất bản Trung Hoa</span></span>), thấy mình phải đối mặt với tình thế khó xử giống như Quốc dân đảng Cả hai đều cần phải nhấn mạnh sự bình đẳng trên lí thuyết của tất cả các nhóm dân tộc đồng thời biện minh cho việc họ hòa nhập vào một dân tộc Trung Hoa duy nhất dựa trên văn hóa 'Hán'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">41</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo quan điểm của Thành, việc nghiên cứu địa lí nên làm cho các dân tộc khác nhau của đất nước yêu vùng miền quê hương cụ thể của họ nhưng cũng kết nối họ về mặt tình cảm với lãnh thổ quốc gia rộng lớn hơn. Nhưng trong khi chờ đợi, theo lời trong sách giáo khoa của ông, 'Chúng ta nên khẩn trương thúc đẩy việc tiếp thu và cải biến văn hóa người Mông Cổ, người Hồi [giáo] và người Tây Tạng để họ không bị bị bọn đế quốc dụ dỗ, [và chúng ta nên] chuyển cư dân [người Hán] đến vùng biên giới để định cư…’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">42</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sách giáo khoa năm 1928 của Trương Kì Quân cũng mang đậm dấu ấn chủ nghĩa sô vanh chủng tộc. Một phần thông điệp của cuốn sách tới hàng triệu độc giả trẻ tuổi rằng đất nước đang trên hành trình từ man rợ đến văn minh và rằng chốn biên cương hoang dã, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống, cần phải được thuần hóa và phát triển. Cuốn sách bao gồm một bảng các nhóm dân tộc khác nhau cho thấy họ đã được đồng hóa như thế nào với 'cơ thể chính' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhuti / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">主體: chủ thể) người Hán. Trong một mô tả về người Miêu ở phía tây nam, Quân viết, ‘Họ duy trì các phong tục rất cổ xưa và hoàn toàn không tương thích với người Hán. Xóa bỏ sự man rợ và thay đổi phong tục tập quán là trách nhiệm của người Hán.’ Đối với Quân, người Hán cung cấp 'chuẩn mực' mà các nhóm khác cần phải <span id="docs-internal-guid-9dcaa515-7fff-e47d-49ae-2b2bb454c176"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được so sánh theo đó</span></span> để đánh giá mức độ văn minh của họ: họ phải được làm thành 'Hán'. Ông chia sẻ quan điểm của Trúc Khả Trinh rằng khí hậu là yếu tố quyết định sự lan rộng của nền văn minh. Trong cuốn sách giáo khoa năm 1933, ông đã <span id="docs-internal-guid-01c5d737-7fff-55bb-3070-9cd527051aa3"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nhận xét rằng</span></span> ở phía tây nam tỉnh Vân Nam, dân bản địa sống ở vùng đất thấp nóng ẩm trong khi người Hán (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hán nhân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) sống trên cao nguyên mát hơn. Ở vùng núi phía tây bắc, ngược lại, người Hán sống ở các thung lũng khí trời ấm áp trong khi người bản xứ sống ở vùng cao lạnh hơn. Do đó, điều tự nhiên là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hán nhân </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sống ở vùng ôn đới, không bị ảnh hưởng bởi môi trường ‘suy thoái’, nên phát huy ảnh hưởng của họ đối với người thiểu số - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tu-ren</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (土人: thổ nhân).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">43</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các sách giáo khoa khác cũng đưa ra quan điểm tương tự, nhấn mạnh lập luận của Tôn Dật Tiên rằng người Hán chiếm 90% dân số của đất nước và việc các nhóm khác bị đồng hóa là điều đương nhiên (xem Chương 5).</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">44</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những lập luận này có thể bắt nguồn từ những lập luận của Lương Khải Siêu vài thập kỉ trước (xem Chương 4). Siêu đã tạo ra một câu chuyện về tính liên tục: sự mở rộng của một lãnh thổ văn minh ra bên ngoài từ cái nôi của nó ở thung lũng sông Hoàng Hà. Các nhà địa lí mới đã cố viết chương cuối cùng, sự lan tỏa của nó ra đến tận rìa của Dân quốc. Họ cũng mượn từ Siêu ý tưởng rằng một vài con sông và dãy núi tạo thành ranh giới ‘tự nhiên’ cho quốc gia. Đây là lập luận được Cát Tuy Thành triển khai trong sách giáo khoa năm 1933 của ông và Lü Simian (呂思勉: Lữ Tư Miễn - làm việc tại cả Nhà <span id="docs-internal-guid-c0b5954b-7fff-d85e-856f-6d76548f6e75"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">in Thương mại lẫn nhà xuất bản Trung Hoa</span></span>). Kĩ thuật <span id="docs-internal-guid-40c862dd-7fff-3d42-d497-c5f15b64e2b7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có tính thơ văn</span></span> nhất chỉ đơn giản là so sánh hình dạng của đất nước được tưởng tượng với hình dạng của một cây thu hải đường hoặc lá dâu <span id="docs-internal-guid-b8fa1155-7fff-14c2-4d22-aa7a8d5e8b85"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đặt </span></span>nằm trên cạnh của nó. Cảng Thiên Tân trở thành cuống lá của chiếc lá với ‘gân’ chính chạy về phía tây như một đường đối xứng tới tận Kashgar ở Tân Cương và xa hơn nữa. Tất nhiên, sự đối xứng chỉ có nghĩa nếu bao gồm cả Ngoại Mông và Tây Tạng còn Đài Loan bị loại ra. Hai nhà sử học Robert Culp và Peter Zarrow đã ghi lại nhiều ví dụ trong các sách giáo khoa địa lí khác sử dụng các lập luận và các tương tự khác nhau, đôi khi mâu thuẫn để thuyết phục học sinh về ‘tính tự nhiên’ của các biên giới giả định của Dân quốc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">45</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một chủ đề luôn <span id="docs-internal-guid-4f0d4ac4-7fff-f728-4753-e3edbcae43d2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có mặt</span></span> trong những cuốn sách giáo khoa này là mối đe dọa từ những người nước ngoài đang gặm nhắm ở rìa đất nước. Nó được củng cố thông qua các bài học ở trường về 'lãnh thổ' bị mất trong thế kỉ trước. Giáo viên có thể sử dụng một dạng bản đồ dân tộc chủ nghĩa đặc biệt của Trung Quốc - ‘bản đồ quốc sỉ'. Hàng chục bản đồ như vậy đã được Nhà jn Thương mại, Nhà xuất bản Trung Hoa và các công ti khác xuất bản trong những năm 1910, 1920 và 1930, <span id="docs-internal-guid-439c5708-7fff-bee5-c276-b2a865badb34"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">khi thì</span></span> trong sách giáo khoa và tập bản đồ và <span id="docs-internal-guid-439c5708-7fff-bee5-c276-b2a865badb34"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">khi thì</span></span> làm áp phích để trưng bày trong lớp học và các tòa nhà công cộng. <span id="docs-internal-guid-d394b5c6-7fff-b85e-034f-74ae8b4795ae"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Các bản đồ này thường miêu tả đất đai </span></span><span id="docs-internal-guid-c2cd9139-7fff-ab44-2be8-d47c987673b1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">'bị nhượng’ cho các quốc gia láng giềng trong thế kỉ trước với màu sắc tươi sáng</span></span>.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">46</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có một mục đích chính trị rõ ràng đằng sau việc tạo ra những bản đồ này. Chúng phục vụ cho việc làm triều Nhà Thanh mất đi tính hợp pháp - qua việc thể hiện sự thất bại trong ‘bảo vệ đất nước’ và do đó hợp pháp hóa phe cách mạng. Nhưng chúng cũng cố tình tạo ra cảm giác lo lắng về sự dễ bị xâm hại của biên giới quốc gia để thúc đẩy lòng trung thành với nước Dân quốc mới. <span id="docs-internal-guid-871c87e6-7fff-bce8-a30b-106714eeaecd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Điều đó </span></span>dường như có tác dụng với một Mao Trạch Đông trẻ. Về sau, ông nói với nhà báo Mĩ Edgar Snow rằng việc nghe về quốc sỉ đã khiến ông trở thành một nhà hoạt động.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">47</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Không chỉ Mao. Đây là sự ra đời của cơn loạn thần kinh lãnh thổ quốc gia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nhà địa lí học lấy ý tưởng dân tộc chủ nghĩa về ‘lãnh thổ’ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- và phóng chiếu nó trở lại thời 'cương vực' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jiangyu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- lúc mà <span id="docs-internal-guid-b5ce6721-7fff-d1e7-c331-9d1ff6903460"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỉ có một ít biên giới cố định</span></span>. Một bản đồ về quốc sỉ trong sách giáo khoa năm 1933 của Cát Tuy Thành cho thấy những khu vực rộng lớn ở Trung Á, Siberia và đảo Sakhalin là lãnh thổ bị mất vào tay Nga. Bản đồ có thể <span id="docs-internal-guid-d735368e-7fff-776e-22ca-030250c99ba6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đã thể hiện</span></span> các khu vực khác nhau là 'lãnh thổ', 'các nước triều cống' hoặc 'các nước chư hầu' nhưng tất cả đều được phân loại như vốn dĩ là ‘của Trung Quốc’. Ý tưởng rằng, vào thời gian các lãnh thổ này ‘bị mất ', những vùng lãnh thổ này có thể là những khu vực tranh chấp không có sự trung thành rõ ràng với bất kì đế chế cụ thể nào không phải là một phần nằm trong bài học. Chúng được trình bày đơn giản là vùng đất 'Trung Quốc' đã bị đánh cắp. Cát Tuy Thành kêu gọi các công dân trẻ đọc sách giáo khoa của ông nên làm những gì họ có thể làm để phục hồi toàn bộ lãnh thổ đã mất này. Nhưng có phải điều này có nghĩa là lãnh thổ ‘bị mất’ này nên được đưa vào ranh giới hợp pháp của quốc gia hay không? Hình dạng của đất nước vào thời điểm đó có tự nhiên hay không? Những câu hỏi này thậm chí còn không được đặt ra trong sách giáo khoa chứ chưa nói đến được trả lời. Điều quan trọng đối với các tác giả như Thành là khuyến khích học sinh cảm nhận được cảm giác mất mát, cảm giác tập thể về 'quốc sỉ’ và từ đó phát triển sự gắn bó yêu nước đối với đất nước. Lo lắng về sự mất mát lãnh thổ là một phần cơ bản của dự án giáo dục dân tộc ngay từ đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự lo lắng càng tăng thêm vì không ai, thậm chí các nhà địa lí, biết biên giới thực sự ở đâu. Nhà sử học Diana Lary đã chỉ ra rằng ở tỉnh Quảng Tây, phía tây nam, đường biên giới chính xác gần như không thích hợp như thế nào. Mặc dù đã đồng ý với các nhà cai trị thuộc địa Pháp ở Đông Dương vào năm 1894, theo như các quan chức Dân quốc lo ngại, biên giới chỉ là một nơi nào đó trên núi: cao, hẻo lánh và khó tới được. Nhà nước thường quản lí các nhóm thiểu số ở vùng cao nguyên phía Nam thông qua một hệ thống được biết như </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tusi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(土司: thổ ti)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong đó các nhà lãnh đạo địa phương phải chịu trách nhiệm về hành động của người dân của họ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">48</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Biên giới phần lớn là không <span id="docs-internal-guid-afe2b175-7fff-2f38-3eea-8b062e9c54c0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">xứng hợp</span></span>. Vì vậy, chừng nào mà họ không gây rắc rối cho chính quyền, người dân miền núi thường được để yên. Theo lời của Lary, ‘Thế giới Trung Hoa <span id="docs-internal-guid-daf19edb-7fff-15c8-37da-080056afaff3"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kết thúc</span></span> ngay trước vùng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đất</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> biên giới.’</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">49</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Mọi thứ sẽ thay đổi. Đây cũng là biên giới mà hàng nghìn binh lính Trung Quốc và Việt Nam đã hi sinh trong cuộc chiến vào năm 1979.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1928, nhà địa lí <span id="docs-internal-guid-11927158-7fff-2848-6ddf-1415f97bba24"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thuỷ tổ</span></span> Trúc Khả Trinh tuyên bố rằng <span id="docs-internal-guid-9700df93-7fff-aebb-6acf-076a80499ea8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bản đồ học</span></span> Trung Quốc kém <span id="docs-internal-guid-9700df93-7fff-aebb-6acf-076a80499ea8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bản đồ học</span></span> châu Âu khoảng một thế kỉ. Vào thời điểm đó, hầu hết các bản đồ có được công khai vẫn dựa trên các cuộc khảo sát <span id="docs-internal-guid-910849a5-7fff-6987-a3d1-13720ec6657b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">200 năm trước</span></span> từ đầu thời nhà Thanh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">50</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 1 năm 1930 chính phủ đã ban hành chính thức 'Điều lệ Thẩm tra bản đồ đất và biển' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shuilu ditu shencha tiaoli / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">水陆地图审查条例: Thủy lục địa đổ thẩm tra điều lệ), chỉ thị cho Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Hải quân, Bộ Giáo dục và Ủy ban Mông Cổ và Tây Tạng làm việc cùng nhau chính thức hóa bản đồ của đất nước. Tuy nhiên, không có gì thực sự xảy ra, cho đến ngày 7 tháng 6 năm 1933, khi Ủy ban Thẩm tra Bản đồ Đất và Biển chính thức tổ chức cuộc họp đầu tiên.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">51</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Xem Chương 8 để biết thêm về Ủy ban này.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do chính phủ không có hành động nào, một số học giả và các tổ chức tư nhân đã cố gắng lấp đầy khoảng trống. Năm 1930, nhân viên cấp cao của tờ báo có ảnh hưởng ở Thượng Hải </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shenbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(申報: Thân báo) đã thảo luận về việc tổ chức một chuyến đi đến biên giới để kỉ niệm tờ báo tròn 60 năm. Họ đề nghị hai thành viên có tiếng của Cơ quan Khảo sát Địa chất Quốc gia Trung Quốc, Ding Wenjiang (丁文江: Đinh Văn Giang) và Weng Wenhao (翁文灏: Ông Văn Hạo), và một nhà vẽ bản đồ, Zeng Shiying (曾世英: Tăng Thế Anh), sẽ dẫn đầu nỗ lực này. Tuy nhiên, trong cuộc họp lập kế hoạch thì rõ ràng là không ai biết biên giới thực sự ở đâu. Giang nói với những người tham dự: 'Nếu chúng ta muốn tổ chức thành công một chuyến đi nghiên cứu biên giới Trung Quốc, trước tiên chúng ta cần một bản đồ.... Chưa ai vẽ được một bản đồ đầy đủ và chính xác về toàn bộ đất nước. Do đó, trước khi tổ chức chuyến đi, trước hết chúng ta nên làm công việc phác thảo bản đồ Trung Quốc.’ Vì thế, kế hoạch kỉ niệm <span id="docs-internal-guid-2015765d-7fff-3bfb-93ee-cbf3f90aa445"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chuyển biến </span></span>thành dự án xuất bản tập bản đồ quốc gia mới. Kết quả là tờ báo xuất bản </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản đồ mới của THDQ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(中華民國新地圖 /</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minguo xinditu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: THDQ tân địa đồ) vào năm 1934.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">52</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tập bản đồ đã được sản xuất tốt và bán chạy nhất. Do không có bất kì ấn phẩm tương đương nào do chính phủ sản xuất, nó đã trở thành tiêu chuẩn quốc gia mãi cho đến tận những năm 1950.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">53</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên, ở hầu hết các nơi, việc miêu tả các khu vực biên giới của bản đồ này chỉ là việc hư cấu . Như là tiêu chuẩn bấy giờ trong các bản đồ của Trung Quốc vào lúc đó, Tây Tạng và Ngoại Mông được mô tả như những bộ phận không tách rời của đất nước trong khi Đài Loan thì không. Đường chấm - vạch đen rõ chạy quanh Dân quốc là biểu hiện của sự khao khát hơn là thực tế. Như học giả Mĩ Owen Lattimore, đã khám phá những khu vực này trong thập niên 1920 và thập niên 1930, đã viết, ‘Biên giới đường vạch <span id="docs-internal-guid-34858eb9-7fff-84a6-8acc-8109349cfe83"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỉ trên bản đồ theo quy ước</span></span> luôn cho thấy, khi nghiên cứu trên thực địa, là một khu vực chứ không phải là một đường.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">54</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Theo phát biểu gần đây hơn của một nhà sử học người Mĩ khác, James Millward, biên giới là một quá trình, không phải là một địa điểm.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">55</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Các khu vực rộng lớn luôn để mở cho bất đồng và xung đột.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 195px; overflow: hidden; width: 288px;"><img height="422" src="https://lh6.googleusercontent.com/v7iChLn3RTbRkKDt4g0BgSA51fmaMrIiqUFUMTgw4w6QLM_37WOZtqzfpQ8lZcT7juB0YAioSzfDEOEl-FNAEJmhtQ2Selw_Y4unsu0CLYjKVw3Pg0n93LqTAv8ekzGe2mAurdCD=w640-h422" style="margin-left: -9px; margin-top: -83px;" width="640" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-27307ebc-7fff-5e25-4038-3d1f573ecb31"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">19. Năm 1934, tờ Thân báo xuất bản một tập bản đồ của Trung Quốc để giáo dục người dân về đất nước. Các nhà vẽ bản đồ của nó bao gồm Ngoại Mông và Tây Tạng vào trong lãnh thổ quốc gia, mặc dù cả hai đều độc lập vào thời điểm đó, nhưng họ không bao gồm Đài Loan vốn đã được nhượng cho Nhật Bản.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 12 năm 1928, chính phủ đã ra lệnh cho mỗi tỉnh và huyện phải biên soạn ‘phương chí’ mới - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">fangzhi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(方志) - của khu vực dưới sự quản lí của mình. Phương chí là một công cụ được xác lập của chính quyền địa phương từ nhiều thế kỉ trước nhưng hiện thân mới này dự định được tạo ra theo kiểu cách địa lí hiện đại: được vẽ ra với sự trợ giúp của các chuyên gia mới được đào tạo bằng cách sử dụng bản đồ chính xác và số liệu thống kê. Cần phải tập trung đặc biệt vào các khu vực 'biên giới', nơi sự kiểm soát của chính phủ yếu kém.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">56</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt;">Việc chú trọng vào các phương chí khớp với Trương Kì Quân</span>. Ông vừa đồng sáng lập một tạp chí học thuật mới, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dili Zazhi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(地裡雜誌: Địa lí Tạp chí ) để quảng bá môn địa lí nhân văn ở các trường trung học.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">57</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đầu năm 1929 Quân đã viết một bài báo trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tạp chí Địa lí </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lập luận rằng thế hệ phương chí mới này sẽ giúp thúc đẩy ‘tình tự quê hương' trong người dân. Theo quan điểm của ông, đây sẽ là một sự phát triển tích cực bởi vì, 'Tình tự quê hương là cơ sở cho lòng yêu dân tộc.' Trong một ấn bản khác của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tạp chí Địa lí</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ông kêu gọi chương trình giảng dạy địa lí trường trung học phải dựa trên Nguyên lí Dân tộc của Tôn Dật Tiên. Ông ngày càng có ảnh hưởng: 'Những đề xuất gợi ý cho các tiêu chuẩn giáo trình địa lí cấp trung học' của ông, được xuất bản sau đó vào năm 1929, đã được Bộ Giáo dục chấp nhận làm cơ sở của Chương trình giảng dạy mới. Các gợi ý có hai phần chính: giải thích điều kiện tự nhiên và phong tục xã hội của mọi nơi trên đất nước để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, và giải thích tình hình quốc tế mà đất nước nằm trong đó. Do đó, ông lập luận, 'lòng yêu nước và khát vọng cứu <span id="docs-internal-guid-511e82ea-7fff-9907-e9f5-33e3f9c8eb86"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dân tộc </span></span>sẽ tự động phát triển.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">58</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Đề cao tinh thần dân tộc đã trở thành mục đích trong các hoạt động địa lí của Quân.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những đóng góp này đã đưa công <span id="docs-internal-guid-c50fe00e-7fff-18a8-d7c4-3ffdb211dda2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trình của Quân vào tầm</span></span> chú ý của các nhân vật cấp cao trong Quốc dân đảng, và vào tháng 12 năm 1930, ông được ban chấp hành của tổ chức này mời gia nhập vào đảng, có thể theo gợi ý của biên tập viên cũ của ông, Trần Bố Lôi. Lỗi đã gia nhập Quốc dân đảng vào tháng 2 năm 1927, và nhanh chóng trở thành nhà tuyên truyền hàng đầu của đảng.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">59</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Quân từ chối lời mời, nhưng vào ngày 1 tháng 11 năm 1932, ông trở thành một trong 40 thành viên sáng lập 'Ủy ban Kế hoạch Quốc phòng' của chính phủ,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">60</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được thành lập để đáp lại việc người Nhật xâm lược Mãn Châu vào tháng 9 năm 1931, và cũng để chống lại tình trạng bất ổn ngày càng gia tăng ở Tân Cương. Mục đích chính của nó là tư vấn về các vấn đề chiến lược như sự sẵn sàng về quân sự và kinh tế. Quân được giao hai <span id="docs-internal-guid-21fbf11d-7fff-bca9-431a-18a7f1fac921"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nhiệm vụ</span></span> trong Ủy ban, bằng chứng về vai trò kép của các nhà địa lí trong giai đoạn này. Ban đầu, ông được giao phụ trách biên soạn sách giáo khoa địa lí của đất nước, với sứ mệnh khắc sâu vào giới trẻ những giá trị đúng đắn cho sự sinh tồn của quốc gia. Dưới quyền Quân, chương trình giảng dạy địa lí trở nên rõ ràng hơn, nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">61</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, vào tháng 9 năm 1934, Quân được bổ nhiệm làm ‘trưởng ban địa lí’ trong một cuộc điều tra kéo dài hai năm về biên giới phía tây bắc của đất nước: các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ và Thanh Hải.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">62</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đó là một nhiệm vụ học thuật có tầm quan trọng chiến lược. Với việc Tây Tạng đã giành được độc lập trên thực tế và Tân Cương được cai trị bởi các lãnh chúa, chính quyền Nam Kinh cần biết liệu các tỉnh xung quanh có thể cũng cố tìm cách li khai hay không. Các nhà địa lí cũng được giao nhiệm vụ thảo kế hoạch phát triển kinh tế của khu vực để kết nối nó chặt chẽ hơn với trung tâm. Toàn bộ công việc được cho là một hoạt động bình thường nhưng vào tháng 12 năm 1934, trong khi nghiên cứu ở Cam Túc, Quân đã bộc lộ mình là một học giả hơn là một chính trị gia. Ông đã có bài phát biểu về công việc của Ủy ban Kế hoạch Quốc phòng, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phát triển kinh tế của khu vực đối với an ninh quốc gia. Trong đó, ông so sánh công việc của chính mình với công việc của một học giả thời nhà Minh, Gu Yanwu (顧炎武: Cố Viêm Vũ), người mà ba thế kỉ trước, đã đã soạn tài liệu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tianxia junguo libingshu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(天下郡國利病書: Thiên hạ quân quốc lợi bệnh thư ‘Về điểm mạnh và điểm yếu của nhiều nơi khác nhau dưới gầm trời’) để giúp bảo vệ biên giới phía tây bắc không bị xâm lược.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">63</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này dẫn đến <span id="docs-internal-guid-7f561485-7fff-241f-fb39-9956ceebacbd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">một loạt các</span></span> bài báo đưa tin về các hoạt động được cho là bí mật và Quân thấy mình đang gặp rắc rối lớn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bốn tháng sau, Ủy ban được tổ chức lại thành ‘Ủy ban Tài nguyên Quốc gia’ và đặt dưới quyền Ủy ban Quân sự của chính phủ và Quân được chuyển trở lại học viện. Tuy nhiên, không lâu sau đó, trước khi mạng lưới địa lí Quốc dân đảng cho ông phục hồi. Bạn cũ của ông là Trần Bố Lôi, lúc đó, làm tham mưu trưởng cho TGT.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">64</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tháng 4 năm 1936, Lỗi vận động TGT bổ nhiệm Trúc Khả Trinh làm hiệu trưởng Đại học Chiết Giang ở Hàng Châu. Một tuần sau khi Trinh nhận chức, ông đã đề nghị Quân làm Trưởng khoa Lịch sử và Địa lí của trường đại học.95 Có lẽ để biết ơn, cuối cùng Quân đã đồng ý gia nhập Quốc dân đảng vào tháng 7 năm 1938, theo lời đề nghị của Trần Bố Lôi. Trong 10 năm sau đó, ông sẽ kết hợp sự nghiệp chính trị với học thuật của mình, trong khi vẫn còn là nhân vật cao cấp tại Đại học Chiết Giang.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">66</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi đó, tình hình quốc gia đang trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Nhật đã xâm lược ‘Trung Quốc thuần túy’ vào tháng 7 năm 1937 và cuối năm đó lực lượng của họ đã chiếm được Bắc Kinh, Thượng Hải và Nam Kinh. Khi cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc, TGT đã thúc giục sử dụng địa lí và lịch sử làm công cụ để truyền bá tư tưởng Quốc dân đảng trong giới trẻ đất nước. Ngày 28 tháng 8 năm 1938, Tưởng có bài phát biểu trong lễ tốt nghiệp đầu tiên cho Quân đoàn Huấn luyện Trung ương (một tổ chức bán quân sự nhằm đào tạo các sĩ quan quân đội và công chức cấp cao) ở thành phố Hán Khẩu, trong đó ông nói với người tham dự:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhân dân ta nếu không biết đến lịch sử vẻ vang của dân tộc ta thì làm sao cảm nhận được hết nỗi nhục của chúng ta hôm nay? Nếu người dân không thông thuộc địa lí đất nước ta thì làm sao có được quyết tâm khôi phục lại lãnh thổ đã mất của chúng ta? Từ hôm nay trở đi, chúng ta không được đi trên con đường tai hại này nữa: chúng ta phải tuyệt đối coi trọng giáo dục lịch sử và địa lí, khơi dậy tinh thần yêu nước bảo vệ đất nước của công dân, và khởi động vận mệnh mới tươi sáng, chói lọi của nhân dân ta!</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo đó, chương trình giảng dạy của các trường đại học, sau đó là các trường <span id="docs-internal-guid-35a04706-7fff-e78a-5ddb-6d9ef22f60ea"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sơ trung (trung học cơ sở) và cao trung (trung học phổ thông)</span></span>, đã được sửa đổi để thêm vào cả môn lịch sử và địa lí, 'để kích thích sự quả quyết của học sinh’ và quyết tâm phục hưng dân tộc chúng ta'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">67</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 12 năm 1939, khi quân Nhật tiến về phía nam và phía đông, Quân được mời nói chuyện với TGT về việc di tản Đại học Chiết Giang đến một địa điểm an toàn hơn. Tuy nhiên, có vẻ như cả hai đã không thật sự gặp nhau mãi cho đến hơn một năm sau đó. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1941, họ đã ăn tối ở Trùng Khánh, cùng với Trần Bố Lôi. Theo nhật kí của họ, cả nhóm đã nói chuyện về ‘giáo dục lịch sử và địa lí... cũng như vấn đề biên giới'. Nhà địa lí và thống chế đã tạo nên một tình bạn bền chặt: họ có cùng quê, và TGT đã mô tả Quân trong nhật kí của mình là 'đáng mến.’ Đối với Quân, kết quả chính là khoản tài trợ 50 000 đô la để thành lập một tạp chí học thuật mới, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sixiang yu shidai </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(思想與時代: Tư tưởng dữ Thời đại). Sau đó, Quân trở thành cố vấn địa chính trị của TGT trên thực tế. Năm 1942, ông xuất bản cuốn sách về 'Sự phát triển quốc tế của Trung Quốc' và một cuốn sách khác về 'Vấn đề Đông Bắc' (đề cập đến việc Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu). Trong suốt năm 1942 và 1943, ông đã viết một loạt bài báo về ‘Lịch sử quân sự Trung Quốc' cho tạp chí 'Hội Tư tưởng đương đại', trình bày về tầm quan trọng của hoàn cảnh địa lí đối với thành công quân sự.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">68</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Sau đó, tháng 6 năm 1943 và theo đề nghị của Khả Trinh, Quân được cử đến Mĩ như một thành viên của một phái đoàn học thuật do Bộ Ngoại giao mời. Thời gian lưu trú 6 tháng ban đầu của ông được gia hạn cho đến mùa thu năm 1945. Các ấn phẩm của ông ở đó bao gồm một cuốn có tựa là 'Khí hậu và con người ở Trung Quốc' phản ánh lại các nghiên cứu ban đầu của Trúc Khả Trinh hàng thập kỉ trước </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">69</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và là cuốn sách nhỏ đầu tiên cho một nhóm tư vấn mới được thành lập ở New York, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế Trung Quốc, về 'Tài nguyên thiên nhiên của Trung Quốc'.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">70</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ông trở thành nhân vật chủ chốt trong việc giải thích vị trí địa lí của Trung Quốc cho các quan chức Mĩ đồng thời đưa ra ý tưởng cho chính phủ Quốc dân đảng về chính sách tương lai.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">71</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không chút ngạc nhiên là cuộc xâm lược của Nhật Bản đã buộc TGT phải chú ý hơn đến địa chính trị. Trong phần đầu của năm 1938, người Nhật bắt đầu chiếm đóng khu vực giữa Bắc Kinh và Nam Kinh, và vào ngày 25 tháng 3, họ đã cố chiếm lấy trung tâm giao thông quan trọng Tai'erzhuang (台兒莊: Đài Nhi Trang), nằm khoảng giữa đường Bắc Kinh và Nam Kinh. Trận chiến xảy ra trùng với Đại hội toàn quốc bất thường của Quốc dân đảng, do TGT triệu tập để phê chuẩn quyền kiểm soát quân sự trên thực tế của ông trong chính phủ. Vào ngày 1 tháng 4, đại hội đã <span id="docs-internal-guid-e2c7ba9b-7fff-8c41-e65a-220ec8ee9b30"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chuẩn y</span></span>, chỉ định ông làm ‘tổng chỉ huy’ của đảng. Khi giao tranh bùng phát ở Đài Nhi Trang, cuộc họp ở Hán Khẩu đã thảo luận về chính sách đối ngoại của chính phủ và cách giải quyết chiến tranh.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">72</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Trong các bài phát biểu và nghị quyết, chúng ta thấy sự xuất hiện của các ý tưởng địa chính trị của TGT. Trong bài phát biểu về ‘Cuộc kháng chiến chống Nhật và tương lai của Đảng chúng ta’, TGT lập luận, ‘Chúng ta phải tạo điều kiện cho Triều Tiên và Đài Loan khôi phục nền độc lập và tự do của họ, và giúp họ trong việc tăng cường quốc phòng của THDQ và củng cố nền tảng cho hòa bình ở Đông Á.’ Đáng chú ý, dù ông lưu ý rằng Đài Loan từng là một phần lãnh thổ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) thuộc chủ quyền của Trung Quốc trong quá khứ, nhưng ông không kêu gọi sáp nhập lãnh thổ nào vào TQ.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">73</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều quan trọng là vị trí chiến lược của hai vùng lãnh thổ này và vai trò tiềm năng của chúng như là các quốc gia vùng đệm trên biên giới của đất nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi nhìn lại, điều đáng chú ý là điều này <span id="docs-internal-guid-940b6725-7fff-56b3-42bd-f197f2a244ad"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">hầu như không có tranh cãi</span></span> vào thời điểm đó. Đảng Cộng sản từ lâu đã ủng hộ độc lập cho Đài Loan hơn là tái sáp nhập vào Trung Quốc. Tại đại hội lần thứ 6 vào năm 1928, đảng này đã công nhận người Đài Loan là một dân tộc riêng biệt. Tháng 11 năm 1938, hội nghị toàn thể của đảng đã quyết tâm xây dựng một mặt trận thống nhất kháng Nhật giữa người Trung Quốc với người Triều Tiên, người Đài Loan với các dân tộc khác', ngầm vạch ra sự phân biệt giữa người Đài Loan và người Trung Quốc. Vào thời điểm này, theo quan điểm người Cộng sản, người Đài Loan là một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">minzu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (dân tộc) riêng biệt.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">74</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này kéo dài tới đầu những năm 1940 với các bài báo của cả Chu Ân Lai vào tháng 7 năm 1941 lẫn của nguyên soái Chu Đức vào tháng 11 năm 1941, mô tả tương lai Đài Loan giải phóng như một quốc gia-dân tộc riêng biệt. Ngay cả khi Đảng Cộng sản tuyên chiến với Nhật Bản vào tháng 12 năm 1941, thông báo của họ đã liệt kê người Đài Loan tách biệt với người Trung Quốc.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">75</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan điểm về sự tách biệt này của Đài Loan đã tạo nên sự đồng thuận trong chính trị Trung Quốc ít nhất cho đến năm 1942. Ba điều sau dường như đã làm tình hình thay đổi. Thứ nhất, Hoa Kì tham chiến vào tháng 12 năm 1941, và có thể hình dung tới sự thất bại của Nhật Bản. Chỉ sau đó chính phủ Quốc dân đảng mới chính thức tuyên chiến với Nhật Bản và đơn phương không thừa nhận Hiệp ước Shimonoseki. Theo đó, suy nghĩ của TGT chuyển sang địa chính trị thời hậu chiến. Thứ hai, TGT đang tìm cách chuyển hướng các nỗ lực chiến tranh của Nhật với việc thúc đẩy tình trạng bất ổn ở các khu vực dưới sự kiểm soát của họ, chẳng hạn như Đài Loan.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">76</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Và thứ ba, một số ít người Đài Loan, những người đã chạy trốn khỏi chế độ thực dân Nhật Bản sống lưu vong trên đại lục, đang tích cực vận động Quốc dân đảng coi Đài Loan là một phần của Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hàng chục tổ chức lưu vong nhỏ người Đài Loan đã được thành lập ở Trung Quốc trong những năm 1920 và 1930, nhưng họ chỉ bắt đầu đoàn kết và giành được ảnh hưởng chính trị sau khi chiến tranh với Nhật Bản bắt đầu. Việc có thể nói được tiếng Nhật khiến những nhà hoạt động này trở nên rất hữu ích trong cả tình báo lẫn công việc tuyên truyền, một thứ giúp họ tiếp cận </span><span style="color: #192200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">với giới lãnh đạo quân đội. Nhiều người trong số họ cũng đã được người Nhật đào tạo về các phương pháp y tế mới nhất và cung cấp các dịch vụ bệnh viện phía sau chiến tuyến. Một bác sĩ, Weng Junming (翁俊明: Ông Tuấn Minh), người đã gia nhập </span><span style="color: #192200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng minh hội </span><span style="color: #192200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Tôn Dật Tiên năm 1912 khi còn là một học sinh 19 tuổi, đã trở thành một nhân vật chủ chốt. Tháng 9 năm 1941, một liên minh nhiều nhóm nhỏ Đài Loan đã cùng nhau thành lập Liên đoàn Cách mạng Đài Loan, được Quốc dân đảng chính thức công nhận vào tháng 6 năm 1942.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào thời điểm này, cuộc thảo luận của Quốc dân đảng về Đài Loan đã thay đổi tận gốc rể. Vào giữa năm 19442, đảng bắt đầu sử dụng từ </span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục</span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guangfu /</span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">光復</span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), một từ mang ý nghĩa dân tộc đặc biệt. </span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quang phục </span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã được sử dụng trong thời nhà Đường (618-906) để mô tả việc giành lại quyền kiểm soát vùng đất đã bị người nước ngoài chinh phục trước đây. Việc so sánh mình với nhà Đường đã mang lại cho Quốc dân đảng một kích thích tuyên truyền hữu ích trong thời kì đen tối của cuộc chiến tranh với Nhật Bản và </span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">gia tăng sự thù địch với Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, điều thú vị cần lưu ý là đảng cảm thấy nó bị buộc phải tìm ra lí do cho </span><span style="color: #181900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục</span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- đó không là một bước đi hợp lí theo mọi cách. Nghiên cứu của nhà sử học Steve Phillips cho thấy rằng họ đã làm như vậy theo nhiều cách: qua việc khêu gợi ý tưởng về tinh thần đoàn kết chủng tộc (rằng người Đài Loan thuộc dòng máu Hán), qua tiền lệ lịch sử (hai thế kỉ cai trị của nhà Thanh), qua sự bất hợp pháp của Hiệp ước Shimonoseki và qua khẳng định rằng </span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục</span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là thứ mà người dân Đài Loan mong muốn.</span><span style="color: #162900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">78</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, có vẻ như từ các bài viết của TGT thì mong muốn của ông sáp nhập Đài Loan vào nước Dân quốc chủ yếu là do địa chính trị thúc đẩy. Tháng 11 năm 1942 ông bắt đầu soạn thảo tuyên ngôn thời hậu chiến, tuyên ngôn </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">có độ </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">dài bằng cuốn sách </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vận mệnh của Trung Quốc </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo zhi mingyun </span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國之命運 : </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc chi mệnh vận</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">)</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> với sự giúp đỡ của các người viết giúp, trong đó quan trọng nhất là Trần Bố Lôi.</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">79</span></span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Lời văn cũng cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà địa lí. Trương Kì Quân đã là bạn riêng với TGT trong khoảng hai năm vào giai đoạn này và cho đến tháng 6 năm 1943 mới rời đi Hoa Kì, ba tháng sau khi cuốn sách được xuất bản.</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">80</span></span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vận mệnh của Trung Quốc</span><span style="color: #1b1f00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nói về việc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đất nước hình thành 'một đơn vị khép kín' và 'mỗi một vùng [có] đất đai và tài nguyên thiên nhiên đặc biệt của riêng mình' và với 'sự phân công lao động... phần lớn được xác định bởi điều kiện vật chất của chúng'. Dư âm của những cuốn sách giáo khoa trước đó của Quân là rất rõ ràng. Sau đó, cuốn sách chuyển sang câu hỏi về vấn đề quốc phòng. 'Nếu ngay cả một khu vực bị chiếm đóng bởi một chủng tộc khác [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yizu / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">異族: dị tộc], thì toàn bộ dân tộc và toàn bộ đất nước mất đi các rào cản tự nhiên để tự vệ. Vì vậy, Đài Loan, Bành Hồ, bốn tỉnh phía đông bắc, nội và ngoại Mông, Tân Cương và Tây Tạng đều là những thành trì bảo vệ sự tồn vong của quốc gia.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">81</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Có một cách nhìn sô vanh về quốc gia ở đây: để bảo vệ 'Trung Quốc', các khu vực xung quanh cần được kết hợp vào hệ thống phòng thủ của nó, bất kể thành phần dân tộc của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Do đó, dường như trong suốt năm 1942, Đài Loan đã trở nên quan trọng đối với TGT và Quốc dân đảng, cả như một bức tường thành chống lại sự xâm lược của nước ngoài <span id="docs-internal-guid-91a4ebf8-7fff-d120-9ff9-b8a4a3eaf326"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lẫn như là bằng chứng về quyết tâm</span></span> chấm dứt sỉ nhục quốc gia. TGT cũng bắt đầu thúc giục các lãnh thổ khác phải được trả lại cho Dân quốc. Ông vận động những người theo chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ ủng hộ cho yêu sách chủ quyền của ông đối với Tây Tạng và tìm cách để Anh sớm trao trả Lãnh thổ mới của Hồng Kông.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">82</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Người Anh không sẵn sàng nhượng bộ bất cứ điểm nào, nhưng họ lại muốn thấy Nhật Bản <span id="docs-internal-guid-626ca027-7fff-370d-e9dd-af4a8253fc32"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trả lại</span></span> Mãn Châu và Đài Loan. Thoả hiệp đã được đóng dấu tại Hội nghị Cairo giữa TGT, Churchill và Roosevelt vào tháng 11 năm 1943. Do đó, việc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Đài Loan đã được xếp đặt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Và điều đó xảy ra vào năm 1945. Ngày 9 tháng 9, Tướng Isayama Haruki, tham mưu trưởng Nhật tại Đài Loan, bay đến Nam Kinh để chính thức đầu hàng. Lực lượng Quốc dân đảng cuối cùng đã đến đảo này vào ngày 25 tháng 10. Tuy nhiên, có rất nhiều người ở Đài Loan không muốn bị sáp nhập vào Dân quốc. Một số được hưởng lợi từ sự chiếm đóng của Nhật Bản, một số phản đối sự tham nhũng của Quốc dân đảng, trong khi những người khác chỉ đơn giản là <span id="docs-internal-guid-dc93b78b-7fff-1732-1a0b-7a290d473862"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">không ưa</span></span> những người nhập cư từ đại lục. Làm vấn đề thêm rắc rối, cảm xúc địa phương đã bị Chen Yi (陳儀: Trần Nghi), quan chức mà TGT bổ nhiệm làm tổng toàn quyền mới của đảo này, xử lí <span id="docs-internal-guid-078afd1d-7fff-fa67-c3ec-ca47c2d4a6ce"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kém cỏi</span></span> và sự bất mãn tăng thêm. Các cuộc biểu tình cuối cùng nổ ra vào ngày 28 tháng 2 năm 1947 và bị đáp ứng với bạo lực cực độ. Đến cuối tháng 3, ít nhất 5 000 người Đài Loan (có người nói 20 000) đã bị quân lính đại lục của Trần Nghi giết chết. Tất cả những điều này đã làm suy yếu những tuyên ngôn dân tộc chủ nghĩa về thống nhất vốn làm cơ sở cho những lời kêu gọi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục .</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 411px; overflow: hidden; width: 271px;"><img height="421" src="https://lh6.googleusercontent.com/-5Ieoy-gLYSCEY4KYmUGCH3EodW2S5rGSOWEc7LueEDYCcM_GpFI2bgaf6jZ7cu1-fea6LpzeSY92yTPuEik9E4XE0_XneAw69co4nVbtmiz1kyIiM80ygyPrjILExqu5rWi2wRO" style="margin-left: -350px; margin-top: -10px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-5fe40414-7fff-1cf1-7173-e2f66c2ca54d"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">18. Lãnh đạo Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch với nhà địa lí Trương Kì Quân ở Đài Loan những năm 1950. Quân thuộc thế hệ thứ hai của các nhà địa lí Trung Quốc hiện đại. Chính ông là người thuyết phục Tưởng rút về Đài Loan vào năm 1949.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, trong vòng hai năm sau khi xảy ra vụ thảm sát, đảo này trở nên quan trọng đối với sự sinh tồn của Quốc dân đảng. Khi Đảng Cộng sản giành được ưu thế trong cuộc nội chiến, suy nghĩ của TGT chuyển sang câu hỏi về sự sống còn. Đâu là nơi tốt nhất cho chính phủ của ông rút lui về? Ông nghiêng về phía tây nam, xung quanh thủ đô thời chiến của mình là Trùng Khánh hoặc đảo Hải Nam. Cuối năm 1948, ông tham khảo ý kiến cố vấn địa chính trị của mình, Trương Kì Quân. Quân biến sự hiểu biết của mình về địa lí khu vực của đất nước thành một danh sách mong muốn cho vị trí cố thủ cuối cùng của đảng. Nó đòi hỏi một nơi có thể dễ dàng phòng thủ nhưng nằm trong khoảng cách xa đất liền; nơi đó màu mỡ cho nông nghiệp và đủ lớn để nuôi sống vài triệu người, có cơ sở hạ tầng phát triển tốt và cơ sở công nghiệp, và phần lớn là không có những người ủng hộ Đảng Cộng sản. Theo ý kiến của nhà địa lí, lựa chọn tốt nhất là Đài Loan.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">83</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân đã đúng. Trùng Khánh và Hải Nam thất thủ nhưng Đài Loan vẫn giữ được. Cuối cùng, lí do vì sao mà Đài Loan có một chính phủ khác với CHNDTH, và vì sao ngày càng có nhiều lời lớn tiếng kêu gọi đảo này chính thức tuyên bố độc lập, là bởi từ lời khuyên của một giáo sư địa lí của Đại học Chiết Giang. Chính Quân cuối cùng đã rời Thượng Hải đến Đài Loan vào tháng 5 năm 1949, cùng lúc với lực lượng Cộng sản sắp ập vào thành phố. Thầy và người đỡ đầu của ông là Trúc Khả Trinh, bị rơi rụng khỏi Quốc dân đảng, đã chọn ở lại Thượng Hải và sống dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản. Hai ông không hề gặp lại nhau. Khi đến Đài Loan, Quân trở thành nhân vật cấp cao trong Quốc dân đảng được tổ chức lại của TGT. Ban đầu, ông được giao phụ trách các vấn đề hành chính và hậu cần,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">84</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và lần lượt trở thành thành viên của Quốc hội, Tổng thư kí Ủy ban Trung ương Quốc dân đảng và sau đó là Bộ trưởng Bộ giáo dục. Công việc cuối cùng của ông là thành lập 'Đại học Văn hóa Trung Quốc' ở Đài Bắc. cố sức làm cho đảo này trở nên Trung Quốc hơn - một dạng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quang phục</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trí thức.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ Ba, ngày 26 tháng 3 năm 2019 là một ngày đáng tự hào đối với giám đốc và nhân viên của Trường </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kinh tế London (London School of Economics - LSE). Một tác phẩm điêu khắc mới của nghệ sĩ Mark Wallinger trúng giải Turner đã được công bố ngay bên ngoài trung tâm sinh viên vừa mới hoàn thành. Tác phẩm của Wallinger có tên là </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế giới xoay </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; white-space: pre-wrap;">lộn</span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngược</span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, một mô tả theo nghĩa đen của tác phẩm. Nó khắc họa một quả địa cầu, cao khoảng 4 mét, nằm tựa lên Bắc Cực, với Nam Cực phía bầu trời. Tiêu đề đề cập đến cuộc Nội chiến thế kỉ 17 của Anh và việc đảo lộn của một trật tự cũ. Theo lời của Wallinger: ‘Đây là thế giới, như chúng ta biết từ một góc nhìn khác. Quen thuộc, lạ lẫm và có thể chịu sự thay đổi.’ Tác phẩm của Wallinger thường đề cập đến chủ nghĩa dân tộc. Công việc ủy thác 2001 của ông tại </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">triển lãm nghệ thuật </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Venice Biennale, </span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Oxymoron</span><span style="color: #160600; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, có cờ Anh với các màu đỏ, trắng và xanh dương thông thường được thay bằng màu xanh lá cây, trắng và cam của cờ Ireland. Giám đốc của LSE, Minouche Shafik, nói với các nhà báo về buổi ra mắt tác phẩm điêu khắc địa cầu đó rằng tác phẩm này phản ánh sứ mệnh của học viện, nơi mà việc nghiên cứu và giảng dạy 'thường có nghĩa là nhìn thế giới từ những quan điểm khác lạ'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1c3400; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng một nhóm sinh viên đã không được chuẩn bị để nhìn thế giới từ một quan điểm khác. Trong vòng </span><span style="color: #140000; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vài giờ sau khi khánh thành, một số sinh viên từ CHNDTH nhận thấy rằng Đài Loan có màu hồng trong khi Trung Quốc lại màu vàng. Đài Bắc được đánh dấu bằng một hình vuông màu đỏ, biểu thị thủ đô quốc gia, thay vì chấm đen được sử dụng cho các thành phố của tỉnh. Họ phản đối với giám đốc và yêu cầu tác phẩm phải được thay đổi. Theo quan điểm của họ, ý định của nghệ sĩ là không <span id="docs-internal-guid-2b819001-7fff-6941-ab8f-211d13b9fc18"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thích đáng</span></span>: Đài Loan cũng phải màu vàng như trên đại lục. LSE đang phải đối mặt với một 'thời khắc của Gap'. Sinh viên từ CHNDTH chiếm 13% tổng số sinh viên tại LSE,</span><span style="color: #140000; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">85</span></span><span style="color: #140000; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vì vậy một cuộc tẩy chay có thể gây hủy hoại. Đồng thời, sinh viên Đài Loan của trường và những người ủng hộ họ cũng tập hợp lại. Họ chỉ ra rằng tổng thống Đài Loan, Thái Anh Văn, đã tốt nghiệp LSE, một sự việc đã được nhà trường bơm thổi khi bà đắc cử. Hai ngày sau, tác phẩm nghệ thuật đã được mở rộng bao gồm một thông báo nêu rõ, 'LSE cam kết ... đảm bảo rằng tất cả mọi người trong cộng đồng của chúng ta được đối xử với phẩm giá và sự tôn trọng như nhau.'</span><span style="color: #140000; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">86</span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #201900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một cuộc họp về khủng hoảng đã được triệu tập, dưới sự chủ trì của Shafik và bao gồm các đại diện từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban Giám đốc </span><span style="color: #201900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của trường</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Văn phòng Truyền thông Nội bộ và Trung tâm Niềm tin, cùng với hai sinh viên Trung Quốc, một sinh viên Đài Loan, cũng như một sinh viên Israel và một sinh viên Palestine (những người đã nổi giận về cách mô tả Trung Đông). Các sinh viên Trung Quốc sau đó cố mở rộng <span id="docs-internal-guid-a6d0bd12-7fff-ec4d-0f4a-536a74004151"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">việc </span></span>thảo luận, nói rằng họ cũng rất tức giận về cách mô tả biên giới Trung-Ấn. Theo một sinh viên Đài Loan có mặt tại đây, Shafik dường như ‘đã lấy sổ ghi chép’ của cô ấy vào thời điểm này.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">87</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Chính Wallinger đã tránh né bình luận với truyền thông, ngoại trừ một cuộc phỏng vấn với tờ báo sinh viên LSE, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Beaver</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong đó ông nói, ‘Có rất nhiều khu vực tranh chấp trên thế giới, đó chỉ là sự thật.’ Các cuộc tranh luận tiếp tục trong vài tháng cho đến tháng 7 năm 2019, LSE và Wallinger đã có một nhượng bộ nhỏ. Họ đã thêm một dấu hoa thị bên cạnh tên 'Rep. China (Taiwan)' trên tác phẩm và cũng có một bảng bên dưới ghi rõ 'Có nhiều biên giới tranh chấp và nhà điêu khắc đã chỉ ra một số với dấu hoa thị.'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 0.6em; vertical-align: super;">88</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Nhưng Đài Loan vẫn giữ màu riêng biệt: LSE và nghệ sĩ giữ vững thần kinh của mình. Họ không ‘tạo ra một Gap’ và tác phẩm điêu khắc tiếp tục thể hiện thực tế chính trị hơn là một phiên bản lí tưởng hóa của 'nước Trung Quốc tối <span id="docs-internal-guid-b669909b-7fff-4ca8-9df2-66a013051808"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đại’ </span></span> như những người yêu nước trực tuyến và không trực tuyến tưởng tượng ra.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Biên giới và các lãnh thổ được xác định chính thức là một sáng tạo hiện đại của châu Âu được giới tinh hoa châu Á áp đặt và áp dụng trong suốt một thế kỉ đầy bạo lực. Chủ nghĩa dân tộc mới của Trung Quốc xuất hiện từ đống đổ nát của Đế chế nhà Thanh thể hiện như một mong muốn được trở thành một 'quốc gia bình thường', bình đẳng với các cường quốc công nghiệp và là một phần của hệ thống quốc tế. Những người theo chủ nghĩa dân tộc đã thực hiện việc lựa chọn mà không thật sự nhận ra rằng họ đã làm như vậy. Với việc chọn thực thi một yêu sách của Trung Quốc đối với một vùng lãnh thổ đa sắc tộc, một quyết định dựa trên một chủ nghĩa sô vanh Hán mới, họ buộc nước Dân quốc phải mở rộng phạm vi của mình tới những vùng xa xôi nhất, biên lề nhất. Thực chất đây là một chủ nghĩa thực dân mới: mở rộng sự cai trị Trung Quốc 'Hán' tới những nơi mà trước đây họ chưa từng <span id="docs-internal-guid-89ebed98-7fff-3026-8b3e-c4e3d4854c78"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vươn tới</span></span>. Bản đồ và khảo sát của các nhà địa lí dẫn đường và sách giáo khoa cũng như bản đồ quốc sỉ của họ đã xây dựng sự hậu thuẫn cho dự án ngay ở trung tâm. Các nhà địa lí và Quốc dân đảng đã hợp tác với nhau để biến những ranh giới tưởng tượng thành hiện thực và tạo ra một lãnh thổ quốc gia - một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lingtu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- cả trên thực địa lẫn trong óc người dân. Họ đã làm như vậy qua việc tạo ra nỗi sợ về mất mát, về sự sỉ nhục, điều này tiếp tục làm sống động chính sách của Trung Quốc cho đến ngày nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">THDQ chỉ chính thức công nhận nền độc lập của Mông Cổ theo các điều khoản của Hiệp ước Hữu nghị Trung-Xô năm 1946, và sau một cuộc trưng cầu dân ý, trong đó người Mông Cổ trên danh nghĩa thực hiện quyền tự quyết. Biên giới giữa Trung Quốc và Nga, bề ngoài đã được đồng ý vào năm 1689 với Hiệp ước Nerchinsk, cuối cùng chỉ được giải quyết vào ngày 14 tháng 10 năm 2008 với một thỏa thuận về các đảo ở sông Amur. Biên giới giữa tỉnh Quảng Tây và Việt Nam, mặc dù đã được thống nhất vào năm 1894, nhưng chỉ được chính thức phân giới vào năm 2009. Tây Tạng bị cưỡng bức sáp nhập vào CHNDTH vào năm 1950, đưa một nhà nước Trung Quốc mặt đối mặt với Ấn Độ lần đầu tiên. Như những người mua áo thun <span id="docs-internal-guid-3b529cb6-7fff-7c44-54e9-cfc5117a384c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ở thác Niagara</span></span> đều biết rõ, việc tiếp tục không có thỏa thuận ở Himalaya có khả năng kích động chiến tranh toàn diện giữa hai quân đội vũ trang với hạt nhân. Việc li khai của Đài Loan là một cuộc khủng hoảng đang diễn ra. Và kế đó còn có các ranh giới trên biển. Nhưng đó là một chương khác.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">__________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. _Gap Inc., Gap Inc. Company-Operated Store Count by Country 2017, </span><a href="http://www.gapinc.com/content/dam/gapincsite/documents/Gap%20Inc.%20Company%20Owned%20Store%20Count%20by%20Country.pdf" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.gapinc.com/content/dam/gapincsite/documents/Gap%20Inc.%20Company%20Owned%20Store%20Count%20by%20Country.pdf</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; Gap Inc., Gap Inc. Factory List April 2019, </span><a href="https://www.gapincsustainability.com/sites/default/files/Gap%20Inc%20Factory%20List.pdf" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.gapincsustainability.com/sites/default/files/Gap%20Inc%20Factory%20List.pdf</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. ‘MAC Apologizes for Omitting Taiwan on Map of China in Promotional Email, Global Times, 10 March 2019, </span><a href="http://www.globaltimes.cn/content/1141581.shtml" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.globaltimes.cn/content/1141581.shtml</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Christian Shepherd, 'China Revises Mapping Law to Bolster Territorial Claims', Reuters, 27 April 2017 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Zhang Han, China Strengthens Map Printing Rules, Forbidding Publications Printed For Overseas Clients From Being Circulated in the Country', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Global Times</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 17 February 2019. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Laurie Chen, ‘Chinese City Shreds 29,000 Maps Showing Taiwan as a Country', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South China Morning Post</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 25 March 2019, </span><a href="https://www.scmp.com/news/china/society/article/3003121/about-29000-problematicworld-maps-showing-taiwan-country" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.scmp.com/news/china/society/article/3003121/about-29000-problematicworld-maps-showing-taiwan-country</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. A. J. Grajdanzev, 'Formosa (Taiwan) Under Japanese Rule', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pacific Affairs</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 15/3 (September 1942), p. 312; Andrew Morris, “The Taiwan Republic of 1895 and the Failure of the Qing Modernizing Project, in Stéphane Corcuff and Robert Edmondson (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Memories of the Future: National Identity Issues and the Search for a New Taiwa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">n, Armonk, NY: M.E. Sharpe, 2002; Harry J. Lamley, 'The 1895 Taiwan Republic: A Significant Episode in Modern Chinese History', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Asian Studies</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 27/4 (1968), pp. 739-62 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Alan M. Wachman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Why Taiwan? Geostrategic Rationales for China's Territorial Integrity,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Stanford, CA: Stanford University Press, 2007, p. 69. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. Ibid., pp. 50-60. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. S.C.M. Paine, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Imperial Rivals: China, Russia, and Their Disputed Frontier,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Armonk, NY: M.E. Sharpe, 1996, p. 352. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10. Marie-Claire Bergère (trans. Janet Lloyd), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sun Yat-sen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Stanford, CA: Stanford University Press, 1998, pp. 92–6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. Shi-Chi Mike Lan, “The Ambivalence of National Imagination: Defining “The Taiwanese” in China, 1931-1941', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China Journal,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 64 (2010), p. 179. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12._Marc Andre Matten, Imagining a Postnational World: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hegemony and Space in Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Leiden: Brill, 2016, p. 126. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Jingdong Yu, 'The Concept of “Territory” in Modern China: 1689-1910', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cultura: International Journal of Philosophy of Culture and Axiology</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 15/2 (2018), pp. 7395. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14. So Wai Chor, ‘National Identity, Nation and Race: Wang Jingwei’s Early Revolutionary Ideas, 1905-1911', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Modern Chinese History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 4/1 (2010), p. 73. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. Matten, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Imagining a Postnational World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 88-9. 1</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Republic of China, ‘The Provisional Constitution of the Republic of China',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> American Journal of International Law,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 6/3, Supplement: Official Documents (July 1912), pp. 149-54. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">17. William L. Tung, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Political Institutions of Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, The Hague: M. Nijhoff, 1964, p. 326. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Matten,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Imagining a Postnational World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 152. But see Tung, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Political Institutions of Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 332, for an alternative translation. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. Matten, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Imagining a Postnational World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 152; Tung, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Political Institutions of Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 344.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 20. Tung, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Political Institutions of Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 350; Matten, I</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">magining a Postnational World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 152–3. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. James Leibold, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Reconfiguring Chinese Nationalism: How the Qing Frontier and its</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Indigenes Became Chinese</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Basingstoke: Palgrave Macmillan, 2007, p. 4. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22. Frank Trager, ‘Burma and China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Southeast Asian History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 5/1 (1964), pp. 38-9. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23. Ning Chia, 'Lifanyuan and Libu in the Qing Tribute System, in Dittmar Schorkowitz and Ning Chia (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Managing Frontiers in Qing China: The Lifanyuan and Libu Revisited</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Boston: Brill, 2016, p. 168.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 24. Yingcong Dai, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Sichuan Frontier and Tibet: Imperial Strategy in the Early Qing,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Seattle: University of Washington Press, 2011, p. 124. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Leibold, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Reconfiguring Chinese Nationalism</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 11. 26. Chiao-Min Hsieh and Jean Kan Hsieh, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Race the Rising Sun: A Chinese University's Exodus During the Second World War</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Lanham, MD: University Press of America, 2009, p. 103. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Michael H. Hunt, “The American Remission of the Boxer Indemnity: A Reappraisal', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Asian Studies,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 31/3 (May 1972). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. Zhihong Chen, ‘Climate's Moral Economy’: Geography, Race, and the Han in Early Republican China', in Thomas S. Mullaney et al. (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Critical Han Studies: The History, Representation, and Identity of China's Majority,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Berkeley, CA: University of California Press, 2012, p. 76-8.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">29. Hsieh and Hsieh, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Race the Rising Sun</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 104. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Chen, “Climate's Moral Economy”, p. 90. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. Zhihong Chen, ‘The Frontier Crisis and the Construction of Modern Chinese Geography in Republican China (1911– 1949)', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Asian Geographer,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 33/2 (2016).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 32. Timothy Cheek, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Intellectual in Modern Chinese History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge: Cambridge University Press, 2015, p. 134. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33.e.g. Zhang Qiyun, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chuzhong jiaokeshu rensheng dili </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">[Human Geography for Junior Middle Schools], 3 volumes, Shanghai: Shanghai Commercial Press, 1925. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">34. Chen, ‘Frontier Crisis', p. 156; Zhihong Chen, “Stretching the skin of the Nation: Chinese Intellectuals, the State and the Frontiers in the Nanjing Decade (1927– 1937), PhD dissertation, University of Oregon, 2008, p. 197.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 35. Ge Zhaoguang,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> What is China? Territory, Ethnicity, Culture and History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Belknap Press, 2018, pp. 86-93. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. Chiu-chun Lee, ‘Liberalism and Nationalism at a Crossroads: The Guomindang's Educational Policies 1927– 1930', in Tze-ki Hon and Robert Culp (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Politics of Historical Production in Late Qing and Early Republican China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Leiden: Brill, 2007, p. 303.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Hsiang-po Lee, 'Rural-Mass Education Movement In China, 1923–1937, PhD thesis, University of Ohio, 1970, pp. 60-61. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38. Robert Culp, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Articulating Citizenship: Civic Education and Student Politics in Southeastern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1912–1940, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2007, pp. 85-7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. Fangyu He, 'From Scholar to Bureaucrat: The Political Choice of the Historical Geographer Zhang Qiyun', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Modern Chinese History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 10/1 (2016), p. 36. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. Lan, ‘The Ambivalence of National Imagination'. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. Peter Zarrow,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Educating China: Knowledge, Society and Textbooks in a Modernising World</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1902–1937, Cambridge: Cambridge University Press, 2015, p. 239. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42. Culp, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Articulating Citizenship</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 81. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43. Chen “Climate's Moral Economy”, pp. 80-81. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Zarrow, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Educating China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 242. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45. Culp, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Articulating Citizenship</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chapter 2; Zarrow, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Educating China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, chapter 8. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. William A. Callahan, ‘The Cartography of National Humiliation and the Emergence of China's Geobody', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Public Culture</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 21/1 (2009). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">47. Wachman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Why Taiwan?</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 86. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">48. Laura Hostetler, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qing Colonial Enterprise: Ethnography and Cartography in Early Modern China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Chicago: University of Chicago Press, 2001, pp. 117–20. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">49. Diana Lary, ‘A Zone of Nebulous Menace: The Guangxi/Indochina Border in the Republican Period', in Diana Lary (ed.), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Chinese State at the Borders</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Vancouver: University of British Columbia Press, 2007.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">50. Chen, ‘Stretching the Skin’, pp. 196–7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">51. Li Jinming and Li Dexia, ‘The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ocean Development & International Law</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 34 (2003), p. 289. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">52. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shenbao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhonghua minguo xinditu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (New Maps of the Chinese Republic), Shanghai: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shenbao,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 1934, preface. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">53. Chen, 'Stretching the Skin', p. 205; </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shenbao,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> “New Maps'; Chi-Yun Chang, “Geographic Research in China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Annals of the Association of American Geographers</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 34/1 (March 1944), p. 47. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">54. Owen Lattimore, “The Frontier In History' (1955), in Owen Lattimore, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Studies in Frontier History: Collected Papers</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1928–1958, London: Oxford University Press, 1962, pp. 469–70. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">55. James A. Millward, 'New Perspectives on the Qing Frontier', in Gail Hershatter, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Remapping China: Fissures in Historical Terrain</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Stanford, CA: Stanford University Press, 1996, pp. 114-15. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">56. Chen, ‘Frontier Crisis', p. 153.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">57. The other co-founder was a colleague of his at Zhongyang University, Hu Huanyong, also a former student of Zhu Kezhen. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">58. Chen, ‘Frontier Crisis'. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">59. Dahpon D. Ho, ‘Night Thoughts of a Hungry Ghostwriter: Chen Bulei and the Life of Service in Republican China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Modern Chinese Literature and Culture</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 19/1 (2007), p. 14; Cheek,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Intellectual in Modern Chinese History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 134. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">60. He, ‘From Scholar to Bureaucrať, pp. 35-51.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">61. Zarrow, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Educating China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 221. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">62. Chen, ‘Stretching the Skin', p. 203. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">63. Chen, 'Frontier Crisis, p. 155. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">64. Ho, 'Night Thoughts of a Hungry Ghostwriter', p. 14. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">65. He, ‘From Scholar to Bureaucrat', p. 37. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">66. Ibid., p. 41. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">67. Li Xiaoqian, “Predicament and Responses: Discussions of History Education in Early Modern China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese Studies in History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 50/2, (2017), p. 161. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">68. Chi-Yun Chang, 'Geographic Research in China', pp. 58-9. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">69. Chi-Yun Chang, Climate and Man in China', Annals of the Association of American Geographers, 36/1, 1946, pp. 44-73.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">70. Chang Ch‘i-yün, ‘The Natural Resources of China', No. 1. Sino-international Economic Research Center, 1945. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">71. He, 'From Scholar to Bureaucrať, p. 43.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">72. Nelson Trusler Johnson, Letter from the Ambassador in China to the Secretary of State, 26 April 1938, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Foreign Relations of the United States Diplomatic Papers, 1938, The Far East, volume III, documen</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">t 154, </span><a href="https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1938v03/d15414232" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1938v03/d15414232</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">73. Frank S. T. Hsiao and Lawrence R. Sullivan, ‘The Chinese Communist Party and the Status of Taiwan, 1928–1943', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pacific Affairs</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 52/3 (1979), p. 463; Steve Phillips, 'Confronting Colonization and National Identity: The Nationalists and Taiwan, 1941– 45', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Colonialism and Colonial History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 2/3 (2001); Steve Tsang, ‘From Japanese Colony to Sacred Chinese Territory: Putting the Geostrategic Significance of Taiwan to China in Historical Context’, unpublished paper, 2019. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">74. Hsiao and Sullivan, 'Chinese Communist Party', p. 446. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">75. Wachman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Why Taiwan?</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 88-90. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">76. Xiaoyuan Liu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Partnership for Disorder: China, the United States</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">and their Policies for Postwar Disposition of the Japanese Empire 1941-1945, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cambridge University Press, 1966, p.65.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">77. J. Bruce Jacobs, ‘Taiwanese and the Chinese Nationalists, 1937-1945: The Origins of Taiwan’s “Half-Mountain People” (Banshan ren)’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Modern China, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16/84 (1990)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">78. Phillips, ‘Confronting Colonization'. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">79. Among others who assisted was Tao Xisheng, a former professor who served on several key committees within the government, then defected to Wang Jingwei's pro-Japanese government and then returned to the GMD in early 1940. Until 1925, he was a relatively unknown legal historian and an editor at the Commercial Press. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">80. It was published on 10 March 1943. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">81. Phillips, “Confronting Colonization'. NB the Chinese text is different from the English-language version published in 1947. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">82. Melvyn C. Goldstein, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A History of Modern Tibet</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Berkeley, CA: University of California Press, 2007, pp. 314-49; Simon L. Chang, ‘A “Realist” Hypocrisy? Scripting Sovereignty in Sino-Tibetan Relations and the Changing Posture of Britain and the United States', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Asian Ethnicity</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 26 (2011), pp. 325-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">83. Chen Ching-Chang (陳錦昌), 'Record of Chiang Kai-shek's retreat to Taiwan' (蔣中正遷台記), Taipei: Xiangyang wenhua, 2005, p. 50.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 84. He, ‘From Scholar to Bureaucrať, p. 46. 85. LSE Undergraduate and Postgraduate Students Headcount: 2013/14-2017/18, </span><a href="https://info.lse.ac.uk/staff/divisions/Planning-Division/Assets/Documents/StudentStatistics-2018.pdf" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://info.lse.ac.uk/staff/divisions/Planning-Division/Assets/Documents/StudentStatistics-2018.pdf</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">86. CNA, 'Lúndūn zhèng jīng xuéyuàn gõnggòng yìshù jiāng bao táiwān huà wéi zhôngguó vàijiāo bù kàngyì, 7 April 2019, </span><a href="https://www.cna.com.tw/news/firstnews/201904040021.aspx" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.cna.com.tw/news/firstnews/201904040021.aspx</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">87. Isabella Pojuner, 'China-Taiwan Tension Feeds LSE Globe Furore', BeaverOnline, 6 April2019, </span><a href="https://beaveronline.co.uk/china-taiwantension-feeds-lse-globe-furore" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://beaveronline.co.uk/china-taiwantension-feeds-lse-globe-furore</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">88. Keoni Everington, ‘LSE ignores Chinese cries, adds asterisk next to Taiwan on globe', Taiwan News, 10 July 2019, </span><a href="https://www.taiwannews.com.tw/en/news/3742226" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.taiwannews.com.tw/en/news/3742226</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (accessed 2 March 2020).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">______________________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản song ngữ: <a href="https://docs.google.com/document/d/1TDH7mI35W0mKsL0PzrjgSErNqnKXCpuDus-ymha-8zk/edit?usp=sharing" target="_blank">Chapter 7: The Invention of a National Territory</a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a><span> <span> </span><span> </span><span> </span><span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank"> </a></span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank">Chương 5 </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"><span>Chương 2 </span></a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> </span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-6.html" target="_blank">Chương 6</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank">Chương 4</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-40607254310683565052021-01-16T05:58:00.027-08:002022-02-06T01:56:22.520-08:00Sáng chế ra Trung Quốc (Ch. 6: tiếng Trung)<p> <b><span style="font-size: medium;">Chuong 6</span></b></p><p><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">SÁNG CHẾ TIẾNG TRUNG </span></p><span id="docs-internal-guid-173f44ad-7fff-f94c-1740-8ecc9d250c99"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoyu-quốc ngữ</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với hàng chục triệu người hâm mộ, cá vò viên là hương vị đặc trưng của Hong Kong. Đối với hầu hết khẩu vị người nước ngoài, độ dai của nó có thể gây lúng túng. Quá trình giã kéo dài thịt cá sống tạo thành một hỗn hợp xốp mà những người bán hàng trộn với bột gạo và vo thành viên tròn vui mắt. Một số đầu bếp vỉa hè luộc chúng trong nước nóng và xiên chúng vào que. Những người khác chiên chúng trong dầu rồi rưới nước sốt lên. Đối với những người tĩnh mộng, kết quả chỉ đơn thuần là thứ thức ăn kết dính từ thịt loại cá tạp thu được khi đánh bắt, nhưng đối với người Hong Kong thực sự, cá vò viên đường phố là hình ảnh thu nhỏ của văn hóa thành phố địa phương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Và không có thời điểm nào tốt hơn để thưởng thức món cá vò viên Hong Kong đúng điệu hơn Tết âm lịch. Lễ hội theo mùa này đã làm nhiều người đại lục chuyển đến Khu tự trị đặc biệt Hong Kong trong vài năm qua nhớ lại. Đối với người Hong Kong tại chỗ, nó giống như quay đồng hồ trở về thời điểm trước năm 1997, <span id="docs-internal-guid-7ada7aed-7fff-4d19-e04a-2eb44b2b84a2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">khi người đại lục bị hàng rào cao và đội tuần tra của người Anh ngăn lại</span></span>. Và không có nơi nào tốt hơn để thưởng thức món cá vò viên Hong Kong vào dịp năm mới âm lịch hơn ở Sham Shui Po (深水埗: Thâm Thủy Phụ), một khu phố lao động cao tầng phía bắc Kowloon (Cửu Long), chỗ cư trú cũ của nhiều người tị nạn từ đại lục. Trong ba ngày, những người bán hàng rong không có giấy phép đã dựng các quầy hàng dọc theo các con phố ồn ào để phục vụ cho những người vui chơi: công nhân lương thấp bán thức ăn nhẹ giá rẻ. Hoạt động kinh doanh của họ là bất hợp pháp nhưng thường là cảnh sát nhắm mắt làm ngơ. Dù gì thì đó cũng vào dịp lễ hội.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ Hai, ngày 8 tháng 2 năm 2016 không phải là một đêm ăn cá vò viên điển hình trong năm mới. Vào thời điểm tối thứ Hai bước sang sáng thứ Ba, 44 cảnh sát đã bị thương và 24 người đã bị bắt. <span id="docs-internal-guid-f43f3f5a-7fff-7c33-65b8-864cc0af1e3d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Điều đó </span></span>bắt đầu bằng một cuộc trấn áp vào các quầy hàng ‘bất hợp pháp’, do các quan chức của Cục Vệ sinh Môi trường và Thực phẩm của thành phố tổ chức. Để thoát, những người bán hàng rong chạy về phía nam đến Mong Kok (芒角: Mạng Giác), khu phố mua sắm và giải trí, đôi khi được mô tả là nơi sầm uất nhất trên trái đất và cũng là ‘trái tim thật sự’ của Hong Kong . Họ họp chợ trên Phố Portland, khu vực đèn đỏ nằm song song với khu mua sắm chính trên đường Nathan. Tuy nhiên, không lâu sau khi các quan chức đến doạ bắt giữ bất cứ ai điều hành một quầy hàng. Những người bán hàng rong rút vào các hẻm nhỏ. Sân khấu cho đối đầu được thiết lập. Một nhóm người biểu tình xuất hiện và bắt đầu hộ tống những người bán hàng rong quay trở lại Phố Portland. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng, mang theo khiên tự chế, mặt nạ và biểu ngữ. Một cuộc đối đầu kéo theo, các đội chống bạo động của cảnh sát đã được gọi đến, và kết quả là một trận chiến trên đường phố kéo dài 10 giờ với dùi cui, gạch, chai và hai viên đạn được bắn lên không.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi các đội dọn vệ sinh đường phố quét dọn đống đổ vỡ, rõ ràng đây không thực sự là cuộc chiến tranh giành quyền bán cá vò viên bất hợp pháp trên đường phố. ‘Cuộc bạo loạn cá vò viên’ năm 2016 là sự bảo vệ 'tính địa phương', một sự bùng phát phản kháng lại chính phủ ở Bắc Kinh vốn được cho là đang cố gắng đồng nhất hóa văn hóa dân tộc và theo đó xóa bỏ lối sống vốn làm người Hong Kong thấy đặc biệt. Điều đó xảy ra trong một khu vực gai góc, đầy điều ác với một thế giới ngầm do các băng nhóm Triad (Thiên Địa hội) đối thủ tranh giành khiến việc xác định nguyên nhân chính xác của sự cố khó khăn, nhưng có một chút nghi ngờ rằng nằm dưới cuộc bạo loạn là một cảm giác bức hại văn hóa mạnh mẽ. Người địa phương, bao gồm người ủng hộ cho một nhóm tự gọi mình là ‘người bản địa Hong Kong’, đã quyết biến những người bán dạo cá vò viên thành một biểu tượng bản sắc mới - một <span id="docs-internal-guid-17b55873-7fff-dcc8-4f2d-445718aeff8d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chủ nghĩa </span></span>dân tộc Hong Kong đối lập với phiên bản hống hách của đại lục. Cảnh sát chống bạo động đã được triển khai như một đội tấn công chính trị, không phải chống lại những người bán hàng rong mà để đè bẹp một phong trào ly khai mới chớm nở.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi Anh chiếm lấy hòn đảo đá Hong Kong như một phần chiến lợi phẩm từ ‘Chiến tranh thuốc phiện’ năm 1840, dân số bản địa bao gồm một vài làng chài. Theo kiểu điển hình, người Anh đã thiết lập một chính quyền thuộc địa chỉ hoạt động bằng tiếng Anh. Trong thế kỉ rưỡi tiếp theo, hàng trăm nghìn người đại lục chạy đến thành phố để thoát khỏi đói nghèo, chiến tranh và loạn lạc tại quê nhà, mang theo các phương ngữ vùng miền khác nhau của họ. Nhưng phải đến năm 1974, cuối cùng người Anh mới bớt gay gắt với phản kháng của công chúng và cho phép sử dụng tiếng Trung như một ngôn ngữ chính thức. Tuy nhiên, họ không nói rõ phải sử dụng hình thức tiếng Trung nào, chủ yếu là vì không hề có tranh chấp: tiếng Quảng Đông là thứ tiếng được đa số cư dân nói. Và ở dạng chữ viết, người Hong Kong sử dụng chữ Hán truyền thống chứ không phải chữ giản thể do những người cộng sản ở đại lục đưa ra sau năm 1956.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Về mặt chính thức, không có thay đổi nào đối với sự sắp xếp này, mặc dù Hong Kong đã được bàn giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) vào năm 1997. Chữ Hán truyền thống vẫn được sử dụng trên các biển báo trên đường và các tòa nhà công cộng và tiếng Quảng Đông vẫn được sử dụng trong chính quyền và Hệ thống luật pháp. Có một số từ ngữ và hình thức diễn đạt nhất định chỉ có ở tiếng Quảng Đông và chúng được phổ biến rộng rãi thông qua ngôn ngữ chính thức và không chính thức. Tuy nhiên ‘người địa phương’ Hong Kong, như những người biểu tình ở Mong Kok tin rằng Ban lãnh đạo Cộng sản ở Bắc Kinh có ý định thay đổi điều này. Họ chưa bao giờ được tuyên bố chính thức, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy chiến dịch ‘<span id="docs-internal-guid-6bcce6e2-7fff-e8cb-6e8e-2be82841fb9a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ẩn giấu</span></span>' chống lại tiếng Quảng Đông - và chống lại chính ý tưởng về bản sắc Quảng Đông - đang được tiến hành.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một năm sau khi bàn giao, chính quyền Hong Kong đã quyết định rằng phiên bản tiếng Trung chính thức của lục địa, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Putonghua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(普通話: Phổ thông thoại), sẽ trở thành một môn học bắt buộc đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Tuy nhiên, nó được dạy như một thứ tiếng 'nước ngoài', có lẽ chỉ một giờ học mỗi tuần. Mười năm sau, chính quyền thành phố bắt đầu khuyến khích các trường học đưa tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thành ngôn ngữ giảng dạy. Từ năm 2008, các trường được cấp thêm kinh phí nếu họ đồng ý dạy tất cả các môn học bằng tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. <span id="docs-internal-guid-cb77e3f1-7fff-0e1a-f038-d43c1a96e79d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Ngày càng tăng</span></span>, các bậc cha mẹ Hong Kong bắt đầu chọn những trường này cho con cái của họ, với hi vọng rằng việc thông thạo tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> sẽ giúp họ kiếm được việc làm tốt hơn.Điều này dường như đã làm gia tăng khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái của họ, với những người Hồng Kông trẻ tuổi đang bực bội khi phải học bằng tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đối với một số người, điều đó có vẻ có hệ quả ngược với hệ quả được dự định: đặt họ vào con đường hướng tới sự phản kháng hơn là hòa nhập với đại lục.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc đó, nỗi lo sợ về tương lai của tiếng Quảng Đông cũng xuất hiện ở đại lục. Thành phố Quảng Châu (‘Canton’ theo tiếng Quảng Đông) là nơi <span id="docs-internal-guid-19e94e62-7fff-afa0-3e52-b81357dba6fd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chủ trì</span></span> Đại hội thể thao châu Á vào tháng 11 năm 2010. Vào tháng 7 năm đó, Ủy ban thành phố của Hội nghị Hiệp Chính Nhân dân Trung Quốc (HNHCNDTQ-cơ quan tập hợp Đảng Cộng sản và các tổ chức địa phương khác trong một mặt trận thống nhất) khuyến nghị rằng các đài truyền hình chính của tỉnh nên thay đổi chương trình phát sóng từ tiếng Quảng Đông sang tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kịp thời cho trận đấu. Luật của CHNDTH đòi hỏi tất cả các kênh truyền bằng vệ tinh chỉ được phát bằng tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vì vậy thay đổi này sẽ cho phép đài truyền hình Quảng Châu hưởng lợi từ việc phân phối qua vệ tinh. Ủy ban lập luận rằng điều này sẽ giúp cho nó có </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">lượng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> khán giả lớn hơn nhiều, cả bên trong Trung Quốc lẫn ở nước ngoài xem, nâng cao danh tiếng quốc tế của tỉnh. Theo Ủy ban, điều đó cũng sẽ cho phép những người nước ngoài đã học tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hiểu được tin tức.1</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhóm báo chí địa phương </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Southern Daily</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, khi đó được biết đến với tư tưởng độc lập, bắt đầu đưa tin về câu chuyện, ngay lập tức gây phản ứng trong diễn đàn thảo luận trực tuyến của họ và các nơi khác. Những người đóng góp nói về niềm tự hào của họ khi nói tiếng Quảng Đông, về việc nó gần với tiếng Trung cổ điển hơn đến dường nào, nó là một ngôn ngữ quốc tế với 100 triệu người nói trên khắp thế giới như thế nào và về tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phát âm nghe tệ hại như thế nào . Chiến dịch của Bắc Kinh chống lại tiếng Quảng Đông được một số người <span id="docs-internal-guid-4c4172cd-7fff-e91e-b23d-985d8113f9f4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thể hiện</span></span> như một chiến dịch chống lại chính văn hóa địa phương, với nhiều người nói rằng họ tin rằng mục đích cuối cùng của Chính phủ đã loại bỏ hoàn toàn tiếng Quảng Đông. Cũng có những lời chỉ trích về những người di cư từ các khu vực khác đã chuyển đến Quảng Châu và không học tiếng Quảng Đông. Tác giả của đề xuất của HNHCNDTQ cũng chính là một người di cư như vậy. Người dân địa phương đã đặt tên cho những người này: '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bei lao</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (北佬: bắc lão)-'bọn bắc' theo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trong tiếng Quảng Đông nghe rất giống với ‘bọn bắc trục lợi’ (</span><span style="background-color: yellow; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">北利: bắc lơi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">).3</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 25 tháng 7, cuộc biểu tình đã diễn ra ngoài đời thực, ở các đường phố thực của Quảng Châu. Ít nhất 2 000 người (có người nói là 10 000 người) đã tập trung bên ngoài ga tàu điện ngầm Giang Nam Tây để bày tỏ sự tức giận của họ. Một cuộc biểu tình khác với hàng trăm người đã được tổ chức một tuần sau đó tại Công viên Nhân dân của thành phố và một cuộc mít tinh đoàn kết được tổ chức cùng lúc ở Hong Kong.4. Một phong trào toàn-Quảng Đông dường như đang hình thành. Đáp lại, chính quyền Quảng Châu đã rút lại quyết định. Đề xuất tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của ủy ban đã bị đài truyền hình bác bỏ, kênh truyền hình đã bị ngắt khỏi mạng vệ tinh và các vận động viên và khán giả của Đại hội thể thao châu Á bắt buộc phải nhận tin bằng tiếng Quảng Đông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, đó chỉ là một cuộc rút lui chiến thuật. Ngày 30 tháng 6 năm 2014, bản tin hàng giờ của đài truyền hình Quảng Châu đã chuyển từ tiếng Quảng Đông sang tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.5 Đài cũng đã thay bốn người đọc tin nói tiếng Quảng Đông bằng người nói tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Sau đó, vào tháng 9, hầu hết các chương trình gốc của nó đã chuyển sang tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Một người trong cuộc nói với tờ báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South China Morning Post </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có trụ sở tại Hong Kong</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘Việc này đang được thực hiện một cách lặng lẽ, không có bất kì quảng cáo hoặc thông báo chính thức nào cho khán giả.’6 Chiến lược mới được các nhà phê bình so sánh với chuyện ngụ ngôn luộc ếch từ từ. Kết quả là một chiến thắng khác trong chiến dịch dài hơi nhằm khẳng định một quốc ngữ duy nhất trên toàn bộ lãnh thổ của CHNDTH. Nhưng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">điều đó </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">có thể làm ngạc nhiên một số độc giả muốn biết chiến dịch này còn bao xa nữa mới hoàn thành.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4 năm 2017, Bộ Giáo dục Trung Quốc và cơ quan của nó, được gọi bằng tiếng Anh là the State Language Commission7 (Ủy ban Ngôn ngữ Nhà nước - chính thức là Ủy ban Quốc gia Công tác Ngôn ngữ và Chữ viết),8 đặt mục tiêu 80% công dân Trung Quốc nói tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào năm 2020. Thật vô lí: cơ hội dạy cho 140 triệu người nói được một ngôn ngữ mới trong ba năm là rất ít, nhưng đó là chỉ dấu về sự cấp thiết mà Đảng Cộng sản thấy ở nó đối với công cuộc xây dựng đất nước. Cách đây khá lâu vào năm 1982 một điều khoản mới đã được đưa vào hiến pháp quốc gia bắt buộc nhà nước phải ‘thúc đẩy việc sử dụng tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trên toàn quốc’. Hơn một phần tư thế kỉ sau, thông báo của Bộ Giáo dục là một thừa nhận rằng sự thay đổi này có rất ít tác dụng: gần một phần ba dân số, khoảng 400 triệu người, không nói được ngôn ngữ quốc gia. Khi các cuộc biểu tình ở Hong Kong và Quảng Châu (chưa kể đến sự phản kháng nghiêm trọng hơn nhiều ở Tây Tạng và Tân Cương) cho thấy, ý tưởng về một quốc ngữ đã không được chào đón trên toàn quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở tất cả những nơi này, ngôn ngữ là một biểu tượng đáng tự hào. Nó là một lời nhắc nhở rằng có những bản sắc khu vực, thậm chí quốc gia, có trước bản sắc 'Trung Quốc' hiện đại vốn mới được đưa ra từ Bắc Kinh và Nam Kinh trong thế kỉ vừa qua. Các cuộc biểu tình trên đường phố Hong Kong trong năm 2019, do người dân lo ngại về việc trở thành đối tượng của hệ thống luật pháp không công bằng của đại lục, đã trở nên bạo lực vì lãnh đạo đại lục không đồng ý cho phép chính quyền địa phương thỏa hiệp với những người chỉ trích. Cuộc chiến chính trị đằng sau hậu trường đã được nhận thức như một cuộc tấn công vào ý thức khác biệt của người Hong Kong, ý thức về bản thân của họ. Và điều đó dường như là cố ý. Có rất ít không gian ở Trung Quốc của Tập Cận Bình cho những khác biệt về bản sắc văn hóa. Ngôn ngữ đã trở thành một chiến trường giữa xe lăn đường của chủ nghĩa dân tộc và nền đá cứng của sự khác biệt địa phương. Nhưng đây không phải là một hiện tượng mới: nó quay trở lại ý tưởng ban đầu của một quốc ngữ ngay từ đầu. Và nó lên đến đỉnh điểm với cuộc chiến giữa hai ông họ Vương và họ Uông xem ai là đúng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trụ sở mới của Bảo tàng Lịch sử Thượng Hải trước đây là Câu lạc bộ Đua xe của thành phố. Vào đầu thế kỉ 20, tòa nhà này là pháo đài của sức mạnh văn hóa đế quốc, nhưng giờ nó có mục đích mới: khẳng định ý thức về tính-Thượng Hải trải dài tới tận 'thời xa xưa’. Bằng một động thái nhẹ nhàng nhưng triệt để, các cuộc triển lãm kể câu chuyện về sự xuất hiện của một nền văn minh địa phương hơn là một nền văn minh ‘quốc gia’: một 'nền văn hóa Châu thổ sông Dương Tử' hơn là một 'nền văn hóa Trung Quốc'. Có hộp sọ của một người đàn ông từ nền văn hóa Majiabang (馬家浜: Mã Gia Banh) 6 000 năm tuổi và nét chạm khắc tinh xảo trên ngà voi từ nền văn hóa Liangzhu (良渚: Lương Chử) 4000 năm trước, nhưng không có chiến binh đất nung ở bất kì <span id="docs-internal-guid-b35b02d7-7fff-f8f2-73ba-f22a7426810b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỗ nào</span></span>. Ở mỗi tủ trưng bày, cha mẹ chăm chú đọc lời giải thích và lớn tiếng giải thích ý nghĩa của chúng cho các con trong các thanh âm chỏi nhau </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các ngôn ngữ <span id="docs-internal-guid-bcaf2ae5-7fff-13c3-83b4-fd95c00f193b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">địa phương</span></span>: tiếng Thượng Hải, tiếng Quảng Đông, tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mà không có ngôn ngữ nào trong số đó những người chế tạo ra những đồ tạo tác cổ đại này hiểu được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Lương Chử là ai? Chúng ta biết rất ít về họ, nhưng các nhà di truyền học, ngôn ngữ học, khảo cổ học và nhân chủng học đang bắt đầu ghép lại bức tranh. Những hài cốt người được tìm thấy tại địa điểm này đã được chứng minh là có dấu chỉ di truyền (genetic marker) trên nhiễm sắc thể nam vốn đặt họ trong nhóm 'Y haplogroup O1'. Mặc dù khoa học vẫn đang phát triển, nhóm haplogroup này (một nhóm dân cư được cho là có chung tổ tiên) có liên quan chặt chẽ với những người nói ngôn ngữ loại Tai-Kadai và Austronesian thấy có ở Đông Nam Á.9 Nói cách khác, giả thuyết hiện tại cho rằng những cư dân đầu tiên của Thượng Hải và đồng bằng sông Dương Tử đ<span id="docs-internal-guid-c9d55787-7fff-8667-016e-59c9c367eee2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ã từ Đông Nam Á di cư đến đó</span></span> bằng cách đi vòng quanh bờ biển và nói một ngôn ngữ có nhiều điểm chung với các dân tộc ở phía nam hơn là ở phía bắc. Với nguồn cá dồi dào, sự dễ dàng đi lại bằng thuyền và đất đai màu mỡ mà các đồng bằng các sông cung cấp, không có gì ngạc nhiên khi việc định cư của con người lan nhanh bằng đường biển hơn là đường bộ. Người Dương Tử trồng lúa mà có thể họ đã mang theo từ Đông Nam Á, trái ngược với những người phương Bắc trồng kê quanh sông Hoàng Hà. Những người trồng lúa Austronesian này đã cư trú hàng thiên niên kỉ trước khi những người nói các nhóm ngôn ngữ khác đến chung sống hoặc chinh phục họ. Nghiên cứu mới do giáo sư Kong Qingdong (孔慶東: Khổng Khánh Đông) thuộc Viện Động vật học Côn Minh lãnh đạo dường như xác nhận điều này. Nhóm của ông phát hiện ra rằng khoảng 10 000 năm trước, dân cư ở lưu vực sông Hoàng Hà và vùng hạ lưu sông Dương Tử và sông Châu Giang tách biệt nhau về mặt di truyền. Kết luận gây tranh cãi của ông là cả ba địa điểm đều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">có thể <span id="docs-internal-guid-2ec38ddd-7fff-e031-849a-834e3e4d1941"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tuyên bố</span></span> được gọi là tổ tiên của người Trung Quốc như nhau.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 0.6em; white-space: pre-wrap;">10</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả ngày nay về sự định cư thời tiền sử này là kiểu ngôn ngữ xung quanh vùng bờ biển Trung Quốc hoàn toàn khác với kiểu ngôn ngữ được tìm thấy trong <span id="docs-internal-guid-6a48a039-7fff-c8c3-c64e-e0e461a8e0eb"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nội địa</span></span>. Tiếng Thượng Hải, tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến (nói ở tỉnh Phúc Kiến và Đài Loan) và nhiều ngôn ngữ khác ít được biết đến hơn dựa trên gốc rể trải dài tới tận quá khứ xa xôi và sự phát triển của nó chỉ có thể được tái tạo lại một cách cẩn thận và một số phỏng đoán. Sự đồng thuận hiện tại là các ngôn ngữ hiện đại được sử dụng ở các thành phố Hong Kong, Thượng Hải và Hạ Môn - và hầu hết các vùng ở giữa - là kết quả của những ảnh hưởng pha trộn từ đông nam và đông bắc Á, một quá trình vẫn đang tiếp diễn.11 Một số nhà ngôn ngữ học nói về các 'tầng lớp' ngôn ngữ gần giống như các tầng lớp đá, với các hạt mới chảy vào từ nhiều hướng, được đặt trên các cấu trúc mới và trộn lẫn vào các thành tạo mới. Có quá nhiều ảnh hưởng đến từ phía bắc trong hai thiên niên kỉ qua đến nỗi khó có thể phát hiện ra các tầng lớp ban đầu. Tuy nhiên, có những từ, những cấu trúc ngôn ngữ và những cách phát âm trong các ngôn ngữ miền Nam này có nhiều điểm chung với các nước láng giềng Việt Nam và Thái Lan hơn là với tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">được chính thức bắt buộc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Lü Shuxiang (吕叔湘: Lữ Thúc Tương), một trong những người biên soạn đầu tiên bộ ‘Từ điển tiếng Trung đương đại' trong thập kỉ 1950, từng ước tính rằng có khoảng 2000 dạng ‘tiếng Trung' được nói trên khắp Trung Quốc và Đài Loan.12 Dù người nói một số dạng có thể hiểu người nói dạng khác mà không gặp quá nhiều khó khăn, nhà Hán học Mĩ quá cố Jerry Norman từng ước tính rằng có tới 400 dạng không thể hiểu được lẫn nhau.13 Về sau ông viết 'Một người nói phương ngữ Bắc Kinh không thể hiểu một người nói tiếng Quảng Đông tốt hơn một người Anh có thể hiểu một người Áo khi mỗi người sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Phương ngữ Mân Hải Nam khác với phương ngữ Tây An giống như tiếng Tây Ban Nha khác tiếng Rumani.'14 Làm thế nào để mô tả chính xác mối quan hệ giữa các kiểu nói khác nhau này là một vấn đề về chính trị không kém về ngôn ngữ. Như nhà ngôn ngữ học người Nga Max Weinreich đã có lời châm biếm nổi tiếng, ‘Một ngôn ngữ là một phương ngữ với lục quân và hải quân.’ <span id="docs-internal-guid-89ac7e35-7fff-2e1c-89b6-92bef5a8bcd9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Dù là chuyện hiển nhiên khi mô tả tiếng Tây Ban Nha và tiếng <span id="docs-internal-guid-51c61667-7fff-c0f9-bbf9-568cdd87a8d3"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Rumani </span></span>như là</span></span> hai ngôn ngữ khác biệt, chính phủ Trung Quốc vẫn khẳng định rằng tiếng Mân Hải Nam và tiếng Tây An chỉ đơn thuần là hai phương ngữ của một ngôn ngữ duy nhất được sử dụng bởi một quốc gia duy nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có một từ trong tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lách né những khó khăn này: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">fangyan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(方言: phương ngôn) - nghĩa đen là ‘ngôn ngữ địa phương’. Các học giả Trung Quốc không gặp vấn đề chính trị nào khi sử dụng nó vì nó có thể có nghĩa là ‘ngôn ngữ lẫn phương ngữ.’ Họ thường thừa nhận 7 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phương ngôn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chính được nói ở Trung Quốc: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Việt</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 粤 (bao gồm cả tiếng Quảng Đông), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Ngô </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">吴 (bao gồm cả tiếng Thượng Hải), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Mân</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 闽 (bao gồm cả tiếng Phúc KIến), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Khách Gia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">客家</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, tiếng Cống/Cám </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">赣 (ở tỉnh Giang Tây) và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Tương </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">湘 (ở tỉnh Hồ Nam). Có những ví dụ lịch sử về từ mà </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phương ngôn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> được dùng để mô tả cả những khác biệt nhỏ giữa cách nói địa phương lẫn sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ địa phương và ngôn ngữ châu Âu. Nhà ngữ học người Mĩ Victor H. Mair đã sáng tạo ra từ ‘topolect’ như một từ tương đương trong tiếng Anh cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phương ngôn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Nó mô tả một cách nói gắn bó với một địa điểm cụ thể (có thể khác nhau về kích cỡ) nhưng không cần phải xác định chính xác nó khác biệt như thế nào hoặc liệu đó có phải là ngôn ngữ được công nhận của một thực thể chính trị hay không. Do đó, Mair cảnh cáo việc sử dụng cụm từ ‘tiếng Trung’ vì việc lựa chọn ngôn ngữ duy nhất nào cho ‘người Trung Quốc’ nói là hoàn toàn có tính chính trị. Ông ấy thích nói về một nhóm ‘Sinitic’ các topolect có một quan hệ nào đó với nhau nhưng không nhất thiết xuất phát từ một gốc chung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến thời hiện đại, không có từ tiếng Trung nào để chỉ 'language’ (ngôn ngữ). Có một từ để chỉ chữ viết - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wenzi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(文字: văn tự) - và một từ để chỉ lời nói - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yuyan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(語言: ngữ ngôn) - và ý nghĩa của chúng rất khác biệt</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15 Mair lập luận rằng phần lớn các topolect Sinitic không bao giờ là ngôn ngữ viết; về mặt lịch sử, các topolect này được người không biết chữ nói. Ngôn ngữ viết - 'tiếng Trung kinh điển’ hoặc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wen </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(văn) - theo định nghĩa, chỉ được người biết chữ sử dụng. Nó chỉ được viết và đọc; không có dạng nói. Cũng có dạng lời nói văn hoa, được gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guanhua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(官話: quan thoại), được quan lại sử dụng. Tên của nó có nghĩa đen là 'lời nói của quan'. Người nước ngoài dường như đã không phân biệt được dạng nói và dạng viết của quan lại. Kết quả là cả chữ viết cổ điển,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> văn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, lẫn dạng nói, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, đã được gọi chung là 'Mandarin'. Từ 'Mandarin' (Quan thoại) thông qua từ tiếng Bồ Đào Nha </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mandar </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 'ra lệnh', nhưng với các kết nối với từ tiếng Mã Lai </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">mantri</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, mà chính nó lại được mượn từ tiếng Hindi-Urdu và có nghĩa là ‘quan chức’. ‘Quan thoại’, do đó, là cách dịch tốt của 'lời nói của quan.’16 Ngôn ngữ viết, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, là một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ingua franca </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngôn ngữ phổ biến</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) mà <span id="docs-internal-guid-50657bb2-7fff-9361-91e8-f728b85d3e22"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các nhà nho</span></span> và quan lại trên khắp đế chế có thể đọc được. Nó giữ một vai trò tương đương với tiếng Latin trong đế chế La Mã - nó là một phương tiện giao tiếp và cai trị. Đại đa số người dân La Mã không hề biết đọc tiếng Latin, nhưng những người cai quản cuộc sống của họ thì biết đọc.</span><span id="docs-internal-guid-ab5bd60e-7fff-5729-d095-73837813e247"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wen </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(Văn) </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cũng giống như vậy</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng cũng có một sự khác biệt chính giữa tiếng Latin và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Mặc dù có một dạng lời nói được giới thượng lưu sử dụng (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), lời văn của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cũng có thể sử dụng các âm-từ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">word-sound: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng) hoàn toàn khác theo các topolect địa phương để đọc to. Lệnh của triều đình và chiếu chỉ khác của trung ương sẽ được viết thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">văn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Bắc Kinh và sau đó, trên thực tế, ‘được dịch’ để có thể hiểu được ở các thành phố, thị trấn và làng mạc của đế chế. Theo thời gian, các từ trong các topolect địa phương được liên kết với các chữ trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> do đó chúng có vẻ đang <span id="docs-internal-guid-b76d6271-7fff-f6d3-3a00-a94c8eae643a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quy tới</span></span> cùng một ngôn ngữ. Ví dụ về một tình huống tương đương, hãy tưởng tượng Liên minh châu Âu ra lệnh rằng tất cả các ngôn ngữ châu Âu phải được viết bằng emojis (biểu tượng cảm xúc). Người nói tiếng Anh có thể nói ‘fish’ (cá), người nói tiếng Pháp nói 'poisson' và người Croatia nói 'riba’, nhưng tất cả sẽ có chung một chữ viết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng ngay cả tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cũng không phải là ngôn ngữ chính thức của nhà Thanh. Q</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">uan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chỉ được sử dụng để giao tiếp trong lãnh thổ Sinitic (‘Trung Quốc thuần túy’). Các phần khác của đế chế sử dụng các chữ viết khác nhau: chữ Tây Tạng, chữ Thổ Nhĩ Kì và chữ Mông Cổ. Triều đình dùng ngôn ngữ riêng của mình để điều phối các bộ phận lệ thuộc, như có thể thấy rõ trong một tủ trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thượng Hải. Triển lãm 222 có chứa 'Bức trướng của hoàng đế tặng cha mẹ của Lu Xixiong (陆锡熊: Lục Tích Hùng)', chủ biên bộ bách khoa toàn thư lớn của triều đại nhà Thanh. Bức trướng có từ năm 1780 là một cuộn gấm lụa bằng vàng và bạc. Phía vàng kim được trang trí lộng lẫy với thư pháp </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, nhưng phía bạc hoàn toàn bằng một văn tự khác: ngôn ngữ hành chính của triều đình nhà Thanh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 204px; overflow: hidden; width: 285px;"><img height="285.8326111744588" src="https://lh3.googleusercontent.com/KVebDG5zAOb0ApSD44fcDALs_pHo4x578oUMNDFPa_FCSy1UxaZcGWxyZmcJny_QRmzZXFWHFYse9itNz6Wbcu-ED7i-bFy6K9qWnW99ODNeQtZ7JBL5ubQxQNt7NVMNkcZbEMYq" style="margin-left: -327px; margin-top: -9.09495e-13px;" width="620.9999999999999" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-56b49054-7fff-296d-c909-0d31d52a9a66"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">15. Một cuộn lụa được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Thượng Hải. Lưu ý hệ thống chữ Mãn (trái) được sử dụng cùng với các chữ tiếng Trung. Tài liệu là 'Phong tặng của Hoàng gia cho cha mẹ của Lục Tích Hùng', năm 1780.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay đến cuối thời Đại Thanh quốc năm 1912, ngôn ngữ chính thức không phải là tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘Trung Hoa’ mà là tiếng Mãn, ngôn ngữ của những người từ phía đông bắc chinh phục đế chế nhà Minh và tiếp tục sáp nhập Mông Cổ, Tây Tạng và Tân Cương vào trong vương quốc của họ. Luôn có một 'khu tiếng Mãn’ trong viện Hàn Lâm, cơ quan thư kí của triều đình. Tất cả các tài liệu của chính phủ phải được viết bằng ngôn ngữ này và tất cả các bản ghi nhớ trình hoàng đế được trưng bày trong đó. Có các kho lưu trữ riêng cho các tài liệu bằng tiếng Mãn và cho các ngôn ngữ khác. Ngay cả sau khi hầu hết người 'Mãn' đã ngừng nói tiếng Mãn trong cuộc sống hàng ngày của họ, hàng trăm <span id="docs-internal-guid-830ee42d-7fff-bd10-590d-43f66fc1ff8a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thư lại</span></span> vẫn bận rộn với việc dịch các sắc chỉ và báo cáo chính thức từ tiếng Mãn sang các ngôn ngữ khác và ngược lại. Hoàng đế tiếp tục nói với quan lại và sứ thần bằng tiếng Mãn và trách phạt một số người không thể nói được tiếng Mãn.17 Bức trướng được trao cho cha mẹ của Lục Tích Hùng chỉ là một trong hàng chục ngàn ví dụ về chủ trương đa ngôn ngữ chính thức. Thật ra, trong tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thì tiếng Mãn thường được gọi như là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngôn ngữ quốc gia’ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoyu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(國語:quốc ngữ). Những thay đổi văn hóa đầu thế kỉ 20 và cuộc cách mạng 1911/12 sẽ đảo ngược hoàn toàn tình trạng này. Trên thực tế, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trở thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc ngữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và tiếng Mãn biến mất .</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cho đến khi kết thúc, Đại Thanh quốc không cần tới </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ngữ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">national</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> language) vì không có quốc gia Thanh. Triều đình chỉ cần một ngôn ngữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nhà nước </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">state</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> language) để quản lí đế chế đa ngôn ngữ và đa chủng tộc của mình. Mãi cho đến </span><span id="docs-internal-guid-538e151c-7fff-ef81-035e-bf2444efe2eb"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khi Tôn Dật Tiên, Lương Khải Siêu và những người cùng thời với họ tưởng tượng ra một quốc gia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong hiện thực</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong hai thập kỉ 1890 và 1900, câu hỏi về quốc ngữ thậm chí còn chưa được nghĩ đến. Và số phận của cuộc thảo luận đó bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi một loạt câu hỏi khác về ngôn ngữ được các trí thức khác đặt ra cùng lúc đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhiều nhà cải cách đổ lỗi thất bại trong cuộc Chiến tranh Trung Nhật năm 1894/5 cho sự yếu kém trong giáo dục của đế quốc. Ngay cả lính Nhật cấp dưới cũng có thể đọc mệnh lệnh và bản đồ, không giống như lính phía đối phương nhà Thanh. Nhưng những người cải cách cũng nhìn thấy một lí do sâu xa hơn: ở các nước khác, giáo dục đại chúng đã <span id="docs-internal-guid-93a39c8d-7fff-2a9d-f28f-3c0855904fb5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dựng xây dân tộc.</span></span> Một nhà <span id="docs-internal-guid-ea52891e-7fff-7499-3858-0ad86cd87c20"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">canh tân</span></span> hóa Nhật Bản, Ueda Kazutoshi, đã học ở Berlin và Leipzig vào thập kỉ 1890, nơi ông đã chấp nhận lập luận của các nhà lí luận ngôn ngữ Đức rằng tiếng mẹ đẻ 'đại diện cho tinh thần nội tại của <span id="docs-internal-guid-148c3ba3-7fff-27ac-cd26-11d18c0ed944"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dân tộc</span></span>'. Năm 1898, Ueda được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cục Giáo dục Đặc biệt của Nhật Bản với nhiệm vụ tạo ra một ngôn ngữ quốc gia thống nhất giữa lời nói và chữ viết. Điều này dính dáng tới việc tiêu chuẩn hóa và hạn chế việc sử dụng các chữ Hán truyền thống (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kanji</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), xác lập ngôn ngữ của tầng lớp thượng lưu Tokyo thành tiêu chuẩn quốc gia chung và khuyến khích sử dụng cách nói tại chỗ này trong các tác phẩm viết.18</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi đó, những nhà truyền giáo như Timothy Richard đang thuyết giảng tấm gương của Nhật Bản trên các trang của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wanguo Gongbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(萬國公報: Vạn quốc công báo) và các trang báo khác (xem Chương_4). Cuốn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản luận </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Hoàng Tuân Hiến, được tái bản vào năm 1895 (xem Chương_3), cũng là nguồn cảm hứng chính cho các nhà cải cách </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">nhà Thanh</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">. Thông điệp của họ rất rõ ràng: giáo dục đại chúng thông qua trường học, thư viện và báo chí sẽ đoàn kết và làm cho đất nước vững mạnh. Kiến nghị cải cách năm 1895 của Khang Hữu Vi và 'Đề xuất cải cách toàn diện' năm 1896 của Lương Khải Siêu đều kêu gọi mở rộng giáo dục và sự cần thiết phải học hỏi từ Nhật Bản, và thông điệp này đã được Hoàng đế Quang Tự đón nhận. Một trong những hành động cuối cùng của ông trước khi bị người dì của ông đảo chính là ban hành một chiếu chỉ kêu gọi có nhiều bài dịch hơn từ tiếng Nhật và cử sinh viên đến Nhật Bản để học cao hơn. Sau cuộc đảo chính của thái hậu Từ Hi và sự sụp đổ của cuộc Cải cách Trăm ngày, thực sự đã có một cuộc di cư đầy kịch tính đến Nhật Bản, nhưng chỉ trong số những nhà cải cách trốn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">chạy </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">tìm sự sống. Tuy nhiên, sau khi chính Từ Hi bắt đầu đưa ra các cải cách trong thập kỉ 1900, chính phủ đã cử số lượng sinh viên đến đó học tập ngày càng nhiều. Trong thập kỉ tiếp theo, họ đã có cái nhìn trực tiếp về tác động của hiện đại hóa ngôn ngữ đang diễn ra ở Nhật Bản dưới sự chỉ đạo của các quan chức như Ueda Kazutoshi. Những người có đầu óc cấp tiến hơn đã khung vấn đề này vào </span><span id="docs-internal-guid-de1e97ed-7fff-9548-29df-13957ad2d1ee"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thuyết </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> Darwin Xã hội: như một sự lựa chọn giữa cải cách và diệt vong. Như họ thấy, ngôn ngữ là trung tâm của vấn đề. Một số người cho rằng tiếng Trung chỉ đơn giản là không thích ứng được với sự tồn vong của quốc gia : nó không thể đáp ứng với các khái niệm hiện đại, mất quá nhiều thời gian để học và do đó khiến quá nhiều người mù chữ và bị tước đi năng lực.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuốn sách của Hoàng Tuân Hiến đã giới thiệu phiên bản tiếng Nhật về niềm tin của các nhà lí thuyết người Đức về sự cần thiết phải có ‘sự tương đồng giữa lời nói và chữ viết’ với độc giả Trung Quốc lần đầu tiên. Ông đã dịch cụm từ này - qua tiếng Nhật - là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yan wen heyi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(言文和意: ngôn văn hòa ý)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hiến lo ngại về sự khó khăn của việc học các chữ Hán cổ điển và sự xa cách của chúng với ngôn ngữ nói trong trò chuyện hàng ngày. Ông lưu ý rằng Anh và Pháp đã trở thành những quốc gia mạnh sau khi từ bỏ tiếng Latin và thay vào đó, viết bằng ngôn ngữ mà người dân nói. Nhật đã làm theo sau khi bổ sung chữ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kanji </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">với chữ viết phiên âm, được gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kana </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong tiếng Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, lập luận của Hiến chứa đựng hai hàm ý chỉ ra tương lai của cải cách ngôn ngữ theo hai hướng khác nhau. Chúng thường được cho là chỉ cùng một thứ nhưng sự khác biệt giữa chúng sẽ là cơ sở cho việc tạo ra ngôn ngữ quốc gia Trung Quốc trong tương lai. Hiến kêu gọi cả cho một kiểu viết hiện đại sử dụng các chữ Hán truyền thống lẫn cho một cách viết chỉ ra cho người nói cách phát ra âm của ngôn ngữ - một chữ viết ghi âm.19. Hiểu rằng trên thực tế, đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau đưa chúng ta tới trung tâm của nỗi khó khăn mà những người cải cách đang gặp phải.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý tưởng về một chữ viết Sinitic ghi âm đã thực sự được lan truyền trong một thời gian. Các nhà truyền giáo Cơ đốc và các nhà ngoại giao nước ngoài đã tạo ra các phiên bản của riêng họ để giúp cho việc truyền bá tôn giáo và thu thập thông tin. Hệ thống 'Wade-Giles', do các quan chức Anh Thomas Wade và Herbert Giles là tác giả, đã trở thành tiêu chuẩn của Anh. Tuy nhiên, nó không đủ tốt cho người bản ngữ và việc họ tìm kiếm các phương cách thay thế vẫn tiếp tục. Những gì họ chia sẻ là tham vọng đổi các chữ Hán truyền thống mà mỗi chữ thể hiện cho một từ (<span id="docs-internal-guid-c33541f9-7fff-eefd-9d12-0f8fb92a670d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trên thực tế </span></span>là một 'morpheme' - hình vị), thay bằng các kí hiệu thể hiện cho các âm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thực tế </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">được phát ra của từ. Ví dụ: thay vì chữ thể hiện cho mèo hoặc khái niệm sợ, một chữ viết ghi âm sẽ biểu thị các âm 'm' và ‘èo’ hoặc ‘s’ và ‘ợ’'. Tuy nhiên, mặc dù có sự đa dạng và khéo léo, tất cả các hệ thống ghi âm đều gặp phải cùng một vấn đề vốn đã hiển nhiên ngay từ đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lu Zhuangzhang (盧戇章: Lư Tráng Chương), một tín đồ Cơ đốc giáo ở thành phố Hạ Môn thuộc tỉnh ven biển Phúc Kiến, là người đầu tiên chính thức công bố kế hoạch cho một hệ thống chữ viết phiên âm. Chương đã thử nghiệm ý tưởng này trong hơn một thập kỉ khi làm công việc phiên dịch cho các thương nhân nước ngoài và sau đó cho nhà truyền giáo người Anh, John Macgowan.20 Chương đã giúp Macgowan tạo ra một từ điển Hạ Môn-Anh vào năm 1883, nhưng sau đó, vào năm 1892, ông đã xuất bản hướng dẫn của riêng mình về topolect này có tựa đề ‘Cách viết ghi âm mới nhanh nhất của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phương ngôn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Hạ Môn’. Chương đã điều chỉnh các chữ cái trong bảng chữ cái Latin để sáng chế ra tổng cộng 62 kí hiệu phát âm mới. Trong số đó có 15 kí hiệu biểu thị âm đầu của mỗi âm tiết và 47 biểu thị âm cuối. Thật không may cho Chương, những kí hiệu không quen thuộc và sự phức tạp rất khó nắm bắt và bảng chữ cái của ông không tạo ra được bất kì tác động nào. Tuy nhiên, ý tưởng của ông vẫn tiếp tục sống sót. Năm 1895, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vạn quốc công báo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Timothy Richard đã đăng bài luận của Chương về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nền tảng của Cải cách' trong đó ông đã kêu gọi một loại chữ viết ghi âm. Bài viết cho rằng bảng chữ cái, và việc phổ cập chữ viết phổ biến mà nó tạo điều kiện, đã làm cho các xã hội phương Tây trở nên mạnh mẽ và nên được mô phỏng ở Trung Quốc. Năm 1898, Chương đã gửi hệ chữ viết ghi âm của mình cho triều đình để xem xét trong các cải tổ của hoàng đế Quang Tự. Một lần nữa, nó không giành được sự ủng hộ. Thật vậy, phản hồi chính thức mô tả nó là không đầy đủ và lạ lùng.21</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vấn đề chính đối với kế hoạch của Chương là, mặc dù có thể là một cách tốt để học nói theo kiểu cách Hạ Môn, nhưng nó không <span id="docs-internal-guid-e0491db2-7fff-72ef-9748-c8997d94a0e6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ích cho người nói</span></span> tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông, tiếng Thượng Hải hoặc bất kì topolect nào khác. Các bảng chữ cái ghi âm khác được phát triển trong vài năm sau đó cũng chịu <span id="docs-internal-guid-5b5d70ae-7fff-702b-9127-e2f33e94a43a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cảnh tương tự về</span></span> cùng vấn đề. Học giả Trung Quốc Ni Haishu (倪海曙: Nghê Hải Thự) đã xác định được 29 hệ thống đối thủ được công bố từ năm 1892 đến năm 1910.22 Đồng nghiệp người Mĩ </span><span style="background-color: yellow; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Jing Tsu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> tin rằng có nhiều hơn, bao gồm một số do </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa kiều</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (người Trung Quốc sống bên ngoài Trung Quốc) công bố.23 Một số người trong đó sử dụng các kí hiệu dựa trên các chữ Hán, giống như hệ thống chữ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kana của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản . Một số khác sử dụng các chữ cái La Mã, giống như cách mà tiếng Việt đã trở thành tiếng La Mã hóa vào khoảng thời gian đó. Nhưng không hệ nào trong số đó lại đáp ứng tốt cho mọi topolect. Chính hành động cố gắng viết ra cách phát âm đã làm rõ điều mà việc sử dụng các chữ đã che giấu - sự đa dạng tuyệt đối của các cách nói địa phương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bảng chữ cái duy nhất tạo ra tác động đáng kể trong thời kì này được đề xuất bởi một người trong chính phủ, một quan chức cấp dưới có quan hệ tốt tại 'Ban nghi lễ' của triều đình nhà Thanh. Hãy gặp ông họ <span id="docs-internal-guid-a274f309-7fff-9111-011e-d4cd1d368a38"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Vương</span></span>: Wang Zhao (王照: Vương Chiếu). Ông nội của Chiếu là một vị tướng bị giết trong Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất và gia đình vẫn có bạn bè trong giới có ảnh hưởng. Tuy nhiên, không ai trong số họ có thể bảo vệ Chiếu sau khi ông công khai ủng hộ các cải cách năm 1898. Cũng như nhiều người khác, ông buộc phải lưu vong ở Nhật Bản. Không giống như hầu hết người khác, ông nhận ra rằng mình không thích bầu bạn với các nhà cải cách khác và <span id="docs-internal-guid-9b9947d6-7fff-b37d-460e-3551be946e00"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lén</span></span> trở lại cảng Thiên Tân cải trang thành một nhà sư. Tại đây, ông mở một trường dạy ngôn ngữ dưới một tên giả và bắt đầu nghiên cứu bảng chữ cái phiên âm của riêng mình. Ông đã công bố nó vào năm 1901 như là 'Bộ vần phương ngôn phía bắc' như một trợ giúp cho những người mù chữ viết phương ngôn của họ. Có vẻ như ở giai đoạn này, đó là tất cả những gì Chiếu muốn kế hoạch của mình đạt tới. Không giống như hệ chữ viết của Chương, hệ chữ của Chiếu dựa trên các chữ Hán truyền thống, dù có hình thức đơn giản hơn nhiều. Giống như hệ của Chương, chữ viết của ông có 62 kí hiệu nhưng với 50 biểu thị phần đầu của âm tiết và chỉ có 12 mô tả phần cuối.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tham vọng của Chiếu sau đó lớn dần. Ông chuyển đến Bắc Kinh và mở một trường học mới ở đó. Năm 1904, ông tìm kiếm và nhận được sự ân xá chính thức từ triều đình cho các hoạt động cải cách trước đó, cho phép ông chuyển vào trong giới quan lại lần nữa. Chuyện thường gặp là một người bạn của một người bạn của Chiếu là con trai của Viên Thế Khải, tổng đốc tỉnh Trực Lệ, tỉnh bao quanh Bắc Kinh. Viên Thế Khải trở thành người ủng hộ quan trọng nhất cho bộ vần của Chiếu. Năm 1904 Khải cho phép tài trợ để đào tạo giáo viên, xuất bản sách đọc và phổ biến việc sử dụng nó trong quân đội. Đến năm 1906, tham vọng của Chiếu càng lớn hơn. Trong phiên bản cuốn sách được xuất bản năm đó, Chiếu đã điều chỉnh lời tựa để vờ rằng bộ vần này dựa trên hướng dẫn phát âm đầu thế kỉ 18, ngụy trang nguồn gốc thực sự của nó trong topolect của nông dân địa phương. Sách báo bắt đầu được in với bảng chữ cái và năm 1907 việc sử dụng nó đã lan tới Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sau đó, như nhà sử học Elisabeth Kaske đã phát hiện ra, vấn đề bắt đầu xảy ra. Mặc dù bộ vần có thể được sử dụng ở Bắc Kinh và thủ phủ Bảo Định của tỉnh Trực Lệ, nó không có tác dụng ở Thiên Tân, dù chỉ cách đó 100 km. Cách phát âm đơn thuần là quá khác biệt. Đã có những nỗ lực để điều chỉnh hệ chữ viết và phổ biến việc sử dụng nó đến Nam Kinh và các thành phố khác, nhưng chúng đã tàn lụi. Không có lãnh đạo tỉnh nào khác nhiệt tình với hệ thống này như Viên Thế Khải. Có vẻ họ nhận ra khó khăn của việc tạo ra một bảng chữ cái ghi âm có thể mô tả cách phát âm của toàn bộ đất nước. Chính phủ trung ương cũng không quan tâm. Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản các nhà cải cách đưa ra các đề xuất mới. Nhưng trong khi những nỗ lực đầu tiên để tạo ra các chữ viết ghi âm là dành cho các topolect ở phía nam và đông nam, Kaske đã lưu ý rằng, sau năm 1908, chỉ có các chữ viết cho ‘tiếng Bắc Kinh' được đề xuất.24</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, vào thời điểm đó, một phản ứng chống lại các chữ viết ghi âm đang tập hợp được sự ủng hộ. Việc đó bắt đầu vào năm 1906 với các bài báo trên tờ báo Thượng Hải </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongwai Ribao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(中外日報: Trung ngoại nhật báo), cho rằng các chữ viết ghi âm dành cho những topolect khu vực làm tổn hại cho sự thống nhất của đất nước. Ngay sau đó Lương Khải Siêu ngưng sự ủng hộ của chính mình cho các chữ viết ghi âm và vào tháng 4 năm 1907, ông đã viết một bài báo cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Học báo</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> với tựa đề 'Phân tích nguồn gốc của quốc văn’ (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guowen yuyuan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> jie/國文語源解: Quốc văn ngữ nguyên giải), lập luận rằng chính cách viết các chữ Hán truyền thống đã đoàn kết đất nước chúng ta, và thông qua nó các đặc điểm của nhân dân ta được mở ra và tiếp nối'.25 Như chúng ta đã thấy trong Chương 5, Siêu là người đã làm hơn bất cứ ai trong việc <span id="docs-internal-guid-227a73df-7fff-fda9-fcc6-3675f650608d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> tưởng tượng dân tộc thành hiện hữu và ông đi đến việc tin rằng một dân tộc thống nhất cần có một tiếng mẹ đẻ thống nhất - giống như các nhà lí thuyết người Đức đã giải thích với Ueda Kazutoshi: một dân tộc với một nhà nước và một ngôn ngữ</span></span>. Sứ mệnh quốc gia này sẽ bị hủy hoại bởi sự tồn tại của các chữ viết ghi âm, vì loại chữ viết này đã chứng minh rõ ràng rằng tiếng mẹ đẻ còn lâu mới thống nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thay vì vậy, những người dân tộc chủ nghĩa đã khung lại toàn bộ câu hỏi về ngôn ngữ. Vì dân tộc Trung Quốc duy nhất và quốc gia Trung Quốc duy nhất của nó chỉ có thể có một ngôn ngữ Trung Quốc duy nhất, nên trường hợp hàng trăm kiểu nói khu vực phải chỉ đơn giản là con cháu của một cha mẹ. Theo quan điểm của những người dân tộc chủ nghĩa này, vô số dạng ‘Sinitic’ đều chỉ đơn thuần là tiếng địa phương. Ý tưởng rằng những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phương ngôn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">này có thể có nguồn gốc khác nhau đã không được xem xét. Những người dân tộc chủ nghĩa đã né tránh vấn đề về sự tồn tại của các ngôn ngữ khác nhau với việc khẳng định rằng khó khăn chỉ đơn thuần là khó khăn về cách phát âm. Những phương ngữ con cháu đó cần được đưa vào nếp trở lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc lập thuyết của phương Tây về ngôn ngữ vẫn còn sơ khai vào thời điểm này, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa đế quốc vốn đặc trưng cho tư duy của người châu Âu vào cuối thế kỉ 19. Tuy nhiên, đây là những ý tưởng đã định hướng cho các nhà cải cách tiếng Trung. Năm 1898 nhà cấp tiến Chương Bỉnh Lân đã giúp người bạn của mình là Zeng Guanquan (曾广铨: Tăng Quảng Thuyên, cháu trai của tướng nhà Thanh Tăng Quốc Phiên - xem Chương 2) dịch một luận văn điển hình của thuyết Darwin xã hội của Herbert Spencer có tựa đề 'Progress: Its Law and Cause’ (Tiến bộ: Quy luật và Nguyên nhân) cho tạp chí </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Changyanbao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(昌言報: Xương ngôn báo). Dù không nói được tiếng Anh, Lân nhận ra sự tương đồng trong lập luận của Spencer về sự tiến hóa của ngôn ngữ với các khái niệm phân tích văn bản truyền thống của Trung Quốc. Mục đích của Spencer là chỉ ra cách thức mà quá trình tiến hóa và thích nghi đã biến đổi một cách tự nhiên một dân số thuần nhất duy nhất thành một số nhánh khác nhau theo thời gian. Spencer đã dùng ví dụ trong ngôn ngữ để nói lên quan điểm của mình: nguồn gốc chung đã sinh ra hàng trăm ngôn ngữ hậu duệ qua nhiều thế kỉ. Chương Bỉnh Lân đã sử dụng cái nhìn sâu sắc này để lập luận rằng mô hình của các topolect bên trong 'Trung Quốc thuần túy’ (lãnh địa cũ của nhà Minh) chỉ đơn giản là kết quả của sự đa dạng hóa từ một tổ tiên chung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lân sử dụng những ý tưởng vay mượn của châu Âu này cho một số mục đích. Mục đích đầu tiên của ông là lập luận rằng mô hình ngôn ngữ đã cho thấy sự tồn tại của dân tộc Trung Quốc. Trong một bài báo dài có tựa đề 'Phương ngôn mới' (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tân Phương ngôn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), đăng trên một số ấn bản của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guocui Xuebao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(國粹學報: Quốc túy Học báo) trong thời gian từ tháng 10 năm 1907 đến tháng 8 năm 1908, Lân đã cố gắng chỉ ra rằng các từ ngữ thấy có trong phương ngữ khu vực thật ra có nguồn gốc từ các từ thấy có trong các từ điển từ thời Hán, hai thiên niên kỉ trước. Lân lập luận, vì có một mối liên hệ tiến hóa liên tục giữa ngôn ngữ xa xưa này và kiểu dáng ngoại sinh ngày nay, sự đa dạng không nên là nguyên nhân gây lo ngại: nó chỉ đơn giản là hệ quả của tiến bộ.26 Ông giải thích rằng mục đích của ông khi đưa ra lập luận này rõ ràng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">‘để đoàn kết người dân.'27</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, việc Lân bảo vệ sự đa dạng cũng là một cuộc tấn công tiềm tàng đối </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nền văn hóa ‘phía bắc’. Trong ấn bản năm 1904 của cuốn sách phản Thanh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cầu thư </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ‘Sách về sự khẩn cấp”, Lân đã lập luận chống lại việc áp đặt cách phát âm chuẩn Bắc Kinh trên toàn quốc bởi vì, theo quan điểm của ông, cách nói phương bắc đã bị ô nhiễm qua nhiều thế kỉ bởi các cuộc xâm lược của ‘người Tartar’ (韃靼: Thát Đát) Trung Á. Cách tiếp cận tài liệu lịch sử ‘lựa và trộn’ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">(pick and mix) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của Lân cho phép ông lập luận rằng cách phát âm thuần khiết nhất thật sự là của tỉnh Hồ Bắc. Ông đã đảo ngược hệ thống thứ bậc của người Bắc Kinh: trung tâm văn hóa <span id="docs-internal-guid-18c3f6bd-7fff-363a-676c-7d5af2667fdd"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thật sự của Trung Quốc</span></span> là phía nam. Do đó, ông yêu cầu một cách phát âm quốc gia dựa trên phương ngữ của khu vực xung quanh thủ đô Nam Kinh của nhà Minh trước đây, bao gồm cả nơi ông sinh ra, Hàng Châu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quan điểm của Lân về sự tiến hóa ngôn ngữ dựa trên quan điểm rộng hơn của ông về sự tiến hóa chủng tộc. Trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cầu thư</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Lân tán thành lí thuyết của giáo sư Ngôn Ngữ Đông Dương thuộc Đại học London, Terrien de Lacouperie. De Lacouperie <span id="docs-internal-guid-876b4f0f-7fff-c9fd-fc08-047c3dc2bb8e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">khẳng định </span></span>đã tìm thấy đủ các điểm tương đồng giữa nền văn hóa cổ Lưỡng Hà và nền văn hóa thời kì đầu của Trung Quốc để xác định rằng vua Hoàng Đế, trên thực tế, là một vị vua Babylon có tên là Kudur-Nakhunte, ông đã di cư về phía đông vào thế kỉ 23 TCN. Điều này dường như giải thích cách một nền văn hóa nguyên thủy đơn nhất đã đến </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nhiều thiên niên kỉ trước và trở nên đa dạng trong nhiều thế kỉ sau đó. Đối với Lân, điều này là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">sự </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">xác nhận về sự tồn tại của một dân tộc duy nhất từ thời cổ xưa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù lí thuyết de Lacouperie khá nhanh chóng bị mất tín nhiệm, nhưng quan điểm về lịch sử dân tộc này - rằng có một điểm khởi đầu duy nhất cho một nền văn hóa Trung Quốc thuần nhất - vẫn còn kéo dài. Thật vậy, nó đã trở thành trung tâm của toàn bộ dự án của người theo chủ nghĩa dân tộc. Ý tưởng rằng có thể có nhiều nguồn văn hóa, rằng việc di cư đến </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và quanh bờ biển có thể </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đến </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">từ các nguồn khác nhau và vào các thời điểm khác nhau, không phải là một phần trong cuộc trò chuyện của những người dân tộc chủ nghĩa. Thay vì vậy, họ tranh nhau để đưa ra các khẳng định về nguồn gốc của nền văn hóa dân tộc duy nhất nào là đích thực nhất. Và, giống như hầu hết các đồng chí cách mạng của mình vào thời điểm đó, Lân tin rằng nền văn hóa duy nhất đó được thể hiện tốt nhất thông qua việc viết chữ truyền thống.28</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng đây không phải là quan điểm được tất cả các nhà cách mạng chia sẻ. Đối với một số người, chữ Hán - và mọi thứ mà chữ này thể hiện - là vấn đề. Họ không quan tâm đến việc tạo một bộ chữ mới hoặc giới thiệu bảng chữ cái để làm cho ngôn ngữ Trung Quốc dễ học hơn. Đúng vào thời điểm Lân đăng bài viết dài của mình về sự tiến hóa của các topolect tiếng Trung, những người theo chủ nghĩa vô chính phủ Trung Quốc đang sinh sống ở châu Âu đã kêu gọi thay thế tất cả các topolect đó bằng ngôn ngữ Esperanto mới được phát minh. Họ nhìn thấy chữ Hán truyền thống và ngôn ngữ kinh điển gắn bó chặt chẽ với kinh sách cổ điển của Nho giáo, lề lối suy nghĩ truyền thống và toàn bộ bản chất tụt hậu của xã hội Trung Quốc. Họ muốn thay đổi toàn bộ xã hội, và điều đó có nghĩa là loại bỏ toàn bộ ngôn ngữ Trung Quốc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lân cảm thấy có nghĩa vụ phải phản hồi. Trên sách báo, ông bảo vệ mạnh mẽ văn hóa, ngôn ngữ và chữ viết, dù ông thừa nhận rằng có chỗ cần hoàn thiện. Ông đề nghị điều chỉnh hệ thống kí hiệu phiên âm truyền thống được gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">fanqie </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(反切: phiên thiết) để giúp người học ghi nhớ âm của các chữ, tạo ra một cách thể hiện bản địa (sử dụng ví dụ trước đó, từ ‘mèo’ thông qua các âm ‘m' và ' èo’). Sau đó Lân đã dành một khoảng thời gian để phát triển phiên bản hệ thống </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phiên thiết </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của riêng ông. Giống như một số đề xuất cải cách ngôn ngữ khác, đề xuất của Lân đòi hỏi có hai loại kí tự: một cho phụ âm đầu và một cho nguyên âm. Không giống như những hệ khác, hệ thống của Lân dựa trên các vần (rhyme) có trong sách vở thế kỉ thứ 10 và 11. Là một học giả về ngôn ngữ, Lân nhấn mạnh rằng các kí hiệu của ông là xác thực hơn nhiều so với bất kì đối thủ nào. Nhược điểm lớn là chúng có ít liên quan đến cách mọi người thật sự nói vào đầu thế kỉ 20. Tuy nhiên, sau một năm tranh luận, Lân và những người theo chủ nghĩa vô chính phủ tạm ngừng tranh luận. Năm 1909, những người theo chủ nghĩa vô chính phủ thừa nhận rằng việc đưa Esperanto trở thành ngôn ngữ quốc gia là không thực tế (mặc dù một số người khác tiếp tục áp dụng nó cho đến những năm 1930) và rằng việc phát âm các chữ tiếng Trung phải được chuẩn hóa trên toàn quốc. Quan trọng nhất, cả hai phía đều đồng ý rằng cách phát âm tiếng Bắc Kinh là tởm lợm và không nên làm thành tiêu chuẩn quốc gia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi các nhà cách mạng lưu vong mưu tính ở nước ngoài, các nhà cải cách ở Bắc Kinh đã bắt đầu thay đổi hệ thống giáo dục quốc gia theo mô hình phương Tây. Năm 1902, Quy chế trường học quốc gia đầu tiên được ban hành, định ra một chương trình giảng dạy mới. Một bộ quy chế sửa đổi, chế định việc thành lập các trường học (chỉ dành cho nam sinh), được ban hành vào năm 1904. Bộ Giáo dục được thành lập vào tháng 12 năm 1905 và năm 1907 một luật mới cho phép thành lập trường học cho nữ sinh. Tuy nhiên, việc thực hiện luật lệ và quy định mới này rất không đồng đều. Ở các tỉnh do các quan chức có tư tưởng cải cách kiểm soát và những quan chức đó có thực quyền thì có nhiều tác dụng hơn. Cải cách cũng có giới hạn của nó: chính phủ tiếp tục yêu cầu học sinh học kinh sách Nho giáo và thuộc lòng chữ Hán cổ điển. Ở một số nơi, đặc biệt là ở các trường nữ, một hình thức sáng tác văn học hiện đại hơn đã được cho phép, nhưng nhìn chung câu hỏi về việc đọc các chữ trên in trang sách như thế nào vẫn chưa được giải đáp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó, tháng 4 năm 1909, Bộ Giáo dục đã đồng ý một 'Chương trình Hành động về định chế’ quy định rằng các quan chức phải bắt đầu biên soạn sách giáo khoa tiếng Quan thoại mới vào năm sau. Tuy nhiên, cuối năm sau, các thành viên của Hội đồng Tư vấn quốc gia mới được thành lập đã yêu cầu thay đổi. Dưới ảnh hưởng của các nhà lí thuyết ngôn ngữ quốc gia người Nhật (và do đó người Đức), họ kêu gọi tiếng Mandarin- </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- được đổi tên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoyu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' - quốc ngữ. Biết rõ rằng ‘quốc ngữ' còn rất xa mới có ‘tính quốc gia’, họ cũng kêu gọi có các nghiên cứu thích đáng về ngữ pháp và cách phát âm cũng như về việc in từ điển và sách giáo khoa. Nhưng không cần đợi kết luận của những nghiên cứu này, họ cũng kêu gọi đưa vào bộ vần của Vương Chiếu trên toàn quốc để chuẩn hóa cách phát âm. Sự khác biệt giữa ‘lời nói’ và 'ngôn ngữ' đã bị xóa. Câu hỏi phải làm gì về sự đa dạng của các topolect địa phương đã được hoàn toàn <span id="docs-internal-guid-d5f0e509-7fff-0044-c724-81f2cbd1156d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bị khung lại</span></span>. Trọng tâm bây giờ là tính thống nhất của ‘quốc ngữ'.29.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 7 và tháng 8 năm 1911, <span id="docs-internal-guid-82ea9464-7fff-dd04-1600-efa611d2b0ee"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tại </span></span>một trong những hoạt động cuối cùng của mình, Bộ Giáo dục của Nhà Thanh đã triệu tập ‘Hội nghị Giáo dục Trung ương’ để bắt đầu quá trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi ngôn ngữ. Trong kết luận của mình, các đại biểu đã kêu gọi Bộ nên thành lập ‘Ủy ban nghiên cứu ngôn ngữ quốc gia’ thật sự chứ không phải chỉ nói về nó. Họ cũng đồng ý về ‘tính thống nhất của quốc ngữ’ với một cách phát âm được thống nhất trên toàn quốc. Dù có sự tức bực lớn của các đại biểu phía Nam, hội nghị đã bỏ phiếu lấy topolect Bắc Kinh làm cơ sở cho ‘cách phát âm cho cả nước’, mặc dù có một số nhân nhượng đối với biến thể địa phương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trớ trêu là người phụ trách tiến trình này lại là một người gốc ở tỉnh Trực Lệ tên là Gao Yutong (高毓浵: Cao Dục </span><span style="background-color: yellow; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) mà tiếng địa phương của ông rất khó hiểu đối với hầu hết những người tham gia khác đến nỗi một bài báo đã đặt câu hỏi liệu có ai 'thực sự hiểu được bài phát biểu dài hai giờ của ông.’30 Tuy nhiên, điều đó không thực sự quan trọng, bởi vì trong vòng 6 tháng sau khi hội nghị kết thúc, nhà Thanh đã bị lật đổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Nhưng vấn đề vẫn không biến mất: thay vào đó, nó trở nên xúc cảm hơn. Dưới thời nhà Thanh, câu hỏi về ngôn ngữ là một cuộc thảo luận về hiệu quả, việc học tập và cách tốt nhất để củng cố quốc gia. Dưới thời Dân quốc, nó đã trở thành một cuộc thảo luận về bản sắc cơ bản. Những người theo chủ nghĩa dân tộc - trải dài trên phạm vi chính trị từ Lương Khải Siêu đến Tôn Dật Tiên đến Chương Bỉnh Lân - đã triệu một quốc gia trở về trong thực tại và theo quan điểm của họ, một quốc gia cần cả một quốc gia-dân tộc lẫn một quốc ngữ. Đây là một mệnh lệnh mà nhiều, nhưng không phải tất cả, phong trào dân tộc chủ nghĩa trên toàn cầu chia sẻ trong thời kì này. Ví dụ: Ấn Độ vẫn chưa có một ‘quốc ngữ’ duy nhất cho đến ngày nay. Ở Ấn Độ, các bang khác nhau có quyền chọn ngôn ngữ chính thức của mình với kết quả là hiến pháp quốc gia công nhận 22 ngôn ngữ </span><span id="docs-internal-guid-07a4a067-7fff-1f38-faf2-4e43dd8bbda8" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">địa phương</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> cùng với tiếng Anh. Đây không phải là kết quả mà những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc sẵn sàng nghĩ đến. Sau hàng thập kỉ phân rã nội bộ và bị đế quốc chiếm đất, với Mông Cổ tuyên bố độc lập và các lãnh chúa địa phương tách khỏi sự kiểm soát của trung ương, yêu cầu nổi trội của họ là thống nhất. Họ nhận ra sự căng thẳng </span><span id="docs-internal-guid-f3101164-7fff-8aa2-d029-03ff48da0f78"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">giữa các bản sắc địa phương mạnh mẽ</span></span><span id="docs-internal-guid-4c264af3-7fff-f826-3470-3dc69177b8a9"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thậm chí bản sắc quốc gia</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">, và mong muốn tạo ra một tính dân tộc Trung Quốc duy nhất. Ngôn ngữ là một cách để áp đặt một bản sắc duy nhất lên một dân tộc - ngay cả khi dân tộc đó chưa biết rằng nó tồn tại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chỉ 5 tháng sau khi tuyên bố nước Dân quốc mới, Bộ Giáo dục mới đã triệu tập một ‘Hội nghị Giáo dục Lâm thời’. Ở một mức độ nào đó, nó là sự tiếp nối của hội nghị một năm trước đó: nhiều người trong số người tham dự đều như trước. Tuy nhiên, bầu không khí đã hoàn toàn khác. Kinh sách Nho giáo đã bị loại bỏ khỏi chương trình giảng dạy ở trường và được thay thế bằng một đặc trưng giáo dục mới ‘thực dụng, quân sự và thẩm mĩ’. Trong <span id="docs-internal-guid-a9b9f256-7fff-0824-f399-a133bec962c5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">những </span></span>kết luận của hội nghị là “Đề xuất việc chấp nhận về loại chữ viết ghi âm’ vốn là một yêu cầu thực sự để Bộ triệu tập một hội nghị khác để giải quyết, một lần và <span id="docs-internal-guid-bd9d5208-7fff-6d42-2aaa-3f5693d1f880"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dứt điểm</span></span> vấn đề phát âm. Đây sẽ là sự kiện mà tại đó vấn đề này sẽ đi đến giai đoạn quyết liệt.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ý tưởng tổ chức hội nghị là từ Wu Zhihui (吳稚暉: Ngô Trĩ Huy), một trong những người theo chủ nghĩa vô chính phủ sống tại Paris, từng đã kêu gọi xóa bỏ tiếng Trung Quốc và thay thế nó bằng tiếng Esperanto. Huy ghét Nho giáo và truyền thống, đồng thời có tiếng là một ‘kẻ nổi danh về chửi rủa'. Trong nhiều bài báo trong những năm 1900, ông đã gọi người Mãn là một ‘tộc chó đẻ', gọi thái hậu Từ Hi thái hậu là một ‘con điếm’ và một 'mụ phù thủy già tàn tạ', và các bài báo của Lương Khải Siêu là ‘thuần đánh rắm' và ‘phân chó thối tha.'31 Đây là người mà Bộ Giáo dục đã chọn để dẫn dắt nước Dân quốc mới đạt được sự đồng thuận về ngôn ngữ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Huy có một kế hoạch hành động đơn giản </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">vốn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">được phác thảo trong một bài báo năm 1909. Đầu tiên, một ủy ban gồm các nhà thông thái sẽ quyết định một hệ thống các kí hiệu ngữ âm để thể hiện cho các âm đích thực của ngôn ngữ. Thứ hai, các chuyên gia sẽ quyết định mỗi một trong số hàng nghìn chữ Hán phải được phát âm chính xác như thế nào. Kết quả sẽ là một hướng dẫn có hệ thống và được thống nhất một cách dân chủ đối với 'cách phát âm quốc gia'. Tất nhiên, thực tế sẽ không đơn giản chút nào. 'Hội nghị thống nhất cách đọc' đã khai mạc tại Bắc Kinh vào ngày 25 tháng 2 năm 1913 với những ý định tốt nhất. Vào thời điểm kết thúc, ngày 22 tháng 5, nó đã chứng kiến một cuộc đấu tranh giành quyền tối cao địa phương kết hợp với một cuộc đụng độ lớn về cái tôi và tạo ra một di sản cay đắng về ngôn ngữ sẽ tồn tại trong nhiều thập kỉ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tám mươi chuyên gia đã được triệu tập đến Bắc Kinh. Kế hoạch ban đầu là mời hai đại biểu cho mỗi tỉnh để đảm bảo tính công bằng nhưng cuối cùng hầu hết những người tham dự đã được chọn vì tình trạng tinh thông hoặc các quan hệ chính trị của họ. Khoảng một nửa được Bộ chọn và số còn lại do chính quyền tỉnh chọn. Vào ngày đầu tiên, 47 người đàn ông trung niên, mặc đồ kiểu Tây pha trộn với áo choàng truyền thống, tập trung tại tòa nhà Bộ Giáo dục ngay bên ngoài bức tường phía Tây của Tử Cấm Thành. Trong số họ có một số người tham gia tích cực nhất vào các cuộc tranh luận về ngôn ngữ hai thập kỉ trước, gồm nhà ‘cải cách chữ viết’ đầu tiên Lư Tráng Chương và tác giả có quan hệ tốt của bộ vần Bắc Kinh, Vương Chiếu. Một số đã có hệ thống chữ viết ghi âm của riêng họ để quảng bá, một số hệ sử dụng các chữ cái Latin, một số hệ khác sử dụng các kí hiệu kiểu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kana của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhật Bản và các dạng viết tắt khác. Đây là vấn đề đầu tiên. Mỗi người đều muốn đi vào lịch sử với tư cách là người có ý tưởng cách mạng hóa việc dạy và viết tiếng Trung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau những tranh luận gay gắt kéo dài, hệ thống cuối cùng giành được sự ủng hộ của toàn hội nghị phần lớn dựa trên hệ thống do Chương Bỉnh Lân đề xuất. Điều này chủ yếu là do hơn một phần tư số đại biểu là những người cấp tiến ở các tỉnh ven biển phía đông như Chiết Giang và Giang Tô, từ nơi gốc gác của Lân. Trong thập kỉ trước, so với hầu hết các đại biểu khác, họ đã tiếp xúc nhiều hơn với các nhà truyền giáo và những người truyền bá tư tưởng nước ngoài khác, sống lưu vong ở Nhật và đã đóng những vai trò lớn hơn trong phong trào cách mạng. Họ đến hội nghị với một bộ ý tưởng rõ ràng, đặc biệt là ủng hộ cách tiếp cận ngôn ngữ mang tính dân tộc của Lân. Họ sẽ không đồng ý với một hệ thống chữ viết ghi âm kiểu phương Tây hoặc Nhật Bản, giải pháp phải đích thực là giải pháp của Trung Quốc. Điều này đã thuyết phục hội nghị lựa chọn một hệ thống dựa trên sách vở xưa cả 1 000 năm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi thống nhất về các kí hiệu, nhiệm vụ tiếp theo là thống nhất về âm mà mỗi kí hiệu thể hiện. Đây là lúc các bản sắc địa phương đối thủ thực sự bắt đầu làm mọi việc khó lên. Không thể có cách hợp lí hoặc trung lập để giải quyết tranh chấp về các cách khác nhau để nói một từ chẳng hạn như 'cá' trong các topolect khác nhau. Đây không phải là câu hỏi về 'cách phát âm', như những người cải cách ngôn ngữ theo chủ nghĩa dân tộc muốn giả vờ như vậy - đây là về việc chọn một từ của topolect này thay vì của topolect khác. Các đại biểu từ các tỉnh ven biển phía đông Giang Tô và Chiết Giang, bao gồm cả người tổ chức hội nghị và chủ tọa Ngô Trĩ Huy, coi topolect Bắc Kinh là tởm lợm - quá ô nhiễm bởi ảnh hưởng của ‘Thát Đát’. Trong một bài báo, trước đây Huy đã so sánh nó với tiếng chó sủa. Trong bài báo này, Huy được một đại biểu Giang Tô khác ủng hộ, một nhà dịch thuật <span id="docs-internal-guid-c542108e-7fff-8e2e-c93a-98bba1e66389"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kiêm</span></span> triết học. Hãy gặp ông <span id="docs-internal-guid-e9a67d75-7fff-c193-9065-592f0543f991"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Uông:</span></span> Wang Rongbao (汪荣宝: Uông Vinh Bảo). Bảo đã từng học tại trường Thông ngôn của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và sau đó ở Nhật.32 Năm 1906, ông là quan nhà Thanh, từng soạn thảo thư từ chối cho những ý tưởng cải cách chữ viết của Lư Tráng Chương, gọi chúng là 'quái gở'.33 Gần đây hơn, ông đã sắp xếp các từ trong bài quốc ca mới của Dân Quốc. Huy và Bảo đứng đầu nhóm vận động hành lang Giang Tô, tranh cãi để cho topolect phía đông của chính họ trở thành cách phát âm quốc gia được thống nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở góc đối diện là ông Wang thứ nhất của chúng ta, Vương Chiếu, trước đó đã được chọn làm phó chủ tịch hội nghị. Thực tế, ông đã trở thành người phát ngôn cho những người nói tiếng Bắc Kinh. Vương Chiếu có thể đã thua trong trận đấu về sự lựa chọn chữ viết ghi âm nhưng ông có chỗ đứng vững chắc hơn khi lựa chọn cách phát âm, đặc biệt là vì tình bạn riêng của ông với Viên Thế Khải, tổng đốc cũ của Trực Lệ, người đã từng quảng bá bộ vần của Chiếu và hiện là tổng thống của Dân Quốc. Nhưng Uông Vinh Bảo, đã không từ bỏ trận đấu. Khi hội nghị diễn ra, cuộc đấu tranh giữa hai đối thủ ngôn ngữ chính - topolect </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngô</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có gốc ở Giang Tô và Chiết Giang và topolect Bắc Kinh - đã bùng lên thành trận đấu cá nhân giữa hai ông <span id="docs-internal-guid-149ad412-7fff-e1de-84a6-ba17304f7569"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">họ Uông và họ Vương</span></span>.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các cuộc tranh luận kéo dài hơn một tháng mà không có hướng giải quyết. Tình hình trở nên tồi tệ đến mức, trong một phiên họp nhiều tranh cãi, chủ tịch Ngô Trĩ Huy đột nhiên hét lên: 'Tôi không thể chịu đựng được điều này nữa' và từ chức. Vương Chiếu thay chỗ của ông. Sau đó, Chiếu này đã giở thủ đoạn bẩn thỉu. Ông triệu tập một cuộc họp tất cả các đại biểu ngoại trừ những người từ Giang Tô và Chiết Giang. Ông nói với họ rằng những người phía Đông đang cố muốn biến topolect của họ thành quốc ngữ và rằng những người phía Bắc và người phía Nam phải đoàn kết để ngăn chặn cái mà ông gọi là ‘thảm họa quốc gia'. Sau khi tạo ra một ‘cuộc họp thống nhất kín', sau đó ông đã triệu tập cuộc họp toàn thể hội nghị, hội nghị này đồng ý thay đổi hệ thống bỏ phiếu. Thay vì mỗi đại biểu có một phiếu bầu ngang nhau, mỗi tỉnh sẽ có một phiếu. Bị trúng đòn, sức mạnh của nhóm Giang Tô - Chiết Giang đã bị suy giảm. Kết quả bị la hét.34</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương Chiếu sau đó cố gắng gây áp lực để phe phía Đông im lặng bằng cách đe dọa cũng bỏ đi ra. Ông chọc tức các đối thủ của mình bằng cách tuyên bố mỉa mai sự kiện này là ‘Hội nghị Giang Tô - Chiết Giang’. Sau đó, khi mọi thứ dường như không thể tồi tệ hơn, họ bỏ đi ra. Một cách phù hợp, chính sự khác biệt về phương ngữ đã gây ra cuộc đối đầu quyết liệt làm nghiêng cán cân chính trị tại hội nghị. Tại một thời điểm, ông Bảo thảo luận với một đại biểu khác của Giang Tô xem có nên gọi xe kéo hay không. Từ cho xe kéo ở Thượng Hải là '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">huangbao che</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">’ (黃包車: hoàng bao xa). Đối với tai Vương Chiếu ở phía bắc’, nó nghe giống như '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wangba dan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' (旺八蛋: vượng bác đản)- từ có nghĩa là ‘đồ khốn’ (nghĩa đen là ‘trứng của con rùa’) trong tiếng Bắc Kinh. Ông rất tức giận. Vương Chiếu xắn tay áo lên và chuẩn bị đánh nhau với Uông Vĩnh Bảo trên sàn hội nghị. Bảo sau đó bỏ trốn khỏi cuộc họp, không hề quay lại. Và đó là dấu chấm hết cho sức mạnh ngăn chặn của topolect phía đông / tiếng Thượng Hải / tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngô</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Giờ thì đã rõ ràng cách phát âm phía bắc trở thành tiêu chuẩn cho quốc ngữ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong những tuần tiếp theo, ủy ban đã bỏ phiếu về ‘cách phát âm’ mới cho 6 500 chữ. Trong một số trường hợp, điều này thực sự chỉ là về cách phát âm, nhưng trong nhiều trường hợp khác, đó là việc chọn một từ của một topolect hơn là của những topolect khác. Với hệ thống bỏ phiếu hiện đang thiên vị người phía Bắc, kết quả phần lớn là một kết luận đã biết trước. Tuy nhiên, kết quả không phải là một chiến thắng toàn diện cho tiếng Bắc Kinh. Mặc dù hầu hết các từ và cách phát âm của topolect </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngô </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đều bị loại ra, nhưng hội nghị vẫn cho phép các phiên bản đánh vần ghi âm địa phương hóa. Kí hiệu cho một âm khác không thấy có trong tiếng Bắc Kinh cũng đã được bao gồm vào, điều này theo cách nào đó để xoa dịu người nói topolect Nam Kinh. Có một số thay đổi khác, dẫn đến thỏa hiệp. Kết quả cuối cùng là một bộ phát âm giống với tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mandarin cũ hơn là topolect riêng của Bắc Kinh. Một số gọi nó là 'Blue-Green Mandarin' (Quan thoại Lam-Lục) - không phải thứ này cũng không phải thứ kia.35</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dưới sự lãnh đạo của Vương Chiếu, hội nghị tiếp tục đưa ra một số yêu cầu với Bộ Giáo dục: Bộ giáo dục nên ban hành ngay bảng chữ cái ghi âm đã được thống nhất, thành lập các phòng để đảm bảo mọi người phải học nó và biến nó thành phương tiện giảng dạy tiêu chuẩn trong trường học. Tuy nhiên, vào giữa năm 1913, nền chính trị của Trung Hoa Dân Quốc rơi vào khủng hoảng. Song Jiaoren, (宋敎仁: Tống Giáo Nhân) một trong những nhà lãnh đạo có uy tín nhất của Quốc dân đảng, đã bị ám sát vào tháng 3, trong khi hội nghị đang diễn ra. Nhiều người cho rằng tổng thống Viên Thế Khải đã ra lệnh giết. Sau đó, vào tháng 7, để nhắc nhở về sức mạnh tiếp tục của bản sắc địa phương, 7 tỉnh phía nam - những nơi mà quân cách mạng còn mạnh nhất, trong đó có Giang Tô, Chiết Giang và Quảng Đông - đã nổi lên chống lại tổng thống Viên Thế Khải. Tuy nhiên, cuộc ‘cách mạng thứ hai’ của họ nhanh chóng bị đè bẹp, và sau đó, chính phủ Viên Thế Khải đã áp đặt chủ nghĩa bảo thủ làm mới lại, chú trọng nhiều hơn vào Nho giáo và rất ít chú trọng đến quốc ngữ. Bên ngoài một nhóm nhỏ các nhà hoạt động ngôn ngữ, các nghị quyết của Hội nghị Phát âm đã bị lãng quên. Nhưng vào tháng 6 năm 1916, Viên Thế Khải mất và chỉ trong hơn một thập kỉ, Dân quốc bị cát cứ thành thái ấp do các lãnh chúa đối địch. Cơ hội áp đặt một quốc ngữ lên các thế lực địa phương này là rất ít. Do đó, các topolect địa phương sẽ tiếp tục được nói mà không bị can thiệp. Phải mất nhiều năm trước khi các nhà cải cách ngôn ngữ dân tộc chủ nghĩa có thể thực thi các kết quả của hội nghị năm 1913.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào tháng 7 năm 1916, một nhà biên soạn sách giáo khoa trẻ trong Bộ Giáo dục, Li Jinxi (</span><span style="background-color: white; color: #4d5156; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">黎锦熙; Lê Cẩm Hi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">), cùng với một số quan chức thất vọng khác, đã thành lập ‘Hội Nghiên cứu Quốc ngữ’ (國語研究會 / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guoyu Yanjiuhui</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) để thúc đẩy thay đổi mà chính phủ ít có khả năng để thực thi.36 Họ viết bài cho các tờ báo nhưng ít ảnh hưởng đến chính sách. Tháng 2 năm 1917, Hội đã mở cửa cho công chúng gia nhập và nhanh chóng thu hút hầu hết những <span id="docs-internal-guid-f34c2380-7fff-219e-4457-81ebb2b1e1ad"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đấu thủ </span></span>chính trong các cuộc thảo luận về ngôn ngữ quốc gia trước đó. Lương Khải Siêu đã tham gia, còn cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã chuyển làm hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh, Cai Yuanpei (蔡元培: Thái Nguyên Bồi) </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cũng vậy</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">, trở thành thư kí của hội. Cũng như hội nghị phát âm, nhiều thành viên có gốc gác ở các tỉnh Giang Tô và Chiết Giang; thực tế, trụ sở chính của nó là ở trường dành cho người di cư Giang Tô ở Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 11 năm 1918, trên thực tế, Hội đã được sáp nhập vào Bộ Giáo dục.. Phó chủ tịch Hội, Zhang Yilin (張一麐: Trương Nhất Lân), được chỉ định làm người đứng đầu cái gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ban trù bị cho việc thống nhất ngôn ngữ quốc gia' (國語統一籌備會 / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guoyu Tongyi Choubeihui</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). Ban này đã tổ chức phiên họp đầu tiên vào ngày 21 tháng 4 năm 1919 và đồng ý ba ưu tiên: thúc đẩy bảng chữ cái ghi âm đã được hội nghị năm 1913 đồng ý, thay thế cách viết cổ điển (聞言 / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wenyan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: văn ngôn) bằng phong cách bản ngữ gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">baihua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(白話: bạch thoại), và biên soạn một từ điển quốc gia duy nhất bao gồm mọi từ tiếng Trung được viết từ thời cổ xưa đến hiện tại. 37 Ban đã khởi xướng làn sóng tư tưởng mới. Hai tuần sau cuộc họp đầu tiên, vào ngày 4 tháng 5, sinh viên đã tập trung tại cổng Thiên An Môn của Tử Cấm Thành để phản đối các điều khoản của hiệp định hòa bình Versailles. Từ đó, họ đi bộ về phía đông tới nhà của Cao Rulin (曹汝霖: Tào Nhữ Lâm), giám đốc ngân hàng nhà nước, và đốt cháy nhà ông. ‘Phong trào 4 tháng 5’ sau đó quét sang lĩnh vực văn hóa, loại bỏ những ý tưởng cũ và mang lại những cách viết và cách làm nghệ thuật mới. Nhiều nhân vật hàng đầu của phong trào này là những gương mặt quen thuộc từ cuối thời kì cách mạng của phong trào ngôn ngữ mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong số đó có Hu Shi (胡適: Hồ Thích), một người phía đông khác, được cử đi học nông nghiệp ở Hoa kì năm 19 tuổi. Khi còn học tại Đại học Cornell, ông bỏ nông nghiệp và chuyển sang học triết học và văn học, sau đó tiếp tục học thêm tại Đại học Columbia. Năm 1917, ông mang về nước những ý tưởng mới tiếp thu được về ngôn ngữ và dân tộc và được giao một vị trí trong khoa triết học của Đại học Bắc Kinh để từ đó <span id="docs-internal-guid-0f38e0e3-7fff-a87f-8edb-df491549bf72"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cổ vũ</span></span> chúng. Trong những thập kỉ sau đó, Hồ Thích trở thành người ủng hộ hàng đầu cho một ngôn ngữ quốc gia duy nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay sau khi đến Bắc Kinh, ông đã viết một bài báo có tựa đề ‘Một đề xuất thử nghiệm cho việc cải cách văn học', nêu ra 8 yêu cầu đối với cách viết hiện đại. Bài báo được đăng trên tạp chí 'Thanh niên mới', do Chen Duxiu (陳獨秀: Trần Độc Tú), một trong những đồng nghiệp của Thích tại Đại học Bắc Kinh, biên tập. Hầu hết bài báo là một lập luận cho việc viết 'theo cách nói' - cái đã được gọi là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bạch thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Nhưng về cuối bài, ông gợi cho thấy sự ủng hộ của ông đối với cơ sở phía bắc của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bạch thoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">qua việc đề cập đến một số truyện đã có được viết dưới dạng phương ngữ như ‘Thủy hử’ (水滸) ‘Tây du kí’ (西遊記). Ông đã <span id="docs-internal-guid-37fb0ed5-7fff-cb28-8f5c-79d1b4825ebb"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tiếp tục</span></span> điều này, vào tháng 4 năm 1918, với một bài báo về 'Cách mạng văn học có tính xây dựng - Văn học quốc ngữ', trong đó ông đặt ra khẩu hiệu gói gọn sứ mệnh của mình, ‘Chỉ với văn học quốc ngữ thì mới có thể có quốc ngữ văn học.’ Sau đó, vào năm 1922, Hồ Thích thành lập tạp chí riêng, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guoyu Yuekan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(國語月刊: Quốc ngữ nguyệt san). Trong một ấn bản đặc biệt dành riêng cho vấn đề cải cách chữ viết tiếng Trung, ông lập luận, 'Trong việc thúc đẩy cải cách lời nói và chữ viết, các học giả và nhà văn nên hiểu rằng nhiệm vụ của họ là quan sát xu hướng trong lời nói của người dân, chấp nhận các đề xuất cải cách của người dân và đưa ra công nhận chính thức các đề xuất đó.’</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tất cả những can thiệp này đều dành cho ước mơ của Hồ Thích về việc thống nhất <span id="docs-internal-guid-e207908a-7fff-1c0e-d91f-f61f1ebd8bff"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lời văn</span></span> và lời nói tiếng Trung để tạo ra một quốc ngữ thật sự theo mô hình của các quốc gia-dân tộc phương Tây. Nhưng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">nhiều năm sau </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">khi phát biểu, Hồ Thích thừa nhận rằng ngay từ đầu ông đã thiên lệch: ông đã nghĩ rằng ‘quốc ngữ phải là một topolect phía bắc ngay từ đầu.’ Trong những bình luận năm 1958, ông đã phát họa lập luận của mình: 'Nếu người ta vẽ một đường thẳng từ Cáp Nhĩ Tân ở vùng cực đông bắc [của Trung Quốc] thẳng tới Côn Minh [ở tây nam Trung Quốc], đường thẳng này sẽ dài hơn 4 000 dặm. Dọc theo 4 000 dặm này, không ai cảm thấy cần phải thay đổi lời nói của mình, bởi vì ngôn ngữ họ nói là ngôn ngữ phổ biến nhất trên thế giới. Đây là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc ngữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đây là thủ đô của chúng ta ... do tổ tiên chúng ta để lại.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">'</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38 Đường tưởng tượng của Hồ Thích, trên thực tế, sẽ phân cách miền bắc và miền tây 'Trung Quốc thuần túy' với các phần phía nam và phía đông của nó. Về mặt ngôn ngữ, đường của Hồ Thích <span id="docs-internal-guid-5bdf2e96-7fff-3d59-c20a-070901275ad2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thực hiện</span></span> hai điều. Thứ nhất , nó khẳng định rằng có một cách ‘nói miền Bắc' duy nhất, bất chấp mọi khác biệt tồn tại dọc theo cái trục dài 4 000 dặm đó. Thứ hai, nó đặc biệt loại ra 6 trong 7 topolect thường được thừa nhận: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việt, Ngô, Mân, Khách Gia, Cám </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tương </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(chưa nói tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ và các thứ tiếng thiểu số khác). Thực tế, thông điệp của Hồ Thích cho họ là 'Nếu muốn trở thành một phần của dân tộc thì phải nói tiếng Bắc Kinh.'</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, một sự đồng thuận đang hình thành giữa những người cải cách ngôn ngữ. Đến năm 1926, 'Ban trù bị Thống nhất Ngôn ngữ Quốc gia' đã có quyết định về câu trả lời cho câu hỏi chính mà họ phải đối mặt. Theo một trong những thành viên của ban, Zhao Yuanren (赵元任: Triệu Nguyên Nhiệm), ban chỉ đơn giản là ‘quyết định rằng chúng ta tốt hơn là nên lấy cách nói của thành phố Bắc Kinh. Và vì vậy, chúng tôi chỉ tìm hiểu người dân [ở Bắc Kinh] thực sự nói thế nào.’39 Điều khiến việc này xảy ra được là một thay đổi ở trung tâm trong hội nghị Giang Tô - Chiết Giang. Nhiều nhân vật hàng đầu bao gồm cả những người như Hồ Thích, dường như đã quyết định rằng nhiệm vụ áp đặt một ngôn ngữ thỏa hiệp mà không ai nói được một cách tự nhiên sẽ khó hơn nhiều so với việc chọn một ngôn ngữ gần với thứ mà hơn một nửa dân số đã nói. Đó là một quyết định hợp lí, và lặp lại chính sách của những nhà cải cách ngôn ngữ ở Nhật, Đức và những nơi khác, đã biến cách nói ở thủ đô của họ thành ngôn ngữ quốc gia. Những người theo chủ nghĩa dân tộc về ngôn ngữ ở Bắc Kinh sẽ cố gắng đảo ngược quy trình được Chương Bỉnh Lân (và Herbert Spencer) mô tả và san bằng sự đa dạng thành một ngôn ngữ quốc gia duy nhất. Không có <span id="docs-internal-guid-006378eb-7fff-0648-92fc-37abdf95343a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vấn đề</span></span> cho phép các toppolect địa phương nổi lên như là các ngôn ngữ thay thế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1928, 'thời kì cát cứ' kết thúc với chiến thắng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Lần đầu tiên những người Quốc dân đảng thực sự nắm chính quyền và những người cải cách ngôn ngữ có quyền lực để đưa các tuyên bố của họ thành hiện thực. Thái Nguyên Bồi trở lại chức vụ làm người đứng đầu Hội đồng Đại học, cơ quan thay thế Bộ Giáo dục, và vào tháng 12, Ban trù bị được thành lập lại và tái hoạt động. Khi những người Quốc dân đảng cố gắng để thực sự tạo ra một dân tộc duy nhất mà họ đã tranh cãi trong suốt thập kỉ trước đó, câu hỏi về quốc ngữ lại một lần nữa được chuyển lên hàng đầu. Một tập 'Từ vựng về cách phát âm quốc gia' được xuất bản vào năm 1932, định ra ‘cách phát âm quốc gia mới’ - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xin guoyin </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(新國音: tân quốc âm)- của hàng ngàn chữ theo topolect Bắc Kinh. Quốc ngữ </span><span id="docs-internal-guid-6e3e397a-7fff-2bff-aa20-a3db9fc849ea"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">guoyu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- mới </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã đến, được định nghĩa là âm của topolect Bắc Kinh với ngữ pháp và từ vựng của phương Bắc. Công việc còn xa mới hoàn thành. Quá trình này phải bắt đầu lại một lần nữa sau chiến thắng của Cộng sản vào năm 1949 và các sự kiện sau đó lặp lại rất sát với những gì đã xảy ra sau năm 1912. Chính kể từ đó, nhà cầm quyền mới mới đưa cải cách ngôn ngữ thành ưu tiên. Phiên họp đầu tiên của Hội Cải cách Chữ viết Trung Quốc mới (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo Wenzi Gaige Xiehui /</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國文字改革協會: TQ văn tự cải cách hiệp hội) được tổ chức 10 ngày sau khi nước CHNDTH được tuyên bố thành lập.40 Hội tự đưa ra một danh sách các nhiệm vụ tương tự như các nhiệm vụ được đưa ra cho hội nghị ngôn ngữ năm 1913: tìm một hệ thống để viết ra âm của ngôn ngữ theo đúng ngữ âm, đơn giản hóa các chữ Hán và chính quy hóa một ngôn ngữ thống nhất cho Trung Quốc trên cơ sở phương ngữ miền Bắc. Tháng 10 năm 1955, Hội được chuyển thành một tổ chức của chính phủ trung ương, được đổi tên thành Ủy ban Cải cách Chữ viết Trung Quốc (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Z</span><span style="font-family: Arial; font-size: 11pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hong guo Wenzi Gaige Weiyuanhui</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> / </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">中國文字改革委員會) và đưa ra các khuyến nghị dẫn đến định nghĩa chính thức của quốc ngữ mới. Ngày 6 tháng 2 năm 1956, sau 6 năm thảo luận, chính phủ đã đưa ra định nghĩa của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Putonghua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(普通话: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông thoại</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">) hay ‘tiếng Phổ thông’. Hầu như giống y với quyết định của Ban trù bị cho việc thống nhất ngôn ngữ quốc gia 35 năm trước: '</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếng Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lấy các phương ngữ phía bắc làm phương ngữ cơ bản, hệ thống âm vị học Bắc Kinh làm chuẩn mực phát âm, và tìm kiếm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">các chuẩn mực ngữ pháp của nó từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">các công trình hiện đại mẫu mực trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bạch thoại</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.’41 Các đặc điểm đã từng được thiết lập trước đó một thế hệ, hướng đi cũng như cũ - và sự phản kháng cũng khó vượt qua.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;"><span style="border: none; display: inline-block; height: 188px; overflow: hidden; width: 291px;"><img height="413" src="https://lh5.googleusercontent.com/cK1O20jYWGFstbq_s-rhnj-f-BotAuwXFZMUgkS-0a3TiQ4pytKuDQZlomTqCi9cJrCNa7_f4wxOduoFxJOZGZs6OadbkALFZNI1eM-4JSFewmPEGSPdIqkSIlOPhWtPAW-K7iYl" style="margin-left: 0px; margin-top: 0px;" width="621" /></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-d7c01bcf-7fff-2fe6-5793-71780ed8ed52"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="background-color: transparent; color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: 400; text-decoration: none; vertical-align: baseline; white-space: pre;">16. Lễ thành lập chính phủ Quốc dân đảng mới tại Nam Kinh, ngày 18 tháng 4 năm 1927. Đầu tiên bên trái hàng ghế đầu là Tưởng Giới Thạch. Ngô Trĩ Huy ngồi thứ tư từ trái sang. Ông chủ trì Hội nghị thống nhất cách đọc các phát âm năm 1913. Là một người từng theo chủ nghĩa vô chính phủ với khuynh hướng tục tĩu, ông không phải là lựa chọn tốt nhất cho một vai diễn nhạy cảm như vậy. Thứ ba từ bên phải là Hồ Hán Dân, biên tập viên của tạp chí cách mạng Dân báo và là một trong những cố vấn tư tưởng của Tôn Dật Tiên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 26 tháng 10 năm 1955, ba tháng trước khi tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">được chính thức thừa nhận</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một bài báo trên tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hướng dẫn người dân hiểu mối quan hệ giữa topolect địa phương và tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bài báo viết, 'tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">phục vụ nhân dân cả nước, và các phương ngữ phục vụ người dân trong một khu vực. Phổ cập tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">không có nghĩa là xóa đi các phương ngữ một cách giả tạo mà là giảm dần phạm vi sử dụng của phương ngữ. Điều này phù hợp với quy luật khách quan của tiến bộ xã hội.’42 Không rõ ai đã viết ra những 'quy luật khách quan của tiến bộ xã hội' nhưng có lẽ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">chúng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã truyền cảm hứng cho các tác giả của một đạo luật được ban hành ở Thượng Hải năm 1985 có quy định rằng từ đó trở đi việc học tập ở thành phố sẽ được thực hiện hoàn toàn bằng tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Năm 1992 quy định được tăng cường yêu cầu học sinh phải báo cáo bè bạn nói tiếng Thượng Hải. Các chiến dịch đã được tổ chức để loại bỏ các cụm từ tiếng Thượng Hải trên các biển báo và trong các lĩnh vực khác của đời sống công cộng. Tuy nhiên, tiếng Thượng Hải vẫn sống sót.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, sự thành công của chiến dịch ủng hộ tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, cùng với sự di cư của hàng triệu 'người bên ngoài’ từ các tỉnh khác vào Thượng Hải, đã tạo ra phản ứng ‘địa phương chủ nghĩa'. Lo ngại về sự suy giảm văn hóa <span id="docs-internal-guid-c7986fe7-7fff-9f4c-8d8e-fb66e9dc8571"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vùng miền</span></span> đã khiến một số nhân vật địa phương kêu gọi phải có các nỗ lực bảo tồn nó. Năm 2010, chính quyền thành phố bắt đầu âm thầm khuyến khích việc giảng dạy tiếng Thượng Hải. Năm 2013, một nghệ sĩ của Đoàn Hài kịch Thượng Hải, Qian Cheng (钱诚: Tiền Thành), đã <span id="docs-internal-guid-b71459cd-7fff-9fff-c6e2-5986e2bf0a76"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đưa ra một đề</span></span> nghị với Ủy ban của Hội nghị Hiệp Chính Nhân dân Trung Quốc Thượng Hải kêu gọi giảng dạy tiếng Thượng Hải cho trẻ em mẫu giáo. Để đáp lại, Ủy ban Giáo dục Thành phố đã bắt đầu một dự án thí điểm vào năm 2014, với 20 trường mẫu giáo công lập và khoảng 100 trường phổ thông sử dụng tiếng Thượng Hải.43 Đó là dấu hiệu cho thấy tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã trở nên thống trị như thế nào trong 15 năm trước khiến topolect địa phương đã được đưa vào trở lại dưới dạng ngôn ngữ thứ hai, thay vì ngôn ngữ mẹ đẻ như nó đã từng một thế hệ trước. Tuy nhiên, ‘Dự án Di sản Thượng Hải’ phải cẩn thận. Vì Bộ Giáo dục đã quy định rằng các môn học chỉ có thể được giảng dạy bằng tiếng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, việc sử dụng tiếng Thượng Hải chỉ giới hạn trong các trò chơi, lời chào và các khía cạnh xã hội khác của cuộc sống nhà trường.44.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mặc dù chính quyền trung ương có vẻ đã sẵn sàng để chấp nhận việc bảo tồn một số topolect địa phương, nhưng cũng có giới hạn đối với <span id="docs-internal-guid-adecbf44-7fff-4c8c-6f4b-3dd00e12b663"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mức độ du di</span></span>. Năm 2017, một nhà quảng bá tiếng Quảng Đông nổi tiếng, tác giả và người dẫn chương trình truyền hình Quảng Châu, Rao Yunsheng (饶云生: Nhiêu Vân Sinh), có vẻ đã vượt qua lằn ranh. Ông đã cố gắng giới thiệu một cuốn sách giáo khoa tiếng Quảng Đông dạy nói và viết tại trường tiểu học Ngũ Dương ở Quảng Châu. Cuốn sách của ông bao gồm một dạng La Mã hóa âm để giúp trẻ em đọc và học. Theo báo chí địa phương, ông Sinh nói rằng chính quyền địa phương đã vào cuộc để ngăn chặn việc sử dụng cuốn sách này. Ông không thể bình luận gì thêm.45 Có vẻ rằng dù việc dạy trẻ em nói một topolect địa phương bây giờ có thể được chấp nhận, nhưng việc dạy chúng đọc nó như một ngôn ngữ viết vẫn bị cấm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở cả Thượng Hải lẫn Quảng Châu, chính sự thịnh vượng địa phương đã tạo ra các vấn đề đối với chính sách quốc ngữ. Cả hai nơi này đều trở nên mạnh mẽ về kinh tế và do đó có thể khẳng định mức độ tự chủ đối với chính quyền trung ương. Đồng thời, cả hai đều thu hút một lượng lớn người di cư từ các vùng khác của đất nước, không nói được topolect của địa phương. Chính quyền trung ương kêu gọi các thành phố hoà nhập những người mới đến qua việc đề cao tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và do đó đồng thời hoà nhập thành phố với quốc gia. Tuy nhiên, ở cả hai thành phố này, điều đó đã tạo ra phản ứng dữ dội khiến người dân địa phương bất bình với việc mất đi tính đặc trưng địa phương. Điều này tạo ra đòi hỏi chính quyền địa phương phải thực hiện các bước để bảo vệ bản sắc địa phương, khiến chính quyền thành phố phải xung đột với các chỉ đạo tầm quốc gia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính sách ngôn ngữ quốc gia của Trung Quốc <span id="docs-internal-guid-b7b67070-7fff-852e-ec91-b032a0c6ea93"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có vẻ</span></span> vừa thành công vừa thất bại. Mặc dù tiếng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là ngôn ngữ quốc gia trong các trường học và số lượng người có thể nói được ngôn ngữ này đang tăng lên, chính sách này dường như cũng đang kích động các nỗ lực hậu thuẫn cho việc bảo vệ các topolect địa phương. Ngày càng tăng, cuộc chiến đang diễn ra trong các lĩnh vực của cuộc sống mà chính quyền trung ương khó kiểm soát, đặc biệt là Internet. Diễn đàn trực tuyến xôn xao với các thảo luận về bản sắc địa phương và các vấn đề của người di cư trong trò chơi mèo vờn chuột với các nhà quản lí. Ở Thượng Hải trong những năm 2010, một số diễn giả topolect địa phương đã đề cập đến những người mới đến là 'YPs ', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ying pan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(硬盘: ngạnh bàn), nghĩa là ' đĩa cứng '. Nhà sản xuất đĩa cứng máy tính lớn nhất tại địa phương là một công ty có tên là West Data có các chữ cái đầu là 'WD' <span id="docs-internal-guid-94f094d6-7fff-2653-d709-a25f74d12ec5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">viết tắt cho </span></span>từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wai di </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(外地: ngoại địa), nghĩa là 'không phải địa phương'. 46 Đáp lại những trò như thế này, vào năm 2014, cơ quan quản lí truyền thông chính thức, Cục Quản lí Nhà nước về Báo chí, Xuất bản, Phát thanh, Phim và Truyền hình đã ban hành một lệnh cấm chính thức đối với việc sử dụng các trò chơi chữ trong các chương trình phát sóng. Lệnh này cũng đã bị chế nhạo và việc thực thi là ở mức tối thiểu.47</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những người nói tiếng Quảng Đông đã trở thành những chuyên gia trong việc </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">né tránh kiểm duyệt. Họ có thể sử dụng cụm từ tiếng Quảng Đông có nghĩa là 'gã miền Bắc’ giống như một cách phát âm giống với cụm từ 'kẻ trục lợi miền Bắc'. Nếu muốn chỉ trích Đảng Cộng sản, họ có thể sử dụng cụm từ 'ngựa bùn cỏ'- </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cao ni ma, </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(草泥馬 / cǎo ní mǎ)</span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> nói nghe gần giống như (操你媽 / cāo nǐ mā) 'đ* mẹ mày' trong tiếng Quảng Đông. Do đảng thường được ví là ‘mẹ’ của dân, nên cụm từ này cũng có ý rằng ‘đ* đảng’. Nếu họ muốn chỉ trích sự tuyên truyền của đảng họ có thể sử dụng mỉa mai cách phát âm tiếng Quảng Đông của tên bộ phim truyền hình yêu nước, 'Bravo, Nước tôi’ - </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lai hoi liu, ngo dik gwok </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(利害了, 我的國: lợi hại liễu, ngã đích quốc)- chính nó lại bắt nguồn từ một cụm từ được các tổ chức cộng sản sử dụng trên mạng xã hội,'Bravo, anh bạn' - </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Li hai le, wo de ge </span><span style="color: #200200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(厲害了, 我的哥: lệ hại liễu, ngã đích ca)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1a1500; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù vậy có vẻ như là triển vọng cho topolect sẽ phụ thuộc vào mức độ quan trọng về mặt kinh tế của topolect đó. Có rất nhiều người nói tiếng Thượng Hải và tiếng Quảng Đông có đủ nguồn lực - tài chính và chính trị - để tổ chức việc phòng vệ. Tuy nhiên, không phải tất cả các cách nói địa phương đều dễ dàng chống lại bước tiến của tiếng </span><span style="color: #1a1500; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phổ thông </span><span style="color: #1a1500; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Việc Tập Cận Bình lên nắm quyền và 'Giấc mơ Trung Hoa' của ông về thống nhất dân tộc cho thấy rằng động lực áp đặt quốc ngữ trên toàn quốc sẽ </span><span style="color: #1a1900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiếp tục. Ủy ban Ngôn ngữ Nhà nước Trung Quốc nhận thấy mối liên hệ trực tiếp giữa công việc của họ và lời kêu gọi chính thức về phục hưng dân tộc Trung Hoa. Trong ‘Đề cương Kế hoạch Quốc gia </span><span style="color: #1a1900; font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">Trung và Dài hạn </span><span style="color: #1a1900; font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">về Cải cách và Phát triển Ngôn ngữ và Chữ viết (2012–2020)’, Ủy ban khẳng định, ‘Việc thiết lập toàn diện một xã hội thịnh vượng một cách ôn hòa, xây dựng ngôi nhà tinh thần chung cho người dân Trung Quốc, nâng cao sức mạnh mềm văn hóa của đất nước, và tăng tốc quá trình hiện đại hóa giáo dục đều đặt ra những yêu cầu mới đối với <span id="docs-internal-guid-ab901d64-7fff-7741-0bac-fd19f98366ab"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nhiệm vụ</span></span> ngôn ngữ và chữ viết.’48</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1a1900; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1f2100; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này dường như gói gọn lại lời thúc giục kép đã thúc đẩy những nỗ lực của các nhà cải cách trong việc xây dựng một ngôn ngữ quốc gia duy nhất trong suốt hơn một thế kỉ. Một là mong muốn làm cho nhà nước hiệu quả hơn và nhân dân mạnh hơn, thông qua một ngôn ngữ có thể thúc đẩy được việc xóa mù chữ trong đại chúng và việc giao tiếp giữa các cộng đồng đa dạng. Hai là mong muốn có tính dân tộc về xây dựng một 'ngôi nhà tinh thần chung'. Chìm sâu trong dự án ngôn ngữ là nỗi sợ rằng Trung Quốc có thể </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đơn <span id="docs-internal-guid-45f8962b-7fff-a242-f5ea-992e9c26ef51"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">giản </span></span>là quá đa dạng để có thể hợp lại với nhau. Đây là một nỗi sợ có nguồn gốc sâu xa, nhưng nó vẫn còn quá nhạy cảm để nói to lên. Chúng ta chỉ có thể nghe thấy tiếng vọng của nó khi TCB và các nhà lãnh đạo khác nói về sự cần thiết có một 'đất nước hài hòa về văn hóa’ và không ngừng kêu gọi 'đoàn kết'. Bất hòa và mất đoàn kết là mối quan tâm-không-ai-được-nêu-tên. Ý tưởng rằng Hong Kong hoặc Đài Loan - hoặc Quảng Châu hay Thượng Hải - có thể có bản sắc riêng của chính họ mạnh hơn bản sắc dân tộc Trung Quốc là không thể tưởng tượng được theo nghĩa đen đối với những người lãnh đạo nước CHNDTH.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thừa nhận những suy nghĩ nổi loạn như vậy là mở ra cánh cổng trí tuệ cho việc quay lại sự hỗn loạn: quay lại thời đại lãnh chúa của những năm 1910 và 1920, hoặc lùi xa hơn là trở lại thời chiến quốc. Sự tan rã quốc gia có thể còn xa nhưng dù sao cũng phải thường xuyên đấu tranh chống lại. Năm 1991, chủ tịch tỉnh Quảng Đông, Ye Xuanping (叶选平: Diệp Tuyển Bình), bị giới lãnh đạo Đảng Cộng sản trung ương coi là một nhân vật quá mạnh ở địa phương. <span id="docs-internal-guid-cc27995f-7fff-fcb1-97ad-2b4deb9e0132"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Để an toàn họ đã đề bạt ông lên một chức vụ trái với ý muốn,</span></span> chủ yếu có tính nghi thức ở Bắc Kinh như một cách loại bỏ ông và phe cánh khỏi cơ cấu quyền lực địa phương. Điều tương tự đã xảy ra vào năm 2012 tại thành phố Trùng Khánh khi bí thư Đảng Cộng sản địa phương Bạc Hi Lai bị lột chức vì lo ngại rằng thái ấp địa phương của ông nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền trung ương. Nỗi sợ rằng các lực li tâm có thể xé vụn 'đại quốc' mới luôn hiện hữu, làm dấy lên sự căng thẳng liên tục của trung tâm về sự thống nhất qua việc kêu gọi một nền văn hóa duy nhất.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Động lực này có thể <span id="docs-internal-guid-2bb9645c-7fff-019d-fad9-ddea16b6fe0d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">truy ngược về</span></span> một chuỗi các nhà cải cách ngôn ngữ từ Hoàng Tuân Hiến vào cuối thế kỉ 19, thông qua hai ông họ Vương và Uông nổ ra vào năm 1913, cho tới các thành viên của Ban trù bị cho việc thống nhất của ngôn ngữ quốc gia và những người kế tục cộng sản trong Hội Cải cách Chữ viết Trung Quốc, sau đó phát triển thành Ủy ban Ngôn ngữ Nhà nước Trung Quốc ngày nay. Đằng sau họ là những người dân tộc chủ nghĩa về ngôn ngữ ở Nhật và Đức mà từ họ ý tưởng về một 'ngôn ngữ quốc gia' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quốc ngữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- đã xuất hiện, trong công thức ‘một quốc gia, một dân tộc, một ngôn ngữ’ (一國家, 一民族, 一語言). Và, như những người biểu tình ở Hong Kong đều biết rõ, khẩu hiệu đó đã được tiếp thêm năng lượng mới dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">__________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. Xinhua, 'Proposal for News in Mandarin Angers Guangzhou Citizens', 9 July 2010, </span><a href="http://www.china.org.cn/china/201007/09/content_20463001.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.china.org.cn/china/201007/09/content_20463001.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">; Sihua Liang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Language Attitudes and Identities in Multilingual China: A Linguistic Ethnography, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cham: Springer, 2015, pp. 5</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Xuesong Gao, “Cantonese is Not a Dialect” : Chinese Netizens' Defence of Cantonese as a Regional Lingua Franca', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Multilingual and Multicultural Development</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 33/5 (2012), p. 459. 3. Ibid., p. 459. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Verna Yu and SCMP Reporter, 'Hundreds Defy Orders Not to Rally in Defence of Cantonese', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South China Morning Post,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 2 August 2010, </span><a href="https://www.scmp.com/article/721128/hundreds-defy-orders-not-rally-defencecantonese" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.scmp.com/article/721128/hundreds-defy-orders-not-rally-defencecantonese</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. Rona Y. Ji, “Preserving Cantonese Television & Film in Guangdong: Language as Cultural Heritage in South China's Bidialectal Landscape', Inquiries Journal, 8/12 (2016), </span><a href="http://www.inquiriesjournal.com/articles/1506/3/preserving-cantonese-television-andfilm-in-guangdong-language-as-culturalheritage-in-south-chinas-bidialectallandscape" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.inquiriesjournal.com/articles/1506/3/preserving-cantonese-television-andfilm-in-guangdong-language-as-culturalheritage-in-south-chinas-bidialectallandscape</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Mimi Lau, ‘Guangdong TV News Channel Quietly Changing from Cantonese to Putonghua', South China Morning Post, 11 July 2014, </span><a href="https://www.scmp.com/news/china/article/1552398/guangdong-tv-news-channelquietly-changing-cantonese-putonghua" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.scmp.com/news/china/article/1552398/guangdong-tv-news-channelquietly-changing-cantonese-putonghua</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7._Xinhua, 'China to Increase Mandarin Speaking Rate to 80%’, 3 April 2017, </span><a href="http://english.gov.cn/state_council/ministries/2017/04/03/content_2814.75615766970.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://english.gov.cn/state_council/ministries/2017/04/03/content_2814.75615766970.htm</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. Minglang Zhou and Hongkai Sun (eds), Boston; London: Kluwer Academic Publishers, 2004, p. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Language Policy in the People's Republic of China: Theory and Practice Since 1949,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. Dan Xu and Hui Li, ‘Introduction', in Dan Xu and Hui Li (eds),</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Languages and Genes in Northwestern China and Adjacent Regions,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Singapore: Springer, 2017, p. 3. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">10. Stephen Chen, ‘Beyond the Yellow River: DNA Tells New Story of the Origins of Han Chinese', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South China Morning Post,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 23 May 2019. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. Jerry Norman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge: Cambridge University Press, 1988, chapter 1. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12. Victor H. Mair, “What is a Chinese "Dialect/Topolect”?', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sino-Platonic Papers</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 29 (September 1991).</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Norman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 2; 183. 14. Ibid., pp. 15-16. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. Elisabeth Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Politics of Language in Chinese Education: 1895–1919</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Leiden: Brill, 2008, p. 32. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16. Mair, “What is a Chinese "Dialect/Topolect”?', pp. 11-12. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">17. Murata Yujiro, “The Late Qing “National Language” Issue and Monolingual Systems:</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Focusing on Political Diplomacy', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese Studies in History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 49/3 (2016), pp. 108–25. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Politics of Language,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> pp. 24-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. Ibid., pp. 91–3. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">20. John DeFrancis, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nationalism and Language Reform in China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Princeton, NJ: Princeton University Press, 1950, p. 33. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. Yixue Yang, ‘Language Reform and Nation Building in Twentieth-Century China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sino-Platonic Papers</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 264 (December 2016), pp. 74-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22. Ni Haishu, “Qieyinzi', in </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Zhongguo da baike quanshu, Yuyan wenzi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Beijing/Shanghai: Zhongguo da baike quanshu chubanshe, 1988, pp. 315-17, </span><a href="http://www.chinaknowledge.de/Literature/Script/qieyin.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.chinaknowledge.de/Literature/Script/qieyin.html</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 23. Jing Tsu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sound and Script in Chinese Diaspora,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cambridge, MA: Harvard University Press, 2010, p. 23. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24. Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Politics of Language</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 146. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Quoted in ibid., p. 122. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">26. Ibid., p. 366. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Ibid., pp. 356–7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. Ibid., p. 378. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">29. Ibid., p. 292. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Ibid., p. 293. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. Christopher Rea, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Age of Irreverence: A New History of Laughter in China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Oakland, CA: University of California Press, 2015, pp. 97–101. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">32. Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Politics of Language</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 407;410. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33. DeFrancis, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nationalism and Language Reform</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 57. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">34. Tsu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sound and Script,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 194; S. Robert Ramsey, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Languages of China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Princeton, NJ: Princeton University Press, 1987, pp. 7-8. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">35. DeFrancis, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nationalism and Language Reform</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 66.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Politics of Language</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 428; Peter Peverelli,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> The History of Modern Chinese Grammar Studies, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Berlin: Springer, 2015, p. 28. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Kaske, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Politics of Language,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> p. 463; Peverelli, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">History of Modern Chinese Grammar Studies</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, pp. 28-9. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">38. Quoted in Tsu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sound and Script</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 196. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. David Moser, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A Billion Voices: China's Search for a Common Language,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> London: Penguin Books, 2016, p. 27. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. John DeFrancis, ‘Language and Script Reform in China', in Joshua A. Fishman (ed.), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Advances in the Sociology of Language</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> vol. II: Selected Studies and Applications</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, The Hague; Paris: Mouton, 1972, p. 458. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. Harriet C. Mills, ‘Language Reform in China: Some Recent Developments',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Far Eastern Quarterly,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 15/4 (August 1956), pp. 521-7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42.</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> People's Daily</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 26 October 1955, quoted in Longsheng Guo, “The Relationship Between Putonghua and Chinese Dialects', in Minglang Zhou and Hongkai Sun (eds), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Language Policy in the People's Republic of China: Theory and Practice Since 1949</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Boston; London: Kluwer Academic Publishers, 2004, pp. 45–6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43: Yanyan Li, “The Teaching of Shanghainese in Kindergartens, PhD dissertation,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Benerd School of Education</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 2015, pp. 49-52. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Qing Shao and Xuesong (Andy) Gao, ‘Protecting Language or Promoting Dis-citizenship? A Poststructural Policy Analysis of the Shanghainese Heritage Project,’ I</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nternational Journal of Bilingual Education and Bilingualism,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 22/3 (2019), pp. 352-64. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45. Mark MacKinnon, ‘Mandarin Pushing Out Cantonese', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Globe and Mail</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Toronto), 20 November </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2009, </span><a href="https://www.theglobeandmail.com/news/world/mandarin-pushing-outcantonese/article4293285" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.theglobeandmail.com/news/world/mandarin-pushing-outcantonese/article4293285</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ; He Huifeng, 'Why Has Cantonese Fallen Out of Favour with Guangzhou Youngsters?', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">South China Morning Post,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 12 March 2018, </span><a href="https://www.scmp.com/news/china/society./article/2136237/why-has-cantonese-fallenout-favour-guangzhou-youngsters" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://www.scmp.com/news/china/society./article/2136237/why-has-cantonese-fallenout-favour-guangzhou-youngsters</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. Shao and Gao, ‘Protecting Language', p. 357. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">47. Moser, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A Billion Voices</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 90.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">48. Quoted in Natalia Riva ‘Putonghua and Language Harmony: China's Resources of Cultural Soft Power',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Critical Arts</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 31/6 (2017), pp. 92–108.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">______________________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản song ngữ: <a href="https://docs.google.com/document/d/1TDH7mI35W0mKsL0PzrjgSErNqnKXCpuDus-ymha-8zk/edit?usp=sharing" target="_blank">Chapter 6: The Invention ofChinese language</a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a><span> <span> </span><span> </span><span> </span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank">Chương 5</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"><span>Chương 2 </span></a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> </span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-6.html" target="_blank">Chương 6</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank">Chương 4</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a></p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-2030028076010884082020-12-31T20:58:00.014-08:002021-05-02T04:48:12.622-07:00Sáng chế ra TQ (Lời giới thiệu)<p> <img height="867" src="https://lh5.googleusercontent.com/TveBRZYXEvO6QuS_KCdfWjrfNdGCLJre3CbZnxtWosfFTGKf0syZP6ufmSpg8HBvTXnuJH2e7gkdYpdLpr-OsTTSYIfnyIBvzY0Uufn6vSePGpP2lHKTh7K6rw861HQnfvo3OlPR" style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-weight: 700; margin-left: 0px; margin-top: 0px; text-align: center; white-space: pre-wrap;" width="588" /></p><span id="docs-internal-guid-132da8f6-7fff-bd18-ca74-8831d549e2c8"><div>_____________________________________________________________________</div><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 36pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 36pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">TRUNG QUỐC</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 48px; white-space: pre-wrap;"><b>ĐƯỢC SÁNG CHẾ</b></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 48px; white-space: pre-wrap;"><b>NHƯ THẾ NÀO?</b></span></span></p><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">BILL HAYTON</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">YALE UNIVERSITY PRESS</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">NEW HAVEN AND LONDON</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="display: inline-block; position: relative; width: 100px;"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 18pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">________________________________________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 18pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-size: 18pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục lục</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Danh sách hình minh họa</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lời cám ơn</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giới thiệu</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1 Sáng chế tên Trung Quốc</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2 Sáng chế Chủ quyền.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3 Sáng chế tộc Hán</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4 Sáng chế Lịch sử Trung Quốc</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5 Sáng chế dân tộc Trung Quốc</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6 Sáng chế tiếng Trung </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7 Sáng chế Lãnh thổ Quốc gia.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8 Sáng chế Yêu sách biển</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phần kết luận</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ghi chú về Những nhân vật có ảnh hưởng</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hướng dẫn đọc thêm,</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mục lục</span></p><br />______________________________________________</span><div><span><br /></span></div><div><span><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 18pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">LỜI CẢM ƠN</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xiexie (Tạ Tạ) - Cảm ơn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><br /><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuốn sách này bắt đầu trong quán bar của khách sạn Omni New Haven và một cuộc trò chuyện với Bradley Camp Davis của Đại học Bang Eastern Connecticut. Qua một vài chai Newcastle Brown Ale, chúng tôi đã thảo luận về lịch sử khó khăn của vùng biên giới Việt Nam. Tại một thời điểm, Bradley đã trả lời một trong những câu hỏi ngây thơ của tôi về biên giới thế kỉ 19 với dòng chữ: “Điều đó phụ thuộc vào việc bạn hiểu Trung Quốc có nghĩa là gì”. Đó là một khoảnh khắc quay cuồng. Sau nhiều năm suy nghĩ, giao động, nghiên cứu và viết, cuốn sách này là kết quả của cuộc trò chuyện đó. Tôi hi vọng bạn sẽ thấy nỗ lực của tôi để hiểu 'bạn hiểu Trung Quốc có nghĩa là gì' cũng hấp dẫn như tôi đã thấy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không điều nào trong những gì sau đây có thể xảy ra nếu không có thư viện của Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi ở London: đối với tôi, một cổng chính dẫn đến một bình diện ý thức mới. Xin gửi lời cảm ơn của tôi đến tất cả những người làm việc ở đó. Khi tôi bước những bước đầu tiên đầy lo lắng vào thế giới trí tuệ này, tôi đã được khích lệ rất nhiều bởi những cuộc thảo luận của tôi với những người tham gia tại một hội nghị do Kreddha tổ chức tại Đại học California, Davis vào tháng 9 năm 2016. Tại đó tôi đã gặp Michael van Walt van Praag, Miek Boltjes, Arif Dirlik nay đã mất của Đại học Oregon và Timothy Brook của Đại học British Columbia, đều hào phóng ủng hộ tham vọng của tôi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Họ chỉ là những người đầu tiên trong danh sách dài các học giả đã trả lời nhiều câu hỏi ngây thơ nữa. Đặc biệt tôi xin cảm ơn: Tim Barrett của SOAS; Chad Berry của Đại học Alabama; May Bo Ching của Đại học Thành phố Hong Kong; Chris P.C. Chung của Đại học Toronto; Pamela Kyle Crossley của Đại học Dartmouth; Stephen Davies của Đại học Hong Kong; Frank Dikötter của Đại học Hong Kong; Josh Fogel của Đại học York; Ge Zhaoguang của Đại học Fudan; Michael Gibbs Hill của Đại học William và Mary; Tze-ki Hon của Đại học Thành phố Hong Kong; Chris Hughes của Trường Kinh tế London; Bruce Jacobs của Đại học Monash; Thomas Jansen của Đại học Wales Trinity Saint David; Elisabeth Kaske của Đại học Leipzig; Cheng-Chwee Kuik của Đại học Quốc gia Malaysia; Jane Leung Larson của diễn đàn Học bổng Baohuanghui; James Leibold của Đại học La Trobe; Victor Mair của Đại học Pennsylvania; Melissa Mouat của Đại học Cambridge; Peter Perdue của Đại học Yale; Edward Rhoads của Đại học Texas ở Austin; Julia Schneider của Đại học College Cork; Rich Smith của Đại học Rice; Rachel Wallner của Đại học Northwestern; Jeff Wasserstrom của Đại học California, Irvine; và Peter Zarrow của Đại học Connecticut.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">George Yin của Swarthmore College là một nguồn tư vấn tuyệt vời cho nhiều câu hỏi về dịch thuật và từ nguyên của tôi. Geoff Wade đã giúp tôi biết đúng đằn những thứ thời Minh. Evan Fowler và Trey Menefee đã tư vấn cho tôi phần Hong Kong; Erik Slavin đã đưa tôi đi dạo quanh Yokohama và Jeremiah Jenne đã giúp tôi rất nhiều ở Bắc Kinh. Paul Evans, Brian Job và Yves Tiberghien của Đại học British Columbia đã tổ chức và giúp đỡ tôi tại Vancouver. Cháu cố của Timothy Richard, Jennifer Peles và người viết tiểu sử của ông, Eunice Johnson nay đã mất, đã giúp tôi nghiên cứu về cuộc đời và công việc của nhà truyền giáo-giáo dục này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả mọi người tại Nhà xuất bản Đại học Yale, đặc biệt là Heather McCallum vì đã dám đánh liều với cuốn sách này; Marika Lysandrou, người đã chăm sóc tôi trong quá trình viết; Clarissa Sutherland và Percie Edgeler, đã quản lí quá trình xuất bản; và Charlotte Chapman vì đã biên tập nghiêm ngặt bản thảo. Ba trọng tài ẩn danh đã đưa ra những nhận xét cực kì hữu ích về bản thảo, xin cảm ơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đồng nghiệp BBC của tôi đã dung thứ việc nghiên cứu khuya khoắt của tôi và gia đình tôi đã cho phép tôi đi xa. Vợ tôi, Pamela Cox, là một nhà sử học thật sự và đã chỉ cho tôi cách trở thành một nhà sử học như thế nào. Xin dành tình yêu thương cho cô. Các con của chúng tôi, Tess và Patrick, đã cho nguồn động viên và hạnh phúc. Cảm ơn bạn; bây giờ bạn có thể ngồi lại vào bàn ăn.</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Colchester, tháng 3 năm 2020</span></p></span></div><div><span>______________________________________<br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 16pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="display: inline-block; position: relative; width: 100px;"></span></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="font-family: Arial; font-size: 18pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">LỜI GIỚI THIỆU</span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc (TQ) sẽ trở thành loại đất nước nào? Chúng ta biết rằng TQ lớn về dân số và, nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, nó sẽ mạnh về kinh tế và bạo về quân sự. Nhưng siêu cường này sẽ hành xử như thế nào? Nó sẽ đối xử với người dân của chính nó, các láng giềng và phần còn lại của thế giới như thế nào? Trung Quốc là một trong hai quốc gia có dân số hơn một tỉ người, lực lượng vũ trang lớn, vũ khí hạt nhân và các tranh chấp biên giới đầy biến động. Nhưng trong khi ít người coi Ấn Độ là mối đe dọa đối với ổn định quốc tế, thì Trung Quốc lại chế ngự suy nghĩ của các nhà hoạch định chính sách, nhà phân tích và nhà bình luận. Có điều gì đó khác biệt về Trung Quốc. Trong khi nhiều người coi sự trỗi dậy của nó là một cơ hội - cho giao thương, đầu tư, lợi nhuận và phát triển - thì ít người nghĩ như vậy mà không có sự dè dặt. Trung Quốc là loại nước nào? Nó sẽ tạo ra loại thế giới nào?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Có một câu trả lời lười nhác cho câu hỏi này, một câu trả lời đã trở thành cẩm nang cho Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhiều nhà bình luận. Nó chỉ đơn giản là viện đến ‘thế kỉ quốc sỉ’. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2017, Tập Cận Bình (TCB) đứng trước biểu tượng búa liềm khổng lồ tại Đại hội lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc và tóm tắt cẩm nang này trong một đoạn văn. "Với lịch sử hơn 5 000 năm, dân tộc chúng ta đã tạo ra một nền văn minh huy hoàng, có những đóng góp đáng kể cho nhân loại và trở thành một trong những dân tộc vĩ đại trên thế giới", ông nói với khán giả của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng với cuộc Chiến tranh Nha phiến năm 1840, Trung Quốc chìm trong bóng tối của nội loạn và ngoại xâm; người dân TQ, bị tàn phá bởi chiến tranh, nhìn thấy quê hương của mình bị chia cắt và sống trong nghèo đói và tuyệt vọng. Với sự ngoan cường và anh hùng, vô số những người yêu nước tận tụy đã chiến đấu, vượt lên trước những khó khăn, và cố gắng bằng mọi cách có thể được tìm cách cứu đất nước. Nhưng dù với những nỗ lực của mình, họ đã bất lực trong việc thay đổi bản chất của xã hội trong nước Trung Quốc cũ và tình cảnh tuyệt vọng của người dân Trung Quốc.1</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đó là một cách nhìn <span id="docs-internal-guid-3f364774-7fff-f67c-6f61-4dc2763a493c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">kì dị </span></span>về quá khứ. Nó được dựa trên ý tưởng rằng, trong suốt một thế kỉ, người dân Trung Quốc là nạn nhân không may của xâm lược của ngoại bang, và giữ một vai trò nhỏ bé trong vận mệnh của chính họ. Dễ thấy tại sao một đảng chính trị độc tài lại thấy điều đó hữu ích. Với việc cướp lấy quyền đại diện người dân Trung Quốc, họ tránh phải hỏi hoặc trả lời những câu hỏi khó về thay đổi xảy ra thế nào. <span id="docs-internal-guid-248107e4-7fff-cb78-6741-3f212fe4a2f7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Theo </span></span>đó, phiên bản lịch sử của TCB là phiên bản được dạy trong các trường học Trung Quốc, và cũng là phiên bản mà nhiều người bên ngoài Trung Quốc đã đi đến đồng ý. Tuy nhiên, hầu hết mọi khía cạnh của nó đã bị thách thức bởi nghiên cứu gần đây. Thật không may, những hiểu biết sâu sắc được nghiên cứu này mở khóa không <span id="docs-internal-guid-8f28ee6a-7fff-0f38-9b4a-50de7d8000a7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được bao gồm</span></span> trong cuộc đối thoại chính thống về Trung Quốc: chúng bị bỏ quên trong các thư viện và các hội thảo học thuật chuyên môn. Trong cuốn sách này, tôi sẽ cố gắng đưa chúng ra<span id="docs-internal-guid-654adea0-7fff-ce55-5364-02d51838d583"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">khỏi chỗ khuất</span></span>. Tôi sẽ cho thấy cách nhìn của Tập Cận Bình về Trung Quốc không phải là một biểu hiện phi thời gian về 'tính Trung Hoa' có từ thời 'xa xưa' mà là một phát minh hiện đại như thế nào. Bản sắc chủng tộc của Trung Quốc hiện đại, ranh giới và thậm chí cả ý tưởng về một ‘quốc gia-dân tộc' đều là những thứ được làm mới từ cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong cuốn sách này, tôi sẽ cố gắng chỉ ra cách Trung Quốc đi đến việc tự nghĩ về mình là 'Trung Quốc' như thế nào. Tôi sẽ nhìn vào những cách mà giới tinh hoa Trung Quốc áp dụng những ý tưởng xa lạ, bắt đầu từ khái niệm về chính ‘Trung Quốc’, trước khi tiếp tục xem xét các ý niệm phương Tây về chủ quyền, chủng tộc, dân tộc, lịch sử và lãnh thổ đã trở thành một phần của tư duy tập thể Trung Quốc như thế nào. Tôi sẽ chỉ ra cách mà các khái niệm <span id="docs-internal-guid-70784899-7fff-c35a-76b6-11b5f88b5210"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> cốt lõi đã được các trí thức Trung Quốc nhận lấy</span></span> từ nước ngoài, và được điều chỉnh để tạo ra và củng cố huyền thoại của một đất nước và con người thống nhất 5 000 năm. Đây không chỉ đơn thuần là một bài tập học thuật. Chúng ta không thể hiểu các vấn đề hiện nay về biển Đông, Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương, Hong Kong, và cuối cùng là chính Trung Quốc, nếu không hiểu cách nhìn hiện đại hóa này đã được giới tinh hoa của <span id="docs-internal-guid-f7ae293a-7fff-792c-a35b-0964f9ad6956"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nước này nhận lấy </span></span>như thế nào và các vấn đề trong tương lai được gắn vào nó như thế nào. Trung Quốc ngày nay hành xử theo cách mà họ hành xử phần lớn là do những lựa chọn được các trí thức và nhà hoạt động cách đây một thế kỉ thực hiện và vì những ý tưởng mà họ thừa nhận và tuyên truyền đã được đông đảo người dân đón nhận để thay đổi cả một đất nước. Những cách mà những ý tưởng này được tranh cãi giữa các nhóm lợi ích chính trị đối địch và cách chúng được giải quyết vẫn còn sống chung với chúng ta ngày nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trung Quốc không phải là độc nhất trong việc này. Mỗi ‘nhà nước-dân tộc’ hiện đại - Đức, Thổ Nhĩ Kì, Ý và Anh, chỉ nêu một vài - đều trải qua quá trình này. Đối với nhà sử học Arif Dirlik, một nhà Marxist gốc Thổ Nhĩ Kì, vấn đề này rất quen thuộc. Quá trình mà Đế chế Thanh cũ tiến triển thành Trung Quốc hiện đại <span id="docs-internal-guid-2a9931e3-7fff-e5a7-aae6-0d70d532db13"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">gần như song hành với sự chuyển đổi của Đế chế Ottoman thành Thổ Nhĩ Kì chỉ vài năm sau đó</span></span>. Một quá trình bề ngoài có vẻ đơn giản - một sự thay đổi bạo lực chính phủ - thực sự đòi hỏi những thay đổi cơ bản trong cách hiểu của xã hội về thế giới, về mối quan hệ giữa người cai trị và người bị trị và theo nghĩa của những từ mô tả những gì đang diễn ra. Chính một bài báo của Dirlik, về cái tên Trung Quốc, đã thôi thúc tôi mở cuốn sách này với việc viết về chủ đề đó. Bài báo của ông đã chứng minh rằng sự thay đổi từ đế chế cũ sang quốc gia-dân tộc hiện đại thật ra đi theo hướng ngược lại. Thay đổi bắt đầu với từ ngữ. Khi những người trí thức phải vật lộn để giải thích và giải quyết các vấn đề do việc hiện đại hóa nhanh chóng tạo ra, họ đã tạo ra những từ mới - hoặc chỉnh sửa nghĩa của những từ cũ - để mô tả tình trạng mới. Những từ mới đó kết tinh những cách nhìn mới về xã hội và làm thay đổi các quan hệ giữa kẻ thống trị và người bị trị. Kết quả là chính phủ bị lật đổ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôi gặp Dirlik một lần duy nhất: ông mất ngay vào lúc tôi bắt đầu viết cuốn sách này. Một số </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">thấy Dirlik khó tính nhưng tôi thích ông và ông đã mở mắt cho tôi về vấn đề này. Dirlik tin rằng sự xuất hiện của những ý tưởng làm nền tảng cho Trung Quốc hiện đại không phải là một câu chuyện lịch sử mù mờ mà là một vấn đề đang </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">diễn ra </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">tiếp tục làm sống động các hành động của một siêu cường mới nổi. Khi nhìn vào Trung Quốc, chúng ta thấy trên thực tế, thắng lợi của một nhóm nhỏ người, khoảng một thế kỉ trước, đã tạo ra những ý tưởng mới về bản chất </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">xã hội và chính trị, rồi thuyết phục phần còn lại của đất nước - và thế giới rộng lớn hơn - tin vào chúng. Những ý tưởng này là sự pha trộn lộn xộn các quan niệm hiện đại của phương Tây về các quốc gia, dân tộc, lãnh thổ và biên giới với các quan niệm truyền thống về lịch sử, địa lí và trật tự xã hội đúng lẽ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi cuốn sách này viết về ‘việc sáng tạo ra Trung Quốc', tôi không cố tácht riêng Trung Quốc ra để chỉ trích đặc biệt. Tất cả các quốc gia hiện đại đều trải qua quá trình ‘sáng tạo' này: ghi nhớ và quên đi một cách có chọn lọc các khía cạnh trong quá khứ của họ để đưa ra một cách nhìn về tương lai <span id="docs-internal-guid-23093f7f-7fff-5878-9e9b-7f2500125b3c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có vẻ bề ngoài</span></span> là mạch lạc và thống nhất. Tôi viết điều này tại một Vương quốc Anh bị thiêu đốt bởi các tranh luận về Brexit. Mỗi ngày, chúng tôi thấy các chính trị gia và nhà bình luận nhớ hoặc quên một cách có chọn lọc các khía cạnh trong mối quan hệ của Anh với lục địa Châu Âu hoặc với đảo Ireland, hoặc liên minh Anh với Scotland để tạo nền tảng ‘<span id="docs-internal-guid-e785ff14-7fff-fdde-2820-010690399eae"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đáng tin</span></span>’ cho chương trình chính trị của họ. Những câu hỏi bị đè nén lâu nay về chủ quyền, bản sắc và sự thống nhất đã bùng nổ ra <span id="docs-internal-guid-45a1ae64-7fff-91e2-fee9-000b7d317de0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">công khai</span></span> và trở thành nguồn cảm xúc và sự đối đầu mới. Cách đó hàng ngàn dặm, Hong Kong đang trong biển lửa và ít nhất một triệu người Hồi giáo Turkey đang bị giam giữ trong các ‘trại cải tạo’. Bối cảnh và hậu quả rất khác nhau nhưng chúng có chung nguồn gốc: mâu thuẫn giữa chủ quyền, bản sắc và sự thống nhất vốn do quốc gia-dân tộc tạo ra.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hầu hết du khách đến Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh đều đi vào qua các cổng từng được <span id="docs-internal-guid-b14f9efd-7fff-f849-6cab-bd1489919429"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các nước triều cống, sứ thần và các quan chức cấp dưới sử dụng</span></span>. Đi qua những bức tường đỏ khổng lồ, họ bắt gặp lớp hết phòng thủ này đến lớp phòng thủ khác thực lẫn tượng trưng. Lớp đầu tiên có dạng một cái hào được đặt theo hình cánh cung quay ngược, hướng về phía nam như một lời cảnh báo cho kẻ thù của hoàng đế. Qua khỏi hào là sân lớn từng tổ chức các buổi lễ của <span id="docs-internal-guid-1e75da2b-7fff-7d6a-77a9-fbbbdd55fc9e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">triều đình</span></span>; rồi tới điện Thái Hòa, nơi các hoàng đế lên ngôi; và sau đó là điện Bảo Hòa, nơi hoàng đế dùng bữa tối với những người đứng đầu các phái bộ triều cống. Tiếp tục đi về phía bắc dọc theo trục trung tâm của thành phố sẽ đưa du khách đến những khu vực nội cung: Cung Càn Thanh, nơi chứa các phòng của hoàng đế, điện Giao Thái, nơi tổ chức lễ trọng và Năm mới, và sau đó, cuối cùng là Cung Khôn Ninh. Tòa nhà này ban đầu được xây dựng để làm nơi ở của các hoàng hậu nhưng vào năm 1645, sau khi chiếm được Bắc Kinh, nhà Thanh đã chuyển cho nó một mục đích mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhà Thanh là người Mãn: kẻ xâm lược từ phía đông bắc. Họ có tiếng nói riêng, chữ viết riêng, và theo tôn giáo của riêng mình: một hình thức shaman giáo. Những thứ này vẫn là ngôn ngữ và tôn giáo chính thức của triều đình cho đến khi triều đại này sụp đổ vào năm 1912. Cũng giống như người Anh ở Ấn Độ hoặc người Ottoman ở Ả Rập, tầng lớp tinh hoa <span id="docs-internal-guid-b1ea099a-7fff-566a-018e-e0a761cb9ac4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thuộc hoàng đế</span></span> tìm cách duy trì cảm giác biệt lập của họ. Đặc biệt, cư dân của Tử Cấm Thành vẫn duy trì nhiều nghi lễ mà tổ tiên của họ đã từng tuân theo ở vùng núi phía đông bắc. Họ tập bắn cung với cung tên của mình, họ nhảy múa theo phong cách Mãn Châu và, trong cung Khôn Ninh đã chuyển mục đích sử dụng, họ làm lễ cúng tế gia súc.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hàng ngày, sau khi buổi cúng sáng theo truyền thống shaman, hoàng gia sẽ tập trung ở sảnh trung tâm của Cung điện trong khi một con lợn được đưa đi. Con vật sau đó bị giết thịt và thịt của nó đã được nấu chín phần nào. Thịt mỡ chưa thật chín được chuyển vòng quanh cho các thành viên giới quý tộc Mãn Châu tụ họp tham dự, họ tranh nhau để nhận được những miếng thịt ngon nhất. Cung điện trở nên bẩn thỉu, sàn nhà vương vãi mỡ và xà nhà nồng nặc mùi thịt lợn luộc.2</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Điều này không thành vấn đề đối với hoàng gia. Đó là một nơi riêng tư, thiêng liêng không cho người ngoài vào. Nó riêng tư đến mức tòa nhà cũng được sử dụng làm gian buồng trăng mật của hoàng đế - có lẽ là sau khi nó đã được dọn sạch sẽ. Những gì đã xảy ra trong Cung điện vẫn không lọt ra ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lề thói này vẫn tiếp tục cho đến cuộc cách mạng 1911/12, nhưng những người bảo vệ cho Tử Cấm Thành hiện nay vẫn phủ nhận mặt này về cuộc sống của hoàng gia. Nó không phù hợp với hình ảnh như thường nghĩ của một hoàng đế Trung Hoa. Thiên tử, theo lệ thường, được hình dung là ngồi thanh thản trên ngai vàng uy nghi, không ngồi xổm trên sàn nhà dính dầu mỡ. Nhưng bằng cách phủ nhận hoặc giảm thiểu lịch sử Mãn Châu về Cung điện, những hướng dẫn viên du lịch này đang thực hiện vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tính hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. CHNDTH tự coi mình là nhà cai trị mới nhất của một nhà nước Trung Quốc với lịch sử liên tục từ hàng thiên niên kỉ trước. Lịch sử này, theo quan điểm của họ, làm cho CHNDTH trở thành một nhà cầm quyền chính đáng trên một lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Thái Bình Dương đến Trung Á: nó làm nền tảng cho quyền cai trị của CHNDTH đối với Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ, Mãn Châu và Đài Loan. Nó cũng trao cho CHNDTH thẩm quyền xác định ai là người Trung Quốc và họ phải cư xử như thế nào.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, như lịch sử Cung Khôn Ninh đã cho thấy, trong 268 năm, ‘Trung Quốc’ lại là một tỉnh bị chinh phục của đế chế Mãn Thanh. Chính người Mãn Châu đã mở rộng sự cai trị nhà nước họ đến tận dãy Himalaya và vùng núi Tân Cương. Đợt chuyển đổi năm 1912 đã lộn ngược đế chế này từ trong ra ngoài. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc nắm quyền thống trị toàn bộ vùng đất vốn là một đế chế chủ yếu không-Trung Hoa. Họ cũng nắm quyền quyết định ai là người Trung Quốc, tính Trung Quốc của họ phải được thể hiện như thế nào, họ phải nói ngôn ngữ nào, v.v. Ban lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là những người kế tục họ. Đảng Cộng sản có một quan điểm đơn nhất về ý nghĩa của Trung Quốc và của người Trung Quốc là gì và dường như kiên quyết áp đặt nó, bất kể hậu quả. Hết lần này đến lần khác, đảng biện minh cho hành động của mình bằng cách viện dẫn một cách nhìn đặc thù, được chính trị hóa về quá khứ. Nếu chúng ta muốn hiểu các hành động trong tương lai của Trung Quốc, chúng ta cần hiểu nguồn gốc của cách nhìn này. Cuốn sách này truy nguồn các câu trả lời tới giai đoạn khoảng một thế kỉ trước đây khi mà trật tự đế quốc cũ sụp đổ và 'quốc gia-dân tộc' hiện đại xuất hiện từ đống đổ nát.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt; text-align: center;"><span style="color: #130200; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">* * *</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vài lời về thuật ngữ. Một số người có thể phản đối từ 'sáng chế’ (invention)' trong tiêu đề của tôi. Các nhà sử học chuyên nghiệp sẽ sử dụng từ 'xây dựng' (construction), nhưng một cuốn sách về 'xây dựng Trung Quốc' có nguy cơ bị xếp vào loại sách về công trình dân dụng. Ý nghĩa của tôi muốn nói vẫn như vậy. Tôi không khẳng định rằng Trung Quốc được sáng chế ra từ hư không nhưng ý tưởng về Trung Quốc như là một lãnh thổ thống nhất với lịch sử liền mạch đã được tích cực xây dựng / sáng chế ra từ một mớ bằng chứng mâu thuẫn bởi các cá nhân hành động trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">những </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">hoàn cảnh đặc thù của thời đại họ. Những ý tưởng, lập luận và tự sự mà họ vay mượn, điều chỉnh và khẳng định là sản phẩm của thời kì đó nhưng vẫn tiếp tục hướng dẫn hành động của giới lãnh đạo Trung Quốc cho đến ngày nay.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tôi cũng đã cố gắng tránh sử dụng từ ‘China' (Trung Quốc) trừ khi nó thích hợp - thường là từ thời kì sau khi Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố thành lập vào năm 1912. Sử dụng nó trước ngày này là rơi vào bẫy dân tộc chủ nghĩa trong việc phóng chiếu các từ ngữ (và ý nghĩa của chúng) về thời quá khứ mà chúng không thuộc về. Điều này mở ra câu hỏi về cách chính xác mà chúng ta nên quy cái mảnh bề mặt trái đất này theo thời gian như thế nào. Dirlik đã sử dụng thuật ngữ “vùng đất trung tâm Đông Á’ (East Asian Heartland), rất hữu ích nhưng không ngắn gọn. Cho khoảng thời gian từ năm 1644 đến năm 1912, tôi thường sử dụng thuật ngữ ‘Đại quốc Thanh' (Qing Great-State), vay mượn của Timothy Brook. Brook lập luận rằng “Đại quốc”, hay <i>Da Guo</i>, là một hình thức cai trị độc nhất của Nội Á và là từ ngữ mà các quốc gia, từ thời Mông Cổ trở đi, đã dùng để mô tả chính họ. Vì lí do này, nó thích hợp hơn thuật ngữ phương Tây <span id="docs-internal-guid-c7cce958-7fff-59b2-25d8-0d8e96d8109a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">'empire’ (đế chế)</span></span>.3</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tôi đã phiên âm nhiều từ ghép của Trung Quốc thành các âm tiết riêng lẻ trong lần sử dụng đầu tiên. Mặc dù điều này có thể làm những độc giả đã biết tiếng Trung khó chịu, nhưng nó có thể giúp ích cho những người không biết tiếng Trung.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, tôi cần nói rõ rằng đây là một công trình tổng hợp. Nó dựa trên nghiên cứu tiên phong của một thế hệ học giả mới trong vài thập kỉ qua. Các trường phái 'Tân Thanh sử’ và 'Hán học phê phán' và những trường khác đã cho phép chúng ta nhìn những câu hỏi cũ bằng con mắt mới. Tôi đã ghi công nhiều người trong các học giả này trong phần chính cuốn sách và nhiều người hơn trong Lời cảm ơn nhưng đối với những ai muốn biết chi tiết hơn, có một danh sách đầy đủ trong phần Đọc thêm. Tôi mang ơn hiểu biết chuyên sâu của họ. Việc kiểm tra lại quá khứ của người Trung Quốc chỉ có thể thực hiện được nhờ tự do học thuật được các trường đại học ở Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu và Nhật Bản cung cấp. Những vấn đề này không thể được giải quyết ngay trong bản thân Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: các câu hỏi về chủ quyền, bản sắc và sự thống nhất vẫn còn quá nhạy cảm. Cuốn sách này cố gắng giải thích tại sao.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_____</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span id="docs-internal-guid-f27d072c-7fff-5aa5-4346-88c82cb10d97"><span style="color: #2b2c00; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">1. Xi Jinping, Report at the 19th National Congress of the Communist Party of China, China Daily, 18 October 2017, Xinhua, </span><span style="color: #1155cc; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline;"><a href="http://www.chinadaily.com.m/qingdao/2017-11/04/content_35234206.htm" style="text-decoration-line: none;">http://www.chinadaily.com.m/qingdao/2017-11/</a></span></span></span><a href="http://www.chinadaily.com.m/qingdao/2017-11/04/content_35234206.htm" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">04/content_35234206.htm</span></a><span style="color: #2b2c00; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><span id="docs-internal-guid-6414ad37-7fff-c23f-0f7e-7a4d7cb7edf0"><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #2b2c00; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. Geremie R. Barmé, </span><span style="color: #2b2c00; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Forbidden City</span><span style="color: #2b2c00; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2011.</span></p><span style="color: #1a2800; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Timothy Brook, </span><span style="color: #1a2800; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Great States: China and the World, </span><span style="color: #1a2800; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">London, Profile Books, 2019.</span></span><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_________________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem song ngứ: <a href="https://docs.google.com/document/d/1_ga-MCktbjIYE0Ho94ER-zAv6Ncuj3ztutow2_iyroQ/edit?usp=sharing" target="_blank">Mở đầu</a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank"> Chương 5 </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank">Chương 2 </a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> <a href="https://docs.google.com/document/d/1TDH7mI35W0mKsL0PzrjgSErNqnKXCpuDus-ymha-8zk/edit?usp=sharing" target="_blank">Chương 6 </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 10pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank"> Chương 4</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a> </p><div><br /></div><div><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span></div>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4901967403910129072.post-74453959475658588682020-12-31T19:31:00.058-08:002021-12-13T15:43:14.415-08:00Sáng chế ra Trung Quốc (Ch. 2: Chủ quyền)<p><b><span style="font-size: medium;">Chuong 2</span></b></p><p> <span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-weight: 700; white-space: pre-wrap;">SÁNG CHẾ CHỦ QUYỀN </span></p><span id="docs-internal-guid-17da76d3-7fff-0521-c548-2af2baeff410"><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 14pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; font-weight: 700; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhuquan - chủ quyền</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><br /><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thứ sáu ngày 18 tháng 12 năm 2009. Các nhà lãnh đạo của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tập trung tại địa điểm tổ chức hội nghị lớn nhất của Scandinavia, Trung tâm Bella, ở ngoại ô phía nam Copenhagen. Họ đã đi đến việc kí kết một thỏa thuận quốc tế về chống khủng hoảng khí hậu trên thế giới. Thủ tướng Anh gọi nó, với chút cường điệu, là ‘hội nghị quan trọng nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai’, nhưng các cuộc đàm phán không diễn ra tốt đẹp. Người đồng cấp Trung Quốc (TQ) của ông, Ôn Gia Bảo, không chịu rời khách sạn, nại cớ có một số hành động ngoại giao kém lịch sự. Thay vào đó, ông đã cử thứ trưởng ngoại giao He Yafei (何亚非: Hà Á Phi) đến ngồi bàn đầu để đàm phán với Gordon Brown, Barack Obama, Angela Merkel, Nicolas Sarkozy, Manmohan Singh và các nhà lãnh đạo khác. Đó là một sự xúc phạm có tính toán.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các nước phát triển đã cam kết cắt giảm 80% lượng khí thải carbon và tài trợ cho nỗ lực của các nước đang phát triển trong việc làm giảm lượng khí thải của họ. Hoa Kì đã đưa ra 100 tỉ đô la. EU đang đề nghị cắt giảm 30% lượng khí thải vào năm 2020. Các nước đang phát triển muốn đưa ra điều gì để đổi lại? Các cuộc đàm phán đã diễn ra trong một năm nhưng tới ngày cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh thì ngay cả về điều này họ vẫn bế tắc. Các quan chức và đại biểu đã dành 10 ngày trước đó để thảo luận các chi tiết. Những người đứng đầu chính phủ, cùng với ông Phi, đã thương thảo trong 10 giờ. Một bản ghi âm, được thực hiện trong các ô phiên dịch, tiết lộ những gì xảy ra tiếp theo. Barack Obama đã nói thẳng với Hà Á Phi: ‘Nếu không có ý thức về sự <span id="docs-internal-guid-198bf16a-7fff-b870-4fa9-b62edea7091f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có qua có lại</span></span>’, ông cảnh báo, ‘sẽ rất khó để chúng ta có thể tiến lên một cách có ý nghĩa.’</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Obama biết rằng bất cứ thỏa thuận nào mà ông đạt được tại Copenhagen đều sẽ phải chịu sự giám sát nghiêm ngặt ở nước Mĩ. Bất kì hiệp ước nào cũng phải được đa số 2/3 Thượng viện phê chuẩn, một phép thử đã làm Hiệp ước Kyoto thất bại vào năm 1997. Tại sao tiền của người đóng thuế Mĩ lại phải được gửi ra nước ngoài để giúp các nước không sẵn sàng có sự hi sinh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cho chính mình</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">? Và làm thế nào những người đóng thuế đó có thể biết rằng các chính phủ khác đang hành động theo phe của họ trong cuộc mặc cả? Do đó, chính quyền Obama đã muộn màng quyết định đưa vào thỏa thuận một điều khoản đảm bảo rằng các cam kết về khí hậu của các quốc gia, viết theo thuật ngữ là 'có thể đo lường, báo cáo được và có thể kiểm chứng được'. Tuy nhiên, điều này là quá quắt đối với TQ. Hà Á Phi đã thuyết giảng cho các nhà lãnh đạo về lịch sử Cách mạng Công nghiệp, đổ lỗi cho các nước giàu về vấn đề khí hậu. Angela Merkel bực tức chỉ ra rằng ngay cả khi tất cả các quốc gia giàu có cắt giảm lượng khí thải của họ xuống 0, TQ vẫn phải cắt giảm để ngăn nhiệt độ toàn cầu tăng lên. Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn. Hà Á Phi sau đó nhấn mạnh rằng ngay cả các mục tiêu của các nước giàu cũng phải loại ra khỏi thỏa thuận. Các nhà lãnh đạo khác tỏ ra hoang mang. Sự nhượng bộ duy nhất mà TQ đưa ra là một cam kết mơ hồ về việc bắt đầu cắt giảm khí thải 'càng sớm càng tốt'. Hà Á Phi sau đó yêu cầu giải lao để hỏi ý kiến của Ôn Gia Bảo. Cuộc họp không bao giờ được triệu tập lại. Các nhà lãnh đạo khác cho rằng đó đã là kế hoạch ngay từ đầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo lời của Lars-Erik Liljelund, Tổng giám đốc Cơ quan Bảo vệ Môi trường Thụy Điển, 'TQ không thích những con số'.1 Nhưng sẽ chính xác hơn nếu nói rằng chính phủ TQ đã kịch liệt phản đối những con số đã được quốc tế thống nhất, cùng với một chế độ kiểm tra để xác minh những con số đó. Kết quả duy nhất mà phái đoàn TQ sẵn sàng chấp nhận tham gia là 'trao đổi thông tin quốc tế' tự nguyện.2 Nhưng ngay cả thỏa hiệp đó cũng bị chặn lại và tất cả những gì mà các nhà lãnh đạo hợp nhau lại có thể làm là 'ghi chú' tài liệu. Theo lời của Mark Lynas, người có mặt trong phòng báo cho các đảo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nhỏ có nguy cơ cao nhất do mực nước biển dâng cao là 'TQ đã phá hỏng thỏa thuận Copenhagen'.3 Hệ quả là các ống khói trên thế giới liên tục thải ra carbon và các lớp băng của nó tiếp tục tan chảy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 12 tháng 12 năm 2015: 6 năm sau, gần như đến hiện nay, và ở một thủ đô châu Âu khác, mọi thứ đã khác. 195 quốc gia, cộng với Liên minh châu Âu, đã đồng ý điều mà Tổng thư kí Liên hợp quốc Ban Ki-moon gọi là 'một chiến thắng huy hoàng cho con người và hành tinh của chúng ta'. Điều gì đã tạo nên sự khác biệt đó? Nói vắn tắt, các chính sách về biến đổi khí hậu của thế giới đã co lại có chú ý tới những lo ngại của TQ về chủ quyền. Tại Copenhagen, hầu hết thế giới đều mong muốn các mục tiêu được quốc tế đồng ý và ràng buộc về mặt pháp lí trong việc giảm lượng khí thải carbon. Họ không hiểu được sự phản đối của TQ. Trong những năm sau đó, họ đã hiểu ra và thay đổi cách tiếp cận của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chìa khóa thành công của hội nghị Paris là 'Các đóng góp do quốc gia quyết định'. Mỗi quốc gia sẽ đặt ra mục tiêu giảm lượng thải carbon của riêng mình, quá trình này sẽ là tự nguyện và sẽ không có cơ quan thực thi nào bắt buộc chính phủ nào phải hành động. TQ đã trì hoãn thỏa thuận quốc tế về biến đổi khí hậu trong 6 năm bước ngoặt để đảm bảo rằng họ không thể bị một thế lực bên ngoài ép buộc làm điều gì đó mà họ nói là họ cũng muốn làm. Đó là nguyên tắc ‘chủ quyền' không thể thương lượng.5</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chủ quyền là một khái niệm xuất hiện ở châu Âu vào thế kỉ 14 và trở thành nền tảng của luật quốc tế phương Tây. Nó còn xa mới trở thành một ý tưởng bản địa của TQ tuy nhiên nó đã trở thành nền tảng của các quan hệ quốc tế của TQ. Vào ngày 17 tháng 10 năm 2017, Tập Cận Bình (TCB) đã có bài phát biểu kéo dài 3 tiếng rưỡi trước đại hội mỗi 5 năm của Đảng Cộng sản TQ (ĐCSTQ). Khoảng giữa bài phát biểu, ông đã công bố 14 nguyên tắc cơ bản mới ‘làm nền tảng cho nỗ lực duy trì và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc TQ trong thời kì mới’. Nguyên tắc thứ 13 được tuyên bố là 'Thúc đẩy việc xây dựng một cộng đồng với một tương lai chung cho nhân loại'. Cụm từ này và cách diễn dịch thay thế, 'vận mệnh chung cho nhân loại', có vẻ trống rỗng và mơ hồ đối với người nước ngoài nhưng chúng có ý nghĩa cụ thể đối với TCB và ĐCSTQ. Chúng mô tả một tương lai mà trong đó các quốc gia có chủ quyền được đặt ở trung tâm của các quan hệ quốc tế, không bị can thiệp vào công việc nội bộ. Trên thực tế, đây là một cuộc tấn công nhằm vào trật tự đa phương của các tổ chức quốc tế, các liên minh và chủ quyền chung từng đã cố áp dụng để quản lí thế giới kể từ năm 1945. Bắc Kinh đang khó chịu với một số biện pháp can thiệp và hạn chế do các khái niệm hiện hành về luật pháp quốc tế bó buộc và tìm cách định nghĩa lại chúng. Và khi TQ trở nên có ảnh hưởng hơn, cách nhìn của họ về cách sắp xếp lại thế giới cũng sẽ có ảnh hưởng hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách nhìn của ĐCSTQ về 'tương lai chung' này là di sản của quá khứ và là kết quả của sự va chạm giữa các ý tưởng của châu Âu về luật pháp quốc tế và các ý tưởng của Nhà Thanh về vị trí của nó như là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nước chính giữa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">), trung tâm của thế giới. Cuộc chạm trán đau thương này, buộc một đế chế đang suy tàn trước mũi súng, đã sinh ra một thứ hỗn hợp gây tò mò, chủ nghĩa chính thống-chủ quyền (sovereignty-fundamentalism) của TQ, mà Bắc Kinh coi là khuôn mẫu cho một trật tự thế giới mới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Mĩ đầu tiên được một vua TQ tiếp đến Bắc Kinh vào ngày 9 tháng 1 năm 1795. Ông tên là Andreas Everardus van Braam Houckgeest vốn là người Hà Lan như cái tên ông cho thấy. Trong 14 năm, ông làm việc cho Công ti Đông Ấn Hà Lan (VOC) ở Canton (Quảng Châu) và Macao nhưng đến năm 1783, ông định cư ở Charleston, Nam Carolina và trở thành công dân của đất nước mới độc lập. Với kiến thức về trồng lúa, ông đã lập một đồn điền nhưng không thành công. Đến năm 1790, ông quay trở lại châu Á làm việc cho công ti một lần nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1794, người Hà Lan này biết được sự thất bại của đoàn sứ’ cấp </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cao </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của Anh tới triều đình nhà Thanh năm trước và bắt đầu tìm cách xoay chuyển tình thế có lợi cho giao thương của họ. Nhà quý tộc người Anh George Macartney đã được chính quyền ở London ủy nhiệm để yêu cầu hoàng đế Càn Long quyền giao thương ‘công bằng và bình đẳng’ và thỉnh cầu nhà vua thiết lập quan hệ ngoại giao trên cơ sở bình đẳng. Đó là một chuyến mạo hiểm tốn kém. Để gây ấn tượng với hoàng đế, Bá tước Macartney đã mang theo ba con tàu chứa đầy những kì quan hiện đại, trong số đó có một cung thiên văn cơ khí, một cỗ xe vua mới và một khinh khí cầu. Người ta đã viết nhiều về sự thất bại của Macartney. Hoàng đế không ấn tượng với việc bá tước không chịu quỳ lạy ông ta và Macartney được trả về với một lời nhắn cho Vua George III rằng Thiên quốc ‘sở hữu tất cả mọi thứ ở mức dồi dào’ và ‘không cần phải nhập khẩu các sản phẩm của người nước ngoài'. Yêu cầu về quyền giao thương không được chấp thuận và ý tưởng về quan hệ ngoại giao bình đẳng thậm chí </span><span id="docs-internal-guid-5055664a-7fff-6f30-5c73-4af5d5a72183"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">là không hiểu được</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">.7</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Van Braam nhìn thấy cơ hội và bắt đầu lập kế hoạch cho nhiệm vụ của riêng mình. Ông biết rằng năm 1795 là kỉ niệm thứ 60 ngày Hoàng đế Càn Long lên ngôi nhà Thanh và ông đã liên hệ với các chỗ quen biết tại Quảng Châu để dàn xếp cho một lời mời đến dự buổi lễ đó. Phái đoàn của ông đã mất 47 ngày lạnh giá để thực hiện chuyến hành trình dài 2 000 km bằng xe và kiệu đến Bắc Kinh. Họ đến đúng lúc lễ Tết âm lịch. Không giống như người Anh, họ đã không gói quà đúng cách và theo lời kể của van Braam, 'Không một món hàng nào thoát khỏi tình trạng hư hỏng.’ Nhưng cũng không giống như người Anh, họ đến sẵn sàng tuân thủ mọi yêu cầu về việc quỳ lạy của hoàng gia. Trên thực tế, họ thậm chí còn đi xa hơn: họ đã thực hiện một vụ lừa đảo quốc tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Màn kịch đã được nhà sử học Richard J. Smith rà soát lại Ông đã cho thấy cách van Braam dâng Hoàng đế Càn Long một thông điệp <span id="docs-internal-guid-59be71d7-7fff-6e43-28ad-9d87a0814754"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">rất hạ mình </span></span>từ vua Hà Lan, ‘[chúng tôi là những người nước ngoài] đều đã bị biến đổi bởi ảnh hưởng văn minh của TQ’, thông điệp tiết lộ. ’Trong suốt lịch sử, chưa từng có một vị quân vương nào có danh tiếng vô song như bệ hạ đang có, vị hoàng đế kiệt xuất của tôi.’ Đáp lại, Càn Long đã tặng quà với hi vọng rằng chúng ‘củng cố lòng trung thành và sự chính trực, giữ gìn việc cai quản tốt trong vương quốc của quý quốc vương và khiến quý quốc mãi mãi xứng đáng với sự quý trọng của trẩm.’ Vấn đề duy nhất của cuộc trao đổi ngoại giao này là nhà vua Hà Lan không thực sự tồn tại: năm 1795 là thời của Cộng hòa Hà Lan. Tuy nhiên, van Braam cho rằng cách cai trị hiện đại không có khả năng gây ấn tượng với hoàng đế, vì vậy ông đã sáng chế ra một vị vua có thể gửi các cống phẩm cần thiết.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chi tiết về những cuộc gặp gỡ ban đầu này giữa các chính phủ châu Âu và triều đình nhà Thanh đã được tranh cãi nhiều nhưng có một điều rõ ràng là nhà cầm quyền nhà Thanh không tự thể hiện mình là thành viên bình đẳng của một cộng đồng quốc tế gồm các quốc gia có chủ quyền riêng biệt. Các nghi thức triều đình của họ đã định vị họ ở đỉnh cao của hệ thống thứ bậc. Sự lựa chọn bản đồ của họ đã cho thấy rõ điều này. Như Smith lưu ý, nhà Thanh đã bỏ đi các bản đồ mà các linh mục Dòng Tên đã vẽ cho các vua nhà Minh trong thế kỉ 16 và 17 và ra lệnh làm những bản đồ mới. Những bản đồ này miêu tả các quốc gia láng giềng này và thậm chí cả châu Âu và châu Phi xa xôi như những phần phụ nằm ở rìa phía tây của vương quốc của họ. Năm 1795, hoàng đế Càn Long có thể thực sự tin rằng Hà Lan tự coi mình là nước triều cống cho đại quốc của ông.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi đánh lừa hoàng đế và triều đình, van Braam và đồng bọn có thể đã cười một mình khi họ thực hiện chuyến hành trình không thoải mái về nước. Tuy nhiên, theo quan điểm của hoàng đế, điều đó không thành vấn đề: nghi thức triều đình đã được tuân thủ. Những người nước ngoài đã tự phục tùng khi tiếp kiến hoàng đế, do đó xác nhận rằng Càn Long thực sự là vua của 'mọi thứ dưới gầm trời' hay theo tiếng Trung là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tianxia </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(thiên hạ). Địa vị của ông với tư cách là hoàng đế của nước trung tâm, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhong guo </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(TQ)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã được củng cố bởi sự phục tùng của các vị khách nước ngoài. Khán giả chính của các nghi lễ triều cống không phải là người nước ngoài mà là người trong nước. Họ xác nhận tính hợp pháp của hoàng đế, đế chế của ông, <span id="docs-internal-guid-10a54edc-7fff-ab84-0382-e3d51c892031"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quan lại</span></span> của ông và hệ tư tưởng Nho giáo. Như nhà Hán học John Fairbank đã từng viết, ‘Vua TQ tuyên bố cai trị toàn bộ nhân loại theo thiên mệnh. Nếu phần còn lại của nhân loại không thừa nhận quyền cai trị của ông thì ông có thể mong đợi TQ thừa nhân trong bao lâu ?’10 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">không có ranh giới chính thức: nó có khả năng toàn cầu. Sự khác biệt duy nhất trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> là giữa những người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có văn hóa, những người chấp nhận sự cai trị khôn ngoan của hoàng đế và những người không chấp nhận - bọn man </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">di. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong thế giới Sinitic (Trung Hoa), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">di </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có thể tự nâng mình trở thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">nếu họ chấp nhận các quy tắc của nền văn hóa và trật tự ‘Nho giáo’ được xác định.11</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Không có nhiều lợi ích kinh tế cho nước Đại Thanh trong nghi thức triều cống. Triều đình tiếp đón các đoàn sứ, một số </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đoàn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có thể rất lớn, trong vài tuần và sau đó ban cho họ nhiều tặng vật. Các đoàn sứ sẽ mang theo một lượng tương đối nhỏ cống phẩm cho giới thượng lưu: thường là những mặt hàng quý hiếm như ngà voi, gỗ đàn hương và đá quý. Đổi lại, họ sẽ nhận được lượng hàng hóa thương mại lớn hơn nhiều mà họ có thể bán ở quê nhà. Toàn bộ quá trình này rất tốn kém và nặng nề, nhưng triều đình thấy nó đáng giá, trên thực tế là cần thiết. Các lợi ích mang tính biểu tượng và chính trị. Đối với các nước 'chư hầu' triều cống, lợi ích trực tiếp và có tính tiền bạc hơn. Ngoài những món quà có giá trị mà các sứ thần nhận được từ triều đình, các thương nhân có thể đi cùng với đoàn sứ để bán hàng hóa và sản phẩm nước mình trên đường đi. Nhưng các nước chư hầu cũng nhận được một phần thưởng vô hình. Cũng giống như sự thừa nhận của họ đối với hoàng đế </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã khẳng định vai trò của ông, sự công nhận của ông đối với họ cũng khẳng định vị thế chính trị của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngược lại, giới tinh hoa phương Tây nhận thấy không có lợi ích gì từ hình thức quan hệ này. Việc hoàng đế công nhận địa vị chư hầu của họ chẳng có ý nghĩa gì. Thay vào đó, nó được coi là một mối đe dọa, như một nỗ lực nhằm áp đặt địa vị phụ thuộc lên các nước <span id="docs-internal-guid-38442cfd-7fff-71c2-d219-1c95761923f6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">độc lập đầy hãnh diện</span></span>, mà một số trong đó gần đây đã đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài ở quê nhà. Hậu quả của những cuộc chiến đó vẫn còn đang lan tràn trên toàn cầu và cuối cùng sẽ phá hủy <span id="docs-internal-guid-5c8234dd-7fff-7570-a4fd-ffdc7606d743"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các ảo tưởng phi thế gian</span></span> về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của hoàng đế .</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1808 nước Pháp của Napoléon xâm lược Tây Ban Nha, phế truất vua và bắt giữ thái tử Tây Ban Nha. Trong vòng vài tháng, các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mĩ trong cơn lửa. Các nhóm quý tộc và sĩ quan quân đội <span id="docs-internal-guid-0319a07f-7fff-bf89-403f-660752487ac7"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nắm lấy quyền kiểm soát</span></span> các thành phố và tuyên bố độc lập ở Venezuela, Colombia và Mexico. Các cuộc giao tranh tiếp tục diễn ra trong một thập kỉ cho đến năm 1825, khi tất cả các thuộc địa lục địa <span id="docs-internal-guid-e78bba4b-7fff-bb48-98c3-e63b6f5d7d1e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">loại </span></span>bỏ quyền cai trị của Tây Ban Nha. Trong số nhiều tổn thất của cuộc giao tranh này là tính toàn vẹn của đồng tiền Tây Ban Nha châu Mĩ, đồng peso. Trước các cuộc chiến tranh giành độc lập, đồng peso đã có tiếng vượt trội về chất lượng: nó được biết là chứa 90% bạc ròng và được đánh giá cao trên khắp thế giới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các thương nhân TQ yêu thích nó, đặc biệt là những đồng xu có ‘mặt người nước ngoài' của Vua Charles III hoặc con trai ông Charles IV. Kế toán của Công ti Đông Ấn Anh đã lưu ý hồi thập kỉ 1990 rằng các thương nhân TQ đã sẵn sàng trả cho đồng tiền 'Carolus' cao hơn gần 9% cho thỏi bạc <span id="docs-internal-guid-f64a5d8b-7fff-ea9a-cf72-4c47cd389e55"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thật </span></span> Nó <span id="docs-internal-guid-8aeac2bc-7fff-46da-8987-81b1bf67b84d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">mang đi được</span></span>, dễ nhận biết và không cần kiểm tra chất lượng kim loại: Carolus đã được tin cậy. Cũng có các đồng tiền khác, <span id="docs-internal-guid-4b8d3c73-7fff-a05d-dca8-79105cc6bcc1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trong đó có</span></span> đồng của Pháp và Hà Lan, nhưng chúng được giao dịch với mức chiết khấu trung bình 15% so với Carolus. Tiền mặt Tây Ban Nha là vua. Thương nhân Bắc Mĩ đã kiếm được nhiều lợi nhuận khi bán đồng tiền bạc sang TQ: 2 247 tấn tiền đã được vận chuyển ngang qua Thái Bình Dương từ năm 1808 đến năm 1833.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, như nhà sử học kinh tế Alejandra Irigoin chỉ ra, các cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mĩ gốc Tây Ban Nha đã làm tổn hại nghiêm trọng đến danh tiếng của đồng peso. Để tài trợ cho cuộc chiến của họ, giới tinh hoa đối lập đã làm tiền giả. Tệ hơn nữa, các nhà cách mạng Latinh đã đúc tiền xu mà không có hình đầu của vua Tây Ban Nha. Kích thước và chất lượng của những đồng peso này rất đa dạng, tùy thuộc vào nơi chúng được sản xuất. Đây không chỉ là vấn đề đối với Tây Ban Nha và <span id="docs-internal-guid-750d2b3e-7fff-b6b2-f1e0-4bbbe20640f1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phần châu Mĩ thuộc Tây Ban Nha</span></span>. Nó cũng có tác động lớn ở TQ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Giá trị của đồng peso bắt đầu lung lay. Vào những năm 1820, đồng 'Carolus' cũ với hình đầu của nhà vua có giá trị cao hơn 30% so với trọng lượng tương đương của nó trong một thỏi bạc. Tuy nhiên, giá của các đồng tiền sau cách mạng lại đi theo hướng ngược lại: các thương nhân TQ định giá chúng thấp hơn 15% so với bạc thỏi.12 Niềm tin vào đồng tiền suy yếu, khiến các nhà giao dịch khó thực hiện các giao dịch, cho vay hoặc đi vay. Thương nhân tích trữ những đồng tiền cũ hơn và tẩy chay những đồng mới. Nhu cầu về đồng bạc mới từ châu Mĩ đã giảm xuống. Đến năm 1828, nhập khẩu chỉ bằng 15% so với vài năm trước đó. Và khi nguồn cung đồng peso đáng tin cậy giảm đi , giá bạc thỏi ở TQ đã tăng lên. Các cuộc chiến tranh cách xa hàng ngàn dặm ở châu Âu và châu Mĩ Latin đã có một tác động lớn đến nền kinh tế ở TQ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, triều đình nhà Thanh yêu cầu nộp thuế bằng bạc thỏi, không phải bằng tiền đồng. Họ đúc tiền bằng đồng và đặt tỉ giá hối đoái chính thức giữa chúng và cách đo bạc tiêu chuẩn của riêng mình: </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">giá </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chính thức 1000 đồng tiền đồng mua được 1 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lượng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kuping</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (庫平: khố bình - tiêu chuẩn kho bạc) bạc. Tuy nhiên, khi nguồn cung tiền xu Carolus cạn kiệt vào cuối những năm 1820, giá một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">lượng khố bình </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bạc đã tăng lên mức 1 400 đồng tiền đồng. Nông dân được trả bằng đồng tiền đồng ngày càng khó mua được bạc và tụt hậu với thuế. Thu nhập của chính phủ giảm theo tương ứng. Vì không còn đồng tiền bạc tiêu chuẩn cho giao thương xa, chi phí kinh doanh cũng tăng vọt và việc cho vay trở nên khó khăn hơn. Cầu giảm và thất nghiệp tăng. Khi giá bạc tăng lên, giá của hàng hóa được tính bằng bạc giảm xuống: một trường hợp giảm phát kinh điển.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cú sốc này làm <span id="docs-internal-guid-69cc4de5-7fff-eacb-1389-56a016fe0fef"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">những khó khăn kinh tế hiện có tăng thêm</span></span>. Dân số của vương quốc Thanh (ít nhất) đã tăng gấp đôi so với thế kỉ trước trong khi diện tích đất canh tác chỉ tăng một nửa. Mặc dù có các loại cây trồng mới, chẳng hạn như ngô, đậu phộng và khoai lang, đã được đưa từ châu Mĩ Tây Ban Nha vào, đại quốc này bắt đầu thiếu lương thực. Việc sử dụng đất thâm canh quá mức đã làm giảm độ phì nhiêu của đất, tăng xói mòn và lũ lụt ở hạ lưu. Thực phẩm trở nên đắt đỏ hơn, việc làm trở nên khan hiếm, và tham nhũng và quản lí yếu kém khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Nhiều cuộc nổi dậy nghiêm trọng nổ ra ở một số tỉnh. Sự ổn định bề ngoài trong triều đình của hoàng đế Càn Long che đậy sự bất ổn ngày càng tăng bên ngoài. Hoàng đế có thể đã 'không có nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm của người nước ngoài' nhưng hàng triệu nông dân đã đói. Vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn do hậu quả của những nhà sản xuất nước ngoài đó, làm giảm nhu cầu toàn cầu đối với xuất khẩu lụa và bông của TQ. Tóm lại, vào thời điểm cháu trai Càn Long, hoàng đế Đạo Quang, lên ngôi vào năm 1820, đại quốc này đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng có một vấn đề khác. Thương nhân nước ngoài trước đây đã kiếm được l<span id="docs-internal-guid-73df3a72-7fff-83f3-43f2-9591af546891"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ãi cao</span></span> từ việc buôn bạc. Vì thương nhân TQ ưa thích đồng peso bạc trong khi người bên ngoài TQ thích bạc thỏi, nên tiền được tạo ra trong việc buôn tiền: đổi cái này lấy cái kia. Irigoin lập luận rằng việc này diễn tiến tốt cho đến khi nguồn cung tiền đồng đáng tin cậy cạn kiệt vào năm 1828. Chỉ sau đó, những kẻ buôn tiền mới chuyển sang một loại hàng hóa khác. Năm 1828, 18 000 rương thuốc phiện được xuất khẩu sang TQ, nhưng đến năm 1839, con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 40 000 rương.13 Những chiếc thuyền ‘cua nhanh’ có cả buồm lẫn chèo để nhanh chóng đi qua các vùng nước nông ven biển đã chuyển hàng lậu cho khách hàng trên bờ và đến các thành phố xa trong nội địa. Thuốc phiện đã là một phần của cuộc sống thượng lưu, từ hoàng đế trở xuống, trong nhiều năm, nhưng việc nhập khẩu quy mô lớn trong thập kỉ 1830 mới được coi là mối đe dọa đối với xã hội.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào năm 1839, những rắc rối với ngân sách chính phủ buộc Đạo Quang phải ban hành một <span id="docs-internal-guid-baa8c53d-7fff-0395-0200-a050fa288081"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỉ dụ</span></span> có vẻ bề ngoài vừa phải mà khi nhìn lại, đó là một cái đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Các đoàn sứ triều cống đã trở nên quá đắt đỏ: thương nhân thường xuyên lợi dụng để kiếm lợi với cái giá triều đình nhà Thanh phải trả. Các nước An Nam (Việt Nam ngày nay), Xiêm La (Thái Lan ngày nay) và quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu - ngày nay là phần phía nam của Nhật) từ đó trở đi chỉ được phép gửi cống phẩm cho triều đình 4 năm một lần thay vì hàng năm hoặc mỗi nửa năm.14 Theo nhà sử học Nhật Takeshi Hamashita, điều này có hai mục đích: tiết kiệm tiền qua việc giảm núi 'hàng <span id="docs-internal-guid-2154b2f8-7fff-35ee-446a-e25001c5ff7f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ban tặng</span></span>' cho các đoàn sứ đến cống và tăng nguồn thu từ thuế với việc biến cống nạp thành giao thương. Thương nhân sẽ phải trả nhiều thuế hơn, và nguồn thu đó sẽ phải nộp cho chính quyền trung ương thay vì bị các quan chức ở các cảng xén bớt. Sự cần thiết về kinh tế đã làm suy yếu các mối liên kết giữ trật tự tôn ti trong khu vực với nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là một thời điểm sáng suốt khác thường của triều đình: thừa nhận thực tế. Thương nhân TQ, Đông Nam Á và châu Âu đã kiếm được lợi nhuận lớn qua việc bỏ qua các thủ tục triều cống và giao dịch trực tiếp với quan lại và thương nhân địa phương. Có lẽ nổi tiếng nhất là William Jardine và James Matheson, những 'thương nhân xuyên quốc gia' nằm ngoài sự kiểm soát của bất kì chính phủ nào, họ đã sử dụng các kho nổi để buôn </span><span id="docs-internal-guid-823b4f24-7fff-ccf4-2b77-66f0b48fd460"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hàng lậu vào TQ trị giá</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">hàng triệu bảng Anh, kể cả thuốc phiện, đáp ứng nhu cầu mà các kênh chính thức không đáp ứng được.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1834, chính phủ Anh đã chấm dứt độc quyền thương mại của Công ti Đông Ấn (Anh) với TQ, cho phép các thương nhân xuyên quốc gia được tự do hơn. Động thái của Đạo Quang nhằm đưa <span id="docs-internal-guid-2d0e2b2e-7fff-6e1e-0364-7f4b753f9071"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các thương nhân này</span></span> và đồng phạm của họ xung quanh bờ biển trở về dưới sự kiểm soát của Bắc Kinh. Vấn đề đối với triều đình nhà Thanh là có rất nhiều người ở các tỉnh ven biển quan tâm đến <span id="docs-internal-guid-30a0f64c-7fff-7e4f-5906-b89cc0fb94ac"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">việc làm giàu cho</span></span> bản thân hơn là <span id="docs-internal-guid-b70d6724-7fff-721b-bfd6-fb7e5c4fd3e6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">số thuế thu được</span></span> của triều đình, đã chống lại. Cuộc chiến giữa vùng trung tâm và bờ biển dẫn đến cái mà nhà Hán học người Mĩ James Polachek gọi là một sự dao động từ chỗ cứng nhắc khắc nghiệt, bài ngoại sang chủ nghĩa cơ hội cộng tác rồi quay trở lại'.15 Cuộc đấu tranh này dao động qua lại suốt những thập kỉ sau đó ngay cả khi trật tự quốc tế ngày càng chuyển đổi nhiều hơn đi ngược <span id="docs-internal-guid-defa1caa-7fff-4795-25ef-4a18fd37a3c9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">lợi ích</span></span> của Bắc Kinh. Phản kháng dẫn đến ‘chiến tranh thuốc phiện' vào năm 1840, thất bại dẫn đến hòa giải, phản kháng tiếp tục dẫn đến một cuộc 'chiến tranh thuốc phiện' khác vào năm 1860 và thất bại dẫn đến hòa giải tiếp theo, v.v. Vào cuối thế kỉ này, triều đình nhà Thanh đã buộc phải chính thức công nhận vị thế mình bị suy giảm: sẽ không còn là ‘nước trung tâm', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nữa</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Hoàng đế sẽ không còn cai trị 'mọi thứ dưới vòm trời' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- mà chỉ đơn thuần một quốc gia có chủ quyền trong số nhiều quốc gia có chủ quyền.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm 1844, một sinh viên 21 tuổi gốc gác ở Hợp Phì, một thành phố ở thung lũng trù phú của sông Dương Tử, tham <span id="docs-internal-guid-d26b3f81-7fff-8167-d443-3c3b6890bf7f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">dự </span></span>kì thi vào trường do bạn học cũ của cha mình tổ chức. Đó là điển hình của sự nuôi dạy đặc quyền mà Li Hongzhang (Lí Hồng Chương) đã được hưởng. Cha anh là quan lớn trong ban trừng phạt, một <span id="docs-internal-guid-ef124c10-7fff-f3ef-08ec-0ba1b1933a29"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chức sắc triều đình</span></span>, và Chương đã được hưởng một nền giáo dục khá thoải mái. Đặc quyền của gia đình là rõ ràng từ việc chọn thầy học cho Chương. <span id="docs-internal-guid-e49defef-7fff-3737-28ef-09852022a85c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Người đó </span></span>là Zeng Guofan (Tăng Quốc Phiên), một ngôi sao đang lên trong chính quyền nhà Thanh. Phiên đã đậu kì thi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">jinshi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(tiến sĩ)</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> kì thi cấp cao nhất của hoàng gia, ở độ tuổi trẻ trung nổi bật 27 và sau đó được giao làm một trong 33 thư kí của Nội các: các cố vấn thân cận nhất của hoàng đế. Với <span id="docs-internal-guid-3fb3c090-7fff-b8ee-a1d4-c5e8c777a45a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cương vị thư kí, Phiên đã giúp soạn thảo các chỉ dụ</span></span> của triều đình và các văn bản khác chỉ đạo đại quốc. Một thời gian thành công với <span id="docs-internal-guid-6876a561-7fff-e3ba-29e1-38be1b0820a6"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cương vị</span></span> thư kí thường mở ra cánh cửa cho các chức vụ cao hơn. Tuy nhiên, trước khi họ có thể thăng lên trong hệ thống thứ bậc, các cựu bí thư thường phải dành thời gian giám sát các ứng viên cho các kì thi cấp tỉnh - đó là cách Phiên trở thành thầy của Chương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đó là một lựa chọn sáng suốt của gia đình Chương. Chỉ ba năm sau, Chương đứng thứ ba trong kì thi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiến sĩ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ở tuổi thậm chí còn trẻ hơn mới 24, và được nhận vào viện Hàn Lâm, một vinh dự dành cho những ứng viên sáng giá. Viện là cơ quan thư kí của triều đình nhưng cũng là cơ quan gìn giữ hệ tư tưởng Nho giáo chính thức của bộ phận nhà nước Sinitic. Các học giả của nó được kì vọng sẽ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đưa ra</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> các giải thích về kinh sách cũ để hướng dẫn hoàng đế và triều đình trong quá trình bàn thảo của họ. Thành công trong kì thi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tiến sĩ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> đòi hỏi một kiến thức kinh sách sâu sắc nhưng ít t</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">ỏi về các </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">hứ khác. Những sách vở đó được cho là đủ để hướng dẫn một vị quan trong công việc và một hoàng đế trong việc cai trị của mình. Không có chỗ cho sự đổi mới và không có ham muốn với kiến thức mới: chỉ những người đã làm việc qua hệ thống thi cử mới có quyền diễn giải kinh sách cũ và đưa ra lời khuyên. Những 'thư lại' (quan-học giả) này đã hình thành nên cái lõi của nhà nước Thanh và tự coi mình như những người bảo vệ một hệ thống tín ngưỡng vượt trội về mặt đạo đức. Vị trí của họ trong xã hội phụ thuộc vào sự độc quyền đối với kiến thức này và họ cố gắng duy trì nó. Họ nghi ngờ sự thay đổi, thù địch với người nước ngoài và không chút quan tâm đến thế giới bên ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lí Hồng Chương cũng có quan điểm tương tự nhưng khác ở một thuộc tính chính. Ông có tham vọng theo một cách rất phi Nho giáo. Cao 1,92m, ông vượt trội hơn các đồng nghiệp của mình và tạo ấn tượng với mọi người ông gặp. Ông sẽ tiếp tục một sự nghiệp đáng chú ý. Hai năm sau khi ông qua đời, một trong những người ngưỡng mộ phương Tây tuyên bố rằng, 'Viết tiểu sử của Li Hung-chang [Lí Hồng Chương] là viết lịch sử thế kỉ 19 ở TQ. Tác giả, Alicia Little, một nhà vận động xã hội và vợ của một nhà truyền giáo, khẳng định ông là 'người duy nhất ở TQ mà các sứ thần nước ngoài thấy có thể <span id="docs-internal-guid-437d53da-7fff-670a-f072-2d05257bd35b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trao đổi được</span></span>', nhưng bà cũng lưu ý rằng 'nhiều người cùng thời với ông ... đã thấy ở ông chỉ là kẻ hủy diệt danh dự của đất nước'.16 Chính vai trò trung gian giữa các cấp cao nhất của triều đình nhà Thanh và thế giới rộng lớn hơn đã khiến ông trở thành nhân vật chủ chốt trong quá trình chuyển đổi từ thế giới </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sang thế giới chủ quyền. Và chìa khóa cho sự chuyển đổi này là mối quan hệ của Chương với một số người Mĩ hàng đầu, trong đó có một cựu tổng thống và một cựu ngoại trưởng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương bắt đầu theo học với Phiên chỉ vài năm sau cuộc chạm trán đẫm máu đầu tiên của vương quốc Thanh với hỏa lực hải quân Anh. Thất bại trong 'Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất' đã dẫn đến việc kí kết Hiệp ước Nam Kinh vào tháng 8 năm 1842. Bên cạnh Quảng Châu (Canton), nhà Thanh đồng ý mở thêm bốn cảng cho Anh buôn bán. Họ cũng buộc phải nhượng vĩnh viễn đảo Hong Kong cho Anh và phải trả 21 triệu ‘đô la’ (thực ra là đồng peso Carolus) tiền bồi thường cho số thuốc phiện bị chính quyền Quảng Châu phá hủy và chiến phí. (Tất nhiên, người Anh không bồi thường cho khoảng 20 000 người chết trong chiến tranh hoặc hàng ngàn người khác bị thương hoặc bị hành hung.) Quan trọng nhất đối với quan hệ tương lai của TQ với thế giới, nhà Thanh đồng ý rằng việc buôn bán sẽ 'tự do' - trên các tuyến đường giao thương thay vì qua triều cống; rằng các quan chức Anh sẽ có quyền cư trú tại các cảng hiệp ước và liên lạc trực tiếp với quan lại địa phương; và công dân Anh sẽ không phải tuân theo những gì họ coi là luật man rợ của nhà Thanh. Cuối năm đó, trong hành động ‘ngoại giao sài lang’ đầu tiên của mình, Hoa Kì đã yêu cầu được hưởng không những quyền mà người Anh vừa đấu tranh được. Sau từ chối ban đầu, vào năm 1843, hoàng đế ban rằng các nhượng bộ sẽ được áp dụng </span><span style="color: #160d00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">như nhau </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cho tất cả </span><span style="color: #160d00; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">người nước ngoài.17 Cả Phiên và Chương đều không giữ bất kì vai trò gì trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất nhưng di sản của nó sẽ xác định phần còn lại của cuộc đời họ. Những ý tưởng mới, ngoại lai sẽ kích động sự quyến rũ trong nước và sự li khai ở nước ngoài. Các cuộc khủng hoảng lặp đi lặp lại buộc quan lại nhà Thanh phải nhờ đến sự giúp đỡ của người nước ngoài. Phiên sẽ vươn lên địa vị anh hùng và Chương sẽ vươn lên </span><span style="color: #160d00; font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">theo đuôi</span><span style="color: #160d00; font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">, chỉ để bị tố cáo là kẻ phản bội lúc lẩm cẩm tuổi già.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đầu năm 1851, một đe dọa đối với sự cai trị của nhà Thanh nghiêm trọng hơn Hải quân Hoàng gia Anh rất nhiều đã xuất hiện ở tây nam TQ, được thúc đẩy bởi tình hình kinh tế tồi tệ và tình trạng thiếu lương thực ngày càng tăng. Một nhóm phiến quân theo thần học Cơ đốc giáo pha trộn với chủ nghĩa không tưởng xã hội chủ nghĩa và lòng căm thù tầng lớp cai trị Mãn Thanh tự xưng là 'Thái bình Thiên quốc’, </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Taiping Tianguo </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(太平天國)- hay còn được gọi là loạn </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình</span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Đến tháng 3 năm 1853, </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình</span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> chiếm được thành phố Nam Kinh ngay dưới thung lũng Dương Tử chỗ nhà của Chương ở Hợp Phì 40 000 cư dân Mãn ở đó đã bị thảm sát. Nam Kinh trở thành thủ đô của </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình</span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> trong 11 năm tiếp theo. Tháng 1 năm 1854, họ đã chiếm được Hợp Phì.18 Anh trai của Tăng Quốc Phiên đã bị giết trong một nỗ lực tái chiếm thành phố không thành công vào năm 1858. </span><span style="color: #1a1400; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đến năm 1860, tất cả hoặc một phần của 5 tỉnh dọc theo sông Dương Tử và các phụ lưu của nó đều nằm dưới sự kiểm soát của </span><span style="color: #1a1400; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình</span><span style="color: #1a1400; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cùng lúc với việc chiến đấu <span id="docs-internal-guid-ca4dfd7e-7fff-d74d-a9f8-6ac1204201cc"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">sống còn với</span></span> </span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thái Bình</span><span style="color: #1b1800; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, triều đình nhà Thanh cũng bị chính phủ Anh và Pháp, với sự ủng hộ ngầm của Hoa Kì, thúc ép phải nhượng bộ nhiều hơn cho việc buôn bán tự do. Các vi phạm Hiệp ước Nam Kinh đã dẫn đến các cuộc đối đầu mới và trận pháo kích vào thành phố cảng Quảng Châu và sau đó là Thiên Tân, cửa ngõ vào Bắc Kinh. Tháng 6 năm 1858, dưới áp lực của vũ khí phương Tây, các quan chức ở Thiên Tân đã kí hiệp ước mới với những kẻ tấn công, trao cho họ quyền tiếp cận nhiều cảng hơn, quyền đi lại dọc theo sông Dương Tử cùng quyền đi lại, buôn bán và truyền đạo Cơ đốc trên khắp đất nước. Đáng chú ý hơn, các hiệp ước cũng cho phép chính phủ các nước thành lập phái bộ ngoại giao ở Bắc Kinh. Người nước ngoài muốn được đối xử như những nước có chủ quyền ngang bằng, chứ không phải chư hầu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="color: #232100; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, điều <span id="docs-internal-guid-7d927c45-7fff-fcf1-20f6-6202c284497e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đáng nói</span></span> là các quan chức ở Thiên Tân không coi các hiệp ước là những cam kết long trọng và lâu dài. Một trong những người kí tên, một người tộc Mãn tên là Guiliang (桂良: Quế Lương), đã viết một ghi nhớ cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hoàng đế, trong đó ông nói không úp mở rằng, ‘Các hiệp ước hòa bình với Anh và Pháp không thể được coi là hiện thực. Mấy tờ giấy này chỉ đơn giản là một phương tiện để <span id="docs-internal-guid-18fa1814-7fff-4ab5-76ec-65aeb4497f4d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quân đội và tàu chiến nước ngoài</span></span> rời khỏi bờ biển.’19 Đó rõ ràng không phải là cách người Anh và người Pháp nhìn nhận. Hai năm sau, các hiệp ước vẫn chưa được triều đình nhà Thanh phê chuẩn nên vào năm 1860, một lực lượng viễn chinh Anh-Pháp đã rời <span id="docs-internal-guid-b6cfa28b-7fff-5440-81a6-f0865a051bc5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> lên tàu ra đi từ Hong Kong để buộc nhà Thanh phải làm điều đó</span></span>. Đó sẽ là hành động cuối cùng của 'Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ hai'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt;">Quân xâm lược đã vượt qua các tuyến phòng thủ của nhàThanh trên sông Hải Hà và cho tàu tiến</span> về Bắc Kinh. Họ chặn các chuyến hàng chở gạo đến kinh đô và sẵn sàng san bằng thành phố. Hoàng đế Xianfeng (咸豐: Hàm Phong, con trai của Đạo Quang mất năm 1850) chạy trốn khỏi Bắc Kinh, để lại người em cùng cha khác mẹ là Yixin (奕訢: Dịch Hân) để đối phó với người Anh và người Pháp. Đối mặt với mối đe dọa kép của <i>Thái Bình</i> và người châu Âu, nhà Thanh đã đồng ý một thỏa thuận do một phái viên người Nga, Nikolay Pavlovich Ignatiev đề xuất. Ông hứa sẽ làm trung gian với người Anh và người Pháp, miễn là nhà Thanh đồng ý với các yêu cầu của Nga. Trên thực tế, Ignatiev không có <span id="docs-internal-guid-882a0e54-7fff-3fc8-a622-5f864ba666a9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">có ảnh hưởng</span></span> gì với London hay Paris cả, nhưng nhà Thanh vẫn bất chấp kí </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">kết làm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">mất đi những quyền đối với 130 000 dặm vuông phần màu mỡ nhất của Siberia.20 Cũng có ý nghĩa đối với quan hệ đối ngoại tương lai của đại quốc, ngày 24 tháng 10 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">năm </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">1860 Dịch Hân kí Công ước Bắc Kinh với người Anh và ngày hôm sau một văn kiện tương tự với người Pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Theo Công ước đó, nhà Thanh nhượng cho Anh khoảng 20 dặm vuông lãnh thổ trên bán đảo Cửu Long, đối diện đảo Hong Kong. Nó cũng mở cửa cảng Thiên Tân cho giao thương với nước ngoài. Quan trọng hơn, triều đình thừa nhận quyền của người nước ngoài được có cơ sở thường trú ngoại giao tại Bắc Kinh: họ sẽ không cần phải trải qua những chuyến đi dài bằng xe từ Quảng Châu đến Bắc Kinh. Người châu Âu không coi mình là đại diện của các nước chư hầu mà là các nước bình đẳng trong một hệ thống quốc tế, nhưng nhà Thanh vẫn không thể hiểu cũng như không chấp nhận sự sắp xếp này. Cách nhìn của họ vẫn là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, với hoàng đế có vị thế như một nhà cai trị hợp pháp 'mọi thứ dưới vòm trời'. Cuộc đấu tranh giữa hai thế giới quan này sẽ xác định nửa thế kỉ cai trị cuối cùng của nhà Thanh và Lí Hồng Chương sẽ là nhân vật chủ chốt trong câu chuyện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đường phố tràn đầy khổ đau. Một phụ nữ trung niên ngồi trên lề đường gào khóc. Tiếng khóc của cô ấy cắt ngang sự nhộn nhịp của Bắc Kinh hiện đại, nhưng không ai đến giúp cô. Có rất nhiều người xung quanh có thể giúp được nhưng không ai muốn. Xa hơn một chút dọc theo con hẻm, một phụ nữ trẻ ngồi trên chiếc ghế thấp giơ một dòng chữ dài trên một tờ giấy lớn cho mọi người xem. Xung quanh cô là những người đàn ông có vẻ ngoài hung tợn, tất cả đều la mắng và chỉ trỏ lên án cô. Người duy nhất bảo vệ cô là một phụ nữ nông dân ngồi trên xe lăn, hét lại những kẻ hung tợn. Thật khó để biết họ là bọn du đảng hay an ninh mặc thường phục. Có lẽ cả hai.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguyên nhân của tất cả những điều tồi tệ này nằm phía dưới kia Dongtangzi Hutong: (東塘子胡同: Đông đường tử Hồ đồng) một tòa nhà thấp gần như ẩn khuất sau một bức tường cao màu xám. Tất cả những gì có thể nhìn thấy từ đường phố là một mái ngói cũ. Số 49 là văn phòng khiếu nại chính thức của Bộ Công an TQ. Đây là nơi mà các công dân TQ đương thời đến để tìm cách đòi <span id="docs-internal-guid-461d794f-7fff-ce2b-4d94-6440bf6086e1"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đền bù</span></span> những hành vi lạm dụng của cảnh sát. Cơ hội thành công hẳn là rất bé nhỏ, tuy nhiên, có một hàng người ngắn bên ngoài văn phòng này vào chiều tháng 9 này, nối đuôi nhau bên dưới một tấm bảng bằng đá đặt trên tường, dòng chữ tiết lộ lịch sử của cung điện bất hạnh này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bây giờ có vẻ khó tin nhưng tòa nhà này đã từng là tâm điểm của cuộc sống quốc tế ở Bắc Kinh. Vào nửa sau của thế kỉ 19, đây là trụ sở của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, ‘bộ ngoại giao’ đầu tiên được thành lập để quản lí các quan hệ với bọn người man di từ biển đến. Ngày nay, nó bị thấy </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">chìm xuống do khung cảnh</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> xung quanh: bị che khuất bởi 'Khách sạn Legendale’ (Tửu điếm Truyền Kì), được xây dựng theo kiểu bánh sinh nhật của trùm phát xít, và một trung tâm mua sắm theo phong cách thời nhà Thanh có tên Jinbao Place (quảng trường Kim Bảo). Phía đàng góc là một cung điện nhà Thanh giả: nhà câu lạc bộ Bắc Kinh của Câu lạc bộ Đua ngựa Hong Kong. Trong khi lớp nhà giàu mới được phà đưa đón tới lui những cung điện sang trọng này, một hoạt cảnh đau buồn lại diễn ra ở con hẻm phía sau. Lịch sử không lặp lại chính nó nhưng nó chắc chắn theo cùng vần.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">được thành lập ngày 13 tháng 1 năm 1861, một hành động mà triều đình nhà Thanh bị áp đặt như một hệ quả của chiến tranh thuốc phiện lần 2.21 Các cường quốc Châu Âu đã yêu cầu thanh toán 8 triệu lượng bạc phải trả thành nhiều đợt từ nguồn thu hải quan tại các cảng hiệp ước.22 (<span id="docs-internal-guid-901408fa-7fff-7f06-6dac-46439d9b5d45"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Anh và Pháp không chút ngại ngần đòi</span></span> nhà Thanh phải chi trả cho cuộc xâm lược chính đất nước của họ.) Ba quan chức triều đình đã đàm phán và kí kết Công ước Bắc Kinh đề nghị hoàng đế thành lập một chi nhánh mới của triều đình để giám sát việc thực hiện nó. Tuy nhiên, họ không coi đó là một sự sắp xếp lâu dài. Trong bản ghi nhớ gởi cho triều đình, họ viết, 'Ngay sau khi các chiến dịch quân sự [chống loạn Thái Bình và các loạn khác] và công việc của các nước khác nhau được đơn giản hóa, văn phòng mới này sẽ bị bãi bỏ và các chức năng của nó sẽ chuyển ngược về đại Hội đồng quản lí sao cho phù hợp với hệ thống cũ.'</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả ba quan chức đều là đại quan người Mãn: Dịch Hân, người được biết đến với tên tiếng Trung là Gong [恭親王: Cung thân vương]; Hada Guwalgiya (哈达 瓜尔佳: Hà Đạt Qua Nhĩ Giai - tiếng Trung là Quế Lương) - cha vợ của Dịch Hân và là viên quan đã bác bỏ Hiệp ước Thiên Tân năm 1858; và Suwan Guwalgiya (蘇完 瓜尔佳: Tô Hoàn Hà Đạt Nhĩ Giai -tiếng Trung là Wenxiang [文祥: Văn Tường]).23 Dịch Hân / Cung kêu gọi cơ quan mới được đặt tên là ‘phòng quản lí ngoại quốc vụ’ nhưng ông phải đối mặt với sự phản đối liên tục từ các thư lại bảo thủ trong triều đình, vốn không chấp nhận thực tế mới. Họ muốn hạ thấp tầm quan trọng của cơ quan mới và ra lệnh gọi nó là ‘phòng quản lí ngoại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thương </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vụ' - có nghĩa là phủ nhận vai trò ngoại giao của nó. Cung thân vương đã vận động để thay đổi điều này nhưng chỉ thành công một nửa. Do đó, phòng này thường được biết đến với cái tên nghe có vẻ nhạt nhẽo là ‘phòng Quản lí Tổng hợp’, hoặc, theo tiếng Trung là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Sự thiếu ăn khớp về kì vọng là rõ ràng, vì các nhà ngoại giao Anh có liên hệ với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> ngay lập tức gọi nó là’ phòng Ngoại giao'. Nhà Thanh quyết tâm ‘xát muối vào vết thương’ để làm cho người Anh cảm thấy mình thấp kém hơn. Phòng này nằm ở một khu phố phía sau xa triều đình - trong văn phòng cũ của 'Sở đúc tiền' ở Đông đường tử Hồ đồng. Những khách nước ngoài đầu tiên của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sẽ mô tả nó là 'nhỏ, bất tiện' và 'bẩn thỉu, kém vui và cằn cỗi'.24 Khách hiện đại vào địa điểm đầy đau buồn này có thể vẫn sẽ đồng ý như vậy.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cung thân vương, Văn Tường và Quế Lương hi vọng có thể ngăn chặn mối đe dọa từ châu Âu qua việc biến </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thành kênh duy nhất mà các chính phủ nước ngoài có thể giao tiếp với triều đình. Tuy nhiên, không chỉ những yêu cầu ngoại giao được chuyển qua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Văn phòng này cũng trở thành một </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">cánh </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cổng mà qua đó giới thượng lưu thời cuối nhà Thanh gặp gỡ thế giới rộng lớn hơn. Một trong những hoạt động đầu tiên của mình, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã mở trường cao đẳng </span><span id="docs-internal-guid-dec9c455-7fff-5e26-514c-fe82cb6fb1ca"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tongwen Guan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (同文館: Đồng Văn quán) cho các thông ngôn </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào năm 1862. Trường đã thuê các giáo viên nước ngoài và sau đó bắt đầu dịch sách và ý tưởng sang tiếng Trung. Trong số đó có những luận thuyết về cái mà người phương Tây gọi là 'luật quốc tế'. Khái niệm này hoàn toàn xa lạ với ba người Mãn trên </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">vốn đã gặp nó ở phía họng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">của súng đại bác Anh-Pháp vào năm 1860, nhưng họ nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của nó đối với những kẻ tấn công của họ. Họ muốn biết thêm về nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi hoàng đế Hàm Phong qua đời vào tháng 8 năm 1861, Cung thân vương đã góp phần tổ chức một cuộc đảo chính, trên thực tế, trao quyền lực cho vợ của Hàm Phong, Thái hậu Từ Hi. Con trai của bà, khi đó mới 5 tuổi, chính thức trở thành hoàng đế Tongzhi (同治: Đồng Trị) nhưng chắc chắn không là người thực sự nắm quyền. Thái hậu Từ Hi đã cai trị sau hậu trường, như bà sẽ làm trong nửa thế kỉ tiếp theo. Thành công của Cung đã đưa phe cải cách của ông lên vị trí quyền lực trước triều đình nhưng phe bảo thủ lại có sức mạnh về chiều sâu. Có những đội quân gồm các thư lại ở vị trí quyền lực trên khắp đất nước, tất cả đều phụ thuộc vào việc họ tiếp tục độc quyền giảng dạy kinh sách cổ điển để có thu nhập và ảnh hưởng.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong khi tất cả những điều này đang diễn ra ở Bắc Kinh, thì một cuộc đấu tranh đẫm máu hơn đã đạt đến đoạn kết xung quanh Thượng Hải. Không ai có thể thống kê số người chết do cuộc nội chiến Thái Bình nhưng những dự phỏng tốt nhất là ít nhất 20 triệu - con số này nhiều hơn hàng nghìn lần so với số người chết trong hai cuộc Chiến tranh Thuốc phiện. Không thể tự cung cấp hậu thuẫn quân sự đầy đủ, triều đình nhà Thanh ở Bắc Kinh đã ủy quyền cho các lãnh đạo cấp tỉnh như Tăng Quốc Phiên thành lập các đội quân của riêng họ để chống lại quân phiến loạn. Phiên và các đồng nghiệp của mình đã sử dụng các chức vụ chính thức và mạng lưới không chính thức của họ để thu thập tiền gây quỹ và trang bị cho các đơn vị quân đội. Những đội quân cấp tỉnh mới này đã giành được một số chiến thắng nhưng họ không thể ngăn chặn được quân Thái Bình. Khi quân phiến loạn tiến về cảng Thượng Hải, giới tinh hoa của thành phố hoảng loạn tìm đến người nước ngoài để được giúp đỡ. Ngoài 3 000 quân Anh, Ấn và Pháp đang đóng trong thành phố theo hệ thống cảng của hiệp ước, họ đã tuyển mộ thêm 3 000 người TQ dưới sự chỉ huy của lính đánh thuê nước ngoài để thành lập cái gọi là ‘Thường Thắng quân’. Sau đó, vào cuối năm 1861, Phiên ra lệnh cho Lí Hồng Chương tuyển mộ một đội quân mới từ tỉnh Anhwei (nay là An Huy) quê hương ông và tiến về Thượng Hải.25</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 4 năm 1862, thế giới của Chương đã thay đổi. Ông và 'đội quân An Huy' của mình lên một đội tàu hơi nước nhỏ của Anh do các thương nhân ở Thượng Hải thuê tiến về thành phố. Ở đó, lần đầu tiên ông bắt gặp sự hiện đại hóa của phương Tây. Chương chứng kiến vũ khí và kỉ luật quân sự của châu Âu đã tiêu diệt quân nổi dậy. <span id="docs-internal-guid-f7aa4a2f-7fff-948f-9634-747e72793a03"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Qua nhật kí và thư từ của ông chúng ta biết</span></span> rằng ông gần như ngay lập tức quyết tâm mang sức mạnh <span id="docs-internal-guid-c1a71ff6-7fff-9ec9-2971-8df4896be744"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">loại đó</span></span> về cho xã hội của mình. Nhưng ông vẫn là một 'thư lại' <span id="docs-internal-guid-3610a213-7fff-6ef4-15ba-4d8f2fa5bb5c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tận xương tuỷ</span></span>: ông không quan tâm đến việc trở nên ‘Tây'. Ngày 23 tháng 4 năm 1862, ông viết thư để nói với Phiên rằng ông sẽ giữ cho quân của mình tách biệt với quân châu Âu và cố gắng tự cường, không trộn lẫn với người nước ngoài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương có lẽ đã học được cụm từ ‘tự cường’ từ chính Phiên. Năm trước Phiên đã được <span id="docs-internal-guid-4c6e4927-7fff-3a99-d7f9-d3c0ed26cd1c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">một thư lại có tư tưởng cải cách chuyển sang chỉ huy quân đội tên là Feng Guifen (馮桂芬: Phùng Quế Phân) thuyết phục</span></span>. Phân rất đau khổ trước nỗi sỉ nhục của đất nước mình dưới tay người nước ngoài và đã viết một bộ sưu tập các bài luận, trong đó ông lập luận, 'Chúng ta chỉ có một điều để học hỏi từ bọn man di: tàu dầy và súng tốt.’26 Đây là những ý tưởng sẽ định hướng cho cái được gọi là 'phong trào tự cường’ do Phân, Phiên và Chương đi tiên phong - học các kĩ thuật của người nước ngoài trong khi vẫn <span id="docs-internal-guid-b0bcd6ee-7fff-e63a-1ffa-cdfe8134d6fa"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tránh xa</span></span> ý tưởng của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai ngày sau khi viết bức thư đó cho Phiên, Chương được bổ nhiệm làm quyền tổng đốc tỉnh Giang Tô, bao gồm cả Thượng Hải. Đến tháng 8 năm 1862, ông hoảng hốt khi phát hiện ra rằng các thương nhân TQ trong khu vực cảng hiệp ước của thành phố thích được người nước ngoài cai trị hơn là chính phủ của họ. Trong một lá thư gửi cho một nhà tự cường hàng đầu khác, Zuo Zongtang (左宗棠: Tả Tông Đường hay được biết đến với cái tên Tướng Tả, nổi tiếng về gà), ông viết: ‘Lòng của quan và dân đã đi theo người nước ngoài từ lâu rồi.’ 27 việc Chương phẫn nộ đối với quyền lực của người nước ngoài, và mong muốn làm chủ các công cụ của quyền lực đó, chỉ tăng lên <span id="docs-internal-guid-3a5e072a-7fff-d1a4-78ff-3ddba1379969"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trong thời gian cần đè bẹp loạn Thái Bình hai năm sau đó</span></span>.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 3 năm 1863 Chương được bổ nhiệm làm quyền ủy viên giao thương các cảng phía nam. Đây là công việc mà triều đình đã tạo ra cùng lúc với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và chức năng của nó cũng tương tự: quản lí người nước ngoài. Hai ủy viên thương mại, một cho các cảng hiệp ước phía nam và một cho phía bắc, được kì vọng là ‘người <span id="docs-internal-guid-d3a52f49-7fff-6c64-d381-eba184c81d04"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đối phó </span></span>bọn man di' của triều đình, kiểm soát các đặc quyền miễn cưỡng thừa nhận dưới vũ khí của phương Tây. Chương trở nên thuyết phục rằng, dù tuyên bố chỉ quan tâm về thương mại, những người nước ngoài lại quyết tâm chiếm thêm lãnh thổ. Cuối năm đó, ông cảnh báo một người bạn, 'rắc rối tầm xa là người phương Tây. Dù vĩ đại như </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hoa Hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thì cũng đã quá yếu và đi đến chỗ tắc nghẽn này.'28</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng Chương cũng bực bội vì thái độ của các đồng liêu. Mùa xuân năm 1864, ông đã viết thư trực tiếp cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, phàn nàn rằng các thư lại đồng liêu của ông đã 'đắm chìm trong việc luyện tập viết luận và viết thư pháp bằng chữ nhỏ và chữ thường' thay vì giải quyết các vấn đề thực tế hiện tại Triều đình cần đi đầu trong việc ra lệnh cho họ nghiên cứu công nghệ mới. Theo ý tưởng của Phùng Quế Phân, ông nói với họ ưu tiên là 'học phương pháp của người phương Tây mà không cần phải luôn sử dụng người của họ.’ Cung thân vương đồng cảm chuyển thư lên vua nhưng không có hành động gì được thực hiện.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vài tháng sau, vào ngày 19 tháng 7 năm 1864, thủ đô Nam Kinh của quân nổi dậy Thái Bình cuối cùng đã rơi vào tay đội quân tỉnh của Phiên. Đó là một <span id="docs-internal-guid-eda0c157-7fff-a68e-2493-a13113855b76"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">trận đánh</span></span> cực kì tàn khốc. Đội quân được trả lương thấp của Phiên đã được thả lỏng. Khoảng 100 000 người có thể đã bị giết, hầu hết là sau khi đầu hàng. Trẻ em và người già bị tàn sát, phụ nữ bị lấy làm chiến lợi phẩm, thành phố bị cướp phá và toàn bộ các khu phố bị sang bằng.29. T</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Theo cách nhìn của Phiên, cần có chút thông cảm đối với những người đã đảo lộn nhiều thế kỉ hành xử đúng theo kiểu Nho giáo.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi mối đe dọa Thái Bình biến mất, chính quyền trung ương cuối cùng có thể chuyển sang vấn đề xây dựng lại một xã hội tan tác và giải quyết thách thức mà người phương Tây đặt ra. Ba thập kỉ, từ năm 1864 cho đến cuộc chiến tranh với Nhật Bản vào năm 1894, sẽ là kỉ nguyên tự cường. Một lực lượng ưu tú đang hiện đại hóa, bao gồm những người như Phiên, Chương, Phân và những người ủng hộ họ ở kinh đô, sẽ làm việc với người nước ngoài để tạo ra các cửa hàng máy móc, một hải quân hiện đại và một quân đội chuyên nghiệp mà họ đã đầu tư nhiều hi vọng và uy tín vào. Tất cả sẽ bị tiêu tan.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những người tự cường đã giành thế chủ động sau Chiến tranh nha phiến lần hai, cuộc đảo chính năm 1861 và thành công chống loạn Thái Bình nhưng tại Bắc Kinh, họ vấp phải sự phản đối thâm căn cố đế. Việc thành lập </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và trường </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng Văn quán, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đã được phê duyệt một cách miễn cưỡng nhưng các cơ sở này hầu như không hoạt động. Trường cao đẳng được thiết kế để dạy một thế hệ thông ngôn có thể giao tiếp với người Anh và người Pháp. Các nhà tài trợ nhà Thanh ban đầu muốn giữ khoảng cách với người phương Tây nhưng sau một vài tháng, họ đã đi đến kết luận rằng, ‘vì không có người TQ nào có kiến thức về ngoại ngữ ... chúng ta không thể tránh khỏi việc tìm kiếm những người phù hợp trong số những người nước ngoài.’30 (Cần lưu ý rằng 'nước ngoài' ở đây có nghĩa là 'châu Âu', vì nhà Thanh đã có người phiên dịch cho các ngôn ngữ khác nhau được nói trong đại quốc của họ.)</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai giáo viên ngôn ngữ đầu tiên được trường thuê là các nhà truyền giáo người Anh, những người quan tâm đến việc thành lập một trường truyền giáo để giảng đạo Cơ đốc ở Bắc Kinh hơn là đào tạo các thông dịch viên chính thức. Cả hai đều đã học tiếng Trung ở các vùng khác của nước này, không ai nói được tiếng phổ thông và cả hai đều từ chức sau một năm. Chất lượng của học sinh khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Nhìn chung, họ là những ứng viên kém hứa hẹn nhất, vì những người có tham vọng hơn muốn tập trung vào việc học kinh sách truyền thống để thăng tiến qua bộ máy quan lại của nhà Thanh.31</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi tổng thanh tra mới của Sở Hải quan Đế quốc TQ, Robert Hart, bắt đầu quan tâm. Ông phụ trách tổ chức chuyển tiền từ thuế nhập khẩu cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- một phần để trả cho Anh và Pháp 'bồi thường’ cho cuộc chiến tranh gần đây, một phần để chi trả cho các chi phí của triều đình. Dù là một phần của bộ máy hành chính nhà Thanh, nhưng Sở Hải quan thực sự do người nước ngoài - người Anh, người Pháp, người Mĩ và người Phổ - quản lí và tạo ra thu nhập đáng kể. Hart, do đó, có ngân sách cũng như động cơ để cải thiện chất lượng của các quan chức mà ông đang giao dịch. Phong cách cá nhân của ông dường như cực kì phù hợp với công việc và người đàn ông Bắc Ireland này đã xây dựng một mối quan hệ dễ dàng với các đối tác trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngay từ đầu, Hart đã quyết định rằng các quan chức nhà Thanh cần biết thêm về luật pháp quốc tế của phương Tây. Theo nhật kí của ông, vào ngày 15 tháng 7 năm 1863, ông bắt đầu dịch luận thuyết bằng tiếng Anh đầu tiên về chủ đề: 'Các yếu tố của Luật Quốc tế' (Elements of International Law) của luật sư và nhà ngoại giao người Mĩ Henry Wheaton. Cuối tháng đó, ông đã trình bày một vài phần cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Họ quan tâm đến quyền của các phái đoàn ngoại giao ở các thủ đô nước ngoài - có lẽ là vấn đề cấp bách nhất <span id="docs-internal-guid-862d4dd5-7fff-2a31-6d32-eee9c039f711"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vào lúc đó</span></span> đối với các cường quốc phương Tây. Nhà sử học Richard J. Smith đã xem xét nhật kí của Hart và phát hiện ra rằng trong suốt mùa hè năm 1863, ông tiếp tục dịch các phần của Wheaton và giao chúng cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.32 Lúc này, Cung thân vương, theo lời kể của chính ông, đã có ấn tượng rằng người nước ngoài có thể muốn giữ bí mật văn bản quý giá đó của họ. Tuy nhiên, Hart lại rất muốn chia sẻ nó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ông không phải là người duy nhất. Năm đó, Pháp đã bắt đầu tiến vào nơi mà Bắc Kinh coi là một trong những nước chư hầu của họ: An Nam (Việt Nam ngày nay). Ngày 14 tháng 4 năm 1863, quân Pháp buộc hoàng đế Việt Nam kí Hiệp ước Huế đầu tiên, nhượng một phần đất nước cho Pháp. Điều này đã thúc đẩy </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">tìm hiểu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">hướng dẫn cho loại hiệp ước này với </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Anson Burlingame, Bộ trưởng Mĩ tại Bắc Kinh. Theo nhà sử học ngôn ngữ học người Mĩ Lydia Liu, Burlingame đã khuyến nghị đọc Wheaton. Ông phát hiện ra rằng một nhà truyền giáo người Mĩ, William A. P. Martin, cũng đang thực hiện bản dịch với sự trợ giúp của bốn tín đồ Cơ đốc giáo người TQ.33 Martin vốn đã rất nổi tiếng với các nhà ngoại giao Mĩ: ông là người phiên dịch cho phái đoàn Hoa Kì tại các cuộc đàm phán về Hiệp ước Thiên Tân năm 1858. Trên thực tế, bản sao cuốn sách Wheaton của Martin đã được đại biểu Mĩ ở đó <span id="docs-internal-guid-44b7c052-7fff-f89e-0498-5f093237cf6b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">là William B. Reed trao cho ông</span></span>. Qua lời kể của mình, Martin coi việc dịch luật quốc tế như một phần mở rộng sứ mạng truyền giáo của mình, 'một công việc có thể đưa chính phủ vô thần này đến việc công nhận của Thiên Chúa và công lí vĩnh cửu của Ngài ', như ông đã nói sau này.34</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Martin phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn thông thường trong dịch thuật ngôn ngữ. Trên thực tế, ông đã cố gắng làm cho một thế giới quan có thể hiểu được đối với mọi người từ một thế giới quan hoàn toàn khác. Ông phải tạo ra những từ mới để thu hẹp khoảng cách. ‘Những từ và cách diễn đạt này có vẻ kì quặc và cồng kềnh,’ ông viết trong lời tựa cho một cuốn sách sau này, ... [nhưng] chúng ta sẽ nhận ra rằng các dịch giả đã thực sự thực hiện điều tốt nhất có được.' 35 Chính Martin là người đưa ra ý tưởng về 'chủ quyền' cho các quan chức nhà Thanh nhưng ông phải làm như vậy bằng cách dùng lại một từ cũ với một nghĩa khác. Qua cách dịch của Martin, từ tiếng Trung có nghĩa là 'chủ quyền' đã trở thành </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhuquan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(主權). Từ này có nguồn gốc cổ xưa - nó xuất hiện trong </span><span id="docs-internal-guid-b7f816fb-7fff-49ed-df21-b1c38ed508fb"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guanzi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(管子: Quản tử), một quyển sách thế kỉ 7 trước CN </span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- nhưng trong đó nó có một nghĩa khác. Như William Callahan đã lưu ý, hồi đó </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(chủ) không có nghĩa là nhà nước mà là ‘người cai trị’, ‘chủ nhân 'hay thậm chí là ‘chủ sở hữu'. Martin chọn chữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">quan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(quyền) có nghĩa là 'quyền' nhưng về mặt lịch sử nó có nghĩa là 'quyền lực', với ngụ ý rằng quyền lực này có thể là độc đoán hoặc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">có tính </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cơ hội. Do đó, nghĩa đen của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có thể vừa là ‘quyền lực hợp pháp của nhà nước’, vừa là ‘quyền lực độc đoán của người cai trị'. Trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quản tử </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">từ này được sử dụng trong bối cảnh của một cảnh báo: 'Nếu thực thi quá nhiều </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thì sẽ thất bại.’36 <span id="docs-internal-guid-3f845df7-7fff-c16b-efa8-831df196c566"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Sự tương đương qua chế tạo này</span></span> giữa các khái niệm phương Tây về ‘chủ quyền’ và các ý nghĩa khác nhau được thể hiện trong </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">TQ giúp giải thích một số ‘quan điểm chính thống về chủ quyền’ đương đại của TQ? Nếu người TQ hiện đại sử dụng từ này với hàm ý chỉ ‘quyền lực của người cai trị ', thì chủ quyền chỉ có thể là tuyệt đối chứ không thể tương đối. Người cai trị nào lại muốn quyền lực của họ giảm đi? Từ sự khác biệt đó xuất hiện một khuôn khổ quan hệ quốc tế khác: 'cộng đồng có chung vận mệnh'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tháng 10 năm 1863, sau nhiều tháng vật lộn với những khó khăn trong việc dịch thế giới quan này sang thế giới quan khác, Martin cuối cùng đã đến trình bày thành quả hoàn thành cho văn phòng 'nhỏ, thiếu tiện nghi' của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">ở Đông đường tử Hồ đồng. Martin là bạn của Hart và việc giới thiệu tại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thật dễ dàng</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở đó, họ đã trao bốn tập sách của Wheaton đã dịch cho Cung, Văn Tường và các đồng liêu của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cung chắc chắn quan tâm đến công trình của Wheaton nhưng những người bảo thủ trong triều đình thì không. Bản dịch có thể không khi nào được xuất bản cả nếu nó không bàn về Câu hỏi Schleswig-Holstein (câu hỏi về địa vị của 2 tỉnh Schleswig và Holstein đối với Đan Mạch, Phổ và Áo - ND). Mùa xuân năm 1864, xung đột giữa Đan Mạch và Phổ về quyền sở hữu hai tỉnh Bắc Âu này đã lan đến cảng Thiên Tân. Đại sứ mới của Phổ đến đó trên một chiếc tàu chiến và nhanh chóng bắt giữ ba tàu buôn Đan Mạch. Cung sử dụng kiến thức mới có được trong sách của Wheaton để lập luận rằng một hành động như vậy bên trong lãnh hải của quốc gia khác là bất hợp pháp. Ông đã rất ấn tượng khi thấy người Phổ thừa nhận điều này, thả các con tàu và thậm chí bồi thường cho người Đan Mạch.37 Sau sự việc đó, ngày 30 tháng 8 năm 1864, Cung đã viết một bản ghi nhớ cho triều đình, cho rằng <span id="docs-internal-guid-c633f659-7fff-5125-11c3-d4972a9b756d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">điều đó</span></span> cho thấy công dụng của cuốn sách bí ẩn này và nhận định rằng nó có chứa 'luật lệ có thể kiểm soát các lãnh sự nước ngoài ở một mức độ đáng kể, và đây chắc chắn là một điều hữu ích'.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng mặc dù Cung quan tâm đến việc sử dụng cuốn sách của Wheaton như một công cụ để quản lí người nước ngoài, ông không thấy lí do gì để nó chi phối hành vi của triều đình mình. Trong một bức thư, ông đảm bảo với hoàng đế rằng những lập luận của Wheaton sẽ không ảnh hưởng gì đến đại quốc. Ông giải thích: 'Các thượng thư của bệ hạ đã ngăn cản cố gắng [của Martin] kêu gọi chúng ta làm theo cuốn sách qua việc nói với ông ấy rằng TQ có luật pháp và thể chế riêng và việc làm theo các cuốn sách nước ngoài là điều bất tiện.’ Cung sau đó kết thúc nhận xét của mình với việc báo cho triều đình rằng ông đã phê duyệt ngân sách 500 lượng bạc để biên tập và xuất bản tác phẩm của Martin.38 Martin đã đề nghị Cung viết lời tựa cho bản dịch nhưng ông từ chối. Có vẻ Cung không muốn bị gắn kết công khai với những tư tưởng ngoại lai. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thậm chí không xuất bản cuốn sách. Như nhà Hán học Thụy Điển Rune Svarverud ghi nhận, việc đó đã được thực hiện vào năm 1864, thông qua một nhà xuất bản trực thuộc một trường truyền giáo do chính Martin thành lập ở Bắc Kinh.39.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm sau, Martin được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh tại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng Văn quán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và năm 1867, ông được bổ nhiệm làm giáo sư luật quốc tế ở đó. Chính từ thời kì này trở đi, trường thông ngôn đã trở thành một cỗ máy biến đổi trí tuệ trong các bộ phận dễ tiếp thu của giới thượng lưu nhà Thanh. Tuy nhiên, họ chiếm rất nhiều trong thiểu số đó. Có sự phản kháng quyết liệt đối với những nỗ lực của Cung, và của những người tự cường khác, từ trong hàng ngũ thư lại.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người bảo thủ chính là nhân vật lỗi lạc Wo Ren (倭仁: Oa Nhân, đôi khi được viết là Wojen). Oa Nhân là một người tộc Mông Cổ đã vượt qua chế độ thi cử nắm giữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">đồng thời </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">một số chức vụ quan trọng nhất của đại quốc. Oa Nhân đã xây dựng hình ảnh công chúng như một người ngay thẳng và ngoan cường, luôn khuyến khích việc tuân thủ nghiêm ngặt các kinh sách Nho giáo. Một câu chuyện châm biếm kể rằng ông thành lập 'Hội ăn cám’ để tránh khoái cảm ăn bột mì trắng. Nhưng chức vụ cao cũng mang lại <span id="docs-internal-guid-56309c03-7fff-09dd-85be-bca9311cd540"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">bổng lộc</span></span> cao và có tin đồn rằng Oa Nhân là một kẻ đạo đức từng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">lén thưởng thức những món ăn ngon và thậm chí hút thuốc phiện. Ông bị hoàng đế Hàm Phong giữ khoảng cách - hoàng đế thậm chí đã phái Oa Nhân đến Turkestan xa xôi trong một thời gian. Tuy nhiên, sau khi hoàng đế mất vào năm 1861 và cuộc đảo chính sau đó của Từ Hi, ông đã nhanh chóng giành được nhiều vị trí cao. Đến năm 1866, ông không chỉ là đại thư kí, giám sát Hội đồng thu nhập, mà còn là chủ tịch Hội đồng </span><span id="docs-internal-guid-2369648a-7fff-8c13-b80d-35274b780838"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thẩm sát</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">, chủ tịch Hội đồng Công trình, viện trưởng viện Hàn lâm và là thầy dạy riêng cho con hoàng đế.40</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc xung đột giữa Cung và Oa Nhân kết tụ vào tháng 3 năm 1867 về việc liệu quan lại cấp dưới và các học giả tại viện Hàn lâm có nên được khuyến khích nghiên cứu các môn học mới như toán học và thiên văn học tại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng Văn quán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hay không. Oa Nhân phản đối với lí do 'nhu cầu cơ bản của quốc gia là đạo đức của người dân chứ không phải kĩ năng kĩ thuật'.41 Ông cũng cho rằng trường thông ngôn không nên sử dụng người nước ngoài: tính toàn vẹn của Nho giáo vẫn phải giữ tối cao. Vua bác bỏ những lập luận của Oa Nhân và để tỏ rõ sự không hài lòng, đã bổ nhiệm Oa Nhân vào hội đồng quản trị </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">để ông có thể tìm hiểu thêm về các vấn đề đối ngoại. Ông cầu xin được tha lỗi, nói rằng bản chất ông là một người bảo thủ và chưa sẵn sàng cho vai trò mới. Ông viện sức khỏe yếu và sau đó, vào ngày ông sắp nhận chức, dường như đã ngã ngựa, bị thương ở chân. Sau đó Oa Nhân từ chức tất cả các vị trí chính thức ngoại trừ thầy dạy cho vị hoàng đế trẻ tuổi và biến mất khỏi cuộc sống công.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, sự hi sinh của Oa Nhân đã mang lại một chiến thắng đáng kể cho 'những người theo thuyết tân Nho giáo'. Như nhà sử học sinh ra tại Hồng Kông David Pong nhận xét, Thái hậu Từ Hi có thể đã ủng hộ Cung chống lại Oa Nhân <span id="docs-internal-guid-48726d51-7fff-9cb0-da59-257dd7ecc7da"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cũng như</span></span> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chống lại những người chỉ trích bảo thủ nhưng bà không sẵn sàng thách thức trực tiếp các thư lại. Ý tưởng yêu cầu các quan chức học ở </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng Văn quán </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chết đi trong im lặng. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">sau báo cáo rằng, ‘từ khi Oa Nhân <span id="docs-internal-guid-546d0dba-7fff-ec50-9a73-df694efe5501"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đưa ra phản đối</span></span>, các thư lại đã tập hợp thành nhiều nhóm và âm mưu cản trở [</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng Văn quán</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">]. ... Kết quả là không ai đến dự thi vào </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nha môn</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">.' Triều đình đã chọn ủng hộ sự chính thống của Nho giáo và chống lại việc học hỏi về thế giới rộng lớn hơn. Mặc dù những lập luận này xoay quanh việc nghiên cứu về 'các vấn đề phương Tây' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">xi</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">yang wu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (</span><span style="background-color: yellow; font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">西洋務</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: tây dương vụ)- chúng cũng ngầm bác bỏ bất kì động thái nào nhằm thay đổi thế giới quan cơ bản của triều đình. Người nước ngoài có thể đã thâm nhập được vào vương quốc Thanh và rút tỉa nhiều nhượng bộ về thương mại nhưng cách nhìn thế giới của họ vẫn giữ khoảng cách: được quản lí thông qua </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này được xác nhận bởi chính thư từ của triều đình. Các hiệp ước được kí kết tại Thiên Tân năm 1858 có các điều khoản cho phép một trong hai bên yêu cầu sửa đổi sau 10 năm. Khi ngày đó đến gần vào cuối năm 1867, Dịch Hân / Cung là tác giả của một chỉ dụ của triều đình gửi các quan tỉnh cao cấp nhất trong nước từng có một số kinh nghiệm giao dịch với người nước ngoài. Ông muốn họ cho lời khuyên: họ nghĩ người nước ngoài sẽ đòi hỏi điều gì và triều đình nên đáp ứng như thế nào? Mười bảy quan chức đã trả lời, trong đó có Lí Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên và Tả Tông Đường. Cuộc trao đổi bí mật này cho chúng ta biết rất nhiều điều về quan điểm của triều đình về thế giới. Điều đáng chú ý nhất là các quan chức này ít hiểu biết về những thay đổi diễn ra xung quanh họ đến mức nào. Cơ sở cốt yếu của thế giới quan đế quốc vẫn giữ nguyên: nhà Thanh là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, trung tâm của thế giới, và vẫn vượt trội về văn hóa và đạo đức so với bọn người man di. Trong nhận định chua chát của nhà sử học người Mĩ về TQ, Knight Biggerstaff, nêu 'Một kẻ bị đánh gục vì sự thiếu hiểu biết và mù quáng của mình.’ Chỉ có Chương, Phiên và Đường mới chứng tỏ được sự hiểu biết thực sự về những vấn đề nghiêm trọng mà đất nước của họ phải đối mặt khi đối phó với những cường quốc phương Tây hung hãn này.’42 Nhưng họ có thể làm cách nào? Theo lời của nhà sử học Canada John Cranmer-Byng, 'TQ đang bị hoàn cảnh và sự yếu kém của chính mình buộc vào một hệ thống quốc tế mà người TQ không tin vì theo quan điểm của họ, hệ thống này không biện minh được về mặt đạo đức.’43</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Như thực tế cho thấy, những người phương Tây hiếu chiến không yêu cầu bất kì sửa đổi nào cho các hiệp ước 1858. Nhìn chung, thập kỉ 1860 là thời kì hợp tác giữa các cường quốc phương Tây với nhà Thanh. Người châu Âu và người Mĩ đã được hưởng quyền giao dịch có được qua cưỡng bức và những người tự cường đang cố gắng xây dựng lại hệ thống phòng thủ của đại quốc bị tàn phá bởi chiến tranh bằng công nghệ của người nước ngoài. Các cảng hiệp ước là đầu cầu nhỏ của <span id="docs-internal-guid-20e8945e-7fff-3f78-0b6e-51c5bd4ff2a4"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">của sự hiện đại, nhưng các 'nhà tân Nho học' đang duy trì lập trường đang có</span></span> ở mọi nơi khác. Hai thế giới quan tồn tại song song với nhau.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại các cảng của hiệp ước (cùng với sự ổn định chính trị trở lại ở Mĩ Latinh) đã có một tác động khác. Từ khoảng năm 1853 đồng tiền bạc Mexico đáng tin cậy bắt đầu tràn vào nền kinh tế nhà Thanh một lần nữa. Các vấn đề kinh tế của việc chuyển đổi giữa đồng tiền đồng và bạc bắt đầu giảm bớt. Đồng thời, mọi người đã đào lấy số bạc tiết kiệm được mà họ đã tích trữ và chôn giấu trong thời loạn Thái Bình lên. Khi nguồn cung peso tiếp tục trở lại, nền kinh tế phục hồi. Và khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nguồn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">bạc trở nên nhiều hơn, thương nhân phương Tây đã bỏ việc buôn bán thuốc phiện. Thay vào đó, nguồn cung cấp thuốc tự trồng trong nước tăng vọt. Vào cuối những năm 1860, thuốc phiện trồng trong nước nhiều hơn cây nhập khẩu.44.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những năm tháng miễn cưỡng chung sống không kéo dài <span id="docs-internal-guid-0feee240-7fff-5ce9-16f6-473a07782d10"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quá </span></span>thập kỉ đó. Ngày 21 tháng 6 năm 1870 tin đồn về việc các trại trẻ mồ côi Công giáo bắt cóc trẻ em, kết hợp với phản ứng quá nóng vội của một lãnh sự Pháp, đã dẫn đến Thảm sát Thiên Tân, trong <span id="docs-internal-guid-7eeabc09-7fff-520f-83fa-591aa32523a2"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">vụ này </span></span>có khoảng 60 tín đồ Cơ đốc giáo, cả TQ lẫn ngoại quốc, bị giết. Người châu Âu đòi bồi thường. Khi các tàu chiến của Pháp đến gần thành phố, triều đình đã giao cho Lí Hồng Chương <span id="docs-internal-guid-170906ef-7fff-3a18-9705-e3b56f64b0b0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nhiệm vụ giải quyết</span></span> khủng hoảng. Ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc Trực Lệ, tỉnh có chứa Thiên Tân. Một số kẻ bị cáo buộc gây bạo loạn đã bị hành quyết, một đoàn sứ đi xin lỗi đã được phái đến Pháp và sự cuồng loạn đã giảm bớt. Trong vòng ba tháng sau khi đảm nhận vai trò ở Trực Lệ, Chương cũng được bổ nhiệm làm giám sát các cảng phía Bắc và được thăng chức lên "ủy viên hoàng gia", hay </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">qinchai </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(欽差: khâm sai).45</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều này khiến Chương trở thành một trong những vị quan quyền lực nhất đất nước. Cùng với Thiên Tân, Trực Lệ bao gồm tất cả các vùng đất xung quanh Bắc Kinh, và với tư cách là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">người </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">giám sát các cảng phía Bắc, Chương chịu trách nhiệm về mọi giao dịch với người nước ngoài tại các cảng hiệp ước phía bắc Thượng Hải. Trong một phần tư thế kỉ tiếp theo, nếu là người phương Tây và muốn đến Bắc Kinh, dù về địa lí hay chính trị thì đều phải đi qua lãnh thổ của Chương. Và một người phương Tây đã vượt qua được rồi có ảnh hưởng sâu sắc đến cả Chương và thông qua Chương, đến các quan hệ của TQ với thế giới rộng lớn hơn.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">William N. Pethick đã chiến đấu trong giai đoạn cuối của Nội chiến Hoa Kì. Cùng thời điểm Thái Bình bị đánh bại ở Nam Kinh năm 1864, anh gia nhập Đội kị binh New York thứ 25 làm binh nhì. Anh đã chiến đấu qua Thung lũng Shenandoah dưới quyền của Tướng Sheridan cho đến khi trung đoàn của anh được giải thể vào tháng 6 năm 1865. Anh hẳn đã tìm kiếm một cuộc phiêu lưu xa hơn, cuối năm đó, ở tuổi 19, anh khởi hành đi đến TQ. Một tường thuật nói rằng anh đã nhận được thư giới thiệu của Tổng thống Lincoln với 'đại sứ' Mĩ tại Bắc Kinh, Anson Burlingame.46 Một tường thuật khác cho biết Pethick ban đầu làm việc cho một nhà kinh doanh của Anh. Dù điều nào đúng, Pethick sau đó đã đi du lịch. Ông đi lang thang trong hai năm, trải qua hàng ngàn dặm đường, học nhiều tiếng Trung địa phương và đắm mình trong nền văn hóa địa phương. Khi trở về Bắc Kinh, Chương dường như đã yêu cầu một cuộc gặp với Pethick.47</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hai người sẽ vẫn là bạn bè cho đến khi họ qua đời, cách nhau vài ngày, vào năm 1901. Năm 1872 Pethick được bổ nhiệm làm lãnh sự Mĩ tại Thiên Tân và <span id="docs-internal-guid-865c564a-7fff-68d6-94bd-a12aac95d9b9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">cũng khoảng thời gian đó, ông cũng là một trong những</span></span> nhân viên riêng của Chương.48 Đến tháng 11 năm 1874 Robert Hart của Sở Hải quan đã mô tả ông là ‘một trong những nhân viên hữu ích và đáng tin cậy nhất của Chương '. 49. Vai trò kép này khiến ông trở thành trung gian lí tưởng giữa Hoa Kì và Chương, và triều đình nhà Thanh thông qua Chương. Trong khi phần lớn thời gian của ông dành cho việc giải quyết các cơ hội thương mại và tranh chấp thương mại, Pethick cũng nhận thấy mình là trung tâm của các quan hệ đối ngoại của TQ. Thông qua Pethick, Chương lôi kéo Hoa Kì vào bốn cuộc khủng hoảng quốc tế trong 20 năm sau đó. Mỗi can thiệp của Mĩ sẽ loại bỏ dần vị trí của nhà Thanh ở trung tâm của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và buộc nó phải chấp nhận, ít nhất là trong hình thức bề ngoài, các quy tắc về chủ quyền và luật pháp quốc tế phương Tây. Đây không phải là một chiến lược có chủ đích đối với cá nhân Pethick hay Washington nói chung, nó chỉ đơn giản là hệ quả của cách người Mĩ nhìn thế giới.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào những năm 1870, Chương, với tư cách vừa là một nhà Nho vừa là một quan chức nhà Thanh, đã chấp nhận như là thế giới quan tự nhiên xem hoàng đế ở Bắc Kinh là trung tâm của trật tự khu vực với quyền lực đối với quan lại, thần dân và các nước triều cống tỏa ra xa về mọi hướng. Trên lí thuyết, 6 quốc gia vẫn thường xuyên triều cống cho ông: An Nam (Việt Nam), Choson (Triều Tiên), Nam Chưởng (Lào), Lưu Cầu (quần đảo Ryukyu), Xiêm La (Thái Lan) và Miến Điện (Myanmar). Một số nước khác cũng triều cống nhưng ít thường xuyên hơn (đoàn sứ triều cống cuối cùng của Nepal đến vào cuối năm 1908). Tuy nhiên, các quan hệ đã suy yếu trong một thời gian nào đó do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và sau đó là chính trị của nhà Thanh. Tuy nhiên, 'hệ thống triều cống’, hay đúng hơn là ý tưởng về</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> mà nó dựa vào, vẫn là hệ tư tưởng chính thức của nhà nước. Nó củng cố quyền cai trị của hoàng đế. Ngay cả đoàn sứ Macartney bất hạnh năm 1793 đã được quản lí triều đình ghi nhận là ‘đoàn triều cống’ của Anh, mặc dù điều đó mâu thuẫn với toàn bộ quan điểm của chuyến đi.50 Theo lời của John Cranmer-Byng, ‘Sự phá vỡ hệ thống thế giới truyền thống của TQ diễn ra nhanh hơn sự xói mòn của các giả định mà chính trật tự đó dựa vào.'51 Giới tinh hoa nhà Thanh đơn giản là không thể hiểu được điều gì đang xảy ra.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thế giới của họ dù sao cũng đang trượt đi. Trong loạn Thái Bình, Xiêm La và Lào đơn giản là đã ngừng gửi cống: các đoàn sứ cuối cùng của mỗi nước được tiếp vào năm 1853. Thương nhân TQ và Đông Nam Á nhận thấy rằng họ có thể kiếm nhiều tiền hơn qua việc chỉ đơn thuần buôn bán qua lại giữa Đông Nam Á và các cảng hiệp ước mới. Năm 1862, ngay khi cuộc nổi dậy Thái Bình bị dập tắt, chính quyền nhà Thanh đã cố gắng khôi phục lại mối quan hệ cũ. Tổng đốc Quảng Đông kiến nghị chính phủ Xiêm nối lại các đoàn sứ triều cống. Yêu cầu đã bị lờ đi.52 Xiêm đã rời khỏi hệ thống triều cống.53 Lào cũng ra đi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước kế tiếp sụp đổ là vương quốc Lưu Cầu (Ryukyu). Tháng 3 năm 1879, Nhật Bản sáp nhập Ryukyu, chuỗi đảo trải dài giữa Nhật Bản và Đài Loan. Giới thượng lưu Ryukyu rất tức giận. Trong khoảng 250 năm, với việc buôn bán trực tiếp giữa Nhà Thanh và Nhật Bản bị cấm, họ đã đóng vai trung gian và hưởng lợi. Người Nhật có ảnh hưởng lớn hơn trong vương quốc này nhưng họ vẫn khuyến khích người Ryukyu tiếp tục triều cống cho Bắc Kinh để giữ cho thương mại lưu thông. Người Ryukyu đã làm như vậy cho đến khi Hoàng đế Quang Tự lên ngôi vào tháng 4 năm 1875.54 Tháng sau, chính phủ Nhật ra lệnh ngừng các đoàn sứ triều cống, trước sự không hài lòng của người Ryukyu, họ đã liên tục kiến nghị với chính quyền nhà Thanh để được trợ giúp. Không có sự giúp đỡ nào xảy ra. Những nhà cai trị <span id="docs-internal-guid-201c0a7c-7fff-b60e-fe06-3c61f8239f6c"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">quần đảo này</span></span> <span id="docs-internal-guid-25dba2e2-7fff-76a6-9db8-29e4a9024f43"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đang sắp sửa</span></span> rời khỏi thế giới </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và bước vào thế giới của 'chủ quyền.’</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bản dịch tiếng Trung của William Martin bộ sách luật của Wheaton đã được dịch sang chữ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">kanbun</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> cho độc giả Nhật Bản trong vòng một năm kể từ khi xuất bản năm 1864 tại Bắc Kinh. Người Nhật ngay lập tức nhận thấy giá trị của nó và khoảng 20 ấn bản khác nhau đã được xuất bản trong 20 năm sau đó, bao gồm cả bản dịch tiếng Nhật đầy đủ vào năm 1876.55 Trái ngược hoàn toàn với những nghi ngờ mà nó dấy lên trong các quan chức cấp cao của nhà Thanh, cuốn sách đã được hoan nghênh hết mình và được chấp nhận ở Tokyo. Thông điệp cơ bản của nó, rằng các quốc gia có chủ quyền và độc lập đúng đắn, đều phù hợp với những ý tưởng mới đang lưu hành ở Nhật Bản về vị thế thích <span id="docs-internal-guid-38464148-7fff-aab9-a665-599312ad4be9"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đáng</span></span> của nó trong khu vực. Những ý tưởng này đã xuất hiện sau khi đất nước bị Hải quân Hoa Kì buộc phải mở cửa vào những năm 1850. <span id="docs-internal-guid-8ecc2327-7fff-5a3f-b1b3-5db5cfa3163b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Lúc đó</span></span> có một phe phái hiếu chiến trong chính trường Nhật Bản đang tìm cách học hỏi từ người châu Âu và giống như họ, giành được một đế chế. Họ bắt đầu thèm muốn những vùng đất xung quanh và bước đi đầu tiên của họ là đặt chân vào Ryukyu. Những người theo chủ nghĩa bành trướng đã học được từ Wheaton và biến những lập luận của ông thành lợi thế của họ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc sáp nhập vào Nhật Bản là một sự việc đã rồi; vua Ryukyu bị lưu đày và vương quốc của ông ta bị nhập vào Nhật Bản. Triều đình nhà Thanh phải quyết định cách ứng phó. Có Ryukyu như một nước triều cống không mang lại lợi ích tài chính. Tháng 5 năm 1878, Chương đã nói như vậy trong một thư gửi đại sứ nhà Thanh tại Tokyo, He Ruzhang (何如璋: Hà Như Chương). 56 Tầm quan trọng của mối quan hệ nằm ở tính biểu tượng của nó. Việc sáp nhập là vi phạm trật tự khu vực và là một sự xúc phạm đối với hoàng đế. Hơn nữa, vị vua bị phế truất của Ryukyu đã trực tiếp kêu gọi sự trợ giúp. Nếu trật tự truyền thống được duy trì, Bắc Kinh có nghĩa vụ phải trợ giúp. Bấy giờ cũng có những câu hỏi về realpolitik (chính sách thực dụng). Sau gần 4 thập kỉ bị phương Tây can thiệp, các quan lại hàng đầu của nhà Thanh tin rằng việc nhượng các đảo có thể sẽ mời gọi thêm xâm lược.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương và Cung đã tranh luận về phản ứng của họ. Chương cảm thấy quần đảo này không đáng để tranh giành, và đã chọn cách dùng ngoại giao và triển khai luật pháp quốc tế. Điều đầu tiên của hiệp ước mà Chương đã tự mình đàm phán và kí kết với chính phủ Nhật Bản vào năm 1871 nêu rõ: 'Trong tất cả những gì liên quan đến việc sở hữu lãnh thổ của một trong hai quốc gia, hai Chính phủ sẽ đối xử với nhau một cách lịch sự phù hợp, không vi phạm dù là nhỏ nhất hay lấn sang mỗi bên. 57 Theo quan điểm của Chương, Nhật Bản đã vi phạm hiệp ước và ông đã chỉ thị cho đại sứ Hà Như Chương viết thư phản đối. Tuy nhiên, thư của đại sứ Chương, có ngôn ngữ quá nghiêm túc, thấm nhuần trật tự cũ, đến nỗi người Nhật không chấp nhận thảo luận thêm về vấn đề này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhưng sau đó William Pethick đã có một ý tưởng. Chỉ huy cũ của ông, hiện là cựu tổng thống, Ulysses S. Grant, đang thực hiện một chuyến công du thế giới sau 8 năm ở Nhà Trắng. Ngày 6 tháng 5 năm 1879 Grant cập cảng Quảng Châu (Canton) trước khi đi đến Hạ Môn, Thượng Hải, Thiên Tân và Bắc Kinh. Ông không ấn tượng với những gì nhìn thấy. Ngày 6 tháng 6, ông đã viết thư từ Bắc Kinh cho người bạn Adolph E. Borie, 'Chúng tôi đã ở Capitol này được ba ngày và đã thấy tất cả những gì có thể thấy, và chỗ quý giá đó ít đáng quan tâm.... Tientsin (Thiên Tân) là một thành phố đông dân hơn Thượng Hải và bẩn thỉu hơn nhiều.'58 Cùng đi với ông trong chuyến đi đó là William Pethick. Pethick giới thiệu ông với Chương và hai người đã thảo luận về những cách mà Grant có thể làm trung gian trong cuộc tranh chấp Ryukyu. Theo nhà nghiên cứu người Mĩ Chad Berry, Chương có lẽ tin rằng Grant, với tư cách là một người Mĩ chống đế quốc, từng tham chiến để gìn giữ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, sẽ thông cảm với quan điểm của TQ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tại Bắc Kinh, Grant gặp thân vương Cung, có nói với ông rằng ông này muốn tình hình trở về nguyên trạng trước đây, với việc Nhật Bản từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Ryukyu. Khi trở về Thiên Tân, ông có một cuộc gặp khác với Chương. Chương đã dựa trên kiến thức của mình về các điều ước quốc tế để tranh luận về vụ này nhưng Grant đã chỉ ra một mâu thuẫn. Khi dựa vào Hiệp ước Trung-Nhật năm 1871, Chương hình như đang nói rằng Ryukyu là một phần của TQ. Nhưng khi dựa vào hiệp ước 1853 giữa Ryukyu và Hoa Kì, ông đã lập luận rằng Ryukyu là một quốc gia riêng biệt. Chương đã cố ngụy tạo vấn đề khi mô tả Ryukyu là một 'thế lực bán phụ thuộc'. Grant đồng ý giúp nhưng muốn có điều đổi lại: một thỏa thuận hạn chế người TQ nhập cư vào Mĩ. Hơn 100 000 người TQ đã đến Mĩ trong hai nhiệm kì của Grant và phản ứng từ người da trắng là rất lớn. Cam kết ngăn chặn nhập cư TQ sẽ giúp ích rất nhiều cho tham vọng của Grant </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">có nhiệm kì tổng thống thứ ba</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">. Sau cuộc gặp cuối cùng của họ vào ngày 13 tháng 6, Chương yêu cầu Pethick nói với Grant rằng ông sẵn sàng thực hiện thỏa thuận theo những đường hướng đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau đó Grant đến Nhật Bản, rất ấn tượng về sự hiện đại hóa nhanh chóng của đất nước, ông khen nước này 'tự do và khai sáng' trong nhật kí cá nhân của mình. Sự tương phản với TQ là rõ ràng và cảm tình của ông dường như đã thay đổi. Bất kì mong muốn nào mà Grant có thể có để thúc đẩy các lập luận của TQ đều tan biến. Theo nhà sử học về quan hệ Trung - Mĩ Michael H. Hunt, trong cuộc gặp với các quan chức Nhật Bản vào tháng 7 năm 1879, Grant đã đề xuất một cách phân chia Ryukyu. Grant sống trong thế giới quan về các quốc gia có chủ quyền và các ranh giới đã được thỏa thuận. Ý tưởng rằng một quốc gia có thể có hai chủ là không thể hiểu được. Nhưng có lẽ ông biết rằng điều này sẽ gây tranh cãi quá lớn để thể hiện trực tiếp, vì lá thư của ông gửi cho thân vương Cung và thủ tướng Nhật Bản chỉ khuyến nghị rằng phía TQ nên rút lại bức thư xúc phạm trước đó của đại sứ Hà Như Chương và hai bên nên gặp nhau để thảo luận thêm. Sau đó ông về nước. 59.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phải mất một năm cuộc họp mới thực sự diễn ra. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1880, thân vương Cung gặp đại sứ Nhật Bản tại </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau hai tháng đàm phán, họ đã đạt được thỏa hiệp theo đường hướng mà Grant đã đề xuất trước đó với người Nhật: phân cắt Ryukyu. TQ sẽ nhận hai hòn đảo cực nam của Ryukyu còn Nhật Bản sẽ giữ phần còn lại. Nhật Bản cũng sẽ được hưởng quy chế 'tối huệ quốc' - quyền thương mại ở TQ giống như các cường quốc phương Tây. Nhưng khi Chương nghe về thỏa thuận này, ông đã phản đối dữ dội. Như ông nói với Grant trong một bức thư vào tháng 2 năm 1881, ông ‘cho rằng việc chia sẻ tài sản của một vị vua triều cống mà đối với vua đó TQ không hề bất bình là không hợp với phẩm giá của TQ. Quả vậy, sau khi phản đối việc Nhật Bản sáp nhập Ryukyu, TQ không thể đột nhiên quay lưng và tham gia vào một hành động mà ngay từ đầu đã bị TQ lên án là độc đoán mà không đánh mất lòng tự tôn và lòng tự trọng đối với phần còn lại của thế giới.' Chương vẫn sống trong một thế giới tri thức về </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">. Những gì ông cần là duy trì trật tự biểu tượng của việc triều cống. Không có nó, trật tự chính trị của đại quốc Thanh sụp đổ. Làm sao có thể tự xưng là trung tâm-của-thế giới nếu TQ không thể bảo vệ các chư hầu của mình? Tuy nhiên, không có cuộc đàm phán nào diễn ra và Nhật Bản củng cố quyền kiểm soát của mình đối với toàn bộ Ryukyu. TQ không chấp nhận việc đồng tình loại bỏ chư hầu của mình nhưng dù vậy cũng đã để mất nó. Đối với Chương, đây là một bài học quan trọng về cách thức hoạt động của luật pháp quốc tế phương Tây. Nó không có giá trị gì trừ khi có quyền lực đằng sau nó để thực thi các luật lệ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào mùa hè năm 1880, trong khi các cuộc thảo luận về Ryukyu vẫn đang diễn ra, Chương đã nghe về một vị khách Mĩ khác đến khu vực này. Trung tướng Robert W. Shufeldt đã được cử đi trên tàu USS </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ticonderoga sau </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">một nghị quyết của Thượng viện hai năm trước đó kêu gọi Hoa Kì đàm phán một hiệp ước với Triều Tiên. Triều Tiên vẫn là 'vương quốc ẩn cư' và đóng cửa với người phương Tây, nhưng Shufeldt đã đến thăm Nagasaki để nhờ người Nhật giúp đỡ. Lãnh sự TQ tại thành phố đã chuyển tin này cho Thiên Tân và Chương bắt đầu <span id="docs-internal-guid-8daf7d96-7fff-b7b3-fa8b-ec3b297e6771"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">hình thành </span></span>kế hoạch. Thông qua hai vai trò của Pethick với tư cách là nhân viên riêng và đại diện ngoại giao Hoa Kì, Chương đã mời Shufeldt đến thăm.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương lo ngại về chủ nghĩa bành trướng của Nhật Bản và tham vọng của Nga ở phương Đông. Giống như Ryukyu, Triều Tiên là một nước triều cống truyền thống của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, và cũng giống như Ryukyu, Nhật Bản cũng có tham vọng ở đó. Theo cách của người phương Tây, chính phủ Nhật Bản đã điều tàu chiến đến bờ biển Triều Tiên vào năm 1876 và buộc triều đình kí hiệp ước quốc tế đầu tiên của mình. Triều Tiên miễn cưỡng đồng ý mở hai cảng cho thương nhân Nhật Bản và cho phép một đại sứ cư trú tại Seoul.60 Với những gì đang xảy ra ở Ryukyu, Chương nghi ngờ rằng tham vọng của Nhật Bản ngày càng sâu đậm hơn. Trong cuộc trò chuyện với Shufeldt vào ngày 26 tháng 8 năm 1880, có lẽ là do Pethick thông dịch, Chương đã đề cập đến những lo lắng này và ngỏ lời giúp đỡ các nỗ lực ngoại giao của Mĩ tại Triều Tiên. Có vẻ như Chương đã cố gắng ‘dùng man di để kiểm soát man di’ bằng cách đưa Hoa Kì, một quốc gia dường như không có ý định thù địch với TQ, vô hiệu hóa các hoạt động của người Nhật và người Nga. Theo lời kể của Shufeldt, Chương cũng đang tìm kiếm sự trợ giúp của Mĩ trong việc xây dựng lực lượng hải quân của mình và đề nghị Shufeldt có thể đảm nhận vai trò làm chỉ huy của lực lượng này.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mối quan hệ chính thức của triều đình nhà Thanh với các chư hầu luôn được <span id="docs-internal-guid-32319b76-7fff-b550-28e5-606947c03067"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">'Ban </span></span>Nghi lễ', cấp cao nhất trong 6 bộ của triều đình, giải quyết. Các quy trình nghiêm ngặt đã được tuân thủ để duy trì thứ bậc trong quan hệ - như Andreas van Braam đã phát hiện ra 90 năm trước. <span id="docs-internal-guid-32319b76-7fff-b550-28e5-606947c03067"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">'Ban </span></span>đã quản lí quan hệ giữa Bắc Kinh và Seoul trong nhiều thế kỉ nhưng vào mùa xuân năm 1881, vai trò này được chuyển giao cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đồng thời, hoàng đế viết thư cho vua Triều Tiên và khuyến khích ông kí hiệp ước với Hoa Kì. Những động thái này, rõ ràng là theo chỉ thị của thân vương Cung, có vẻ tầm thường nhưng chúng có thể thể hiện cho một sự thay đổi cơ bản trong quan hệ đối ngoại của triều đình. Triều đình không còn có thể cho rằng mối quan hệ theo nghi thức cũ là đủ. Bắc Kinh cần phải chơi trò với chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, mục đích sâu xa hơn của Cung và Chương là dùng người phương Tây để giữ chân người Nhật và do đó duy trì quan hệ triều cống truyền thống.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shufeldt trở lại Thiên Tân vào tháng 7 năm 1881. Không nhận được hồi âm từ Seoul nên ông buộc phải đợi. Chỉ đến tháng 12, ông mới biết rằng Chương đã <span id="docs-internal-guid-3afb6120-7fff-d02c-8dce-ab9a7e0dd63a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thuyết phục được</span></span> triều đình Triều Tiên đồng ý kí hiệp ước. Vào tháng 2, Shufeldt đến Bắc Kinh để gặp đại diện ngoại giao Mĩ, Chester Holcombe, và chuẩn bị một bản dự thảo. Văn bản của họ không đề cập đến địa vị triều cống của Triều Tiên: đó là một tài liệu dựa trên các khái niệm chủ quyền của phương Tây. Nhưng đó không phải là cách mà cả thân vương Cung lẫn Lí Hồng Chương nhìn thấy tình hình. Thứ nhất, họ nhấn mạnh rằng hiệp ước sẽ phải được đồng ý ở Bắc Kinh trước khi nó thể đem trình bày cho người Triều Tiên và thứ hai, phiên bản của Chương quy định rằng Triều Tiên sẽ vẫn là một nước triều cống.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cách diễn đạt của Chương khiến người Mĩ bối rối. Điều khoản đầu tiên trong phiên bản hiệp ước của ông nói rằng 'Choson [朝鮮: Triều Tiên], là một quốc gia lệ thuộc đế quốc TQ, tuy nhiên từ trước đến nay đã thực hiện chủ quyền của riêng mình trong mọi vấn đề hành chính nội bộ và quan hệ đối ngoại.’ Điều này có thể có nghĩa đối với Chương, nhưng đối với người Mĩ, hai nửa của câu này <span id="docs-internal-guid-03ac6418-7fff-606c-d818-cd83383a3d00"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">chỏi nhau</span></span>. Chủ quyền chẳng có nghĩa gì nếu không có độc lập. Tuy nhiên, Chương cho biết việc đưa <span id="docs-internal-guid-d19e3b1e-7fff-0d73-da5f-6553b79b3d9e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">điều đó </span></span>vào là không thể thương lượng. Rõ ràng điều mà ông thực sự muốn là Hoa Kì công nhận quyền độc tôn của nhà Thanh đối với Triều Tiên. Đáp lại, Shufeldt nhấn mạnh rằng nếu Triều Tiên có các quyền lực về chủ quyền thì Mĩ có quyền thương lượng với họ một cách độc lập với TQ. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa quan điểm thế giới của nhà Thanh và của phương Tây.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 4 năm 1882, Lí Hồng Chương đã đưa ra một quyết định khẩn cấp với những tác động to lớn. Ông đồng ý xóa cách viết của ông khỏi văn bản. Trên thực tế, ông thừa nhận việc chấm dứt địa vị triều cống của Triều Tiên và một thỏa thuận chính trị khu vực trong đó Triều Tiên có thể độc lập đưa ra các lựa chọn chủ quyền của riêng mình trong quan hệ đối ngoại. Điều an ủi là sau khi hiệp ước được kí kết, vua Triều Tiên có viết một bức thư riêng cho Tổng thống Mĩ, trong đó nêu rõ rằng hiệp ước đó đã được thực hiện với sự đồng ý của chính phủ TQ. Đó là lá sung che chắn giúp bảo vệ danh giá của nhà Thanh. Ngưỡng tới hạn đã bị vượt qua. Chương rất nóng lòng muốn có Hoa Kì làm đối tác để giảm thiểu ảnh hưởng của Nhật Bản tại Triều Tiên, đến nỗi ông đã hi sinh quan hệ triều cống truyền thống và mở ra cánh cửa chủ quyền của Triều Tiên. Từ các nguồn khác, và hành vi sau đó của Chương, chúng ta biết rằng ông cảm thấy rằng ông có thể tiếp tục duy trì bản chất của quan hệ triều cống thông qua các cuộc tiếp xúc cá nhân với triều đình Triều Tiên. Tuy nhiên, cuối cùng thì điều này đã không xảy ra và hình thức quan hệ chủ quyền mới đã thay thế hình thức cũ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một tháng sau, trên tàu USS </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Swatara </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, thả neo ở cửa sông Seoul, hiệp ước được thỏa thuận giữa Chương và Shufeldt đã được trình bày cho một phái đoàn Triều Tiên. Chương đã cử một viên quan TQ chủ trì sự kiện này nhưng Shufeldt đã trực tiếp trình cho vua Triều Tiên một bức thư của Tổng thống Chester Arthur, với tư cách một chủ quốc gia với một chủ quốc gia khác, và yêu cầu trả lời theo cùng cách. Người Triều Tiên không phản đối và hiệp ước đã được kí kết trên bãi biển vào ngày 22/5. <span id="docs-internal-guid-f6860c4e-7fff-aa15-1e37-0d6f3029f9e8"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Hai ngày sau đó một bức thư từ nhà vua đến</span></span> nhưng nội dung của nó mâu thuẫn với hiệp ước khi nói rằng, ‘Nước Choson [Triều Tiên] là một nước lệ thuộc TQ, nhưng việc quản lí các công việc chính phủ, trong và ngoài nước, luôn được giao cho chủ quốc gia.' Như vậy, triều đình Triều Tiên đã trình bày một phiên bản quan hệ của họ với Bắc Kinh phù hợp với phiên bản của Chương và theo cái nhìn của người Mĩ, cũng không kém phần trái khoái.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực mà Shufeldt bỏ ra chỉ thu lại được rất ít. Hiệp ước đã được Thượng viện Hoa Kì phê chuẩn vào cuối tháng 7 và hai bên đã trao đổi đại sứ. Công dân Hoa Kì được phép buôn bán và sinh sống tại các cảng mở nhưng rất ít người trong số họ thực sự làm như vậy. Nhiệm vụ của Shufeldt phần lớn bị chính quyền Arthur và giới truyền thông lờ đi, và ông không nhận được nhiều lời cảm ơn vì những nỗ lực của mình. Thậm chí ông còn không có được một vị trí trong lực lượng hải quân của Chương. Tuy nhiên, các cường quốc phương Tây khác đã chứng kiến thành quả của ông và trong vòng vài tháng sau khi kí kết trên bãi biển, Anh, Đức, Ý, Pháp và Áo đều có hiệp ước riêng với Triều Tiên. Chương có thể hi vọng chiến lược sử dụng 'bọn man di’ phương Tây để kiểm soát Nhật Bản đã thành công. Nó đã không kéo dài.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nước triều cống tiếp theo rơi vào ảnh hưởng của nước ngoài là Việt Nam, mà nhà Thanh và người Pháp tiếp tục gọi là An Nam. Quân Pháp đã chiếm thành phố Sài Gòn năm 1859 nhưng vẫn muốn nhiều hơn. Năm 1862/3, họ buộc vua Tự Đức của Việt Nam nhượng ba tỉnh miền Nam làm Nam Kì thuộc Pháp. Năm 1874, Pháp đã áp đặt thêm ‘'Hiệp ước Hòa bình và Liên minh'. Điều 2 nêu rõ 'thừa nhận chủ quyền của vua An Nam và toàn bộ nền độc lập của ông ấy đối với mọi thế lực ngoại bang dưới bất kì hình thức nào', trong khi tại Điều 3, vua An Nam lại cam kết <span id="docs-internal-guid-990d91e6-7fff-79c6-6978-e810ca0c565f"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đưa </span></span>chính sách đối ngoại của mình ăn khớp với chính sách đối ngoại của Pháp’.61 Hiệp ước đã chấm dứt quan hệ triều cống cũ thông qua một thứ hư cấu ngoại giao minh bạch: ý niệm rằng An Nam là một quốc gia độc lập thực hiện sự lựa chọn của chính mình. Trên thực tế, Việt Nam đã trở thành một quốc gia <span id="docs-internal-guid-db7208b0-7fff-5703-f279-dcfab4f2b86a"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được Pháp bảo hộ</span></span>. Nước này đã phái đoàn sứ triều cống cuối cùng đến Bắc Kinh vào năm 1880.62 Nhưng, một lần nữa, người Pháp lại muốn nhiều hơn, đặc biệt là các tuyến đường thương mại về phía bắc vào tỉnh Vân Nam: vùng tây nam xa xôi của vương triều nhà Thanh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi vua Tự Đức mất vào tháng 7 năm 1883, một cuộc khủng hoảng chính trị đã xảy ra sau đó. Chỉ trong hơn một năm, Việt Nam có 5 vị hoàng đế, hầu hết đều bị giết khi tại vị. Giữa lúc hỗn loạn, một vị hoàng đế đã kí hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Bắc Kì, khu vực có biên giới giáp với Vân Nam. Quân đội Pháp bắt đầu tiến vào. Lần này, triều đình ở Bắc Kinh cho rằng họ có thể sử dụng vũ lực quân sự để ngăn một nước triều cống khác bị vuột khỏi tay. Họ tài trợ cho các đơn vị và băng đảng bán chính quy khác nhau như 'Cờ đen' để đối đầu với Pháp.63 Nhận thức được rằng mình cũng cần hậu thuẫn ngoại giao, Lí Hồng Chương lại quay sang Mĩ lần nữa.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lúc này, đại diện của Mĩ tại Bắc Kinh là John Russell Young, trước đây là phóng viên từng tháp tùng Ulysses S. Grant trong chuyến công du lớn của ông. Young đã sử dụng các mối quan hệ chính trị của mình để được phái trở lại châu Á với tư cách là một nhà ngoại giao và đang tìm kiếm một cuộc khủng hoảng để tạo nên tên tuổi. Tháng 8 năm 1883, khi mây đen tụ lại, ông báo cáo lại với Washington về một cuộc trò chuyện tiết lộ mà<span id="docs-internal-guid-8fad67a7-7fff-8318-e3ee-c53d67acdb49"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> ông đã thực hiện</span></span> với Chương.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Young</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Tại sao TQ không xác định lãnh thổ của mình?</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Các giới hạn của đế chế đã được xác định rõ ràng. Có TQ và có các nước chư hầu của TQ. Các nước chư hầu này được tự quản, ngoại trừ việc họ phải trung thành với hoàng đế; vốn đã được thỏa mãn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">qua các hành động cống và nghi lễ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Young</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Trong thời hiện đại và theo các hình thức văn minh thịnh hành ngày nay, không có thể chế nào có tư cách là các nước triều cống: một thuộc địa cũng là một phần của đế chế giống như thủ đô. ... Đây là luật lệ của các quốc gia văn minh. TQ nên làm theo đó và tự cứu mình khỏi sự bối rối <span id="docs-internal-guid-9e96c2db-7fff-95b2-f4d3-4404bee2f849"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">qua việc</span></span> củng cố đế chế của mình và để thế giới biết chính xác giới hạn lãnh thổ của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-left: 36pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">: Tôi không hiểu lí do tại sao các quốc gia bên ngoài cần phải phá hủy các quan hệ đã có giữa TQ và các quốc gia xa xôi này <span id="docs-internal-guid-25d23ac8-7fff-1bde-cc66-d237bcff2c72"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">hàng nhiều năm</span></span>.64</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự không ăn khớp trong thế giới quan là điều hiển nhiên. Young có thể đã phản đối những gì người Pháp đang làm nhưng ông đồng ý với cơ sở mà họ dựa vào để làm những điều đó.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Young khuyên Chương không nên tìm cách chống lại quân đội Pháp, lời khuyên mà Chương vui lòng thực hiện vì ông muốn bảo toàn hạm đội phía bắc của mình để đối mặt với thách thức từ Nhật Bản. Chương thích thương lượng hơn và nhờ Young làm người trung gian. Tuy nhiên, người Pháp không quan tâm; họ chỉ đơn giản yêu cầu công nhận các yêu sách lãnh thổ của họ ở An Nam và Bắc Kì và một khoản bồi thường tài chính lớn. Triều đình nhà Thanh từ chối, vì vậy, tháng 8 năm 1884, Pháp thực hành lại truyền thống pháo hạm của châu Âu để buộc tuân thủ. Trong khi đó, người Pháp buộc Việt Nam phải cắt đứt quan hệ triều cống với nhà Thanh. Ngày 30 tháng 8 năm 1884, trước sự chứng kiến của các nhà ngoại giao Pháp, triều đình đã hủy con dấu chính thức mà nhà Thanh ban cho triều đình Việt Nam vào năm 1804. Sáu kilo bạc chạm khắc đẹp đẽ đã bị nấu chảy thành một thỏi tròn xấu xí.65</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Pháp đã buộc Việt Nam phải cắt đứt quan hệ triều cống với Bắc Kinh nhưng phải nã pháo thêm để thuyết phục Bắc Kinh từ bỏ Việt Nam. Tuy nhiên, sự phản đối <span id="docs-internal-guid-4833c582-7fff-3278-1746-c4e0852b2658"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">nội bộ</span></span> ở Pháp và một số thành công của TQ trước quân đội Pháp ở Bắc Kì đã làm thui chột tham vọng của Paris. Young vẫn cố gắng hòa giải nhưng thành công duy nhất của ông là thuyết phục được Chương từ bỏ sự phản đối công nhận chủ quyền của Pháp đối với Việt Nam. Thực ra chính tổng thanh tra Hải quan Robert Hart, người đã thuyết phục người Pháp chấp nhận ngừng bắn để đổi lấy sự công nhận quyền kiểm soát của họ đối với An Nam và Bắc Kì. Hiệp ước được kí kết tại Thiên Tân vào ngày 9 tháng 6 năm 1885. Một nước triều cống khác đã biến đi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều thú vị là người Anh đã có một cách tiếp cận khác. Cuối năm 1885, họ phát động Chiến tranh Anh-Miến lần thứ ba và chiếm lấy những khu vực của Miến Điện mà họ đã không chiếm được trong các cuộc xâm lược lần thứ nhất và thứ hai. Anh chính thức <span id="docs-internal-guid-a2595675-7fff-30c6-cad0-1ad3a16c0114"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thôn tính</span></span> cả nước vào ngày 1 tháng 1 năm 1886. Tuy nhiên, không giống như Pháp, Anh cho phép Miến Điện tiếp tục gửi cống phẩm cho Bắc Kinh 10 năm một lần. Điều khoản đầu tiên của Công ước giữa Anh và TQ liên quan đến Miến Điện và Tây Tạng, được kí kết tại Bắc Kinh vào ngày 24 tháng 7 năm 1886, làm rõ điều này, trong khi điều khoản thứ hai nói rằng 'trong mọi vấn đề ... Anh sẽ được tự do làm bất cứ điều gì mà Anh cho là phù hợp và thích đáng'.66 Đối với người Anh, ‘triều cống’ là một mẫu biểu tượng vô nghĩa có thể chấp nhận </span><span style="font-family: Arial; font-size: 16px; white-space: pre-wrap;">được </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">trong khi họ tiếp tục việc của đế chế. Đối với triều đình nhà Thanh thì ngược lại: biểu tượng là <span id="docs-internal-guid-a51b3577-7fff-1980-879f-357b50afe786"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">điều quan trọng đối với</span></span> triều đình. Như được biết sau này, không có phái bộ nào thực sự được gửi từ Miến Điện do Anh chiếm đóng và một hiệp địnhị khác, được thỏa thuận vào năm 1897, đã chính thức kết thúc nghi thức đó. Tuy nhiên, trong thập kỉ đầu tiên đó, diện mạo vẫn được giữ </span><span id="docs-internal-guid-ed798be3-7fff-3ece-5d35-614f7019af6e"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">như cũ</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">.67</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi An Nam sụp đổ, những người bảo thủ ở Bắc Kinh đã nắm lấy thế chủ động. Một số lượng lớn thư lại cấp thấp và cấp trung đã thành lập 'đảng </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thanh Lưu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">' - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Qingliu Dang </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(清流黨) - lên án phản ứng thụ động đối với người Pháp và yêu cầu có hành động quân sự. Họ không có kinh nghiệm đối phó với người nước ngoài, cũng như chiến tranh hiện đại, nhưng họ <span id="docs-internal-guid-456adc93-7fff-2c7e-3543-93bc0641dec0"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> lại khăng khăng cho </span></span>rằng việc quay trở lại với các giá trị Nho giáo là đủ để bảo vệ bờ cõi. Dưới áp lực, Thái hậu Từ Hi đã sa thải hoặc trừng phạt tất cả các thành viên của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">- kể cả Dịch Hân / Cung. Chương xoay sở thoát được sự chỉ trích phần lớn nhờ vào quan hệ cá nhân của ông với Từ Hi. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">Lực lượng của ông đã đưa bà thành thế lực đứng sau ngai vàng vào năm 1861 và trong suốt những năm tự cường khiến họ vẫn là đồng minh của nhau. Ông cũng dung túng việc bà phung phí và lạm dụng công quỹ nhà nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một số hậu quả của sự xa hoa của bà vẫn còn ở vùng ngoại ô phía tây bắc của Bắc Kinh cho mọi người xem. Vào một ngày đẹp trời, Cung Mùa hè Hoàng gia khổng lồ, với những ngọn núi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">giả </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">và hồ nước nhân tạo, những cây cầu đá và những ngôi đền hoành tráng, thu hút hàng nghìn du khách: nhiều hơn những gì người ta từng được phép nhìn thấy nó vào thời Từ Hi. Trong 5 năm sau 1889, hàng triệu lượng bạc trong khoản thu của chính phủ đáng lẽ phải được chi cho các con tàu đã bị chuyển sang chuẩn bị cho sinh nhật lần thứ 60 của thái hậu, vào năm 1894. Ẩn mình xa về phía Tây của địa điểm này là Học viện Hải quân cũ. Ngày nay, các bảng hiệu du lịch trước những tòa nhà thấp màu xám kể lại câu chuyện: 'Được xây dựng vào năm 1886, đây là một trường học đặc biệt để đào tạo sĩ quan hải quân cho lực lượng vũ trang nhà Thanh. Nó cũng được dùng như một bình phong cho thái hậu Từ Hi chuyển ngân quỹ hải quân để xây dựng lại Cung Mùa hè. ... Các sinh viên đã thực hiện nhiều cuộc diễn tập hải quân cho </span><span id="docs-internal-guid-4745705d-7fff-9b07-c1d7-6cef0955a6ba" style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">thái hậu Từ Hi</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> trên hồ và đảm nhận nhiệm vụ kéo Du Thuyền Hoàng gia của bà bằng một chiếc thuyền hơi nước để đi vòng quanh hồ. Con thuyền hơi nước vẫn còn được lưu giữ ở đó, cũng như một sảnh đường bằng đá cẩm thạch có hình dạng một chiếc thuyền. Như nhà sử học hải quân Sarah Paine lưu ý, sảnh đường có dạng thuyền 'là sự đóng góp duy nhất của thái hậu Từ Hi cho hạm đội TQ từ năm 1889 đến năm 1894.'68 Con thuyền bằng đá cẩm thạch tồn tại lâu hơn nhiều so với </span><span id="docs-internal-guid-3fad1647-7fff-e0b8-e8c5-e4837825b44e"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">những thứ khác</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;"> của hải quân, chẳng bao lâu gặp kết cục tồi tệ dưới tay người Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nguyên nhân trước mắt của cuộc chiến tranh với Nhật Bản là địa vị của Triều Tiên. Những nỗ lực của Chương trong việc dùng man di phương Tây để trị man di Nhật Bản đã không ngăn được phe chủ chiến ở Tokyo cố giành quyền kiểm soát bán đảo này. Trong suốt thập kỉ 1880, hai cường quốc đối địch này đã âm mưu với những người ủng hộ họ bên trong giới thượng lưu Triều Tiên để kích động đảo chính và phản đảo chính. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1894, vua Triều Tiên Gojong, yêu cầu quân đội TQ giúp trấn áp một cuộc nổi loạn khác. Điều này cho người Nhật cái cớ mà họ đang tìm kiếm. Vào giữa tháng 6, 6 000 quân Nhật đã tiến vào Seoul. Các chính trị gia Nhật Bản nói về nhiệm vụ của đất nước họ là dẫn dắt vương quốc nhỏ bé kia đi theo con đường văn minh và thoát khỏi địa vị triều cống truyền thống. Ngày 23 tháng 7, quân Nhật ập vào cung vua ở Seoul, bắt vua Gojong làm con tin và yêu cầu triều đình <span id="docs-internal-guid-981fc307-7fff-c3a0-60c9-cf999c63cb08"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">tiến hành </span></span>một loạt cải cách. Chính phủ mới sau đó đã từ bỏ địa vị là nước triều cống của nhà Thanh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở Bắc Kinh, phe bảo thủ đòi phải có hành động. Họ tin chắc rằng đại quốc hùng mạnh của họ có thể đè bẹp đế chế mới nổi phía bên kia biển. Thư lại thuộc đảng Thanh Lưu đã nuôi dưỡng sự ủng hộ của hoàng đế Quang Tự, lúc này đã 23 tuổi, và trở thành một bên tham chiến. Mặt khác, Chương biết rằng lực lượng của mình không thể sánh được với quân Nhật đã hiện đại hóa và tìm cách tránh xung đột. <span id="docs-internal-guid-414b0ad3-7fff-9a61-fd6f-c915f72c4546"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thay vào đó</span></span>, ông đã cố gắng để lôi kéo bọn man di phương Tây can thiệp một lần nữa. Họ không quan tâm. <span id="docs-internal-guid-ff9a201c-7fff-cc51-536a-7ff9687f4a55"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Thật ra,</span></span> họ cảm thấy rất đồng tình với sứ mệnh hiện đại hóa của Nhật Bản. Sau nhiều thập kỉ thất bại trong việc thuyết phục nhà Thanh cải cách, người phương Tây cảm thấy rằng một thất bại nhức nhối sẽ làm họ cho sáng mắt ra. <span id="docs-internal-guid-f0e1034e-7fff-f22b-8836-4d269c48f921"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Không lâu lắm thì điều đó đã đến</span></span>. Ngày 25 tháng 7, quân Nhật đánh chìm một tàu binh TQ và làm hư hại hai chiếc khác. Một tuần sau, Nhật Bản chính thức tuyên chiến và nhà Thanh đáp trả theo cùng cách. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong tuyên bố của mình, hoàng đế Quang Tự đã chủ định dùng từ xúc phạm xưa nay </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">wo-ren </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(矮人: nuỵ nhân) - bọn lùn - 6 lần để chỉ người Nhật.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến tranh hóa ra là một cuộc dạo chơi cho bọn người lùn. Hết trận này đến trận khác, trên biển và trên bộ, quân Thanh không thể địch nổi quân Nhật. Đến cuối tháng 10, quân Nhật đã kiểm soát bán đảo Triều Tiên. Tháng 11, họ chiếm được căn cứ hải quân tại Port Arthur ở phía đông của vịnh Bột Hải và tháng 2 năm 1895, chiếm căn cứ hải quân chính khác tại Weihaiwei (威海衛: Uy Hải Vệ), ở phía tây. Đường đi tới Bắc Kinh đã rộng mở. Phản ứng đầu tiên của triều đình là chối bỏ tất cả những gì đang xảy ra. Thứ hai là đổ lỗi những thất bại cho Chương và nỗ lực hiện đại hóa của ông. Chức tước của ông đã bị tước bỏ và nếu thái hậu Từ Hi không nhận ra rằng bà cần lực lượng của Chương để bảo vệ kinh đô, thì ông đã bị xử tử. Thay vì vậy, ông được giao nhiệm vụ đàm phán về việc đầu hàng nhục nhã, làm <span id="docs-internal-guid-dd05f3dd-7fff-551a-f0b6-56310d3c4ab5"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">ông </span></span>ô danh mãi mãi.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 19 tháng 3 năm 1895 Chương cùng với một đoàn tùy tùng hơn 100 người đã đến cảng Shimonoseki của Nhật Bản. Giữa đám đông có một cố vấn được thuê đắt giá, một người Mĩ khác, cựu ngoại trưởng Hoa Kì, John W. Foster. Sau khi rời chức vụ, Foster đã hoạt động như một cố vấn cho phái bộ ngoại giao TQ ở Washington và lại được kí hợp đồng để hướng dẫn Chương vượt qua những điều phức tạp của luật pháp quốc tế ở Shimonoseki. Ban đầu Chương <span id="docs-internal-guid-448a20a7-7fff-eccf-e3d9-5311f810ac4b"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đề nghị với người Nhật rằng</span></span><span id="docs-internal-guid-bad39ab4-7fff-097f-7a6e-5e331bc60c40"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;"> </span></span>hai bên cứ bỏ qua luật pháp quốc tế và cùng nhau làm việc với tư cách người cùng 'chủng tộc da vàng’ để chống lại người phương Tây. Người Nhật <span id="docs-internal-guid-14c5309b-7fff-c5bd-4086-485efcf3fc3e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">không chấp nhận</span></span>. Họ định triển khai ý tưởng của Wheaton và các công trình của ông để phá bỏ trật tự triều cống cũ.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Foster có thể đã được Chương thuê, nhưng ông thuộc một thế giới trí thức, trong đó 'trật tự tự nhiên’ của quan hệ quốc tế không có chỗ cho các hệ thống triều cống. Ông sẽ đóng chiếc đinh cuối cùng vào cổ quan tài trật tự khu vực cũ. Ngày 5 tháng 4, ông thay mặt Chương soạn thảo một bản trả lời bốn điểm cho dự thảo hiệp ước hòa bình của Nhật Bản. Điểm đầu tiên là đồng ý <span id="docs-internal-guid-8e8cc0d0-7fff-030d-508c-6ec7311ed656"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Triều Tiên được độc lập hoàn toàn và trọn vẹn,</span></span> chấm dứt quan hệ triều cống chính thức cuối cùng của nhà Thanh. Điều tệ hơn đã </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">nối </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; white-space: pre-wrap;">tiếp theo sau. Quân Nhật đã xâm lược Đài Loan vào ngày 25 tháng 3 và việc nhượng lại đảo này đã được thêm vào danh sách đòi hỏi của Nhật Bản. Điều này còn nhục nhã hơn cả việc mất Triều Tiên, vì Đài Loan là một tỉnh, không phải là một nước chư hầu triều cống. Nhưng, đối mặt với sức mạnh quân sự áp đảo, Chương và Foster không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đồng ý.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngày 17 tháng 4 năm 1895, gần đúng 100 năm sau khi Andreas Everardus van Braam Houckgeest triều cống cho hoàng đế Càn Long, thế giới nhà Thanh đã bị đảo lộn. Trong một khách sạn nhỏ ở Shimonoseki, chính khách hàng đầu của đại quốc, Lí Hồng Chương, tổng đốc Trực Lệ, thượng thư Thương mại biển Bắc, đại thư kí của điện Văn Hoa (文華殿) và là thầy dạy của thái tử, đã buộc phải chính thức công nhận rằng hoàng đế của ông không phải là người cai trị 'mọi thứ dưới vòm trời' mà chỉ đơn giản là người đứng đầu một nước, khá yếu ớt, được bao quanh bởi nhiều nước khác. Chương và con trai nuôi của mình, với tư cách là đại diện của thiên triều, đã kí hiệp ước Shimonoseki (Mã Quan) công nhận nền độc lập của Triều Tiên, nhượng đảo Đài Loan và trả 7 500 tấn bạc cho Nhật Bản. Đó là một sự sỉ nhục hoàn toàn - tồi tệ đến mức Chương không thể đối mặt với triều đình để giải thích. Thay vào đó, ông đã cử Foster đến Bắc Kinh.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đây là lần đầu tiên Đại Hội đồng triều đình nhà Thanh gặp một phái viên nước ngoài. Foster không ấn tượng với cuộc gặp gỡ. Đối với ông, điều đó chứng tỏ lí do tại sao nước Đại Thanh lại rơi vào tình trạng hỗn độn mà nó có, đặc biệt là khi ông phát hiện ra rằng thầy dạy của hoàng đế, Weng Tonghe (翁同龢: Ông Đồng Hòa), không biết gì về lịch sử các cuộc chiến tranh châu Âu và cách chúng đã dẫn đến việc hình thành luật quốc tế phương Tây. Tuy nhiên, cuối cùng, Đại Hội đồng đã đồng ý đối mặt với thực tế: hiệp ước là phương sách thay thế duy nhất cho việc tiếp tục bị sỉ nhục quân sự. Triều đình đã cố gắng giữ bí mật các chi tiết của Hiệp ước Shimonoseki. Tuy nhiên, nhiều chi tiết đã bị lộ ra ngoài và 2 500 thư lại đã kí kiến nghị phản đối. Hai trong số những nhà tổ chức của phe phản đối là những nhà cải cách thẳng thắn Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đảng Thanh Lưu</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> quyết tâm ghim lỗi cho Chương. Họ thúc ép triều đình khẳng định rằng người kí lệnh bàn giao Đài Loan cho Nhật Bản là cháu vừa là con nuôi của Chương tên Li Jingfang (李經方: Lí Kinh Phương). Chương lo ngại rằng người thân của mình có thể bị giết bởi các thư lại Đài Loan đang giận dữ vì các điều khoản của hiệp ước, nên ông một mực yêu cầu Foster cùng đi với Lí Kinh Phương đến buổi lễ. Ngày 30 tháng 5 năm 1895, hai người đã gặp người Nhật ở ngoài khơi Đài Loan. Họ thậm chí không lên bờ mà kí chỉ dụ trên tàu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Yokohama Maru </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của Nhật</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">neo đậu ngoài khơi cảng Keelung (基隆: Cơ Long).70</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trật tự thế giới nhà Thanh đã kết thúc. Sau những thất bại đó, các sứ thần phương Tây lợi dụng nhu cầu cần <span id="docs-internal-guid-2101312d-7fff-c37f-f64e-4dec497ec03e"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">được </span></span>hậu thuẫn chính trị của nhà Thanh để giành lấy nhiều nhượng bộ của triều đình. Họ không còn bị tiếp đãi như là bọn man di hạng hai ở các tòa nhà ngoại vi nữa. Từ năm 1894, họ sẽ được tiếp đón ngang hàng trong điện Văn Hoa (文華殿: Văn Hoa điện) ở trung tâm Tử Cấm Thành. Phải mất một thế kỉ - từ tháng 2 năm 1795, khi một hoàng đế nhà Thanh có thể tin rằng một vương quốc Hà Lan đã đến dâng cống cho </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">của mình</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">cho đến tháng 4 năm 1895, khi Lí Hồng Chương, theo lời khuyên của các cố vấn Mĩ, cuối cùng đã thừa nhận rằng TQ bây giờ đã được bao quanh bởi các quốc gia độc lập có chủ quyền. Sự công nhận chính thức về điều này xảy ra vào năm 1901, sau khi loạn Quyền phỉ bị đè bẹp, khi </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tổng lí Nha môn </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chính thức được đổi tên thành Bộ Ngoại giao (</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Waiwubu/ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">外交部) và có địa vị giống như 6 bộ truyền thống của triều đình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương là người bị buộc phải nắm lấy trách nhiệm nhưng vai trò của ông đã che phủ một thế kỉ thất bại. Nhà nước Đại Thanh đã mục ruỗng từ bên trong. Trước thất bại đó, Chương không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ các quy tắc mới của trật tự quốc tế. Ông trở thành người trung gian giữa sức mạnh của vũ khí phương Tây và các chuẩn mực của thế giới nhà Thanh. Ông đã không làm như vậy một mình. Ở mỗi giai đoạn trong quá trình đó, ông đều được tư vấn bởi những người bên ngoài - chủ yếu là người Mĩ: Pethick, Grant, Shufeldt, Young và Foster. Những người này không có cách nghĩ nào về thế giới khác hơn theo hướng 'chủ quyền', một thế giới trong đó các quốc gia độc lập có ranh giới chính thức đối xử với nhau trên cơ sở luật pháp.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chương có thể thấy rằng đây chỉ là một nửa của bức tranh. Ông cũng có những lập luận pháp lí nhưng đối mặt với hỏa lực vượt trội, dù của châu Âu hay của Nhật, luật pháp chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Trong trật tự thế giới mới, chỉ có kẻ mạnh mới chiến thắng: luật pháp mà không có sức mạnh chẳng có ý nghĩa gì; mạnh thắng đúng. Chương hiểu điều này nhưng các đối thủ của ông trong triều đình, các thư lại bảo thủ, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">đảng Thanh Lưu </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và những người khác vốn coi mình như là kẻ ủng hộ truyền thống thì không khi nào thấy thuyết phục. Đối với họ, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> và sự ưu việt về mặt đạo đức mà nó vừa đòi hỏi vừa tạo ra là trật tự tự nhiên.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Từ đó, điều này là nguồn gốc của 'thuyết chính thống về chủ quyền' của TQ đương thời: một sự lai tạp giữa chủ nghĩa sô vanh Nho giáo và chủ nghĩa pháp lí Mĩ. Nó kết hợp những ý tưởng tiền hiện đại về tính ưu việt văn hóa của </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> với những ý tưởng của phương Tây về biên giới cố định và nền độc lập. Nằm tại trung tâm của nó là một sự khác biệt mang tính triết học: từ tiếng Trung cho chủ quyền, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">zhuquan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(主權), mang nghĩa đen là 'quyền lực của người cai trị' - nó chú trọng <span id="docs-internal-guid-0fda67f3-7fff-0207-573f-8749280a9988"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">phía </span></span>trong nước chứ không phải quốc tế. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chủ quyền </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">bảo đảm sự tiếp tục một nền văn hóa vượt trội về mặt đạo đức trong việc bảo vệ các ranh giới bất khả xâm phạm. Trên thực tế, đó là </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">có kiểm soát qua hộ chiếu - </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong một quốc gia. Đây không phải là một ý tưởng có thể dung thứ cho sự can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia mà là một bảo đảm cho điều ngược lại: loại các quốc gia khác và 'các chuẩn mực quốc tế' của <span id="docs-internal-guid-e4bfc8b6-7fff-fd4f-6549-3e28e1c6ca41"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các quốc gia đó</span></span> ra, dù là về nhân quyền hay biến đổi khí hậu.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những kí ức về các nghi lễ triều cống vẫn là cơ sở cho những ý tưởng về tính chính đáng chính trị ở TQ cộng sản. Giới lãnh đạo Bắc Kinh thường xuyên áp dụng việc thực hiện các nghi thức về sự nể trọng quốc tế như một yếu tố quan trọng trong chuyển tải thông điệp chính trị trong nước của họ. Số lượng, quy mô và vị thế của các phái đoàn tham dự 'Diễn đàn Vành đai và Con đường', hoặc hội nghị thượng đỉnh G20, được công bố rộng rãi và giúp vào việc trao 'thiên mệnh’ hiện đại cho Đảng Cộng sản. Ngược lại, những bình luận chỉ trích về hoạt động của đảng bị chặn khỏi mắt người dân. Ý tưởng về các phái đoàn quốc tế đi qua vùng đất của tổ tiên, 'đo lường, báo cáo và xác minh' lượng khí thải carbon của họ và sau đó nói với thế giới rằng Bắc Kinh không sống theo một tiêu chuẩn quốc tế đã được thống nhất vẫn còn là điều không được hoan nghênh. Do đó, việc khẳng định chủ quyền trên hết mọi thứ là một phương cách để tránh bị thiếu tôn trọng và đánh mất tính hợp pháp trong nước.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wang Huning (王滬寧: Vương Hỗ Ninh) là bộ não đằng sau Tập Cận Bình, ông cũng từng là nhà lí thuyết đằng sau những người tiền nhiệm của TCB là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Ông hiện đang ngồi ở đỉnh cao trong đời sống chính trị ở TQ: trong ban Thường vụ Bộ Chính trị. Là một giáo sư luật tại Đại học Fudan (復旦: Phục Đán), cuốn sách đầu tiên của ông có tựa đề </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Guojia Zhuquan </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(国家主权)- ‘Chủ quyền quốc gia’.71 Trong đó, ông lập luận rằng từ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trong tiếng Trung có trước khái niệm chủ quyền của phương </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tây.72 </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chúng ta đã <span id="docs-internal-guid-db764fa1-7fff-28e3-ff5f-9543050b8591"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">đánh vòng</span></span> trở lại vị trí ban đầu. Những người tiền nhiệm của Ninh đã chiến đấu vô vọng để ngăn chặn khái niệm chủ quyền bắt rễ ở Bắc Kinh. Bây giờ Ninh khẳng định TQ đã sáng chế ra nó và muốn sở hữu cũng như kiểm soát ý nghĩa của nó. Ông đã chọn cách bỏ qua vai trò của Wheaton và Martin, những người đã bỏ công để đưa </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">trung quốc </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">vào thế giới hiện đại qua việc tái tạo ý nghĩa của từ 主權</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">chủ quyền</span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">). '<span id="docs-internal-guid-afe2278c-7fff-d5a0-cc1f-c1549746654d"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">Việc lờ đi</span></span> có tính chiến lược' này về vai trò trung gian của người nước ngoài cho phép Ninh thực hiện dự án triết học rộng lớn hơn: lấp đầy các khái niệm phương Tây với ý nghĩa TQ để củng cố các kế hoạch của Bắc Kinh về một thế giới dựa trên ý niệm về một ‘cộng đồng có chung vận mệnh'. Nó ăn khớp khít khao với phiên bản </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">thiên hạ </span><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hiện đại, trong đó Bắc Kinh một lần nữa lại nằm ở vị trí cao nhất của hệ thống thứ bậc khu vực, hoặc thậm chí toàn cầu. Đó là một hệ thống thứ bậc mở cho tất cả các nước, miễn là <span id="docs-internal-guid-5ae01d5f-7fff-9037-00a4-b046920929ab"><span style="font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline;">các nước đó </span></span>biết vị trí của mình.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.2; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 12pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">___________</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1. John Vidal and Jonathan Watts, ‘Agreement Finally Reached: Copenhagen 9.30 a.m., Saturday 19 December 2009', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Observer</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 20 December 2009. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">2. John M. Broder and Elisabeth Rosenthal, ‘Obama Has Goal to Wrest a Deal in Climate Talks', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">New York Times</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 17 December 2009. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">3. Mark Lynas, 'How do I know China wrecked the Copenhagen deal? I was in the room', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Guardian</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 22 December 2009. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">4. Robert Falkner, 'The Paris Agreement and the New Logic of International Climate Politics, International Affairs’, 92/5, pp. 1107–25 (2016). </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">5. François Godement, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Expanded Ambitions, Shrinking Achievements: How China Sees the Global Order</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London: European Council on Foreign Relations, 2017, p. 10. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">6. Opening ceremony of the 19th CPC National Congress, </span><a href="http://live.china.org.cn/2017/10/17/opening-ceremony-of-the-19th-cpc-nationalcongress/" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://live.china.org.cn/2017/10/17/opening-ceremony-of-the-19th-cpc-nationalcongress/</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">7. Jonathan Spence, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Search for Modern China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> New York: W. W. Norton & Co., 2001, p. 122. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">8. George R. Loehr, ‘A. E. van Braam Houckgeest: The First American at the Court of China', Princeton University Library Chronicle, 15/4 (Summer 1954), pp. 179-93. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">9. André Everard Van Braam Houckgeest, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">An Authentic Account of the Embassy of the Dutch East-India Company, to the Court of the Emperor of China, in the Years 1794 and 1795</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> (Vol. 1), Cambridge: Cambridge University, ‘Tributary Trade and China's Relations with the West’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Far Eastern Quarterly</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1/2 (February 1942), p. 135. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">11. Zhiguang Yin, 'Heavenly Principles? The Translation of International Law in 19th century China and the Constitution of Universality', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">European Journal of International Law</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 27/4 (1 November 2016), pp. 1005–23. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">12. Alejandra Irigoin, ‘A Trojan Horse in Daoguang China? Explaining the Flows of Silver In and Out of China', LSE Working Paper No. 173/13, London School of Economics, 2013. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">13. Jonathan Spence, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chinese Roundabout: Essays in History and Culture</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, New York: W. W. Norton, 1992, pp. 233-5. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">14. Takeshi Hamashita, ‘Tribute and Treaties: East Asian Treaty Ports Networks in the Era of Negotiation, 1834-1894', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">European Journal of East Asian Studies</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1/1 (2001), p. 61. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">15. James M. Polachek, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Inner Opium War</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1992, p. 2. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">16. Alicia E. Neve Little, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Li Hung-Chang: His Life and Times</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> [1903], Cambridge: Cambridge University Press, 2010, p. 1. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">17. Pär Kristoffer Cassel, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Grounds of Judgment: Extraterritoriality and Imperial Power in Nineteenth-Century China and Japan,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Oxford; New York: Oxford University Press, 2012. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">18. Tobie Meyer-Fong, ‘Urban Space and Civil War: Hefei, 1853–1854',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Frontiers of History in China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 8/4 (2013), pp. 469-92. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">19. Dong Wang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China's Unequal Treaties: Narrating National History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Lanham, MD: Lexington Books, 2005, p. 17. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">20. S.C.M. Paine, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Sino-Japanese War of 1894–1895: Perceptions, Power, and Primacy</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge: Cambridge University Press, 2005, pp. 70–71. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">21. Ssu-yü Teng and John King Fairbank, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China's Response to the West: A Documentary Survey</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 1839-1923, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1979, p. 47. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">22. Richard J. Smith, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Robert Hart and China's Early Modernization: His Journals, 1863-1866</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 1991, p. 99. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">23. Pamela Kyle Crossley, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Orphan Warriors: Three Manchu Generations and the End of the Qing World,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Princeton, NJ: Princeton University Press, 1990, p. 143. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">24. Smith, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Robert Hart and China's Early Modernization</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 100. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">25. Kwang-ching Liu, ‘The Confucian as Patriot and Pragmatist: Li Hung-chang's Formative Years, 1823-1866', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Harvard Journal of Asiatic Studies</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, vol. 30 (1970), pp. 5-45. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">26. Teng and Fairbank, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China's Response to the West</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 53 </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">27. Liu, “The Confucian as Patriot and Pragmatist', p. 18. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">28. Ibid., p. 30. 29. William Charles Wooldridge, ‘Building and State Building in Nanjing after the Taiping Rebellion', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Late Imperial China</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 30/2 (2009), pp. 84-126. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">30. Melissa Mouat, "The Establishment of the Tongwen Guan and the Fragile SinoBritish Peace of the 1860s', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of World History,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 26/4 (2015), p. 741. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">31. Ibid. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">32. Smith, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Robert Hart and China's Early Modernization</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 283. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">33. Yin, 'Heavenly Principles?', p. 1013. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">34. Lydia Liu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Clash of Empires: The Invention of China in Modern World Making</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004, p. 116. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">35. Ibid., p. 128. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">36. William A. Callahan, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Contingent States: Greater China and Transnational Relations,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Minneapolis; London: University of Minnesota Press, 2004, pp. 76-7. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">37. Liu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Clash of Empires</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 123.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 38. Teng and Fairbank, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China's Response to the Wes</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">t, p. 98. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">39. Rune Svarverud,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> International Law as World Order in Late Imperial China: Translation, Reception and Discourse 1847– 1911</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Leiden: Brill, 2007, p. 91. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">40. </span><a href="http://www.dartmouth.edu/~qing/WEB/WO-JEN.html" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.dartmouth.edu/~qing/WEB/WO-JEN.html</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">41. David Pong, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Shen Pao-chen and China's Modernization in the Nineteenth Century</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge: Cambridge University Press, 2009, p. 146. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">42. Knight Biggerstaff, “The Secret Correspondence of 1867–1868: Views of Leading Chinese Statesmen Regarding the Further Opening of China to Western Influence', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Modern History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 22/2 (June 1950), pp. 122–36. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">43. J. L. Cranmer-Byng, 'The Chinese Perception of World Order', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">International Journal</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 24/1 (Winter 1968-9), pp. 166–71. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">44. Chris Feige and Jeffrey A. Miron, “The Opium Wars, Opium Legalization and Opium Consumption in China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Applied Economics Letters</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 15/12 (2008), pp. 91113. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">45.Jennifer Rudolph,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Negotiated Power in Late Imperial China: The Zongli Yamen and the Politics of Reform,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Ithaca, NY: Cornell University East Asia Program, 2008, p. 222. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">46. ‘American Who Advised Li-Hung-Chang is Dead', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">New York Times</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 21 December 1901.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 47. ‘Li Hung-Chang's American Secretary For 25 Years: A Power Behind The Throne In China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">St Louis Post-Dispatch</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 5 August 1900. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">48. Michael H. Hunt, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Making of a Special Relationship: The United States and China to 1914</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, New York: Columbia University Press, 1983, p. 118; Chad Michael Berry, 'Looking for a Friend: Sino-U.S. Relations and Ulysses S. Grant's Mediation in the Ryukyu/Liuqiu ITIF Dispute of 1879', thesis, University of Ohio, 2014, </span><a href="https://etd.ohiolink.edu/!etd.send_file?accession=osu397610312&disposition=inline" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://etd.ohiolink.edu/!etd.send_file?accession=osu397610312&disposition=inline</span></a></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">49. Richard J. Smith, ‘Li Hung-chang's Use of Foreign Military Talent: The Formative Period, 1862-1874’, in Chu, Samuel C. and Kwang-ching Liu (eds),</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Li Hung-chang and China's Early Modernization</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London: M.E. Sharpe, 1994, p. 137. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">50. J. K. Fairbank and Merle Goldman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">China: A New History</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2006, p. 196. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">51. J. L. Cranmer-Byng, “The Chinese View of Their Place in the World: An Historical Perspective',</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> China Quarterly,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 53 (January, March 1973), pp. 67–79. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">52. Jennifer Wayne Cushman, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Fields From the Sea: Chinese Junk Trade with Siam During the Late Eighteenth and Early Nineteenth centuries</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Ithaca, NY: Cornell University Press, 1993, pp. 137–41. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">53. Takeshi Hamashita 'The Tribute Trade System and Modern Asia', chapter 6 in Kenneth Pomeranz (ed.), </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Pacific in the Age of Early Industrialization</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Farnham: Ashgate, 2009. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">54. Hyman Kublin, "The Attitude of China during the Liu-ch’iu Controversy, 1871– 1881', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Pacific Historical Review,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 18/2 (May</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1949), pp. 213-31. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">55. Liu, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Clash of Empires</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 106; Svarverud, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">International Law as World Order</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 93. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">56. Li Hongzhang, Fu He Zi’e' 覆何子峨 ('Reply to He Zi'e [He Ru Zhang]'), 30 May 1878, in Li Wenzhong gong quanzi: Yeshu han’gao 李文忠公全集:譯署函稿 (Complete Works of Li Wenzhong [Li Hongzhang]: Translation Office Letters), vol. 5, Taipei: Wenhai chubanshe (1962), 8/4, p. 191. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">57. The Sino-Japanese Friendship, Commerce and Navigation Treaty, 13 September 1871 </span><a href="http://www.fas.nus.edu.sg/hist/eia/documents_archive/tientsin-treaty.php" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">http://www.fas.nus.edu.sg/hist/eia/documents_archive/tientsin-treaty.php</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">58. Letter from Ulysses S. Grant to Adolph E. Borie, 6 June 1879, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Papers of Ulysses S. Grant: October 1, 1878-September 30, 1880</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p.146, </span><a href="https://books.google.co.uk/books?id=3zBLjHeAGBOC&l" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">https://books.google.co.uk/books?id=3zBLjHeAGBOC&l</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">59. Hunt, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Making of a Special Relationship</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 121.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">60. Charles Oscar Paullin, ‘The Opening of Korea by Commodore Shufeldt’, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Political Science Quarterly</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, 25/3 (September 1910), pp. 470-99. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">61. T</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">he Directory and Chronicle for China, Japan, Corea, Indo-China, Straits Settlements, Malay States, Sian, Netherlands India, Borneo, the Philippines, &c, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hongkong Daily Press Office, 1882, p. 319; U.S. Government Printing Office, 1876 House Documents, Volume 15; Volume 284, p. 263. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">62. Oscar Chapuis, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Last Emperors of Vietnam: From Tu Duc to Bao Dai</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Westport, CT: Greenwood Press, 2000, p. 61. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">63. Bradley Camp Davis, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Imperial Bandits: Outlaws and Rebels in the China-Vietnam Borderlands</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Seattle: University of Washington Press, 2016. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">64. 'Peking Dispatch no. 230 (confidential)', 8 August 1883, quoted in Robert Hopkins Miller, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The United States and Vietnam 1787–1941</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Forest Grove, OR: University Press of the Pacific, 2005, pp. 95-6. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">65. K. W. Taylor, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">A History of the Vietnamese,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Cambridge: Cambridge University Press, 2013, p. 475. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">66. </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">The Directory and Chronicle for China, Japan, Corea, Indo-China, Straits Settlements, Malay States, Sian, Netherlands India, Borneo, the Philippines &c</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, Hongkong Daily Press Office, 1888. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">67.J.J.G. Syatauw, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Some Newly Established Asian States and the Development of International Law</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, The Hague: Martinus Nijhoff, 1961, p. 123; Frank Trager, 'Burma and China', Journal of Southeast Asian History, 5/1 (1964), p. 39. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">68. Paine, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sino-Japanese War of 18941895</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, p. 191. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">69. Ibid., p. 121.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">70. Niki Alsford, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Transitions to Modernity in Taiwan: The Spirit of 1895 and the Cession of Formosa to Japan</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, London: Routledge, 2017. </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">71. Yi Wang, </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Wang Huning: Xi Jinping's Reluctant Propagandist</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">, </span><a href="http://www.limesonline.com" style="text-decoration-line: none;"><span style="color: black; font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">www.limesonline.com</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> , 4 April 2019, http://www.limesonline.com/en/wanghuning-xi-jinpings-reluctant-propagandist </span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">72. Haig Patapan and Yi Wang, ‘The Hidden Ruler: Wang Huning and the Making of Contemporary China', </span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-style: italic; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Journal of Contemporary China,</span><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> 27/109 (2018), pp. 54-5.</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">_____</span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xem bản song ngữ: <a href="https://docs.google.com/document/d/1WGHJ1JplTxYEE4KAf6wNmhHDkly9vH1XCWpMz3rX934/edit?usp=sharing" target="_blank">Chapter 2: The Invention of Sovereignty</a></span></p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-tq-loi-gioi-thieu.html" target="_blank">Lời mở đầu</a><span> <span> </span><span> </span><span> </span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-dan-toc-trung-hoa-zhonghua.html" target="_blank">Chương 5</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"><span>Chương 2 </span></a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/ch-2-sang-che-chu-quyen.html" target="_blank"> </a> </span> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-6.html" target="_blank">Chương 6</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/viec-sang-che-ra-trung-quoc-chuong-i.html" target="_blank">Chương 1</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2021/01/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-7.html" target="_blank">Chương 7</a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span> </span><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/12/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-3.html" target="_blank">Chương 3</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank">Chương 8</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/11/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-8.html" target="_blank"> </a> </p><p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-bottom: 5pt; margin-top: 0pt;"><span><span> </span></span><a href="https://songphan.blogspot.com/2021/02/sang-che-ra-trung-quoc-chuong-4.html" target="_blank">Chương 4</a> <a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank">Kêt luận.</a><a href="https://songphan.blogspot.com/2020/10/viec-sang-che-ra-trung-quoc-ket-luan.html" target="_blank"> </a> </p><div><span style="font-family: Arial; font-size: 10pt; font-variant-east-asian: normal; font-variant-numeric: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div></span>Huynh Phanhttp://www.blogger.com/profile/10885291192099929666noreply@blogger.com0