Monday, January 25, 2016

Thái độ của Đặng Tiểu Bình đối với Việt Nam

Vogel, Ezra F., 2013. Deng Xiaoping and the Transformation of China (Đặng Tiểu Bình và sự chuyển đổi của Trung Quốc), Harvard University Press

Chương 9. Mối đe dọa Xô-Việt 1978- 1979

pp 266-276



Giữa năm 1977, Đặng Tiểu Bình đảm trách về an ninh quốc gia và đối ngoại trở lại, ông phải đối mặt với hai mối quan tâm trọng yếu: bảo vệ Trung Quốc trước mối đe dọa từ Liên Xô và Việt Nam, và đặt nền móng để tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài cho việc hiện đại hóa của Trung Quốc. Để giảm bớt mối nguy hiểm từ quân đội Liên Xô, ông đã tìm cách củng cố quan hệ với các nước láng giềng và ngăn chặn những bước tiến của Liên Xô. Để giúp cho hiện đại hóa, ông đã quay sang Nhật Bản và Hoa Kỳ. Khi theo đuổi các mục tiêu này, trong 14 tháng bắt đầu từ tháng 1 năm 1978 Đặng Tiểu Bình đã thực hiện một chuyến đi lốc cuốn vòng tới nhiều nước hơn số nước ông đã từng tới trong suốt đời mình. Trong những chuyến đi này, ông đã cải thiện quan hệ với các nước láng giềng của Trung Hoa lục địa, mở cửa Trung Quốc rộng rãi hơn rất nhiều so với bất cứ lúc nào kể từ năm 1949, và đặt Trung Quốc vào một tiến trình không thể đảo ngược tham gia tích cực trong các vấn đề quốc tế và trong việc trao đổi ý tưởng trên toàn thế giới. Trong 5 chuyến đi nước ngoài, ông tới Miến Điện (đổi tên thành Myanmar sau năm 1989), Nepal, Bắc Triều Tiên, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Singapore, và Hoa Kỳ. Trong 14 tháng đó, Đặng Tiểu Bình cũng đã ký kết Hiệp ước Hòa bình và Hữu Nghị với Nhật Bản, đàm phán bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, và đưa Trung Quốc vào một cuộc chiến tranh với Việt Nam.


Đặng thừa hưởng trọng trách về chính sách đối ngoại

Khi Đặng Tiểu Bình trở lại làm công tác đảng mùa hè năm 1977, ông không tìm cách giành lấy việc phụ trách công tác đối ngoại. Có một lúc, ông thậm chí còn nói rằng ông không thích nhận lấy công việc đó vì nó đòi hỏi nhiều sức lực và tâm trí. Nhưng Trung Quốc cần Đặng nắm hoạt động đối ngoại. Không những ông đã từng có mặt bên cạnh Mao hoặc Chu Ân Lai khi gặp gỡ các nhà lãnh đạo nước ngoài trong gần ba thập kỷ mà bản thân ông còn từng phụ trách công tác đối ngoại từ giữa năm 1973 đến cuối năm 1975, dưới sự giám hộ của Mao và Chu. Các đồng liêu của ông thừa nhận rằng sau khi Chu Ân Lai mất, không có lãnh đạo nào khác có thể so sánh được với Đặng Tiểu Bình về kiến thức ngoại giao, tư duy chiến lược, quan hệ cá nhân với các lãnh đạo nước ngoài, và kỹ năng trong việc xây dựng sự tín nhiệm ở nước ngoài trong khi kiên quyết bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Các nhà ngoại giao như Hoàng Hoa, người thay thế Kiều Quán Hoa làm bộ trưởng ngoại giao tháng 12 năm 1976, có kiến thức sâu rộng về các nước khác và về các cuộc đàm phán đã qua. Nhưng các nhà ngoại giao của Trung Quốc thiếu sự tự tin để đưa ra các phán đoán chính trị quan trọng và có tầm cỡ để tiếp ứng các nhà lãnh đạo chóp bu nước ngoài như những kẻ ngang bằng.

Chính sách ngoại giao từ lâu đã là trọng tâm của các nhà lãnh đạo chóp bu Đảng Cộng sản. Mao và Chu nói riêng đã là các chiến lược gia đẳng cấp thế giới, tự tin trong đàm phán với các nhà lãnh đạo khác trên thế giới như những người ngang bằng. Mặc dù Trung Quốc vẫn tương đối khép kín trước năm 1978, Mao và Chu đã chú tâm đến ngoại giaorất nhiều, và cả hai đều đã tự mình đảm trách nhiệm việc chỉ đạo chính sách. Khi Mao gặp người nước ngoài, ông toát ra sự tự tin của bậc hoàng đế và nói về triết học, lịch sử và văn học, cũng như động lực nguyên sơ của sức mạnh thế giới. Khi Chu gặp với người nước ngoài tại TQ và ở nước ngoài, ông uyên bác, thanh lịch, duyên dáng, thích ứng, chu đáo với khách của mình, và sẵn sàng thảo luận chi tiết cũng như tổng thể.

Giống như Mao và Chu, Đặng có lòng trung thành quốc gia tự bản năng, một tầm nhìn chiến lược, một độ dẻo dai cơ bản trong việc theo đuổi các lợi ích quốc gia. Khi gặp người nước ngoài, Đặng Tiểu Bình, giống như Mao và Chu, không chỉ thực hiện hết chương trình nghị sự mà còn cố gắng xem xét tính cách và mục tiêu của khách. Tuy nhiên, Đặng có hệ thống hơn cũng như trực tiếp và thẳng thừng hơn Mao hoặc Zhou trong việc tập trung vào những vấn đề lớn cần quan tâm đối với Trung Quốc. Trước khi gặp khách nước ngoài, ông không thích nghe báo cáo tóm tắt mà tự mình đọc bản ghi nhớ của các trợ lý về vị khách, mục đích của chuyến đi, và những chủ đề nào nên đưa vào. Cũng như với Mao và Chu, các vị khách nước ngoài thường gặp một nhà ngoại giao Trung Quốc trước, và nhà ngoại giao đó có thể chuyển cho Đặng bản ghi nhớ về mối quan tâm của vị khách trước khi Đặng Tiểu Bình gặp họ.

Các nhà ngoại giao nước ngoài tại Bắc Kinh kính trọng Đặng rất nhiều và thấy ở ông ta là một người mà họ có thể làm việc được. Ông đã trở thành một người được khác nước ngoài ưa chuộng vì tính dí dỏm, mạnh bạo, thẳng thắn không thủ thế, và mong muốn giải quyết vấn đề. George HW Bush từng gặp ông ta thường xuyên năm 1975 khi ông đứng đầu Văn phòng liên lạc của Mỹ ở Bắc Kinh, có lần nói, "Ông ấy có một thái độ nồng nhiệt và nói chuyện với một sự thẳng thắn không tạo ra chút hồ nghi nào về ý ông muốn nói." Hoàng Hoa, người nhiều lần cùng ngồi chung với Mao, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình khi họ tiếp các nhà lãnh đạo nước ngoài, nói về Đặng, "Ông ấy rất giỏi nắm bắt vấn đề chính, thông hiểu và giảng giải ngắn gọn bản chất của một vấn đề một cách sâu sắc, và đưa ra các phán đoán và quyết định theo một cách kiên quyết và thẳng thắn."

Không giống như Mao vốn gắn chặt tầm nhìn về sự vĩ đại cho Trung Quốc vốn vượt quá sức vóc của nó, Đặng luôn thực tế trong việc thừa nhận những yếu kém và lạc hậu của Trung Quốc. Nhưng Đặng cũng đã có một sự tự tin cơ bản: ông biết rằng ông đại diện cho một đất nước rất lớn với một lịch sử cực kỳ lâu dài trong tư cách là một nền văn minh lớn, và ông đã thu hút sức mạnh không chỉ từ sự thành công của chính mình trong việc khắc phục những thách thức cá nhân, mà còn từ sự hiểu biết rộng lớn về các vấn đề trong nước và quốc tế. Không giống như một số nhà lãnh đạo Liên Xô, ông không cố gây ấn tượng với người nước ngoài ở các nước hiện đại hơn, ngay cả khi họ vượt trội hơn ông. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình lôi kéo lãnh đạo nước ngoài như các đối tác cùng tham gia trong việc giải quyết vấn đề và chẳng bao lâu tập trung chú ý vào các vấn đề hiện tại. Không có bất kỳ sự khó chịu tâm lý nào, ông có thể chống lại mạnh mẽ mà không trở nên thủ thế hay cáu kỉnh, trước bất kỳ áp lực nước ngoài nào mà ông đánh giá là không phù hợp với lợi ích của Trung Quốc.

Đặng không phải từng luôn luôn biểu hiện sự tự tin như vậy. Lần đầu khi đến New York vào năm 1974 để nói chuyện với Liên Hiệp Quốc, Đặng Tiểu Bình có vẻ thận trọng và nghi thức một cách không thoải mái, vì ông biết rằng thuộc cấp của ông sẽ báo cáo lại cho Mao những gì ông nói và làm. Đặng tiếp tục cẩn thận trong năm 1975, bởi vì đối với tất cả các vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng, ông vẫn cần phải được sự chấp thuận cuối cùng của Mao. Như chính Đặng Tiểu Bình cũng thừa nhận, kiến thức và kinh nghiệm của Chu Ân Lai vượt xa ông. Tuy nhiên, sau khi Mao và Chu mất, Đặng có thể đàm phán với các nhà lãnh đạo nước ngoài mà không còn chút lo ngại nào về quan điểm của người khác. Khi ông quay lại phụ trách ngoại giao vào giữa năm 1977 Đặng Tiểu Bình tiếp tục các chính sách ông đã thực hiện vào năm 1975. Tuy nhiên, các quan chức nước ngoài gặp Đặng Tiểu Bình sau tháng 7 năm 1977 thấy ông tự nhiên và tự tin hơn, sẵn sàng hơn trong bày tỏ ý kiến của mình trên một diện rộng các vấn đề chính sách đối ngoại.

Từ tháng 7 năm 1977 cho đến cuối năm 1979, trong các cuộc trò chuyện với các nhà lãnh đạo nước ngoài Đặng nói một cách kính trọng về "Chủ tịch Hoa [Quốc Phong]." Nhưng từ khi Đặng Tiểu Bình trở lại vào năm 1977, các khách nước ngoài không hề nghi ngờ rằng Đặng Tiểu Bình chính là người phụ trách chính sách đối ngoại. Ông không chỉ hoạt động như nhà đàm phán  mà còn là chiến lược gia vĩ đại của Trung Quốc. Và mặc dù ông có đọc các báo cáo từ các nhà ngoại giao, đối với các quyết định quan trọng, ông dựa vào sự phán xét dày dạn của chính mình nhiều hơn. Đặng có thể thoải mái, với một sự hiểu biết có gốc rể chắc chắn về các chủ đề đang nằm trong tay liên quan đến chiến lược tổng thể như thế nào và sự tự tin vào khả năng của mình trong việc thương thảo với các đối tác. Theo thời gian Đặng phát triển phong cách đặc trưng riêng trong tiến hành các cuộc gặp gỡ với người nước ngoài. Ông mở đầu với một vài nhận xét dí dỏm để chào mừng khách nước ngoài và sau đó chuyển sự tập trung vào các vấn đề chính mà ông muốn giải quyết, đưa ra các quan điểm trực tiếp, rõ ràng, và mạnh mẽ.


Liên Xô là kẻ thù chính

Trong phân tích chiến lược, điểm khởi đầu của Đặng Tiểu Bình giống như Mao: xác định kẻ thù chính, vun bồi đồng minh chống lại kẻ thù chính, trung lập hoá các đồng minh của kẻ thù, và lôi kéo họ ra khỏi kẻ thù. Đến năm 1969, rõ ràng là Liên Xô đã thay thế Hoa Kỳ như là kẻ thù chính của Trung Quốc. Tháng 7 năm đó ở Guam, tổng thống Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ không dính dáng vào một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á. Ngoài ra, sau xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô vào tháng 3 và tháng 8, quan hệ Trung-Xô vẫn rất căng thẳng.

Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam vào năm 1975, Liên Xô và Việt Nam đã tận dụng cơ hội để lấp khoảng trống do việc Mỹ rút quân tạo ra, và theo quan điểm của Đặng Tiểu Bình, ngày càng đe dọa lợi ích của Trung Quốc. Đặng kết luận rằng Liên Xô nhất định sẽ thay thế Hoa Kỳ như là cường quốc thống trị toàn cầu, và rằng Việt Nam đang nhắm tới việc trở thành thế lực thống trị ở Đông Nam Á. Do đó, Trung Quốc sẽ lập ra một "tuyến duy nhất" (yi tiaoxian/一条线: nhất điều tuyến), đoàn kết với các nước khác ở cùng vĩ độ- Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Bắc Âu- chống lại Liên Xô. Trong khi đó, Trung Quốc cũng sẽ nỗ lực để kéo các nước khác như Ấn Độ ra khỏi phía Liên Xô.

Khi Đặng Tiểu Bình trở lại làm việc vào năm 1977, theo ông Liên Xô và Việt Nam có vẻ ngày càng đe dọa khi họ hợp tác mở rộng thế lực ở Đông Nam Á. Việt Nam đã cho phép Liên Xô sử dụng các cảng mà Hoa Kỳ đã hiện đại hóa và bỏ lại tại thành phố Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh. Sự hợp tác này sẽ tạo cho Liên Xô sự tự do di chuyển tàu của mình vào toàn bộ khu vực, từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Các căn cứ tên lửa ở Việt Nam cũng đã được xây dựng và bố trí tên lửa của Liên Xô nhắm vào Trung Quốc, với nhân viên và các thiết bị điện tử Liên Xô trên các căn cứ sẽ cung cấp trợ giúp kỹ thuật. Và Liên Xô giữ một số lượng lớn quân dọc theo biên giới phía bắc của Trung Quốc, một tình huống có vẻ đe doạ hơn vì, về phía tây, Ấn Độ đã hợp tác với Liên Xô và Liên Xô đã chuẫn bị xâm chiếm Afghanistan. Trong khi đó Việt Nam đã nắm lấy Lào và đang chuẩn bị xâm lược đồng minh Campuchia của Trung Quốc. Đặng, giống như các người chơi cờ weiqi (围棋: vi kì , tiếng Nhật là go), nghĩ tới những diễn tiến này theo cách là các nước đang cố vươn ra các địa điểm khác nhau và giành chiến thắng bằng cách bao quanh đối phương. Theo Đặng, Trung Quốc có nguy cơ bị bao vây.

Trong số tất cả những diễn biến này, theo Đặng liên minh giữa Việt Nam và Liên Xô có vẻ là đe dọa nhiều nhất cho Trung Quốc, và Việt Nam có vẻ là vị trí mà các hành động táo bạo của Trung Quốc có thể có ảnh hưởng lớn nhất trong việc ngăn chặn sự bao vây của Liên Xô. Đặng nói rằng Việt Nam, sau khi đánh đuổi quân đội Mỹ, đã bắt đầu hành động như một con công vênh vang xoè đuôi để khoe khoang. Tháng 5 năm 1978, khi Brzezinski gặp Đặng để thảo luận về kế hoạch cho việc bình thường hoá, ông ta ngạc nhiên về sự mãnh liệt của Đặng Tiểu Bình trong việc tố cáo sự phản bội của Việt Nam. Các nhà ngoại giao khác, những người từng gặp Đặng Tiểu Bình vào năm 1978 cũng nhận thấy rằng mỗi khi chủ đề Việt Nam lộ ra thì ông trở nên nóng giận một cách tệ hại.


Quan hệ của Đặng với Việt Nam

Về phía Việt Nam, Đặng Tiểu Bình cảm thấy một sự phản bội vừa tầm cá nhân vừa tầm quốc gia bởi vì Trung Quốc đã hy sinh cho Việt Nam trong các cuộc tấn công của Mỹ, và vì ông từng có quan hệ cá nhân sâu đậm với Việt Nam trong 5 thập kỷ. Nửa thế kỷ trước, khi Đặng Tiểu Bình là một học sinh - công nhân tại Pháp, ông đã cùng hoạt động với các đồng minh Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Không có bằng chứng cho thấy Đặng Tiểu Bình đã gặp Hồ Chí Minh ở Pháp dù cả hai đều ở đó cùng thời gian, nhưng chắc chắn ông đã gặp Hồ ở Diên An trong những năm cuối thập niên 1930. Chu Ân Lai đã biết họ Hồ ở Pháp, và cũng là một đồng môn tại Học viện Quân sự Hoàng Phố vào giữa những năm 1920. Khi Đặng Tiểu Bình được phân công tới tỉnh Quảng Tây vào cuối những năm 1920, ông đã nhiều lần đi xuyên qua Việt Nam, và ông đã được những người cộng sản hoạt động ngầm của Việt Nam giúp đỡ. Trong những năm 1940 và đầu những năm 1950, Đặng Tiểu Bình và những người Cộng sản Việt Nam là các chiến sĩ cách mạng bạn bè chiến đấu vì thắng lợi của Cộng sản, nhưng sau năm 1954, họ lại là quan chức chính phủ đồng cấp cố sức bảo vệ lợi ích quốc gia của họ.

Các quan hệ của tướng Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing), một trong những thuộc hạ cũ của Đặng Tiểu Bình, cũng chạy rất sâu. TướngThanh đã phục vụ dưới thời Đặng tại Quảng Tây và trong chiến dịch Hoài Hải, và là một thành viên của tộc người Tráng (Zhuang) thuộc khu vực Quảng Tây, nơi Đặng đã thiết lập căn cứ cách mạng vào năm 1929. Đặng giải thích với Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu rằng vào năm 1954 khi Việt Nam đánh Pháp, thiếu kinh nghiệm trong chiến đấu quy mô lớn và tướng Vi Quốc Thanh của Trung Quốc đã đóng một vai trò then chốt trong việc chỉ đạo chiến đấu ở Điện Biên Phủ; Việt Nam muốn rút lui, nhưng Vi Quốc Thanh không đồng ý. Phòng không phía bắc của Việt Nam cũng được bố trí với các chiến sĩ Trung Quốc.

Đặng hiểu sự phức tạp trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam vì các lợi ích quốc gia đã thay đổi và được diễn dịch lại qua các kính mới. Ông biết rằng trong nhiều thế kỷ, người Việt Nam yêu nước đã từng coi Trung Quốc là kẻ thù chính của họ do sự xâm chiếm của Trung Quốc. Ông hiểu rằng Việt Nam đã cố tìm cách để tối đa hóa viện trợ từ cả Trung Quốc lẫn Liên Xô vào thời điểm hai nước này đẩu cố lôi kéo Việt Nam gần mình hơn. Ông cũng nhận ra rằng mặc dù Trung Quốc coi đóng góp của tướng Vi Quốc Thanh và quân tình nguyện của Trung Quốc là quan trọng trong chiến thắng Điện Biên Phủ, người Việt Nam vẫn còn cay đắng về việc Trung Quốc không ủng hộ các nỗ lực thống nhất đất nước của họ tại các cuộc thảo luận hiệp ước hoà bình tại Geneva 1954. Đặng biết rõ rằng Hồ Chí Minh, trong di chúc cuối cùng của ông viết vào năm 1965, đã tuyên bố rằng Việt Nam phải là một thế lực thống trị ở Đông Dương, một điều mà Trung Quốc không đồng ý. Và ông biết rằng Việt Nam đã nổi giận vì bắt đầu từ năm 1972,Trung Quốc đã bắt đầu hy sinh mối quan hệ với Việt Nam để có được mối quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ.

Nhưng Trung Quốc cũng đã rất hào phóng trong việc giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ. Khi tổng bí thư Việt Nam Lê Duẩn đến thăm Bắc Kinh từ 18 tháng 4 đến 23 tháng 4 năm 1965, tìm kiếm giúp đỡ trước các cuộc tấn công leo thang của không quân Mỹ ở miền Bắc Việt Nam, chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ nói với Lê Duẩn rằng Việt Nam cần cái gì thì Trung Quốc sẽ cố gắng cung ứng hết. Trong chuyến thăm đó, Đặng Tiểu Bình đón Lê Duẩn tại sân bay, cùng với Lưu Thiếu Kỳ tiếp ông ta, và sau đó tiễn ông ta tại sân bay. Sau đó, Trung Quốc thành lập một nhóm nhỏ thuộc Hội đồng Nhà nước để điều phối viện trợ của Trung Quốc cho Bắc Việt Nam với đại diện của 21 ngành của chính phủ, bao gồm quân đội, giao thông, xây dựng, và các dịch vụ hậu cần khác. Theo hồ sơ lưu của Trung Quốc, từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 8 năm 1973 Trung Quốc đã phái tổng cộng 320 000 "quân tình nguyện" đến Việt Nam để giúp về vũ khí phòng không, sửa chữa máy móc, làm đường bộ và đường sắt, truyền tin, sửa chữa sân bay, rà phá bom mìn, dịch vụ hậu cần, và các hoạt động khác. Lúc cao nhất, có đến 170 000 quân Trung Quốc tại Việt Nam cùng một lúc. Trung Quốc cho biết có khoảng 4 000 quân Trung Quốc bị thương vong trong chiến tranh, nhưng một số học giả Trung Quốc ước tính rằng con số này là hàng chục ngàn. Năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã cho thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu biết rằng khi người Mỹ ở Việt Nam, Trung Quốc đã chuyển hàng hóa trị giá hơn US$ 10 tỷ vào Việt Nam tại thời điểm đó, thậm chí nhiều hơn viện trợ mà Trung Quốc đã cấp cho Bắc Triều Tiên trongchiến tranh Triều Tiên. Khi Trung Quốc mở rộng sự trợ giúp cho Việt Nam, họ cũng đã phái thêm chính công binh và kĩ thuật xây dựng, pháo phòng không, và nguồn cung cấp bổ sung của họ tới giúp.

Năm 1965 Đặng Tiểu Bình, thay mặt cho chính phủ Trung Quốc, đề xuất tăng thêm viện trợ cho Việt Nam nếu Việt Nam ngưng quan hệ với Liên Xô, nhưng Việt Nam đã từ chối. Thay vào đó, khi Mỹ tăng cường ném bom ở Việt Nam, Việt Nam ngày càng quay sang đất nước có công nghệ cao và các vũ khí hiện đại mà Việt Nam cần cho quốc phòng - Liên Xô – và đổi lại, Liên Xô dùng đòn xeo này ngày càng nhiều để gây sức ép buộc Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô trong cuộc tranh chấp Trung-Xô.

Khoảng cách giữa Trung Quốc và Việt Nam rộng ra thêm vào giữa những năm 1960 khi Việt Nam ngừng chỉ trích "chủ nghĩa xét lại của Liên Xô," và khi Trung Quốc cho thấy sự không hài lòng về quan hệ gần gũi hơn của Việt Nam với Liên Xô với việc rút một sư đoàn ra khỏi Việt Nam. Năm 1966, khi Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình gặp Hồ Chí Minh, Đặng và Chu cũng đã biết rõ về các than phiền của Việt Nam rằng quân đội Trung Quốc đã hành động như những tên xâm lược ngạo mạn từng xuất hiện thường xuyên trong lịch sử lâu dài của Việt Nam. Đặng cho rằng 100 000 binh sĩ ở đó chỉ thuần là để bảo vệ chống lại một cuộc xâm lược của phương Tây có thể xảy ra, và Chu đề xuất rút về. Nhưng Việt Nam không yêu cầu họ rút quân, và Trung Quốc tiếp tục cung cấp một số lượng đáng kể đạn dược, vũ khí và trang thiết bị.

Hồ Chí Minh, người nói rất thạo tiếngTrung và sống nhiều năm ở Trung Quốc, cố hết sức để duy trì mối quan hệ làm việc tốt với Trung Quốc lẫn Liên Xô. Nhưng sau khi ông mất vào tháng 9 năm 1969, quan hệ Trung-Việt xấu đi, viện trợ của Trung Quốc giảm xuống, và cuối cùng đã rút quân ra khỏi Việt Nam khi Trung Quốc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ sau chuyến thăm của Nixon vào năm 1972.

Sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, Liên Xô đã hào phóng trong việc cung cấp viện trợ quy mô lớn giúp xây dựng lại đất nước bị chiến tranh tàn phá này. Ngược lại, ngày 13 tháng 8 năm 1975, một vài tháng sau khi Mỹ rời Việt Nam, Chu Ân Lai, đang nằm bệnh viện và xanh xao vì bệnh ung thư, nói với Lê Thanh Nghị, nhà vạch kế hoạch chóp bu của Việt Nam, rằng Trung Quốc sẽ không thể cung cấp cho nhiều viện trợ cho việc tái thiết của Việt Nam. Trung Quốc đã kiệt sức từ cuộc Cách mạng Văn hóa và nền kinh tế của nó không phải là trong tình trạng tốt. Chu nói "Các đồng chí Việt Nam nên để cho chúng tôi có một thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức." Nhưng cũng tháng đó, các quan chức khác của Trung Quốc lại chào đón phó thủ tướng Campuchia và hứa với họ sẽ viện trợ US $ 1 tỷ trong 5 năm tiếp theo. Vào lúc đó, Liên Xô đã sát cánh với Việt Nam và Trung Quốc đã làm việc với Campuchia để ngăn chặn Việt Nam thống trị toàn Đông Dương. Đặng sau đó nói với Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu rằng Trung Quốc ngừng viện trợ cho Việt Nam không phải vì TQ có khó khăn trong việc chạy đua với con số viện trợ của Liên Xô, nhưng vì Việt Nam muốn giành bá quyền ở Đông Nam Á. Liên Xô đã sẵn sàng ủng hộ và hưởng lợi từ những tham vọng của Việt Nam, trong khi Trung Quốc thì không.

Một tháng sau đó, vào tháng 9 năm 1975, lãnh đạo cao nhất của Việt Nam, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu một phái đoàn đến Bắc Kinh với hy vọng sẽ tránh việc  quan hệ với Trung Quốc bị đổ vở hoàn toàn. Các nhà lãnh đạo Việt Nam muốn nhận được một số viện trợ của Trung Quốc, một phần là để có được một biện pháp độc lập với Liên Xô. Tiếp phái đoàn này dưới cặp mắt theo dõi của Mao, Đặng chia sẻ mục tiêu của Lê Duẩn trong việc tránh đổ vỡ trong quan hệ. Đặng đã đón phái đoàn Việt Nam tại sân bay, phát biểu tại bữa tiệc chào đón, tiếp tục thảo luận với Lê Duẩn, và tiễn phái đoàn này ra về tại ga xe lửa. Ông đã có thể ký một thỏa cấp cho Việt Nam một khoản vay nhỏ và một số lượng khiêm tốn hàng hoá thuận ngày 25 tháng 9. Nếu như Đặng vẫn còn tại vị sau năm 1975, có thể ông đã vá đắp lịch sử sự thù địch lâu dài của Việt Nam đối với Trung Quốc và các khác biệt hiện nay, nhưng sau khi Đặng Tiểu Bình yếu thế, bè lũ bốn tên theo một lập trường cứng rắn hơn nhiều, đòi hỏi Việt Nam phải từ bỏ "chủ nghĩa bá quyền" kiểu Liên Xô. Đòi hỏi như vậy của phe cực đoan Trung Quốc tỏ ra quá đáng đối với Lê Duẩn, ông từ chối ký tuyên bố chung và rời Bắc Kinh mà không mở tiệc đáp trả theo thông lệ.

Một tháng sau, Lê Duẩn đã bay đến Moskva, ở đó ông được hứa hẹn viện trợ dài hạn mà ông đang tìm kiếm. Việt Nam có vẻ rất muốn không quá phụ thuộc vào Liên Xô, nhưng lại rất cần sự giúp đỡ để xây dựng lại đất nước. Lê Duẩn, thiếu đòn bẩy từ Trung Quốc (hoặc nơi khác) để chống lại đòi hỏi của Liên Xô, đã ký thỏa thuận ủng hộ lập trường chính sách đối ngoại của Liên Xô. Những hiệp định Xô-Việt này làm phân cực hơn nữa quan hệ Việt Nam với Trung Quốc và khiến Trung Quốc tăng cường quan hệ với Campuchia.

Đầu năm 1977, Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh nói rằng nếu như Đặng nắm quyền trở lại lúc đó, ông sẽ tiếp cận vấn đề một cách thực dụng hơn và mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã cải thiện. Về mặt chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau khi Đặng Tiểu Bình bị loại bỏ vào năm 1975, nó đã được lấp đầy với các khẩu hiệu cách mạng, thiếu viễn kiến, và thực hiện không có sự tinh tế. Phe cực đoan đã hầu như phá vỡ quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam và đẩy Việt Nam gần với Liên Xô hơn. Ngày 9 tháng 11 năm 1975, ngay sau khi Đặng Tiểu Bình mất quyền kiểm soát chính sách đối ngoại, Việt Nam công bố mở hội nghị hiệp thương chính trị chuẩn bị thống nhất Bắc và Nam Việt Nam. Các nước cộng sản khác đã gửi thư chúc mừng nhưng Trung Quốc im tiếng. Ba ngày sau hội nghị này, báo Quang Minh của Trung Quốc công bố một phát biểu mạnh mẽ tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa là phần "lãnh thổ thiêng liêng" của Trung Quốc, lật ngược việc Đặng Tiểu Bình trước đây thừa nhận rằng các tranh chấp đối với quần đảo Trường Sa vẫn chưa giải quyết. (Sau khi Đặng Tiểu Bình chính thức bị loại bỏ vào tháng 4 năm 1976, một trong những chỉ trích chống lại ông là ông đã ủng hộ việc mở đàm phán với Việt Nam về quần đảo Trường Sa). Và năm 1976, để đáp lại yêu cầu của Việt Nam, các nước Đông Âu, Bắc Triều Tiên, và các Liên Xô đều hứa viện trợ cho Việt Nam trừ Trung Quốc. Phe cực đoan đã huỷ hết những nỗ lực của Đặng Tiểu Bình và Lê Duẩn trong việc gìữ quan hệ không bị đổ vở.

Sau khi Mao Trạch Đông mất và bè lũ bốn tên bị bắt giữ, có một giai đoạn ngắn các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam thăm dò khả năng cải thiện quan hệ. Ngày 15 tháng 10 năm 1976, chỉ vài ngày sau khi lũ bốn tên bị bắt giữ, các quan chức Việt Nam với hy vọng rằng bây giờ Trung Quốc có thể sẽ theo đuổi một chính sách anh em hơn và sẽ cấp một số trợ giúp cho kế hoạch năm năm tiếp theo của họ, đã gửi tới Bắc Kinh một đề nghị trợ giúp kinh tế. Nhưng đề nghị này không được trả lời, và tháng 12 năm 1976, khi 29 đảng cộng sản anh em khác cử đại biểu tới Hà Nội dự Đại hội Đảng của Việt Nam, Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Hoa Quốc Phong, thậm chí không trả lời lời mời tham dự. Vào tháng 2 năm 1977, năm tháng trước khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, Bắc Kinh chỉ đơn giản nhắc lại với một phái đoàn Việt Nam đến thăm rằng không có viện trợ nào trong thời gian sắp tới.


Khúc dạo đầu cho cuộc xung đột Trung-Việt

Nêu như Đặng không bị thanh trừng cuối năm 1975, có lẽ ông đã có thể tránh được việc cắt đứt hoàn toàn quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi Đặng Tiểu Bình trở lại làm việc vào tháng 7 năm 1977, ông phải đối mặt với một tình huống đã đổi khác, trong đó hợp tác Xô-Việt đã tăng lên và quan hệ của Trung Quốc với cả Liên Xô lẫn Việt Nam đã xấu đi tệ hại.

Trong tháng 3 và tháng 5 năm 1977, vài tháng trước khi Đặng Tiểu Bình trở lại làm việc, tướng Võ Nguyên Giáp đang ở Moscow kí kết một thỏa thuận với Liên Xô, trong đó hai bên sẽ mở rộng hợp tác quân sự. Liên Xô đã bắt đầu cử người tới các căn cứ hải quân ở thành phố Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh, với triển vọng là chẳng bao lâu tàu Liên Xô sẽ có thể tiếp cận toàn bộ bờ biển Trung Quốc. Hơn nữa, các vụ đụng độ giữa quân đội Việt Nam và Campuchia và Trung Quốc dọc theo biên giới của họ đã trở nên lớn hơn về quy mô và thường xuyên hơn. Việt Nam đã do dự về việc gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON), tổ chức thương mại của các nước Cộng sản, bởi vì nó sẽ đòi hỏi Việt Nam phải từ bỏ một số độc lập kinh tế mà họ ưa chuộng, nhưng vào ngày 28 tháng 6 năm 1977, Việt Nam, với một nền kinh tế rất cần tái thiết và không có nguồn trợ giúp kinh tế, đã đồng ý tham gia.

Trong khi đó người gốc Hoa [Hoa kiều] đã bắt đầu chạy khỏi Việt Nam. Sau khi tiếp thu miền Nam Việt Nam vào năm 1975, các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu những nhiệm vụ to lớn về tập thể hoá và quốc hữu hóa nền kinh tế. Trong quá trình đó họ bắt đầu tấn công 1,5 triệu người Hoa thiểu số ở Nam Việt Nam, nhiều người trong số họ là các doanh nghiệp nhỏ phản đối việc tập thể hoá. Nếu Việt Nam phải tiến đánh Campuchia hoặc nếu xung đột biên giới với Trung Quốc trở nên trầm trọng hơn, các nhà lãnh đạo Việt lo sợ rằng người gốc Hoa có thể quay sang chống lại họ. Việt Nam đã phát động một chiến dịch rất lớn gôm lại một số lượng khổng lồ người gốc Hoa và đưa họ đến các trại tập trung - khiến nhiều người khác phải rời bỏ đất nước. Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu Việt Nam phải chấm dứt ngược đãi những người gốc Hoa ở Việt Nam, nhưng các quan chức Việt Nam không quan tâm. Vào lúc Đặng đã trở lại hồi tháng 7 năm 1977, chiến dịch mà cuối cùng đã trục xuất khoảng 160 000 người gốc Hoa ra khỏi Việt Nam đang được tiến hành. Để trả đũa, tháng 5 năm 1978, sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại làm việc, Trung Quốc đình chỉ hoạt động 21 dự án viện trợ Việt Nam đang hưởng. Như Đặng giải thích sau này, vào thời điểm đó Trung Quốc không tin rằng viện trợ nhiều hơn sẽ là đủ để kéo Việt Nam khỏi Liên Xô.

Đặng, giống  như Mao và Chu Ân Lai, nghĩ xa nhiều thập kỷ. Năm 1978, sư đe dọa không phải là một đe doạ về việc xâm lấn Trung Quốc sắp xảy ra nhưng nguy hiểm lớn hơn là nếu Liên Xô tiếp tục mở rộng việc sử dụng các căn cứ ở Việt Nam, điều đó có thể dẫn đến việcTrung Quốc bị Liên Xô và Việt Nam bao vây. Khi giải thích tình huống này với người phương Tây, Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là Cuba của Châu Á — một căn cứ bên cạnh Trung Quốc mà từ đó Liên Xô có thể định vị tàu, máy bay, và tên lửa của Trung Quốc. Chỉ khoảng một thập kỷ trước đó, vào năm 1962, Liên Xô đã rút tên lửa khỏi Cuba vì người Mỹ đã đe dọa sẽ sử dụng sức mạnh quân sự vượt trội của họ. Nhưng quân đội của Liên Xô là vượt trội hơn quân đội Trung Quốc rất nhiều. Nếu Liên Xô lắp đặt tên lửa ở Việt Nam thì Trung Quốc sẽ rất khó khăn để buộc Liên Xô rút ra. Đặng tin rằng cần cấp bách tăng cường hợp tác với các nước khác để chống lại sự bành trướng Xô-Việt trước khi các căn cứ này trở nên mạnh mẽ.

Trong mười bốn tháng công du, Đặng Tiểu Bình chỉ đi đến một nước Cộng sản là Bắc Triều Tiên, còn lại là 7 nước không cộng sản. Trước tiên ông đến thăm một số quốc gia có quan hệ tốt với Trung Quốc và có thể giúp chống đỡ an ninh của Trung Quốc dọc theo biên giới. Trong 5 chuyến ông đi nước ngoài, 3 chuyến đầu là tới các nước dọc theo biên giới trên bộ của Trung Quốc. Giống như các vua chúa thời xưa, Đặng Tiểu Bình đã tìm cách bình ổn biên giới Trung Quốc, nhưng ông cũng tìm cách hợp tác với các nước này trong việc chống lại các bước tiến của Liên Xô và Việt Nam. Sau đó, ông đến thăm Nhật Bản và Hoa Kỳ, hai nước vốn có thể giúp đỡ nhiều nhất đối với Trung Quốc trong theo đuổi bốn hiện đại hóa và họ cũng có sức mạnh quân sự to lớn để có thể giúp kiềm chế Liên Xô và Việt Nam. Châu Âu cũng là một khu vực quan trọng của thế giới có thể giúp đỡ trong việc hiện đại hóa, nhưng hợp tác với châu Âu đã được đảm bảo với chuyến đi đến Pháp của Đặng Tiểu Bình năm 1975. Các thỏa thuận tiếp sau với Châu Âu thì phái đoàn của Cốc Mục (Gu Mu/谷牧: Phó Chủ tịch TQ 1975-82) có thể xoay xở được; không đòi hỏi thêm một chuyến đi của Đặng.


==============================
Xem bản song ngữ ở đây: Đặng Tiểu Bình và Việt Nam 

Thursday, January 21, 2016

Hội nghị Thành Đô 1990

Hội nghị Thành Đô năm 1990

The 1990 Chengdu Meeting

Zhang Xiaoming (Trương Hiểu Minh)

(Đạ đăng trên viet-studies/kinhte ngày 21/1/2016)

(trích từ Chương 8: Con đường dẫn tới chấm dứt xung đột (pp. 202-206) trong cuốn Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu Bình:.xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991 (The New Cold War History) The University of North Carolina Press)

Lời bàn của gs Trần Hữu Dũng: Nên nhớ rằng tác giả cuốn sách này là một học giả người Tàu (hiện dạy ở Mĩ), chỉ căn cứ chủ yếu vào các nguồn tư liệu của Trung Quốc. Dù có muốn khách quan (giả định như vậy) và có chuẩn mực học thuật cao, ông cũng không thể tránh phản ảnh cách nhìn của Trung Quốc (nhất là, theo ông, Hà Nội vẫn chưa bạch hóa những tài liệu về phía Việt Nam). Đây là tài liệu đầu tiên mà tôi được đọc nói về sự xung khắc giữa Nguyễn Văn Linh và Nguyễn Cơ Thạch (nhấn mạnh một lần nữa: đây là theo nhận định của Tàu), và vai trò tuy nhỏ nhưng khá bất ngờ của con của ông Hoàng Văn Hoan (người trốn sang Trung Quốc)

Tháng 6 năm 1990 (khi Đông Âu lần đầu tiên thoát khỏi chế độ cộng sản sau hơn bốn mươi năm), các nhà lãnh đạo Việt Nam đã có một yêu cầu khẩn thiết khác cho một chuyến thăm Trung Quốc. Trong cuộc gặp với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, Nguyễn Văn Linh nhắc lại các chuyến đi Trung Quốc của ông trước khi có tranh chấp biên giới và các cuộc gặp gỡ của ông với Mao Trạch Đông, Chu  n Lai và Đặng Tiểu Bình. Nguyễn Văn Linh tự nhận mình là một học trò của Mao về lý luận cách mạng và rất trân trọng viện trợ của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ. Sau đó, ông thừa nhận rằng Việt Nam đã cư xử không tốt với Trung Quốc và sẵn sàng sửa chữa sai lầm của mình. Đối với Campuchia, nhà lãnh đạo Việt Nam bày tỏ niềm tin rằng tình hình sẽ được giải quyết một cách hòa bình, nhưng kêu gọi cả Việt Nam lẫn Trung Quốc nên cùng hợp tác với nhau ngăn chặn không để phương Tây và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Campuchia trong tương lai. Nguyễn Văn Linh cũng thừa nhận việc loại trừ Khmer Đỏ khỏi chính phủ Campuchia trong tương lai là không thực tế. Cuối cùng, phần nào theo cách của Đặng Tiểu Bình, ông bày tỏ mong muốn đuợc gặp các  lãnh đạo Trung Quốc để giải quyết vấn đề Campuchia và vấn đề quan hệ Việt-Trung trước khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, lãnh đạo Trung Quốc dường như vẫn dửng dưng với quan điểm của nhà lãnh đạo Việt Nam này về Campuchia và thấy khó chịu bởi cái mà họ cảm nhận như là thái độ táo tợn của bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch trong cuộc gặp với thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc tại Hà Nội. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã không còn hài lòng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia mà bây giờ mong đợi nhiều hơn ở Hà Nội. Trong một phúc đáp nhanh cho Nguyễn Văn Linh, Trung Quốc nhấn mạnh rằng hội nghị thượng đỉnh giữa hai nước chỉ có thể xảy ra sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia: Việt Nam vẫn cần phải hoàn thành việc rút quân và sau đó giúp vào việc hòa giải dân tộc Campuchia.

Đến nay vẫn chưa được biết phản ứng của Việt Nam đối với phúc đáp không mong đợi này. Có một vài tiến bộ đã được đạt đuợc trong vòng từ tháng 1 tới tháng 8 năm 1990. Thứ nhất, năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã đạt được thỏa thuận về một khuôn khổ cho một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia: tất cả các viện trợ bên ngoài cho các phe phái đối địch nhau sẽ ngưng lại, Cơ quan Chuyển tiếp của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia (UNTAC) sẽ được thành lập, và chủ quyền của Campuchia sẽ được tôn trọng. Thứ hai, tất cả các phe phái chính trị Campuchia đều đã chấp nhận thỏa thuận này, và một vòng đàm phán mới với Hà Nội đã được lên lịch vào tháng 9 tại Jakarta. Ngày 16 tháng 8, tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội nhận được một tin nhắn miệng của Nguyễn Văn Linh qua con trai cựu lãnh đạo Việt Nam Hoàng Văn Hoan, người đã đào thoát sang Trung Quốc vào năm 1979. Ông Linh đã đưa ra thêm lời kêu gọi hòa giải nữa trong khi đổ lỗi cho Bộ trưởng ngoại giao của mình cho tranh cãi không dứt giữa Việt Nam và Trung Quốc về Campuchia và cho rằng tình huống khó khăn như thế chỉ có thể khắc phục được qua hội nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước.

Vì tin nhắn này không do nhà lãnh đạo Việt Nam đưa ra trực tiếp, Bắc Kinh đã ra lệnh Zhang Dewei (Truơng Đức Duy), đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam, tìm cách tiếp xúc riêng với Nguyễn Văn Linh để tìm hiểu ý định thật sự của ông đối với quan hệ Trung-Việt. Thập kỷ thù địch giữa hai nước đã khiến việc tiếp xúc giữa các nhà ngoại giao Trung Quốc và các quan chức Việt chỉ giữ ở mức tối thiểu để trao đổi khi cần thiết. Sau nhiều năm với đối thoại ít oi giữa hai bên, các nhà ngoại giao Trung Quốc gặp khó khăn lớn trong việc xác định nguời nào là tốt nhất để liên lạc với nhà lãnh đạo chóp bu này của Việt Nam. Do Nguyễn Cơ Thạch kiểm soát Bộ Ngoại giao nên Đại sứ Trung Quốc quyết định nhờ Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng quốc phòng, người đã lặp lại nhiều quan điểm của Nguyễn Văn Linh tại một phiên họp trước đó với đại sứ Trung Quốc, giúp sắp xếp một họp với cấp trên của ông.

Cách làm này đã có kết quả. Ngày 22 tháng 8, Nguyễn Văn Linh tiếp Truơng Đức Duy tại Bộ Quốc phòng. Ông Linh nhận đã có gửi một tin nhắn miệng tới đại sứ Trung Quốc và nhắc lại ý định muốn đi thăm Trung Quốc. Ông đặc biệt lưu ý rằng việc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ giúp làm im mồm những người vẫn phản đối mong muốn của ông trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Trong tình huống như vậy, Bắc Kinh buộc phải nhân nhượng. Ngày 27 tháng 8, Thủ tướng Lý Bằng đã đến nhà lãnh đạo chưa nghỉ hưu hẵn (semiretired) Đặng Tiểu Bình báo cáo việc người kế nhiệm ông quyết định mời các nhà lãnh đạo Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Sau đó, Lý Bằng gợi ý rằng vì lý do an ninh liên quan đến Á Vận Hội 1990 sẽ được tổ chức tại Bắc Kinh, cuộc họp sẽ diễn ra tại Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên. Đặng Tiểu Bình đồng ý.

Ngày 3 tháng 9, hội nghị thượng đỉnh đã diễn ra. Tham dự phía Trung Quốc có tổng bí thư đảng Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng, và phía Việt Nam có tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, chủ tịch hội đồng Bộ truởng (thủ tuớng) Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng. Giang Trạch Dân thẳng thắn nói rằng cả hai bên phải đối diện với những cái đúng và sai giữa hai nước kể từ cuối những năm 1970. Theo Giang Trạch Dân, Trung Quốc không đòi phải thanh toán các ân oán cũ mà muốn đi tới tận gốc rễ của vấn đề và đặt nền móng mới cho tương lai. Ông hoan nghênh sáng kiến ​​của ban lãnh đạo mới của Việt Nam trong việc cải thiện quan hệ nhưng một lần nữa chỉ ra rằng, Campuchia vẫn là trở ngại lớn cho việc bình thuờng hóa. Nhà lãnh đạo Trung Quốc sau đó kêu gọi các đối tác Việt Nam chấp nhận kế hoạch của Liên Hiệp Quốc. Nguyễn Văn Linh thú nhận rằng Việt Nam đã đi theo một chính sách sai lầm trong mười hai năm qua và giải thích rằng ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay muốn sửa chữa để nối lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước và hai đảng mà Hồ Chí Minh đã gầy dựng. Ông hứa sẽ ủng hộ một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia dựa trên văn bản khung của Liên Hiệp Quốc. Dù vậy, Việt Nam vẫn chống kế hoạch của Bắc Kinh về Cơ quan chuyển tiếp của Liên hiệp quốc (UNTAC) dưới sự lãnh đạo của Hoàng tử Sihanouk, dù chỉ có Phạm Văn Đồng là nguời duy nhất chống đối mạnh mẽ đề xuất của Trung Quốc. Bắc Kinh đề nghị chính quyền Phnom Penh do Hà Nội hậu thuẫn sẽ chiếm sáu ghế trong UNTAC, trong khi mỗi một trong ba phe đối kháng sẽ có hai ghế. Vì Sihanouk cũng thuộc về phía đối kháng nên Việt Nam cảm thấy rằng sự sắp xếp này là không công bằng và không hợp lý. Ngày đầu tiên của cuộc đàm phán kéo dài đến 8 giờ tối mà không đạt được thỏa thuận. Sau đó tại bàn tiệc chào mừng vào buổi tối, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đuợc cho là đã cố tiếp tục thuyết phục các nhà lãnh đạo Việt Nam chấp nhận đề nghị của Trung Quốc. Sau một buổi họp dài ngày hôm sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam đầu hàng. Họ cũng hứa sẽ thuyết phục chế độ Phnom Penh chấp nhận kế hoạch của Trung Quốc. Hai bên sau đó đã đạt được thỏa thuận về các nguyên tắc cho giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và nối lại quan hệ.

Ngày 6 tháng 9, các quan chức ngoại giao Trung Quốc vội vã bay đến Jakarta thông báo cho tất cả các bên về thỏa thuận mới giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và thúc giục họ đạt tới thỏa thuận. Một năm đấu đá nội bộ giữa các phe Campuchia tiếp diễn trước khi một thỏa thuận hòa bình được ký kết. Hội nghị thượng đỉnh Thành Đô biểu thị sự kết thúc mười hai năm Trung Quốc thù địch Việt Nam. Giang Trạch Dân đã trích dẫn một bài thơ thời nhà Thanh: "Không thảm họa nào đủ mạnh để phân cách anh em; [gặp lại nhau] chỉ cần một cái cười là ân oán tiêu tan"(Dujin Jiebo xiongdi zai; Xiangfeng yixiao min enchou/度尽劫波兄弟在相逢一笑泯恩仇: độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu) để kết thúc  cuộc họp. Nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc tỏ ra đầy tình cảm khi nhắc lại mối quan hệ anh em giữa Trung Quốc và Việt Nam từ 1950-1970, mặc dù sau đó ông thừa nhận rằng việc thù địch kéo dài hơn thập kỷ đã làm cho hai nước khó quay trở lại kiểu quan hệ gần gũi và thân mật mà họ từng có trong những năm 1950 và 1960. Về phần mình, người dân Trung Quốc vẫn cay đắng nhận ra  rằng sự hy sinh của họ cho Việt Nam trước đó đã không đem lại tình bạn và lòng biết ơn lâu dài và càng trở nên khó chịu hơn nữa với hành vi khó tin cậy đuợc của Việt Nam. Họ nhắc lại thành ngữ cổ của Trung Quốc, "Ai cho ta bú chính là mẹ ta" (younai bianshi niang /有奶便是娘: Hữu nãi tiện thị nương) để trách cứ sự vô ơn của Hà Nội.


Nicholas Khoo đã đúng khi cho rằng "sự sụt giảm trong xung đột Trung-Xô" là hệ quả không tránh khỏi của việc mở "cánh cửa cho việc xích gần nhau Trung-Việt." Nhìn trở lại, khi Hà Nội tìm đến Bắc Kinh năm 1989 và năm 1990, thế giới cộng sản đang ở đỉnh của những thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc. Các cơn bão chính trị điên cuồng quét khắp Đông  u. Liên Xô đang trên bờ vực của sự tan vỡ. Giữa lúc chủ nghĩa cộng sản đang sụp đổ, nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam và những người ủng hộ bắt đầu lo lắng về những cái sẽ xảy ra cho đất nước của họ, một trong những nước cộng sản non trẻ nhất. Thành công của Trung Quốc trong cải cách kinh tế và mở cửa với thế giới đã cho ra hy vọng. Theo Nguyễn Văn Linh, vì  CHXHCNVN là một nuớc nhỏ và Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng nhỏ, họ cần phải dựa vào Trung Quốc và ĐCSTQ để tiếp tục ngọn cờ xã hội chủ nghĩa. Nhà lãnh đạo này tiếp tục chỉ ra rằng CHXHCNVN và Đảng Cộng sản Việt Nam cần sự ủng hộ của các nước láng giềng xã hội chủ nghĩa "của họ. Một lần nữa, theo quan điểm của Việt Nam, cùng có chung lợi ích chính trị và ý thức hệ là đủ để đưa hai nước xã hội chủ nghĩa này trở thành một liên minh chặt chẽ. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, cách nghĩ quen dùng đuợc dẫn dắt về mặt ý thức hệ này đã lỗi thời: trong môi trường quốc tế hiện nay, mỗi nuớc xã hội chủ nghĩa nên theo đuổi các chính sách phục vụ lợi ích quốc gia của riêng mình. Vào thời điểm đó, các ưu tiên quốc gia của Trung Quốc là cải cách kinh tế và mở cửa. Dù Việt Nam háo hức cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Bắc Kinh có vẻ vẫn không lay động và tiếp tục nhấn mạnh phải có giải pháp cuối cùng cho vấn đề Campuchia trước khi bình thường hóa quan hệ song phương.

--------------------------------------------------
Xem bản song ngữ:  https://docs.google.com/document/d/1FaYdMyOjdWoCwW58H491T3IcfDWPsn8I-9DhJV4ulc0/edit?usp=sharing

Thursday, December 24, 2015

Đi tới dân chủ: Những bài học từ các cuộc chuyển đổi thành công

Đi tới dân chủ: Những bài học từ các cuộc chuyển đổi thành công

(Getting to Democracy: Lessons From Successful Transitions)

FOREIGN AFFAIRS (tháng 1/2 năm 2016)
Abraham F. Lowenthal và Sergio Bitar
ABRAHAM F. Lowenthal là một Senior Fellow tại Viện Brookings và Giám đốc sáng lập Đối thoại Liên Mỹ.
Sergio BITAR là Chủ tịch Quỹ Chile vì Dân chủ và là Uỷ viên cao cấp tại Đối thoại Liên Mỹ. Ông là nghị sĩ quốc hội Chile từ năm 1994 đến 2002.
Hai ông là đồng biên tập viên của quyển Các cuộc chuyển đổi dân chủ: trò chuyện với các lãnh đạo thế giới (Johns Hopkins University Press và IDEA International, 2015), bài viết này được chuyển thể từ đó.

(Bản dịch này đã đăng trên anhbasam 25/12/2015, bản song ngữ ở đây)

Nguồn ảnh: Bettmann/ Corbis
Nguồn ảnh: Bettmann/ Corbis

Gần 5 năm trước, các cuộc biểu tình quần chúng[1] đã quét chế độ chuyên quyền Hosni Mubarak ra khỏi quyền lực ở Ai Cập[2]. Hầu hết các nhà quan sát trong và ngoài Ai Cập đều  tin rằng nước này đang trên đường đi đến một tương lai dân chủ; thậm chí một số còn tuyên bố rằng dân chủ đã đến. Nhưng cuộc bầu cử Mohamed Morsi và Đảng Tự do và Công lí của Nhóm Anh Em Hồi giáo (Muslim Brotherhood) đã dẫn đến phân cực và bạo lực, và vào năm 2013, sau nhiều cuộc biểu tình, Tướng Abdel Fattah el-Sisi đã nắm quyền[3] trong một cuộc đảo chính quân sự. Kể từ đó, chế độ Sisi đã giết chết hơn 1 000 dân thường, bỏ tù hàng chục nghìn người khác, và xiết chặt phương tiện truyền thông và xã hội dân sự.

Tunisia gần bên, trong tình trạng tốt hơn[4]. Làn sóng nổi dậy Ả Rập bắt đầu ở đó vào năm 2010, và chính phủ dân chủ mà cuộc cách mạng Tunisia mở ra đến nay vẫn còn tồn tại. Nó đã thành công ở một trong những nhiệm vụ quyết định của cuộc chuyển đổi: đồng ý về một hiến pháp mới, một thành tựu được Ủy ban Nobel công nhận khi trao giải Nobel Hòa bình cho bốn tổ chức xã hội dân sự tích cực trong cuộc chuyển đổi của Tunisia. Nhưng nền dân chủ của Tunisia vẫn còn mong manh, bị đe dọa bởi bạo lực chính trị, đàn áp bất đồng chính kiến, và vi phạm nhân quyền. Ở Cuba, cũng vậy, cuối cùng đã có những hi vọng về một tương lai dân chủ, khi các nhà cai trị độc tài già cỗi bắt đầu bước vào cải cách. Và ở Myanmar (còn được gọi là Miến Điện), việc chuyển đổi chậm không đều từ nền cai trị quân sự sang nền quản trị toàn diện đang diễn ra, nhưng vẫn còn đầy khó khăn.

Điều gì quyết định để các nỗ lực lúc chuyển đổi dân chủ sẽ thành công? Kinh nghiệm đã có cho ta một số hiểu biết. Chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn sâu rộng với 12 cựu tổng thống và một cựu thủ tướng từng đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chuyển đổi dân chủ thành công ở Brazil, Chile, Ghana, Indonesia, Mexico, Philippines, Ba Lan, Nam Phi, và Tây Ban Nha. Một số từng là lãnh đạo trong các chế độ độc tài nhưng vẫn giúp vào việc lèo lái đất nước về hướng nền dân chủ có hiệu quả. FW de Klerk, trong cương vị tổng thống Nam Phi, đã đàm phán với Nelson Mandela và Đại hội Dân tộc Phi (ANC) dẫn đến việc chấm dứt chủ trương apartheid (phân biệt chủng tộc). BJ Habibie, Phó Tổng thống dưới quyền nhà cầm quyền độc tài lâu năm Indonesia, Suharto, trở thành tổng thống sau khi Suharto từ chức[5] khi đối mặt với các cuộc biểu tình lớn. Habibie sau đó đã thả các tù chính trị, hợp pháp hoá công đoàn, chấm dứt kiểm duyệt báo chí, cho phép thành lập các đảng chính trị mới, và cải tiến các quy định chính trị ở Indonesia, mở đường cho nền dân chủ lập hiến.

Các nhà lãnh đạo khác từng nổi bật trong phong trào đối lập đã mang đến sự kết thúc của nền cai trị độc tài và sau đó giúp xây dựng nền dân chủ ổn định. Patricio Aylwin, lãnh đạo phe đối lập với Tướng Augusto Pinochet, nhà độc tài cầm quyền lâu năm của Chile, trở thành tổng thống dân cử đầu tiên của đất nước mình sau khi nền dân chủ khôi phục vào năm 1990. Tadeusz Mazowiecki, nhà trí thức công giáo và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, trở thành Thủ tướng đầu tiên của Ba Lan sau cộng sản.

Chúng tôi cũng có phỏng vấn những khuôn mặt cầu nối: những lãnh đạo vốn trãi qua hai chế độ chuyên chế và dân chủ, như Aleksander Kwasniewski, một bộ trưởng trong chính phủ cộng sản Ba Lan đã tham gia vào các cuộc thảo luận bàn tròn dẫn đến việc mở cửa dân chủ ở Ba Lan[6]. Sau đó, trong cương vị tổng thống, ông đã xây dựng thể chế dân chủ của Ba Lan. Fidel Ramos, một quan chức quân sự cấp cao Philippines dưới chế độ độc tài Ferdinand Marcos, tham gia phe đối lập trong các cuộc biểu tình Sức mạnh Nhân dân (People Power) lớn vào năm 1986. Sau đó, ông giữ chức bộ trưởng quốc phòng và tiếp đó là tổng thống thứ hai của nền dân chủ hậu Marcos.

Mặc dù các lực lượng xã hội, dân sự và chính trị rộng lớn đóng vai trò quan trọng, các nhà lãnh đạo này là chìa khóa cho cuộc chuyển đổi thành công ở đất nước họ. Họ đã giúp đưa đến sự chấm dứt chế độ độc tài và xây dựng nền dân chủ lập hiến thay vào, thể chế hoá thông qua các cuộc bầu cử thường xuyên, công bằng hợp lí, kết hợp với những ràng buộc có ý nghĩa trên quyền hành pháp và các bảo đảm thực tế cho các quyền chính trị thiết yếu và không một cuộc chuyển đổi nào trong số này đã bị đảo ngược. Dân chủ vẫn là một công việc đang tiến triển ở một số nước này, nhưng các cuộc chuyển đổi trên cơ bản đã thay đổi sự phân bố quyền lực và thực hành chính trị.

Tất nhiên, không có một mô-hình-thích-hợp-cho-mọi-thứ cho sự thay đổi dân chủ. Tuy nhiên, các cuộc chuyển đổi đã qua cho ra một số bài học áp dụng rộng rãi được. Các nhà cải cách dân chủ phải sẵn sàng thoả hiệp khi họ đặt ưu tiên cho tiến bộ từng bước nhỏ (incremental) lên trên các giải pháp toàn diện. Họ phải xây dựng các liên minh, tìm cách với tới một số người trong chế độ mà họ tìm cách lật đổ, và vật lộn với câu hỏi về công lí và trừng phạt. Và họ phải đặt quân đội dưới sự kiểm soát dân sự. Những ai quan tâm đến việc xây dựng nền dân chủ từ đống đổ nát của chế độ độc tài có thể cải thiện những điều khuyết nhược bằng cách làm theo các thực hành tốt nhất này.


CHUẨN BỊ NỀN MÓNG

Một cuộc chuyển đổi dân chủ thành công bắt đầu trước khi các chính trị gia được bầu nắm quyền rất lâu. Phe đối lập trước hết phải giành được đủ sự ủng hộ của công chúng trong việc thách thức khả năng cai trị của chế độ và định vị chính họ như là một ứng viên cầm quyền thích đáng. Lãnh đạo phe đối lập phải huy động các cuộc biểu tình, tố cáo việc bỏ tù, tra tấn, trục xuất người bất đồng chính kiến; và làm xói mòn tính hợp pháp của chế độ bên trong nước và trên trường quốc tế.

Điều này thường đòi hỏi phải tìm cách thu hẹp những bất đồng sâu sắc trong phe đối lập về mục tiêu, lãnh đạo, chiến lược, và chiến thuật. Hầu hết các nhà lãnh đạo chuyển đổi mà chúng tôi phỏng vấn đã làm việc cần mẫn không kể giờ giấc để vượt qua những chia rẽ như thế và xây dựng liên minh rộng lớn các lực lượng đối lập, tập hợp các đảng chính trị, các phong trào xã hội, công nhân, sinh viên, các tổ chức tôn giáo, và các nhóm lợi ích doanh nghiệp chủ chốt xung quanh một chương trình hành động chung. Ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết đã làm việc chặt chẽ với các tổ chức sinh viên, trí thức, và các thành phần của Giáo Hội Công Giáo. Phong trào đối lập của Brazil đã thuyết phục các nhà công nghiệp ở São Paulo ủng hộ mục tiêu của họ. Tại Tây Ban Nha, các nhóm đối lập giải quyết phần lớn các khác biệt của họ trong các cuộc đàm phán dẫn đến hiệp ước Moncloa năm 1977, trong đó họ đã đồng ý về cách điều hành nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi.

Ngược lại, ở nơi nào mà phe đối lập không đoàn kết được với nhau, triển vọng cho nền dân chủ bị thiệt hại. Tại Venezuela, những chia rẽ nghiêm trọng về việc đối dầu với chính quyền đến mức nào đã khiến phe đối lập không lợi dụng được đầy đủ việc quản lí kinh tế yếu kém của chế độ cho đến nay.


Ở Serbia, Slobodan Milosevic đã có thể cai trị một cách ngày càng độc tài sau khi lên nắm quyền vào năm 1989 một phần nhờ vào sự bất lực của phe đối lập Serbia trong việc thể hiện một mặt trận thống nhất. Ở Ukraine, cuộc Cách mạng Cam năm 2004-5[7] lật ngược kết quả bầu cử bị rất nhiều người coi như đã được sắp xếp. Nhưng những chia rẽ giữa các nhà cải cách sau đó đã kềm giữ các tổ chức dân chủ và các quy định pháp luật tiến triển xa hơn, dẫn đến một thập kỷ cầm quyền của thiểu số đầu xỏ và tham nhũng chính trị.

Phong trào đối lập dân chủ cũng cần phải xây dựng các cầu nối với những người trong quá khứ đã từng hợp tác với chế độ nhưng bây giờ có thể sẵn sàng ủng hộ dân chủ hóa. Chú trọng vào những bất bình trong quá khứ dễ gây phản tác dụng, thay vào đó các nhà cải cách dân chủ nên luôn thể hiện một tầm nhìn tích cực và nhìn về phía trước về cuộc chuyển đổi để chống lại nỗi sợ hãi phổ biến mà các chế độ độc tài tiêm cấy. Đồng thời, họ nên tìm cách cách li những người không chịu từ bỏ bạo lực hoặc những người khăng khăng với những đòi hỏi về quyền tự chủ khu vực, dân tộc hay tông phái.

Nhưng đoàn kết phe đối lập là chưa đủ; lực lượng dân chủ cũng phải hiểu và khai thác sự chia rẽ trong chế độ hiện hành. Để thuyết phục các phần tử trong chế độ cởi mở với thay đổi, các nhà cải cách phải đề ra các đảm bảo đáng tin cậy rằng họ sẽ không tìm cách trả thù hoặc tịch thu tài sản của người trong chế độ. Phong trào đối lập nên phấn đấu hết sức để trở thành người đối thoại hữu hiệu đối với những người trong chế độ độc đoán đang mong muốn một chiến lược thoát ra, trong khi cô lập những người vẫn còn khư khư cố thủ. Ví dụ, chiến lược cốt lõi của nhà cải cách Fernando Henrique Cardoso của Brazil[8] là dẫn dụ các phần tử trong quân đội vươn tới việc tìm kiếm một lối thoát ra.

Đối lại, những ai đương quyền mà nhận ra sự cần thiết phải từ bỏ chế độ độc tài phải tìm mọi cách để duy trì sự ủng hộ của cử tri cốt lõi của họ trong khi đàm phán với các nhóm đối lập. Những lần “rút lui vào rừng” mà de Klerk tổ chức cùng với các thành viên trong nội các của ông vào năm 1989 và 1990 là một mô hình cho điều này. Trong những lần trao đổi đó, ông đã xây dựng một sự đồng thuận bí mật trong nội các của ông cho các bước đi đột biến mà ông sẽ tuyên bố: hợp pháp hóa ANC, trả tự do cho Mandela cùng các tù chính trị khác, và mở các cuộc đàm phán chính thức.

Tiếp xúc trực tiếp giữa phe đối lập và chế độ có thể diễn ra bí mật lúc đầu, nếu cần, như đã xảy ra trong các tiếp xúc ban đầu giữa các quan chức chính phủ và đại diện ANC, vốn được tổ chức bên ngoài Nam Phi vào giữa những năm 1980. Các cuộc đối thoại không chính thức, chẳng hạn như các cuộc thảo luận bàn tròn tại Ba Lan, có thể giúp các thành viên của chế độ và phe dân chủ đối lập hiểu nhau, vượt qua những định kiến, và xây dựng các mối quan hệ cộng tác. Như de Klerk nhận xét, "không thể nào giải quyết xung đột nếu các bên có liên quan không nói chuyện với nhau…. Để đàm phán thành công, bạn cần phải đặt mình vào vị trí của bên kia. Ta phải suy nghĩ cặn kẽ trường hợp của họ và xác định. . . đòi hỏi tối thiểu [của bên kia] để đảm bảo có sự tham gia mang tính hợp tác và xây dựng của họ trong quá trình đàm phán." Trong suốt quá trình này, các nhà cải cách phải gây sức ép lên chế độ và chấp nhận liều lĩnh để đạt được tiến bộ liên tục, ngay cả khi tiến bộ đó chỉ là từ từ và từng chút một. Họ phải sẵn sàng để thực hiện các thỏa hiệp, ngay cả khi các thỏa hiệp này khiến một vài mục tiêu có tính sống còn chỉ đạt được một phần và làm một số người ủng hộ quan trọng thất vọng. Từ bỏ vị thế tối đa thường đòi hỏi sự can đảm chính trị hơn là bám chặt vào những nguyên tắc hấp dẫn nhưng không thực tế. Làm nên sự chuyển đổi không phải là một nhiệm vụ cho kẻ giáo điều.

Chẳng hạn ở Ghana, John Kufuor, lãnh tụ của Đảng Yêu nước mới, không chấp nhận việc đảng ông tẩy chay cuộc bầu cử năm 1992, cho rằng đảng nên tham gia vào cuộc bầu cử năm 1996, dù có thể bị thua. Chiến thắng của Kufuor sau đó trong cuộc bầu cử năm 2000 đã dẫn đến việc chuyển giao quyền lực hòa bình thông qua lá phiếu, một mô hình tiếp tục trong 15 năm. Và ở Mexico, Ernesto Zedillo, dù là một thành viên nổi bật của Đảng Cách mạng (PRI) cầm quyền lâu năm, đã ủng hộ những cải cách từng chút một[9] trong thủ tục bầu cử đàm phán được với phe đối lập tại một thời điểm mà PRI, sau bảy thập kỷ cầm quyền, dường như khó có khả năng nhượng lại quyền kiểm soát. Sau đó, khi là tổng thống, ông đã đồng ý với các thay đổi sâu xa hơn liên quan đến tài chính cho vận động tranh cử và ủng hộ cải cách về củng cố các cơ quan chức bầu cử đã giúp mở đường cho việc chuyển giao quyền lực chưa từng có từ PRI sang phe đối lập vào năm 2000.

Những nguy hiểm nằm trong việc không chấp nhận thỏa hiệp là rõ ràng trong trường hợp Ai Cập. Trong thời ngự trị ngắn ngủi của Muslim Brotherhood, nhóm này nhấn mạnh vào một chương trình hành động Hồi giáo khi họ soạn thảo hiến pháp mới, và điều này xa lạ với nhiều khối lớn dân chúng. Tại Chile, các thành viên cực tả của phe đối lập ủng hộ “mọi hình thức đấu tranh,” kể cả bạo lực, chống lại chế độ Pinochet. Đến năm 1986, đa số người trong phong trào đối lập hiểu rằng họ không thể lật đổ chế độ độc tài bằng vũ lực và việc liên kết với nhóm cực tả làm họ bị hoen ố. Thay vào đó họ quay trở lại việc đấu tranh hòa bình và cam kết xây dựng một “tổ quốc cho mọi người.” Cách tiếp cận này đã giúp phe đối lập thắng Augusto Pinochet trong cuộc trưng cầu ý dân năm 1988, một cuộc bỏ phiếu mà nhiều người trong phe đối lập lúc đầu muốn tẩy chay.


CHÍNH QUYỀN DÂN SỰ VÀ AN NINH

Lật đổ chế độ độc đoán là một chuyện; quản trị đất nước lại là chuyện rất khác. Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi thường xuyên phải đối mặt với áp lực phải dọn sạch toàn bộ bộ máy và làm lại từ đầu, nhưng họ nên cưỡng lại điều đó: quản trị đòi hỏi tầm nhìn, nhân sự, và các kĩ năng vốn khá khác biệt với những thứ cần khi ở thế đối lập. Một khi phe đối lập nắm quyền, bước quan trọng nhất là chấm dứt bạo lực và lập lại trật tự trong khi đảm bảo rằng tất cả các lực lượng an ninh phải hoạt động trong phạm vi pháp luật. Các cuộc phỏng vấn của chúng tôi cung cấp những ghi nhận hấp dẫn về các thách thức kéo dài do mối quan hệ dân sự-quân sự đặt ra. Các nhà cải cách phải đưa tất cả các cơ quan an ninh dưới sự kiểm soát dân sự dân chủ càng sớm càng tốt, đồng thời với việc công nhận và tôn trọng vai trò hợp pháp của các cơ quan này, cung cấp cho họ đủ tài nguyên và bảo vệ các lãnh đạo của họ không bị trả thù không phân biệt vì các đàn áp trong quá khứ.

Để thực hiện việc này, cảnh sát và các cơ quan tình báo trong nước nên được tách ra khỏi quân đội. Các nhà lãnh đạo cần làm cho lực lượng cảnh sát nhận thức rõ về thái độ mới đối với người dân nói chung bằng cách nhấn mạnh trách nhiệm của lực lượng an ninh là bảo vệ thường dân chứ không phải là đàn áp họ, mà không làm giảm khả năng của lực lượng này đối với việc triệt phá các nhóm bạo lực. Các nhà cải cách cần loại bỏ các sĩ quan cao cấp đảm trách việc tra tấn và đàn áp thô bạo, đặt các chỉ huy quân đội cấp cao thuộc thẩm quyền trực tiếp của Bộ trưởng quốc phòng dân sự, và nhấn mạnh rằng các sĩ quan quân đội đang làm nhiệm vụ ngưng hoàn toàn việc dính dáng vào chính trị.

Những bước đi đó kê ra dễ hơn là đưa vào hành động, và việc thực hiện chúng đòi hỏi sự phán xét chính trị nhạy bén và long can đảm. Trong một số trường hợp, những bước này có thể giải quyết sớm được; trong những trường hợp khác, sẽ cần rất nhiều thời gian. Nhưng chúng cần đượcđặt ưu tiên cao ngay từ đầu, cũng như duy trì cảnh giác. Như Habibie giải thích, khi bàn luận về quan hệ dân sự-quân sự tại Indonesia, “Những người lãnh đạo cuộc chuyển đổi. . . phải cho thấy, không phải bằng lời nói hay lời văn mà bằng hành động, về tầm quan trọng của kiểm soát dân sự.” Các quan chức dân sự cấp cao chịu trách nhiệm giám sát các lực lượng an ninh cần phải có kiến thức về các vấn đề an ninh và được sự tôn trọng của những người ngang cấp trong quân đội, cảnh sát, và các cơ quan tình báo. Điều này có thể khó khăn ở những nơi mà phong trào dân chủ từng đụng độ mạnh bạo với các cơ quan an ninh, nơi ngờ vực lẫn nhau vẫn còn kéo dài, và ở những nơi thiếu sự tôn trọng đối với chuyên gia dân sự trong các vấn đề quân sự.

Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi cũng phải cân bằng mong muốn cứu xét trách nhiệm của chế độ cũ với sự cần thiết phải giữ gìn kỷ luật và tinh thần chiến đấu của các lực lượng an ninh. Họ phải vun bồi việc chấp nhận hòa bình với nhau giữa các kẻ trước đây thù địch nhau gay gắt -không phải là vấn đề dễ dàng. Chỉ khi đó người dân mới bắt đầu tin tưởng vào nhà nước mà có nhiều người đã không chấp nhận vì, có thể hiểu được, cho là bất hợp pháp và thù địch, và chỉ khi đó lực lượng an ninh mới hợp tác đầy đủ với những công dân mà trước đây họ đã coi là phá hoại/lật đổ.

Đặt các cơ quan an ninh dưới quyền kiểm soát dân sự là một trong những thách thức kéo dài nhất mà các nền dân chủ mới phải đối mặt. Ưu thế[10] mà quân đội Ai Cập tiếp tục có được trên bất kỳ tổ chức dân cử nào là nguyên nhân trung tâm của cuộc chuyển đổi dân chủ thất bại của Ai Cập. Và ở nhiều nước khác nhau như Gambia, Myanmar và Thái Lan, việc chính quyền dân sự thiếu thẩm quyền đối với lực lượng an ninh vẫn là trở ngại quan trọng nhất đối với sự thành công của cuộc chuyển đổi dân chủ.


THÁCH THỨC VỀ LẬP HIẾN

Đưa quân đội dưới sự kiểm soát dân sự có thể giúp các nhà lãnh đạo chuyển đổi truyền tải niềm tin trong nước và tính hợp pháp quốc tế. Vì thế, việc phát triển các thủ tục bầu cử phản ánh ý chí của đa số và bảo đảm cho những người bị thất cử rằng những quan tâm cốt lõi của họ sẽ được tôn trọng trong nền pháp trị (rule of law). Ở hầu hết các nước, việc soạn thảo hiến pháp mới là cốt yếu, dù Indonesia giữ lại hiến pháp năm 1945 của mình với một số điều có sửa đổi và Ba Lan chỉ chấp nhận toàn bộ bản hiến pháp mới nhiều năm sau khichủ nghĩa cộng sản kết thúc.

Việc soạn thảo hiến pháp nên có đông đảo thành phần tham gia và cố giải quyết những quan tâm chính yếu của các khu vực chủ chốt, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải chấp nhận, ít ra là tạm thời, các thủ tục hạn chế dân chủ. Hãy xét hệ thống bầu cử thiên lệch còn duy trì ở Chile[11] trong 25 năm sau khi chế độ Pinochet kết thúc nhằm xoa dịu quân đội và các nhóm bảo thủ hay việc trao chức vụ phó tổng thống cho lãnh tụ đối lập ở Nam Phi. Xây dựng sự ủng hộ rộng rãi cho hiến pháp mới cũng có thể còn đòi hỏi phải lồng ghép vào những khát vọng cao xa mà về sau cần phải được hạ xuống hoặc phải thực hiện theo từng bước, chẳng hạn như các quy định đầy tham vọng kinh tế xã hội trong Hiến pháp năm 1988 của Brazil, đòi hỏi về quyền lao động rộng rãi, cải cách ruộng đất, và chăm sóc y tế toàn dân.

Mặc dù lời lẽ chính xác của hiến pháp là quan trọng, việc hiến pháp được thông qua như thế nào, khi nào và do ai có thể quan trọng hơn. Những người soạn thảo hiến pháp phải đạt được sự đồng thuận rộng rãi và bảo đảm rằng không quá dễ mà cũng không phải không có cách thực tế nào để sửa đổi hiến pháp khi điều kiện cho phép.

Nhiều người chỉ trích công thức của  Aylwin rằng ủy ban sự thật ở Chile chỉ có thể cung cấp công lí "tới mức có thể được" - nhưng cái  có thể được lại được mở rộng năm này qua năm khác. Mục đích chủ yếu nên là tạo ra sự chấp nhận rộng rãi các quy tắc cơ bản của việc tham gia dân chủ. Như Thabo Mbeki[12], tổng thống thứ hai của Nam Phi hậu apartheid, nhận xét: “Điều quan trọng là bản hiến pháp do toàn thể người dân Nam Phi sở hữu và do đó quá trình lập hiến pháp phải có tính bao gồm (inclusive)." Quá trình này phải bao gồm những người ủng hộ chế độ cũ, những người sẽ cần các đảm bảo rằng các quyền của họ sẽ được tôn trọng dưới nền pháp trị. Việc truy tố tập thể không phân biệt các quan chức cũ là thiếu khôn ngoan. Thay vào đó. các nhà lãnh đạo mới phải thiết lập các quy trình pháp lí minh bạch để tìm kiếm sự thật về những lạm dụng trong quá khứ, đưa ra việc thừa nhận và có lẽ việc sửa chữa cho các nạn nhân, và, nếu khả thi, đưa các thủ phạm chính ra trước công lí. Mặc dù hòa giải hoàn toàn có thể là điều bất khả, khoan dung lẫn nhau là một mục tiêu quan trọng. Thỏa hiệp, một lần nữa, là điều có tính sống còn.


CÂN BẰNG HÀNH ĐỘNG

Khi cuộc chuyển đổi dân chủ chựng lại, công chúng thường đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo dân chủ - và đôi khi cho chính nền dân chủ-- do không đáp ứng kỳ vọng về kinh tế hoặc chính trị. Chính quyền mới thường phải kế thừa các cách thức tham nhũng và sự kém hiệu quả đã ăn sâu. Các phong trào từng đoàn kết nhau trong phản kháng chế độ độc tài có thể bị phân mảnh. Các tổ chức xã hội dân sự đóng góp cho phong trào đối lập chống độc tài đôi khi phân rã hoặc chuyển qua vị trí gây rối, đặc biệt là sau khi nhiều nhà lãnh đạo tài năng nhất của họ đi vào chính phủ hay chính trị đảng phái.

Xây dựng mối quan hệ có tính xây dựng giữa chính phủ mới và phe đối lập mới là một thách thức kéo dài. Cạnh tranh giữa chính phủ và phe đối lập là lành mạnh cho dân chủ, nhưng sự gàn cản hoàn toàn của phe đối lập hoặc sự đàn áp của chính phủ đối với mọi chỉ trích có thể nhanh chóng tiêu diệt sự cạnh tranh đó. Tư pháp độc lập để giữ cho hành pháp có trách nhiệm mà không ngăn chặn quá nhiều sáng kiến mới cùng với truyền thông tự do và có trách nhiệm có thể giúp củng cố nền dân chủ bền vững.

Các đảng chính trị cũng đóng một vai trò quan trọng chừng nào mà chúng không đơn thuần trở thành phương tiện của các cá nhân nào đó và phe nhóm của họ. Các đảng dân chủ có chương trình hành động và tổ chức tốt là phương tiện tốt nhất để thu hút mọi tầng lớp dân chúng, huy động sức ép hiệu quả, tổ chức hậu thuẫn bền vững cho các chính sách, chuyển hướng các nhu cầu công cộng, cũng như nhận diện và đề cử các nhà lãnh đạo có kĩ năng cao. Sự phát triển của các đảng phái mạnh đòi hỏi chú ý kĩ càng đến các thủ tục và các điều an toàn liên quan tới việc lựa chọn ứng cử viên, tài chính cho vận động tranh cử và tiếp cận với truyền thông. Nhiều thách thức đang tiếp diễn đối với việc quản trị dân chủ ở Ghana, Indonesia, và Philippines một phần là do các đảng chính trị còn yếu kém.

Dù các cuộc chuyển đổi này thường do các nguyên nhân chính trị hơn là kinh tế kích động, những thách thức kinh tế sớm trở thành ưu tiên cho các chính phủ mới. Giảm nghèo và thất nghiệp có thể xung đột với các cải cách kinh tế cần để thúc đẩy việc tăng trưởng dài hạn và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Trước khi sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân bị xói mòn, chính phủ cần thực hiện các biện pháp xã hội làm giảm nhẹ những khó khăn cho những người dễ bị ảnh hưởng nhất phải chịu đựng, nhưng chính phủ cũng cần phải thực hiện trách nhiệm tài chính. Các nhà lãnh đạo của mọi cuộc chuyển đổi mà chúng tôi nghiên cứu đều áp dụng cách tiếp cận định hướng theo thị trường và chính sách tiền tệ và tài chính kinh tế vĩ mô thận trọng, nhưng hầu hết đã làm một cách rất thận trọng để tránh thổi bùng nỗi lo sợ của công chúng rằng lợi ích công cộng đã bị bán rẻ cho những kẻ đặc quyền. Ngay cả những người lúc đầu thù địch với thị trường tự do cũng chấp nhận rằng thị trường là cần thiết trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, cùng với các chính sách xã hội mạnh mẽ vốn có thể tạo ra sự phát triển kinh tế công bằng hơn.

Như lịch sử gần đây về các can thiệp của phương Tây ở Trung Đông cho thấy một cách dư thừa, dân chủ không phải là một món hàng xuất khẩu. Nhưng diễn viên bên ngoài, chính phủ và phi chính phủ, có thể trợ giúp có hiệu quả các cuộc chuyển đổi dân chủ nếu họ tôn trọng các lực lượng bên trong và tham gia theo lời mời của họ. Đôi khi, họ có thể cung cấp các điều kiện cần thiết cho việc đối thoại thầm lặng giữa các lãnh đạo đối lập và giữa phe đối lập với đại diện của chế độ. Họ có thể đưa ra tư vấn về nhiều vấn đề thực tiễn, từ cách tiến hành một chiến dịch tranh cử tới cách sử dụng hiệu quả phương tiện truyền thông, và cuối cùng là cách giám sát bầu cử. Trừng phạt kinh tế có thể giúp kiềm chế đàn áp, như họ đã làm ở Ba Lan và Nam Phi. Và nước ngoài có thể cung cấp viện trợ và đầu tư để trợ giúp các cuộc chuyển đổi dân chủ, như họ đã làm ở Ghana, Philippines, và Ba Lan. Giúp đỡ kinh tế của quốc tế trong quá trình chuyển đổi có thể tạo chỗ cho cải cách chính trị khi thực hiện để đáp ứng các ưu tiên của địa phương và phối hợp với các nhà hoạt động tại chỗ.

Tuy nhiên, can thiệp của quốc tế không thể thay thế cho các sáng kiến trong nước. Các diễn viên bên ngoài có nhiều khả năng tác động có hiệu quả khi họ biết lắng nghe, đề ra những câu hỏi phát sinh từ kinh nghiệm trong những thách thức tương tự, và khuyến khích những người tham gia tại chỗ xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.


THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI

Các diễn viên mới, công nghệ, áp lực kinh tế, động lực địa chính trị đã làm thay đổi bối cảnh mà các cuộc chuyển đổi dân chủ hiện nay sẽ diễn ra trong đó. Bây giờ bất cứ ai với một chiếc điện thoại di động đều có thể châm ngòi cho các cuộc biểu tình quần chúng bằng cách thu lại hành động bạo lực của cảnh sát. Truyền thông xã hội có thể nhanh chóng định hình lại công luận và cho phép các nhà tổ chức tập hợp một số lượng lớn người theo dõi. Nhưng các công nghệ mới này không thể thay cho công việc đầy khó khăn là xây dựng các tổ chức. Như Cardoso, nhà cải cách Brazil sau trở thành tổng thống, nhận xét, “Vấn đề ở chỗ là huy động để phá bỏ thì rất dễ nhưng để xây dựng lại thì khó hơn rất nhiều. Các công nghệ mới tự chúng không đủ để thực hiện bước tiến kế tiếp. Các tổ chức là cần thiết, cùng với khả năng thông hiểu, xử lí, và thực hành quyền lãnh đạo được duy trì mọi lúc.” Như Kufuor nêu: “Quần chúng không thể xây dựng các tổ chức. Chính vì thế lãnh đạo là quan trọng.” Trong những năm trước mắt, các phong trào xã hội và các tổ chức xã hội dân sự, tăng cường bởi mạng kĩ thuật số, có lẽ sẽ gây sức ép các chế độ chuyên quyền thường xuyên hơn và hiệu quả hơn so với trước đây. Tuy nhiên, những phong trào này không thể thay thế các đảng chính trị và các nhà lãnh đạo. Chính những diễn viên này cuối cùng phải xây dựng các tổ chức, xây dựng các liên minh bầu cử và quản trị, giành được sự ủng hộ của công chúng, chuẩn bị và thực hiện các chính sách, khêu gợi những hy sinh vì lợi ích chung, khêu gợi cho mọi người tin rằng dân chủ là có thể thực hiện được, và quản trị một cách hiệu quả.

Thật khó để xây dựng nền dân chủ bền vững và hoạt động trơn tru ở các nước vốn không có kinh nghiệm về chính quyền của chính họ gần đây, nơi mà các tổ chức xã hội và dân sự là mong manh, và nơi mà các tổ chức nhà nước yếu kém không có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh đầy đủ. Dân chủ cũng có thể khó thiết lập ở những nước với sự chia rẽ sắc tộc, tông phái, hoặc vùng miền mạnh mẽ. Và dù sao đi nữa các chính phủ dân chủ được bầu một cách dân chủ không thể cai trị độc đoán bằng cách bỏ qua, làm suy yếu, hoặc chỉ đồng ý trên đầu môi với những ràng buộc về lập pháp và tư pháp mà việc quản trị dân chủ đòi hỏi. Tuy nhiên, chính tất cả các nước này lại cần có thay đổi dân chủ cấp bách nhất. Ví dụ của Ghana, Indonesia, Philippines, Nam Phi, và Tây Ban Nha cho thấy những thách thức này có thể đáp ứng được trong nhiều điều kiện khác nhau, thậm chí ở các nước bị chia rẽ sâu sắc.

Ngày nay hơn bao giờ hết có thể huy động nhiều người trẻ có học thức hơn tham gia biểu tình cho dân chủ ở các quảng trường công cộng, đặc biệt là ở những nơi việc làm hiếm hoi. Tuy nhiên, đưa họ can dự trong việc xây dựng các đảng chính trị lâu bền và các tổ chức khác trên cơ sở đang diễn tiến là thách thức lớn.

Dân chủ không xuất hiện trực tiếp hoặc đương nhiên từ các đám đông trên đường phố. Việc xây dựng các nền dân chủ đòi hỏi tầm nhìn, đàm phán và thỏa hiệp, nổ lực, kiên trì, kĩ năng, tài lãnh đạo - và cơ may nào đó. Tuy nhiên, dù có tất cả mọi chướng ngại, nhiều cuộc chuyển đổi dân chủ đã thành công trong quá khứ. Học tập và áp dụng những bài học của những kinh nghiệm thành công đó có thể giúp loại bỏ các chế độ chuyên quyền và hình thành các nền dân chủ bền vững thay vào.



Monday, December 7, 2015

Tiến trình Xây dựng lòng tin mới cho Biển Đông?

Tiến trình Xây dựng lòng tin mới cho Biển Đông?

(bản dịch đã đăng trên adminbasam ngày 06/12/2015)
Bill Hayton
26-11-2015
Ảnh: Ken Banks/ Flickr
Ảnh: Ken Banks/ Flickr
Xây dựng lòng tin trên Biển Đông không dễ, nhưng cuộc họp gần đây ở Việt Nam cho thấy rằng có thể làm được việc đó.
Cuộc họp nửa ngày ở Việt Nam hôm thứ Tư có thể đánh dấu sự khởi đầu của một tiến trình xây dựng lòng tin mới ở Biển Đông. Cuộc họp được tổ chức tại thành phố dầu khí Vũng Tàu của Việt Nam, các đại biểu tham gia và quan sát viên thuộc tất cả các bên tranh chấp, gồm cả Trung Quốc, Đài Loan và Brunei, quốc gia ít được nhắc tới.
Mặc dù cuộc họp được tổ chức bên trong những cách cửa đóng kín, chương trình nghị sự đã được đưa ra công khai. Các đại biểu đã thảo luận các bước thực tế hướng tới thực hiện các sáng kiến đã được đồng ý hơn một thập niên trước đây trong “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” giữa Trung Quốc và Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Thời gian được dành cho các chủ đề về tự do hàng hải, bảo vệ môi trường, phát triển chung, và liên kết trên biển. Có lẽ điều thú vị nhất, buổi họp cuối cùng thảo luận “những thoả thuận mang tính thể chế cho việc tư vấn / đàm phán và thực hiện các hoạt động hợp tác”.
Sự kiện này được Học viện Ngoại giao Việt Nam – nhóm chuyên gia tư vấn của Bộ Ngoại giao – tổ chức bên lề hội nghị Biển Đông hàng năm của họ. Những người tham gia gồm các quan chức chính phủ từ Malaysia, Indonesia, Đài Loan và Việt Nam, cũng như các nhà ngoại giao tại chỗ của Brunei, Đài Loan, và Indonesia. Không có đại biểu của chính phủ Trung Quốc hay Philippines nhưng một số học giả cấp cao có quan hệ trực tiếp với các bộ của cả hai nước này cũng đã tham gia.
Như có thể dự đoán, Việt Nam đã có đại diện đầy đủ. Các quan chức cấp cao của các bộ ngoại giao, ngư nghiệp, và quốc phòng đã tham gia cùng với các sĩ quan hải quân và cảnh sát biển. Đoàn đại biểu mạnh này cho thấy Việt Nam đang thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để tạo ra và thể chế hóa tiến trình thiết thực xây dựng lòng tin ở Biển Đông. Câu hỏi đặt ra là liệu các bên tranh chấp khác có muốn làm như vậy hay không.
Bên ngoài phòng họp, Việt Nam và Philippines đã đi vào các hoạt động hợp tác thực tế. Các cuộc thi đấu thể thao giữa các đơn vị trú đóng trên đảo của họ diễn ra năm ngoái và năm nay chỉ là những dấu hiệu dễ thấy nhất của việc thắt chặt các liên kết, điều đó cũng bao gồm chuyến viếng thăm của hải quân Việt đến Manila và việc ký kết thoả thuận đối tác chiến lược giữa hai nước.
Ít rầm rộ bằng nhưng có ý nghĩa hơn là việc tạo dựng lại từ các mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh sau việc Trung Quốc triển khai tai hại giàn khoan dầu HS981 ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa năm ngoái. Điều đó tạo ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao dài sáu tháng – từ lúc triển khai giàn khoan hồi tháng 5 cho đến khi nối lại các cuộc họp song phương bình thường giữa hai bên vào tháng 10.
Trong 24 năm kể từ khi hai bên nối lại quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Trung Quốc đã thể chế hoá mối quan hệ khập khiễng của họ thông qua các thỏa thuận giữa hai chính phủ lẫn các thoả thuận giữa hai đảng. Brantly Womack thuộc Đại học Virginia đã mô tả kỹ thuật ghép đôi, điều mà ông gọi là “trung tính hoá các tranh chấp và nghi thức hoá các mối quan hệ”. Các vấn đề khó khăn được giải quyết trong các kênh đặc biệt, cho phép các thành phần khác của các mối quan hệ vẫn tiếp tục với ít trở ngại. Các quan chức Việt Nam thể hiện sự thần phục (deference) phải có và Trung Quốc đáp lại với việc tôn trọng quyền tự chủ của Việt Nam.
Không rõ liệu Trung Quốc có sẵn sàng tham gia vào bất kỳ tiến trình xây dựng lòng tin thuộc loại được thảo luận tại Vũng Tàu hay không. Có thể là điều đó quá “đa phương”, khi biết Bắc Kinh chuộng thương thảo riêng lẻ với từng nước tranh chấp hơn. Trung Quốc cũng có thể thấy rằng họ cho Đài Loan thể hiện quá nhiều.
Và sau đó còn có câu hỏi về việc liệu các bên tranh chấp khác ở Đông Nam Á – Brunei, Malaysia, và Indonesia (có vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với yêu sách ‘đường lưỡi bò’ của Trung Quốc) – có sẵn sàng góp vào các nỗ lực và các nguồn lực cần thiết để làm cho tiến trình khả thi hay không. Các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc trong hai năm qua đã kích động các quan chức ở Brunei, Kuala Lumpur và Jakarta vào một trạng thái cảnh giác mới. Duy trì hợp tác vốn đã khó trong quá khứ và không phải ngay lập tức rõ ràng là lần này sẽ khác đi.
Nhưng có lẽ điều mà cuộc họp này cho thấy là các nhóm nhỏ của các nước làm việc với nhau có thể thúc đẩy việc hợp tác thiết thực dễ dàng hơn nhiều so với việc cố dồn cả Hiệp hội các nước Đông Nam Á vào hành động tập thể. Mặc dù tất cả các nước trong khu vực hứa bám theo “tính trung lập của ASEAN”, các khó khăn gần đây trong việc tạo nên sự đồng thuận trong tổ chức gợi ra rằng tương lai nằm trong những gì người châu Âu gọi là “linh hoạt” (variable geometry: mượn thuật ngữ hàng không- cánh cụp vào/ xoè ra tuỳ theo tốc độ).
Bill Hayton là một Fellow Associate thuộc Chương trình châu Á của Chatham House. Bài viềt mới của ông về “Việt Nam và Hoa Kỳ: Quan hệ đối tác an ninh mới nổi” đã được Trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Sydney công bố tại đây.