Đi tới dân chủ: Những bài học từ các cuộc chuyển đổi thành
công
(Getting to Democracy: Lessons From Successful Transitions)
FOREIGN AFFAIRS (tháng 1/2 năm 2016)
Abraham F. Lowenthal và
Sergio Bitar
ABRAHAM F. Lowenthal là một
Senior Fellow tại Viện Brookings và Giám đốc sáng lập Đối thoại Liên Mỹ.
Sergio BITAR là Chủ tịch
Quỹ Chile vì Dân chủ và là Uỷ viên cao cấp tại Đối thoại Liên Mỹ. Ông là nghị
sĩ quốc hội Chile từ năm 1994 đến 2002.
Hai ông là đồng biên tập
viên của quyển Các cuộc chuyển đổi dân chủ: trò chuyện với các lãnh đạo thế giới
(Johns Hopkins University Press và IDEA International, 2015), bài viết này được
chuyển thể từ đó.
Nguồn ảnh: Bettmann/ Corbis
Gần 5 năm trước, các cuộc biểu tình quần chúng[1]
đã quét chế độ chuyên quyền Hosni Mubarak ra khỏi quyền lực ở Ai Cập[2].
Hầu hết các nhà quan sát trong và ngoài Ai Cập đều tin rằng nước này đang trên đường đi đến một
tương lai dân chủ; thậm chí một số còn tuyên bố rằng dân chủ đã đến. Nhưng cuộc
bầu cử Mohamed Morsi và Đảng Tự do và Công lí của Nhóm Anh Em Hồi giáo (Muslim
Brotherhood) đã dẫn đến phân cực và bạo lực, và vào năm 2013, sau nhiều cuộc biểu
tình, Tướng Abdel Fattah el-Sisi đã nắm quyền[3]
trong một cuộc đảo chính quân sự. Kể từ đó, chế độ Sisi đã giết chết hơn 1 000
dân thường, bỏ tù hàng chục nghìn người khác, và xiết chặt phương tiện truyền
thông và xã hội dân sự.
Tunisia gần bên, trong tình trạng tốt hơn[4].
Làn sóng nổi dậy Ả Rập bắt đầu ở đó vào năm 2010, và chính phủ dân chủ mà cuộc
cách mạng Tunisia mở ra đến nay vẫn còn tồn tại. Nó đã thành công ở một trong
những nhiệm vụ quyết định của cuộc chuyển đổi: đồng ý về một hiến pháp mới, một
thành tựu được Ủy ban Nobel công nhận khi trao giải Nobel Hòa bình cho bốn tổ
chức xã hội dân sự tích cực trong cuộc chuyển đổi của Tunisia. Nhưng nền dân chủ
của Tunisia vẫn còn mong manh, bị đe dọa bởi bạo lực chính trị, đàn áp bất đồng
chính kiến, và vi phạm nhân quyền. Ở Cuba, cũng vậy, cuối cùng đã có những hi vọng
về một tương lai dân chủ, khi các nhà cai trị độc tài già cỗi bắt đầu bước vào
cải cách. Và ở Myanmar (còn được gọi là Miến Điện), việc chuyển đổi chậm không
đều từ nền cai trị quân sự sang nền quản trị toàn diện đang diễn ra, nhưng vẫn
còn đầy khó khăn.
Điều gì quyết định để các nỗ lực lúc chuyển đổi dân chủ sẽ
thành công? Kinh nghiệm đã có cho ta một số hiểu biết. Chúng tôi đã tiến hành
nhiều cuộc phỏng vấn sâu rộng với 12 cựu tổng thống và một cựu thủ tướng từng
đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chuyển đổi dân chủ thành công ở Brazil,
Chile, Ghana, Indonesia, Mexico, Philippines, Ba Lan, Nam Phi, và Tây Ban Nha.
Một số từng là lãnh đạo trong các chế độ độc tài nhưng vẫn giúp vào việc lèo
lái đất nước về hướng nền dân chủ có hiệu quả. FW de Klerk, trong cương vị tổng
thống Nam Phi, đã đàm phán với Nelson Mandela và Đại hội Dân tộc Phi (ANC) dẫn
đến việc chấm dứt chủ trương apartheid (phân biệt chủng tộc). BJ Habibie, Phó Tổng
thống dưới quyền nhà cầm quyền độc tài lâu năm Indonesia, Suharto, trở thành tổng
thống sau khi Suharto từ chức[5]
khi đối mặt với các cuộc biểu tình lớn. Habibie sau đó đã thả các tù chính trị,
hợp pháp hoá công đoàn, chấm dứt kiểm duyệt báo chí, cho phép thành lập các đảng
chính trị mới, và cải tiến các quy định chính trị ở Indonesia, mở đường cho nền
dân chủ lập hiến.
Các nhà lãnh đạo khác từng nổi bật trong phong trào đối lập đã
mang đến sự kết thúc của nền cai trị độc tài và sau đó giúp xây dựng nền dân chủ
ổn định. Patricio Aylwin, lãnh đạo phe đối lập với Tướng Augusto Pinochet, nhà
độc tài cầm quyền lâu năm của Chile, trở thành tổng thống dân cử đầu tiên của đất
nước mình sau khi nền dân chủ khôi phục vào năm 1990. Tadeusz Mazowiecki, nhà
trí thức công giáo và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, trở thành Thủ tướng đầu tiên
của Ba Lan sau cộng sản.
Chúng tôi cũng có phỏng vấn những khuôn mặt cầu nối: những lãnh
đạo vốn trãi qua hai chế độ chuyên chế và dân chủ, như Aleksander Kwasniewski,
một bộ trưởng trong chính phủ cộng sản Ba Lan đã tham gia vào các cuộc thảo luận
bàn tròn dẫn đến việc mở cửa dân chủ ở Ba Lan[6].
Sau đó, trong cương vị tổng thống, ông đã xây dựng thể chế dân chủ của Ba Lan.
Fidel Ramos, một quan chức quân sự cấp cao Philippines dưới chế độ độc tài
Ferdinand Marcos, tham gia phe đối lập trong các cuộc biểu tình Sức mạnh Nhân
dân (People Power) lớn vào năm 1986. Sau đó, ông giữ chức bộ trưởng quốc phòng
và tiếp đó là tổng thống thứ hai của nền dân chủ hậu Marcos.
Mặc dù các lực lượng xã hội, dân sự và chính trị rộng lớn đóng
vai trò quan trọng, các nhà lãnh đạo này là chìa khóa cho cuộc chuyển đổi thành
công ở đất nước họ. Họ đã giúp đưa đến sự chấm dứt chế độ độc tài và xây dựng nền
dân chủ lập hiến thay vào, thể chế hoá thông qua các cuộc bầu cử thường xuyên,
công bằng hợp lí, kết hợp với những ràng buộc có ý nghĩa trên quyền hành pháp
và các bảo đảm thực tế cho các quyền chính trị thiết yếu và không một cuộc chuyển
đổi nào trong số này đã bị đảo ngược. Dân chủ vẫn là một công việc đang tiến
triển ở một số nước này, nhưng các cuộc chuyển đổi trên cơ bản đã thay đổi sự
phân bố quyền lực và thực hành chính trị.
Tất nhiên, không có một mô-hình-thích-hợp-cho-mọi-thứ cho sự
thay đổi dân chủ. Tuy nhiên, các cuộc chuyển đổi đã qua cho ra một số bài học
áp dụng rộng rãi được. Các nhà cải cách dân chủ phải sẵn sàng thoả hiệp khi họ
đặt ưu tiên cho tiến bộ từng bước nhỏ (incremental) lên trên các giải pháp toàn
diện. Họ phải xây dựng các liên minh, tìm cách với tới một số người trong chế độ
mà họ tìm cách lật đổ, và vật lộn với câu hỏi về công lí và trừng phạt. Và họ
phải đặt quân đội dưới sự kiểm soát dân sự. Những ai quan tâm đến việc xây dựng
nền dân chủ từ đống đổ nát của chế độ độc tài có thể cải thiện những điều khuyết
nhược bằng cách làm theo các thực hành tốt nhất này.
CHUẨN BỊ NỀN MÓNG
Một cuộc chuyển đổi dân chủ thành công bắt đầu trước khi các
chính trị gia được bầu nắm quyền rất lâu. Phe đối lập trước hết phải giành được
đủ sự ủng hộ của công chúng trong việc thách thức khả năng cai trị của chế độ
và định vị chính họ như là một ứng viên cầm quyền thích đáng. Lãnh đạo phe đối
lập phải huy động các cuộc biểu tình, tố cáo việc bỏ tù, tra tấn, trục xuất người
bất đồng chính kiến; và làm xói mòn tính hợp pháp của chế độ bên trong nước và
trên trường quốc tế.
Điều này thường đòi hỏi phải tìm cách thu hẹp những bất đồng
sâu sắc trong phe đối lập về mục tiêu, lãnh đạo, chiến lược, và chiến thuật. Hầu
hết các nhà lãnh đạo chuyển đổi mà chúng tôi phỏng vấn đã làm việc cần mẫn
không kể giờ giấc để vượt qua những chia rẽ như thế và xây dựng liên minh rộng
lớn các lực lượng đối lập, tập hợp các đảng chính trị, các phong trào xã hội, công
nhân, sinh viên, các tổ chức tôn giáo, và các nhóm lợi ích doanh nghiệp chủ chốt
xung quanh một chương trình hành động chung. Ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết đã
làm việc chặt chẽ với các tổ chức sinh viên, trí thức, và các thành phần của
Giáo Hội Công Giáo. Phong trào đối lập của Brazil đã thuyết phục các nhà công
nghiệp ở São Paulo ủng hộ mục tiêu của họ. Tại Tây Ban Nha, các nhóm đối lập giải
quyết phần lớn các khác biệt của họ trong các cuộc đàm phán dẫn đến hiệp ước
Moncloa năm 1977, trong đó họ đã đồng ý về cách điều hành nền kinh tế trong
giai đoạn chuyển đổi.
Ngược lại, ở nơi nào mà phe đối lập không đoàn kết được với
nhau, triển vọng cho nền dân chủ bị thiệt hại. Tại Venezuela, những chia rẽ
nghiêm trọng về việc đối dầu với chính quyền đến mức nào đã khiến phe đối lập
không lợi dụng được đầy đủ việc quản lí kinh tế yếu kém của chế độ cho đến nay.
Ở Serbia, Slobodan Milosevic đã có thể cai trị một cách ngày
càng độc tài sau khi lên nắm quyền vào năm 1989 một phần nhờ vào sự bất lực của
phe đối lập Serbia trong việc thể hiện một mặt trận thống nhất. Ở Ukraine, cuộc
Cách mạng Cam năm 2004-5[7]
lật ngược kết quả bầu cử bị rất nhiều người coi như đã được sắp xếp. Nhưng những
chia rẽ giữa các nhà cải cách sau đó đã kềm giữ các tổ chức dân chủ và các quy
định pháp luật tiến triển xa hơn, dẫn đến một thập kỷ cầm quyền của thiểu số đầu
xỏ và tham nhũng chính trị.
Phong trào đối lập dân chủ cũng cần phải xây dựng các cầu nối với
những người trong quá khứ đã từng hợp tác với chế độ nhưng bây giờ có thể sẵn
sàng ủng hộ dân chủ hóa. Chú trọng vào những bất bình trong quá khứ dễ gây phản
tác dụng, thay vào đó các nhà cải cách dân chủ nên luôn thể hiện một tầm nhìn
tích cực và nhìn về phía trước về cuộc chuyển đổi để chống lại nỗi sợ hãi phổ
biến mà các chế độ độc tài tiêm cấy. Đồng thời, họ nên tìm cách cách li những
người không chịu từ bỏ bạo lực hoặc những người khăng khăng với những đòi hỏi về
quyền tự chủ khu vực, dân tộc hay tông phái.
Nhưng đoàn kết phe đối lập là chưa đủ; lực lượng dân chủ cũng
phải hiểu và khai thác sự chia rẽ trong chế độ hiện hành. Để thuyết phục các phần
tử trong chế độ cởi mở với thay đổi, các nhà cải cách phải đề ra các đảm bảo
đáng tin cậy rằng họ sẽ không tìm cách trả thù hoặc tịch thu tài sản của người
trong chế độ. Phong trào đối lập nên phấn đấu hết sức để trở thành người đối
thoại hữu hiệu đối với những người trong chế độ độc đoán đang mong muốn một chiến
lược thoát ra, trong khi cô lập những người vẫn còn khư khư cố thủ. Ví dụ, chiến
lược cốt lõi của nhà cải cách Fernando Henrique Cardoso của Brazil[8]
là dẫn dụ các phần tử trong quân đội vươn tới việc tìm kiếm một lối thoát ra.
Đối lại, những ai đương quyền mà nhận ra sự cần thiết phải từ bỏ
chế độ độc tài phải tìm mọi cách để duy trì sự ủng hộ của cử tri cốt lõi của họ
trong khi đàm phán với các nhóm đối lập. Những lần “rút lui vào rừng” mà de
Klerk tổ chức cùng với các thành viên trong nội các của ông vào năm 1989 và
1990 là một mô hình cho điều này. Trong những lần trao đổi đó, ông đã xây dựng
một sự đồng thuận bí mật trong nội các của ông cho các bước đi đột biến mà ông
sẽ tuyên bố: hợp pháp hóa ANC, trả tự do cho Mandela cùng các tù chính trị
khác, và mở các cuộc đàm phán chính thức.
Tiếp xúc trực tiếp giữa phe đối lập và chế độ có thể diễn ra bí
mật lúc đầu, nếu cần, như đã xảy ra trong các tiếp xúc ban đầu giữa các quan chức
chính phủ và đại diện ANC, vốn được tổ chức bên ngoài Nam Phi vào giữa những
năm 1980. Các cuộc đối thoại không chính thức, chẳng hạn như các cuộc thảo luận
bàn tròn tại Ba Lan, có thể giúp các thành viên của chế độ và phe dân chủ đối lập
hiểu nhau, vượt qua những định kiến, và xây dựng các mối quan hệ cộng tác. Như
de Klerk nhận xét, "không thể nào giải quyết xung đột nếu các bên có liên
quan không nói chuyện với nhau…. Để đàm phán thành công, bạn cần phải đặt mình
vào vị trí của bên kia. Ta phải suy nghĩ cặn kẽ trường hợp của họ và xác định.
. . đòi hỏi tối thiểu [của bên kia] để đảm bảo có sự tham gia mang tính hợp tác
và xây dựng của họ trong quá trình đàm phán." Trong suốt quá trình này,
các nhà cải cách phải gây sức ép lên chế độ và chấp nhận liều lĩnh để đạt được
tiến bộ liên tục, ngay cả khi tiến bộ đó chỉ là từ từ và từng chút một. Họ phải
sẵn sàng để thực hiện các thỏa hiệp, ngay cả khi các thỏa hiệp này khiến một
vài mục tiêu có tính sống còn chỉ đạt được một phần và làm một số người ủng hộ
quan trọng thất vọng. Từ bỏ vị thế tối đa thường đòi hỏi sự can đảm chính trị
hơn là bám chặt vào những nguyên tắc hấp dẫn nhưng không thực tế. Làm nên sự
chuyển đổi không phải là một nhiệm vụ cho kẻ giáo điều.
Chẳng hạn ở Ghana, John Kufuor, lãnh tụ của Đảng Yêu nước mới,
không chấp nhận việc đảng ông tẩy chay cuộc bầu cử năm 1992, cho rằng đảng nên
tham gia vào cuộc bầu cử năm 1996, dù có thể bị thua. Chiến thắng của Kufuor
sau đó trong cuộc bầu cử năm 2000 đã dẫn đến việc chuyển giao quyền lực hòa
bình thông qua lá phiếu, một mô hình tiếp tục trong 15 năm. Và ở Mexico,
Ernesto Zedillo, dù là một thành viên nổi bật của Đảng Cách mạng (PRI) cầm quyền
lâu năm, đã ủng hộ những cải cách từng chút một[9]
trong thủ tục bầu cử đàm phán được với phe đối lập tại một thời điểm mà PRI,
sau bảy thập kỷ cầm quyền, dường như khó có khả năng nhượng lại quyền kiểm
soát. Sau đó, khi là tổng thống, ông đã đồng ý với các thay đổi sâu xa hơn liên
quan đến tài chính cho vận động tranh cử và ủng hộ cải cách về củng cố các cơ
quan chức bầu cử đã giúp mở đường cho việc chuyển giao quyền lực chưa từng có từ
PRI sang phe đối lập vào năm 2000.
Những nguy hiểm nằm trong việc không chấp nhận thỏa hiệp là rõ
ràng trong trường hợp Ai Cập. Trong thời ngự trị ngắn ngủi của Muslim
Brotherhood, nhóm này nhấn mạnh vào một chương trình hành động Hồi giáo khi họ
soạn thảo hiến pháp mới, và điều này xa lạ với nhiều khối lớn dân chúng. Tại
Chile, các thành viên cực tả của phe đối lập ủng hộ “mọi hình thức đấu tranh,”
kể cả bạo lực, chống lại chế độ Pinochet. Đến năm 1986, đa số người trong phong
trào đối lập hiểu rằng họ không thể lật đổ chế độ độc tài bằng vũ lực và việc
liên kết với nhóm cực tả làm họ bị hoen ố. Thay vào đó họ quay trở lại việc đấu
tranh hòa bình và cam kết xây dựng một “tổ quốc cho mọi người.” Cách tiếp cận
này đã giúp phe đối lập thắng Augusto Pinochet trong cuộc trưng cầu ý dân năm
1988, một cuộc bỏ phiếu mà nhiều người trong phe đối lập lúc đầu muốn tẩy chay.
CHÍNH QUYỀN DÂN SỰ VÀ AN NINH
Lật đổ chế độ độc đoán là một chuyện; quản trị đất nước lại là
chuyện rất khác. Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi thường xuyên phải đối mặt với
áp lực phải dọn sạch toàn bộ bộ máy và làm lại từ đầu, nhưng họ nên cưỡng lại
điều đó: quản trị đòi hỏi tầm nhìn, nhân sự, và các kĩ năng vốn khá khác biệt với
những thứ cần khi ở thế đối lập. Một khi phe đối lập nắm quyền, bước quan trọng
nhất là chấm dứt bạo lực và lập lại trật tự trong khi đảm bảo rằng tất cả các lực
lượng an ninh phải hoạt động trong phạm vi pháp luật. Các cuộc phỏng vấn của
chúng tôi cung cấp những ghi nhận hấp dẫn về các thách thức kéo dài do mối quan
hệ dân sự-quân sự đặt ra. Các nhà cải cách phải đưa tất cả các cơ quan an ninh
dưới sự kiểm soát dân sự dân chủ càng sớm càng tốt, đồng thời với việc công nhận
và tôn trọng vai trò hợp pháp của các cơ quan này, cung cấp cho họ đủ tài
nguyên và bảo vệ các lãnh đạo của họ không bị trả thù không phân biệt vì các
đàn áp trong quá khứ.
Để thực hiện việc này, cảnh sát và các cơ quan tình báo trong
nước nên được tách ra khỏi quân đội. Các nhà lãnh đạo cần làm cho lực lượng cảnh
sát nhận thức rõ về thái độ mới đối với người dân nói chung bằng cách nhấn mạnh
trách nhiệm của lực lượng an ninh là bảo vệ thường dân chứ không phải là đàn áp
họ, mà không làm giảm khả năng của lực lượng này đối với việc triệt phá các
nhóm bạo lực. Các nhà cải cách cần loại bỏ các sĩ quan cao cấp đảm trách việc
tra tấn và đàn áp thô bạo, đặt các chỉ huy quân đội cấp cao thuộc thẩm quyền trực
tiếp của Bộ trưởng quốc phòng dân sự, và nhấn mạnh rằng các sĩ quan quân đội
đang làm nhiệm vụ ngưng hoàn toàn việc dính dáng vào chính trị.
Những bước đi đó kê ra dễ hơn là đưa vào hành động, và việc thực
hiện chúng đòi hỏi sự phán xét chính trị nhạy bén và long can đảm. Trong một số
trường hợp, những bước này có thể giải quyết sớm được; trong những trường hợp
khác, sẽ cần rất nhiều thời gian. Nhưng chúng cần đượcđặt ưu tiên cao ngay từ đầu,
cũng như duy trì cảnh giác. Như Habibie giải thích, khi bàn luận về quan hệ dân
sự-quân sự tại Indonesia, “Những người lãnh đạo cuộc chuyển đổi. . . phải cho
thấy, không phải bằng lời nói hay lời văn mà bằng hành động, về tầm quan trọng
của kiểm soát dân sự.” Các quan chức dân sự cấp cao chịu trách nhiệm giám sát
các lực lượng an ninh cần phải có kiến thức về các vấn đề an ninh và được sự
tôn trọng của những người ngang cấp trong quân đội, cảnh sát, và các cơ quan
tình báo. Điều này có thể khó khăn ở những nơi mà phong trào dân chủ từng đụng
độ mạnh bạo với các cơ quan an ninh, nơi ngờ vực lẫn nhau vẫn còn kéo dài, và ở
những nơi thiếu sự tôn trọng đối với chuyên gia dân sự trong các vấn đề quân sự.
Các nhà lãnh đạo cuộc chuyển đổi cũng phải cân bằng mong muốn cứu
xét trách nhiệm của chế độ cũ với sự cần thiết phải giữ gìn kỷ luật và tinh thần
chiến đấu của các lực lượng an ninh. Họ phải vun bồi việc chấp nhận hòa bình với
nhau giữa các kẻ trước đây thù địch nhau gay gắt -không phải là vấn đề dễ dàng.
Chỉ khi đó người dân mới bắt đầu tin tưởng vào nhà nước mà có nhiều người đã
không chấp nhận vì, có thể hiểu được, cho là bất hợp pháp và thù địch, và chỉ
khi đó lực lượng an ninh mới hợp tác đầy đủ với những công dân mà trước đây họ
đã coi là phá hoại/lật đổ.
Đặt các cơ quan an ninh dưới quyền kiểm soát dân sự là một
trong những thách thức kéo dài nhất mà các nền dân chủ mới phải đối mặt. Ưu thế[10]
mà quân đội Ai Cập tiếp tục có được trên bất kỳ tổ chức dân cử nào là nguyên
nhân trung tâm của cuộc chuyển đổi dân chủ thất bại của Ai Cập. Và ở nhiều nước
khác nhau như Gambia, Myanmar và Thái Lan, việc chính quyền dân sự thiếu thẩm
quyền đối với lực lượng an ninh vẫn là trở ngại quan trọng nhất đối với sự
thành công của cuộc chuyển đổi dân chủ.
THÁCH THỨC VỀ LẬP HIẾN
Đưa quân đội dưới sự kiểm soát dân sự có thể giúp các nhà lãnh
đạo chuyển đổi truyền tải niềm tin trong nước và tính hợp pháp quốc tế. Vì thế,
việc phát triển các thủ tục bầu cử phản ánh ý chí của đa số và bảo đảm cho những
người bị thất cử rằng những quan tâm cốt lõi của họ sẽ được tôn trọng trong nền
pháp trị (rule of law). Ở hầu hết các nước, việc soạn thảo hiến pháp mới là cốt
yếu, dù Indonesia giữ lại hiến pháp năm 1945 của mình với một số điều có sửa đổi
và Ba Lan chỉ chấp nhận toàn bộ bản hiến pháp mới nhiều năm sau khichủ nghĩa cộng
sản kết thúc.
Việc soạn thảo hiến pháp nên có đông đảo thành phần tham gia và
cố giải quyết những quan tâm chính yếu của các khu vực chủ chốt, ngay cả khi điều
này có nghĩa là phải chấp nhận, ít ra là tạm thời, các thủ tục hạn chế dân chủ.
Hãy xét hệ thống bầu cử thiên lệch còn duy trì ở Chile[11]
trong 25 năm sau khi chế độ Pinochet kết thúc nhằm xoa dịu quân đội và các nhóm
bảo thủ hay việc trao chức vụ phó tổng thống cho lãnh tụ đối lập ở Nam Phi. Xây
dựng sự ủng hộ rộng rãi cho hiến pháp mới cũng có thể còn đòi hỏi phải lồng
ghép vào những khát vọng cao xa mà về sau cần phải được hạ xuống hoặc phải thực
hiện theo từng bước, chẳng hạn như các quy định đầy tham vọng kinh tế xã hội
trong Hiến pháp năm 1988 của Brazil, đòi hỏi về quyền lao động rộng rãi, cải
cách ruộng đất, và chăm sóc y tế toàn dân.
Mặc dù lời lẽ chính xác của hiến pháp là quan trọng, việc hiến
pháp được thông qua như thế nào, khi nào và do ai có thể quan trọng hơn. Những
người soạn thảo hiến pháp phải đạt được sự đồng thuận rộng rãi và bảo đảm rằng
không quá dễ mà cũng không phải không có cách thực tế nào để sửa đổi hiến pháp
khi điều kiện cho phép.
Nhiều người chỉ trích công thức của Aylwin rằng ủy ban sự thật ở Chile chỉ có thể
cung cấp công lí "tới mức có thể được" - nhưng cái có thể được lại được mở rộng năm này qua năm
khác. Mục đích chủ yếu nên là tạo ra sự chấp nhận rộng rãi các quy tắc cơ bản của
việc tham gia dân chủ. Như Thabo Mbeki[12],
tổng thống thứ hai của Nam Phi hậu apartheid, nhận xét: “Điều quan trọng là bản
hiến pháp do toàn thể người dân Nam Phi sở hữu và do đó quá trình lập hiến pháp
phải có tính bao gồm (inclusive)." Quá trình này phải bao gồm những người ủng
hộ chế độ cũ, những người sẽ cần các đảm bảo rằng các quyền của họ sẽ được tôn
trọng dưới nền pháp trị. Việc truy tố tập thể không phân biệt các quan chức cũ
là thiếu khôn ngoan. Thay vào đó. các nhà lãnh đạo mới phải thiết lập các quy
trình pháp lí minh bạch để tìm kiếm sự thật về những lạm dụng trong quá khứ,
đưa ra việc thừa nhận và có lẽ việc sửa chữa cho các nạn nhân, và, nếu khả thi,
đưa các thủ phạm chính ra trước công lí. Mặc dù hòa giải hoàn toàn có thể là điều
bất khả, khoan dung lẫn nhau là một mục tiêu quan trọng. Thỏa hiệp, một lần nữa,
là điều có tính sống còn.
CÂN BẰNG HÀNH ĐỘNG
Khi cuộc chuyển đổi dân chủ chựng lại, công chúng thường đổ lỗi
cho các nhà lãnh đạo dân chủ - và đôi khi cho chính nền dân chủ-- do không đáp ứng
kỳ vọng về kinh tế hoặc chính trị. Chính quyền mới thường phải kế thừa các cách
thức tham nhũng và sự kém hiệu quả đã ăn sâu. Các phong trào từng đoàn kết nhau
trong phản kháng chế độ độc tài có thể bị phân mảnh. Các tổ chức xã hội dân sự
đóng góp cho phong trào đối lập chống độc tài đôi khi phân rã hoặc chuyển qua vị
trí gây rối, đặc biệt là sau khi nhiều nhà lãnh đạo tài năng nhất của họ đi vào
chính phủ hay chính trị đảng phái.
Xây dựng mối quan hệ có tính xây dựng giữa chính phủ mới và phe
đối lập mới là một thách thức kéo dài. Cạnh tranh giữa chính phủ và phe đối lập
là lành mạnh cho dân chủ, nhưng sự gàn cản hoàn toàn của phe đối lập hoặc sự
đàn áp của chính phủ đối với mọi chỉ trích có thể nhanh chóng tiêu diệt sự cạnh
tranh đó. Tư pháp độc lập để giữ cho hành pháp có trách nhiệm mà không ngăn chặn
quá nhiều sáng kiến mới cùng với truyền thông tự do và có trách nhiệm có thể
giúp củng cố nền dân chủ bền vững.
Các đảng chính trị cũng đóng một vai trò quan trọng chừng nào
mà chúng không đơn thuần trở thành phương tiện của các cá nhân nào đó và phe
nhóm của họ. Các đảng dân chủ có chương trình hành động và tổ chức tốt là
phương tiện tốt nhất để thu hút mọi tầng lớp dân chúng, huy động sức ép hiệu quả,
tổ chức hậu thuẫn bền vững cho các chính sách, chuyển hướng các nhu cầu công cộng,
cũng như nhận diện và đề cử các nhà lãnh đạo có kĩ năng cao. Sự phát triển của
các đảng phái mạnh đòi hỏi chú ý kĩ càng đến các thủ tục và các điều an toàn
liên quan tới việc lựa chọn ứng cử viên, tài chính cho vận động tranh cử và tiếp
cận với truyền thông. Nhiều thách thức đang tiếp diễn đối với việc quản trị dân
chủ ở Ghana, Indonesia, và Philippines một phần là do các đảng chính trị còn yếu
kém.
Dù các cuộc chuyển đổi này thường do các nguyên nhân chính trị
hơn là kinh tế kích động, những thách thức kinh tế sớm trở thành ưu tiên cho
các chính phủ mới. Giảm nghèo và thất nghiệp có thể xung đột với các cải cách
kinh tế cần để thúc đẩy việc tăng trưởng dài hạn và sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Trước khi sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân bị xói mòn, chính phủ cần thực hiện
các biện pháp xã hội làm giảm nhẹ những khó khăn cho những người dễ bị ảnh hưởng
nhất phải chịu đựng, nhưng chính phủ cũng cần phải thực hiện trách nhiệm tài
chính. Các nhà lãnh đạo của mọi cuộc chuyển đổi mà chúng tôi nghiên cứu đều áp
dụng cách tiếp cận định hướng theo thị trường và chính sách tiền tệ và tài chính
kinh tế vĩ mô thận trọng, nhưng hầu hết đã làm một cách rất thận trọng để tránh
thổi bùng nỗi lo sợ của công chúng rằng lợi ích công cộng đã bị bán rẻ cho những
kẻ đặc quyền. Ngay cả những người lúc đầu thù địch với thị trường tự do cũng chấp
nhận rằng thị trường là cần thiết trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa,
cùng với các chính sách xã hội mạnh mẽ vốn có thể tạo ra sự phát triển kinh tế
công bằng hơn.
Như lịch sử gần đây về các can thiệp của phương Tây ở Trung
Đông cho thấy một cách dư thừa, dân chủ không phải là một món hàng xuất khẩu.
Nhưng diễn viên bên ngoài, chính phủ và phi chính phủ, có thể trợ giúp có hiệu
quả các cuộc chuyển đổi dân chủ nếu họ tôn trọng các lực lượng bên trong và
tham gia theo lời mời của họ. Đôi khi, họ có thể cung cấp các điều kiện cần thiết
cho việc đối thoại thầm lặng giữa các lãnh đạo đối lập và giữa phe đối lập với
đại diện của chế độ. Họ có thể đưa ra tư vấn về nhiều vấn đề thực tiễn, từ cách
tiến hành một chiến dịch tranh cử tới cách sử dụng hiệu quả phương tiện truyền
thông, và cuối cùng là cách giám sát bầu cử. Trừng phạt kinh tế có thể giúp kiềm
chế đàn áp, như họ đã làm ở Ba Lan và Nam Phi. Và nước ngoài có thể cung cấp viện
trợ và đầu tư để trợ giúp các cuộc chuyển đổi dân chủ, như họ đã làm ở Ghana,
Philippines, và Ba Lan. Giúp đỡ kinh tế của quốc tế trong quá trình chuyển đổi
có thể tạo chỗ cho cải cách chính trị khi thực hiện để đáp ứng các ưu tiên của
địa phương và phối hợp với các nhà hoạt động tại chỗ.
Tuy nhiên, can thiệp của quốc tế không thể thay thế cho các
sáng kiến trong nước. Các diễn viên bên ngoài có nhiều khả năng tác động có hiệu
quả khi họ biết lắng nghe, đề ra những câu hỏi phát sinh từ kinh nghiệm trong
những thách thức tương tự, và khuyến khích những người tham gia tại chỗ xem xét
vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.
THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI
Các diễn viên mới, công nghệ, áp lực kinh tế, động lực địa
chính trị đã làm thay đổi bối cảnh mà các cuộc chuyển đổi dân chủ hiện nay sẽ
diễn ra trong đó. Bây giờ bất cứ ai với một chiếc điện thoại di động đều có thể
châm ngòi cho các cuộc biểu tình quần chúng bằng cách thu lại hành động bạo lực
của cảnh sát. Truyền thông xã hội có thể nhanh chóng định hình lại công luận và
cho phép các nhà tổ chức tập hợp một số lượng lớn người theo dõi. Nhưng các
công nghệ mới này không thể thay cho công việc đầy khó khăn là xây dựng các tổ
chức. Như Cardoso, nhà cải cách Brazil sau trở thành tổng thống, nhận xét, “Vấn
đề ở chỗ là huy động để phá bỏ thì rất dễ nhưng để xây dựng lại thì khó hơn rất
nhiều. Các công nghệ mới tự chúng không đủ để thực hiện bước tiến kế tiếp. Các
tổ chức là cần thiết, cùng với khả năng thông hiểu, xử lí, và thực hành quyền
lãnh đạo được duy trì mọi lúc.” Như Kufuor nêu: “Quần chúng không thể xây dựng
các tổ chức. Chính vì thế lãnh đạo là quan trọng.” Trong những năm trước mắt,
các phong trào xã hội và các tổ chức xã hội dân sự, tăng cường bởi mạng kĩ thuật
số, có lẽ sẽ gây sức ép các chế độ chuyên quyền thường xuyên hơn và hiệu quả
hơn so với trước đây. Tuy nhiên, những phong trào này không thể thay thế các đảng
chính trị và các nhà lãnh đạo. Chính những diễn viên này cuối cùng phải xây dựng
các tổ chức, xây dựng các liên minh bầu cử và quản trị, giành được sự ủng hộ của
công chúng, chuẩn bị và thực hiện các chính sách, khêu gợi những hy sinh vì lợi
ích chung, khêu gợi cho mọi người tin rằng dân chủ là có thể thực hiện được, và
quản trị một cách hiệu quả.
Thật khó để xây dựng nền dân chủ bền vững và hoạt động trơn tru
ở các nước vốn không có kinh nghiệm về chính quyền của chính họ gần đây, nơi mà
các tổ chức xã hội và dân sự là mong manh, và nơi mà các tổ chức nhà nước yếu
kém không có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh đầy đủ. Dân chủ cũng có
thể khó thiết lập ở những nước với sự chia rẽ sắc tộc, tông phái, hoặc vùng miền
mạnh mẽ. Và dù sao đi nữa các chính phủ dân chủ được bầu một cách dân chủ không
thể cai trị độc đoán bằng cách bỏ qua, làm suy yếu, hoặc chỉ đồng ý trên đầu
môi với những ràng buộc về lập pháp và tư pháp mà việc quản trị dân chủ đòi hỏi.
Tuy nhiên, chính tất cả các nước này lại cần có thay đổi dân chủ cấp bách nhất.
Ví dụ của Ghana, Indonesia, Philippines, Nam Phi, và Tây Ban Nha cho thấy những
thách thức này có thể đáp ứng được trong nhiều điều kiện khác nhau, thậm chí ở
các nước bị chia rẽ sâu sắc.
Ngày nay hơn bao giờ hết có thể huy động nhiều người trẻ có học
thức hơn tham gia biểu tình cho dân chủ ở các quảng trường công cộng, đặc biệt
là ở những nơi việc làm hiếm hoi. Tuy nhiên, đưa họ can dự trong việc xây dựng
các đảng chính trị lâu bền và các tổ chức khác trên cơ sở đang diễn tiến là
thách thức lớn.
No comments:
Post a Comment