Hội nghị Thành Đô năm 1990
The 1990 Chengdu Meeting
Zhang Xiaoming (Trương
Hiểu Minh)
(Đạ đăng trên viet-studies/kinhte ngày 21/1/2016)
(trích từ Chương 8: Con đường dẫn tới chấm dứt xung đột
(pp. 202-206) trong cuốn Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu Bình:.xung đột quân sự
giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991 (The New Cold War History) The University
of North Carolina Press)
Lời bàn của gs Trần Hữu Dũng: Nên nhớ rằng
tác giả cuốn sách này là một học giả người Tàu (hiện dạy ở Mĩ), chỉ căn cứ chủ
yếu vào các nguồn tư liệu của Trung Quốc. Dù có muốn khách quan (giả định như vậy)
và có chuẩn mực học thuật cao, ông cũng không thể tránh phản ảnh cách nhìn của
Trung Quốc (nhất là, theo ông, Hà Nội vẫn chưa bạch hóa những tài liệu về phía
Việt Nam). Đây là tài liệu đầu tiên mà tôi được đọc nói về sự xung khắc giữa
Nguyễn Văn Linh và Nguyễn Cơ Thạch (nhấn mạnh một lần nữa: đây là theo nhận định
của Tàu), và vai trò tuy nhỏ nhưng khá bất ngờ của con của ông Hoàng Văn Hoan
(người trốn sang Trung Quốc)
Tháng 6 năm 1990 (khi Đông Âu lần đầu tiên thoát khỏi chế độ cộng sản sau hơn bốn mươi năm), các
nhà lãnh đạo Việt Nam đã có một yêu cầu khẩn thiết khác cho một chuyến thăm
Trung Quốc. Trong cuộc gặp với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, Nguyễn Văn Linh
nhắc lại các chuyến đi Trung Quốc của ông trước khi có tranh chấp biên giới
và các cuộc gặp gỡ của ông với Mao Trạch Đông, Chu n Lai và Đặng Tiểu Bình. Nguyễn Văn Linh tự
nhận mình là một học trò của Mao về lý luận cách mạng và rất trân trọng
viện trợ của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ. Sau đó,
ông thừa nhận rằng Việt Nam đã cư xử không tốt với Trung Quốc và sẵn sàng sửa
chữa sai lầm của mình. Đối với Campuchia, nhà lãnh đạo Việt Nam bày tỏ niềm tin
rằng tình hình sẽ được giải quyết một cách hòa bình, nhưng kêu gọi cả Việt Nam
lẫn Trung Quốc nên cùng hợp tác với nhau ngăn chặn không để phương Tây và
Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Campuchia trong tương lai. Nguyễn Văn Linh cũng
thừa nhận việc loại trừ Khmer Đỏ khỏi chính phủ Campuchia trong tương lai là
không thực tế. Cuối cùng, phần nào theo cách của Đặng Tiểu Bình, ông bày
tỏ mong muốn đuợc gặp các lãnh đạo
Trung Quốc để giải quyết vấn đề Campuchia và vấn đề quan hệ Việt-Trung trước
khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, lãnh đạo Trung Quốc dường như vẫn dửng dưng với quan
điểm của nhà lãnh đạo Việt Nam này về Campuchia và thấy khó chịu bởi cái
mà họ cảm nhận như là thái độ táo tợn của bộ trưởng ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Cơ Thạch trong cuộc gặp với thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc tại Hà Nội.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã không còn hài lòng với việc Việt Nam rút
quân khỏi Campuchia mà bây giờ mong đợi nhiều hơn ở Hà Nội. Trong một phúc
đáp nhanh cho Nguyễn Văn Linh, Trung Quốc nhấn mạnh rằng hội nghị thượng đỉnh
giữa hai nước chỉ có thể xảy ra sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia:
Việt Nam vẫn cần phải hoàn thành việc rút quân và sau đó giúp vào việc hòa
giải dân tộc Campuchia.
Đến nay vẫn chưa được biết phản ứng của Việt Nam đối với
phúc đáp không mong đợi này. Có một vài tiến bộ đã được đạt đuợc trong
vòng từ tháng 1 tới tháng 8 năm 1990. Thứ nhất, năm thành viên thường trực
của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã đạt được thỏa thuận về một khuôn khổ cho
một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia: tất cả các viện trợ bên ngoài cho
các phe phái đối địch nhau sẽ ngưng lại, Cơ quan Chuyển tiếp của Liên
Hiệp Quốc tại Campuchia (UNTAC) sẽ được thành lập, và chủ quyền của
Campuchia sẽ được tôn trọng. Thứ hai, tất cả các phe phái chính trị Campuchia
đều đã chấp nhận thỏa thuận này, và một vòng đàm phán mới với Hà Nội đã được
lên lịch vào tháng 9 tại Jakarta. Ngày 16 tháng 8, tòa đại sứ Trung Quốc tại
Hà Nội nhận được một tin nhắn miệng của Nguyễn Văn Linh qua con trai cựu lãnh
đạo Việt Nam Hoàng Văn Hoan, người đã đào thoát sang Trung Quốc vào năm 1979.
Ông Linh đã đưa ra thêm lời kêu gọi hòa giải nữa trong khi đổ lỗi cho Bộ trưởng
ngoại giao của mình cho tranh cãi không dứt giữa Việt Nam và Trung Quốc về Campuchia
và cho rằng tình huống khó khăn như thế chỉ có thể khắc phục được qua hội
nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước.
Vì tin nhắn này không do nhà lãnh đạo Việt Nam đưa ra trực
tiếp, Bắc Kinh đã ra lệnh Zhang Dewei (Truơng Đức Duy), đại sứ Trung Quốc ở
Việt Nam, tìm cách tiếp xúc riêng với Nguyễn Văn Linh để tìm hiểu ý định
thật sự của ông đối với quan hệ Trung-Việt. Thập kỷ thù địch giữa hai nước đã
khiến việc tiếp xúc giữa các nhà ngoại giao Trung Quốc và các quan chức Việt
chỉ giữ ở mức tối thiểu để trao đổi khi cần thiết. Sau nhiều năm với đối
thoại ít oi giữa hai bên, các nhà ngoại giao Trung Quốc gặp khó khăn lớn
trong việc xác định nguời nào là tốt nhất để liên lạc với nhà lãnh đạo
chóp bu này của Việt Nam. Do Nguyễn Cơ Thạch kiểm soát Bộ Ngoại giao nên Đại
sứ Trung Quốc quyết định nhờ Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng quốc phòng, người
đã lặp lại nhiều quan điểm của Nguyễn Văn Linh tại một phiên họp trước đó với
đại sứ Trung Quốc, giúp sắp xếp một họp với cấp trên của ông.
Cách làm này đã có kết quả. Ngày 22 tháng 8, Nguyễn Văn
Linh tiếp Truơng Đức Duy tại Bộ Quốc phòng. Ông Linh nhận đã có gửi một tin
nhắn miệng tới đại sứ Trung Quốc và nhắc lại ý định muốn đi thăm Trung Quốc.
Ông đặc biệt lưu ý rằng việc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ giúp
làm im mồm những người vẫn phản đối mong muốn của ông trong việc giải quyết
vấn đề Campuchia. Trong tình huống như vậy, Bắc Kinh buộc phải nhân nhượng.
Ngày 27 tháng 8, Thủ tướng Lý Bằng đã đến nhà lãnh đạo chưa nghỉ hưu hẵn
(semiretired) Đặng Tiểu Bình báo cáo việc người kế nhiệm ông quyết định mời
các nhà lãnh đạo Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Sau đó, Lý Bằng gợi ý rằng vì
lý do an ninh liên quan đến Á Vận Hội 1990 sẽ được tổ chức tại Bắc Kinh, cuộc
họp sẽ diễn ra tại Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên. Đặng Tiểu Bình đồng
ý.
Ngày 3 tháng 9, hội nghị thượng đỉnh đã diễn ra. Tham dự
phía Trung Quốc có tổng bí thư đảng Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng,
và phía Việt Nam có tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, chủ tịch hội đồng
Bộ truởng (thủ tuớng) Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng. Giang Trạch Dân thẳng
thắn nói rằng cả hai bên phải đối diện với những cái đúng và sai giữa hai nước
kể từ cuối những năm 1970. Theo Giang Trạch Dân, Trung Quốc không đòi phải
thanh toán các ân oán cũ mà muốn đi tới tận gốc rễ của vấn đề và đặt
nền móng mới cho tương lai. Ông hoan nghênh sáng kiến của ban lãnh đạo mới
của Việt Nam trong việc cải thiện quan hệ nhưng một lần nữa chỉ ra rằng,
Campuchia vẫn là trở ngại lớn cho việc bình thuờng hóa. Nhà lãnh đạo Trung Quốc
sau đó kêu gọi các đối tác Việt Nam chấp nhận kế hoạch của Liên Hiệp Quốc.
Nguyễn Văn Linh thú nhận rằng Việt Nam đã đi theo một chính sách sai lầm trong
mười hai năm qua và giải thích rằng ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay muốn sửa chữa
để nối lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước và hai đảng mà Hồ Chí Minh đã
gầy dựng. Ông hứa sẽ ủng hộ một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia dựa
trên văn bản khung của Liên Hiệp Quốc. Dù vậy, Việt Nam vẫn chống kế hoạch của
Bắc Kinh về Cơ quan chuyển tiếp của Liên hiệp quốc (UNTAC) dưới sự lãnh đạo
của Hoàng tử Sihanouk, dù chỉ có Phạm Văn Đồng là nguời duy nhất chống
đối mạnh mẽ đề xuất của Trung Quốc. Bắc Kinh đề nghị chính quyền Phnom Penh
do Hà Nội hậu thuẫn sẽ chiếm sáu ghế trong UNTAC, trong khi mỗi một trong ba
phe đối kháng sẽ có hai ghế. Vì Sihanouk cũng thuộc về phía đối kháng nên
Việt Nam cảm thấy rằng sự sắp xếp này là không công bằng và không hợp lý. Ngày
đầu tiên của cuộc đàm phán kéo dài đến 8 giờ tối mà không đạt được thỏa thuận.
Sau đó tại bàn tiệc chào mừng vào buổi tối, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đuợc
cho là đã cố tiếp tục thuyết phục các nhà lãnh đạo Việt Nam chấp nhận đề nghị
của Trung Quốc. Sau một buổi họp dài ngày hôm sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam đầu
hàng. Họ cũng hứa sẽ thuyết phục chế độ Phnom Penh chấp nhận kế hoạch của Trung
Quốc. Hai bên sau đó đã đạt được thỏa thuận về các nguyên tắc cho giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia và nối lại quan hệ.
Ngày 6 tháng 9, các quan chức ngoại giao Trung Quốc vội
vã bay đến Jakarta thông báo cho tất cả các bên về thỏa thuận mới giữa Trung
Quốc và Việt Nam về Campuchia và thúc giục họ đạt tới thỏa thuận. Một năm đấu
đá nội bộ giữa các phe Campuchia tiếp diễn trước khi một thỏa thuận hòa
bình được ký kết. Hội nghị thượng đỉnh Thành Đô biểu thị sự kết thúc mười
hai năm Trung Quốc thù địch Việt Nam. Giang Trạch Dân đã trích dẫn một bài thơ
thời nhà Thanh: "Không thảm họa nào đủ mạnh để phân cách anh em; [gặp
lại nhau] chỉ cần một cái cười là ân oán tiêu tan"(Dujin Jiebo xiongdi
zai; Xiangfeng yixiao min enchou/度尽劫波兄弟在相逢一笑泯恩仇: độ tận kiếp ba huynh
đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu) để kết thúc cuộc họp. Nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc tỏ
ra đầy tình cảm khi nhắc lại mối quan hệ anh em giữa Trung Quốc và Việt Nam
từ 1950-1970, mặc dù sau đó ông thừa nhận rằng việc thù địch kéo dài hơn
thập kỷ đã làm cho hai nước khó quay trở lại kiểu quan hệ gần gũi và thân
mật mà họ từng có trong những năm 1950 và 1960. Về phần mình, người dân Trung
Quốc vẫn cay đắng nhận ra rằng sự hy
sinh của họ cho Việt Nam trước đó đã không đem lại tình bạn và lòng biết ơn lâu
dài và càng trở nên khó chịu hơn nữa với hành vi khó tin cậy đuợc của Việt
Nam. Họ nhắc lại thành ngữ cổ của Trung Quốc, "Ai cho ta bú chính là mẹ
ta" (younai bianshi niang /有奶便是娘: Hữu nãi tiện thị nương) để
trách cứ sự vô ơn của Hà Nội.
Nicholas Khoo đã đúng khi cho rằng "sự sụt giảm trong
xung đột Trung-Xô" là hệ quả không tránh khỏi của việc mở "cánh cửa
cho việc xích gần nhau Trung-Việt." Nhìn trở lại, khi Hà Nội tìm đến Bắc
Kinh năm 1989 và năm 1990, thế giới cộng sản đang ở đỉnh của những thay đổi mạnh
mẽ và sâu sắc. Các cơn bão chính trị điên cuồng quét khắp Đông u. Liên Xô đang trên bờ vực của sự tan vỡ. Giữa
lúc chủ nghĩa cộng sản đang sụp đổ, nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam và những
người ủng hộ bắt đầu lo lắng về những cái sẽ xảy ra cho đất nước của họ, một
trong những nước cộng sản non trẻ nhất. Thành công của Trung Quốc trong cải
cách kinh tế và mở cửa với thế giới đã cho ra hy vọng. Theo Nguyễn Văn Linh,
vì CHXHCNVN là một nuớc nhỏ và Đảng Cộng
sản Việt Nam là một đảng nhỏ, họ cần phải dựa vào Trung Quốc và ĐCSTQ để tiếp
tục ngọn cờ xã hội chủ nghĩa. Nhà lãnh đạo này tiếp tục chỉ ra rằng CHXHCNVN
và Đảng Cộng sản Việt Nam cần sự ủng hộ của các nước láng giềng xã hội chủ
nghĩa "của họ. Một lần nữa, theo quan điểm của Việt Nam, cùng có chung lợi
ích chính trị và ý thức hệ là đủ để đưa hai nước xã hội chủ nghĩa này trở
thành một liên minh chặt chẽ. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, cách nghĩ quen
dùng đuợc dẫn dắt về mặt ý thức hệ này đã lỗi thời: trong môi trường
quốc tế hiện nay, mỗi nuớc xã hội chủ nghĩa nên theo đuổi các chính sách phục
vụ lợi ích quốc gia của riêng mình. Vào thời điểm đó, các ưu tiên quốc gia của
Trung Quốc là cải cách kinh tế và mở cửa. Dù Việt Nam háo hức cải thiện quan
hệ với Trung Quốc, Bắc Kinh có vẻ vẫn không lay động và tiếp tục nhấn mạnh
phải có giải pháp cuối cùng cho vấn đề Campuchia trước khi bình thường hóa
quan hệ song phương.
--------------------------------------------------
Xem bản song ngữ: https://docs.google.com/document/d/1FaYdMyOjdWoCwW58H491T3IcfDWPsn8I-9DhJV4ulc0/edit?usp=sharing
--------------------------------------------------
Xem bản song ngữ: https://docs.google.com/document/d/1FaYdMyOjdWoCwW58H491T3IcfDWPsn8I-9DhJV4ulc0/edit?usp=sharing
No comments:
Post a Comment