Đường 9 đoạn thật sự có nghĩa là gì?
(What Does the
Nine-Dash Line Actually Mean?)
Trung Quốc có thể làm rõ đường 9 đoạn có nghĩa là gì - và làm giảm căng thẳng
- mà không từ bỏ yêu sách lãnh thổ nào của mình.
Marina Tsirbas
The
Diplomat (02/06/2016)
(bản dịch đã đăng trên anhbasam ngày 05/06/2016)
Đường lưỡi bò. Ảnh: Wikimedia Commons/ CIA
Trung Quốc chưa
nêu ra một cách chính xác - theo thuật ngữ quen thuộc với các luật sư luật biển
hay các nhà ngoại giao -. đường 9 đoạn của
họ ở biển Đông có nghĩa là gì . Sự mơ hồ đó để lại nhiều chỗ trống cho cách giải
thích quá mức có thể có, đặc biệt là khi kết hợp với một số các hành động mà
Trung Quốc đã thực hiện để phản ứng lại các xâm nhập theo họ cảm nhận trong khu
vực mà đườmg đó bao quanh.
Ở một cực của các
cách giải thích, đường này có thể được hiểu như một yêu sách tối đa về chủ quyền
và quyền kiểm soát đối với tất cả các thể địa lí, đất, nước và đáy biển trong
khu vực giới hạn bởi đường 9 đoạn. Đây quả thực là điều mà nhiều quốc gia lo ngại.
Theo luật biển , cách hiểu này không có ý nghĩa nhiều bởi vì có vẻ nó hợp nhất khái
niệm chủ quyền với khái niệm quyền tài phán - và không có đưa ra tọa độ cho các
đảo hay các đường cơ sở, như luật pháp đòi hỏi.
Mô tả một cách lỏng
lẻo, chủ quyền giống như quyền sở hữu tài sản trong nhà trong khi quyền tài
phán gần như tương đương với khả năng được hưởng lợi hoặc được cấp giấy phép sử
dụng các sản phẩm cụ thể trong một khu vực (như cá và dầu khí trong vùng đặc
quyền kinh tế [EEZ] hoặc một hợp đồng nhượng quyền khai thác đối với một số
khoáng sản). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là có quyền áp đặt điều kiện cho
việc lưu thông hoặc kiểm soát mọi hoạt động trong khu vực đó như thể là chủ sở
hữu của nó. Trung Quốc dường như không nêu ra rõ ràng rằng đây là ý nghĩa đường
9 đoạn mà họ muốn nói, nhưng một số việc làm và lời nói của họ lại gợi ý như vậy.
Đặc biệt, Trung Quốc đã phản ứng mạnh mẽ đối với các hoạt động đi lại trên biển
và trên không trong biển Đông - kể cả trong những khu vực vốn ít ra là vùng đặc
quyền kinh tế của một nước nào đó. Hãy nhìn số lượng khá nhiều các vụ máy bay
Trung Quốc cản phá các chuyến bay của Mĩ trên biển Đông năm ngoái, dù có bay gần
các thể địa lí mà Trung Quốc yêu sách hay không, cùng các cáo buộc vi phạm chủ
quyền.
Việc đánh đồng
các khái niệm hay sự mơ hồ chiến lược có lẽ là một công cụ hữu ích để kéo dài
thời gian khi người ta chưa hình dung ra được mình muốn làm điều gì và muốn đưa
ra yêu sách đối với các thể địa lí (và thực thi yêu sách đó) như thế nào. Tuy
nhiên, điều đó cũng có thể gây bất ổn. Làm tăng thêm sự phức tạp này là ý tưởng
về “quyền lịch sử”. Trung Quốc đã sử dụng cụm từ này không những gắn kết với
các yêu sách chủ quyền đối với đất đai (mà lịch sử là thích đáng) mà còn đối với
quyền và quyền tài phán trên biển bên ngoài lãnh hải – những nơi này lịch sử là
không thích đáng. Ngoại lệ duy nhất là quyền đánh cá truyền thống, được Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật biển công nhận. Nhưng cái mà Trung Quốc theo đuổi là một
cái gì đó hoàn toàn khác. Có vẻ họ đang đưa ra lập luận phản lại rằng luật pháp
ở biển Đông phải khác theo một cách nào đó.
Đối mặt với những
bàn cãi hiện nay tại toà trọng tài ở The Hague và sự chỉ trích quốc tế, các học
giả Trung Quốc và những người khác khẳng định rằng họ tuân thủ UNCLOS, nhưng đó
không phải là toàn bộ câu chuyện - một bộ nguyên tắc luật pháp khác áp dụng
trong khu vực này. Diễn đạt cách khác, Trung Quốc nói: dĩ nhiên chúng tôi tuân
thủ UNCLOS - nhưng đó không phải là bộ luật đúng để áp dụng ở đây.
Các luật sư tham
gia tố tụng trên toàn thế giới sẽ nhận ra đây là một chiến thuật pháp lí nổi tiếng,
và điều đó có thể được giải quyết như thế. Chúng ta có thể nhìn thấy giá trị
(merit) và bản chất của nó. Nhưng bằng cách xoay nó vòng quanh, chúng ta lại cho
quyền lịch sử được hưởng đặc quyền như một loại lập luận cho trường hợp đặc biệt
chỉ áp dụng riêng cho biển Đông và có nguy cơ thần thoại hoá nó.
Ở cực kia của các
cách giải thích về cái mà Trung Quốc muốn hiểu với đường 9 đoạn là đường này biểu
thị một “cái hộp”, bên trong đó Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với bất kì vùng
đất nổi lúc triều cao và quyền tài phán đối với các vùng biển tương ứng (ví dụ
như lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế
hay thềm lục địa) được tạo ra bởi thể địa lí đó.
Cách hiểu này sẽ ăn
khớp với những gì mà Trung Quốc nói về các yêu sách chủ quyền của họ trong phần
bảo lưu khi họ phê chuẩn UNCLOS năm 1996 và một số khía cạnh của công hàm phản
đối ngoại giao của họ (2009 và 2011) khi phản ứng với yêu sách của Malaysia /
Việt Nam về thềm lục địa mở rộng trong biển Đông năm 2009. Cách hiểu này sẽ
không làm cho các bên tranh chấp khác hài lòng vì Trung Quốc vẫn sẽ yêu sách chủ
quyền đối với lãnh thổ mà Việt Nam, Malaysia, Philippines, và những bên khác cũng
có yêu sách. Theo cách giải thích này, đường 9 đoạn sẽ không hoàn chỉnh và
không đầy đủ với tư cách là một yêu sách, nhưng không nhất thiết là không phù hợp
với UNCLOS, miễn là Trung Quốc cũng công nhận quyền tự do đi lại trên biển và
trên không ở khu vực ngoài 12 hải lí từ bất kì vùng đất hình thành tự nhiên
(không phải nhân tạo) nổi lúc triều cao
Điều này đi sâu
vào ngóc ngách pháp lí (highly technical), nhưng đó là sự khác biệt giữa việc
yêu sách rằng biển Đông là cái ao nhà của Trung Quốc với việc nói rằng Trung Quốc
có một số đảo nằm xa ngoài khơi bờ biển có thể tạo ra các vùng biển [xung quanh
theo UNCLOS]. Trong trường hợp sau các vùng biển giữa Trung Hoa đại lục và các
đảo là vùng biển quốc tế cho các mục đích giao thông quân sự và dân sự trên biển.
Tháng 12 năm
2011, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Lưu Chấn Dân (Liu Zhemin), người phát ngôn cấp
cao thuộc vụ Biên giới và Đại dương, nói
rằng Trung Quốc tôn trọng quyền tự do và an toàn đi lại ở biển Đông và rằng
chính phủ Trung Quốc luôn luôn duy trì quyền tự do đi lại trên biển và trên
không ở biển Đông như là một quyền mà tất cả các nước được hưởng theo luật pháp
quốc tế.
Phát biểu đó sẽ
bênh vực cách giải thích thứ hai. Những tuyên bố trên các ấn
phẩm chính thức của Trung Quốc gần đây và trong văn kiện chính thức của
Trung Quốc chuyển tới toà trọng tài ở The Hague cũng đưa ra luận điểm tương tự.
Thú vị là các bình luận của Trung Quốc về tự do lưu thông chỉ làm nổi bật tầm
quan trọng của việc này cho việc lưu thông thương mại.
Luật pháp quốc tế
không phân biệt các quyền tự do đi lại mà tàu quân sự và dân sự được hưởng trong
EEZ và vùng biển quốc tế. Nhưng có vẻ như Trung Quốc có thể đang chuẩn bị để
làm như vậy.
Trong một
bài viết gần đây trên National Interest, Phó Oánh (Fu Ying) và Ngô Sĩ Tồn (Wu
Shicun) đưa ra cùng luận điểm về an toàn cho việc đi lại và các đường vận chuyển
thương mại và tiếp tục mô tả biển Đông như là một “lối đi quan trọng tiến ra biển
lớn đối với hải quân Trung Quốc” - một cụm từ lạ lùng và có lẽ rất ấn tượng.
Hai tác giả này cũng cho rằng việc làm rõ đường 9 đoạn có nghĩa là gì sẽ làm leo
thang căng thẳng Thật khó để thấy tại sao lại như thế.
Cách giải thích
thứ hai về đường 9 đoạn cũng được cách
tiếp cận mà Đài Loan theo đuổi trong những năm gần đây hậu thuẫn. Bản đồ đường
9 đoạn được dựa trên một bản đồ ban đầu do một bộ của nước Trung Hoa Dân Quốc
phát hành, bản đồ đó cho thấy 11 vạch tạo thành một hình chữ U ở biển Đông. Năm
1948, chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và quyền tài phán đối với các tài
nguyên biển trên các đảo và đá ngầm bên trong đường này. Khi CHNDTH thành lập, họ
đã thừa nhận đường đó. Từ năm 2005 Đài Loan đã điều chỉnh chút ít yêu sách tập
trung vào các đảo, vùng nước xung
quanh chúng, và thềm lục địa chứ không phải là toàn bộ mảng biển trong đường chữ
U. Đặc biệt là Trung Hoa Dân Quốc”ngưng yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển” bên trong đường này vào tháng 12 năm 2005. Họ đang
tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với các thể địa lí bên trong đường này.
Có thể là toà trọng
tài The Hague có thể “hiểu thấp xuống” đường 9 đoạn theo cách nói trên để làm
cho nó không còn không phù hợp với UNCLOS.
Thời điểm ngay
trước ngày dự kiến có phán quyết của trọng tài và có các hội nghị thượng đỉnh cấp
cao của khu vực bày ra cơ hội cho Trung Quốc làm rõ ý nghĩa của đường 9 đoạn. Nếu
Trung Quốc nói ra một cách rõ ràng rằng cách giải thích thứ hai về đường 9 đoạn
chính là những gì họ dự kiến thì xét về mặt yêu sách đối với chủ quyền lãnh thổ
(và quyền tài phán đối với các vùng biển tương ứng) lâu nay của họ ở biển Đông,
Trung Quốc sẽ chẳng mất gì cả. Tuy nhiên, điều đó sẽ tạo ra một mức độ chắc chắn
cao hơn cho các nước không có yêu sách
hoạt động trong khu vực này. Điều đó cũng sẽ đem lại sự chắc chắn hơn cho các
bên có tranh chấp.
------------------------------------
No comments:
Post a Comment