Khi Trung Quốc và Việt Nam đánh nhau: Bốn bài học Lịch sử
(When China and Vietnam Went to War: Four Lessons for History)
Bắc Kinh và Hà Nội đã
từng bất hoà với nhau trước đây.
Matthew Pennekamp
Trong chuyến đi vòng quanh tới Đông và Đông Nam Á gần đây của
Tổng thống Barack Obama vào tháng trước, trong một cuộc họp báo chung với ông Trần
Đại Quang, chủ tịch nước Việt Nam ông [Obama] thông
báo rằng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam đã được dỡ bỏ. Mặc dù cho đến nay
Nhà Trắng vẫn trấn an những nhà quan sát
nhân quyền rằng bất kì sự bãi bỏ chính sách nào thời chiến tranh lạnh này sẽ
ràng buộc trực tiếp vào hồ sơ cải thiện về các vấn đề tự do về ý thức của Hà Nội
(phải thừa nhận là mô tả của Obama là "khiêm tốn"), cái rốt cuộc đến cho
thấy là quan trọng hơn trong con mắt của giới quan chức Washington là điều mà
Harold Macmillan có lần miêu tả như là yếu tố quyết định chính trong chính trị:
"sự kiện, bạn quý ơi, sự kiện!"
Đối với Obama, sự kiện quan trọng nhất trong đầu là tiềm
năng đáng sợ đối với một sự rỗng ruột của công cuộc chuyển trục sang châu Á đầy
tham vọng mà ông đã khai sinh bảy năm rưỡi trước đây. Trong khi tổng thống đã
cho phép chú tâm trong chính sách đối ngoại của mình bị phân tán bởi cơn xoáy
Trung Đông cũng như một nước Nga có đầu óc phục hồi lãnh thổ cũ, thật sự không
phải lỗi về ông hoàn toàn; cả hai ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ và đảng Cộng
hòa đã chẳng làm gì để xoa nắn lợi ích vùng Vành đai Thái Bình Dương. Mặc dù phần
lớn ngôn ngữ của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được thảo ra
và đàm phán ở Bộ Ngoại giao thời Ngoại trưởng Hillary Clinton, ứng viên
Clinton, cảm nhận một cơn gió mạnh nổi lên từ cánh trái, đã xoay
mạnh lái chiến dịch vận động tranh cử của mình về phía cảng, đương đầu với
luồng gió "Cách mạng" của Bernie
Sanders. Bà đã sống sót sau cơn bão, nhưng khả năng đảo trở lại về một vị thể ủng
hộ TPP là không trên thực tế—nói theo cách của Winston Churchill, một thủ tướng
Anh khác, các nhà chính trị có thể dễ dàng phản bội; chính sự phản bội lần nữa
càng trở nên tệ hại hơn. Và tất nhiên, lời to tiếng của Donald Trump liên quan
tới các đồng minh Nhật Bản và Hàn Quốc đã gây ra sự
rúng động chung của nó.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, "sự kiện" không phải
chỉ thoáng qua vì sự mất tin cậy với láng giềng phương bắc đã chồng chất đời đời
kiếp kiếp. Cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam có ghi chép đầu tiên xảy
ra vào thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, khi Tần Thủy Hoàng mở rộng Trung Quốc mới
thống nhất tới các dải đất miền bắc Việt Nam. Tình trạng này, với việc Trung Quốc
thực hiện ít nhiều quyền bá chủ trên vương quốc phiên thuộc Việt Nam, kéo dài
cho đến năm 1884 khi người Pháp trở thành những ông chủ thực dân mới ở Đông Nam
Á. Chính mong muốn tối hậu của Washington trong việc củng cố địa vị của Pháp tại
Việt Nam mà trên thực tế đã dẫn đến sự can dự đầu tiên của Mĩ dưới thời Tổng
thống Truman. Tuy nhiên, suốt toàn bộ thời gian, Hồ Chí Minh giữ trong đầu
ai mới là kẻ thù đáng lo ngại hơn, qua việc thật sự cộng tác với
Pháp để đẩy quân Quốc dân Đảng Trung Quốc ra khỏi miền bắc Việt Nam sau Thế
chiến thứ II.
Năm 1979, mười năm sau khi Hồ Chí Minh mất, nghi ngờ của ông
đã được kiểm nghiệm, với hai trăm ngàn quân Trung Quốc tụ tập trên biên giới
phía Bắc của Việt Nam sẵn sàng tiến sang xâm lược. Thất bại của họ tạo ra một vết
lõm sâu rộng trong chiến thuật du kích vốn đã phục vụ Việt Nam rất tốt chống lại
Pháp và Mĩ là một điểm then chốt hiển nhiên cần nắm. Nhưng trong lĩnh vực lịch
sử rộng lớn hơn có những bài học sâu xa hơn cần được lượm lặt Dưới đây là bốn bài
học khác:
1. Việc Mĩ can dự vào Việt
Nam được đặt nền móng trên một tiền đề sai, và Chiến tranh Trung-Việt đã cho thấy
điều đó.
Kể từ khi Tổng thống Eisenhower sử dụng cách ví von về sự đổ nhào
dây chuyền của các con cờ Domino để giải thích mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản
tới các quốc gia Đông Nam Á sau chiến thắng năm1949 của Mao trong cuộc nội chiến
Trung Quốc, khái niệm này phục vụ như là một nền tảng tri thức chiếm ưu thế quyết
định chính sách chiến tranh lạnh của Mĩ. Thuyết này đòi hỏi bước tiến của chủ
nghĩa cộng sản trên các nẽo đường của nó phải được chặn lại, vì các quốc gia đã
chuyển thành đỏ sát cánh đi với nhau và đã gạt bỏ các bất bình trong lịch sử để
cùng theo đuổi mục tiêu chung là truyền bá tư tưởng Mác-xít. Đó là logic dẫn dắt
các nhà hoạch định chính sách Washington bảo vệ miền Nam Việt Nam trong gần hai
thập kỉ. Nhưng việc xem mối đe dọa cộng sản vững như một hòn đá tảng đáng lẽ có
thể đã được ngăn chặn ít ra là vào cuối thập niên 1950 khi những tin đồn về sự
chia rẽ Trung-Xô đã bắt đầu xuất hiện (trớ trêu thay, các cựu giới chức Bộ Ngoại
giao duy nhất có khả năng phân tích một sự phát triển như vậy, nhóm China Hands
huyền thoại [nhóm chuyên gia về TQ], lại nhìn thấy sự nghiệp của họ bị việc hù
doạ của McCarthy ngăn lại). Trong việc chơi trò mở cửa cho Trung Quốc năm 1972
bên ngoài việc theo đuổi hòa hoãn với Liên Xô thời Brezhnev, bộ đôi Nixon /
Kissinger đã đưa ra tín hiệu đánh giá cao các rạn nứt trong nội bộ Cộng sản.
Chính cuộc chiến tranh Trung-Việt đã làm cho các rạn nứt đó tỏ
rõ cho mọi người đều thấy. Năm 1978, Việt Nam, mệt mỏi về sự bất ổn trên biên
giới Campuchia / Việt Nam do chính quyền Khmer Đỏ cầm quyền từ năm 1975 gây ra,
đã phát động một cuộc tấn công vào Campuchia và chiếm lấy Phnom Penh. Tuy
nhiên, trong ván bài cạnh tranh lớn Moscow / Bắc Kinh, điều này được diễn giải
(một cách chính xác) là một quốc gia liên kết với Moscow gây chiến với một quốc
gia liên minh với Bắc Kinh. Trong một màn luân vũ chầm phần nào gợi nhớ đến
tháng 8 năm 1914 [thời gian khở đầu thế chiến thứ nhất], Trung Quốc, không thể cho
phép sự sỉ nhục này được bỏ qua không lời đáp trả cho đồng minh của mình, đã can
thiệp chống lại Việt Nam, dàn dựng cuộc xâm lược dẫn đến chiến tranh Trung-Việt.
Cũng thú vị khi lưu ý là trước khi tỏ rõ Việt Nam sẽ tự mình chống lại quân đội
Trung Quốc, Liên Xô đã cung cấp trang thiết bị quân sự cho Hà Nội và đã phái tàu
hải quân yểm trợ đến biển Đông để trợ giúp cho việc thu thập tin tức.
2. Hãy coi chừng một
nhà lãnh đạo mới cần chứng tỏ sức mạnh của mình. Ông ta có thể chỉ tấn công ra
ngoài.
Vào năm 1979, nhà lãnh đạo nhỏ thó Đặng Tiểu Bình mới xác lập
được quyền lực, thấy được mối đe dọa thù dịch do bè lũ 4 tên cuồng Mao (do Giang
Thanh, vợ thứ tư của Mao cầm đầu) đặt ra. Đặng có ý cho cách lãnh đạo của mình phá
vỡ và tách biệt với cách chính thống của Mao. Tuy nhiên, các bước đi chệnh choạng
về phía tự do hóa kinh tế vốn xác định kinh nghiệm của Trung Quốc sau thập niên
1980 không thể xảy ra nếu trước hết Đặng không củng cố quyền lực và chứng tỏ khả
năng lãnh đạo của mình (khái niệm về Thiên mệnh đế vương xưa cũ, dù không còn
chính thức, vẫn chưa bao
giờ thật sự thoát ra khỏi đầu óc của người Trung Quốc). Không ngạc nhiên là
việc tiến hành cuộc chiến tranh chống lại một kẻ thù lịch sử lâu dài là cách chắc
chắn nhất để đạt được cả hai điều đó.
Ngoài ra, đối với một nhà lãnh đạo Trung Quốc, để thăng lên vị
trí lãnh đạo tối cao, quyền lực của ông ta phải dựa trên một ba trụ cột hiệu quả:
điều khiển nhà nước, điều khiển Đảng Cộng sản, và điều khiển quân đội. Trong việc
lựa chọn chỗ nào—và quan trọng lúc nào—để đánh như ông đã làm, Đặng Tiểu Bình
có thể mua thời gian quý báu cho mình trong năm đầu tiên nắm quyền để củng cố
quyền lực của chính mình ở Bắc Kinh, trong khi quân
đội Trung Quốc bị quá phân tâm bởi một chiến dịch sôi động với nhiều trở ngại
phải vượt qua.
3. Dân thiểu số như một
cái cớ có sẵn.
Cho dù đó là việc Hitler khăng khăng cho rằng người Đức Sudeten
đã bị gạt ra bên lề ở Tiệp Khắc, là việc Putin tin vào vai trò của Nga là kẻ bảo
vệ người sắc tộc Nga bên ngoài biên giới của mình, là việc Milosevic và Tudman xẻ
chia Bosnia nhân danh dân tộc Serbia và Croatia hay, là việc phương Tây quả thật đã trợ
giúp cho những người Hồi giáo Bosnia và
Albania trong cùng cuộc xung đột đó, thì việc sử dụng dân thiểu số được
cho là bị đối xử tệ hai như một cái cớ gây chiến (casus belli) là một chiến thuật
thăm dò và kiểm nghiệm. Điều này cho thấy là đúng trong trường hợp chiến tranh
Trung-Việt, với Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội đối xử tệ hại dân số người Hoa tại Việt
Nam Giống như nhiều trường hợp nại lí do này, sự đối xử tệ hại thực tế đã bị phóng
đại; quả thật, những nhân viên kích động từ đại sứ quán Trung Quốc đã dựa vào
việc đàn áp người Hoa để ca bài chống Liên Xô (và với cuộc cờ về sự chia rẽ
Trung-Xô trong đầu, cũng ngầm chống Việt Nam). Cũng không phải việc đối xử của
Hà Nội có tính trừng phạt—nó tập trung vào việc cố gắng đồng hóa họ sâu đậm hơn
vào văn hóa Việt. Những nỗi đau khổ người Hoa gánh chịu, trong chừng mức chúng
tồn tại, chí là một cái cớ.
4. Xác định lại mục
tiêu nếu mục tiêu ban đầu không còn được việc.
Hầu hết các cơ quan chính sách ngoại giao Washington đều biết
trò xảo thuật khi thấy nó. Vào tháng 8 năm 2012, khi Barack Obama công bố rằng
việc triển khai và sử dụng vũ khí hóa học của lực lượng Syria vẫn còn trung
thành với Bashar al-Assad tạo thành việc vượt quá "lằn ranh đỏ", cụm
từ này mơ hồ một cách thích hợp để sau này tổng thống thêm vào lời giải thích
chính xác về điều gì sẽ xảy ra nếu lằn ranh bị vượt— dù hầu hết (kể cả Obama,
theo nghiên
cứu của Jeffrey Goldberg về việc ra quyết định của tổng thống) đều cho rằng
nó sẽ dính dáng đến các cuộc không kích. Khi điều đó được cho thấy là không khả
thi về mặt chính trị, John Kerry, khi
nhận câu hỏi của phóng viên về việc liệu việc tướt lấy kho vũ khí hoá học hiện
có của Assad với sự trợ giúp của Nga là hoàn thành hành động cần phải có do đã
vẽ lằn ranh đỏ ngay lúc đầu, bất ngờ thấy mình không đúng. Điều này trong chính
sách đối ngoại là tương đương với việc dời khung thành rồi tuyên bố thắng.
Trung Quốc đã từng sử dụng trò này khi họ phát hiện ra đối
thủ Việt Nam của họ là khó trị như thế nào. Với hai trăm nghìn quân dành cho
hành động phiêu lưu đó, nửa triệu được huy động thêm, và chính bản thân Đặng cũng
tìm kiếm sự đảm bảo của Jimmy Carter rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào cuộc
chiến tranh sắp tới, có dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh có nhiều mục tiêu tham vọng hơn
rất nhiều trong đầu. Việc Trung Quốc thừa nhận rằng họ can thiệp để giúp đồng
minh Campuchia khiến người ta tin rằng họ có ý định đánh cho đến khi có tiến bộ
thấy được trên mặt trận Campuchia. Tuy nhiên, ba tuần sau đó, khi đã xác định
được rằng Việt Nam sẽ không rời bỏ Hà Nội hay chuyển bất kì lực lượng nào từ
Campuchia về để chống lại mối đe doạ ở phía Bắc, Bắc Kinh bắt đầu rào đón bằng
cách nói rằng việc chứng minh Liên Xô không có khả năng bảo vệ đồng minh tự nó đã
là một thắng lợi.
Với căng thẳng đang tăng lên ở Biển Đông và Hoa Kỳ rút lại lệnh
hạn chế vũ khí, Chiến tranh Trung-Việt đáng được xem xét lần nữa.
No comments:
Post a Comment