Những diễn tiến ở Biển Đông
Góc nhìn về Philippines, Malaysia, và xa hơn
(Developments in the South China Sea
Perspectives on the Philippines, Malaysia, and Beyond)
Bill Hayton
Bài báo cáo trong Hội nghị của CSIS tháng 9/2015
(Bản dịch đã đăng trên anhbasam ngày 18/11/2015)
Tốt nhất là bắt
đầu với những gì bài viết này không chú trọng tới: cụ thể là các cuộc thảo luận
về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
-China. Các cuộc đàm phán đã và đang diễn ra trong nhiều vỏ bọc khác nhau từ
năm 1995, sau khi Trung Quốc chiếm Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Cho đến nay
ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí Bản Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) năm 2002, hình thành Nhóm Công tác chung ASEAN-Trung Quốc đưa vào thực
hiện DOC trong 2004,[1]
và gần đây nhất, Hướng dẫn thực hiện DOC vào tháng 7 năm 2011.
Tuy nhiên dù
trãi qua 20 năm đàm phán, hai bên vẫn chưa thể tìm ra thỏa thuận về các biện
pháp cụ thể để kiểm soát các hoạt động ở Biển Đông. Tóm gọn là Trung Quốc sẽ
không đồng ý với bất cứ điều gì hạn chế sự tự do hành động của họ và chẳng
có ý nghĩa gì để ASEAN đồng ý với bất
cứ điều gì không hạn chế sự tự do hành động của Trung Quốc. Vì vậy, có ba kết
quả có thể có cho các cuộc đàm phán đang diễn ra: gãy đổ, dẫn đến một mảnh giấy
vô nghĩa, hoặc kéo dài mãi—cấp khách sạn sang trọng của Đông Nam Á cho các nước rất cần tới. Điều tốt nhất có thể
nói cho quá trình này, diễn đạt lại câu nói của Winston Churchill, là "đấu
mồm tốt hơn đấu súng” (jaw-jaw is better than war-war).
Bài viết này
cũng không khai phá sâu Sáng kiến Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21 của
Trung Quốc. Cho đến nay, ít nhất đối với Đông Nam Á, đó có vẻ là một ví dụ khác
về đấu võ mồm. Từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình công bố sáng kiến này đến nay đã gần
2 năm và điều duy nhất thấy được tới giò này vẫn là nhiều tài trợ cho
khách sạn sang trọng: một vài hội nghị và tiệc chiêu đãi nhưng chẳng có đầu tư
bất cứ nơi nào bên ngoài Trung Quốc, dù chỉ một nhân dân tệ. Sáng kiến cụ thể
duy nhất hiện lên trong đề mục này là việc kí kết các thư bày tỏ ý định giữa
cơ quan quản lí Cảng Klang trước đây đầy rẫy tham nhũng của Malaysia và 5 cảng
Trung Quốc. Dù chắc chắn rằng hầu hết các nước ASEAN hết sức cần đầu tư cơ sở hạ
tầng, nhưng vẫn chưa rõ rằng Con đường Tơ lụa trên biển sẽ cung cấp điều đó
không.
Chừng nào mà
ASEAN còn thấy các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông là đe dọa thì các nước
thành viên vẫn có khả năng sẽ xử sự thận trọng với những sáng kiến như thế
này. Năm 2014 Trung Quốc đã đề xuất đưa năm 2015 thành năm của Hợp tác về biển
của Trung Quốc-ASEAN, và tháng 3 năm [Hợp tác] đã được chính thức ra mắt bên lề
Diễn Đàn Bác Ngao (Boao Forum).[2]
Kể từ đó chỉ toàn im lặng. Quỹ Hợp tác Biển Trung Quốc-ASEAN đã được công bố rất
đình đám tại hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN lần thứ 14 vào tháng 11 năm
2011 với một ngân sách $ 500 triệu nhưng dường như chưa giải ngân được bất kì
khoản tiền đáng kể nào bên ngoài Trung Quốc. Quan hệ Đối tác biển Trung Quốc-ASEAN
đã được Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN
lần thứ 15 năm sau.[3]
Một lần nữa, không có gì từ đó ra cả .
ASEAN đã từ chối tham gia; không có hợp tác.
Thay vào đó, bài
viết này tập trung vào việc phân tích làm thế nào mà các sự kiện năm ngoái
— đặc biệt là phản ứng quốc tế đối với việc Trung Quốc xây dựng 7 đảo nhân tạo
và việc Tòa Trọng tài Thường trực bắt đầu tiến trình xét xử — đã tạo ra một cơ
hội cho hòa bình ở Biển Đông. Vâng, hòa bình.
Như thường được
hiểu, có hai dạng tranh chấp ở Biển Đông. Có những tranh cãi nhỏ về việc nước
nào cắm cờ trước tiên trên đảo hoặc rạn đá nào. Và có những tranh cãi to về việc
liệu các nước có nên bám vào chế độ luật pháp quốc tế vốn đã tạo ra kỷ nguyên
hòa bình và thịnh vượng nhất trong lịch sử thế giới trong hơn 70 năm qua hay
không. Giải pháp cho cả hai đều nằm trong tầm tay, nếu các bên chọn cách với tới
chúng.
Trước khi giải
thích về việc làm thế nào, điều đáng lưu ý là mối quan ngại về những tác động
rộng lớn hơn của tình hình Biển Đông đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ
hiện có đang lan rộng. Ngay cả Liên minh Châu Âu —mặc dù có rất nhiều vấn đề
khác phải giải quyết vào lúc này—cũng nêu lên quan ngại của mình. Tại Đối thoại
Shangri-La năm 2015, đại diện cấp cao về đối ngoại, Federica Mogherini, nói tới
một cách cụ thể một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm Công
ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS):
Chúng ta cần phải duy trì một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế,
trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển. Chúng ta không đi vào tính hợp pháp của
các yêu sách cụ thể, nhưng với tư cách người Châu Âu chúng tôi kiên quyết đối
với việc chúng phải được giải quyết NHƯ THẾ NÀO, đó là, theo cách hòa bình,
không sử dụng hoặc đe dọa vũ lực.[4]
Với Liên minh
Châu Âu, Hoa Kì, Nhật Bản và đều cùng quan ngại về những vấn đề này, không có
gì ngạc nhiên khi Nhóm G7, cũng đã bàn tới chúng.[5] Vào tháng 4 Nhóm công bố lần
đầu tiên “Tuyên bố về an ninh trên biển," trong đó có chỗ đề cập cụ thể về
Biển Hoa Đông và Biển Đông và một phát
biểu của nhóm như sau:
quan ngại bởi bất kì hành động đơn phương nào, chẳng hạn như bồi tạo đất
quy mô lớn, làm thay đổi nguyên trạng và làm tăng căng thẳng. Chúng tôi cực lực
phản đối bất kì nỗ lực nào khẳng định các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ hoặc biển
thông qua việc sử dụng đe dọa, cưỡng ép hoặc vũ lực.[6]
Tuy nhiên, tuyên
bố không nêu tên bất kì nước nào.
Bộ trưởng Quốc
phòng Australia, Kevin Andrews, cũng sử dụng Đối thoại Shangri-La để làm cho rõ
việc chính phủ ông "phản đối bất kì hành động cưỡng chế hoặc đơn phương
làm thay đổi hiện trạng ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, [kể cả] hoạt động bồi tạo
đất quy mô lớn nào".[7]
Và Canberra đã biểu lộ sự không hài lòng của mình qua việc mời quân đội Nhật Bản
tham gia cuộc tập trận Talisman Sabre
hàng năm Mĩ-Úc. Trong hai năm 2014 và 2015 Úc cũng đều đã tham gia cuộc tập trận
Balikatan hàng năm Mĩ-Phi. Úc đang sắp chuyển giao cho Philippines hai tàu chở
tăng đổ bộ.
Hoàn thành mạng
tam giác, Philippines và Nhật Bản tổ chức tập trận hải quân chung lần đầu ở Biển
Đông vào giữa tháng 5 năm 2015, sau một thỏa thuận giữa hai nước ký kết hồi
tháng 1.[8]
Nhật Bản đang cung cấp 10 tàu tuần tra cho tuần duyên Philippines và cam kết
nâng cấp năng lực giám sát và phòng thủ của Manila. Hồi tháng 6, hai nước đã
chính thức hóa quan hệ đối tác chiến lược của họ.[9]
Ấn Độ cũng đã trở
nên can dự nhiều hơn. Tháng 9 năm 2014 tuyên bố chung Ấn-Mĩ, đặc biệt đã đề cập
Biển Đông lần đầu tiên. Tổng thống Barack Obama và Thủ tướng Narendra Modi kêu
gọi nên giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và biển, "phù hợp với những
nguyên tắc được thừa nhận của luật pháp quốc tế, gồm cả UNCLOS."[10]
Ấn Độ đã phớt lờ
phản đối của Trung Quốc và một lần nữa mời Nhật Bản tham gia cuộc tập trận hải
quân Malabar hàng năm của mình với Hoa Kì trong tháng 10 năm 2015. Ấn Độ, Nhật
Bản, và Hoa Kì cũng sẽ tổ chức các cuộc đối thoại ba bên ở cấp Bộ trưởng lần đầu
bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm 2015. Cũng có những cuộc tập trận hải
quân Ấn-Nhật riêng biệt.
Trên khắp khu vực,
các thỏa thuận an ninh thường được mô tả như hệ thống ổ trục và nan hoa—với
Hoa Kì trong vai trò ổ trục—cũng đang trở thành hệ thống đồng bạn (peer to
peer). Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Việt Nam, và những nước
khác đang từng bước xây dựng các quan hệ an ninh và ngoại giao mới trực tiếp với
nhau. Có một vài ngoại lệ — chẳng hạn, chỉ có "I" (India: Ấn) trong
BRICS lên tiếng— nhưng hầu như tất cả các nước lớn khác đều đã trực tiếp hoặc
gián tiếp chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng đảo và đưa ra những lời kêu gọi cụ
thể cho việc áp dụng các nguyên tắc của UNCLOS.[11]
Điều này dẫn
chúng ta đến The Hague, Hà Lan, và Cung Hòa bình—trụ sở của Tòa Trọng tài Thường
trực—nơi các buổi tranh tụng đầu tiên trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã
diễn ra vào đầu tháng 7 năm 2015.[12]
Trước hết, Toà phải quyết định xem có quyền phân xử vụ kiện hay không, thực ra
đó là câu hỏi liệu Toà có nghĩ rằng các tranh chấp lãnh thổ cần được giải quyết
trước khi Toà có thể đưa ra phán quyết về loại khu vực biển nào mà mỗi thể địa
lí có thể yêu sách được có dựa trên UNCLOS. Giả sử Tòa quyết định xét xử vụ
án—và sẽ đáng ngạc nhiên nếu họ nói không—thì dự kiến có thể Philippines sẽ
thắng hầu hết tất cả các điều khiếu kiện.
Trong 7 thể địa
lí do Trung Quốc chiếm đóng ở Trường Sa, 4 chứa các mỏm đá vẫn còn ở trên mặt
nước khi triều cao và 3 nằm chìm dưới nước trong trạng thái tự nhiên. Các thể địa
lí này lẫn Bãi cạn Scarborough đều không thể phục vụ cho việc cư trú của con
người. Do đó, nhiều nhất chúng chỉ tạo ra lãnh hải 12 hải lí, và tuyệt nhiên
không có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nào cả.
Vì vậy, rất có
khả năng ảnh hưởng vụ kiện của Philippines sẽ cho tòa phán quyết đường chữ U, hoặc chín đoạn của Trung Quốc
là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhiều người đã hỏi, "Thế thì đã
sao? Trung Quốc sẽ chỉ việc phớt lờ phán quyết." Nhưng hãy nghĩ về tình huống
này.
Philippines cần
khai thác nguồn dự trữ khí tự nhiên mới để thay mỏ Malampaya ngoài khơi bờ biển
Palawan. Malampaya, do Shell điều hành trong khuôn khổ quan hệ đối tác với
Chevron và Công ty dầu quốc gia Philippines (PNOC), hiện đang cung cấp khoảng một
phần ba lượng điện sử dụng trên đảo Luzon bao gồm cả thủ đô Manila. Các bản tin
trên truyền thông Philippines gợi cho thấy mỏ này sẽ cạn kiệt vào năm 2024.[13]
Khảo sát địa chấn
cho thấy câu trả lời nằm bên dưới Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) vốn nằm bên trong đường
chín đoạn. Khảo sát do Forum Energy thực hiện dự phóng trữ lượng khí đốt ở đó
là 8,8 nghìn tỉ feet khối—lớn hơn Malampaya.[14] Từ kinh nghiệm phải mất
6 năm để phát triển dự án Malampaya gốc (từ lúc phát hiện trữ lượng khí đốt
có kích cỡ thương mại vào năm 1995 cho đến khi bắt đầu dự án năm 2001), yêu
cầu bắt đầu khoan và xây dựng đường ống dẫn là cấp bách nếu thủ đô Philippines
muốn tránh tình trạng thiếu điện trong vòng ít
hơn một thập kỉ tới. Tuy nhiên, hồi tháng 3, Forum Energy thông báo rằng
chính phủ Philippines đã từ chối không cho phép khoan vì có phản đối từ phía
Trung Quốc. Kể từ đó Forum Energy đã buộc phải rút việc niêm yết cổ phiếu khỏi
Thị trường Chứng khoán London (London Stock Exchange).[15]
Tuy nhiên, nếu
như Toà Trọng tài Thường trực phán quyết rằng Trung Quốc không có yêu sách EEZ
hợp pháp đối với các nguồn tài nguyên ở Bãi Cỏ Rong thì Philippines sẽ có thể lập
luận rằng bất kì hoạt động khai thác khí đốt nào của Forum Energy, hoặc một
công ti khác hoạt động theo giấy phép của Philippines, là hoàn toàn hợp pháp.
Nếu Trung Quốc cố tìm cách gây cản trở hoạt động hợp pháp như vậy thì sẽ dễ
dàng cho các nhà phê bình quy hành động của họ là vi phạm luật pháp quốc tế.
Đây sẽ là cơ hội hoàn hảo để Hoa Kì, nếu muốn, vẽ một lằn ranh trên biển.
Sẽ có vấn đề cần
làm rõ liên quan tới phạm vi địa lí trong các cam kết của Hoa Kì đối với
việc bảo vệ Philippines theo Hiệp ước tương trợ Quốc phòng Mĩ-Philippines,
nhưng vì Điều V của Hiệp ước có nói tới "lực lượng vũ trang, tàu hay
máy bay công cộng ở Thái Bình Dương," nên không khó để các luật sư của
chính phủ tranh luận rằng nó bao hàm cả Biển Đông.[16] Đây cũng có thể là cơ hội
khi các nước khác cùng chọn cách nói lên sự ủng hộ trật tự trên biển hiện có
đi tới việc bảo vệ UNCLOS cũng như tăng thêm sự ủng hộ về ngoại giao và về các
mặt khác đối với những nỗ lực của Hoa Kì và Philippines. Đây sẽ là thời điểm
nguy hiểm — Trung Quốc và Hoa Kì, và có khả năng nhiều nước khác, có thể đối đầu
trực diện nhau quanh Bãi Cỏ Rong. Nhưng vào lúc này, Trung Quốc sẽ có thể phải
do dự. Họ khó có khả năng an lành thoát ra khỏi một cuộc đối đầu như vậy.
Câu hỏi đặt ra
là liệu Trung Quốc có sẵn sàng đánh liều về những hậu quả của cuộc đối đầu
đó, vốn có thể xảy ra chỉ trong hai năm nữa, hay bây giờ họ có thể thấy
đuợc những gì sắp xảy ra và bắt đầu thực hiện các bước để ngăn chặn
truớc. Về cốt lõi câu hỏi là như thế này: lãnh đạo chính trị của Trung Quốc
có coi lợi ích của họ ở Biển Đông là quan trọng đến mức đáng để hi sinh
các quan hệ quốc tế khác của họ hay không? Nếu không thì có thể lợi ích
trung tâm của đảng-nhà nước Trung Quốc như một tổng thể vuợt trội hơn lợi
ích của các cơ quan nhà nước khác nhau—quân đội, cảnh sát biển, các công
ti dầu, các nhóm vận động hành lang nghề cá, và các tỉnh ven biển— với
các chương trình hành động quan liêu để vuơn lên của chính họ hay không?
Nguyên nhân gốc
rễ của những hành động của các bộ phận này ở Biển Đông là phiên bản lịch sử
vốn đã trở thành chính thống trong các trường học và các học viện Đảng Cộng sản
Trung Quốc, theo đó Biển Đông đã thuộc thẩm quyền của Trung Quốc "từ thời
xa xưa." Tôi cho rằng có quá nhiều bài phân tích về các tranh chấp này
dành sự chú ý quá ít cho mức độ nghiêm trọng mà Trung Quốc đặt để cho yêu
sách lịch sử của họ. Tôi đã lập luận ở những nơi khác rằng phiên bản lịch sử
này dựa trên việc đọc sai bằng chứng, giải thích sai, và thậm chí dịch sai.[17]
Tuy nhiên, đó lại là một yếu tố thúc đẩy cốt lỏi đằng sau các hành động của
Trung Quốc trên biển. Nó đáng được chú ý nhiều hơn nữa.
Phiên bản lịch sử
bị bóp mép này nằm đằng sau nỗ lực gần đây nhất của Trung Quốc mở rộng kiểm
soát lãnh thổ ở Biển Đông: tại cụm bãi Luconia, khoảng 65 hải lí ngoài khơi bờ
biển Borneo. Đầu tháng 6 năm 2015 Shahidan Kassim, Bộ trưởng phụ trách cảnh
sát biển Malaysia, đã đăng trên Facebook các bức ảnh từ một chuyến bay kiểm
tra trên các bãi ngầm và, trong một cuộc họp báo tại Sân bay Miri ở gần Bang
Sarawak, cho thấy một tàu cảnh sát biển biển Trung Quốc đã bỏ neo đậu tại
cụm bãi Luconia kể từ tháng 8 năm 2013.
Gốc gác của
chuyến Trung Quốc đi tới rạn đá này là kì quái. Yêu sách ban đầu của Trung Quốc
đối với quần đảo Trường Sa và các rạn đá gần đó nảy sinh từ cuộc họp của một ủy
ban chính phủ nước Trung Hoa Dân Quốc hồi năm 1935. Không có quan chức Trung
Quốc nào đã từng tới quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó, do đó, Ủy ban Thẩm
tra Bản đồ Đẩt và Biển (Thuỷ lục địa đồ thẩm tra uỷ viên hội) chỉ đơn giản là lấy
các bản đồ của Anh hiện có và dịch hay phiên âm tên sang tiếng Trung. Luconia
không phải là một tên Trung Quốc, nó là một từ cũ chỉ Luzon.[18]
Năm 1935, Uỷ ban
Thẩm tra chỉ việc phiên âm tên tiếng Anh Luconia thành Lú kāng ní yǎ tān [盧康尼亞 灘: lô khang ni á than] - trong đó tan
(than) là từ Tiếng Trung để chỉ "bãi cát". Mãi cho đến năm 1947
các quan chức Trung Hoa Dân quốc mới quyết định cho các thể địa lí này mang tên
"Trung Quốc" hơn. Họ đã chọn Bei-kang
Ansha [北 康 暗 沙: Bắc Khang Ám Sa] cho phần phía Bắc và Nan-kang Ansha [南康 暗 沙: Nam Khang Ám
Sa] cho phần phía nam của nhóm bãi ngầm này. Kang [康: khang] theo nghĩa đen có nghĩa là
"mạnh khỏe" nhưng có nhiều khả năng rằng nó chỉ đơn giản là cách viết
tắt của các chữ phiên âm trước đó. Từ ansha
(ám sa: nghĩa đen là "cát ngầm") dường như được vay mượn từ ngôn
ngữ văn học vào khoảng thời gian này để cho ra một từ tiếng Trung tương
đương với từ tiếng Anh "shoal" —một thuật ngữ biển mơ hồ có gốc gác
là một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là "cạn".[19]
[các vị trí ghi chữ đò là chỗ TQ đang chiếm đóng]
Khẳng định
thuờng đuợc đưa ra rằng Trung Quốc là "nước đầu tiên đặt tên" các
đảo ở Biển Đông chỉ đơn giản là không có bằng chứng hậu thuẫn. Tuy nhiên, ý thức
về quyền làm chủ đối với quần đảo Trường Sa, dựa trên khẳng định cũng thiếu
chứng cứ của Trung Quốc, đã trở thành mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình ở
Biển Đông. Việc dạy sai kéo dài về yêu sách lịch sử của Trung Quốc chỉ tạo ra một
cảm giác bất bình trong dân chúng vốn làm cho các tranh chấp càng trở nên rất khó
giải quyết hơn.
Blog của Andrew
Chubb, South Sea Conversations (Trò chuyện về Biển Đông), cho thấy một phần
bối cảnh gần đây hơn về những nỗ lực của Trung Quốc chiếm cụm bãi Luconia.[20]
Việc đó dường như đuợc bắt đầu với chuyến đi đến các bãi ngầm này của nhóm
ba nguời thuộc tạp chí Địa lí quốc gia Trung Quốc trên tàu của Malaysia trong
tháng 4/5 năm 2009. Toàn bộ câu chuyện
có thể đọc trên blog của Chubb, nhưng có vẻ là chuyến đi đó đã đặt vào
những cái đầu ở Cục Quản lý Hải duơng quốc gia Trung Quốc một ý tưởng
—thuyết phục họ cố yêu sách cụm bãi ngầm này như là lãnh thổ cực nam mới của
đất nước.
Tàu cảnh sát
biển Trung Quốc có vẻ đã đóng gần như thuờng trực tại cụm bãi Luconia và
bãi ngầm James gần đó kể từ năm 2013. Việc làm này bổ sung thêm cho các
chuyến ghé tạt vào ít thuờng xuyên hơn của các đội tàu hải quân Trung
Quốc chạy ngang qua. Hiện cũng có các báo cáo về các tàu Trung Quốc quấy
nhiễu các cuộc khảo sát dầu của Malaysia trong cùng khu vực. Hai vụ diễn
ra vào giữa tháng 8 năm 2012[21]
và những vụ khác sau đó.
Hành động của
Trung Quốc đã khiến Malaysia phải điều chỉnh thái độ "giữ im lặng và
tin tưởng vào mối quan hệ đặc biệt với Bắc Kinh" có trước đó. Cá nhân Thủ
tướng Najib Razak trong thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng
2015 đã chỉ trích việc Trung Quốc xây
dựng đảo.[22]
Mặc dù các chỉ dấu ban đầu cho thấy Malaysia cố gắng để lèo lái ASEAN khỏi
cuộc đối đầu với Trung Quốc,[23]
nhưng dưới sự chủ trì của Malaysia ASEAN đã kiên quyết trong việc phản đối những
hành động gần đây của Trung Quốc. Các kết luận của hội nghị thượng đỉnh là thẳng
thắn, lưu ý rằng việc Trung Quốc xây dựng đảo đã "gây mất lòng tin và sự
tin cậy và có thể phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông."[24]
Nhiều nguồn tin cũng cho biết rằng các quan chức Malaysia đã và đang hợp
tác chặt chẽ hơn với các đối tác Việt Nam và Philippines, cả hai đang phát
họa lập trường chung về tranh chấp biển bên trong ASEAN và trong tư cách là bộ
ba đối mặt với Trung Quốc.
Có thể họ không
nói như vậy công khai nhưng trong tư riêng các nước này, về cốt lõi, đã đạt
tới một quan điểm chung về tranh chấp lãnh thổ. Họ trỏ vào lời lẽ trong DOC
ASEAN-Trung Quốc năm 2002 nói về việc không "viện đến việc đe dọa hoặc sử
dụng vũ lực" để cho thấy rằng họ không có kế hoạch tống xuất các bên
yêu sách Đông Nam Á khác khỏi các thể đia lý đang chiếm đóng.[25]
Nói cách khác, trên thực tế (de facto), họ tôn trọng tính hợp pháp của việc
chiếm đóng các đảo và rạn đá hiện có. Có thể họ chưa chuẩn bị để đưa ra
việc công nhận chính thức theo luật pháp (de jure) việc chiếm đóng đó,
nhưng rõ ràng là, ít ra là trong nội bộ ASEAN, tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo
Trường Sa hầu như không về vấn đề.
Cách hiểu biết
theo thực tế (de facto) như thế này có thể mở rộng tới Trung Quốc không?
[1]
Carlyle Thayer, “China-ASEAN and the South China Sea: Chinese
Assertiveness and Southeast Asian responses,” in Major Law and Policy Issues in
the South China Sea: European and American Perspectives, ed. Yann-huei Song and
Keyuan Zou (Burlington, VT: Ashgate, 2014), 44.
[2]
Prashanth Parameswaran, “China’s Plan for ASEAN-China Maritime
Cooperation,” Diplomat, April 1, 2015, http://thediplomat.com/2015/04/chinas-plan-for-asean-china-maritime-cooperation/.
[2] Bao Haibin, “China-ASEAN Maritime Cooperation Fund,” PowerPoint
presentation at the ASEAN regional Forum Maritime Security Workshop on
Preparedness and response to Marine Pollution Incidents, Honolulu, HI, March 4–5,
2014, http://aseanregionalforum.asean.org/files/Archive/21st/ARF%20Maritime%20Security%20Workshop%20on%20Preparedness%20and%20response%20to%20Marine%20Pollution%20Incidents,%20Honolulu,%204-5%20March%202014/Annex%209%20-%20China-ASEAN%20Maritime%20Cooperation%20Fund.pdf.
[4]
Federica Mogherini, Speech at the 14th IISS [International Institute for
Strategic Studies] Asia Security Summit/Shangri-La Dialogue, Singapore, May 31,
2015, http://eeas.europa.eu/statements-eeas/2015/150531_02_en.htm.
[5]
Nhóm G7 gồm có Canada, Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh và Mĩ.
[6]
G7 Foreign Minister’ Declaration on Maritime Security, Lübeck, Germany,
April 15, 2015, http://www.auswaertiges-amt.de/EN/Infoservice/Presse/Meldungen/2015/150415_G7_Maritime_Security.html.
[7] Kevin Andrews, Speech at the 14th IISS Asia Security
Summit/Shangri-La Dialogue, Singapore, May 31, 2015, http://kevinandrews.com.au/latest-news/2015/05/31/114th-iiss-asia-security-summit-the-shangri-la-dialogue/.
[8] Reuters, “Japan Steps up Maritime Engagement with Philippines,
Vietnam,” InterAksyon, May 12, 2015, http://www.interaksyon.com/article/110424/japan-steps-up-maritime-engagement-with-philippines-vietnam.
[9]
Associated Press, “Philippines Wants Defense Pact for Japanese Troops,”
New York Times, June 5, 2015,
[10]
White House, “u.S.-India Joint Statement,” September 30, 2014, https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2014/09/30/us-india-joint-statement.
[11]
BRICS viết tắt của “Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc
(China) và Nam Phi (South Africa).”
[12] “See u in Court,”
Economist, July 16, 2015, http://www.economist.com/news/asia/21657807-tribunal-ponders-chinas-claims-see-u-court.
[13] Alvin Elchico, “Natural Gas Supply at Malampaya to Last until
2024,” ABS-CBN News, october 21, 2014, http://www.abs-cbnnews.com/business/10/21/14/natural-gas-supply-malampaya-last-until-2024
[14] Chris Larano, “Philex to Send Survey Ship to Disputed Reed
Bank,” Wall Street Journal, october 29, 2014, http://www.wsj.com/articles/philex-to-send-survey-ship-to-disputed-reed-bank-1414584594.
[15]
“Forum Energy Discloses Plans to Delist Shares from uK Exchange,”
BusinessWorld, April 20, 2015, http://www.bworldonline.com/content.php?section=Corporate&title=forum-energy-discloses-plans-to-delist-shares-from-uk-exchange&id=106458
.
[16] “Mutual Defense Treaty between the united States and the
republic of the Philippines,” August 30, 1951, Article V, http://avalon.law.yale.edu/20th_century/phil001.asp.
[17] Xem, chẳng hạn Bill Hayton, “Fact, Fiction and the South
China Sea,” Asia Sentinel, May 25, 2015, http:// www.asiasentinel.com/politics/fact-fiction-south-china-sea/;
Bill Hayton, “China’s False Memory Syndrome,” Prospect Magazine, July 10, 2014,
http://www.prospectmagazine.co.uk/world/chinas-false-memory-syndrome.
[18] Bill Hayton, The South China Sea: The Struggle for Power in
Asia (New Haven, CT: yale university Press, 2014).
[19] Ibid.
[20]
Andrew Chubb, “Luconia Breakers: China’s New ‘Southernmost Territory’ in
the South China Sea?,” South Sea Conversations, June 16, 2015, https://southseaconversations.wordpress.com/2015/06/16/luconia-breakers-chinas-new-southernmost-territory-in-the-south-china-sea/.
[21] James Clad and robert A.
Manning, “China’s Bad Diplomacy,” National Interest, December 17, 2012, http://nationalinterest.org/commentary/chinas-bad-diplomacy-7855?page=show.
[22] “Najib: Avoid Show of
Force in Maritime overlapping Claims,” Borneo Post, April 24, 2015, http://www.theborneopost.com/2015/04/24/najib-avoid-show-of-force-in-maritime-overlapping-claims/.
[23] Praveen Menon and Manuel Mogato, “Host Malaysia Avoids Chinese
Ire over Disputed Sea at ASEAN Summit,” reuters, April 23, 2015, http://www.reuters.com/article/2015/04/23/us-asean-summit-philippines-iduSKBN0NE0TL20150423.
[24] “South China Sea
Island-Building ‘May Undermine Peace’—ASEAN,” BBC, April 28, 2015, http://www.bbc.com/news/world-asia-32476951.
[25] Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea,
Phnom Penh, November 4, 2002, http://www.asean.org/asean/external-relations/china/item/declaration-on-the-conduct-of-parties-in-the-south-china-sea.
No comments:
Post a Comment