Chậm xích lại gần nhau
Sự trỗi dậy nhanh
chóng của Trung Quốc đang đưa Việt Nam và Mĩ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều
này sẽ kéo dài bao lâu?
The slow rapprochement - The rapid rise of China is bringing Vietnam and America closer together, but how long will this last? (American Review Nov 2012)
Nayan Chanda
Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng bay lên
khỏi bãi đáp trực thăng của toà Đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng
và những kẻ chiến thắng bận rộn kéo lá cờ vàng sao Mặt trận Giải phóng Dân tộc lên
trên cột cờ các cơ quan đại diện nước ngoài. Chỉ riêng toà Đại sứ như pháo đài
của Mĩ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lí do của ngoại lệ này, một
nhân viên từ Hà Nội đến quả quyết với tôi với một nụ cười: "Người Mĩ sẽ
quay lại ngay mà." Như ông ta giải thích, "Người Mĩ lo lắng về sự
bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn
nhất chống lại việc tiến về phía Nam của Bắc Kinh."
Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ
Leon Panetta đã được bố trí một chuyến thăm trêu ngươi Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn
có hình ảnh rõ rệt trong trí tưởng tượng chiến lược của Mĩ. Điều này không phải
gợi rarằng Mĩ và Việt Nam đang sắp gần tới việc hợp tác chiến lược như người đối
thoại Việt Nam của tôi mơ ước hồi năm 1975, nhưng cuộc hành trình ngoằn ngoèo của
việc hoà giải và xích lại gần nhau giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện thú
vị. Câu chuyện này cũng cho ra các bài học có giá trị về sự tương tác của ba yếu
tố - địa chính trị, tinh thần dân tộc, và ý thức hệ - đã định hình các biến đổi
nhiều màu sắc đó. Lịch sử 2000 năm quan hệ yêu-ghét của Việt Nam với người láng
giềng khổng lồ Trung Quốc, hoài bão dân tộc, và quan tâm của Đảng Cộng sản cầm
quyền đối với việc duy trì chế độ có thể giải thích con đường chông gai của việc
bình thường hoá.
Vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh hồi
năm 1975 bên Việt Nam đã hào hứng với chiến thắng lịch sử, mong muốn xây dựng lại
đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía
Trung Quốc. Từ các cân nhắc địa chính trị to lớn, lạc quan về việc phục hồi
nhanh chóng quan hệ với Washington có thể là cách nghĩ logic nhưng nó được dựa
trên một sự hiểu lầm hoàn toàn động lực chính sách của Mĩ. Mặc dù Tổng thống
Jimmy Carter mong muốn khôi phục lại mối quan hệ với tất cả các kẻ thù xưa ở
châu Á, kể cả Trung Quốc, nhưng việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã tỏ
ra là khó có thể xảy ra. Carter đã không chia sẻ quan điểm tầm xa của Việt Nam,
và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh sâu đậm
về tâm lí của Mĩ. Dù muốn có quan hệ với Washington để cân bằng quyền lực của
Trung Quốc, Việt Nam lại là kẻ chiến thắng quá đỗi tự hào đến nỗi từ bỏ cả chiến
lợi phẩm – món viện trợ tái thiết Mĩ đã hứa trong hiệp định hòa bình Paris năm
1973. Sau khi các cuộc đàm phán bình thường hoá bị đổ vở vào năm 1978, bối cảnh
địa chính trị đã trải qua một sự chuyển đổi kịch tính bất lợi cho Việt Nam kéo
dài gần hai thập kỉ.
Bốn năm sau khi cuộc chiến tranh
dài kết thúc, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên mặt trận
phía bắc và phía tây. Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ tấn công vào biên giới
phía tây [nam] vào các năm 1977-78 đã dẫn đến việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia.
Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt ở phía Bắc Việt Nam vào
năm 1979. Điều này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài một thập kỉ trong đó Việt Nam
phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế trong nước và bị cô lập ở nước ngoài. Áp lực
của liên minh trên thực tế giữa Mĩ và Trung Quốc và sự ủng hộ liên minh do Khmer
Đỏ lãnh đạo chồng chất thêm bởi việc mất sự ủng hộ từ Liên Xô đang diễn ra perestroika
(đổi mới). Các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mĩ đã bị sa lầy bởi
những yêu cầu không dứt Mĩ về kết toán tù binh chiến tranh và người mất tích
(MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, vốn không
bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì sỉ nhục quốc gia Mĩ, đã tìm cách khôi phục lại
danh dự của đất nước qua việc đưa hài cốt các lính trận bỏ mình về nước và duy
trì một lệnh cấm vận thương mại gây tê liệt áp đặt từ năm 1975. Để vượt lên các
bất ổn kinh tế và cô lập ngoại giao, Việt Nam đã tiến hành đổi mới và bắt đầu
rút quân khỏi Campuchia, và việc này hoàn thành vào năm 1989.
Vào lúc Việt Nam gần rút quân,
theo yêu cầu của Mĩ và ASEAN, và tham dự cuộc đàm phán với họ về tương lai
chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị lại thay đổi một lần nữa. Việc Trung-Xô
xích lại gần nhau và việc Bắc Kinh bị quốc tế cô lập sau vụ thảm sát Thiên An
Môn không những làm thay đổi môi trường bên ngoài mà còn cũng dấy lên những lo
ngại về an toàn của chế độ này. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc
trong đàn áp bạo lực tại quảng trường Thiên An Môn, và sự sụp đổ như các con cờ
domino của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đến ngay sau đó vang lên hồi
chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Dù Việt Nam vô cùng cần viện trợ và buôn
bán với phương Tây, nhưng họ lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình"
và lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa dưới danh nghĩa trợ giúp. Cái gọi là lộ
trình cho việc bình thường của chính quyền George HW Bush đã được nhìn với sự
nghi ngờ sâu đậm. Nhà Ngoại giao hàng đầu của Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thất bại
trong việc đạt tới bình thường hoá, mặc dù đã có nhiều nhượng bộ về MIA và rút khỏi
Campuchia, dẫn Hà Nội đến việc thay đổi đường hướng chống Trung Quốc. Một cuộc
họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt
Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 04 và 05 tháng 9 năm 1990. Việc xuống
thang dần dần cho cuộc xung đột Trung Quốc với Việt Nam và thỏa thuận thành lập
chính phủ liên hiệp tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc đã được đặt
nền móng.
Với bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc đang diễn tiến, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan
hệ với Washington là hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn rất thủ thế chống
lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính phủ Dân chủ
thời Bill Clinton đã tỏ ra khó khăn đối với Việt Nam hơn là chính phủ Cộng hòa
trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã
tăng áp lực về MIA và vi phạm quyền con người. Dù vậy giới kinh doanh đã nhìn
thấy nhiều cơ hội ở Việt Nam và việc vận động hành lang phối hợp của họ đã buộc
Washington cuối cùng đồng ý làm dịu lập trường của mình. Tháng 2 năm 1995, Mĩ bỏ
lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam, và thông báo quan hệ ngoại giao sẽ được
khôi phục đến vào tháng 7 có . Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng 8 năm 1995 (hơn 30
năm tròn sau khi chiến tranh kết thúc), Bộ trưởng Ngoại giao Warren Christopher
giương cờ sao sọc của Mĩ trong Toà Đại sứ Mĩ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của
Việt Nam đã chuyển đi. Việt Nam không còn quan tâm đến một liên minh chiến lược
theo nhiều cách như trước để mở cửa nền kinh tế với thế giới và, cụ thể là
giành được tình trạng nước tối huệ trong thương mại.
Sự dè dặt của Việt Nam sợ bị xem
như là một đồng minh của Mĩ chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng vào tháng 3
năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành quan chức nội các đầu
tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã kiếm cách riêng để thông báo rằng không
có bàn chuyện gì về quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào
tháng 12 năm 2000, chỉ thị bí mật của Ủy ban Trung ương yêu cầu các đảng viên
phải tỏ vẻ ‘lạnh nhạt’ với Clinton. Khoảng cách giữa Đảng Cộng sản và nhân dân đã
không thể lộ rõ hơn. Tôi đã thấy hàng ngàn thanh niên Sài Gòn vượt qua các rào
cản của cảnh sát nhào tới chiếc xe limo của tổng thống la to "Bill,
Bill!" Đối với Đảng, chính nước Mĩ hạ mình và công nhận Việt Nam chứ không
phải Việt Nam tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mĩ vì nhắm vào hướng bắc.
Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã giảng cho tổng thống một
bài học về lịch sử vẻ vang chống xâm lược của Việt Nam, mà không thảo luận về quan
hệ hiện tại hay tương lai với Hoa Kì. Vì thế, Việt Nam đã phải chờ thêm ba năm
nữa khi có sự thay đổi trong môi trường bên ngoài.
Chính quyền Tổng thống Bush nhiệm
kì hai dường như chuyển ra khỏi thái độ có vẻ bợ đỡ của Mĩ đối với Trung Quốc khi
sự cố máy bay EP-3 gián điệp rộ lên. Thậm chí trước khi có căng thẳng về máy
bay do thám này, nhiều tiếng nói quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại
về việc phô trương cơ bắp của Trung Quốc. Một trong những tác giả bài báo cáo của
tập đoàn RAND là Zalmay Khalilzad, người sẽ trở thành cố vấn an ninh quốc gia,
lưu ý rằng Hoa Kì nên tăng cường sự hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng
với quyền lực đang tăng của Trung Quốc. Báo cáo này chỉ ra rằng "có một
logic cơ bản đối với việc hợp tác giữa Hoa Kì và Việt Nam để ngăn chặn Trung Quốc
tranh ngôi bá quyền khu vực." Khi Washington bắt đầu chú trọng vào việc
thay đổi thế cân bằng trong khu vực Đông Á, sự quan tâm đối với Việt Nam mang ý
nghĩa chiến lược.
Việt Nam cũng thế, lo lắng về việc
Trung Quốc tiếp tục lấn tới ở biển Đông và ở các nước dọc theo ngoại biên của
Việt Nam. Trong tháng 6 năm 2003 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đảng ước
đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng thuận lợi và Việt Nam phải
có những nỗ lực để phát triển các quan hệ với Mĩ. Như Việt Nam đã nói với các
quan chức Mĩ, "Thế cân bằng tam giác đã mất." Quan hệ của Mĩ với Việt
Nam rất yếu, trong khi mối quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều
và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực cũng đã tăng lên. Nhận thức lẫn nhau
mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới
Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là lần ghé cảng thành phố Hồ Chí Minh
đầu tiên của tàu của Hải quân tàu USS Vandergrift.
Điểm cao trong quan hệ nồng ấm đến
vào tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt
Nam được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải
cho biết họ "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông
Nam Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và họ đồng ý hợp tác song phương và đa
phương để thúc đẩy các mục tiêu này." Việc đưa vào cụm từ "khu vực
châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo chung là điều gợi ý công khai duy
nhất rằng các mối quan hệ đã vượt qua khỏi các quan tâm song phương hoặc thậm
chí quan tâm cả khu vực - Đông Nam Á. Ông Khải đã ký một hiệp ước về tình báo với
Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia trong việc chia sẻ thông
tin tình báo với Washington.
Trong bối cảnh sức mạnh ngày càng
tăng và sự quyết đoán của Trung Quốc ở biển Đông quan hệ Mĩ-Việt Nam đã trở nên
sâu đậm thêm. Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton thăm Hà Nội trong cuộc họp cấp Bộ
trưởng của ASEAN năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan ngại của Hoa Kỳ về hành
vi của Trung Quốc ở biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt
Nam. Năm sau, Hoa Kì và Việt Nam đi vào thảo luận nâng cao quan hệ song phương
lên quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ quân sự đã tăng lên. Trong chuyến thăm Washington
của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003, hai bên đã quyết định rằng các chuyến
thăm cùng cấp qua lại sẽ diễn ra ba năm một lần. Kể từ đó Bộ trưởng quốc phòng
Việt Nam và Hoa Kỳ đã thăm viếng qua lại nhau 4 lần. Chuyến thăm tháng 6 năm
2012 của Leon Panetta đã thu hút sự chú ý nhiều hơn mức thông thường trong bối
cảnh quan hệ Mĩ-Trung đang xấu đi. Panetta đã được sắp xếp một chuyến viếng thăm
Vịnh của Cam Ranh, nơi đã từng là căn cứ cho các máy bay ném bom tầm xa và
trang thiết bị của hải quân Liên Xô.
Dù quan hệ đã phát triển nhảy vọt
trong thập kỉ qua, sự tương tác của ba yếu tố đã nêu tiếp tục điều chỉnh các mối
quan hệ. Một Trung Quốc mạnh mẽ về quân sự đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đói với
chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ gần đây. Tuy nhiên, Đảng
Cộng sản Việt và Đảng Cộng sản Trung Quốc có chung mối quan ngại về sự đe dọa
phương Tây đối với thể chế của họ, đồng thời lại tìm kiếm hợp tác kinh tế với
phương Tây để xây dựng một đất nước cường thịnh.
No comments:
Post a Comment