Đây là bài viết của David Brown, một nhà ngoại giao Mĩ đã nghỉ hưu. Trong bài tác giả hướng ASEAN theo con đường có thể có lối ra cho tranh chấp biển Đông nhưng khá 'sốc' và cũng thật 'phũ phàng' đối với các nước nhỏ như VN ta . Xin dịch lại giới thiệu với mọi người cùng tham khảo.
---------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Con đường trước mặt ở biển Đông
(Asia Times 7-11-12)
David Brown
Những hi vọng to tát không thực tế đã được đầu tư vào ý tưởng
rằng Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo thành một bức tường thành chống
lại sự bành trướng của Trung Quốc tới các nước Đông Nam Á. Người ta nghĩ rằng các
nước ASEAN, do bị yêu sách "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với
các "vùng nước liên quan" của Trung Quốc có vẻ vươn gần đến Singapore
làm gắn bó lại với nhau, sẽ xác định rõ lợi ích chung và vạch một lằn ranh mà
các cường quốc không thuộc khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt là Hoa Kỳ
có thể hậu thuẫn.
Tuy nhiên, ASEAN hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận và
thương lượng không đối đầu, trong trường hợp này là một lỗ hổng chết người. Bốn
trong số 10 thành viên của nó - Myanmar, Campuchia, Lào và Thái Lan – luôn đặt
ưu tiên gìn giữ mối quan hệ song phương mặn nồng với Trung Quốc lên trên sự thống
nhất của ASEAN. Do chia rẽ như vậy, các thành viên của ASEAN đã bàn bạc không có
kết thúc để tìm kiếm một khuôn khổ thoả mãn tối thiểu tham vọng của Bắc Kinh.
Về điều này, họ đã nhận được không nhiều sự giúp đỡ từ Bắc
Kinh. Trung Quốc lẫn tránh mọi đề nghị của ASEAN về việc thiết lập chế độ quản lí
xung đột, bao gồm cả cái gọi là Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Bắc Kinh sẽ
không đồng ý việc trọng tài phân xử các yêu sách đối nghịch nhau hoặc thậm chí
các cuộc thảo luận với nhiều hơn một nước cùng một lúc. Thậm chí Trung Quốc cũng
chẳng màng đến việc chỉ làm rõ các yêu sách của họ ở biển Đông là gì. Và như vậy,
trong hai thập kỉ qua, vô số các cuộc họp ASEAN đều gác lại công việc này.
Bốn trong số 10 nước thành viên ASEAN ở tuyến đầu của tranh
chấp. Malaysia, Brunei, Philippines và Việt Nam yêu sách chủ quyền đối với tất
cả hay một phần quần đảo Trường Sa, một khu vực gồm các rạn đá, đảo đá và đảo
nhỏ nằm lổn nhổn đầu phía nam của biển Đông. Kiểm soát các "thể địa lí"
sẽ có thể yêu sách chủ quyền vùng biển xung quanh chúng. Việt Nam và Philippines
yêu sách thêm các đảo nhỏ và các rạn đá xa hơn về phía bắc gần hơn về phía
Trung Quốc.
Đối với Hà Nội, những yêu sách này gồm cả quần đảo Hoàng Sa,
nằm giữa bờ biển miền trung Việt Nam và đảo Hải Nam, các đảo nhỏ mà Bắc Kinh giật
lấy từ các chế độ đã chết Nam Việt Nam vào năm 1974 và ở đó, đầu năm nay, Bắc
Kinh dựng lên một quận làm bung xung được cho là bao hết các yêu sách phình to của
họ ở biển Đông. Đối với Manila, yêu sách bao gồm bãi cạn Scarborough, khu vực nhiều
cá ngoài khơi chỉ cách bờ biển đảo Luzon 200 km, nơi đó hồi tháng 4 họ đã bước
ra khỏi một cuộc đối đầu kết thúc nhanh với các tàu tuần dương Trung Quốc.
Không có gì đáng ngạc nhiên, chính Philippines và Việt Nam
đã vận động mạnh mẽ nhất cho một đáp trả mạnh mẽ đối với tham vọng của Trung Quốc
muốn thống trị các vùng biển trải dài gần 2.000 km về phía nam đảo Hải Nam. Sự nôn
nóng của Manila và của Hà Nội lôi kéo hải quân Mĩ can dự có thể là một yếu tố
trong tranh chấp đã khiến một số anh em ASEAN của họ khó chịu.
Ngược lại, Malaysia và Brunei đã chủ trương giữ yêu sách nhỏ
nhoi hơn. Họ đã giải quyết ổn thoả yêu sách giữa họ với nhau và với Việt Nam, dựa
trên các khái niệm được hệ thống hóa trong Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS)
và luật điều ước quốc tế. Cả hai đã đứng tách khỏi những nỗ lực của Việt Nam và
Philippines trong việc bảo vệ yêu sách của họ ở vùng biển phía bắc. Mặc dù có
thể không khoan nhượng về tư tưởng, Kuala Lumpur và Bandar Seri Begawan dường
như đã cố hi vọng ngược với các bằng chứng đang tăng rằng sự háo ăn của Trung
Quốc có thể nuốt hết các vùng biển mà họ yêu sách.
Indonesiavà Singapore cũng chia sẻ mối quan tâm trong việc
ngăn cản Trung Quốc theo đuổi các yêu sách phình to của họ. Các vùng biển trong
đường chín đoạn tai tiếng của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền khu kinh
tế (EEZ) của Indonesia trong vùng phụ cận của quần đảo Natuna. Jakarta và
Singapore cho đến bây giờ đã làm nổi bậc bản thân họ là những người ủng hộ
chính cho một "giải pháp ASEAN", với Singapore như thường lệ trì hoãn
công khai đối với sự lãnh đạo của Indonesia.
Trong khi nhận là sẵn sàng giải quyết mọi thứ song phương,
Trung Quốc vẫn cứ ì ra với yêu sách quyền lịch sử trong tất cả các vùng biển
bên trong đường chín đoạn. Như vậy Bắc Kinh đang khẳng định quyền sở hữu các
nguồn tài nguyên biển trong hơn 85% biển Đông, mặc dù UNCLOS quy định rằng tất
cả các quốc gia đều có quyền chủ quyền độc quyền trong khai thác vùng biển liền
kề từ bờ biển của họ ra xa đến 200 hải lí, hoặc hơn nữa nếu thềm lục địa của họ
rộng hơn, trừ khi chúng giáp với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
Trung Quốc đã một mực bác bỏ các quy định của UNCLOS, qua việc tuyên bố các thủy
thủ và ngư dân của họ đã sử dụng những vùng biển này từ thời xa xưa.
Tất cả các bên tranh chấp đều có thể viện dẫn tiền lệ lịch sử
để biện minh cho yêu sách của mình. Trong nhiều thiên kỉ, biển Đông là một vùng
biển chung của toàn cầu. Việt Nam có thể đưa ra hàng tá bản đồ và văn bản nhà
nước thế kỉ 18 chứng minh một sự quan tâm bền bỉ nhiều hơn đáng kể trong việc
thực hiện chủ quyền đối với các đảo san hô khác nhau ở biển Đông so với Trung
Quốc. Giống như ở Trung Quốc, các tài liệu vàng ố này hung nóng tình cảm dân tộc.
Tuy nhiên, lập luận lịch sử không cho ra một lối thoát khỏi
mớ bong bong các yêu sách, trừ khi ít ra một số tay chơi ở phía Trung Quốc tin
rằng, lâp luận đó được hậu thuẫn bằng sức mạnh không thể bác được. Ngoại trưởng
Trung Quốc Dương Khiết Trì có phát biểu nổi tiếng tại cuộc họp ASEAN tổ chức
vào tháng 8 năm 2010 rằng: "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là
nước nhỏ, và đó đơn giản là một thực tế."
Vùng nước bị khuấy động
Trong nhiều năm nay, hi vọng về một bước đột phá ngoại giao
đã tăng lên trong những tháng mùa thu vào lúc biển Đông xáo động bởi gió mùa. Thời
tiết dịu hơn đến, các hành động khiêu khích của Bắc Kinh lại nhân lên, đặc biệt
hướng vào việc quấy rối ngư dân Việt Nam và Philippines và dọa các công ty năng
lượng thăm dò triển vọng dầu khí đáy biển theo giấy phép do Hà Nội hay Manila cấp.
Bắc Kinh đã dựa vào hàng trăm tàu "an toàn hàng hải"
và “bảo vệ thủy sản" có vũ trang để mở rộng sự kiểm soát của họ, trong khi
lấp ló phía chân trời là lực lượng hải quân nhân dân ngày càng mạnh của họ.
Không có gì đáng ngạc nhiên, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Singapore nỗ lực gấp
đôi để xây dựng sức mạnh không và hải quân của họ. Philippines là kẻ đến muộn
trong việc tăng cường quân sự ở biển Đông. Mặc dù Manila đã được thúc đẩy bởi
các cuộc xung đột gần đây với Trung Quốc, lực lượng của họ đặc biệt yếu về hoả
lực.
Chính sự giàu có dự kiến về dầu và khí đốt dưới đáy biển, được
gói trong nỗi hận nhụt chí từ lâu về sự lăng nhục của nước ngoài, đang lôi kéo nỗ
lực của Trung Quốc đưa biển Đông về dưới thống trị của mình. Việc ASEAN không bàn
ra được một lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đang tăng lên này, việc Trung Quốc
áp dụng không ngơi nghỉ chiến lược "đàm và lấy", và việc can dự tất yếu
xảy ra của Mĩ trong những xung đột này đã khiến các chuyên gia thất vọng.
Chính việc hiểu rõ một Trung Quốc hay trả thù có thể tự sắp
xếp nên chiếm ưu thế như thế nào trong cuộc tranh chấp hiện nay đã đánh thức Mĩ.
Washington không thích đánh nhau và vẫn chưa rõ Mĩ có thể sẽ phản ứng ra sao nếu
Việt Nam hoặc Philippines hoặc thậm chí Singapore rõ ràng trượt vào tầm ảnh hưởng
của Trung Quốc. Tuy nhiên, dường như khá chắc chắn rằng Washington quyết tâm
ngăn chặn không để Bắc Kinh kiểm soát việc lưu thông ngang qua Biển Đông
Nếu ASEAN không lấp đầy lỗ trống, thì ai vào đây? Mĩ và phần
còn lại của thế giới cần phải có lập luận vững chắc để biện minh cho sự can dự lâu
bền và có hiệu quả. Do mới đây bị cháy bỏng bởi con ngáo ộp vũ khí hủy diệt
hàng loạt ở Iraq, công chúng Mĩ cảnh giác về một cuộc phiêu lưu quân sự ở nước
ngoài. Nhật Bản vốn cảnh giác với một tư thế quyết đoán. Nếu các quốc gia Đông
Nam Á dọc bên bờ biển này mong muốn Mĩ và các đồng minh làm cái gì đó nhiều hơn
là chỉ thể hiện quyết tâm bảo vệ tự do lưu thông qua biển Đông thì họ phải làm
một điều gì thuyết phục rằng họ cần và đáng giúp đỡ.
Nhiều người trong cơ quan chính sách đối ngoại phương Tây
tin rằng Mĩ nên là một đối tác của "Trung Quốc trỗi dậy." Các căng thẳng
gia tăng tại biển Đông là một mối đe dọa cho viễn cảnh về một cộng đồng Thái
Bình Dương hòa bình và thịnh vượng. Sẵn sàng nhường lại phạm vi ảnh hưởng của
Trung Quốc, giống như ASEAN họ nói rằng họ sẽ không đứng về bên nào trong tranh
chấp. Nhiều "nhà tư tưởng chiến lược" phương Tây vẫn còn bàn luận về
các cuộc đối đầu như thể tất cả các bên đều có lỗi như nhau.
Tuy nhiên, nhận thức này có thể thay đổi. Tất cả những gì cần
thiết là Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam nên thương lượng một vị thế chung
mà họ có thể thực hiện bằng cách làm rõ, nếu không dàn xếp được, các yêu sách của
họ với nhau bằng cách áp dụng các quy định của UNCLOS và luật pháp quốc tế nói
chung. Họ cũng có thể nhờ trọng tài cho các tranh chấp còn tồn lại. Hai nước không
có tranh chấp Indonesia và Singapore có thể ủng hộ một quá trình của các nhà nước
ASEAN như thế.
Kết quả ngay lập tức sẽ là việc làm rõ yêu sách hiện đang chồng
chéo của bốn quốc gia này đối với các đảo, rạn đá và đảo đá của quần đảo Trường
Sa. Họ có thể nhắm tới việc thoả thuận về "khu vực biển" mà các thể địa
lí này tạo ra, và qua đó thiết lập các giới hạn địa lí của khu vực tranh chấp.
Điều đó sẽ lại làm rõ ý nghĩa của những yêu sách này đối với việc kiểm soát các
vùng biển xung quanh.
Về các yêu sách bên ngoài khu vực Trường Sa, một món hời được
cho là chỉ tốt hơn so với không có gì. Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng
Sa gần bốn thập kỉ qua và bây giờ có vẻ cũng quyết tâm giữ chắc bãi cạn Scarborough.
Tại thời điểm này, khẳng định thành công về các quyền lịch sử của Việt Nam và
Philippines đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp dường như vô vọng.
Một tiến trình thực dụng sẽ là cố đòi Bắc Kinh công nhận vùng
đặc quyền kinh tế được tạo ra theo các quy định của UNCLOS, một tiến trình mà nếu
được tôn trọng có thể trả lại phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam
cũng như bãi cạn Scarborough cho Philippines. Điều này Malaysia, Brunei,
Indonesia và Singapore nên ủng hộ, mặc dù họ đã né tránh việc thừa nhận yêu
sách quyền lịch sử.
Các bước này, có lẽ đạt tới được sau một vài tháng đàm phán
căng thẳng và bí mật, sẽ thiết lập một nền tảng cho giải pháp hòa bình cho những
gì mà bây giờ không thể phủ nhận là một cuộc khủng hoảng. Nó cũng sẽ tạo cho
Hoa Kì và bạn bè một cơ sở vững chắc để ủng hộ mạnh mẽ, và thậm chí – nếu phải
tới mức đó - can thiệp quân sự.
Hành trang Lịch sử
Trung Quốc, với ban lãnh đạo được đổi mới và xác định trong nhiều
năm tới, vào lúc đó có thể sẽ tìm kiếm cách quay ra khỏi cuộc đối đầu. Những
người phát ngôn của Trung Quốc đôi lần cho biết rằng các yêu sách nên được giải
quyết theo luật pháp quốc tế, và trong khi chờ giải pháp như vậy các thỏa thuận
khai thác chung các nguồn tài nguyên của biển Đôngcó thể có tác dụng làm giảm
căng thẳng.
Tuy nhiên sẽ không dễ làm cho Trung Quốc quay lưng lại với các
yêu sách lịch sử của họ. Một bước lùi như vậy là khó tưởng tượng được trừ khi
Việt Nam cũng thực hiện giống như thế - nghĩa là, trừ khi Hà Nội cũng đồng ý xác
lập ranh giới biển chỉ dựa trên UNCLOS, và các nguyên tắc liên quan của luật quốc
tế.
Giống như Trung Quốc, Việt Nam đang đầu tư mạnh vào lập luận
lịch sử. Thật vậy, một số học giả độc lập nói rằng dựa trên bằng chứng lịch sử các
yêu sách của Hà Nội đối với các đảo tranh chấp là trội hơn. Sẽ không dễ dàng
hơn chút nào cho Việt Nam đặt lịch sử lên giá, xét cho cùng, đó là một quốc gia
đã tôi luyện bản sắc của mình qua việc đập tan những cuộc xâm lược Trung Quốc cứ
mỗi vài trăm năm một lần kể từ 938 AD Và, trừ khi hai đối thủ lâu đời và không cân
xứng này có thể vượt lên trên lịch sử cay nghiệt đó, có rất ít cơ hội cho một kết
thúc có hậu cho cuộc khủng hoảng hiện tại biển Đông.
Một số sẽ cho rằng bác bỏ yêu sách lịch sử của Trung Quốc và
đưa ra một vị thế đàm phán chung được xác lập dựa trên các nguyên tắc pháp lí vững
chắc chỉ đơn giản là sẽ chọc giận siêu cường đang lên của châu Á. Tuy nhiên, thật
khó tưởng tượng rằng không chống lại tham vọng của Trung Quốc có thể dẫn đến một
kết quả tốt hơn.
Hiện vẫn còn một kịch bản có nhiều hi vọng. Do bị thúc đẩy bởi
nhận thức rằng thời gian đã hết, bốn nước ASEAN tranh chấp vạch ra ranh giới biển
giữa họ với nhau bằng cách áp dụng các nguyên tắc pháp lí có liên quan. Được hậu
thuẫn về kế hoạch của Indonesia và Singapore, nếu không phải là của cả tập thể ASEAN,
họ thông báo sẵn sàng bước vào đàm phán với Trung Quốc trên cùng một cơ sở.
Thay vì chối bỏ những gì đã đạt được cho đến nay hay khăng khăng rằng sẽ chỉ
đàm phán song phương, Trung Quốc nên đồng ý với quá trình này. Trong tương lai gần,
một thỏa thuận chi tiết nhìn nhận TQ làm chủ hầu hết quần đảo Hoàng Sa và có các
chỗ tựa chân ở quần đảo Trường Sa sẽ được bàn thống nhất.
Sau đó các bên chuyển sang thảo luận các vấn đề có liên
quan, ví dụ như Bộ quy tắc ứng xử. Đó sẽ không phải là tài liệu từng bị dìm xuống
mà ASEAN đã thảo luận mà là một tài liệu mạnh mẽ hậu thuẫn các cách dàn xếp về
lãnh thổ thảo luận ở trên. Việc cùng nhau khai thác các nguồn năng lượng có thể
kết hợp với các yếu tố khác nhau của một tương lai có tính xây dựng trong biển
Đông Sau đó, các bên có thể đồng ý để 'cửa mở' cho các thực thể (cơ quan) của tất
cả các quốc gia ven biển hành xử với trách nhiệm.
Nói cách khác, bất kì chế độ quản lí biển Đông nào đều không
thể lâu bền, trừ khi nó đảm bảo các thực thể của Trung Quốc tiếp cận công bằng các nguồn
tài nguyên biển của khu vực. Các nước ven biển khác phải đón tiếp và tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư và liên doanh của Trung Quốc, bao gồm cả việc Trung
Quốc tham gia khai thác hidrocarbon đáy biển. Thủy sản có thể được quản lí
chung và theo hướng lâu bền, và tuần tra chung có thể thực thi các quy tắc đã
thoả thuận. Cuối cùng, các nước ven biển và các nước đi biển chính có thể đàm
phán các quy định chi phối các kênh vận chuyển biển, việc thông báo và các quyền
đi lại trong biển Đông.
Một số có thể phản đối rằng kịch bản có hậu này sẽ nguy hiểm
chết người đối với các nguyên tắc tổ chức và thực hành lãnh đạo vốn là hiện
thân của cái gọi là "cách của ASEAN". Tuy nhiên, thừa nhận rằng trong
trường hợp này ASEAN đã không làm mô hình đồng thuận có tác dụng, sẽ có khả
năng làm hiệu quả tổng thể của tổ chức ít hao mòn hơn là tiếp tục nỗ lực không
hiệu quả để khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong các tranh chấp đang tăng
lên.
David Brown là một nhà
ngoại giao Mĩ đã nghỉ hưu viết về Việt Nam đương đại. Có thể tiếp xúc ông tại
nworbd@gmail.com.
No comments:
Post a Comment