Monday, March 25, 2013

Đánh giá bước đầu các bằng chứng pháp lí của TQ ...

Bài này đã được đăng trên trên tạp chí NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN  số 8-9/2012.
Có thể xem thoải mái hơn bài viết này ở đây.



Đánh giá bước đầu các bằng chứng pháp lí Trung Quốc đưa ra đối với Trường Sa


(Bài này đã đăng trên trên tạp chí NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN  số 8-9/2012.)


Để biện minh cho vị thế của họ ở biển Đông, Trung Quốc (TQ) luôn dùng câu trả lời khuôn mẫu “TQ có rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lí” hậu thuẫn chủ quyền của mình ở biển Đông, đặc biệt là đối với quần đảo Trường Sa. Trong bài viết trước,[1] chúng tôi đã chỉ ra rằng cái mà họ gọi là bằng chứng lịch sử[2]rất nhiều khả năng chỉ là sự nhào nắn (bóp mép, dịch sai ý) các tài liệu / sự kiện xưa lợi dụng sự ít hiểu biết của phần lớn người nước ngoài về lịch sử/văn hoá/ngôn ngữ Trung Hoa để phục vụ cho lập luận của họ. Phần thảo luận sau đây sẽ tập trung vào bằng chứng pháp lí như được công bố trên trang mạng của Bộ Ngoại giao TQ (BNGTQ).[3] Có ba điểm chính trong lập luận của họ. Các bằng chứng hậu thuẫn cho ba điểm chính này chủ yếu là các bằng chứng lịch sử mà họ đã nêu, được trình bày lại theo góc độ pháp lí.
  1. “Dân TQ khám phá và đặt tên quần đảo Nam Sa đầu tiên” ít ra là từ 2000 năm trước.
BNGTQ đã nêu rằng họ rất nhiều dữ liệu lịch sử chính xác trong và ngoài nước minh chứng cho điều này và đặc biệt chỉ ra cụ thể 3 cuốn sách cổ của TQ: Dị vật chí (异 物 志) của Dương Phu  thời Đông Hán (23-220), Nam quốc (sic) dị vật chí (南 国 异 物 志)[4] của Vạn Chấn (Wan Zhen) thời Tam Quốc (220-280) và Phù Nam truyện (扶南传) của Khang Thái nước Đông Ngô (229-280). Hai trong 3 quyển sách này, chúng tôi đã có dịp bàn và cuốn còn lại cũng có điểm qua trong bài viết trước. Ở đây chúng tôi chỉ muốn lưu ý rằng cả 3 quyền sách này đều đã mất, chỉ còn biết được qua một số đoạn trích trong các sách khác, hơn nữa chúng đều là sách chuyện kể[5] không phải sách lịch sử được chính quyền viết một cách chính thống. Đặc biệt là nội dung các sách này đều nói về những thứ bên ngoài biên giới TQ như phản ánh bởi các từ trong tựa của chúng như Giao Châu[6] (tên cũ của Việt nam), Nam Châu, Phù Nam (tên cũ của Campuchia), do đó mọi ghi chép có liên quan tới đảo/bãi trong sách phải được hiểu là đảo/bãi của các nước liên quan chứ không phải của TQ. Như vậy, các cuốn sách này khó có thể là bằng chứng dù chỉ cho việc khám phá và đặt tên các đảo này trước tiên của dân TQ, và do đó càng không thể làm bằng chứng cho TQ với tư cách là một Nhà nước khám phá và đặt tên các đảo đầu tiên như đòi hỏi của luật pháp và thông lệ quốc tế. Từ đó, khó có thể hi vọng rằng các tài liệu khác mà BNGTQ chỉ nêu chung chung không xác định rõ tên lại có thể là chứng lí tốt hơn. Thảo luận trên cho thấy TQ chưa có được bằng chứng nào gọi là vững chắc cho luận điểm này.
  1. 2. Ngay sau khi khám phá, trễ nhất là vào các đời Đường và Tống “dân TQ đã khai phá quần đảo Nam Sa, và thực hiện hoạt động sản xuất và Chính phủ TQ đã thực sự thực thi thẩm quyền đối với các quần đảo này” và điều này “củng cố thêm chủ quyền của TQ đối với Nam Sa.”

Để hậu thuẫn cho điểm này, BNGTQ dẫn chứng rằng trong Quảng Châu Kí (广州记), Phi (sic) Uyên đời nhà Tần (265-420)[7] “đã viết về các ngư dân TQ đánh bắt cá và thu lượm các mẫu san hô ở Nam Hải.” Lưu ý rằng đây là một quyển sách cũng đã mất và điều mà BNGTQ nêu trên có vẻ rất khớp với một đoạn trích dẫn thường được nhiều học giả Trung quốc nêu trong cùng lập luận. Trích dẫn đó nằm trong cuốn Thái bình hoàn vũ kí (太平寰宇記) của Nhạc Sử đời Tống (976-983) nguyên văn như sau:

San Hô Châu, tại huyện nam ngũ bách lí, tích hữu nhân vu hải khẩu bộ ngư, đắc san hô (珊瑚洲县南五百里昔有人于海口捕得珊瑚).
Tạm dịch như sau:
Đảo/bãi San Hô nằm cách huyện [Đông Hoàn] 500 dặm về phía nam, xưa có người ra ngoài cửa biển đánh cá thu được [cả] san hô.

Dựa trên đoạn trích này thì Đảo San Hô chỉ cách huyện Đông Hoàn (Quảng Đông) khoảng 250 km (≈ 500 × 0.5 km), chắc chắn không nằm trong quần đảo Trường Sa, thậm chí cũng không thể nằm trong quần đảo gần hơn là Hoàng Sa vì cả hai cách Quảng Đông (chỗ Đông Hoàn) trên 1000 km hoặc trên 500 km. Như vậy, trừ khi BNGTQ có thể đưa ra một đoạn trích khác phù hợp hơn[8] “Nam Hải” mà họ nêu mơ hồ liên quan tới quyển sách của Phi Uyên như trên chắc chắn không thể là toàn bộ biển Đông có chứa Trường Sa trong đó. Đó chỉ có thể là vùng biển nhỏ cách Quảng Đông (chỗ Đông Hoàn) không quá 250 km. Vì vậy, cuốn sách hoàn toàn không có dính dáng gì tới Hoàng Sa và do vậy càng không dính dáng tới Trường Sa, chưa kể đó là không phải là sách lịch sử chính thống và còn nguyên bản, do đó khó có thể xem là một bằng chứng dù chỉ để chứng minh dân TQ với tư cách là các tư nhân đã khai phá ở Trường Sa.

Bên cạnh quyển sách trên, BNGTQ còn nêu rằng dân TQ đã thực hiện các hoạt động sản xuất ở đó, ban đầu với tư cách cá nhân về sau được có tổ chức được chính phủ chấp thuận và trợ giúp, họ đóng thuế cho Chính quyền TQ và kể cả sống dài ngày trên một vài đảo của Trường Sa. Cùng với người dân các nước khác, dân TQ, với tư cách tư nhân chắc hẵn đã từng có các hoạt động sản xuất và có thể sống tạm trên một vài đảo nào đó trong biển Đông. Tuy nhiên, dựa vào các tài liệu mà BNGTQ có nêu cụ thể trong “Bằng chứng lịch sử …”[9] của họ như quyển ghi chép hướng dẫn đi biển dân gian Canh lộ bạ (更路簿), Trung Quốc hải chỉ nam 1868 (中国海指南), Bạo phong chi đảo 1918(暴风之岛) của Okura Unosuke, Tân Nam quần đảo khải huống(新南群岛概况 [quần đảo Tân Nam là tên tiếng Nhật của Trường Sa]), người ta không thể tìm thấy chứng cứ nào cho thấy có các hoạt động trên biển của dân TQ được chính phủ TQ tổ chức. Có lẽ .chính vì thế, họ đã diễn đạt mập mờ là “có tổ chức với sự trợ giúp và được chính phủ chấp thuận.” Cũng có thể với cách diễn đạt đó, họ muốn nói đến việc ngư dân TQ trả thuế cho chính phủ đối với các hoạt động sản xuất của họ trong vùng biển từ Quảng Đông đến Trường Sa mà BNGTQ có nêu trong lập luận của mình. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa là TQ có chủ quyền trên toàn bộ vùng biển đó. Nếu được như vậy thì môt số nước khác, như Nhật chẳng hạn, sẽ  có chủ quyền trên các đại dương mà tàu săn cá voi của họ dừng lại để đánh bắt vì Chính phủ Nhật cũng thu thuế các tàu này. Hơn nữa, cũng không thấy có bằng chứng nào cho thấy rằng ngư dân các nước khác hoạt động ở đây phải chịu sự chi phối của TQ và cũng phải đóng thuế cho họ.[10] Tàu bè các nước vẫn đi lại thoải mái không bị một cản trở nào, không cần phải xin phép TQ, thậm chí còn tiến hành khảo sát các đảo nữa.[11] Điều đó cho thấy TQ chưa có chút ý định hay quan tâm nào tới chủ quyền và càng không thể có hành vi thực thi chủ quyền nào đối với Trường Sa trong giai đoạn này.[12]

Với tư cách nhà nước, TQ (đúng ra chỉ là chính quyền Lưỡng Quảng) chỉ đi tới Hoàng Sa năm 1909 thời nhà Thanh hai lần: lần một làm nhiệm vụ khảo sát và lần hai làm nghi thức “chiếm hữu”[13] rồi quay về sau vài ngày.[14] Chỉ đến tháng 3/1921 TQ (Chính phủ quân sự miền Nam, lưu ý rằng chính phủ này không được chính phủ trung ương và nhiều cường quốc phương Tây công nhận) mới quyết định sát nhập Hoàng Sa thành một đơn vị hành chánh của huyện Nhai, Hải Nam,[15] và tới tháng 11/1946 họ mới tới đóng quân ở Hoàng Sa (đảo Phú Lâm) và tháng 12/1946 ở Trường Sa (đảo Ba Bình) thời chính quyền Tưởng giới Thạch mượn danh nghĩa giải giới quân đội Nhật sau chiến tranh thế giới thứ II. Chính quyền TQ (lục địa) chỉ thật sự kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa sau khi dùng vũ lực chiếm thêm các đảo phía Tây từ VNCH vào năm 1974, còn ở Trường Sa thì TQ chỉ có mặt từ 1988 khi cưỡng chiếm một số đảo ở đó.

Như vậy, đối với luận điểm này BNGTQ chủ yếu cũng chỉ nhào nặn tài liệu/sự kiện để gây ấn tượng là nhà nước TQ có tổ chức khai phá và thực hiện thẩm quyền đối với các đảo xa xôi (đã có chủ quyền) này nhưng thực tế chỉ có các hoạt động của tư nhân TQ tự đi kiếm sống (bất hợp pháp) ở đó mà thôi.[16] Đặc biệt, điều cần có trước hết là bằng chứng việc chiếm hữu của nhà nước TQ đối với các đảo này họ không đưa ra được.

  1. 3. “Việc thực thi quyền chủ quyền của Chính phủ Trung Quốc trên quần đảo Nam Sa cũng được biểu hiện trong một loạt các hành vi tiếp tục có hiệu quả của chính phủ.”

Để chứng minh điều này, BNGTQ đưa ra nhiều luận điểm mà chúng tôi lần lượt bàn luận dưới đây.
Thứ nhất, họ lập luận rằng Trường Sa đã được đưa vào bản đồ hành chính thời vua Trinh Nguyên (785-805) nhà Đường và sau đó cũng được ghi nhận trong các văn bản/bản đồ chính thức của các triều sau đó, nhất là triều Minh và Thanh. Rất tiếc là như thông lệ, BNGTQ không trưng ra bản đồ nhà Đường này cũng như các tài liệu/bản đồ mà họ có nêu. Bản thân chúng tôi cũng chưa tìm thấy bản đồ này từ các nguồn có thể có được. Tuy nhiên, từ những bản đồ và tài liệu chính thức/không chính thức tìm được, kể cả một vài tài liệu/bản đồ mà họ đã nêu trong “Bằng chứng lịch sử…” thì các bản đồ TQ xưa có chứa các đảo này thực chất là bản đồ thế giới hay bản đồ khu vực với TQ là chủ thể, còn theo các bản đồ TQ thuần tuý thì lãnh thổ TQ có phần cực Nam chỉ tới Hải Nam (như đã có bàn trong bài viết trước). Ngay cả nếu đúng là Trường Sa có nằm trong bản đồ nhà Đường, không ai có thể chắc chắn rằng các đảo này cũng sẽ là lãnh thổ của TQ trong các triều đại sau. Lãnh thổ TQ khác nhau theo từng triều đại và càng khác với TQ bây giờ. Chẳng hạn vào thời Nguyên, TQ bao gồm cả Mông Cổ và một phần châu Âu… nhưng về sau và hiện nay thì không phải vậy. Và bằng chứng thuyết phục là nhiều bản đồ chính thức sau này như nhiều bản đồ của nhà Thanh chỉ kết thúc ở đảo Hải Nam mà thôi. Theo đó tính đúng đắn của luận điểm này rất đáng ngờ.

Thứ hai, họ nêu rằng “cho đến đầu thế kỉ này [thế kỉ 20], Chính phủ TQ đã thực thi quyền chủ quyền hòa bình trên quần đảo Nam Sa mà không có bất kì tranh chấp nào.” Tuy nhiên, cho tới nay họ chẳng đưa ra được bằng chứng nào cho thấy TQ với tư cách Nhà nước có mặt tại các đảo này dù chỉ như là cử chỉ chiếm hữu tượng trưng trước tháng 12/1946, châm chước do điều kiện khắc nghiệt của đảo.[17] Trong khi đó nhiều tài liệu chính thống của Việt Nam cho thấy rằng Đội Bắc Hải của các vua chúa nhà Nguyễn đã hoạt động ở đó và Trường Sa đã được sáp nhập vào huyện Bỉnh Sơn, phủ Quảng Nghĩa (lưu ý rằng ngư dân TQ cũng gọi khu vực Trường Sa là Bắc Hải) ít ra từ thế kỉ 17. Người Pháp cũng đã nhân danh quốc vương An Nam thực hiện thủ tục xác lập chủ quyền lại[18] vào năm 1931-32 và sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa tháng 12/1933. Như vậy, sự thật là VN chứ không phải TQ đã xác lập và thực thi chủ quyền ở đây mà không có tranh chấp nào. Như vậy khẳng định này của BNGTQ xem ra thiếu cơ sở.

Thứ ba, BNGTQ lập luận tiếp rằng “Từ đầu thế kỉ này chính phủ TQ đã một mực duy trì chủ quyền của TQ trên quần đảo Nam Sa” với bằng chứng là các hành động của chính phủ và ngư dân TQ chống lại cái mà họ gọi là sự xâm chiếm của Pháp ở Trường Sa vào những năm 1930.
Về hành động của chính phủ, đó là cái mà BNGTQ gọi là “phản ứng ngoại giao tức thì với chính phủ Pháp”. Thực ra, đó chỉ là việc yêu cầu Pháp xác minh tên và toạ độ những đảo mà Pháp chiếm giữ (công hàm ngày 4/8/1933 gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp) và họ chẳng có động thái gì thêm khi nhận được công hàm trả lời với bản đồ chi tiết.[19]Điều này hoàn toàn nhất quán với thái độ trước đó vào sau này của họ. Trước đó, để trả lời công hàm của chính quyền Pháp khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và đề nghị TQ dàn xếp vấn đề một cách hữu nghị hoặc đưa ra trọng tài, phái bộ ngoại giao của TQ tại Pháp đã gởi công hàm ngày 29/9/1932[20] từ chối. Điều cần nói là trong công hàm này họ khẳng định rằng Hoàng Sa là nơi cực Nam của TQ (tức là họ không coi Trường Sa thuộc TQ). Sau đó, khi Nhật xâm chiếm Trường Sa tháng 3/1939, chỉ có Pháp lên tiếng phản đối còn TQ vẫn tiếp tục im lặng. Những cử chỉ này cho thấy rõ ràng là TQ không quan tâm và không có ý định về chủ quyền đối với Trường Sa ít ra cho tới năm 1939.

Còn về hành động của ngư dân, đó là cái mà họ gán là “ngư dân phản kháng có tổ chức.” Việc này chỉ dựa vào lời kể của những ngư dân có liên quan còn sống tới năm 1977 nên cũng khó kiểm chứng tính chân thực và hơn nữa rõ ràng cũng không do chính phủ TQ tổ chức.[21] Do đó, nó cũng không có giá trị pháp lí để bàn thêm.

Đối với giai đoạn này, BNGTQ cũng nêu thêm rằng “từ năm 1912 đến 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) lúc đó đã tiến hành nhiều biện pháp để bảo vệ chủ quyền” và dẫn chứng bằng việc chính phủ này trang bị cờ TQ cho tàu thuyền ngư dân, tổ chức các chuyến điều tra lịch sử và địa lí  đặt tên lại các đảo ở biển Đông.

Về việc trang bị cờ, vào năm 1933 khi biết được một số ngư dân TQ đánh cá ở khu vực Trường Sa được tàu Pháp phát cờ để treo trên thuyền nhằm giúp họ tránh được sự quấy nhiễu của tàu thuyền Nhật, chính quyền huyện Quỳnh Nhai đã tiếp xúc và cấm họ treo cờ nước ngoài và hứa sẽ phát cho họ cờ TQ. Như vậy, việc phát cờ, nếu có xảy ra, cũng chẳng giúp các tàu TQ hoạt động ở Trường Sa an toàn hơn hay làm ngư dân các nước khác và Pháp rời khỏi khu vực. Do đó hành động này khó có thể xem là một hành vi Nhà nước TQ thể hiện ý chí chủ quyền hay thực thi việc bảo vệ chủ quyền.
Còn việc điều tra ở Trường Sa thì đó chỉ gồm một dự định điều tra vào năm 1933 (chắc chắn không thực hiện được vì Pháp đang có mặt tại đó), và một cuộc điều tra xảy ra vào năm 1947 khi TQ đã chiếm đảo Ba Bình. Thực ra, các cuộc điều tra nói chung là không thể hiện rõ ý định chủ quyền (ví dụ các khảo sát của người Đức đã nói trong chú thích 10) nên cũng không có ý nghĩa nhiều về mặt pháp lí.

Về việc đặt tên lại các đảo của cơ quan in ấn bản đồ và địa danh của Chính phủ THDQ, cần lưu ý rằng đến năm 1935 họ chủ yếu mới làm công việc phiên âm hoặc dịch nghĩa tên phương Tây của các đảo ra tiếng Trung, và chính vì vậy nên đến năm 1947 họ mới đổi bằng tên TQ không có dính dáng gì tới tên của phương Tây nhưng cũng chưa thật triệt để. Như vậy, việc đổi tên cho thấy rõ ràng rằng các đảo này chưa từng có tên riêng bằng tiếng Trung trước năm 1935. Nhân tiện cũng xin lưu ý thêm ở đây rằng cho tới năm 1911 bản đồ TQ chỉ tới đảo Hải nam, tới năm 1914 họ mới thêm vào Hoàng Sa và Pratas (TQ gọi là Đông Sa), đến năm 1934 mới có bản đồ vẽ ranh giới tới 9 đảo Trường Sa do Pháp chiếm giữ, và cuối cùng đến năm 1947 lần đầu tiên họ mới có bản đồ gồm đủ 4 quần đảo trong biển Đông. Lưu ý là hầu hết các bản đồ thời THDQ nói trên đều do tư nhân xuất bản, chỉ có bản đồ 1947 với đường lưỡi bò 11 đoạn (sau chỉnh thành 9 đoạn) đầy tranh cãi mới do cơ quan chính phủ TQ đưa ra. Sự thiếu nhất quán trong các bản đồ cùng với việc đặt tên/thay tên các đảo bằng tiếng Trung như vừa nêu là bằng chứng hùng hồn cho thấy Trường Sa chưa từng là lãnh thổ của TQ. Ngoài ra, giả định rằng các đảo này chưa thuộc chủ quyền của nước nào (hay terra nullius – vô chủ) thì việc đổi tên các đảo có thể đúng là một hành động thể hiện ý thức chủ quyền.[22] Tuy nhiên, hành động đó đã bị làm yếu đi hoặc triệt tiêu bởi các hành vi của họ năm 1933, 1937 đối với sự chiếm đóng của Pháp và 1939 đối với sự xâm chiếm của Nhật, chưa kể các đảo này đã thuộc chủ quyền Việt Nam trước đó.
Cũng xin nói thêm rằng, TQ lúc đó (THDQ) với tư cách là Nhà nước chỉ có mặt ở Trường Sa (đúng hơn là đảo Ba Bình) từ năm 1946 như đã nêu ở trên, và sau đó mới có mặt liên tục từ 1956. Còn về mặt hành chính đến năm tháng 3/1959 thì TQ (CHNDTH) mới đưa Trường Sa vào phòng quản lí hành chính Hoàng Sa, Trường Sa và Macclesfield của tỉnh Quảng Đông. Với thực tế như vậy, nói rằng TQ có chủ quyền và đã có thể thực thi chủ quyền liên tục và trên cả quần đảo Trường Sa từ đầu thế kỉ tới giờ là điều không chính xác. Chỉ sau khi TQ thông qua luật về EEZ năm 1988, họ mới có thể được tạm xem là thể hiện việc thực thi chủ quyền thường xuyên đối với biển Đông bắt đầu bằng việc chiếm đóng một số đảo, bãi ở Trường Sa bằng quân sự năm 1988, rồi qua [việc ra lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương hàng năm từ 1999,] lập các đội hải giám từ năm 2000, cho tàu hải quân tuần tra biển Đông thường xuyên từ 2005, và nhất là việc xua hơn 20 000 tàu cá đánh cá có hộ tống tới Trường Sa hoặc việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa mới đây… Đương nhiên, các hành động này rõ ràng là phi pháp vì vi phạm chủ quyền các nước khác nên đều bị các nước láng giềng liên quan phản đối. Như vậy, có vẻ không có hành động nào nêu trên của chính phủ TQ có thể xem như là hành động bảo vệ chủ quyền hiệu quả đối với Trường Sa.

Thứ tư, BNGTQ đã cố thuyết phục rằng “[T]rong chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản xâm lược và chiếm đóng quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trung Quốc không ngớt nỗ lực thu hồi các đảo này khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản.” Họ lập luận rằng theo Tuyên bố Cairo và Tuyên ngôn Potsdam thì Nhật phải giao trả Đài Loan cùng Bành Hồ và Mãn Châu cho TQ, mà lúc đó Nhật đặt Trường Sa (lẫn Hoàng Sa) dưới thẩm quyền quản lí của Đài Loan nên việc TQ Tưởng Giới Thạch “thu hồi” Trường Sa năm 1946 là đúng lí. Sự thật là cả hai văn bản trên không có đá động gì tới Trường Sa (lẫn Hoàng Sa), chỉ nêu rằng “tất cà các lãnh thổ Nhật lấy cắp của TQ trong chiến tranh như Mãn châu, Đài Loan và Bành Hồ phải giao trả cho TQ.”[23] Còn Trường Sa, như thảo luận trên cho thấy TQ ngay cả ý định về chủ quyền rõ ràng đối với quần đảo này họ cũng chưa có mãi tới năm 1946. Hơn nữa, đó lại là lãnh thổ mà người Pháp thay mặt chiếm giữ và hành xử chủ quyền hiệu quả từ 1930-33 nếu bỏ qua việc Việt Nam đã hành xử chủ quyền từ thế kỉ 17. Vì vậy, không thể nói đó là lãnh thổ Nhật lấy cắp từ TQ, và do đó viện dẫn hai văn bản trên để biện giải cho việc “thu hồi” Trường Sa là vô hiệu lực. Thú vị là, các Bộ Nội chính, Ngoại giao và Quốc Phòng TQ lúc đó, có lẽ thấy được tính bất hợp pháp của TQ trong việc tiếp thu Trường Sa nên trong quyết nghị liên bộ về việc này tháng 9/1946 có nêu rằng “trước mắt chưa cần nêu vấn đề chủ quyền quần đảo này ra bên ngoài.”[24]  Cũng xin nói thêm rằng, theo thoả thuận của Đồng Minh thì TQ chỉ giải giới phần lãnh thổ Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra phía bắc.[25]Vì vậy, ngay cả chỉ phái quân tới Trường Sa (ở phía Nam vĩ tuyến 16) để giải giới quân Nhật thôi chứ không phải là “thu hồi” quần đảo này thì TQ cũng đã vi phạm các điều ước quốc tế đã thoả thuận. Do đó, khó có thể xem đây là hành động thực thi chủ quyền.

Thứ năm, BNGTQ cũng dẫn chứng thêm các hành động của Chính phủ CHNDTH từ khi thành lập vào 1949 về sau như việc sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Quảng Đông năm 1959 rổi chuyển qua cho Hải Nam 1984… Đây quả đúng là những hành động thực thi chủ quyền nhưng rất tiếc là quá trễ và nhất là trên lãnh thổ mà nước khác đã và đang hành xử chủ quyền.

Tất cả các điều trên cho thấy rằng về mặt nhà nước, Trung Hoa mà cụ thể là THDQ áp đặt chủ quyền lên Trường Sa từ 1946 và chủ yếu ở đảo Ba Bình và họ cũng chỉ thực hiện chủ quyền liên tục nhưng không hợp pháp ở đảo đó từ 1956, còn CHNDTH chỉ cố biểu thị việc thực thi chủ quyền phi pháp từ 1988, và việc này đã và đang bị các nước liên quan tiếp tục phản đối và lên án.



Tóm lại, từ những tài liệu/sự kiện do BNGTQ nêu ra mà chúng tôi có thể kiểm chứng, qua phân tích trên, có thể có vài kết luận ban đầu như sau:

  • Bằng chứng cho khẳng định rằng dân TQ phát hiện và đặt tên trước tiên các đảo ở Trường Sa là hoàn toàn mù mờ, chưa thuyết phục. Do đó, khó có cơ sở để tin rằng họ có bằng chứng rõ ràng rằng TQ với tư cách nhà nước đã phát hiện quần đảo này đầu tiên như đòi hỏi của luật pháp quốc tế.
  • Không nghi ngờ rằng cùng với dân các nước khác, dân TQ với tư cách tư nhân đã có mặt ở Trường Sa nhưng TQ chưa đưa ra được bằng chứng thuyết phục về việc Nhà nước TQ thực thi chủ quyền có hiệu quả ở các đảo này, kể cả bằng chứng cho thấy họ có mặt tại đó dù chỉ là hành động chiếm hữu tượng trưng với tư cách Nhà nước trước 1946.

  • Bằng chứng về ý định chủ quyền của TQ đối với Trường Sa cho tới năm 1939 vẫn còn mù mờ. Hành động chiếm cứ tháng 12/1946 là bất hợp pháp, do đó các bằng chứng về thực thi chủ quyền từ đó về sau là không rõ ràng về mặt pháp lí.

Trên cơ sở phân tích trên, bước đầu cũng có thể nói TQ chưa có bằng chứng pháp lí thuyết phục cho chủ quyền của họ ở Trường Sa và cũng không có nhiều triển vọng là họ có thể cung cấp thêm bằng chứng gì thuyết phục hơn.
Bài viết nhận được các ý kiến đóng góp quý giá của TS Dương Danh Huy và TS Lê Vĩnh Trương

[1] Xem “Bằng chứng lịch sử" của Trung Quốc cho chủ quyền ở biển Đông: có thật hay thêu dệt?”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 6(95), 2012.
[4] Đúng ra là “Nam châu dị vật chí” (南州异物志): bản tiếng Anh họ dịch là ‘Records of Rarities in Southern Boundary’ nên có thể họ đã viết nhầm ‘châu’ (州) thành ‘quốc’ (国) trong bản tiếng Trung (!)
[5] Tính chuyện kể của các cuốn sách phản ánh khá rõ qua các từ trong tựa sách như ‘dị vật’, ‘chuyện’.
[6] Tên đầy đủ của quyển Dị vật chí là Giao Châu dị vật chí.
[7] Cả bản tiếng Trung lẫn tiếng Anh của BNGTQ đều ghi là Phi Uyên (斐渊 – Fei Yuan) nhưng theo nhiều học giả TQ và các sách tham khảo đáng tin thì tên tác giả làBùi Uyên (裴淵 – Pei Yuan).
[8]  Điều này có vẻ khó xảy ra vì cho tới nay các học giả TQ đều dùng đoạn trích này của Quảng Châu Kí cho cùng lập luận
[9] Như chú thích 2.
[10] Đáng lưu ý ở đây là ý kiến của Toà Công lí Quốc tế trong vụ Chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan (Indonesia v.Malaysia): “Cuối cùng Toà nhận thấy rằng Toà chỉ có thể xem xét những hành động nào có sự quy chiếu cụ thể tới các đảo này không để lại chút nghi ngờ nào mới hình thành nên một sự thể hiện thẩm quyền phù hợp (The Court finally observes that it can only consider those acts as constituting a relevant display of authority those acts as constituting a relevant display of authoritywhich leave no doubt as to their specific reference to the islands in dispute as such[nhấn mạnh thâm vào].”
[11] Người Đức thực hiện khảo sát khác toàn diện các đảo/bãi từ 1881-83. Một vài tác giả TQ nêu rằng chính quyền nhà Thanh có phản kháng nhưng họ không đưa ra được chứng cứ thuyết phục.
[12] Tham khảo ý kiến của Toà Công lí Quốc tế Thường trực vụ tình trạng pháp lí của đảo Đông Greenland (Denmark v. Norway): "một yêu sách chủ quyền không dựa trên một hành động cụ thể hay sở hữu nào đó chẳng hạn như  như hiệp ước chuyển nhượng mà chỉ đơn thuần trên sự thể hiện liên tục thẩm quyền thì phải gồm hai yếu tố mà mỗi yếu tố này phải được chứng tỏ là có tồn tạiý định và ý chí hành động như chủ quyền, và một thực thi hay thể hiện thực tế nào đó thẩm quyền như thế.” [nhấn mạnh thêm vào] (P.C.I.J., Series A/B, No. 53, pp.45-46)
[13] TQ chống chế rằng đó là nghi thức tái khẳng định chủ quyền nhưng không cho biết rõ đã làm nghi thức đầu ở đâu, lúc nào và bằng cách nào.
[14] Theo một vài tác giả như P.A. Lapicque chẳng hạn (A Propos des Iles Paracels, 1929. tr.8), thì chỉ khoảng 36 tiếng đồng hồ: ngày 6/5/1909, đô đốc Lí Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng, chỉ huy 3 chiến thuyền đi Hoàng Sa, tới đó ông đổ bộ lên đảo Phú Lâm hồi 6/6 sau đó đi vòng quanh vài đảo khác rồi quay trở lại Quảng Châu vào ngày 7/6. Thật ra, TQ còn muốn quay trở ngược thời gian sớm hơn vào năm 1279 lúc Quách Thủ Kính thời nhà Nguyên thực hiện đo đạt thiên văn ở biển Đông nhưng họ không có cơ sở vững vàng cho việc này và thậm chí còn tự mâu thuẫn với chính họ (năm 1980 BNGTQ cho rằng họ Quách thực hiện việc đo đạc ở Hoàng Sa, rồi năm 2012 lại nói ở Scarborough!)
[15] TQ cho rằng chính quyền miền Nam (đối lập với chính quyền ở Bắc Kinh) chỉ tái khẳng định lại sự sáp nhập của chính quyền Quảng Đông THDQ năm 1911, tuy nhiên theo lời lẽ trong thông báo năm 1921 chuyển tới chính quyền Hải Nam và huyện Nhai thì điều này có vẻ không hợp lí, nhất là năm 1911 là năm THDQ mới thành lập chưa ổn định được tình hình, ngay cả trong đất liền,  xem Monique C. Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands, (The Hague: Kluwer Law International, 2000).
[16] Tham khảo ý kiến của Toà Công Lí Quốc tế trong vụ Chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan (Indonesia v.Malaysia): “Cuối cùng toà nhận thấy rằng các hoạt động do các tư nhân như các ngư dân Indonesia, không thể xem như là effectivités(hiệu lực) nếu các hoạt động này không xảy ra trên cơ sở các quy định chính thức hay theo thẩm quyền của chính phủ. Toà kết luận rằng những hoạt động mà Indonesia dựa vào không tạo thành những hành động à titre de soverain (theo danh nghĩa chủ quyền) phản ánh ý chí và ý định hành động trong khả năng đó (The Court finally observes that activities by private persons such as Indonesian fishermen, cannot be seen aseffectivités  if they do not take place on the basis of official regulations or under governmental authority. The Court concludes that the activities relied upon by Indonesia do not constitute acts à titre de souverain reflecting the intention and will to act in that capacity.)” (ICJ Judgment of 17 December 2002).
[17] Tham khảo ý kiến của Toà Công lí Quốc tế thường trực trong vụ về Tình trạng pháp lí của Eastern Greenland (Denmark v. Norway):  “…rằng trong nhiều trường hợp toà vẫn hài lòng với rất ít trong cách thực thi thực sự quyền chủ quyền miễn là Nhà nước khác không đưa ra một yêu sách trùm lên. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp các yêu sách chủ quyền đối với các khu vực ở các vùng dân cư thưa thớt hay chưa ổn định (…that in many cases the tribunal has been satisfied with very little in the way of the actual exercise of sovereign rights, provided that the other State could not make out a superior claim. This is particularly true in the case of claims to sovereignty over areas in thinly populated or unsettled countries.)" (P.C.I.J., Series A/B, No. 53, pp. 45-46)
[18] Việc này chủ yếu do Pháp chưa nắm vững rằng Việt Nam đã có chủ quyền và thực thi chủ quyền ở đây từ thời đội Bắc Hải của triều Nguyễn từ thế kỉ 17.
[19] Xem Thân báo (申報) 19/08/1933.
[20] Xem Monique C. Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands,(The Hague: Kluwer Law International, 2000), Annexe 10, tr. 184.
[21] Theo cuốn Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên (我国南海诸岛史料汇编) Hàn Chấn Hoa chủ biên (nxb Phương Đông, Bắc Kinh, 1988, tr. 403), thì qua phỏng vấn các ngư dân còn sống (năm 1977) các hành động này gồm xé cờ của Pháp, nổ hoả pháo vào tàu Pháp. nhưng khi bị chính quyền huyện Văn Xương “truy hỏi” thì thuyền chủ Hoàng Học Hiệu phải hối lộ để các quan chức nhà nước TQ bỏ qua cho (!)
[22] Thật ra ở đây cũng còn câu hỏi liệu cơ quan in bản đồ và địa danh này có đại diện được cho nhà nước TQ hay không.
[24] Xem Hàn Chấn Hoa và các cộng sự ,Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hội biên(我国南海诸岛史料汇编), nxb Phương Đông, Bắc Kinh, 1988, tr 264-265.
[25] Lúc đó chính quyền Pháp tại bản quốc đang bận bịu ổn định đất nước sau chiến tranh, còn chính quyền tại Đông Dương thì phải lo việc giải giới quân đội Nhật trong đất liền và đối phó với các phe phái của Việt Nam đang chuẩn bị chiến tranh.

Saturday, March 23, 2013

Góp ý sửa đổi HP của Đỗ Anh Tuấn

Đây là bản góp ý rất công phu của tác giả Đỗ Anh Tuấn đăng trên trang web CÙNG VIẾT HIẾN PHÁP.
Bản thân tôi thấy có thể đồng ý cỡ 90% nội dung các góp ý của tác giả ĐAT. Còn có chỗ về mấy cái cụ thể như tên nước, cờ... hoặc đơn giản là tác giả đã bỏ hết mấy chữ 'nhân dân' nhưng quên bỏ trong cái tên "UBND" (đổi lại là UB hành chính hay gì gì đó cho tiện việc) tôi thấy cần bàn thêm nhưng không phải cái chính yếu. Còn vụ thành viên CP không thể là ĐB thì tôi thấy cũng còn lấn cấn (có lẽ vì quen với cái xứ Úc của tôi dân chủ kiểu gần như Anh thì TT và hầu hết các Bộ trưởng đều là đại biểu QH của đảng chiếm đa số), hoặc chuyện tuyên bố tình trạng chiến tranh mà phải chờ QH họp thì.. không biết có nên không.

Các bạn có thể làm phần chính rộng hơn bằng cách click vào dấu <  ở góc trái trong frame bên dưới hoặc để xem thoải mái hơn có thể click vào link sau đây:
Góp ý cho Dự thảo sửa đổi – Đỗ Anh Tuấn

Thursday, March 14, 2013

Bọn quậy phá được trả công ở TQ...

Bọn quậy phá được trả công ở TQ: Gặp gỡ Đảng 5 hào
Chính phủ Trung Quốc thuê người để bóp méo, hay làm chệch hướng các thảo luận trên web. Ngải Vị Vị thuyết phục một "dư luận viên" nói hết mọi thứ.

Newstatesman 17/10/2012

Ngải Vị Vị (Ai Weiwei) 

New Statesman

(ẢNH: Marcus Bleasdale VII)
Tháng 2 năm 2011, Ngải Vị Vị tweet rằng ông muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn với một ‘dư luận viên’ (online commentator). Các ‘dư luận viên’ được chính phủ hay Đảng Cộng sản Trung Quốc mướn để viết đăng các ý kiến thuận lợi đối với các chính sách của đảng và để định hình dư luận ở các bảng tin và các diễn đàn trên mạng. Các ‘dư luận viên’ được gọi là Đảng 5 hào (ngũ mao đảng/50-Cent Party), vì được biết họ được trả 5 hào (nửa nhân dân tệ) cho mỗi bài post cỗ vũ đường lối của Đảng Cộng sản hoặc lái cuộc thảo luận ra khỏi nội dung chống đảng.

Dưới đây là bản văn ghi lại cuộc phỏng vấn của Ngải Vị Vị với một ‘dư luận viện’. Theo yêu cầu, buổi phỏng vấn đã được trả công bằng một iPad. Để bảo vệ người được phỏng vấn, bản ghi này giấu đi.thông tin cá nhân có liên quan

Câu hỏi: Tên tuổi, chỗ ở và tên dùng trực tuyến của bạn là gì?

Trả lời: Tôi không thể công khai tên mình được. Tôi 26 tuổi. Tôi có quá nhiều tên dùng. Nếu tôi muốn sử dụng một tên nào đó, tôi chỉ cần đăng ký thôi. Tôi sẽ không nêu chúng ở đây.

Bạn gọi công việc bạn làm bây giờ là gì?

Bạn gọi nó là gì cũng chẳng sao cả: ‘dư luận viên’, hướng dẫn dư luận, hoặc thậm chí "Đảng 5 hào" mà mọi người đều có nghe nói tới.

Trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc của bạn là gì? Bạn đã bắt đầu công việc hướng dẫn dư luận thế nào?

Tôi tốt nghiệp đại học và nghiên cứu về ngành truyền thông. Tôi đã từng làm việc cho một kênh truyền hình, sau đó trong ngành truyền thông trực tuyến. Tôi luôn ở trong ngành công nghiệp truyền thông tin tức, bốn hoặc năm năm rồi. Hơn một năm trước, một người bạn hỏi tôi liệu tôi muốn làm một ‘dư luận viên’, để có thêm thu nhập không. Tôi nói tôi muốn thử một lần xem sao. Sau đó, tôi phát hiện ra công việc này rất dễ dàng.

Bạn sẽ nhận được chỉ thị cho công việc lúc nào và từ đâu?

Hầu như mỗi buổi sáng lúc 9 giờ, tôi nhận được một email từ các cấp trên của tôi – phòng tuyên truyền internet của chính quyền địa phương – bảo cho tôi biết về những tin mà chúng tôi phải bình luận trong ngày. Đôi khi nó xác định cụ thể các trang web phải vào bình luận, nhưng nói chung không giới hạn vào các trang web nhất định: bạn chỉ cần tìm tin có liên quan và bình luận về nó.

Bạn có thể mô tả chi tiết công việc của bạn?

Quá trình này có ba bước - nhận nhiệm vụ, tìm kiếm chủ đề, post ý kiến hướng dẫn dư luận. Nhận nhiệm vụ chủ yếu liên quan đến việc bạn phải mở hộp thư của bạn mỗi ngày. Thông thường sau khi có một sự kiện xảy ra, hoặc ngay cả trước khi tin đó xuất hiện, chúng tôi sẽ nhận được một email nói với chúng tôi sự kiện đó là gì, rồi những chỉ đạo lái suy nghĩ của các cư dân mạng theo chiều hướng nào, để làm mờ đi sự tập trung của họ, hoặc để cổ võ nhiệt tình của họ cho những ý tưởng nhất định. Sau khi chúng tôi tìm thấy các bài viết hoặc tin tức có liên quan trên một trang web, theo định hướng chung mà cấp trên đưa ra cho chúng tôi, chúng tôi bắt đầu viết các bài báo, post hoặc trả lời bình luận. Điều này đòi hỏi rất nhiều kĩ năng. Bạn không thể viết theo cách thật chính thức, bạn phải che giấu danh tính của bạn, viết các bài báo theo nhiều phong cách khác nhau, thậm chí đôi khi đối thoại với chính mình, tranh cãi, tranh luận. Tóm lại, bạn muốn tạo những thứ ảo để thu hút sự quan tâm và ý kiến của các cư dân mạng.

Trong một diễn đàn, có ba vai cho bạn đóng: kẻ lãnh đạo, người theo đuôi, người đứng nhìn hoặc thành viên bàng quan của công chúng. Lãnh đạo là người phát biểu tương đối có thẩm quyền, thường xuất hiện sau một tranh cãi và nói ra với bằng chứng mạnh mẽ. Công chúng thường thấy những người như vậy rất thuyết phục. Có hai nhóm người theo đuôi đối lập nhau. Vai trò của họ là tiếp tục tranh luận, cãi cọ hoặc thậm chí chửi thề trên diễn đàn. Điều này sẽ thu hút sự chú ý của những người quan sát. Cuối cuộc tranh luận, người lãnh đạo xuất hiện, sẽ đưa ra một số bằng chứng mạnh mẽ, làm cho ý kiến công chúng cùng chiều với anh ta và hoàn thành mục tiêu. Loại thứ ba là người đứng nhìn, các cư dân mạng. Họ là đúng "khách hàng" nhắm vào của chúng tôi. Chúng tôi ảnh hưởng nhóm thứ ba này chủ yếu thông qua việc đóng hai vai kia. Bạn có thể nói chúng tôi giống như giám đốc, ảnh hưởng đến khán giả thông qua kịch bản, chỉ đạo và diễn kịch. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi có một nhân cách phân liệt.

Về ba vai diễn của bạn, đó có phải là một chiến thuật phổ biến? Hoặc là có những cách khác?

Có rất nhiều cách. Điều đó ít nhiều có tính tâm lí. Cư dân mạng hiện nay chin chắn hơn so với trước đây. Chúng tôi có nhiều cách. Bạn có thể làm cho một điều xấu thậm chí có vẻ tệ hại hơn, tạo ra một kể lể phức tạp, và làm cho mọi người khi họ nhìn thấy sẽ nghĩ rằng nó là vô nghĩa. Trong thực tế, nó giống như hai cái âm làm thành một cái dương. Khi đạt đến một độ nhàm chán nhất định, họ sẽ nghĩ rằng nó có thể không đến nỗi xấu đến thế.

Nguyên tắc hướng dẫn của công việc của bạn là gì?

Nguyên tắc là hiểu tư tưởng chỉ đạo của cấp trên, chiều hướng dư luận mong muốn, sau đó bắt đầu công việc riêng của bạn.

Bạn có thể tiết lộ nội dung của một email giao "nhiệm vụ"?

Ví dụ, "Đừng lan truyền tin đồn, đừng tin vào tin đồn", hoặc "Ảnh hưởng sự hiểu biết công chúng về sự kiện X", "Cổ vũ chiều hướng dư luận đúng về XXXX", "Giải thích và làm rõ sự kiện XX, tránh các nhận xét không đúng sự thật hoặc không hợp pháp xuất hiện"," Đối với các hiệu ứng xã hội bất lợi tạo ra bởi sự kiện XX gần đây, tập trung vào việc hướng dẫn những suy nghĩ của cư dân mạng theo hướng đúng XXXX ".

Các loại thông tin mà bạn thường nhận được là gì?

Chủ yếu chúng là những sự kiện địa phương. Chúng bao gồm trên 60 đến 70% các chỉ đạo địa phương - ví dụ, những người đang nộp đơn khiếu nại, kiến nghị.

Đối với các sự kiện tầm cỡ quốc gia, chẳng hạn như Cách mạng Hoa Lài [các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ diễn ra trên khắp đất nước trong năm 2011], bạn có dính dáng tới không?

Đối với các sự kiện trực tuyến phổ biến như Cách mạng Hoa Lài, chúng tôi chưa bao giờ nhận được nhiệm vụ có liên quan. Tôi nghĩ cũng hơi lạ. Có lẽ chúng tôi chưa đủ tầm.

Bạn có thể cho chúng tôi biết nội dung những lời bình luận mà bạn thường viết?

Các cư dân mạng thường xem những ý kiến thiếu kĩ năng chỉ đơn giản nói rằng chính phủ là vĩ đại như thế này hay thế khác là một kẻ phản bội. Chỉ một cái liếc mắt họ biết đằng sau nó là gì. Nguyên tắc tôi tuân theo là: không trực tiếp khen ngợi chính phủ hay chỉ trích tin tiêu cực. Hơn nữa, giọng điệu của phát biểu, ID và lập trường của phát biểu phải trông như thể đó là một thành viên bàng quan của công chúng, chỉ như thế nó mới có thể cộng hưởng với cư dân mạng. Tóm lại, bạn hướng dẫn cư dân mạng một cách quanh co và để cho họ thay đổi chủ kiến của mình mà không nhận ra.

Bạn có thể đi ra ngoài các chủ đề không?

Tất nhiên là bạn có thể đi ra ngoài chủ đề. Khi chuyển sự chú ý của cư dân mạng và làm mờ sự tập trung công chúng, việc đi ra ngoài chủ đề rất hiệu quả. Ví dụ, trong tổng điều tra dân số, tất cả mọi người sẽ nói về tính trung thực và sự cần thiết của nó, thì tôi sẽ post những chuyện tiếu xuất hiện trong tổng điều tra. Hoặc, trong trường hợp khác, tôi sẽ công bố các quảng cáo để choán chỗ các bài tin tức chính trị.

Bạn có thể cho chúng tôi biết một quá trình cụ thể và điển hình của việc "hướng dẫn dư luận"?

Ví dụ, mỗi khi giá dầu tăng, chúng tôi sẽ nhận được một thông báo "bình ổn cảm xúc của cư dân mạng và chuyển hướng sự chú ý của công chúng". Ngày hôm sau, khi tin tức về sự tăng giá xuất hiện, cư dân mạng chắc chắn sẽ lên án nhà nước, CNPC và Sinopec. Tại thời điểm đó, tôi đăng ký một ID và viết bình luận: "Cứ tăng đi, tăng lên mức nào mà bạn muốn, tôi không quan tâm. Tốt nhất nếu tăng lên đến 50 nhân dân tệ một lít: nó phục vụ bạn ngay nếu bạn quá nghèo để lái xe. Chỉ những người có tiền mới nên được cho phép lái xe trên đường. . ".

Điều này nghe có vẻ như tôi đang mời gọi tấn công mình, nhưng mục đích là để cư dân mạng tức giận và chuyển hướng sự giận dữ và sự chú ý từ giá dầu vào tôi. Sau đó tôi sẽ thay đổi ID nhiều lần và bắt đầu lên án chính mình. Điều này sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn. Sau khi nhiều người đã nhìn thấy nó, họ bắt đầu tấn công tôi trực tiếp. Dần dần, nội dung của toàn bộ trang cũng đã thay đổi từ giá dầu tới những gì tôi nói. Điều đó rất hiệu quả.

Khu vực làm việc của bạn là gì? Các trang web bạn có ý kiến là các trang nào? Bạn nhắm tới cư dân mạng nào?

Không có giới hạn về các trang web nào tôi phải viếng. Tôi chủ yếu đối phó với các trang web địa phương, hoặc làm việc trên Tencent. Có rất nhiều ‘dư luận viên’ trên Sohu, Sina, vv… Theo như tôi biết, các trang web này dành riêng cho các phòng ban nội bộ cho ý kiến.

Bạn có thể nói ý kiến trực tuyến nào là của ‘dư luận viên’ không?

Vì tôi làm việc này nên chỉ thoáng liếc mắt là tôi có thể nói khoảng 10 đến 20% trong hàng chục ngàn ý kiến đăng trên một diễn đàn là của ‘dư luận viên’.

Bạn sẽ tranh luận trực tuyến với những người khác không? Các loại xung đột nào mà bạn gặp phải? Bạn kiểm soát và giải toả cảm xúc thế nào?

Hầu hết thời gian chúng tôi tranh luận với chính mình. Tôi thường không bao giờ tranh luận với cư dân mạng và tôi sẽ không bao giờ nói rằng tôi đã bị một cư dân mạng hoặc một sự kiện làm tức giận. Bạn có thể nói rằng thường khi tôi đang làm việc thì tôi giữ mình hợp lí.

Khi chính phủ bảo, "Đừng tin vào tin đồn, không lan truyền tin đồn," thì lại bị tác dụng ngược lại. Ví dụ, lúc vụ Sars và melamine trong sữa nổ ra, khi phải đối mặt với hai lựa chọn “đừng tin vào tin đồn "và" đừng tin vào chính phủ " thì người dân có xu hướng chọn không tin chính phủ

Tôi nghĩ rằng đất nước và chính phủ đã rơi vào một tình huống khá lúng túng. Dù việc gì xảy ra đi nữa- ví dụ, nếu một người phạm tội, hoặc có một tai nạn giao thông – hễ đó là một sự kiện xấu và được công bố trực tuyến, thì sẽ có những người lên án chính quyền. Tôi nghĩ rằng điều này rất lạ.

Điều này là không thể tránh khỏi, bởi vì chính phủ bao biện tất cả. Khi mọi vinh dự đều quy cho bạn, thì mọi sai lầm cũng sẽ quy cho bạn. Ngoài việc nhắm tới các sự kiện thì cá nhân có bị nhắm vào không? Sẽ có loại chỉ thị thế này không?

Phải có chứ. Tôi nghĩ rằng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, phải có hướng dẫn trong cả nước. Tất cả người dân ở Trung Quốc đều ghét Đức Đạt Lai Lạt Ma và phần nào cũng ghét Pháp Luân Công. Theo sự tôi biết, chính phủ đã thực sự đi quá một chút lên trên. Trước khi tôi đã tham gia vào nhóm này, tôi không biết gì cả. Vì vậy, tôi tin rằng bất cứ nơi nào dư luận được kiểm soát tương đối tốt, thì sẽ luôn luôn có ‘dư luận viên’ dính dáng tới ở đó.

Cấp trên của bạn kiểm tra và đánh giá công việc của bạn như thế nào?

Cấp trên sẽ bố trí các kiểm toán viên cần mẫn kiểm tra ngẫu nhiên theo các đường link mà chúng tôi cung cấp. Kiểm toán viên thường không đánh giá, bởi vì họ luôn luôn đưa ra các yêu cầu công việc rất rõ ràng. Chúng tôi chỉ cần làm như họ nói thì sẽ không có bất kì sai lầm nào.

Tiền công của bạn được định như thế nào?

Nó được tính toán trên cơ sở hàng tháng, tuỳ thuộc số lượng và chất lượng. Về cơ bản được tính toán ở mức 50 nhân dân tệ cho 100 ý kiến. Khi có một sự kiện bất ngờ, tiền công có thể là cao hơn. Nếu bạn cùng nhau làm việc để hướng dẫn dư luận về một chủ đề nóng và một vài chục người đang post bài, tiền công cho những ngày đó tính ra nhiều hơn. Về cơ bản, tiền công thường rất thấp. Tôi làm việc bán thời gian. Tính trung bình, tiền được trả hàng tháng khoảng 500-600 nhân dân tệ. Có những người làm việc này toàn thời gian. Có thể họ có sẽ kiếm được hàng ngàn nhân dân tệ một tháng.

Bạn có thích công việc của bạn không?

Tôi sẽ không nói tôi thích hay ghét. Đó chỉ là việc làm thêm một chút mỗi ngày. Có thêm một chút tiền tiêu vặt mỗi tháng, thế thôi.

Khó khăn lớn nhất trong công việc là gì?

Có lẽ đó là bạn phải đoán tâm lí của cư dân mạng. Bạn phải học rất nhiều về kĩ năng viết. Bạn cần phải biết cách bắt chước phong cách viết của người khác. Bạn cần phải hiểu cách giành được sự tin tưởng của công chúng và ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ.

Tại sao bạn không thể tiết lộ danh tính của bạn được? Tại sao bạn nghĩ rằng nó là nhạy cảm?

Bộ anh muốn tôi bị mất việc à? Bất cứ hình thức hoặc tên nào chúng tôi sử dụng để đăng bài trên các diễn đàn hoặc blog là hoàn toàn bí mật. Chúng tôi không thể tiết lộ danh tính của chúng tôi, và tôi nhất quyết sẽ không tiết lộ rằng tôi là một ‘dư luận viên’ chuyên nghiệp.

Nếu chúng tôi tiết lộ thì còn gì là mục đích của sự tồn tại của chúng tôi? Phô bày ra sẽ không chỉ ảnh hưởng tới tôi, nó sẽ tạo ra một hiệu ứng tiêu cực lớn hơn tới "cấp trên" của chúng tôi.

Bạn muốn nói gì khi dùng từ "cấp trên"?

Các nhà lãnh đạo cao cấp của chúng tôi - trên đó sẽ là bộ tuyên truyền.

Gia đình bạn biết ID của bạn không? Bạn bè của bạn thì sao?

Không. Tôi không tiết lộ ID với gia đình hoặc bạn bè. Nếu người ta biết rằng tôi đã làm điều này, nó có thể có ảnh hưởng xấu đến tiếng tăm của tôi.

Bạn nói: "Nếu tôi tiết lộ thông tin nội bộ, chẳng phải nói quá thì điều này có thể dẫn đến nguy hiểm sống còn." Bạn có nghĩ rằng hậu quả sẽ rất nghiêm trọng không?

Với ID của tôi, tôi đang tham gia trong ngành truyền thông và internet. Nếu tôi thực sự tiết lộ ID của tôi hoặc để lộ một cái gì đó, nó có thể có tác động khôn lường cho tôi.

Nếu bạn nói bạn muốn bỏ việc, sẽ có sự cản trở nào không? Có bất kì ràng buộc nào không?

Chẳng có gì cả. Ngành công nghiệp này rất minh bạch. Đối với tôi, nó chỉ là một công việc bán thời gian. Nó giống như bất kì công việc nào khác. Nó không phải quá đen tối như bạn nghĩ.

Bạn lên mạng bao nhiêu giờ mỗi ngày và trên các trang web nào? Bạn có nghỉ ngơi vào cuối tuần không?

Tôi lên net 6-8 giờ gần như mỗi ngày. Tôi chủ yếu hoạt động trên hệ BBS địa phương của chúng tôi và một số phương tiện truyền thông lớn internet và microblog. Tôi không làm việc cuối tuần, nhưng tôi sẽ đăng nhập vào tài khoản email của tôi để xem có chỉ thị quan trọng nào không.

Trong cuộc sống hàng ngày, bạn có vẫn suy nghĩ về công việc trực tuyến của bạn không?

Thỉnh thoảng có. Ví dụ, khi tôi nhìn thấy một mẫu tin, tôi sẽ nghĩ cấp trên sẽ yêu cầu nó được hướng dẫn theo chiều hướng nào và tôi sẽ xoay xở với nó thế nào. Đó là một chút  nguy cơ trong nghề nghiệp.

Bạn có xem Tin trên CCTV và đọc báo Nhân dân không?

Tôi thường theo dõi tất cả những tin tức, đặc biệt là tin tức địa phương. Nhưng tôi thường không xem Tin trên CCTV, bởi vì nó nói quá nhiều về sự hài hòa.

Bạn có dùng Twitter không? Bạn dõi theo ai?

Có chứ. Tôi dõi theo một vài người thú vị, kể cả Ngải Vị Vị. Nhưng tôi không nói chuyện trên Twitter, chỉ đọc và học hỏi thôi.

Bạn nghĩ rằng ngành công nghiệp này giữ vai trò lớn mức nào trong việc hướng dẫn dư luận ở Trung Quốc?

Trung thực mà nói, tôi nghĩ rằng vai trò đó là khá lớn. Đa số cư dân mạng ở Trung Quốc thực sự rất ngu ngốc. Đôi khi, nếu bạn không hướng dẫn họ, họ sẽ thực sự tin vào những tin đồn.

Bởi vì họ bắt đầu với thông tin còn hạn chế. Như vậy, với thông tin hạn chế, rất khó để họ bày tỏ quan điểm nhìn chính trị.

Tôi nghĩ rằng họ có thể rất dễ bị kích động. Tôi có thể kiểm soát họ rất dễ dàng. Tùy theo tôi muốn họ như thế nào, tôi chỉ động não một chút là đủ. Rất dễ dàng. Vì vậy, tôi nghĩ rằng hiệu quả sẽ rất đáng kể.

Bạn có nghĩ rằng chính phủ có quyền hướng dẫn dư luận không?

Cá nhân, tôi nghĩ rằng tuyệt đối là không. Nhưng ở Trung Quốc, chính phủ tuyệt nhiên phải can thiệp và hướng dẫn dư luận. Đa số cư dân mạng Trung Quốc rất dễ bị kích động, không tự mình suy nghĩ và rất dễ bị các tin tức sai lừa và xúi giục.

Bạn có tin vào những quan điểm bạn thể hiện không? Bạn có quan ngại về chính trị và tương lai không?

Tôi không buộc phải tin vào chúng. Đôi khi bạn biết rõ rằng những gì bạn nói ra là sai hoặc không đúng sự thật. Nhưng bạn vẫn phải nói ra, bởi vì đó là công ăn việc làm của bạn. Tôi không quá quan ngại về chính trị Trung Quốc. Không có gì để quan ngại về chính trị Trung Quốc.

Saturday, February 9, 2013

Vì sao bãi ngầm James thành chỗ cực Nam của TQ?

Cớ làm sao mà một hòn đảo không tồn tại lại thành chỗ cực Nam lãnh thổ Trung Quốc
Bill Hayton

Dich: Phan Văn Song
Hiệu đính: Lê Vĩnh Trương

Bill Hayton nói rằng hồ sơ cũ cho thấy rằng có thể do một lỗi dịch thuật cách đây 80 năm



thành phố Tam Sa trên chuỗi đảo đang tranh chấp Hoàng Sa (ảnh AFP)


Chỗ nào là "điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc"? Đó là một câu hỏi gây tranh cãi và câu trả lời ít gây tranh cãi nhất có thể là đảo Hải Nam. Các câu trả lời gây nhiều tranh cãi khác sẽ là quần đảo Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) hoặc quần đảo Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa). Nhưng điểm cực Nam chính thức thậm chí còn xa hơn thế, - xa về phía Nam tận tới bãi ngầm James (James Shoal), cách bờ biển đảo Borneo khoảng 100 km. Có gì đáng ngạc nhiên hơn là mảnh đất quê hương này lại thực sự không thể trông thấy được. Chẳng có gì để thấy trừ khi bạn có thiết bị lặn.

Bãi ngầm James nằm dưới mực nước biển 22 mét. Tuy nhiên, sự bất tiện này không ngăn cản các tàu của Hải quân PLA lúc này lúc khác đến thăm bãi cát ngầm này để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với nó. Nghi thức này liên quan đến kéo một mảnh đá lớn có chạm khắc lên bên sườn tàu. Bây giờ có một bộ sưu tập nhỏ các tấm bia Trung Quốc đóng vỏ sò ốc dưới đáy biển, cách Hải Nam hơn 1 000 km.

Bằng cách nào mà nhà nước Trung Quốc có thể xem thể địa lí mơ hồ này, quá xa đất nước, là điểm cực nam của mình? Tôi đã có lúc nghiên cứu câu hỏi này trong khi viết một cuốn sách về biển Đông. Câu trả lời có nhiều khả năng đúng nhất là đó có thể là kết quả của một lỗi dịch thuật.

Trong những năm 1930, Trung Quốc đã đắm chìm trong làn sóng lo lắng dân tộc chủ nghĩa. Việc Chính phủ THDQ bất lực không làm được bất cứ điều gì có ý nghĩa để ngăn chặn đất nước bị các cường quốc phương Tây và đế quốc Nhật xâu xé đã gây ra sự tức giận cả trên đường phố lẫn trong các hành lang quyền lực. Năm 1933, nước THDQ đã lập ra "Uỷ ban Thẩm tra bản đồ đất và biển" chính thức liệt kê, mô tả và vẽ bản đồ tất cả các phần của lãnh thổ của TQ. Đó là một nỗ lực để khẳng định chủ quyền đối với lãnh thổ rộng lớn của nước này.

Vấn đề chính phải mà Uỷ ban đối mặt, ít nhất là đối với biển Đông, là họ không có phương tiện để khảo sát thực sự bất kì một thể địa lí nào mà họ muốn giành chủ quyền. Thay vào đó, Uỷ ban này chỉ đơn giản là sao chép các đổ biểu hiện có của Anh và đổi tên của các đảo thành âm tiếng Hoa. Chúng tôi biết họ đã làm điều này vì bản đồ của Uỷ ban này gồm luôn cả khoảng 20 chỗ sai nằm trên bản đồ Anh – những thể địa lí mà về sau này, các khảo sát tốt hơn đã cho thấy không thực sự tồn tại.

Uỷ ban đã đặt tên tiếng Hoa một vài đảo của Trường Sa. North Danger Reef (Đá Bắc) trở thành Bắc Hiểm [Beixian:  "nguy hiểm phía bắc"), Antelope Reef (Đá Hải Sâm) đã trở thành Linh Dương (Lingyang: ). Các tên khác cũng chỉ đơn giản là phiên âm tương tự như thế, ví dụ, đảo Spratly (Trường Sa) đã trở thành Phổ Lạp Đặc Lợi (Sipulateli: 斯普拉特利)*  và James Shoal trở thành Tăng Mẫu (Zengmu: ). Và điều này có vẻ là chỗ mà những sai lầm đã len lỏi vào.

Nhưng dịch từ "shoal" (bãi ngầm) thế nào? Đây là một thuật ngữ về biển có nghĩa là một khu vực biển cạn nơi sóng nhập thành"bầy" (shoal up). Người đi biển sẽ thấy một vùng nước kì lạ đầy sóng giữa đại dương và biết khu vực đó không sâu và do đó nguy hiểm. Bãi ngầm James là một trong nhiều thể địa lí tương tự như vậy trong quần đảo Trường Sa.

Nhưng Uỷ ban dường như không hiểu thuật ngữ tiếng Anh tối nghĩa này vì họ dịch "shoal" thành “than” (tan: bãi biển hoặc bãi cát - một thể địa lí thường cao hơn mặt nước). Chưa từng đến tận nơi, Ủy ban này dường như đã cho rằng James Shoal / bãi Tăng Mẫu (Tăng Mẫu Than) là một khoảnh đất và do đó là một khoảnh đất của Trung Quốc.

Năm 1947, các nhà vẽ bản đồ của THDQ xem xét lại các câu hỏi về biên giới biển của Trung Quốc, vẽ ra cái bây giờ được biết đến là "đường chữ U". Có vẻ như họ đã nhìn vào danh sách tên tiếng Hoa, cho rằng Tăng Mẫu Than nằm trên mặt nước và đã gộp nó vào trong đường chữ U này. Thế là một hòn đảo không tồn tại đã trở thành lãnh thổ cực nam của đất nước TQ.

Tuy nhiên, có một quá trình song song vào cùng thời gian đó, chính phủ THDQ đã đặt tên mới cho nhiều thể địa lí biển. Chẳng hạn, đảo Trường Sa đã trở thành Nam Uy (Nanwei: 南威 uy nghi phía Nam), và James Shoal được thay đổi từ một bãi cát (than) thành một rạn san hô (ám sa = ansha bãi cát ngầm – ám: ngầm). Có lẽ, tới lúc đó, các cơ quan có thẩm quyền đã nhận ra cái sai của họ. Tuy nhiên, vị thế cực nam chính thức của Tăng Mẫu Ám Sa vẫn giữ nguyên.

Đến nay, lỗi dịch thuật này đã biến thành một thực tế, đưa khu vực này vào tiến trình tranh chấp 80 năm sau.

Điều này không chỉ là chuyện vặt của lịch sử; bãi ngầm James là một phép thử cho việc liệu Bắc Kinh thực sự toàn tâm toàn ý theo các quy định của luật pháp quốc tế ở biển Đông hay không. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), không một nước nào có thể đòi chủ quyền đối với một thể địa lí ngầm, trừ khi nó nằm trong phạm vi 12 hải lý cách đất liền. Bãi ngầm James cách lãnh thổ không có tranh chấp của TQ hơn 1.000 km.

Tháng trước, chính phủ Philippines loan báo sẽ tìm kiếm một phán quyết của tòa án quốc tế về việc liệu các đòi hỏi chủ quyền biển của TQ có tương thích với công ước của Liên Hiệp Quốc hay không. Bãi ngầm James sẽ là một ví dụ rõ mồn một về một đòi hỏi không tương thích. Có lẽ đây là một thời điểm tốt để Bắc Kinh xét lại xem làm thế nào họ có thể đòi hỏi chủ quyền mảnh đá ngầm mờ mịt này ngay từ bước đầu


Bill Hayton đang viết một cuốn sách về Biển Đông sẽ xuất bản vào cuối năm nay

_____________________________
* Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành âm L (ví dụ: Roma --> Luó Mă [La Mã], Rousseau--> Lú Suō [Lư Thoa]... mới thấy Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi - 斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly, hoặc Pai-la-su [phách lạp tô - 柏拉] là Pa-ra-cel... Qua đó cũng thấy khi chuyển thêm qua âm Hán Việt thì thường là 'trớt quớt', cách biệt quá xa so với âm gốc như mấy ví dụ vừa nêu. :-)








Friday, February 8, 2013

Mừng tết Quý Tị 2013

Chúc mọi người một năm Quý Tị dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc.



Monday, January 28, 2013

VNDCCH hay CHDCVN?


VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ hay CỘNG HOÀ DÂN CHỦ VIỆT NAM?


Trong bản dự thảo Hiếp pháp 2013 do một nhóm các trí thức biên soạn có đề xuất tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà(VNDCCH). Tôi thống nhất với ý kiến đóng góp trên một số diễn đàn là vì lí do đoàn kết, hoà giải hoà hợp toàn dân có lẽ không nên sử dụng thứ gì đã trở thành biểu tượng riêng của một bên. Riêngvới  cái tên nước VNDCCH, có lẽ còn một lí do nữa về mặt ngôn ngữ mà như nhiều người đã chỉ ra là không đúng với trật tự từ trong tiếng Việt. Hiến pháp là một bản văn vô cùng hệ trọng nên cần đảm bảo tính đúng đắn cả về nội dung lẫn hình thức. Trên tinh thần đó, trong bài này tôi cố gắng phân tích làm sáng tỏ có đúng là tên ‘nước VNDCCH’ là có vấn đề về ngôn ngữ hay không.

1. Có lẽ ai cũng có thế thấy tiếng Việt nói chung thành phần chính đi trước thành phần phụ. Trong giai đoạn trước đây nền giáo dục nước ta mới vừa chuyển từ chữ Hán sang chữ ‘quốc ngữ’ và việc sử dụng chữ ‘quốc ngữ’ thật sự chỉ trở nên phổ biến từ năm 1945 trở đi. Trong giai đoạn phôi thai ấy việc ‘bê nguyên xi’ cách diễn đạt kiểu Hán (phụ trước chính sau) vào tiếng Việt là điều dễ hiểu. Hơn nữa, lúc đó hầu như chưa có c ông trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt nào. Chỉ cần lướt qua cái tựa ngược của một trong những quyển ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên là ‘Việt Nam Văn Phạm’ (đáng lẽ là Văn phạm Việt Nam, xuất bản năm 1941 và đến năm 1980 còn tái bản) và cách ghi chức danh ngược của một trong những tác giả của nó là ‘Văn phạm học giáo sư, Sư phạm cao đẳng học đường cựu học sinh’ (đáng lẽ là giáo sư ngữ pháp, cựu học sinh trường cao đẳng Sư phạm [Pháp]) Phạm Duy Khiêm, cũng đủ thấy rằng cái mà chúng ta gọi là ‘Việt Nam Văn phạm’ trước đây chỉ là một sự sao chép ngữ pháp tiếng Tây/Tàu chứ không thật sự là ngữ pháp tiếng Việt (ngay cả cái tên sách mà cũng bị sai ngữ pháp VN!). Dù vậy, cùng với sự phát triển trong việc nghiên cứu tiếng Việt và trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, việc vay mượn ngày càng có ý thức hơn nên tình trạng nói ngược, viết ngược đã giảm dần. Cứ đọc các sách báo cũ thời Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, tới thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, tới thời Tự Lực Văn Đoàn (lẽ ra phải Văn Đoàn Tự Lực), rồi thời trước 1975 ở cả 2 miền và sau 1975 đến nay ta sẽ thấy có sự phát triển rõ rệt. Chúng ta dần dần vay mượn chữ Hán có ý thức hơn: chỉ mượn từ không mượn cấu trúc trừ khi cấu trúc có tác dụng làm gọn gàng cách diễn đạt, ngay cả khi mượn từ cũng có ý thức đảo lại theo thứ tự của tiếng Việt, trừ những trường hợp gây nhầm lẫn, ví dụ ‘ý dân’ thay vì ‘dân ý’, ‘kinh thánh’thay vì ‘thánh kinh’, ‘phương Tây’ thay vì ‘Tây phương’, ‘ông lão’ thay vì ‘lão ông’….  Trong tên gọi cũng có sự phát triển như thế, lúc đầu là Gia Định báo, Nam Kì nhựt trình, Đại Nam đăng cổ tùng báo, Hà thành ngọ báo, Hà Nội báo, Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Tự lực văn đoàn,…. Việt Nam quốc Dân đảng, Đông Dương Cộng sản đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh hội…, về sau thành Tiểu thuyết thứ Bảy, tạp chí Bách Khoa, báo Thần Chung, báo Nhân dân… Đảng Lao động VN, Đảng Dân chủ VN,... Trong bối cảnh đó. có vẻ tên nước VNDCCH cũng đã theo trật tự ngược của chữ Hán và sau này chuyển thành trật tự xuôi trong CHXHCNVN[i].

2.Tuy nhiên, để thuyết phục hơn ta hãy xét thêm trường hợp một đối tượng có có nhiều thuộc tính (hay một danh từ có nhiều định ngữ) thì trật tự từ sẽ ra sao. Theo quan sát cá nhân, trong tiếng Việt nếu một đối tượng có nhiều thuộc tính thì trật tự diễn đạt thường là đi từ thuộc tính tổng quát dần tới thuộc tính cụ thể. Ví dụ tiệm cơm Việt Sài Gòn, tiệm cơm Thái Krung Thep. Trong ví dụ này ta đi từ tiệm (cửa hàng) nói chung tới tiệm bán món cụ thể hơn là cơm, rồi xác định cụ thể hơn là tiệm bán cơm Việt/Thái,nhưng vẫn là một tiệm bán cơm Việt/Thái chung chung nào đóchính cái tên riêng cuối cùng Sài Gòn/Krung Thep xác định cụ thể tiệm cơm ta muốn nóiThực tế ngôn ngữ có những trường hợp một đối tượng có nhiều thuộc tính nhưng không phải có tầng bậc đơn giản như trong ví dụ vừa nêu mà có thể chỉ cùng một tầng hay pha trộn. Trong trường hợp các thuộc tính chỉ cùng một tầng bậc thì tuỳ theo sự quan tâm của chúng ta mà có thể đặt thuộc tính liên quan đứng trước. Ví dụ trong tên gọi trường trung học kĩ thuật dân lập Cát Tiên, ta có 3 thuộc tính trung học, kĩ thuật và dân lập cùng trực tiếp định tính cho trường nhưng theo 3 tiêu chí khác nhau (bậc học/loại hình/nguồn kinh phí), nếu ta quan tâm hơn về nguồn kinh phí chẳng hạn thì ta có thể đổi lại là trường dân lập [trung học kĩ thuật] Cát Tiên... Tuy nhiên, khi ra văn bản chính thức quy định đặt tên các trong trường hợp như thế này thì nên nhất hoán. Trước đây Bộ Giáo dục không chú ý điều này (hoặc có thể do có 2 Bộ lo việc học) nên xảy ra trường hợp trường Phổ thông trung học X nhưng lại là trường trung học kĩ thuật Y … rất trái khoái.

Bây giờ trở lại với vấn đề của chúng ta về tên nước. Với nước, ta có nhiều loại nước (nước Cộng hoà, Vương quốc… ), rồi loại nước có thể có tính chất cụ thể (dân chủ/liên bang/nhân dân…)[ii] và sau cùng thuộc tính cụ thể tức là tên riêng của nước. Như vậy, viết nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, như phân tích bên trêncó vẻ là cách viết phù hợp với trật tự trong tiếng Việt nhất mà cũng phù hợp với cách viết của các ngôn ngữ khác (đối với tiếng có trật tự tự đảo ngược thì theo các thuộc tính sẽ đi theo thứ tự ngược lại - từ cụ thể dần tới tổng quát). Đây cũng là cách mà ta vẫn quen dùng để gọi các nước khác như Cộng hoà Pháp, Cộng hoà LB Đức, CH NDTH, CHDCND Lào, Vương quốc Anh, Vương quốc Hồi giáo Brunei….

3. Ngoài ra, theo cách hiểu thông thường thì Việt Nam, Pháp, Đức… là tên nước, còn những từ đi kèm theo như’ Cộng Hoà, Dân Chủ, Nhân Dân, Liên bang… ‘ nói lên thể chế, tính chất… của nước chứ không phải của tên nước. Chính vì vậy mà cả chính ta lẫn người nước ngoài đều dịch ‘nước VNDCCH’ thành ‘Democratic Republic of Vietnam’ (tiếng Anh – republic trong tiếng Anh là “nước [theo chế độ] cộng hoà”), 越南民主共和国 (tiếng Trung: ‘Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà quốc’ chứ không phải ‘Cộng Hoà Dân Chủ Việt Nam quốc’)… Một trường hợp hoàn toàn tương tư là Đông Đức trước đây có tên là ‘nước Cộng hoà Dân chủ Đức’(Democratic Republic of Germany). Nếu cho rằng ‘VNDCCH’ là đúng thì ta phải nói ‘nước Đức Dân chủ Cộng hoà’, hoặc tương tự ‘nước Lào Nhân dân Dân chủ Cộng hoà’ hay ‘nước miền Nam Việt nam Cộng hoà’… !

Như phân tích trên, cách gọi nước VNDCCH khá rõ là cách gọi sai lầm của quá khứ. Đó là cái sai phổ biến của thời chuyển từ nền Nho học sang quốc ngữ mà chúng ta phải chấp nhận không thể chỉnh sửa vì cái sai đó đã thuộc về lịch sử. Hiện nay việc sửa đổi hiến pháp/dự thảo hiếp pháp mới đã tạo cho ta cơ hội để làm lại từ đầu, có lẽ ta nên tận dụng cơ hội này để chỉnh lại/đặt mới tên nước (cũng như những điều khác) cho đúng, không để sai sót xảy ra thêm một lần nữa.



[i] Trong tên gọi này từ XHCN là một [ngữ] tính từ mà nhiều người vẫn còn dùng lẫn lộn với [ngữ] danh từ CNXH, theo suy đoán có cách thành lập mô phỏng từ cách thành lập tính từ “thuần Việt” kiểu ‘cao cổ’ (trong huơu cao cổ), ‘to gan’(trong cô bé này to gan thật), ‘rộng họng” (trong chú trai này rông họng quá)…
[ii] Các tính chất này có vẻ cùng tầng bậc.